KỆ NGÔN III
HẠNH PHÚC VII
Bāhusacca: Nghe nhiều, hiểu rộng
(Đa văn, uyên bác)
Có hai loại nghe nhiều, hiểu rộng.
- Nghe nhiều, hiểu rộng của người tại gia, tức là kiến
thức thu lượm được giữa thế gian, của người đời.
- Nghe nhiều, hiểu rộng của người xuất gia tức là kiến
thức tích lũy được khi nghe đạo, học pháp.
Người đời vì phải sanh sống, cần phải nghe và học nhiều
để tìm việc làm nuôi mình và gia đình.
Người tại gia cư sĩ là người còn lăn lộn trong đời, nên
ai ai cũng mong cầu an vui hạnh phúc, bằng cách tạo lập
tài sản và ngăn đón những điều khổ não hay là tai nạn;
vì vậy người ta cần phải biết nhiều hiểu rộng, phải có
kiến thức thích nghi với hoàn cảnh xã hội. Kiến thức là
nấc thang giúp người ta leo lên khỏi bậc đói nghèo, tiến
tới chỗ ấm no; kiến thức còn là chìa khóa để mở cửa kho
bảo vật có tánh cách vật chất như danh lợi, tước quyền
và bảo vật có tách cách tinh thần như an vui và hạnh
phúc.
Sanh ra ai cũng như ai, đều là dốt nát từ buổi ban sơ,
nhờ học với trường và học trong đời mà người ta mới có
kiến thức. Ai bền tâm học hỏi thì kiến thức được nhiều,
nghĩa là cái tâm tạo nên kiến thức, nó cũng tạo nên trí
tuệ. Người nào biết dùng trí tuệ mở rộng cái tâm để thâu
thập kiến thức, thì kiến thức được chánh đại.
Trong pháp hạnh phúc thứ VII này, đức Phật dạy ta
phải nghe nhiều hiểu rộng để làm lợi ích cho mình.
Trong tạng kinh có nhiều đoạn đức Phật dạy chúng sanh
phải nghe nhiều hiểu rộng để làm lợi ích cho mình.
Trong bộ Dīghanikāya, có một bài kinh đức Thế Tôn
có dạy rằng: Cha mẹ có 5 phận sự với con, mà một phận sự
là cha mẹ phải lo cho con ăn học cho thành tài.
Cũng trong kinh ấy, ngài còn dạy: Bực thầy đối với trò
cũng có 5 phận sự, mà một phận sự là thầy phải dạy học
trò cho châu đáo.
Trong kinh Anguttaranikāya, đức Phật có dạy 6
điều
[1]
nên tôn kính, mà điều thứ 4 là tôn kính điều học
(Sikkhagāravatā).
Cũng trong kinh ấy, ngài lại dạy về thất bửu
[2]của
nhà Phật mà vật báu thứ 5 là Bāhusacca, nghĩa là
nghe nhiều hiểu rộng.
Trong kinh Anguttaranikāya, chỗ dạy 10 pháp tạo
thành chỗ nương nhờ
[3],
nương tựa (Nāthakaraṇadhamma) thì pháp thứ 2 là
Bāhusacca - tức là phải đa văn, nghe nhiều, hiểu
rộng.
Bao quát hơn, đức Phật dạy tín đồ về tam học là giới,
định và tuệ, để nghe nhiều học rộng cho chơn chánh để
hiểu rõ chân lý của ngài mà hành theo, hầu thoát khỏi
trầm luân.
Người
ta có thể hỏi: Chúng ta nên học những gì?
Trong đời này có nhiều môn để chúng ta học, Phật dạy
người nên chọn một nghề nào mà mình thích và có khả năng
học được. Nghề nào cũng chẳng hèn, miễn là nghề ấy là
nghề vô tội, hay nói theo bát chánh đạo, là phải chánh
mạng.
Tóm lại: Người tại gia cư sĩ học gì cũng được, miễn là
chánh nghiệp và chánh mạng. Còn
bậc xuất gia thì phải học ba điều sau đây để làm kiến
thức căn bản:
- Pariyattisuta:
Nghe nhiều hiểu rộng có từ Tam tạng.
- Paṭipattisuta:
Nghe nhiều học rộng về pháp hành và hành theo chánh đạo
để đạt Niết-bàn.
- Paṭivedhasuta:
Nghe nhiều học rộng về pháp thành, là hiểu rõ pháp giải
thoát và hành cho đến nơi giải thoát
[4].
Bậc gọi là nghe nhiều hiểu rộng phải có đủ 5 điều kiện
[5]
là:
1/- Bāhusuta:
Được nghe nhiều.
2/- Dhatā:
Thuộc rõ ý nghĩa của các pháp
[6].
3/- Vacasā paricitā:
[7]
Thuộc làu và có thể giảng giải và ví dụ cho người nghe
hiểu rõ rệt những pháp mà mình giảng.
4/- Manasānupekkhitā:
[8]
Hằng suy nghĩ nghiên cứu các pháp, nghĩa là hằng theo
pháp mà mình đã học hiểu rồi, và nhận thấy lợi ích của
sự học nhiều hiểu rộng.
5/- Diṭṭhiyā supaṭividdhā:
[9]
Hiểu thấu bằng trí tuệ, nghĩa là dùng minh sát tuệ quan
sát cho thấy rõ ngũ uẩn và đắc được đạo quả Niết-bàn.
+ Những người Phật tử nghe nhiều hiểu rộng có được nhiều
sự hạnh phúc là:
1. Hiểu rõ ý nghĩa của Tam tạng.
2. Được phước cao quý.
3. Hiểu thông pháp học và pháp hành.
4. Đối đáp rất giỏi khi bị cật vấn.
5. Nói năng hoạt bát.
6. Hộ trì pháp.
7. Không dễ duôi.
8. Được hưởng hương vị của pháp.
9. Sẽ được hưởng an lạc trong cõi
người, trời hay Niết-bàn ngày vị lai.
10. Diệt từ từ được tam độc.
11. Được lợi lộc, danh dự, quyền chức, ngợi khen và hạnh
phúc.
12. Dứt hết nhân quả và không còn luân hồi nữa.
Chính đức Phật (còn Bồ Tát) đã dùng trí tuệ
[10]
để hiểu biết và cứu độ chúng sanh, chẳng hạn như sự tích
sau đây:
“- Thời quá khứ, đức Bồ Tát sanh vào dòng bà-la-môn và
giữ chức quân sư của vua xứ Bārāṇasī, tên là Senāka, nổi
danh là bậc trí thức nghe nhiều hiểu rộng. Ngài thường
đăng đàn thuyết pháp ngày mùng 8, rằm, 23 và 30; thường
dạy người bỏ dữ về lành, thực hành theo thiện pháp, như
thọ ngũ giới hay bát quan trai. Đây là sự thực hành trí
tuệ ba-la-mật của ngài.
Lúc ấy, có một thầy bà-la-môn ăn xin chuyên nghiệp, ông
ta dành dụm được một trăm đồng tiền vàng rồi đem gởi cho
một người bạn thân.
Ví túng quẫn, người bạn của của ông ta đã xài hết số
tiền ấy nên phải đem con gái gả cho thầy bà-la-môn ăn
xin ấy để trừ khoản nợ.
Khi được vợ trẻ đẹp, thầy bà-la-môn không còn biết trời
đất là gì nữa, chỉ có bà vợ thôi. Vợ ông sai ông đi ăn
xin một nơi xa để có nhiều tiền cho cô tiêu dùng. Nhân
dịp ông chồng già đi vắng, cô lại tư tình với một thầy
bà-la-môn trẻ tuổi. Thầy bà-la-môn già đi xin xứ xa lâu
ngày, để dành được một số vốn lớn là 700 đồng tiền vàng,
lật đật trở về thăm vợ. Khi về gần
tới nhà, thầy đến ngồi dưới cội cây to có bộng, mở bị ra
lấy cơm ăn rồi xuống mé sông uống nước. Lúc ấy có một
con rắn độc chui vào bị của ông. Khi
uống xong, lên cột bị lại rồi mang lên vai ra đi, ông
không hề biết rằng có một con rắn độc đã nằm trong bị.
Vị thọ thần ở trên cây ấy thấy vậy thương hại ông nên
nói rằng: “Thầy bà- la-môn ơi! Nếu thầy chưa về tới nhà
đêm nay, thì thầy sẽ chết dọc đường, bằng về tới nhà thì
vợ thầy chết”. Thầy bà-la-môn lấy làm kinh sợ vì thầy
không muốn chết, mà cũng không muốn cho vợ mình chết,
ông khóc lóc không dám về nhà mà đi vào thành. Ngày ấy,
nhằm ngày giới, đức Bồ Tát Senāka có thuyết pháp tại tư
dinh của ngài nên người trong thành đem hương hoa đến
dâng cúng và để nghe pháp. Thầy bà-la-môn ăn xin biết
tin ấy, nên ông liền theo đoàn người đi nghe thuyết
pháp, và nghĩ rằng: “Biết đâu, nhờ nghe pháp mà lòng ta
được yên tĩnh trở lại!”. Khi đến nơi, thầy bà-la-môn với
dáng bộ thiểu não, nước mắt còn dàn dụa. Thấy vậy, đức
Bồ Tát mới hỏi và biết tự sự nguồn cơn. Do trí suy luận
sắc bén, ngài hỏi: “Thế khi thầy ăn cơm xong, thầy có bỏ
đi đâu không?”. Lão đáp: “Dạ, có đi, có xuống mé sông
uống nước!”. Bồ Tát nhíu mày rồi hỏi tiếp: “Vậy khi đi,
cái bị kia có cột lại không?”. Lão thưa: “Dạ không!”
Vậy là chỉ vài câu vấn đáp, đức Bồ Tát đã biết ngay
rằng, trong khi xuống mé sông uống nước, bị không cột
nên đã có một con rắn độc bò vô trong bị của thầy. Vị
thọ thần chứng kiến điều ấy nên thương hại mách bảo cho.
Chuyện đương nhiên sẽ xẩy ra nằm trong hai trường hợp
sau: Nếu thầy mở bị ra ăn cơm chiều thì rắn ấy sẽ cắn
thầy, thầy sẽ chết; bằng về nhà, bà vợ tham lam sẽ tự
tay mở bị ra rồi bà sẽ bị rắn độc cắn chết.
Thấy rõ điều này, Bồ Tát mỉm cười, trấn an thầy
bà-la-môn: “Ta sẽ cứu ông thoát chết mà bà vợ trẻ của
ông cũng không chết, được chưa nào!” Mọi người vui cười,
đổ xô quây quần lại, tò mò xem chuyện lạ! Sau đó, Bồ Tát
cho mời một thầy rắn đến rồi bảo thầy bà-la-môn nới lỏng
sợi dây cột bị ra! Lát sau, một con rắn độc chui ra khỏi
khoảng hở, bò ra ngoài, thầy rắn bèn thò tay bắt rồi bỏ
vào đãy của ông ta một cách dễ dàng.
Những người có mặt nơi ấy đều hoan hô trí tuệ và
công đức của Bồ Tát.
Chuyện chưa thôi. Bồ Tát ngắm nhìn lão bà-la-môn, thấy
phong trần, già nua nhưng toát ra cái vẻ thật thà, chất
phác, hiền lành nên khởi tâm bi mẫn, muốn giúp ông ta
cho đến nơi đến chốn. Nghĩ vậy, ngài mới cho thầy ấy
thêm ba trăm đồng nữa hiệp với bảy trăm của thầy xin
được cho đủ ngàn; và dạy thầy bà-la môn ấy rằng: “Ngươi
đem của này về chôn giấu một nơi nào xong rồi hãy vào
nhà; cứ làm như lời ta dặn - thì sẽ phát sanh chuyện
lạ!”
