Trung Tâm Hộ Tông Trang Chủ


Chánh Kiến Và Nghiệp

Tác giả: Ledi Sayadaw
và nhiều Tác giả khác

Dịch giả: Pháp Thông


CHƯƠNG V:

NGHIỆP VÀ QUẢ

MỘT SỐ GIẢI THÍCH VỀ NGHIỆP - Ashin Janakabhivamsa

Nghiệp Là Gì?

Nghiệp có nghĩa là việc làm hay hành động. Nghiệp có ba loại: thân nghiệp, khẩu nghiệp, và ý nghiệp. Bất cứ hành động nào bạn làm bằng chân hoặc tay là thân nghiệp. Chẳng hạn giết một chúng sinh, hoặc bố thí,v.v… Khẩu nghiệp là lời nói bạn thốt ra. Những lối sai khiến như “Hãy giết con vật đó” hoặc “Hãy để bát cho vị sư đó”, được xem là khẩu nghiệp. Các hình thức khác như hô hào, nói dối, thuyết pháp, đều nằm trong phạm trù này. Ý nghiệp là những ý nghĩ nảy sanh trong tâm bạn, nhưng thiếu thân hành hoặc khẩu hành. Những suy nghĩ xấu ác như là “Ồ, ước gì những tài sản của nó thuộc về ta nhỉ!” là ý nghiệp. Lòng trắc ẩn, bi mẫn, hoan hỷ, hành thiền cũng là những hình thức khác của ý nghiệp.

Ai Chịu Trách Nhiệm?

Ba hình thức của nghiệp - thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp - không tự động xảy ra được. Chẳng hạn, trong hành vi giết người, tay nắm lấy con dao, bắt buộc phải có một lực đẩy để con dao cắm vào nạn nhân. Cũng cái lực đẩy ấy làm bạn thốt ra lời nói. Trong lúc bạn đang ngủ, không có ý nghiệp nào nảy sinh mặc dù rất nhiều đơn vị tâm xuất hiện. Bởi thế, chúng ta đi đến kết luận rằng phải có một lực, lực này khác với tâm căn bản (tâm hữu phần cơ bản duy trì kiếp sống), và lực này là cái phải chịu trách nhiệm cho ba hành động kể trên. Tựa như trong mọi tội ác luôn phải có một thủ phạm, ở đây cũng vậy, phải có một thế lực hay một lực thúc đẩy ba hình thức của nghiệp.

Cetanā Là Kẻ Phải Chịu Trách Nhiệm,

Cetanā Là Nghiệp

Kẻ thúc đẩy ba hành nghiệp chính là tư tâm sở cetanā-cetasika, một tâm sở nảy sanh trong tâm của mọi người. Tư tâm sở này được xem là tâm sở bận rộn và năng động nhất trong tất cả các tâm sở (cetasikas). Vì cetanā thúc đẩy bạn thực hiện một hành động, vì cetanā trách nhiệm cho sự hoàn thành của mọi hành nghiệp, nên cetanā được gọi là nghiệp (kamma).

Thức (viññāna) Không Dễ Nhận Ra

Qua kinh nghiệm thực tiễn bạn thấy rằng một số tâm (cittas) và tâm sở (cetasikas) rất dễ nhận thấy, trong khi số khác lại không. Một số tâm (cittas) không hiển lộ ra trong lúc bạn đang ngủ mặc dù dòng tâm thức vẫn diễn tiến. Khi bạn thức cũng vậy, chẳng hạn khi bạn thấy, nghe, ngửi, hoặc xúc chạm một cách lơ đãng, nhãn thức, nhĩ thức, tâm v.v… sanh lên không dễ gì thấy rõ; khi bạn suy nghĩ về điều này điều nọ một cách đãng trí cũng vậy, các trần cảnh đi vào tâm bạn chỉ có tích cách vô tình. Chính do sự thúc đẩy của tư (cetanā) thiện hoặc tư bất thiện, mà những thân nghiệp và khẩu nghiệp xảy ra, nhưng khi xung lực (lực đẩy) của mỗi cetanā đi kèm với tâm thức sanh khởi yếu ớt thì không đưa đến hành động (nghiệp). Những cetanā (tư tâm sở) không có một lực đẩy hay tốc hành tâm (jāvana) để hoàn thành những hành động như vậy xảy ra nhiều nhất trong đời sống hàng ngày của chúng ta.

Tư Bất Thiện (Akusala Cetanā) Nổi Bật

Khi bạn có một ý chí mãnh liệt, chẳng hạn muốn giết một người nào đó, tốc hành tâm sân (dosa javana citta)cetanā (tư bất thiện) cũng trở nên rất mạnh và tràn ngập tâm bạn. Ý nghĩ của bạn lúc đó bận rộn với những toan tính để thực hiện việc sát nhân. Cũng vậy, nếu bạn bị những ý nghĩ xấu xa về nhục dục áp đảo, bạn sẽ phát triển lòng tham hay dục vọng mãnh liệt trong tâm, và thân của bạn cũng trở nên kích thích và hoạt bát hẳn lên, vào những lúc như vậy, nếu hành động, lời nói, và ý nghĩ đều nhằm vào những việc làm xấu ác, thì tư bất thiện bên trong bạn cũng cực kỳ ác. Những tư hay ý chí ác này là những xung lực rất năng động được gọi là akusala-javana-cetanās- tức những ‘tư thúc đẩy tốc hành tâm bất thiện’, và nếu quan sát một cách cẩn thận ta sẽ thấy nó nổi bật và dễ dàng nhận ra so với khuynh hướng tư duy bình thường.

Cetanā Thiện Nổi Bật

Những ý chí có tính đạo đức và thiện được gọi là những tư thiện (kusala-cetanās), những tư thiện này rất tích cực lúc bạn đang hành pháp bố thí (dāna), giữ giới, săn sóc người già yếu, thảo luận pháp (dhamma), hành thiền, và tránh những hành động vô đạo đức. Cetanā thúc đẩy tốc hành tâm thiện (kusala javana cetanā) này rất mạnh mẽ và năng động, và vì thế những hành động, lời nói, và ý nghĩ của bạn cũng trở nên tích cực và năng động y như vậy.

Hậu Quả Có Khả Năng Kéo Dài Của Nghiệp Trên Dòng Tương Tục Danh Sắc (Ngũ Uẫn)

Những xung lực hay cetanā thúc đẩy các tốc hành tâm thiện (kusala javana cetanā) và tư thúc đẩy các tốc hành bất thiện (akusala javana cetanā) này được gọi chung là nghiệp (kamma), chúng xuất hiện và rồi biến mất, song sức mạnh cùng với ảnh hưởng và những thuộc tính của chúng không biến mất, mà còn lại như thể đã được chôn sâu trong dòng tương tục của ngũ uẩn để tạo ra những quả báo hiện thời hay mai sau. Trong dòng tương tục của ngũ uẩn, vô số các đơn vị tâm cứ sanh và diệt không ngừng. Từ dòng tương tục ấy, các tâm (citta) hoặc tư (cetanās) yếu ớt, không lộ rõ, sẽ không để lại một ấn tượng nào cả trong khi khi các tư (cetanās) mạnh mẽ, nổi bật để lại tiềm lực của chúng trong dòng tương tục. Tỷ như con cháu của những gia đình dân giả không cảm giác được những ảnh hưởng lâu dài của cha mẹ chúng sau khi họ qua đời; ngược lại con cháu của những danh gia vọng tộc tất nhiên sẽ cảm nhận được. Khi các bậc cha mẹ có danh tiếng và được tôn trọng qua đời, con cháu họ vẫn cảm nhận được thế lực mạnh mẽ của cha mẹ.

Nghiệp Lực Tiếp Tục Trong Dòng Tương Tục của Ngũ Uẩn

Trong thế giới thực vật, chúng ta quan sát thấy rằng hạt giống của những cây ăn trái có sức mạnh di truyền để cho ra hoa và trái cùng chủng loại. Gien cho trái này có mặt trong từng giai đoạn của các loài ấy, nghĩa là, nó có mặt trong những giai đoạn còn là cây con, cây đã lớn, trái và hạt giống. Mặc dù chúng ta không thể mô tả sức mạnh di truyền này, chúng ta vẫn chắc chắn về sự có mặt của nó. Tương tự, trong dòng tương tục của ngũ uẩn, danh (nāma) và sắc (rūpa) nối tiếp nhau sanh và diệt không ngừng cho đến thời điểm xuất hiện của tâm tử (tâm chấm dứt kiếp sống hiện tại). Sức mạnh của nghiệp hay nghiệp lực lúc nào cũng bám sát theo chúng ta cho đến lúc chết. Ngay cả khi chết, nghiệp lực này vẫn còn tiếp tục ảnh hưởng trên kiếp sống kế. Những năng lực ngủ ngầm này đi vào đời sống mới bắt đầu với sát na thụ thai, và cứ như vậy hết kiếp này sang kiếp khác. (Ở đây chỉ đề cập đến năng lực của nghiệp chính xác theo nghĩa những lực năng động của các hành động quá khứ, chứ không nói đến những gì thuộc về vật chất).