Thầy bà-la-môn bái tạ đức Bồ Tát rồi đem giấu tiền vào
một chỗ kín rồi mới vô nhà. Vợ ông
lo nước cho ông tắm rửa rồi hỏi ông đi xin được bao
nhiêu tiền bạc. Ông nói thật số tiền đã xin được là một
ngàn đồng vàng và cho biết số tiền hiện giấu ở chỗ nọ.
Vợ ông liền cho nhơn tình biết chỗ
giấu tiền. Người nhơn tình đến nơi ăn cắp số tiền giấu
đó. Sáng hôm sau, thầy bà-la-môn đến nơi mình chôn tiền
để lấy về, mới thấy số tiền đã mất;
ông khóc lóc và đến nhà đức Bồ Tát thuật lại tự sự.
Đức Bồ Tát dường như biết rõ chuyện ấy sẽ xẩy ra nên lấy
tiền khác cho thầy và dạy rằng: “Đừng lo! Nếu nghe lời
ta thì tiền ấy không mất đâu! Thầy hãy lấy số tiền này
về làm lễ cúng dường 7 ngày cho các thầy bà-la-môn để
hồi hướng phước báu cho cha mẹ thầy. Nhưng nên nhớ, phần
thầy phải mời 7 vị bà-la-môn và phần vợ thầy cũng phải
mời đủ 7 vị. Rồi mỗi ngày, mỗi bên phải bớt đi một người
cho đến ngày thứ bảy, sẽ chỉ còn hai người, bên thầy một
và bên vợ thầy một, lúc ấy sẽ báo cho ta biết!”
Thầy vâng lời làm theo, đến ngày thứ bảy, bên thầy còn
lại một bà-la-môn già còn bên vợ thầy còn một thầy
bà-la-môn trẻ tuổi. Thầy liền đến báo cho đức Bồ Tát
biết, ngài bèn ra lệnh bắt thầy bà-la-môn trẻ tuổi ấy
đến để thẩm vấn trong phòng riêng.
Ngài hỏi:“Tại sao ngươi trộm tiền của thầy bà-la-môn già
nua tội nghiệp nầy?”
Ông ta bèn chối: “Thưa ngài đại trí thức! Tôi nào có ăn
cắp gì của lão đâu”.
Đức Bồ Tát nghiêm mặt nói: “Đừng chối quanh! Những việc
làm ám muội của ngươi, ta biết rõ từng chi tiết một.
Khôn hồn hãy khai đi! Nếu không, ta sẽ tuyên bố cả bàng
dân thiên hạ cả cái tội tư tình lén lút, xấu xa của
ngươi nữa!”. Vì kinh sợ, nên thầy bà-la-môn trẻ tuổi ấy
bèn cung khai hết mọi việc.
Người bà-la-môn già lấy lại được tiền; và từ đấy cô vợ
trẻ cũng không dám ngoại tình nữa”.
Sau khi thuyết tích nầy xong, đức Thế Tôn mới dạy rằng:
“Nầy các thầy tỳ-khưu! Trong khi Như Lai sanh làm vị
đại trí thức Senāka ấy, Như Lai trông thấy rõ nguyên
nhân của chuyện ấy bằng trí tuệ thế gian - là một loại
trí tuệ giả đoán, phân tích, suy luận - nên đã giải khổ
cho thầy bà-la-môn ấy và còn cho rất nhiều người khác
nữa!”
Người đã biết rộng hiểu nhiều còn cần phải có thêm trí
tuệ thì kiến thức mới có lợi lạc. Mà muốn có trí tuệ,
thì phải hành theo pháp Phật và trước hết phải biết
những nguyên nhân nào làm cho trí tuệ được phát sanh và
tiến triển.
+ Có 4 nguyên nhân phát sanh trí
tuệ
[11]:
1. Sappurisasaṃseva:
Thân thiện với các bậc trí thức.
2. Sadhammassavana:
Nghe pháp (lời dạy bảo) của bậc trí thức như là:
a.
Saddha:
Có đức tin, tin nhân quả.
b. Sīla:
Trì giới
(Ngũ giới, bát quan trai hay cụ túc giới).
c. Hiri:
Có sự hổ thẹn tội lỗi.
d. Ottappa:
Có sự ghê sợ tội lỗi.
đ. Bāhusacca:
Đa văn
e. Cāga:
Bố thí
(Dứt bỏ)
g. Paññā:
Có trí tuệ.
3. Yonisomanasikāra:
Khi được nghe pháp của các bậc trí thức xong phải nghiệm
xét cho chu đáo rồi hãy hành theo.
4. Dhammānudhammapatipatti:
Hành đúng theo những pháp của các bậc trí thức đã dạy
cho cao thượng.
HẠNH PHÚC VIII
Sippa: Có nghề
[12]
(Nghề nghiệp giỏi - tiểu công nghệ)
Đức Thế Tôn dạy rằng nghề nghiệp đem hạnh phúc đến cho
ta.
Vậy
ta cần hiểu biết:
- Nghề nghiệp là gì?
- Nghề nghiệp đem điều hạnh phúc gì lại cho ta?
- Làm sao ta có nghề?
Chú giải có dạy: Sippaṃ nāma anagariyava (?) sena
duvidhaṃ hatthakusalaṃ:
- Nghề nghiệp là sự việc làm bằng tay chân hoặc trí óc
và có hai nghề:
1. Nghề của người tại gia.
2. Nghề của hạng xuất gia
Pháp hạnh phúc thứ VII dạy ta cần biết rộng hiểu
nhiều, nghĩa là dạy ta thâu thập cho nhiều kiến thức về
giáo lý, về lý thuyết. Còn pháp hạnh phúc thứ VIII
nầy thì dạy ta thực hành, đem kiến thức ấy mà áp dụng
cho lợi lạc vì nghề nghiệp nào cũng cần có kiến thức làm
căn bản. Vậy nghề nghiệp là kiến thức đem ra thực hành.
Người không có kiến thức thì khó làm được nghề nghiệp
tốt.
Người có nghề nghiệp giỏi đi tới nơi nào cũng được an
vui, không thiếu thốn, đúng như câu cách ngôn: “Nhứt
nghệ tinh, nhứt thân vinh". Trong đời có nhiều nghề
khác nhau, nghề mà người Phật tử còn tại gia cần phải
lựa là nghề nào vô tội, gọi là chánh nghiệp
[13].
Đức Thế Tôn có dạy con người khi còn trẻ nên học một
nghề gì cho giỏi thì nghề ấy sẽ đưa sự an vui đến cho,
như nghề anh chuyên môn búng sạn sau đây.
“- Khi xưa tại kinh đô Ba-la-nại (Bārāṇasī) có một người
què nhưng có tài búng sạn rất giỏi. Những kẻ trong thành
thường đẩy xe cho anh ra ngoài cửa thành, để anh dưới
cội cây to, đem sạn đến và biểu anh dùng sạn búng lá cây
thành hình thú nầy thú nọ kia coi chơi rồi cho anh tiền.
Ngày nọ nhà vua ngự chơi vườn thượng uyển, đi ngang qua
chỗ ấy, những đứa trẻ kinh sợ bỏ chạy, chỉ còn mình anh
què ở lại. Nhà vua trông thấy bừa
bãi dưới đất những lá cây lủng lổ chổ có những hình thú
rất ngộ, mới phán hỏi quan cận thần. Vị ấy tâu tự sự.
Nhà vua mới bảo anh què đến và
hỏi: “Nầy cậu kia! trẫm có một vị quân sư có tật ham
nói, khi trẫm muốn nói điều chi thì quân sư cướp lời
hết, trẫm không nói gì được. Ngươi có phương kế chi làm
ông ấy không nói gì nữa được chăng?
Anh què đáp: “Tâu Hoàng thượng! Nếu có vài cân phẩn dê
thì hạ thần có phương thế làm được”.
Nhà vua bèn đem anh què về, để anh ngồi sau một tấm màn
có khoét lỗ và để gần bên anh một cân phẩn dê khô. Đoạn
ngài hội trào thần lại để bàn việc quốc gia.
Vị quân sư quen tật cướp lời nói của mọi người, vừa hả
miệng toan cướp lời vua thì liền bị anh què sau lỗ màn
búng một viên phẩn dê khô vào miệng. Ham nói quá, ông
nuốt riết viên phẩn dê để nói. Mỗi lần ông hả miệng là
bị một viên phẩn lọt vào, mà ông cứ nói không ngưng.
Đến khi vua trông thấy anh què đã búng hết phẩn. Ngài
mới bảo quân sư rằng: “Nầy quân sư, vì tật ham nói, nên
khanh nuốt hết một cân phẩn dê khô, mà vẫn chưa biết. Dạ
dày của khanh không thể tiêu hóa được cân phẩn ấy, vậy
khanh về uống thuốc xổ ra đi”. Vị quân sư cả thẹn ra về.
Từ đấy ông không dám nói nhiều nữa.
Nhờ anh què mà lỗ tai vua đỡ bực, nên ngài ban cho anh
què ấy thâu thuế bốn thôn được ước độ mười muôn dân.
Có một vị đại thần thấy thế mới tâu rằng: “Tâu Đại
vương! Trong đời nầy dù người nào, nghề nào cũng cần
phải học. Nghề búng sạn của anh què cũng được Hoàng
thượng ban thưởng".
Rồi vị ấy mới nói câu kệ:
“- Sādhu kho sippaṃ nāma
Api yadisakīdisaṃ (?)
Passa ajapphārena
Laddhagāmā catudisā “[14].
Nghĩa là: Đã gọi là nghề dầu là nghề gì cũng làm cho ta
được hưởng được lợi ích của nó.
Người
biết nghề đành là có phần lợi lạc, mà cần phải biết áp
dụng và áp dụng đúng lúc, đúng chỗ thì mới mang đến kết
quả tốt đẹp; bằng áp dụng không thích nghi, không lựa
nơi, lựa chỗ thì lại đem cái khổ đến cho mình - như sự
tích của người học trò của anh què búng sạn trên kia.
“- Có một người học nghề búng sạn với
anh què nọ. Sau khi học rành nghề, người ấy mới định thử
tài của mình; thầm nghĩ: Nếu mình búng sạn thử vào bò,
heo, dê... thì chủ họ sẽ bắt mình đến và bị phạt, bồi
thường! Nếu búng sạn thử vào bất kỳ một người nào thì
cha mẹ, họ hàng quyến thuộc của họ sẽ đập chết ta hoặc
sinh ra kiện cáo lôi thôi!
Một
hôm gặp đức Phật Độc Giác đang đi trì bình khất thực,
anh chàng thầm nghĩ: Vị sa-môn này hoàn toàn cô độc,
không nhà cửa, không gia đình, ta thử tài của ta thì
thật là vô tội vạ! Tức thì anh liền búng một viên sạn
vào lỗ tai của đức Phật Độc Giác, viên sạn đi xuyên từ
lỗ tai bên này sang bên kia. Nếu là người thường thì
chết liền tại chỗ vì viên sạn đó, nhưng đức Phật Độc
Giác dùng thiền định chế ngự được thương tích nên về đến
am thất, ngài mới nhập diệt.
Anh nọ lại tìm đến am thất của ngài, thấy tín đồ đang lo
hỏa táng và than khóc, anh mới khoe: “Mấy người biết
không? Người chết đây là do tài búng sạn của tôi đó!”
Tưởng khoe như vậy là người ta kính nể và khen mình, nào
ngờ tín đồ nổi giận, lôi anh ra đánh chết. Vì tội giết
đấng cao cả nên sau khi chết anh sanh vào địa ngục
A-tỳ”.
Vậy người Phật tử chân chính nên chọn lấy một nghề gọi
là chánh nghiệp ( phải là chánh mạng) mới
được hạnh phúc.
Nhưng làm sao cho ta có nghề? Điều
rất giản dị là muốn có nghề, thì phải cố học.
Về nghề của bậc xuất gia, đức Thế Tôn có dạy rằng: “Nầy
các thầy tỳ-khưu! Thầy tỳ-khưu trong Phật đạo phải siêng
năng giúp nhau hành Tăng sự dù mọi việc lớn hay nhỏ.
Nên dùng trí tuệ quan sát mọi việc coi nên làm hay
không?”[15]
Vậy các bực xuất gia phải có nghề trong phạm vi của bực
xuất gia, mà nghề của bực xuất gia là Tăng sự, như: Lễ
xuất gia, lễ nhập hạ, lễ dâng y, lễ ra hạ, lễ phát lồ...
thầy tỳ-khưu phải thông hiểu.
+ Hơn nữa, thầy tỳ-khưu còn nên học thông 8 điều cũng
thuộc vào nghề của mình là:
1. Rakkhāndriyasippaṃ:
Nghề giữ lục căn thanh tịnh.
2. Sādhukasippaṃ:
[16]
Nghề biết ba điều lợi ích
[17].
3. Nānābhāsākovidhasippaṃ:
[18]
Nghề hiểu thông nhiều thứ tiếng là Bắc phạn và Nam phạn.
4. Dhammaratasippaṃ:
[19]
Nghề biết thỏa thích. Có 10 pháp nương nhờ:
a. Sīla:
Trì giới trong sạch
b. Bāhusucca:
Học nhiều hiểu rộng.
c. Kalyāṇamitta:
Có bạn lành
d. Sovacassatā:
Tư cách biết vâng lời, dễ dạy
đ. Dakkhatā:
Tư cách người siêng năng, khéo léo, thông thạo, có khả
năng.
e. Dhammakāmatā:
Tư cách người ưa thích pháp
ê. Viriya:
Tư cách người có tinh tấn hành đạo
g. Santosa:
[20]
Có trí thức
h. Sati:
Có trí nhớ (có niệm).
i. Sukhasikkhāsippaṃ:
Học biết 7 điều an lạc là:
- Manussasukhaṃ: An vui trong cõi người
- Divasukhaṃ: An vui trong cõi trời
- Jhānasukhaṃ: An vui của thiền định
- Vipassanāsukhaṃ: An vui của minh sát tuệ
- Maggasukhaṃ: An vui của đạo
- Phalasukhaṃ: An vui của quả
- Nibbānasukhaṃ: An vui của Niết-bàn
5. Nānāsippanvisada: Nghề hiểu rõ các chi tiết của nghề.
6. Kulasīlasippaṃ: Nghề hiểu rõ phận sự của người còn ở trong
gia đình.
7. Bhītasippaṃ: Nghề hiểu rõ hổ thẹn tội lỗi và ghê sợ tội lỗi là nguyên
nhân sinh ra những học giới để ngăn ngừa, rào đón chúng
ta khỏi sanh vào ác đạo.
8. Buddhasippam:
Nghề hiểu rõ pháp bảo là Tam tạng.
+ Người có nghề nghiệp giỏi
[21] thì được những hạnh phúc nầy:
- Trở nên người lành.
- Làm cho mình hơn người bên mình.
- Làm cho mình
giỏi hơn người khác.
- Làm cho mình tốt hơn người khác.
- Làm cho mình cao thượng hơn
người khác.
- Làm cho mình cao cả hơn người
khác.
- Tự mình sinh sống được dễ dàng hơn.
- Làm cho mình trở nên người khôn ngoan hơn kẻ khác.
- Làm cho mình giàu hơn người khác
- Làm cho mình có an vui hơn người khác.
- Làm cho mình trở nên người có
giá trị hơn người khác.
- Làm cho xã hội được tiến hóa.
HẠNH PHÚC IX
Vinayo ca susikkhito: Học thông được luật
(Khéo học tập, thông suốt luật nghi)
Muốn học thông luật cần phải phân tách 3 điểm trong
luật:
1. Trạng thái của luật
2. Sự quan trọng của luật
3. Luật là nguyên tắc sống đẹp,
lành mạnh để người hành theo.
Ai ai cũng biết rằng luật
[22] là những điều cấm không
cho người vi phạm, do nơi nhiều vị trí thức hợp đồng
soạn thảo ra, để mọi người trong một xã hội thực hành
theo, để đem an vui lại cho xã hội. Do vậy, luật
không phải do một người có toàn quyền quyết định trong
một nhóm, phe phái hay một xã hội độc tài chuyên chế nào
đó với những điều lệ hay những pháp lệnh độc đoán.
Ai ai cũng biết rằng chúng ta mỗi người đều có thể có 2
lối đi là: Đường đời và đường đạo - vì mỗi người trong
chúng ta có hai thành phần quan trọng là thân và tâm.
Thân nầy sanh ra trong đời và sống trong đời, trưởng
thành trong đời và sống trong đời. Tâm của chúng ta cũng
vậy. Nhưng tâm phải sống trong khuôn khổ của luân lý,
đạo đức là luật của đạo, của đức lý chung chung; còn như
thân thì phải tùy thuộc kỷ luật, pháp luật - tức là luật
của đời.
Tất cả nhân loại sanh ra trong cõi ta-bà nầy đều phải bị
chi phối bởi nhiều luật tắc. Nếu là người tại gia cư sĩ,
thì phải tuân theo mọi quy định của pháp luật nơi quốc
độ mà mình đang sống. Nếu là người có tôn giáo thì còn
tuân theo luật tắc, giới điều của tôn giáo ấy nữa. Riêng
với Phật giáo - thì giới điều dành cho những cư sĩ tại
gia là ngũ giới hay bát quan trai giới. Nếu người nào
chỉ biết giữ theo luật của chánh phủ, nhưng không biết
luật của tôn giáo - thì người ấy được gọi là người vô
tín ngưỡng; có thể họ là người sống theo duy vật, theo
chủ thuyết hư vô hoặc đoạn diệt luận! Riêng đạo Phật,
nếu họ sống theo luật đời, chấp hành, tuân thủ luật đời
mà không tin Phật, tu Phật thì người ấy có thể tránh
được cho mình những điều phiền lụy về thể xác, phần
thân; nhưng họ sẽ không có được đời sống tinh thần thanh
cao, hướng thiện, hướng thượng trong kiếp nầy và luôn cả
kiếp vị lai.
Vì vậy nên có câu Phật dạy rằng:
“- No ce assa buddhi
Vinayo vā susikkhito
Vane andhamahīsova
Careyya bāhuko naro”
Nghĩa là: Thái độ sống, mọi hành động của nhân loại mà
không có luật bắt buộc họ phải thực hành theo, thì không
khác nào bầy bò đui mà đi trong rừng rậm.
Nơi đây tôi xin đề cập riêng về luật của đạo. Theo Tam
tạng kinh của đức Thế Tôn đã giáo truyền thì luật ấy
được chế định chia ra làm 2 bộ:
1. Agāriyavinaya:
Luật của người tại gia.
2. Anāgariyavinaya:
Luật của người xuất gia.
Luật của người tại gia
Người tại gia là người còn trong gia đình chưa có thể
hay là không thể bỏ gia đình để đi theo phẩm hạnh của
các bậc xuất gia, nên đức Phật có ấn định giới luật cho
hàng cư sĩ. Luật ấy gồm có 10 điều chế ngự thân, khẩu,
ý. Mười điều luật ấy có khi gọi là thập thiện đối lại
với thập ác. Thập ác là mười điều
ác chia ra làm 3 loại là:
- 3 điều ác do thân tạo ra: Sát
sanh, trộm cướp, tà dâm.
- 4 điều ác do khẩu tạo ra là: Nói
dối, nói đâm thọc, nói ác và nói lời vô ích.
- 3 điều ác do ý (tâm) tạo ra là: Tham lam thái
quá, oán thù và tà kiến.
+ Mười điều ấy xin lần lượt giảng giải theo thứ tự sau
đây:
1. Sát sanh
(Pāṇātipātā): Là cố ý giết hay là xúi kẻ khác
giết người hoặc động vật có sự sống.
Nếu giết thú nhỏ, thức tánh sơ khai - thì tội ít, còn
thú lớn, thức tánh phát triển - thì tội nặng; nếu giết
người thì tội càng nặng hơn. Nếu người sát sanh có đủ 5
chi phần sau đây mới gọi là sát sanh:
- Pāṇa:
Thấy có một chúng sanh.
- Pansannīta:
Biết rằng chúng sanh ấy có thức tánh (Có hơi thở, có
sự sống).
- Vadhakacittaṃ:
Khởi tâm, cố ý giết hại.
- Upakkama:
Cố gắng tìm cách giết chúng sanh ấy.
- Tena maraṇaṃ:
Đã giết chúng sanh ấy bằng nỗ lực của chính mình.
Nếu
thiếu một chi phần nào, thì người giết hại không gọi là
phạm tội sát sanh, nhưng giới bất sát của người ấy không
được trong sạch
[23].
2. Trộm cướp
(Adinnādānā): Có tác ý trộm cướp khi biết rằng
món đồ cướp ấy có chủ, chủ không bằng lòng cho mà vẫn cố
ý cướp hay lấy về cho mình. Tội trộm cướp nặng hay nhẹ
là tùy theo của ít hay nhiều, giá trị cao hay thấp; và
cũng tùy theo người bị cướp ấy là kẻ xấu ác hay là người
lương thiện, có giới hạnh. Dĩ nhiên là cướp của người có
đạo đức, giới hạnh thì tội nặng hơn.
+ Người hoàn toàn phạm vào tội
trộm cướp là khi nào người phạm đủ năm chi phần sau đây:
- Parapariggahitaṃ:
Tài sản, của cải của người khác.
- Parapariggahitasannitā:
Biết rằng tài sản, của cải ấy là có chủ gìn giữ.
- Theyyacittaṃ:
Khởi tâm, cố ý lấy cắp, trộm cướp vật đã có chủ ấy.
- Upakkama:
Tìm mưu kế, cố nỗ lực để lấy cắp vật ấy cho bằng được.
- Tenaharaṇaṃ:
Đã trộm cướp được là nhờ vào sự nỗ lực và mưu kế ấy.
3. Tà dâm
(Kāmesumicchācārā): Dịch từ tiếng phạn là kāma
[24],
nghĩa là sự mơ ước. Tiếng nầy
thường được dịch là trần nhưng nơi đây phải dịch là dâm.
Dâm có hai trường hợp: Phạm tội, và không phạm tội.
- Sadārasantoso:
Ăn ở với vợ nhà là không phạm tội.
- Paradāragamana:
Ăn ở với kẻ khác (vợ người khác) là phạm tội.
Tà dâm là một điều mà các vị thiện trí thức, nhứt là đức
Phật hằng chê bai là pháp thấp hèn làm cho chúng sanh
tội lỗi và đau khổ trong luân hồi.
+ Phật giáo cấm phạm dâm đến 20 hạng người, gọi là
Agamaniyatthāna: Người bất khả xâm phạm.
1. Māturakkhitā:
Người con gái còn có mẹ giữ gìn.
2. Piturakkhitā:
Người con gái còn có cha giữ gìn.
3. Mātāpiturakkhitā:
Người con gái còn có cha mẹ giữ gìn.
4. Bhāturakkhitā:
Người con gái còn có anh gìn giữ, nghĩa là người đã mất
cha mẹ, hoặc còn mà phải ở với anh, anh có phận sự gìn
giữ.
5. Bhaginīrakkhitā:
Người con gái còn có chị hay em gái gìn giữ.
6. Natirakkhitā (?):
Người phụ nữ có quyến thuộc gìn giữ.
7. Gottarakkhitā:
Người phụ nữ còn có người trong họ hàng gìn giữ.