Người Tác Nghiệp Chịu Hậu Quả Trực Tiếp

Như chúng ta đã thấy, các chúng sinh cứ luân chuyển (tái sinh) mãi trong những kiếp sống mới, hết kiếp này tới kiếp khác. Bởi lẽ những năng lực của nghiệp quá khứ được tạo tác với vô minh (avijjhā) và tham ái (tanhā) từ kiếp trước, đẩy con người vào kiếp sống kế, nên chúng sinh mới không ai khác hơn là chúng sinh cũ từ kiếp trước. Tư (cetanā) của một người trong kiếp này mặc dù diệt liền sau đó, song hậu quả hay ảnh hưởng của tư đó, theo sát dòng tiến sinh của con người cho đến khi hậu quả đó được thể hiện đầy đủ. Như vậy những quả lợi ích của thiện nghiệp đi theo một người để che chở cho họ cũng như bóng đi theo hình, và những quả báo xấu của bất thiện nghiệp cũng không ngừng theo họ như bánh xe lăn theo chân con bò, chờ cơ hội để đưa ra sự trừng phạt xứng đáng. Vì thế, chúng ta phải hiểu rằng quả báo xấu của một hành động sai lầm sẽ trực tiếp đi đến chính người tạo tác chứ không đến với ai khác. Chúng ta không thể nói, “Ta đang sống trong đời này vì thế ta cứ thọ hưởng nó, qua đời sau chúng sinh khác sẽ gánh chịu, lo gì!”. Mỗi người phải có trách nhiệm trực tiếp đối với những hành động sai lầm, với những ác nghiệp của mình. Bạn phải hiểu rằng chính bạn, chứ không phải người khác, phải gánh chịu những ác quả của hành động sai lầm bạn đã làm trong cuộc đời này.

Quả Của Nghiệp Giống Nhau

Trong các chuyện tiền thân (jatakas) chúng ta thấy hai người cùng làm một việc nào đó với nhau và như vậy hưởng cùng một quả báo như nhau trong những kiếp kế. Những người cùng làm việc từ thiện với nhau, như khi người chồng đi làm kiếm tiền còn người vợ ở nhà đi làm từ thiện hay bố thí với số tiền đó, sẽ cùng hưởng những quả lành chung với nhau. Hai người cùng làm những việc thiện với nhau có thể phát triển một sự gắn bó muốn được là bạn lành của nhau và được nghe những lời thiện ngôn của nhau: đây là ước muốn chánh đáng - sammāchanda (dục chân chánh); hoặc sự gắn bó có thể phát sinh do những tình cảm thân mật với nhau nhiều hơn: đây là một ước muốn bất thiện - taṇhā-chanda (ái dục). Hai ước muốn này có thể phát sinh cùng với tâm trước hoặc sau một việc thiện làm cùng nhau. Khi những thiện nghiệp ấy cho quả, những người này có khuynh hướng gặp lại nhau trong những kiếp sống tương lai, thọ hưởng những quả lành của việc làm quá khứ của họ để hoàn thành, hoặc ước vọng chân chánh - sammāchanda hoặc ái dục tanhā-chanda của họ. Điều này thường được gọi là “những quả nghiệp giống nhau”.

Vấn đề thọ hưởng chung những quả nghiệp này có thể thấy rõ qua những kiếp sống của các vị bồ tát (Bodhisatta) và vợ của họ. Những cặp vợ chồng như vậy đã thề nguyện với nhau để được là những cộng sự trung tín trong nỗ lực cao quý (hoàn thành Phật quả). Chẳng hạn, đức bồ tát (sau này là đức Phật Gotama) và công chúa Yasodhara (Dadudālā), trưởng lão Mahākassapa (MahaCaDiếp) và nàng Bhadda (Phát Đa), Đức vua Mahakappina và Hoàng Hậu Anoja,v.v… đã từng là vợ chồng của nhau trong vô lượng kiếp quá khứ đi tìm các pháp balamật (pāramis). Cùng với họ còn có Trưởng lão Xá Lợi Phất, Tưởng lão Mục Kiền Liên, Trưởng lão Anậulâuđà (Anurudha) và Trưởng lão Lahầula (Rahula),Ttrưởng lão ni Khêma (Khema), Uppalavanna (Liên Hoa Sắc), Gotami (Kiều đàm di) - kế mẫu cũng là Dì của Đức Phật, và Đức Vua Tịnh Phạn (Suddhodana); những người này đã từng hợp tác khắng khít với nhau trong việc thực hiện những thiện sự ở các kiếp quá khứ.

Những Người Cùng Làm Chung Ác Nghiệp

Ngược lại, cũng có những người hợp tác với nhau trong việc làm điều ác. Khi những nghiệp bất thiện được làm cùng nhau này chín muồi họ sẽ tái sinh để cùng thọ lãnh những quả báo ác. Xưa có hai vợ chồng kia bị đắm tàu và mắc kẹt trên một hòn đảo. Do đói bụng họ cùng nhau giết chim ăn thịt. Nghiệp bất thiện này đã khiến họ phải cùng chịu khổ trong địa ngục. Và vào thời Đức Phật Gotama của chúng ta, họ trở thành hoàng tử Bodhi (em của vua Utena) và công chúa vợ của hoàng tử. Vì họ đã cùng nhau giết và ăn thịt chim trong kiếp quá khứ, nên cả hai phải chịu cảnh tuyệt tự không có con cái gì cả.

Nếu người vợ hay chồng không tán thành việc giết chim, một trong hai người có thể còn được may mắn có khả năng sinh đẻ. Song vì cả hai cùng cộng tác trong hành động ác, nên cả hai phải chịu số phận không con. Những nghiệp bất thiện được làm cùng nhau sẽ tạo ra những quả ác giống nhau trong các kiếp tương lai. Trong trường hợp của hai vợ chồng trên, nếu hiểu biết, người vợ nên ngăn người chồng làm điều ác hoặc ngược lại. Bằng không, cả hai sẽ phải chịu những quả báo ác cùng nhau.

Lợi Ích Của Thiện Nghiệp Được Thọ Hưởng Chung

Những lợi ích của thiện nghiệp cùng nhau chung hưởng này có thể thấy trong những gia đình, những cộng đồng hay trong các xã hội mà những thành viên của nó đã cùng nhau thực hiện những thiện nghiệp trong quá khứ. Chẳng hạn, ở Tích Lan (Srilanka) trong thời kỳ trị vì của đức vua Bhatika, những người ăn thịt bò đều bị phạt vạ. Ai không có đủ tiền nộp phạt thì phải phục vụ như quét dọn trong hoàng cung. Trong số những người bị lao dịch đó có một cô gái xinh đẹp được đức vua đem lòng yêu mến. Vì thế cô được đặt cho tên là Sāmadevī và được giữ lại trong hoàng cung như thị nữ riêng của vua. Thân quyến của cô cũng được ân xá và được chăm sóc đặc biệt theo tiêu chuẩn hoàng gia. Có thể xem đây là trường hợp của việc chung hưởng những lợi ích do quả nghiệp thiện của một người. Tất nhiên một số người có thể quả quyết rằng những người trong nhóm đó cũng phải có những quả nghiệp thiện của riêng họ mới được hưởng như vậy. Nhưng cần phải hiểu là nghiệp quá khứ của họ chỉ có quả báo rất yếu, nếu không có quả nghiệp thiện quá khứ của Sāmadevī thì cũng sẽ không thể nào kết trái được.

Hậu Quả Gián Tiếp Của Nghiệp Bất Thiện

Đôi khi những bất thiện nghiệp trong quá khứ có thể gián tiếp đem lại ảnh hưởng xấu cho người khác. Vào thời Đức Phật Ca-Diếp (Kassapa) có một Vị Alahán đến tạm trú tại một ngôi Chùa do một vị Sư nọ Trụ trì. Người thí chủ giàu có của ngôi chùa hết lòng đến thăm viếng và cung kính vị Alahán, điều này khiến cho vị Sư Trụ trì ganh tị. Một hôm người thí chủ mời cả hai vị Trụ trì và vị Alahán đến nhà để cúng dường bữa ăn sáng, do lòng ganh ghét, vị trụ trì lén đi một mình đến nhà vị thí chủ. Ông cố tình gõ nhẹ vào quả chuông bằng đầu ngón tay của mình để không làm thức giấc vị Alahán. Thậm chí ông còn nói với vị thí chủ rằng Vị Sư khách ham ăn mê ngủ đến nỗi ông không làm sao đánh thức dậy được.

Tuy nhiên, người thí chủ đoán biết được tâm ý của vị Trụ trì và gởi ông một tô cơm mang về cho Vị Alahán. Vị Trụ trì, do lòng ghen tị, đã vứt bỏ tô cơm bên vệ đường. Ông nghĩ rằng nếu vị Sư khách nhận được tô cơm ngon lành thế này thì sẽ ở lại Chùa mình luôn mà thôi.

Nhưng vị Sư khách là một vị thánh Alahán, biết tâm ý của Vị Trụ trì nên đã dùng thần thông bay đi trước khi Vị Trụ trì về đến chùa. Khi Vị Trụ trì không tìm thấy vị Sư khách của mình đâu, lúc ấy ông mới cảm thấy hối hận, lo lắng và sầu muộn. Ông đã xử sự quá bất công với vị Sư khách do tính ích kỷ của mình. Vì bị nỗi hối hận cực độ dày vò, cả về thể xác lẫn tinh thần, chẳng bao lâu ông chết và phải tái sinh vào địa ngục. Sau khi chịu khổ trong địa ngục, ông phải tái sinh làm ngạ quỷ năm trăm kiếp, và làm chó năm trăm kiếp, trong cả ngàn kiếp sống ấy ông chẳng bao giờ có đủ vật thực để ăn.