8. Dhammarakkhitā:
Người phụ nữ có pháp gìn giữ - nghĩa là người phụ nữ
xuất gia ở trong giới luật, còn có
nhiều người cùng đạo gìn giữ.
9. Sārakkhā:
Người phụ nữ đã có chồng hay người đi hỏi rồi - -
là người đã được bảo vệ.
10. Sāpattika:
Người phụ nữ phạm luật nước, nghĩa là người phụ nữ bị
nhà chức trách không cho hành động theo ý muốn của mình,
hoặc cho người nam đến giao tiếp.
11. Dhanakkita:
Người phụ nữ đã có người mua đổi bằng tiền của, dầu
nhiều hay ít.
12. Chandavāsinī
[25]:
Người phụ nữ theo trai, người đàn ông bằng lòng đem về
nhà làm vợ.
13. Bhogavasī
[26]:
Người phụ nữ ưng làm vợ người vì tiền, nghĩa là người
phụ nữ ấy ưng làm vợ của người nam vì một số tiền dù ít
hay nhiều.
14. Paṭavasī
[27]:
Người phụ nữ ưng làm vợ người vì y phụ nghĩa là chịu
lãnh một số y phục để về làm vợ.
15. Odapattakini
[28]:
Người phụ nữ bằng lòng để cho người khác đem bàn tay
mình để vào bàn tay người nam, rồi nhúng vào chậu nước
mà nói rằng: Hai người hãy ở với nhau như nước nầy,
không bao giờ chia rẽ nhau. Đây là phép cưới ngày xưa
của Ấn Độ.
16. Chatakumbhatā.
Người phụ nữ đội trên đầu nhờ người nam để xuống rồi
người ấy đem về làm vợ.
17. Dāsī ca bhariyā ca:
Người phụ nữ đã làm tớ gái mà cũng là làm vợ, nghĩa là
trước kia là nô tỳ sau này lại ở với ông chủ.
18. Kammakārī ca bhariyā ca:
Người phụ nữ làm công mà cũng làm vợ.
19. Dhajāhaṭa:
Người phụ nữ bị quan quân bắt về, nghĩa là nữ tù binh.
20. Muhuttikā (?):
Người phụ nữ có tình với người nam (như vợ bé thời
bây giờ).
Người nam không được xâm phạm đến 20 hạng nữ kể trên;
còn người nữ khi biết mình thuộc về 20 hạng ấy mà còn
ngoại tình thì được gọi là tà dâm.
Cũng
như hai giới trước, giới tà dâm nếu phạm vào người ít
đức thì tội nhẹ, bằng phạm vào người có nhiều giới đức
thì tội lại nặng.
Giới tà dâm có 4 chi phần để cho người biết mình có phạm
giới hoặc giới bị nhơ đục hay không.
- Aga naniyavatthu (?):
Người mà ta không nên hành dâm (20 hạng phụ nữ đã kể
trên).
- Tasmin sevanacittaṃ:
Tâm muốn hành dâm với người không nên hành dâm.
- Sevanappayogo:
Cố gắng tìm cách hành dâm.
- Maggena maggappaṭipatti adhivāsanā:
Đã hành dâm được do sự cố gắng ấy.
Trong ba giới sát sanh, trộm cướp, tà dâm kể trên, tuy
đều có ý tham dự - nhưng khi phân tích tội thì chúng đều
thuộc về thân - thân nghiệp. Luật chưa bắt tội tâm vì
nếu tâm chỉ toan tính mà điều ác chưa thi hành, thì nhân
vật mà tâm tính hại ấy thực tế vẫn chưa bị hại (vì sự
suy nghĩ ác của tâm).
4. Nói dối
(Musāvādā): Theo chú giải thì tội nói dối không
chỉ do khẩu (bằng miệng) - mà phải tính luôn khi
thân, tay, chân ra dấu hiệu hoặc dùng thư từ để dối gạt
người khác nữa. Ngoài ra, sau khi đã nói dối, người khác
hỏi đến, do sợ tội nên tìm cách chối quanh - cũng không
thoát khỏi tội nói dối; bằng thú nhận thì sợ bị hành
phạt, cứ nín thính, như vậy cũng phạm tội nói dối.
Nói dối nếu hại ít người thì nhẹ tội, bằng hại nhiều
người thì nặng tội.
+ Nói dối có bốn chi phần là:
- Atthaṃ vatthu:
Chuyện, nhân hay vật không thật.
- Visaṃvāyamacittaṃ:
Tâm muốn nói sai sự thật.
- Tajjovāyama:
Cố gắng nói sai sự thật theo ý muốn.
- Parassa tadatthavijānānaṃ:
Đã làm cho người khác tin theo, biết rõ chuyện không
thật mà mình đã nói ấy.
5. Nói đâm thọc, ly gián
(Pisuṇāya vācāra): Con người bị sự tham lam, sân
hận, si mê làm mờ ám - thường mưu toan làm cho những kẻ
đang thương yêu quý mến nhau phải chia rẽ nhau, thù oán
nhau cho bõ ghét, cho đã lòng oán hận hoặc là để cầu
thân với bên nầy đặng trả oán bên kia. Thái độ ấy gọi là
pisuṇāyavācāra, tức là nói đâm thọc, ly gián nhằm
chia rẽ người khác.
Lời nói đâm thọc, chia rẽ người có giới đức ít, thì nhẹ
tội, bằng người có đức hạnh cao thì tội nặng. Còn nếu
nói đâm thọc mà không có kết quả chi cả (tội chưa
được thành lập) thì tội ít.
+ Nói đâm thọc, ly gián có bốn chi phần là:
- Bhinditabbo paro:
Người có thể chia rẽ.
- Bhedapurekkhārātā vā piyakamyatā:
Ý muốn chia rẽ, hoặc muốn cho một bên thân thiện với
mình.
- Tajjo vāyama:
Đã nỗ lực, cố gắng để chia rẽ, ly gián.
- Tadatthavijānānaṃ:
Đã có kết quả, đã làm cho hai bên biết rằng họ ghét nhau
và đã thành công trong sự mưu toan ly gián ấy.
6. Ác ngữ
(Pharusāya vācāya): Là nói lời cay độc, độc ác,
hung dữ...
Chú giải có dạy rằng: Khi ta giận hờn nguyền rủa và trù
ẻo kẻ khác cho bị tai nạn, nói những điều xấu của kẻ
khác làm cho người ta mất danh giá, ấy là ác ngữ.
Riêng về phần cha mẹ chửi rủa con, không gọi là ác ngữ,
vì mặc dầu ngoài miệng chửi rủa mà trong lòng thương yêu
không muốn cho con bị tai nạn theo lời rủa của mình. Như
có tích sau đây:
“- Có một thanh niên kia cãi lời mẹ đi chơi trong rừng,
bà mẹ sợ con bị tai nạn, ngăn cản không được, mới rủa:
“Mầy đi sẽ bị trâu rừng dữ rượt mầy”.
Người con vào rừng bị trâu rừng rượt thiệt. Nhắm không
thể nào chạy khỏi, người ấy mới phát nguyện rằng: “Khi
tôi ra đi, mẹ tôi có rủa tôi, nếu mẹ tôi có ác ý muốn
cho tôi chết, tôi xin chịu chết; bằng mẹ tôi chỉ hăm dọa
cho tôi sợ, xin cho tôi thoát nạn”. Người thanh niên vừa
dứt nguyện, trâu rừng tự trở lui không hại người thanh
niên ấy”.
Tích nầy cho thấy rằng dầu lời nói ác nhưng tâm không
ác, thì không hoàn toàn là ác ngữ. Tuy nhiên, đấy là
trường hợp đặc biệt mà người mẹ phải sử dụng để đối trị
với đứa con cứng đầu. Bất cứ trong trường hợp nào, đã là
người tu Phật thì không nên nói lời độc ác, hung dữ hoặc
nhiếc mắng, nguyền rủa kẻ khác - nó chính là thuộc độc
làm cho ô nhiễm tâm trí chúng ta.
Cũng tương tợ như các giới trên, ác ngữ với người thấp
hèn, ngu si không có giới đức thì tội ít, bằng với người
hiền lương, có giới đức thì tội rất nặng.
+ Ác ngữ có ba chi phần là:
- Akkositabbo:
Có kẻ khác để ta chửi, mắng.
- Kujjhanacittaṃ:
Tâm ta giận
- Akkosanā:
Đã chửi rủa xong.
7. Lời nói phù phiếm
(Samphappalāpa): Tức là nói ba cái chuyện tào
lao, chuyện bậy bạ, chuyện tiếu lâm, chuyện vô ích,
chuyện rỗng không...
+ Giới nầy có hai chi phần là:
- Muốn nói lời phù phiếm (như
trên).
- Đã nói những chuyện kể trên rồi.
Khi người phạm vào hai chi phần trên thì là phạm vào tội
nói lời phù phiếm, vô ích. Nhiều người lầm tưởng rằng,
giới này vô tội vạ, chỉ để giết thì giờ, để giải trí cho
vui - nhưng thật ra, lâu ngày chầy tháng nó sẽ làm cho
ta giảm mất tư cách và giá trị con người.
Về
phần khẩu, vậy là có 4 tội: Nói dối, nói ly gián, nói
độc ác và nói phù phiếm.
8. Tham lam quá
(Abhijjhā) : Có hai chi là:
- Parabhaṇḍaṃ:
Của cải của người khác.
- Attano parināmānam (?):
Đã tìm cách thế đem những của cải về cho mình - dù chỉ
mới tính quyết rằng: Ta sẽ đem của cải ấy về cho ta,
nhưng chưa thực hiện thì cũng phạm vào chi phần nầy rồi.
Trái lại, nếu ta muốn được của cải, tài sản của người,
nhưng tâm ta chưa quyết rằng ta chiếm cho kì được, thì
chưa hẳn phạm giới.
Về khoản nầy, giới cấm rất gắt, và phải gắt như thế mới
có thể đưa tâm của con người vào khuôn khổ được.
Người tu muốn được giải thoát, cần
phải có trí nhớ và công bằng để làm quan tòa xử tâm mình
cho công minh, không thiên vị.
9. Oán thù
(byāvata)
[29]:
Oán thù là ác tâm muốn tìm thế hại người, tìm mưu chước
để làm mất lợi ích hoặc giảm uy tín của người mà họ oán
ghét.
+ Oán thù có hai chi phần là:
- Parasaytto (?):
Tạo nhân oán thù.
- Tasavināsacinto (?):
Do oán thù nên suy nghĩ để tìm cách mưu hại kẻ khác.
Oán thù sanh lên bởi lòng nóng giận. Khi nóng giận kẻ
khác mà chưa có ý nghĩ hại người, thì chưa hẳn phạm tội
nầy, chừng nào tâm đã lập kế hại người, và đã hại người
rồi mới gọi là phạm.
10. Tà kiến
(Micchādiṭṭhi): Sự hiểu biết sai lầm, trái với sự
thật, gọi là tà kiến. Ấy là sự nhận thức trái với chân
lý. Ví dụ như tin tưởng rằng một khi đã phạm tội rồi, có
thể yêu cầu kẻ khác rửa tội cho mình, hoặc chịu tội thế
cho mình, tin rằng có kẻ khác cho ta phước, phạt ta phải
chịu tội, chớ không tin rằng: Phước theo ta như bóng
theo hình, hễ hình cao thì bóng dài mà hình thấp thì
bóng ngắn.
+ Tà kiến có hai chi phần là:
- Vatthuni gahiṭakāraviparītattā:
Tánh cách của sự cố chấp , chấp vào điều sai với sự
thật.
- Yathā ca taṃ bandhati tathābhāvena
tassapatthānaṃ:
Chấp với tánh cách hiểu lầm, những điều sai với sự thật,
mà cho rằng đúng, không chịu bỏ.
Người tu tại gia cố tránh mười điều ác do thân, khẩu, ý,
tạo ra; đồng thời ráng hành mười điều thiện. Được như
vậy, mới là đúng luật của người cư sĩ tại gia.
Luật của người xuất gia
Anāgāriyavinaya:
Nếu dịch đúng theo phạn ngữ là luật của người vô gia
đình, mà người vô gia đình là người xuất gia. Người xuất
gia không được phạm một điều nào trong 227 điều luật đã
thọ trì.
227 điều ấy, gọi là cụ túc giới,
nếu vị tỳ-khưu nào phạm đến, tùy theo sám hối được hay
không - thì hoặc bị phạt cấm phòng hay bị hoàn tục nghĩa
là bị trục xuất ra khỏi hàng Tăng-già.
+ Cụ túc giới chia ra làm 7 phần:
1. Pārājika:
Bất cộng trụ.
2. Saṇghādisesa:
Tăng tàn
3. Thullaccāya:
Tội trọng
4. Pācittiya:
Ưng xã đối trị
5. Pāṭidesanīya:
Ưng phát lộ (Ưng đối trị)
6. Dukkaṭa:
Tác ác
7. Dubbhāsita:
Ác ngữ
Thầy tỳ-khưu phạm bất cộng trụ thì bị trục xuất
khỏi giáo hội; phạm tăng tàn phải bị cấm phòng,
còn phạm vào năm điều sau thì có thể xin sám hối được.
Đừng nói chi đến sự phạm bất cộng trụ và tăng
tàn, thầy tỳ-khưu phạm vào một điều nào của năm điều
sau, tuy có thể xin sám hối được, mà lại quên không xin
sám hối, thì điều tội ấy dù nhỏ, cũng ngăn con đường
thiên đàng và Niết-bàn, như câu Phật dạy rằng:
Sāpattikassa bhikkhaveniriyaṃ vadāmi tiracchānayoniyaṃ,
nghĩa là: “Nầy thầy tỳ-khưu! Như lai thấy như thực rằng:
Địa ngục hay súc sanh là cảnh giới dành để cho các thầy
tỳ-khưu phạm trọng giới ”.
Đây tôi xin nhắc sơ lược sự thích của một thầy tỳ-khưu,
chỉ phạm một giới rất nhỏ mà quên sám hối, rồi phải bị
đọa vào súc sanh.
“- Trong thời kỳ giáo pháp của đức Phật Kassapa
(Ca-diếp) có một thầy tỳ-khưu hành đạo trong rừng tám
muôn năm, giới hạnh của thầy rất trang nghiêm. Ngày nọ,
đi ghe theo sông Gaṇgā, tới chỗ nước chảy mạnh, ghe đi
rất đỗi mau, ông kinh sợ, níu một bụi tranh, mọc nơi bờ,
rủi đứt bụi tranh; khi trở về tịnh thất, ông quên sám
hối, tưởng đó là một tội nhỏ thôi
[30].
Khi sắp lâm chung, ông có cảm tưởng như có lá tranh đến
quào vào cổ ông. Chừng ấy ông muốn sám hối, nhưng rủi
thay, trong lúc ấy không có một vị tỳ-khưu nào đó để ông
sám hối, nên ông rất ân hận rằng giới hạnh của mình
không được trong sạch. Rồi ông tắt hơi, sanh làm vị Long
vương tên Erakapatti - từ đời đức Phật Ca-diếp đến thời
đức Thế Tôn hiện tại của chúng ta. Tuy Long vương có thọ
tam quy và ngũ giới, được nghe pháp của đức Phật Gotama
nhưng không thể đắc đạo quả được vì còn mang xác thân
súc sanh”.
Vì lẽ ấy nên các thầy tỳ-khưu, vì dễ duôi hay vì không
cố ý mà lỡ phạm vào một điều nào dầu thật nhỏ, cũng nên
sám hối liền, bằng không, dầu đạo hạnh thanh cao và có
tinh tấn đến đâu, sắp đắc đạo quả, cũng bị trở ngại.
“- Còn nữa, một thuở nọ, đức Thế Tôn đi ngang qua xứ
Kosala, trông thấy ở lề đường có một cây cổ thụ có hoa,
và trong hoa có lửa đang cháy, xem thật ghê sợ và rất
nguy hiểm cho thân cây. Đức Thế Tôn liền đem hình ảnh
cây cổ thụ và lửa đang đốt nó làm ví dụ để thuyết một
bài pháp thật dài, dạy các thầy tỳ-khưu về lửa phiền não
hằng thiêu đốt thân tâm con người.
Trong khi nghe đức Phật thuyết pháp, có 60 vị tỳ-khưu vi
phạm vào giới bất cộng trụ mà giấu lỗi liền phát tâm ân
hận, mửa máu tươi ra chết tại chỗ. 60 vị khác phạm tăng
tàn nhưng cũng giấu lỗi, tự xét lấy mình, rằng là phạm
hạnh của đức Phật dạy thật là cao quý, mà ta không thể
hành được; suy nghĩ như thế rồi 60 vị ấy xin hoàn tục.
Còn 60 vị nữa tự xét giới hạnh của mình thật trong sạch
nên tâm thơ thới, quán tưởng ba tướng nên đắc A-la-hán
quả”.
Đến đây có lẽ có người muốn hỏi: “Nếu theo thời pháp của
đức Thế Tôn dạy thì 60 vị chết tại chỗ và 60 vị hoàn
tục, thì thời pháp ấy có kết quả lành ít mà tai hại lại
nhiều; vậy tại sao đức Phật lại thuyết? Thế lòng từ bi
vô lượng của ngài ở đâu? ”
Đặt câu hỏi như vậy chỉ chứng tỏ chúng ta thấy gần nhưng
không hiểu xa! Đức Thế Tôn là bậc đã hoàn toàn giác ngộ
nên việc làm nào của ngài cũng rất nghiêm minh, chu đáo
và lợi lạc cho chúng sanh. Nếu ngài không thuyết thời
pháp ấy thì chư tỳ-khưu phạm bất cộng trụ và tăng tàn ấy
tha hồ mà lợi dụng lòng tin tưởng của tín đồ. Trong tạng
Luật, đức Phật đã sánh hạng tỳ-khưu ấy với một bọn cướp
rất lợi hại, nhà chức trách không biết và không thể bắt
được. Vì bọn cướp ấy giấu mặt, mà người không biết lại
vui lòng giúp cho khí giới nữa. Thiện tín đâu biết ấy
chính là các thầy tỳ-khưu phá giới nên dâng cúng bằng
tất cả tấm lòng cung kính. Bởi vậy đức Phật phải thuyết
thời pháp ấy, vì ngài thương hại cho các vị tỳ-khưu sợ
càng giấu lỗi thì tội họ càng ngày càng nhiều, vì cướp
của thiện tín thì càng bị đọa vào địa ngục. Còn 60 vị
tỳ- khưu phạm tăng tàn, sau khi hoàn tục, nếu cố gắng
thực hành theo hạnh người tại gia cũng có thể đắc được
đạo quả. Còn nữa, nếu đức Phật không thuyết thời pháp
ấy, thì các thầy tỳ-khưu ấy càng làm thêm những điều
chẳng lành, làm cho ngoại đạo hay biết chuyện chẳng hay
ấy, họ chỉ trích đạo Phật, làm cho đạo Phật khó truyền
bá, không đi sâu được vào các giới trong xã hội nhất là
các bậc thượng lưu, đạo đức, trí thức. Vì vậy nên thời
pháp mà ngài thuyết rất là cao quí, vì lòng từ bi của
một đấng Giác Ngộ; và cũng không phải vì thời pháp của
ngài đã làm hại các thầy tỳ-khưu, mà đó chẳng qua là cái
quả tu hành không chân chánh của các thầy tỳ-khưu ấy đó
thôi.
+ Luật xuất gia còn gọi là luật của người vô gia đình,
ngụ ý chỉ Tứ thanh tịnh giới. Tứ thanh tịnh giới ấy là:
1. Pātimokkhasaṃvarasīla:
Tàu âm là Ba-la-đề-mộc-xoa; còn được gọi là
Biệt biệt giải thoát thu thúc giới hay là Cụ túc
giới - tức là có cả thảy 227 giới điều
[31]
mà thầy tỳ-khưu phải hành theo.
2. Indriysaṃvarasīla:
Lục căn thu thúc giới
3. Ājīvapārisuddhisīla:
Chánh mạng thanh tịnh giới.
4. Paccayasannissitasīla:
Quán tưởng thọ vật dụng thanh tịnh giới.
I. Ba-la-đề-mộc-xoa, biệt biệt giải thoát thu thức giới
là 227 giới điều của bậc tỳ-khưu phải tuân hành theo cho
thật trong sạch, dầu một giới thật nhỏ cũng không cho
phạm vào. Người tu phải luôn luôn trau dồi giới hạnh cho
trong sạch, cũng như chỉ có một con mắt, hết sức trông
nom săn sóc con mắt còn lại cho khỏi bị bệnh. Thầy
tỳ-khưu biết thương yêu, quý trọng giới hạnh của mình,
mặc dầu chết chứ không cho phạm giới rất nhỏ như thầy
tỳ-khưu trong sự tích sau đây:
“- Có một thời tỳ-khưu hành đạo trong rừng bỗng bị một
bọn cướp bắt ngài, cột trói lại bằng một sợi dây bổ thảo
(?)- thứ cây như dây bình bát - rồi chúng bỏ giữa rừng,
không cho ngài về thành, vì sợ ngài về mách với chánh
quyền đến truy nã chớ không ác ý muốn giết hại ngài.
Thầy tỳ-khưu ấy không dám làm đứt sợi dây
[32],
sợ phạm Ưng đối trị trong điều học làm hại thảo mộc.
Thầy cam chịu bị cột và nhịn đói bảy ngày, ráng hết sức
tham thiền, hết ngày thứ bảy đắc A-na-hàm quả, chết được
sanh về cõi Ngũ tịnh phạm thiên.”
Nên có câu kệ ca tụng giới đức trang nghiêm rằng:
“- Pātimokkhaṃ visodhento
Appeva jīvitaṃ jahe
Paññattaṃ lokanāthena
Nabhinde sīlasaṃvaraṃ”.
Nghĩa là: Hành giả có đức tin hành theo Ba-la-đề-mộc-xoa
được thanh tịnh; có đủ can đảm bỏ mình, không chịu để
phạm giới mà đức Lokanātha (Đấng Cứu Thế)
[33]
đã giảng giải.
Xem đến tích nầy có lẽ có nhiều người cảm động vì tư
cách xử sự của vị tỳ-khưu ấy, mà cũng có người cho rằng:
Ngài câu nệ một giới quá nhỏ. Tôi xin bào chữa cho ngài
như vầy: Người như ngài thật là người biết yêu sự giải
thoát. Ngài không còn làm nô lệ cho phiền não. Ngài
thắng được cái ý nhơ nhớp là không biết ghê sợ và hổ
thẹn tội lỗi nên ngài đã giải thoát. Riêng chúng ta còn
làm nô lệ cho phiền não và vẫn còn chưa kinh sợ khổ não
của sự sanh tử luân hồi.
Gương xán lạn ấy, chẳng những hàng xuất gia mà hàng cư
sĩ phải noi theo, để gìn giữ giới hạnh của mình được
tinh khiết và nâng cao trình độ tinh thần của mình trên
đường giải thoát.
II. Lục căn thu thúc giới:
Thầy tỳ-khưu muốn lục căn thu thúc được thanh tịnh thì
trước nhứt phải biết quả báo cao thượng của sự thu thúc
và tai hại của sự buông lung.
Đức Phật có dạy về hai điều ấy. Một, ngài dạy rằng: Có 6
nơi sanh ra cảm xúc là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý.