Đến thời Đức Phật Gotama, ông được thụ thai trong lòng một người phụ nữ nghèo khổ tại một làng chài ven biển. Do ác nghiệp quá khứ của ông quá mạnh, cả ngôi làng chài này chịu cảnh nghèo đói ngày một thê lương hơn. Sau đó, ngôi làng này còn phải chịu bảy lần hỏa tai và bị nhà Vua trừng phạt bảy lần.

Cuối cùng, nhờ phương pháp chọn bằng việc loại dần, tức là cứ chia dân trong làng ra hai nhóm, nhóm nào có người xui xẻo sẽ được chia tiếp, cho tới khi người ta phát hiện ra gia đình của đứa bé chưa sinh chính là người đã đem lại mọi vận rủi và đuổi gia đình đó ra khỏi làng. Người mẹ chăm sóc đứa con được vài năm rồi cũng phải bỏ nó (vì không kiếm được miếng ăn hàng ngày do đeo mang đứa bé xui xẻo). Bà để lại cho đứa bé cái bát để ăn xin.

Năm lên bảy, trong khi đang đi ăn xin, đứa bé gặp Trưởng lão Xá-Lợi-Phất và Ngài đã cho cậu xuất gia làm Sa-di. Đúng tuổi hai mươi cậu trở thành một vị Tỳ khưu với pháp danh Losaka Tissa. Từ đó Ngài hành thiền chỉ (samatha) và thiền quán (vipassanā) một cách chuyên cần cho đến khi đắc Alahán, nhờ trong tiền kiếp làm trụ trì Ngài đã giữ giới (sīla) trong sạch.

Tuy nhiên mãnh lực của ác nghiệp quá khứ nghiệt ngã đến nỗi ngay cả khi đã là một vị Alahán, ngài vẫn phải chịu khổ. Ngài chẳng bao giờ có đủ vật thực khi đi bát. Thấy tình cảnh khốn khổ này, thầy của ngài, Trưởng lão Xá-Lợi-Phất đã cùng đi khất thực với ngài. Nhưng khi đi cùng như vậy, bản thân Ngài Xá-Lợi-Phất cũng chẳng có được vật thực, vì thế Ngài lại phải đi khất thực một mình như cũ. Thọ thực xong ngài Xá-Lợi-Phất yêu cầu các vị thí chủ gởi thức ăn đến cho Trưởng lão Losaka Tissa, nhưng người giúp việc được cử đem bát đến cho Ngài Losaka Tissa đã ăn hết thức ăn trên đường đi. Khi Ngài Xá-Lợi-Phất biết được thức ăn đã không đến tay vị sư, ngài liền nhận một bát gồm “bốn món đồ ngọt” (đó là: bơ lỏng, dầu mè, mật ong, mật mía trộn chung với nhau) nơi Đức Vua Kosala và tự tay cầm bát cho vị Alahán (Losaka) ăn vì sợ rằng cái bát sẽ biến mất (do ác nghiệp của Ngài Losaka). Ngài đã thọ dụng thật thoả mãn món ăn tứ vị trộn chung ấy và nhập vô dư Niêt Bàn (Parinibhana) ngay tại chỗ.

Ghi chú

Ở đoạn này ta thấy trong thời Đức Phật Kassapa (Ca Diếp), ác nghiệp của một người đã ảnh hưởng đến toàn thể cộng đồng khi người ấy tái sinh vào ngôi làng đánh cá. Ngay cả thầy Ông, Tôn giả Xá-Lợi-Phất cũng không có được vật thực mỗi khi đi cùng với Ông (Trưởng lão Losaka Tissa, người đã tạo tác ác nghiệp trong quá khứ). Đây là một bằng chứng cho thấy rằng quả báo của người tác nghiệp không chỉ ảnh hưởng đến bản thân họ mà còn ảnh hưởng gián tiếp đến những người ở cùng với họ trong nhiều kiếp. Bởi vậy, mọi người nên nghĩ đến sự an sinh của mình trong luân hồi, và để khỏi phải chịu những quả ác gián tiếp, hãy thận trọng tránh xa người ác ít ra cũng ở trong tâm, nếu không tránh bằng thân được, mặc dù họ có thể là quyến thuộc của mình. Chỉ khi đó chúng ta mới thoát khỏi ảnh hưởng xấu của những bất thiện nghiệp và trở thành những người có giới hạnh trong các kiếp vị lai.

Những Ảnh Hưởng Xấu Trên Người Khác

Có những trường hợp một người không may phải gánh chịu những quả báo xấu thay cho người đã tạo tác ra ác nghiệp. Trong những trường hợp như vậy người tạo nghiệp kể như thoát khỏi những tác động của ác quả nhờ một hình thức bảo vệ nào đó, nhưng một người khác rất thân thiết với họ như cha mẹ, thầy tổ, con cái, tôi tớ, đệ tử, hoặc thí chủ, sẽ phải chịu thay cho họ. Lúc đó người ta sẽ nói rằng “Kẻ xấu số ấy đã trở thành nạn nhân của nghiệp”. Người tác nghiệp thật sự, người phải chịu trách nhiệm đối với ác nghiệp, cũng sẽ cảm thấy thương hại cho kẻ xấu số mặc dù anh ta đã thoát được quả báo xấu do chính ác nghiệp mình làm. Vì thế, chúng ta có thể thấy rằng anh ta cũng đâu có hoàn toàn thoát khỏi khổ.

(Theo các nhà chiêm tinh, nếu người làm điều ác đang nằm dưới ảnh hưởng của chòm sao may mắn của họ, họ sẽ không phải chịu những quả xấu, quả này đã được chuyển hướng sang một người nào đó trong thân quyến, tôi tớ hoặc gia đình họ).

Nghiệp Đồng, Quả Dị

Trên cõi đời này có những người giới hạnh, hiền thiện, song cũng có những người độc ác xấu xa. Chúng ta hãy giả sử một người hiền thiện và một người xấu ác làm cùng một ác nghiệp nhỏ. Người hiền thiện sẽ không đến nỗi phải khổ nhiều vì thiện nghiệp của họ sẽ thủ tiêu ác nghiệp nhỏ nhoi ấy. Nhưng đối với người xấu ác, vì không có thiện nghiệp che chở, chắc chắn sẽ thọ lãnh trọn vẹn quả báo xấu đó.

Chẳng hạn vào một đêm, con trai của một nhà giàu nọ và một tên nghiện ma túy cùng đi rình để bắt trộm gà. Cậu quý tử thực sự đã trộm được con gà và tẩu thoát nhưng bị chủ nhà bắt được. Thấy cậu ấm, chủ nhà vội thả ra vì y không dám buộc tội nó là kẻ trộm, thậm chí y còn phải xin lỗi cậu ta nữa. Nhưng tên nghiện ma túy lại bị y buộc tội ăn trộm và bị bỏ tù.

Ví như bạn bỏ một nhúm muối vào sông Ayeyawady (một con sông ở Miến), vị của nước sông vẫn không thay đổi. Cũng vậy, nếu bạn phạm một ác nghiệp nhỏ trong khi đã tích lủy được nhiều thiện nghiệp, ác nghiệp nhỏ nhoi ấy sẻ không gây ra một quả báo xấu đáng kể nào. Song nếu bạn bỏ cũng nhúm muối ấy vào bình nước, nước sẻ trở nên mặn. Cũng vậy, nếu bạn chỉ tích tạo được một ít thiện nghiệp, thì một ác nghiệp nhỏ tương xứng sẻ triệt tiêu những thiện nghiệp ấy của bạn.

Thiện nghiệp (kusala kamma) và bất thiện nghiệp (akusala kamma) có thể làm mất tác dụng lẫn nhau. Một ác nghiệp nhỏ không cách nào gây trở ngại cho một khối thiện nghiệp lớn được. Song nếu bạn chỉ có một số ít thiện nghiệp, thì một ác nghiệp nhỏ cũng khiến cho thiện nghiệp của bạn thành vô hiệu lực. Vì thế có thể coi đây là bài học đạo đức cho những người người hiền thiện, hãy cố gắng làm nhiều việc thiện và tích lũy thật nhiều thiện nghiệp với hết khả năng của mình.

Lợi Điểm (Sampatti, diều kiện đầy đủ cho sự thành đạt) và Khuyết Điểm (Vipatti, điều kiện đưa đến sự khiếm khuyết bất hạnh)

Nếu những điều kiện hay trợ duyên được đầy đủ và sẵn có, thì gọi là Sampatti - lợi điểm. Khi những điều kiện hay trợ duyên không đầy đủ, gọi là Vipatti - khuyết điểm. Trong vòng tử sinh luân hồi, trải qua vô lượng kiếp sống, mỗi người chúng ta đã tạo tác rất nhiều nghiệp, đã tích lũy không biết bao nhiêu những xung lực tâm lý hay những tốc hành tâm (javana-citta) sẽ cho quả trong tương lai. Những nghiệp này không bao giờ tuyệt diệt và tàn lụi mà không cho quả. Nhưng chúng cũng phải chờ cho đến khi những điều kiện thích hợp cho sự tiến triển của chúng xuất hiện trong một đời sống tương lai nào đó. Có bốn điều kiện cho sự đầy đủ, hay còn gọi là bốn lợi điểm (Sampatti), và bốn điều kiện cho sự khiếm khuyết hay khuyết điểm (Vipatti), đối với mọi chúng sinh trong vòng tử sinh luân hồi. Trong những điều kiện thuận lợi (Sampatti) thiện nghiệp sẻ có cơ hội tạo ra quả thiện. Trong khi gặp những điều kiện khiếm khuyết (Vipatti) các bất thiện nghiệp lại đóng vai trò chủ đạo để tạo ra những quả báo xấu.