Thầy tỳ-khưu gìn giữ 6 căn ấy cho cẩn thận thì sẽ được
an vui, bằng không thì sẽ khổ tâm bất tức
[34].
Hai, đức Phật có dạy rằng: Các thầy tỳ-khưu thà dùng
miếng sắt bén móc vào con mắt, dùng dao thật bén nạo lỗ
tai, lưỡi dao thật bén cắt lỗ mũi, lưỡi, thân nầy - còn
hơn là thu nạp cảnh trần vào tâm và cho rằng đó là đẹp,
thơm, ngon, mềm dịu và vui sướng. Thọ những vui sướng
trong trần dục ấy, khi chết thầy tỳ-khưu chắc chắn đi về
một trong bốn đường ác.
Hơn nữa, trước trần dục ấy thà ngủ quên đi còn hơn, vì
nếu ngủ quên thì chỉ là một tội nhỏ - bằng khi thức mà
thầy tỳ-khưu suy nghĩ quấy, lâu ngày sẽ dẫn thầy tỳ-khưu
ấy đi vào con đường tội lỗi.
Vậy không riêng gì bậc xuất gia, mà hàng tại gia cư sĩ
cũng phải noi theo bài kinh nầy là lo thu thúc lục căn;
người không thu thúc lục căn thường bị mất lợi lạc trên
đường tiến hóa và thường bị tai hại trong kiếp nầy như
sự tích sau đây:
“- Khi xưa, có nhiều trừu (cừu) ở trong một hang núi gần
rừng Tuyết Lãnh, trong bầy ấy có một con trừu cái rất là
khôn ngoan tên là Mandamātā. Gần hang ấy có một hang
khác, là nơi hai vợ chồng sói ở. Sói đực tên Pātimansa,
sói cái tên Veni, thường bắt trừu ăn. Bầy trừu sợ nên
kéo nhau đi xa nên vợ chồng sói bắt không được thịt. Sói
đực mới bàn với vợ rằng: “Nàng hãy tìm cách làm quen với
con trừu cái Mandamātā. Khi đã thân thiện rồi, nàng hãy
than thở với trừu: Chồng tôi đã chết nên tôi không còn
một thân thuộc nào cả, chỉ có một
mình bạn thôi, vậy xin bạn hãy đến giúp tôi an táng
chồng tôi. Chừng khi trừu Mandamātā đến, tôi sẽ vật nó
để chúng ta cùng ăn thịt.” Sói cái y lời, rủ rê mãi mới
đem trừu cái về được. Trừu cái bẩm chất khôn ngoan nên
luôn luôn cảnh giác, đề phòng mọi bất trắc. Sói đực giả
bộ chết, khi nghe tiếng vợ về, sợ không rủ rê được trừu
cái, ngóc đầu lên coi. Trừu cái thoáng là biết, thấy
mình trúng kế, lật đật bỏ chạy về rất mau, sói cái giận
mắng chồng rằng: “Ông là người khùng! Không có trí tuệ
suy xét, đã giả chết mà còn ngóc đầu lên xem, không hợp
thời”.
Đức Thế Tôn kết luận tích nầy bằng câu kệ:
“- Na akāle vipekkheyya
Kāle pekkheyya paṇḍito
Pūtimanso va jhāyati
Yo akāle vipekkhati!”
Nghĩa là: Bậc trí thức không nên xem sắc trong lúc không
nên xem, mà phải nên xem cho hợp thời. Người xem không
hợp thời sẽ thất vọng buồn khổ như sói Pūtimansa
vậy. Đây là cái tai họa không thu thúc lục căn. Vậy
người tại gia cũng như người xuất gia nên ráng thu thúc
lục căn.
III. Chánh mạng thanh tịnh giới:
Chánh mạng thanh tịnh giới mà được trong sạch là do nhờ
sự cố gắng nuôi mạng chân chánh y theo lời Phật dạy
trong bài kinh Mahāsatipatthanāsutta rằng: “Nầy
các thầy tỳ-khưu! Hàng Thinh Văn đệ tử trong Phật giáo
cố dứt tà mạng và nuôi mạng chân chánh. Các thầy tỳ-khưu
nên thực hành như thế mới gọi là nuôi mạng chân chánh”.
Chú giải có nói thêm rằng: Tà mạng mà Phật đề cập đến,
đó là phương pháp bất chánh mà thầy tỳ-khưu không nên
dùng đồ tứ vật dụng được người dâng cúng mà đức Phật gọi
là tà mạng, gồm có 26 điều là:
1. Giả làm tề chỉnh (Giả vờ thu thúc trang
nghiêm).
2. Giả làm vui vẻ.
3. Nói
ướm.
4. Giả bộ dọa hăm.
5. Được nơi nầy đem cho nơi
khác.
6. Cho trẻ.
7. Cho lá cây
[35].
8. Cho bông hoa.
9. Cho cây xỉa
răng.
10. Cho trái cây.
11. Cho nước rửa mặt.
12. Cho vật để tắm (xà bông)
13. Cho vật thoa dồi (Khi xưa đức Phật cho phép các
thầy tỳ-khưu dùng dầu để xoa (thoa) trong mùa mưa rét
cho khỏi nứt da).
14. Cho đất của Tăng.
15. Tôn kính kẻ thế.
16. Thật ít dối nhiều.
17. Giữ con cho người.
18. Làm tay sai cho người.
19. Làm thầy thuốc cho người.
20. Đem tin cho người.
21. Chịu cho người điều khiển.
22. Đem cơm đã khất thực được để cho người (không
phải cha mẹ) ăn trước còn mình để khất thực lần thứ
nhì mà ăn.
23. Cho đi cho lại.
24. Xem thiên văn địa lý.
25. Xem ngày tháng sao hạn.
26. Xem tay, tướng và thai cho đàn bà.
Trong 26 điều tà mạng kể trên có điều thuộc về thân, có
điều thuộc về khẩu, thầy tỳ-khưu nào có lòng tham muốn
lợi lộc để nuôi mạng mà hành theo 26 điều kể trên, hoặc
một trong 26 điều cũng gọi là tà mạng.
Các bậc thánh nhơn thà chết chớ không bao giờ để phạm
vào tà mạng. Tôi xin nhắc lại tích của đức Xá-lợi-phất.
“- Một ngày nọ đức Xá-lợi-phất đau bụng. Đức Mục-kiền-liên
thấy vậy mới hỏi: “Khi sư huynh chưa xuất gia, gặp cơn
đau bụng như thế nầy, uống thuốc chi mới mạnh?”
- Ăn cơm đề hồ (cơm nấu với sữa tươi) thì mạnh.
Có một vị thiên nghe được lời ấy, nên hiện đến mách với bà
thí chủ của đức Xá-lợi-phất. Bà nấu cơm đề hồ dâng đầy
bát cho đại đức Mục-kiền-liên, cốt ý đem về cho ngài
Xá-lợi-phất dùng để trị bệnh. Đức Xá-lợi-phất từ chối
hẳn, không chịu thọ thực, vì tự ngài đã nói ra - thì ăn
món cơm đề hồ ấy chính là tà mạng. Đức Mục-kiền-liên yêu
cầu mấy lượt, đức Xá-lợi-phất đều lắc đầu, trả lời rằng:
“Ruột của tôi mà có đứt ra từng đoạn hay có thể chui ra
và bò như rắn trên mặt đất đi nữa, tôi cũng không thọ
thực món ăn nầy, vì tôi đã nhắc đến nó đêm hôm qua”.
Theo luật, dầu đức Xá-lợi-phất có thọ món đề hồ ấy để
trị bệnh cũng vô tội, song các bậc thánh nhơn thọ trì
giới luật rất chơn chánh, rất đáng làm gương cho hàng
hậu thế. Các bậc xuất gia nên noi theo gương cao cả ấy,
cố giữ mình đừng cho phạm vào 26 điều tà mạng kể trên.
IV. Quán tưởng thọ vật dụng thanh tịnh giới:
Nghĩa là khi thọ lãnh, khi dùng, lúc đang dùng và khi
dùng xong vật dụng của đàn-na thí chủ dâng cúng, thầy
tỳ-khưu phải quán tưởng theo những lời trong bài kinh
quán tưởng bằng Phạn ngữ, bằng không hiểu Phạn ngữ thì
cần học hiểu bằng tiếng mẹ đẻ để lãnh hội ý nghĩa của
kinh, để ngăn ngừa không cho tâm duyên theo trần tục.
(Bài kinh quán tưởng có sẵn trong quyển Luật xuất gia
của ngài Hộ Tông, xin miễn giải ra nơi đây).
Từ khi đức Phật thành đạo đến 15 năm sau, các đệ tử của
ngài là các bậc thánh nhơn, bằng chẳng vậy cũng toàn là
các vị tỳ-khưu biết yêu kính giới hạnh của mình, nên các
ngài không xao lãng về quán tưởng.
Về sau có các vị tỳ-khưu không quán tưởng vật dụng của
thí chủ dâng cúng, đức Thế Tôn biết thế mới dạy rằng:
“Nầy các thầy tỳ-khưu! Tứ sự mà các thầy thọ dụng cần
phải quán tưởng trước rồi sẽ dùng sau”. Ngài còn dạy
thêm rằng: “Các thầy tỳ-khưu thọ dụng tứ sự của người
cúng dường mà không quán tưởng cũng như người uống thuốc
độc”.
Thầy tỳ-khưu không nên dễ duôi mà suy nghĩ rằng: “Vật
dụng nầy của con ta, em ta, chị ta, anh ta, cha mẹ ta,
ta không cần quán tưởng cũng được, vì nếu ta không xuất
gia những người nầy vẫn cho ta như thường”. Vị
tỳ-khưu khi đã xuất gia không còn gia đình mà là người
đã thuộc vào hàng tăng lữ, nhằm mục đích giải thoát mà
thôi, không còn có quyến thuộc như người thế tục.
Đức Thế Tôn còn bi mẫn chỉ giáo rằng: “Thầy tỳ-khưu
ăn cục sắt nướng đỏ còn hơn là thọ vật thực của thí chủ
dâng cúng mà giới hạnh của mình không trong sạch
và khi thọ lại không lo quán tưởng”.
Nơi đây tôi xin nhắc lại lời nói của ông sa-di
Bhāgineyyasangherakkhita: Upajjhāyo mambhunjamānaṃ
sālikuraṃ sambhutaṃ. Sabba savaparikkhīno natthidāni
punabbhavo.
Nghĩa là: Tôi đang ăn cơm với các bạn rất ngon, rất thỏa
thích, thầy tế độ tôi mới kêu tôi mà dạy rằng: “Nầy
sa-di, người không nên tự đốt cháy lưỡi ngươi vì không
quán tưởng”. Tôi nghe lời ấy lấy làm kinh sợ, tôi đắc
A-la-hán quả khi còn đang ngồi chỗ ấy (nhờ sự kinh sợ
và lo quán tưởng, nên đắc được quả ngay khi ấy). Tôi
suy nghĩ rốt ráo, sáng rỡ như trăng trong ngày rằm; tôi
đã hết phiền não, sẽ không còn tái sanh nữa.
Vì vậy nên có câu kệ:
“- Tasmā annopi dukkhassa
Patthayanto parikkhāraṃ
Yoniso paccavekkhitvā
Paṭisevethapaccave”.
Nghĩa là: Bởi vậy, các bậc hành giả muốn đi đến nơi dứt
khổ, phải biết quán tưởng tứ vật dụng trước rồi hãy thọ
dụng sau.
(Trên đây chỉ nói tóm tắt, không thể giải đầy đủ hơn vì
ngoài phạm vi của quyển sách nầy. Vậy độc giả nào muốn
tìm sâu, hiểu rộng, xin xem Luật xuất gia của ngài Hộ
Tông. Nhứt là nên học cho biết rõ về tà mạng của thầy
tỳ-khưu, hầu để biết rõ hành động của người thay thế đức
Từ Phụ trong hiện tại và tương lai).
HẠNH PHÚC X
Subhāsitā ca yāvācā: Người nói lời ngay thật
(Chân thật)
Phạn ngữ Subhāsitā thật là khó dịch cho đúng
nghĩa với Việt ngữ. Vì tiếng Subhāsitā có nhiều ý
nghĩa như sau đây: Lời nói ra không hại người và cũng
không hại mình, lời nói đem lợi ích cho người và
cho mình, lời nói ấy không làm cho người nghe bị khó
chịu (ý nói là lời dịu ngọt và hợp thời). Thiết
tưởng có thể tạm dùng tiếng “Cam ngôn mỹ từ”[36]
để dịch tiếng Phạn ấy.
Đức Thế Tôn có dạy trong bài kinh Subhāsitā với ý rằng:
Nầy các thầy tỳ-khưu! Lời nói nào có đủ bốn chi pháp,
lời nói ấy mới gọi là lời subhāsitā; lời nói như
vậy không có một ai chê được, không có tội lỗi.
Lời nói có đủ bốn chi pháp, ấy là:
1- Nên nói lời chân thật (subhāsitā), không nói
lời ác khẩu hay giả dối (dubhāsitā).
2- Nên nói pháp, không nên nói ngoài pháp.
3- Nói những lời mà người ưa thích, yêu mến, không nên
nói lời mà người ta ghét bỏ.
4- Nói lời thành thật, không nói lời hoang đàng.
Thầy tỳ-khưu nói đúng theo bốn chi pháp trên, mới gọi là
subhāsitā.
Tương tợ như thế, theo lời giải Ṭīkā của
Saccakammadvārakathā thì người nói đúng bốn chi pháp sau
đây mới gọi là subhāsitā:
1. Không nói đâm thọc
2. Không nói chuyện hoang đàng.
3. Không nói lời hung ác.
4. Không nói dối.
Khi giảng về subhāsitā đức Phật có dạy: Người
hằng nói dối, nói vu vơ, nói hung ác, sẽ bị sanh vào bốn
đường đau khổ - vì đó không phải là subhāsitā.
Lời chú giải Atthasālinī nói về khẩu nghiệp có dạy thầy
tỳ-khưu nói lời subhāsitā, không nói lời đê tiện;
mà nói lời vô tội, nói lời mà các bậc tri thức ngợi
khen.
Để ta nhận thức khái quát toàn bộ ngữ nghĩa thế nào là
lời nói subhāsitā, đức Phật có dạy trong
Subhāsitāsutta rằng: Nầy các thầy tỳ-khưu! Lời nói nào
có đủ năm chi pháp thì được gọi là lời nói subhāsitā.
Năm chi ấy là gì? Năm chi ấy là:
1. Nói hợp
thời.
2. Nói chân thật.
3. Nói lời dịu
ngọt
4. Nói lời có ích.
5. Nói lời có năng lượng từ bi.
Thiết tưởng cần giảng giải năm chi pháp kể trên cho rõ,
như sau đây:
I. Kālena ca bhāsitā hoti:
Lời nói hợp thời. Người ở đời muốn nói một chuyện gì cần
phải xem coi cảnh ngộ có thuận tiện cho mình nói hay
không. Lắm khi nói sự thật mà sai thời (không đúng
thời) sẽ có hại đến cho mình - như tích của con rùa
và hai con hạc kể sau đây:
“- Xưa kia có con rùa ở một cái ao trong rừng gần thành
Bārāṇasī. Mỗi ngày có một cặp hạc thường đến ao kiếm ăn.
Rùa và hạc lâu ngày làm quen nhau và trở nên bạn thân.
Rùa mới hỏi thăm chỗ ở của hạc, biết hạc ở trên rừng,
tại Hy-mã-lạp sơn. Rùa muốn viếng thăm xứ bạn mà ngại
đường xa, mới nghĩ ra một kế đem ra bàn với cặp hạc. Cặp
hạc ngậm hai đầu của một khúc cây để rùa ngậm ở giữa,
cặp hạc bay đi thì mang rùa đi. Cặp hạc bằng lòng và căn
dặn rằng: “Khi nghe thấy gì lạ, anh cũng chẳng nên nói,
hỏi chi cả”. Rùa đồng ý. Nhưng khi hạc bay ngang qua
thành Bārāṇasī, trẻ con thấy lạ mới la lên rằng: “Coi
con rùa biết bay”. Rùa ta quyết cải chánh rằng nó được
hai bạn khiêng, chớ có bay được đâu; nhưng vừa hé miệng,
nó liền té rơi xuống đất, chết ngay trước mặt nhà vua và
vị quân sư”.
Vị quân sư thừa dịp, tay chỉ con rùa, kể lại vụ việc rồi
nói với vua rằng: “Người nói không tùy thời thì
thường bị tai hại như vậy đó”.
Sau khi nhắc sự tích nầy xong, đức Thế Tôn mới giáo giới
rằng: Vị quân sư ấy là tiền thân của ngài, tùy phương
tiện nhắc nhở nhà vua hãy nói cho hợp thời.
Chúng ta nên xem gương nầy mà răn mình. Đừng nói những
việc không nên nói, hãy nín thinh trong trường hợp nên
nín thinh, dầu biết rằng, điều mình sắp nói ra là đúng.
Cho dù mình nói hơn người, nói đúng sự thật mà không hợp
thời thì lời nói ấy cũng trở thành vô ích. Như chúng ta
thấy rùa nói sự thật nhưng không hợp thời nên bị hại.
Tôi còn nhớ câu phương ngôn Bắc phạn dạy: “Câm đi còn
hơn là nói không hợp thời”.
II. Sacca ca bhāsitā hoti:
Lời nói chân thật. Lời nói chân thật tuy rất nhiều,
nhưng gom lại, chỉ có hai. Một là ta làm điều nào, nói
điều ấy, không ngại rằng, lời nói thật ấy có thể tai hại
đến ta, vậy là ta đã không nói dối. Hai, nói lời chân
thật còn có nghĩa là nói pháp Tứ diệu đế.
Đức Thế Tôn có dạy: Có một sự thật ở đời mà không mấy
ai nhận thấy, đấy là: Đời đầy đau khổ, nào già, nào
bệnh, nào chết; chúng sanh ở trong những cảnh già, bệnh
và chết mà không nhận ra rằng mình sẽ già, sẽ bệnh, sẽ
chết; trái lại cứ tìm phương thế che đậy cái già, tưởng
mình sẽ không bệnh, không chết để sống đời dễ duôi, xem
thường, phóng túng trong lạc thú ngũ dục - để tử thần và
trầm luân đau khổ lôi kéo vào tứ ác đạo.
Chúng sanh chìm đắm trong khổ não mà đa số không nhận
chân ra sự thật - đúng như lời dạy của đức Thế Tôn.
Đức Phật thuyết tất cả 8 vạn bốn ngàn pháp môn
[37],
toàn là lời chân thật, tức là chân lý; cho đến ngày nay
vẫn còn giá trị nguyên vẹn; và đã có rất nhiều các bậc
học thức uyên thâm quan tâm khảo cứu để học hỏi và thực
hành theo - quả đúng như đức Thế Tôn đã dạy: “Saccaṃ
va amattavācā: Lời nói chân thật là lời nói bất diệt”.
III. Saṇha ca vācā:
Lời nói dịu ngọt. Lời nói dịu ngọt là lời nói không thô
lỗ, cộc cằn, không làm cho người nghe xốn tai, khó chịu.
Có hạng người nham hiểm, tuy họ không mắng chửi, không
nói lời cộc cằn, thô lỗ mà lại nói lời rất dịu dàng,
nghe như mật ngọt - mà ý nghĩa lại mỉa mai, cay độc làm
nhức óc người nghe - lời nói như thế ấy không được gọi
là lời nói dịu ngọt. Bao giờ lời nói dịu ngọt, êm ái, mà
ý nghĩa lời nói không làm cho người nghe phải khó chịu,
khổ đau - lời nói ấy mới đúng là nội dung của Saṇha
ca vācā.
Trên đời này không ai ưa nghe lời thô bỉ, chẳng ai ưa bị
mắng nhiếc và bị chọc tức. Lời nói thô bỉ, mắng nhiếc sẽ
có ảnh hưởng tai hại đến người nói - như tích dưới đây:
“- Tại xứ Takkasilā, một thầy bà-la-môn có một con bò
đực tên Nandavivāla, thầy thương như con. Bò lớn lên,
cảm mến ơn đức của thầy bà-la-môn, muốn đáp nghĩa nên
mới nói rằng: “Chủ nhân hãy đi đánh cá với một ông
trưởng giả giàu có, như vầy: Bò tôi có thể kéo một trăm
cỗ xe chở đầy đồ. Vậy tôi đánh cá với ông”. Thầy
bà-la-môn y lời và có một ông trưởng giả kia ưng thuận
đánh cá với số tiền là một ngàn đồng tiền vàng! Bắt ách
con bò xong, thầy bà-la-môn mới hét to lên: “Con bò chết
bầm, hãy kéo đi”. Bò Nandavivāla nghe lời nguyền rủa thô
bỉ ấy cảm thấy khó chịu, bất mãn, không chịu kéo xe để
ông chủ thua cá độ cho bõ tức! Thầy bà-la-môn thua cuộc,
về nhà buồn rầu, xót của, khuôn mặt dàu dàu! Con bò thấy
thế mới hỏi: “Tôi muốn trả ơn nghĩa cho chủ - mà tại sao
chủ lại nguyền rủa tôi là đồ chết bầm!” Thầy bà-la-môn
biết mình sai nên mở lời xin lỗi. Bò lại hiến kế: “Thôi,
bây giờ chủ hãy cá gấp đôi, nhưng đừng dùng lời thô bỉ
với tôi nữa”. Thầy bà-la-môn y lời. Bắt ách xong, thầy
vuốt ve bò Nandavivāla và nói rằng: “Con ơi, con ráng
kéo xe cho cha, không thì khổ cho cha lắm”. Bò nghe lời
dịu ngọt như thế, phấn khởi trong lòng kéo trăm cỗ xe đi
dễ dàng. Thầy bà-la- môn thắng cuộc, lấy lại cả vốn lẫn
lời”.
Đức Thế Tôn nhắc xong tích nầy rồi cho biết bò
Nandivivāla là tiền thân của ngài. Rồi ngài nói với đại
ý là những lời nhiếc mắng, chửi rủa, nhục mạ, thô bỉ thì
không một ai ưa thích. Rồi ngài đọc lên một câu kệ ngôn
với nghĩa là: “Bao giờ ta cũng nên nói lời cho người
khác vừa lòng, không nên nói lời làm Phật lòng thiên hạ.
Khi thầy bà-la-môn nói dịu ngọt vừa lòng con bò
Nandavivāla, nó liền kéo nổi xe nặng giúp thầy thắng cá
độ”.
Như vậy, loài thú, nó còn không ưa thích lời thô bỉ cộc
cằn thay; vậy ta không nên dùng lời thô bỉ với bất cứ
ai, ta nên dùng lời dịu ngọt. Lắm lúc có người sẵn sàng
giúp ích cho ta mà khi nghe ta nói lời không vừa lòng
họ, họ liền đổi ý, từ chối hẳn.
IV. Atthasaṇhitā ca bhāsitā hoti:
Lời nói lợi ích.
Lời nói lợi ích trái với lời nói vô ích. Lời nói vô ích
chỉ làm mất thời giờ mà không lợi lộc cho ai, còn lời
nói lợi ích là lời nói đem lại sự an vui cho người trong
hiện tại và vị lai, mà không hại kẻ khác, không hại
mình.