Bốn lợi điểm - Sampatti.

1. Gati-sampatti- lợi điểm sanh thú: được tái sinh trong một cảnh giới tốt.

2. Upadhi-sampatti- lợi điểm sanh y : có những nét khả ái (về hình thể)

3. Kāla-sampatti- lợi điểm thời kỳ: sinh ra trong thời kỳ thích hợp.

4. Payoga-sampatti- lợi điểm sở hành: có những phương tiện hay công cụ, có tri kiến chơn chánh và chuyên cần.

Bốn khuyết điểm - Vipatti.

1. Gati-vipatti- khuyết điểm sanh thú: tái sinh trong một khổ cảnh.

2. Upadhi-vipatti- khuyết điểm sanh y: có những nét khó ưa.

3. Kāla-vipatti- khuyết điểm thời kỳ: sinh vào thời kỳ không thích hợp.

4. Payoga-vipatti- khuyết điểm sở hành : không có những phương tiện hay công cụ, thiếu tri thức và thiếu chuyên cần.

Lợi Điểm Sanh Thú - Gati Sampatti

Các cảnh giới cao như cõi người, cõi chư thiên và cõi phạm thiên được gọi là lợi điểm sanh thú. Được tái sinh vào các cõi nầy sẻ có được những cơ hội thuận tiện cho thiện nghiệp tạo ra quả đáng mong ước. Cõi người không hoàn toàn thoát khỏi khổ, còn trong các cõi chư thiên và phạm thiên có ít sự lao nhọc hay khổ hơn. Nhưng chúng sinh của cõi lành sẽ được thọ hưởng cuộc sống tốt đẹp với những trần cảnh khả ái. Tái sinh trong một sanh thú thuận lợi như vậy, ít ra họ cũng được bảo vệ khỏi ảnh hưởng xấu của những ác nghiệp quá khứ. Nói đúng hơn, những nghiệp xấu của quá khứ sẽ không có nhiều cơ hội tạo ra quả xấu của chúng.

Cõi người mặc dù không thoát khỏi khổ vẫn được xem là sanh thú thuận lợi, vì so với bốn ác đạo ( địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, và Atula), cõi người được đầy đủ tiện nghi hơn. Cõi người còn cung cấp cơ hội cho những quả của thiện nghiệp kết trái, cơ hội để tránh những trần cảnh xấu và gặp những trần cảnh khả ái.

Khuyết Điểm Sanh Thú - Gati Vipatti

Gati vipatti nghĩa là bốn cõi khổ - địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, và Atula. Những chúng sinh trong cõi địa ngục và ngạ quỷ lúc nào cũng phải chịu đau khổ và đói khát. Vì thế họ thường xuyên phải phơi mình ra để thọ lãnh quả xấu của những ác nghiệp họ đã làm. Nói chung, đời sống của những chúng sinh địa ngục và ngạ quỷ là cơ hội thuận tiện để những ác nghiệp quá khứ của họ cho quả bất thiện. Cõi bàng sanh hay súc sanh không đến nỗi đau khổ như hai cõi địa ngục và ngạ quỷ, song phải thường xuyên phơi mưa phơi nắng và sống trong nỗi lo sợ bị săn bắn và bị các loài dã thú ăn thịt. Những cái khổ (dukkha) này cho chúng ta thấy rằng khi có cơ hội thuận tiện cho ác nghiệp trổ quả, những chúng sinh phải chịu đựng đau khổ đến thế nào. Hằng ngày những loài sâu bọ phải bị đè bẹp, dẫm đạp bởi con người và xe cộ, dù những chúng sinh này có thể đã từng làm nhiều việc thiện trong quá khứ, song những nghiệp này không có cách nào cứu được họ vì họ đang sống trong cõi khổ là Gati vipatti (khuyết điểm sanh thú), nơi mà những cơ hội được xem là thuận lợi hơn cho ác nghiệp quá khứ của họ trổ quả.

Lợi Điểm Sanh Y - Upadhi-sampatti

Đối với những chúng sinh có được sanh thú thuận lợi (gati-sampatti), đặc biệt là cõi người, vấn đề quan trọng là họ cũng phải có được sanh y thuận lợi (upadhi sampatti), tức phải có những nét đáng ưa hoặc cá tính tốt đẹp. Nếu một người có được lợi điểm sanh y, dù cho phải tái sinh trong giai cấp thấp hèn hoặc trong gia đình nghèo khó, họ cũng sẽ nhận được sự giúp đỡ từ người khác và đạt được thành công trong cuộc đời. Những thiện nghiệp quá khứ của họ sẽ có cơ hội cho quả. Thực vậy một dáng vẻ bề ngoài khả ái là một tài sản to lớn. Cô thiếu nữ nghèo Samadevī kể trên trở thành thị nữ của một vị vua cũng là nhờ sanh y thuận lợi của cô ta, hoặc bà Simson đã chiếm được trái tim vua Edward đệ VIII nhờ nhan sắc của mình.

Nói gì đến con người, một số chúng sinh trong gati vipatti (khuyết điểm sanh thú) như những con thú kia còn nhận được sự bảo vệ, thực phẩm và chuồng trại đàng hoàng nếu chúng xinh đẹp. Chúng ta thấy những con chim xinh đẹp, những con chó dễ thương hay những con cá màu sắc sặc sỡ được những người giàu có nuôi giữ như những con vật cưng trong nhà. Như vậy, có diện mạo xinh đẹp và những nét khả ái, tức có Upadhi-sampatti, rất là quan trọng và lợi ích.

Khuyết Điểm Sanh Y - Upadhi-Vipatti

Những con vật xấu xí, những con thú tật nguyền, v.v… phải chịu cả khuyết điểm sanh thú lẫn khuyết điểm sanh y. Không có cơ hội cho những thiện nghiệp quá khứ của chúng trổ quả trong những điều kiện như vậy. Con người, dù sinh ra trong sanh thú thuận lợi, nhưng nếu xấu xí hoặc dị dạng cũng không thể thọ hưởng trọn vẹn những quả báo của thiện nghiệp. Ngay cả những người thuộc tầng lớp thượng lưu cũng vậy, nếu như họ xấu xí cũng khó chiếm được tình cảm của người khác. Chẳng hạn công chúa Pabhavati, rất xinh đẹp, đã từ chối nhìn mặt hoặc nói chuyện với Đức Vua Kusa (tiền thân của Đức Phật), kiếp đó rất xấu xí. Sanh y khuyết điểm còn lót đường cho nghiệp xấu trổ quả, Vua Kusa xấu xí phải làm việc như một anh đầu bếp, một người thợ đồ gốm, và một người đan chiếu để mong chiếm được lòng thương cảm và tình yêu của nàng công chúa xinh đẹp. Nếu một cặp vợ chồng mà người vợ hoặc chồng xấu xí, họ sẽ chẳng khác gì người đầy tớ, chứ không phải chồng hay vợ gì. Đấy là những bất lợi của khuyết điểm sanh y.

Lợi Điểm Thời Kỳ - Kāla-sampatti

Triều đại của các nhà cai trị có uy đức và sáng suốt được gọi là Kāla-sampatti - lợi điểm thời kỳ. Dưới sự lãnh đạo của những bậc minh quân, biết lo lắng cho sự an sinh của người dân, thúc đẩy cho sự thịnh vượng, sức khoẻ và giáo dục của họ, những quả của thiện nghiệp chắc chắn sẽ có cơ hội để trổ sanh. Vì thế người dân hưởng được một đời sống an lành, bình yên và không phải lo lắng sợ hãi. Thời kỳ như vậy được xem là thời kỳ thuận lợi, trong đó những ác nghiệp quá khứ đúng ra có thể đưa đến nghèo nàn và đói kém, cũng sẽ không thể tạo ra quả tức thời được. Mọi hình thức của bất thiện (akusala) không có cơ hội hoạt động trong thời kỳ của Kāla-sampatti này.

Khuyết Điểm Thời Kỳ - Kāla-vipatti

Sự cai trị của các nhà lãnh đạo độc ác, bất tài được gọi là khuyết điểm thời kỳ. Những thời kỳ chiến tranh và bạo loạn khắp nơi cũng là khuyết điểm thời kỳ. Vào những thời kỳ đen tối như vậy, bất thiện nghiệp sẽ có cơ hội để trổ quả xấu. Vì thế người dân phải chịu cảnh nghèo đói lầm than. Ngay cả những người có đầy đủ thiện nghiệp cũng không thể thọ hưởng những quả lành của họ trong những thời kỳ xấu xa này. Con người sống trong tai ương, người bệnh phải chết vì thiếu thuốc men. Đó là những điều tai ác của khuyết điểm thời kỳ.