V. Mettācittena ca bhāsitā hoti:
Lời nói có năng lượng của tâm từ.
Lời nói có năng lượng từ tâm là lời nói dịu dàng, mát
mẻ, đã không ngụ ý biếm nhẻ, xuyên tạc lại còn thể hiện
được tấm lòng không thù nghịch, oán ghét, cũng không vì
tư lợi.
Vậy tiếng subhāsitā phải có đủ năm chi pháp như
vừa giải ở trên mới là chân thật nghĩa. Lời nói thiếu
một chi nào trong năm chi ấy không được gọi là lời
subhāsitā.
Muốn cho dễ nhớ tôi xin tóm lược dưới đây:
1. Đúng thời, đúng lúc: Kāla - thời; sacca - chân thật.
2. Lời nói, phải: Saṇha - dịu ngọt;
atthasaṇhitā - có lợi ích.
3. Tác ý lành: Mettā - tâm từ; karuṇā - tâm bi (Cả hai
tâm này đều mát mẻ, không hận, không sân).
Vậy là lời nói ngay thật phải có đủ tác ý lành, nội dung
nói lành, hợp hoàn cảnh, còn phải vừa với trình độ và
tâm lý của người nghe. Tuy nhiên, đôi lúc, lời nói có
tác ý lành, có nội dung lành và hợp hoàn cảnh, đã không
vừa lòng với người nghe, mà còn có thể bị hiểu lầm, bị
xuyên tạc và có thể gây oán chuốc hờn - thì đây đúng là
do oan cừu nghiệp báo đã có sẵn từ trước mà thôi!
Vậy chúng ta là Phật tử chân chánh nên học theo năm điều
đức Phật dạy để tránh oan trái oán thù, mặc dầu không
hoàn toàn tránh khỏi hết được, nhưng cũng giảm đi rất
nhiều. Lời nói thuộc về khẩu nghiệp. Khẩu nghiệp ấy cũng
do nơi tác ý, vậy trước khi nói ta nên để ý đến sự khởi
tâm của ta đã, nó tốt hay xấu, lợi hay hại - có đủ 5 chi
phần như trên hay không.
+ Lời chân thật đem đến cho ta những hạnh phúc là:
1. Lời nói chân thật thuộc về thập thiện, nguyên nhân
sanh phước.
2. Lời nói chân thật là đại phúc khiến con người được an
vui trong kiếp nầy và vị lai.
3. Lời nói chân thật sẽ đem đến lợi lộc, quyền chức,
giàu sang, quyến thuộc và bạn lành.
4. Lời nói chân thật làm cho người gần gũi bên ta, thân
cận với ta đều tin tưởng nơi ta.
5. Lời nói chân thật làm cho người hạnh phúc từ bậc thấp
là người, trời đến bậc cao là Niết-bàn.
6. Lời nói chân thật đem lại cho người tất cả các sự
hạnh phúc mà người ước mong.
7. Người hành theo lời chân thật là người đi theo đường
của chư Phật.
[1] 6 điều nên tôn kính: 1- Tôn kính bậc đạo
sư (satthugāravatā). 2- Tôn kính Pháp
(dhammagāravatā). 3- Tôn kính Tăng
(saṅghagāravatā). 4- Tôn kính điều học
(sikkhagāravatā). 5- Tôn kính sự bất phóng dật
(appamādagāravatā). 6- Tôn kính sự tiếp đãi -
pháp - (paṭisanthāgāravatā).
[2] Thất bửu: Tín (saddhā), giới (sīla), tàm
(hiri), quý (ottappa), đa văn (bāhusacca), thí
(cāga), tuệ (paññā).
[3] 10 pháp nương tựa: Giới (sīla), đa văn
(bāhusacca), có bạn lành (kalyāṇamittatā), thiện
xảo trong mọi phận sự (kiṅkaraṇīyesudakkhatā),
dễ dạy (sovacassatā), tầm cầu pháp
(dhammakāmatā), tinh cần (viriyarambha), tri
túc (santuṭṭhī), niệm (sati), tuệ (paññā).
[4] Theo Pháp số thì 3 điều này là: Thành
tựu pháp học ( Pariyattisaddhamma), thành tựu
pháp hành (Paṭipattisaddhamma) và thành tựu pháp
thành (Paṭivedhasaddhamma).
[5] Tức là 5 điều kiện để trở thành bậc Đa
văn.
[6] Ghi nhớ điều đã nghe, đã học.
[8] Suy tư điều đã nghe, đã học.
[9] Khéo thể nhập tri kiến
[10] Đây là thế gian trí.
[11] Còn gọi là 4 pháp tiến hóa (
Vuḍḍhidhamma) hay là 4 pháp làm cho tăng trưởng
trí tuệ (Paññāvuḍḍhi): Một, gần gũi bậc thiện
trí (Sappurisasamseva); Hai, nghe pháp bậc thiện
trí (Sadhammassavana); Ba, khéo như lý tác ý
(Yonisomanasikāra); Bốn, hành theo pháp thuận
thứ (Dhammānudhammapatipatti).
[12] Sippa: Dịch là nghề, nghề nghiệp - nhưng
ở đây còn có nghĩa là tinh, khéo, giỏi nên tự
điển ghi là nghệ thuật, mỹ thuật.
[13] Thật ra là chánh mạng (Nuôi mạng
chơn chánh), còn chánh nghiệp là ba nghiệp thân
khẩu ý phải trọn lành - chỉ thập thiện nghiệp!
Sở dĩ phải giải thích như thế là vì tác giả hay
lẫn lộn chánh nghiệp và chánh mạng!
[14] Thật ra, câu kệ này còn có nghĩa: Nghề
gì cũng được, miễn là khéo giỏi, thiện xảo; ví
như cái tài búng phẩn dê mà cũng được đức vua
cho hưởng phước quả 4 làng!
[15] Chỗ này có ghi tên kinh, xuất xứ nhưng
Pāḷi sai lẫn quá nhiều, đọc không ra, nên tôi
lược bỏ!
[16] Là nghề hoàn hảo, khéo, giỏi.
[17] Không rõ là 3 điều lợi ích gì. Có thể
là 3 lợi ích: Hiện tại, đời này
(diṭṭhadhammikattha); tương lai, đời sau
(samparāyikittha); chân đế, tối cao - hàm chỉ
Niết-bàn (paramattha). Có thể là 3 lợi ích khác:
Tự lợi (attattha), lợi tha (parattha) và lợi cả
hai (ubhayattha).
[18] Thông hiểu nhiều loại ngôn ngữ, thổ ngữ.
[19] Thỏa thích về pháp, về giáo lý.
[21] Dĩ nhiên, phải là nghề tinh, khéo, giỏi
và nhất là phải chánh mạng (Tránh 5 nghề: Sát
sanh, hại vật; buôn bán rượu và các chất say;
buôn bán người và trẻ em; buôn bán vũ khí; buôn
bán độc dược).
[22] Phải hiểu là luật pháp, hiến pháp thế
gian.
[23] Đây là chi pháp mà các vị luật sư, kết
tập sư đúc kết, phân tích về sau - chứ thật ra,
lúc khởi tâm giết là đã tạo tác ý nghiệp sát
sanh rồi; nhưng nếu đầy đủ cả 5 chi phần thì tội
sát hại mới lập thành, mới có tội chứng. Vậy,
thiếu một chi, hai chi trong 5 chi phần - ví dụ
có khởi tâm nhưng chưa giết, tuy đã tạo ý nghiệp
nhưng đối tượng chưa bị hại - thì gọi là giới ấy
bị khuyết, bị thủng, bị vá, bị rổ...
[24] Ghi chú thêm để tiện nghiên cứu, so
sánh: Kāma: ham thích, thỏa thích các đối tượng
ngũ trần. Chanda: Ước muốn thuần túy như đói
muốn ăn, khát muốn uống- chỉ là nhu cầu bình
thường của cơ thể, không có tội. Taṇhā: Dục ái,
khát ái (Chung với mọi loại ái). Rāga: Ham muốn
tình dục, mê đắm tình dục.
[25] Chanda là muốn, ước muốn; vāsinī là đang
ở một nơi, cư ngụ một nơi. Có lẽ pháp sư chỉ nói
tóm tắt nên từ Pāḷi không rõ nghĩa - và rất
nhiều nơi khác cũng y như thế.
[26] Tương tợ như trên. Bhoga là vật sở hữu;
vasī là sự cai quản, có quyền hành.
[27] Tương tợ như trên. Paṭa là y phục; vasī
(như trên). Cụm từ này có lẽ có nghĩa là, người
phụ nữ thuận làm vợ, khi được người ta sắm sanh
cho nữ trang và y phục.
[28] Cụm từ này cũng vậy. Odapatta là đặt tay
vào chậu nước (bát); còn kini phát xuất từ động
từ kināti nghĩa là mua.
[29] Có một từ khác, có độc tính cao hơn, ấy
là hận (Paṭigha).
[30] Có một dị bản hơi khác một chút nhưng
khá quan trọng: Là vị tỳ-khưu ấy biết tội nên đã
đi tìm một vị tỳ-khưu khác để sám hối, nhưng
tiếc thay, vào mùa mưa lũ, cả vùng ấy không có
vị tỳ-khưu nào - nên vị ấy sinh ra bất an nghĩ
mình đã phạm tội. Chính cái tâm bất an, nóng
nảy, nghĩ mình có tội ấy mà vị ấy lâm chung,
thác sanh làm Long vương!
[31] Chỗ này, pháp sư ghi là điều răn, tôi
nhuận lại, vì đạo Phật không có điều răn như các
tôn giáo hữu thần hoặc mặc khải - mà chỉ có
giới điều, giới luật, điều học... bài học để
giác ngộ.
[32] Chưa tìm ra câu chuyện gốc - vì sợi dây
đã bị bứt lìa để cột trói thì không được xem là
còn sự sống nữa!
[33] Loka là thế gian, Lokanātha là chủ thế
gian, chúa thế giới - nhưng không nên dịch là
Đấng Cứu Thế (sợ hiểu lầm như tôn giáo hữu thần
- như Đấng Cứu Thế của Ky Tô giáo) mà chỉ nên
diễn ý là Bậc Thầy Thế Gian, Điều Ngự Thế Gian -
nó ổn hơn - vì mỗi tôn giáo đều có thuật ngữ
riêng, tôn danh riêng để chỉ vị Giáo chủ của
mình.
[34] Tức là khổ tâm không ngưng nghỉ.
[35] Từ điều 7 đến 14 - do sợ mọi người hiểu
lầm “tại sao tu hành mà ích kỷ thế”nên tôi phải
có đôi lời giả thích: Thời Phật tại thế, có vị
tỳ-khưu lấy vật dụng của Tam Bảo đem cho người
này người kia để lấy lòng, có mưu đồ như “thả
tép câu tôm”. Tăng chúng phàn nàn. Đức Phật phải
cấm chế giới này, đại khái, tứ sự phát sanh đến
Tam Bảo phải là của Tam Bảo - nếu đem cho kẻ thế
bất cứ vật gì, dù là que tăm, cọng cỏ cũng phải
được sự đồng ý của Tăng, do Tăng quyết định.
[36] Cam ngôn: Lời nói ngọt, bùi tai, êm tai.
Mỹ từ: Dùng tiếng đẹp, tốt (Có lẽ tác giả muốn
diễn đạt cách nói khác của ái ngữ hoặc lời nói
thiện, mỹ).
[37] Đây là cách nói khái quát của các hệ
kinh văn phát triển đã trở thành phổ biến. Thật
ra, theo Theravāda, không có 84 ngàn pháp môn -
mà là có 84 ngàn chi pháp: Abhidhamma có 42 ngàn
chi pháp, Kinh có 21 ngàn chi pháp và Luật có 21
ngàn chi pháp.
(Tiếp theo)
|