Lợi Điểm Sở Hành - Payoga-sampatti

Payoga-sampatti - lợi điểm sở hành là kết quả phối hợp của chú niệm (sati), tinh tấn (viriya) và trí (ñāṇa). Ở đây trí có nghĩa là tri kiến vô hại cũng như thiện tầm (vitakka) vậy. Sự thận trọng, nỗ lực, tỉnh táo, tuệ giác, trí tuệ, và chú niệm đều có nghĩa là lợi điểm sở hành. Trong các cõi chư thiên và phạm thiên, lợi điểm sở hành không mấy quan trọng. Nhưng trong cõi nhân loại này nó được xem là quan trọng bậc nhất.

Con người không có những bất thiện nghiệp cực trọng đến độ phải đem lại hậu quả tức thời. Sức mạnh của nghiệp quá khứ còn tùy thuộc vào có hay không có lợi điểm sở hành này để cho ra những quả báo dựa trên mức độ của nó.

Nói tóm lại, hạnh phúc của chúng ta không chỉ cậy vào thiện nghiệp quá khứ, mà cũng còn tùy thuộc vào những nỗ lực chúng ta vận dụng trong kiếp hiện tại. Lợi điểm sở hành sẽ hướng những thiện nghiệp quá khứ của chúng ta chảy theo đúng hướng. Tất nhiên một số thiện nghiệp chúng ta đã làm trong quá khứ sẽ tạo ra những quả lành trong hiện tại, chẳng hạn như trúng số độc đắc hoặc đào được một hũ vàng. Nhưng những sự kiện như vậy rất là hiếm hoi. Trong công việc thương mại, quả của thiện nghiệp quá khứ chỉ giải thích một phần tư sự thành công đã đạt được, ba phần tư còn lại là do lợi điểm sở hành trong đời này.

Lợi Điểm Sở Hành Có Thể Ngăn Được Bất Thiện Nghiệp

Akusala-kamma (bất thiện nghiệp) có thể chia thành hai cấp độ: (1) Nghiệp mãnh liệt hay trọng nghiệp, (2) Nghiệp yếu hay khinh tiểu nghiệp. Lợi điểm sở hành Payoga-sampatti không thể ngăn được những quả xấu của bất thiện nghiệp thuộc loại thứ nhất. Nó chỉ có thể làm giảm nhẹ tai họa đến một mức độ nào đó. Chẳng hạn, đức vua A-xà-thế (Ajatasattu) đã giết cha mình. Do tội ác tày trời này ông chắc chắn phải chịu khổ trong địa ngục Atỳ. Lợi điểm sở hành của ông dù mạnh mẽ cũng không thể cứu được ông. Tuy nhiên, do sự ăn năn và lòng quy kính của ông đối với Đức Phật, ông chỉ tái sinh vào địa ngục đột khởi (Ussada Niraya), một địa ngục nhỏ hơn Atỳ địa ngục và phải thọ khổ ít hơn so với món nợ của ông. Như vậy ngay cả nghiệp bất thiện cực trọng (Garu Akusalakamma) cũng có thể được giảm khinh nhờ lợi điểm sở hành đầy đủ.

Do đó, nếu những ác nghiệp của bạn không quá xấu như ác nghiệp của vua A-xà-thế, bạn có thể làm giảm nhẹ hay ngăn được quả xấu của chúng. Nếu bạn đã tạo những ác nghiệp như mắng chửi thầy tổ, tỏ lòng bất kính đối với cha mẹ và các bậc lớn tuổi, vu cáo các bậc giới đức, bạn có thể ngăn những hậu quả xấu ác không cho xảy đến nhờ thực hành chánh niệm và thực lòng ăn năn hối lỗi. Bạn cũng có thể triệt tiêu những hậu quả xấu ác đó bằng cách phủ phục sám hối trước họ, hoặc nếu họ đã chết, thì cũng làm như vậy trước mộ của họ. Nói chung, lợi điểm sở hành - Payoga sampatti sẽ ngăn được ác quả sắp xảy đến.

Lôïi Ñieåm Sôû Haønh Ñem Laïi Söï Thaønh Ñaït

Những người không có đức tin nơi Tam Bảo (Tiratana) cũng đã tích tạo được những phước báu vì chắc chắn trong những kiếp quá khứ, họ đã làm được những việc thiện. Tài năng của họ, sự chịu khó và chuyên cần của họ thật rất đáng khen ngợi. Ngoài hạnh phúc cá nhân, họ còn vận dụng những nỗ lực lớn để bảo vệ xứ sở của họ bằng những phương tiện khoa học kỹ thuật cao. Không ai có thể phủ nhận rằng những nỗ lực này đã đem lại sự phồn vinh và sự phát triển xã hội (mặc dù có số Phật tử chỉ trích những cố gắng của họ là bất thiện).

Chúng ta thấy có những người nước ngoài đến đất nước chúng ta để tìm kiếm sự giàu sang và thịnh vượng. Họ rất thận trọng, chịu khó, thông minh và tài giỏi. Tài năng của họ vượt xa chúng ta rất nhiều. Với khả năng nhìn xa thấy trước, họ chọn những địa điểm (patirūpa-desa) thích hợp để kinh doanh vì họ có kinh nghiệm và kiến thức rộng rãi. Với sở thành thuận lợi như vậy, thiện nghiệp quá khứ của họ có cơ hội tốt để cho quả, vì thế họ trở nên giàu có rất nhanh là tự nhiên. Nếu người Phật tử chúng ta, những công dân của đất nước Miến Điện này cũng chuyên cần và nỗ lực, chắc chắn cũng sẽ đạt được những thành công và tiến bộ như họ. Mọi người chúng ta nên tìm kiếm kiến thức và học hỏi kinh nghiệm, kết hợp với sở hành thuận lợi cho sự phát triển của đất nước chúng ta.

Sức Khoẻ Có Được Nhờ Sở Hành Thuận Lợi

Con người sinh ra trong cuộc đời này có được thiện nghiệp (kusala kamma) thì sức khoẻ tốt, còn nhiều bất thiện nghiệp thì sức khoẻ kém. Tuân thủ theo những khuôn phép về sức khoẻ, giữ vệ sinh cá nhân, ngủ nghỉ đầy đủ, chăm sóc y tế tốt, v.v… chung quy là sở hành thuận lợi đưa đến sức khoẻ tốt. Với những người có lợi điểm sở hành như vậy, thiện nghiệp quá khứ của họ chẳng những có tác dụng mà còn làm tăng thêm sức khoẻ cho họ nữa. Vì vậy lợi điểm sở hành là yếu tố chính giúp cho thiện nghiệp trổ quả lành.

Ngoài ra nhờ lợi điểm sở hành mà người ta còn có thể thu thập tri kiến, có được vợ hay chồng xứng đáng, thân cận các bậc thày tài đức và bạn lành, được giàu sang, và có địa vị xã hội. Lợi điểm sở hành cũng hỗ trợ cho việc hoàn thành các pháp Ba-la-mật (Paramis) lót đường đi đến Niết-bàn. Trong các thành tố của lợi điểm sở hành, trước nhất phải kể đến tri kiến hay kiến thức, thứ hai là chánh niệm, và thứ ba là chuyên cần trong tất cả những việc chúng ta làm.

Khuyeát Ñieåm Sôû Haønh - Payoga Vipatti

Lơ đãng, lười biếng, thiếu kiến thức, hay quên, ghen ghét, đố kỵ, nóng tính, huênh hoang tự đắc, v.v… tựu chung là khuyết điển sở hành. Những khuyết điểm ấy ngăn cản sự thành công và thịnh vượng của chúng ta. Trong dòng tương tục của các chúng sinh, những bất thiện nghiệp nghiêm trọng đủ để cho quả thì đã cho quả rồi, mặc dù không phải ai cũng có những nghiệp nghiêm trọng ấy. Tuy nhiên, những ác nghiệp nhỏ hơn lúc nào cũng có mặt trong mọi người và đang chờ trổ quả khi có payoga vipatti - khuyết điểm sở hành xảy ra.

Chẳng hạn con cháu các gia đình hiền lương, sống tốt đẹp nhờ có giáo dục, biết nuôi mạng chân chánh, giữ ngũ giới. Những hành nghiệp thiện này sẽ ngăn những ác nghiệp quá khứ không cho trổ quả. Ngược lại, nếu con cháu họ lười biếng, hành theo tà mạng và phá giới, là chúng đang phát triển khuyết điểm sở hành. Điều này dĩ nhiên cũng đang mời những ác nghiệp quá khứ đến để cho quả.

Tóm lại, ngoài những cực thiện nghiệp và cực ác nghiệp ra, các thường nghiệp khác bất luận là gì, tuỳ thuộc vào lợi điểm sở hành và khuyết điểm sở hành này mà có thể hoặc không thể trổ quả. Đối với những người biết trau dồi lợi điểm sở hành, chỉ có thiện nghiệp thường xuyên xảy ra, còn bất thiện nghiệp sẽ không có cơ hội cho quả. Ngược lại, đối với những người có nhiều khuyết điểm sở hành, quả của thiện nghiệp không có chỗ đứng, chỉ có quả của bất thiện nghiệp thịnh hành mà thôi. Những người mà cuộc sống của họ bị bất thiện nghiệp làm hư hoại do khuyết điểm sở hành thắng thế không phải là hiếm. Chúng ta có thể thấy họ ở khắp mọi nơi.

Chúng ta có thể cải đổi được không ?

Trong số bốn khuyết điểm kể trên, một số chúng ta có thể sửa chữa được, số khác thì không.

Về nơi chốn thọ sanh ta không làm gì được để thay đổi. Điều này có nghĩa khuyết điểm sanh thú (gati-vipatti) không thể sửa đổi được. Song một số điều kiện khiếm khuyết của chúng ta có thể cải thiện hoặc sửa chữa. Chẳng hạn, nếu bạn sinh ra trong hoàn cảnh nghèo khó, bạn có thể chuyển đến nơi thuận lợi hơn. Chúng ta thấy rất nhiều người nước ngoài đến nước ta tìm cơ hội làm giàu. Những người ở vùng thượng Miến cũng có khuynh hướng tìm về phương Nam, đến vùng hạ Miến với cùng mục đích trên. Các học giả học thức giờ thì tìm đến những vùng có nền giáo dục tốt hơn. Tất nhiên, bạn cũng cần có vài khả năng cơ bản nào đó như thông minh, cần cù mới mong thành công ở những nơi khác. Không có những khả năng cơ bản này có đi đâu cũng vô ích mà thôi.

Trường hợp của lợi điểm sanh y và khuyết điểm sanh y cũng thế, vẻ bề ngoài của thân thể hay diện mạo bẩm sinh thì không thể nào thay đổi được. Nhưng bạn có thể cải thiện dáng vẻ bề ngoài bằng cách ăn mặc y phục cho phù hợp. Về điểm này, khi sử dụng những loại y phục thời trang cần lưu ý sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn, đừng để trở thành lố bịch! Các bà mẹ bằng nhiều cách có thể cải thiện cấu trúc xương của em bé, và sửa những dị tật nhỏ của chúng. Ngay cả một số nét xấu xí trên khuôn mặt hoặc mất cân đối ở chân tay cũng có thể được cải thiện bằng cách chăm sóc khéo léo và các phương tiện thích hợp. Sức khoẻ của em bé có thể được duy trì tốt nhờ dinh dưỡng đúng cách. Sự ngu dốt và bất cẩn của bà mẹ có thể gây ra những dị tật nhỏ cũng như tình trạng sức khoẻ xấu cho trẻ sơ sinh. Tóm lại, thiếu lợi điểm sở hành là đã dọn chỗ cho bất thiện nghiệp đến cho quả. Lợi điểm sở hành bao gồm: tri kiến, trí thông minh, và tinh tấn chính đáng. Sự kết hợp của ba yếu tố này có thể sửa chữa được một số khuyết tật.

Đối với khuyết điểm thời kỳ người ta cũng không thể làm được gì nhiều để thay đổi những điều kiện hiện tại. Chỉ các nhà cai trị mới có khả năng làm điều đó. Tuy nhiên, ngoại trừ thời kỳ loạn lạc toàn cầu, còn thì con người vẫn có thể chuyển đến những xứ khác, nơi có các bậc lãnh đạo tài đức hơn. Các nhà lãnh đạo địa phương như những vị đứng đầu một ngôi làng, một cộng đồng, và các vị trụ trì (chùa chiền, tu viện) trong chừng mực nào đó có thể cải thiện những điều kiện trong khu vực của họ.

Đến đây, hẳn bạn đã hiểu rõ ba điều kiện khiếm khuyết của sanh thú (gati), sanh y (upadhi) và thời kỳ (kāla), có thể cải thiện và sửa chữa được ở một mức độ nào đó rồi.

Dễ sửa đổi nhất là sở hành - payoga. Nếu bạn chây lười bạn có thể tự cải đổi mình cho được chuyên cần hơn. Nếu bạn hay quên, hãy cố gắng khép mình vào nếp sống chánh niệm. Nếu bạn nóng tính, bạn có thể hành pháp nhẫn nại để trở thành người trầm tĩnh. Nếu bạn kiêu căng tự phụ, bạn có thể tự cảnh tỉnh mình không nên làm thế. Nếu bạn thiếu kiến thức, bạn có thể tìm học nơi các bậc trí tuệ. Trong một thời gian ngắn chắc chắn bạn sẽ tích luỹ được một số vốn kiến thức và trí tuệ. Những ai luôn cố gắng cải đổi bản thân, sửa chữa những lỗi lầm và khuyết điểm, sẽ đạt được lợi ích không chỉ trong đời hiện tại mà còn cả trong vô lượng kiếp tương lai, tức ngày nào còn trong vòng luôn hồi này.

Không Phải Luôn Luôn Do Nghiệp

Thế giới này có bốn tôn giáo lớn: Ấn giáo, Phật giáo, Thiên chúa giáo, và Hồi giáo. Ấn giáo và Phật giáo tin nơi nghiệp và quả của nghiệp. Thiên chúa giáo và Hồi giáo tin vào Đấng Sáng Tạo của vũ trụ. Ở đây tôi sẽ không bàn chi tiết đến Tạo Hoá kiến đó, vì bất kỳ ai đọc cuốn sách này sẽ dễ dàng nhận ra niềm tin ấy là sai lầm rồi. Tuy nhiên, những ai tin rằng chỉ duy nhất nghiệp quá khứ và quả của nó quyết định số phận của một chúng sinh thì cũng kể như đang chấp nhận tà kiến gọi là Tiền định kiến - Pubbetahetauṭṭhi. Sở dĩ gọi đây là tà kiến vì nó công bố rằng mọi quả tốt hoặc xấu mà các hữu tình cảm thọ trong đời này chỉ là kết quả của những thiện nghiệp hoặc ác nghiệp họ đã làm trong những kiếp quá khứ mà thôi.

Do đó, những người Phật tử tin rằng chỉ một mình nghiệp quá khứ quyết định cuộc sống hiện tại là đã phạm vào Tiền định kiến. Hãy ghi nhớ bốn lợi điểm và bốn khuyết điểm này, bạn có thể khẳng định rằng những quả của thiện nghiệp và ác nghiệp lúc nào cũng đang đuổi theo bạn. Nhưng quả của ác nghiệp chỉ có thể trổ sanh khi những điều kiện khuyết điểm thịnh hành. Và quả của thiện nghiệp cũng chỉ đến khi những điều kiện thuận lợi bao quanh. Đây là niềm tin đúng đắn hay chánh kiến.

Cho dù bạn đã tạo những nghiệp xấu trong quá khứ, song nếu bạn chuyên cần tu tập các lợi điểm sở hành (ở đây là tri kiến, chánh niệm và tinh tấn), ác nghiệp ấy sẽ không cho quả được. Nếu như trong đời này, bạn nỗ lực hoàn thiện các pháp Balamật như bố thí, trì giới, v.v… bạn sẽ tái sinh vào một cảnh giới cao hơn. Nếu bạn cứ tiếp tục trau dồi lợi điểm sở hành trong mỗi kiếp sống, bạn sẽ mãi mãi hưởng được sanh thú thuận lợi, và bất thiện nghiệp của bạn sẽ không bao giờ có được cơ hội để làm hại bạn cho đến khi bạn chứng đắc Niết Bàn. Vì thế, không cần phải lo lắng đến những nghiệp quá khứ, cái mà bạn vốn không thể thấy hay nhớ lại được. Hãy cố gắng thành đạt một cách chân chánh trong cuộc đời này - cải đổi bản thân và phát triển lợi điểm sở hành đến mức cao nhất để bạn có thể vút lên ngày càng cao hơn trong vòng luân hồi cho đến khi chứng đắc Niết Bàn.

CHƯƠNG VI:

MƯỜI PHƯỚC NGHIỆP SỰ (Puññakiriyā - Vatthus)

Từ Puñña hay phước là cái làm cho tâm trong sạch, cái đó thực sự có nghĩa là thiện nghiệp. Kiriya hay sở tác là cái phải được làm. Vatthu có nghĩa là nền tảng hay căn bản cho sự thịnh vượng và hạnh phúc. Như vậy những hành động nào xác định phải được làm vì chúng là căn bản cho sự thịnh vượng và hạnh phúc (mangala - phúc lành) thì được gọi là “phước nghiệp sự” (Puññakiriyāvatthu).

Có mười phước nghiệp sự là:

1. Bố thí (Dāna)
2. Trì giới (Sīla)
3. Tu thiền (Bhāvanā)
4. Cung kính (Apacāyana)
5. Phục vụ (Veyyāvacca)
6. Hồi hướng công đức (Pattidāna)
7. Tuỳ hỷ công đức (Pattānumodanā)
8. Thính pháp (Dhammassavana)
9. Thuyết pháp (Dhammadesanā)
10. Tri kiến chân chánh (Diṭṭhịukamma)

1. BỐ THÍ (Dāna)

Bố thí là cho ra hay cho theo lối làm ơn để tạo phước. Có hai loại bố t hí, đó là (1) cetanā-dāna (tư-thí hay chủ định thí), và (2) vatthu dāna (vật thí). Dâng cúng hay hiến tặng phẩm vật, y phục, chùa chiền, v.v… được xếp vào loại vật thí, trong khi thiện ý trong những hành động bố thí này được gọi là tư thí hay chủ định thí. Chính cetanā này tạo ra những quả lợi ích trong đời này và trong những đời sau, chứ không phải những vật đem ra hiến cúng. Thái độ tâm lý phóng chiếu trên những vật cúng dường này tạo thành những quả lành trong tương lai. Nếu việc cúng dường là thiện và cao quý, thì tư hay cetanā cũng vậy.

Giải thích thêm

Nếu trong khi cúng dường vật thực (thức ăn đặt vào bát) đến tăng (saṅgha), đối tượng nhận thức của thí chủ là vật thực họ dâng cúng và Tăng là người họ đang dâng cúng, thì một dòng liên tục của tư (cetanā) sẽ xuất hiện không ngừng trong tâm thức của họ.

Chủ ý hay cetanā ấy cứ nối nhau sanh và diệt rất nhanh nhưng không biến mất hoàn toàn. Những năng lực do cetanā tạo ra nằm ngầm (trong tâm thức) để sau đó sẽ cho những quả báo tương xứng, (về nghiệp lực ngủ ngầm trong dòng tương tục tâm-thân hay danh-sắc, xem lại phần nói về Nghiệp). Cứ tính rằng có hơn một tỷ đơn vị (sát-na) tâm sanh và diệt trong một cái búng tay, ta có thể hình dung ra cường độ xuất hiện của cetanā lớn biết bao nhiêu trong suốt một buổi lễ đặt bát cho chư tăng kéo dài hai, ba tiếng đồng hồ.

* Vật thí và người thọ nhận thúc đẩy Cetanā thêm mạnh mẽ.

Mặc dù những vật cúng dường như vật thực để bát và người thọ nhận vật thực ấy không thể đi theo thí chủ sang đời sau và mang lại lợi ích, song chúng chắc chắn sẽ giúp để thúc đẩy một cetanā - tư tâm sở - nhạy bén hơn trong tâm thí chủ. Chẳng hạn, cúng dường vật thực được sửa soạn đặc biệt đến chư tăng sẽ khơi dậy một cetanā hay chủ ý mãnh liệt, trong khi cúng dường vật thực bình thường chỉ khởi lên một cetanā yếu ớt. Lại nữa, bố thí đến người thọ nhận xứng đáng tạo ra cetanā mạnh mẽ trong khi bố thí đến người thọ nhận tầm thường chỉ gợi lên một cetanā yếu ớt. Theo cách này, vật cúng dường hay vật thí và người thọ thí có thể thúc đẩy một chủ ý - cetanā mạnh mẽ trong tâm của người bố thí.

* Số lượng vật thí khác nhau cho quả khác nhau

Công sức bỏ ra để thực hiện việc cúng dường hay bố thí với những số lượng vật phẩm khác nhau có thể cho ra những quả khác nhau. Vì những nỗ lực nhiệt thành trong việc tìm kiếm một số lượng lớn vật thí sẽ làm phát sinh một chủ ý hay cetanā mạnh mẽ. Trong khi tìm kiếm chỉ một số lượng nhỏ vật thí đương nhiên sẽ đòi hỏi ít nỗ lực hơn và cetanā tương ứng sẽ ít hơn. Lại nữa, trong việc chuẩn bị cho một số lượng lớn vật thí, tư tiền (pubba-cetanā) hay chủ định trước lúc bố thí vì thế sẽ to lớn vô cùng. Do đó, nếu đem so sánh các cetanā hay chủ ý trong việc bố thí với số lượng lớn và số lượng nhỏ, thì hiển nhiên rằng cetanā trong việc bố thí với số lượng lớn sẽ nhiều hơn. Như vậy, bố thí với số lượng lớn và nhỏ sẽ cho quả báo khác nhau là do thời gian (tồn tại) của cetanā trong mỗi trường hợp.

Nếu như cuộc bố thí được thực hiện một cách rộng rãi vào hào phóng thì cetanā cũng sẽ rộng rãi và hào phóng như vậy. Trong thời gian bố thí, tư hiện (munca-cetanā) hay chủ ý trong khi bố thí cũng sẽ tương xứng với cuộc bố thí đó. Sau khi cuộc bố thí đã làm xong, tư hậu (apara-cetanā) hay chủ ý sau khi bố thí cũng sẽ có cùng mức độ kể trên bất cứ khi nào bạn nghĩ đến cuộc bố thí này. Những trạng thái tâm như vậy xảy ra rất thường trong cuộc đời chúng ta.

* Bố thí hào phóng nhưng cetanā (chủ ý) sơ sài

Một số thí chủ cúng dường vật thực, nhà cửa, y áo chỉ có tính cách nghi thức hoặc qua loa chiếu lệ. Nếu làm như vậy, mặc dù của bố thí có thể là hào phóng và rộng rãi, song cetanā hay tâm tư của họ lại không tương xứng với nó; họ không cảm thấy hoan hỷ vì thiện nghiệp đã được làm với chủ ý ít ỏi. Do đó, chỉ số lượng hay chất lượng của vật thí thôi thì cũng không thể quyết định tính chất hào phóng của người bố thí được. Khi vua Duṭṭhagāmani Abhaya sắp lâm chung, ngài không cảm thấy hoan hỷ nhiều trong phước sự xây dựng ngôi Đại tháp Mahācetiya của mình, mà lại cảm thấy vô cùng sung sướng khi nhớ lại việc phước nhỏ nhoi của việc cúng dường bữa ăn đến một vị Sư (là Bậc Alahán) ở trong rừng (xem lại tích chuyện này ở trang 246). Do cetanā mãnh liệt ấy Ngài được tái sinh lên Cung Trời Đâu suất (Tusita). Bởi thế, hãy nhớ rằng chỉ có cetanā (chủ ý) mới quyết định số phận của bạn, không phải số lượng hay giá trị của những món quà bạn đã dâng tặng. Cetanā hay chủ ý được xem là quan trọng hơn sự hào phóng của bạn trong cuộc bố thí.

* Bố thí cũng giống như gieo hạt giống

Người nhận là thửa ruộng; người thí là nông gia; vật thí tựa hạt gieo; lợi ích trong tương lai là quả.

Trong Ngạ Quỷ sự - Petā Vatthu, một tác phẩm kinh điển Pāli có nói, “Người thọ nhận của bố thí cũng giống như mảnh đất; thí chủ là người làm ruộng; của cúng dường hay bố thí là hạt giống đem gieo. Những lợi ích tích chứa lại sau đó trong suốt kiếp luân hồi là hoa trái sanh ra từ những cây đó.”

Ở đây, có thể mô tả chi tiết hơn như thế này.

Trong nông nghiệp, loại đất tốt hoặc xấu sẽ quyết định năng suất hay hoa lợi của vụ mùa. Tương tự, đức chánh trực và cao quý của người thọ nhận sẽ quyết định tính chất của quả báo.

Ví như sinh lực của hạt giống đem gieo sẽ quyết định sự phát triển và năng suất của cây như thế nào; ở đây sự thanh tịnh của vật cúng, quà tặng, những vật ấy có kiếm được bằng chánh mạng hay không, và số lượng của nó sẽ quyết định tính chất của quả báo như vậy.

Ví như người nông dân phải chuẩn bị cày bừa thửa đất của họ đúng cách trước khi đem gieo hạt giống để bảo đảm có được một vụ mùa đạt năng suất. Người bố thí cũng phải có tư tiền (pubba-cetanā) hay chủ ý trước khi bố thí như vậy. Kết quả sẽ tuỳ thuộc vào sức mãnh liệt của tư tiền này của họ.

Người nông dân cần phải làm cỏ và tưới nước thửa đất của họ; chỉ khi đó cây cối mới phát triển. Cũng theo cách đó, người bố thí cần phải thường xuyên nhớ lại việc làm phước của mình và cảm thấy thoả thích đối với phước sự ấy. Tư hậu (apara-cetanā) hay chủ ý sau khi bố thí này của thí chủ sẽ quyết định tính chất của quả báo.

Nếu người nông dân, do thiếu hiểu biết, làm hư hoại mầm non và cây giống đã trồng, họ sẽ không thể nào hưởng được thành quả lao động của mình. Tương tự như vậy, nếu người bố thí cảm thấy hối tiếc sau khi đã làm, nghĩ rằng lẽ ra ta không nên bố thí, họ sẽ không thọ hưởng được thiện quả do tư hậu (apara-cetanā) yếu ớt này của họ.

Mặc dù đất và hạt giống đều ở trong tình trạng tốt, việc gieo trồng cũng phải được làm đúng mùa tiết, đúng thời vụ để có thể gặt được một vụ mùa chắc chắn. Cũng thế, bạn nên bố thí đến người thiếu thốn, đúng thời và đúng chỗ, bố thí như vậy chắc chắn sẽ đem lại những kết quả tốt nhất.

Trên đây là những bài học và hướng dẫn có giá trị liên quan đến việc bố thí (dāna) rút ra từ “Ngạ Quỷ sự” (Petā vatthu). Vì thế, trong việc bố thí, chọn lựa đúng người thọ nhận, đúng thời gian và nơi chốn rất quan trọng. Bố thí phải được làm với một cái tâm tràn đầy hoan hỷ và thiện ý. Hơn nữa, bạn cũng không nên bố thí với quan niệm được giàu sang, vì một mong ước như vậy luôn đi kèm với tham ái. Chủ ý hay tư của bạn cần phải được trong sạch đến mức có thể.

* Người thọ nhận cũng quyết định tính chất của quả

Trong Ngạ Quỷ sự nói rằng người thọ nhận của bố thí tựa như thửa ruộng mà hạt giống được gieo. Đất trồng trọt nói chung có ba hạng: rất phì nhiêu, không tốt lắm, và xấu. Người thọ nhận cũng thế, có ba hạng khác nhau. Ví như đất không cỏ sẽ cho năng suất cao như thế nào, người thọ nhận nếu không có tham, sân, si cũng thế, thí chủ sẽ hưởng được nhiều lợi ích hơn. Ví như một cánh đồng được bón phân đầy đủ và làm cho thật phì nhiêu chắc chắn sẽ đem lại một vụ mùa bội thu thế nào, thì những quả lành cũng sẽ dồn vào cho thí chủ như vậy khi người thọ nhận là người có giới đức và trí tuệ.

* Bố thí có ý định dâng đến Tăng (saṅghika-dāna)

Saṅghika dāna là một từ Pāli có nghĩa cúng dường vật thực và các vật dụng (tứ vật dụng) khác đến Saṅgha hay Tăng chúng (những vị đệ tử Phật nói chung). Giả sử bạn tặng một số tiền cho một hội đoàn nào đó; tất cả mọi thành viên, giàu hay nghèo của hội đoàn, đều có quyền đối với số tiền đó. Tương tự, nếu bạn cúng dường một bát vật thực hay một bộ Y (casa) đến Tăng (saṅgha), thì mọi người trong Tăng đều có quyền đối với những vật cúng dường đó. Bạn không cần phải đi khắp thế gian để cúng dường đến Tăng. Tóm lại, hành động dâng cúng đến bất cứ vị Sư nào thuộc Tăng (saṅgha) nói chung sẽ tự động có ý nghĩa là Tăng thí (saṅghika-dāna). Mọi thành viên trong Tăng đều có quyền đối với những vật cúng dường ấy.

* Làm thế nào để phóng chiếu thiện ý của mình

Trong việc cúng dường đến Tăng (Tăng thí), tâm của thí chủ phải hướng đến Tăng nói chung. Mặc dù bạn đọc thành lời “Saṅghassa demi: con xin cúng dường đến Tăng” song nếu trong tâm bạn nghĩ đến một vị sư đặc biệt nào hay một ngôi Chùa đặc biệt nào, thời bố thí của bạn không còn là tăng thí (saṅghika dāna) nữa. Cúng dường vật thực đến bất kỳ vị Sư nào đi khất thực hàng ngày, hay cúng đến một vị Sư nào đó do tăng chỉ định, chỉ có thể được xếp vào tăng thí thực sự khi tâm người thí chủ thực lòng hướng đến toàn thể Tăng chúng.

* Thái độ tâm lý trong khi cúng dường

Người Phật tử đức hạnh có niềm tin lớn nơi đức Phật, mong muốn những lời dạy của Ngài được trường tồn và sự kế thừa liên tục của chư Tăng, những người hiền thiện đang làm bổn phận duy trì sự thịnh vượng và thuần khiết của Giáo Pháp, nên hộ trì cho Tăng bằng cách thường xuyên cúng dường vật thực đến chư Sư. Tuy nhiên, để thành tựu Tăng thí khi chuẩn bị vật cúng dường, người Phật tử phải gạt bỏ bất kỳ sự dính mắc nào như, “Đây là Thầy (sayadaw) ta; đây là vị Sư ta quý mến”. Thay vào đó, tâm phải hướng đến toàn thể Tăng khi cúng dường, đồng thời nói lời: “Saṅghassa demi, saṅghassa demi: con xin cúng dường vật thực này đến tăng. Con xin cúng dường vật thực này đến Tăng”. Khi bố thí được thực hiện hàng ngày với thái độ như vậy, nó mới trở thành Tăng thí (saṅghika-dāna) đích thực.

* Bữa ăn mời thỉnh cũng có thể trở thành Tăng thí

Đến một ngôi Chùa gần nhất, người Phật tử tác bạch trước vị Sư có trách nhiệm ở đó, bằng cách nói, “Bạch Ngài con xin được cúng dường vật thực tại nhà ngày mai lúc 6 giờ sáng. Xin Ngài từ bi sắp xếp cho con một vị Sư (hoặc hai, ba vị Sư tuỳ từng trường hợp) đến dự bữa ăn”. (Khi tác bạch, thí chủ không nên đề cập “kể cả Ngài” hoặc “kể cả vị Sư Trưởng” vào đó).

Và trong lúc chuẩn bị cho bữa cơm cúng dường ngày mai, tâm thí chủ nên hướng đến toàn thể Tăng, chứ không đến một vị Sư hay ngôi Chùa đặc biệt nào, đồng thời lập đi lập lại câu “saṅghassa demi” (con xin cúng dường vật thực này đến Tăng).

Sáng hôm sau, khi vị sư đến thọ thực, thí chủ không nên cảm thấy thất vọng nếu đó là vị nhỏ hạ hoặc ở địa vị thấp. Thí chủ phải tự nhắc mình, “Cúng dường này không phải đặc biệt làm cho vị ấy, nó được tác ý dâng đến toàn thể Tăng mà” và thực hiện việc cúng dường với lòng tôn kính và nhiệt thành thực sự.

Nếu vị Sư đến thọ thực lại chính là vị Sư Trưởng, thí chủ cũng không nên cảm thấy mừng quá; và nên tự nhắc mình rằng “Cúng dường này không phải được làm đến vị sư trưởng mà đến toàn thể tăng trong đó vị ấy chỉ là một thành viên.” Như vậy, nếu bạn có thể hướng tâm đến toàn thể Tăng, thời cúng dường đến một vị sư do Tăng chỉ định cũng được kể là Tăng thí (saṅghika-dāna).

* Thiện ý của một người thí chủ

Xưa có một vị sư giới hạnh bê bối, bị hầu hết các Phật tử và thí chủ không ưa, được tăng chỉ định thay mặt cho tăng đi dự Trai Tăng. Song người thí chủ không cảm thấy thất vọng; sau khi đã hướng tâm mình đến Tăng nói chung, ông cúng dường vật thực và các vật dụng khác đến vị Sư này một cách kính trọng. Ông đối xử với vị ác Sư như thể chính y là Đức Phật vậy, nghĩa là rửa chân khi y đến, mời y ngồi trên chỗ có ướp nước hoa thơm ngát và bên trên có lọng che hẳn hoi. Vì tâm ông luôn hướng đến Tăng, nên cuộc thí của ông có đủ điều kiện như một Tăng thí (saṅghassa-dāna) cao quý, mặc dù người thọ nhận là một ác sư.

Chúng ta hãy xem tiếp. Để ý thấy thái độ tôn kính của vị thí chủ này dành cho mình, vị Tỳ khưu xấu tưởng đã tìm cho mình một người hộ độ nhiệt thành rồi. Chiều hôm ấy, vị Sư cần sửa chữa lại một ít đồ đạc trong chùa, vì thế ông đến nhà người thí chủ để mượn cái cuốc. Lần này, người thí chủ đối với ông không còn kính trọng nữa. Anh ta dùng chân hất cái cuốc và nói một cách khiếm nhã, “Này!”

Những người hàng xóm hỏi anh về hai thái độ cư xử khác nhau mà anh dành cho vị ấy. Anh trả lời rằng buổi sáng lòng tôn kính của anh được hướng đến tăng chứ không phải đến một vị Sư cá biệt nào cả. Còn về thái độ thô lỗ của anh vào buổi chiều, anh bảo, là dành cho vị ác Sư, như một cá nhân, không đáng đảnh lễ hay tôn kính mà thôi. Bài học rút ra ở đây là, khi thực hiện việc cúng dường, bạn nên phóng chiếu tâm mình trên toàn thể Tăng nhờ thế bố thí của bạn mới được kể là Tăng thí.

* Quả báo khác nhau tuỳ theo Tăng thí

Mặc dù bạn cúng dường đến một, hai hoặc nhiều vị Tỳ Khưu (Bhikkhus), song nếu bạn chọn họ theo cách cá nhân thời bố thí của bạn trở thành cá nhân thí - puggalika dāna. Khi làm như vậy, dù cho bạn có cúng dường vật thực đến cả ngàn vị sư, bạn cũng chỉ đang làm việc bố thí theo cá nhân - hay cá nhân thí mà thôi. Ngoại trừ cúng dường đặc biệt dâng đến Đức Phật và chư vị Độc Giác Phật ra, tăng thí được xem như thắng xa mọi hình thức thí khác. Khi chúng ta nói tăng thí, các vị Alahán cũng được kể trong đó. Còn trường hợp cá nhân thí, các vị Alahán có thể hoặc không thể được kể trong đó. Vì thế chúng ta có thể suy ra một cách chắc chắn rằng Tăng thí có nghĩa là cúng dường đến các vị Tỳ Khưu thánh thiện nhất trong khi cá nhân thì cần phải chọn lựa cẩn thận vị Tỳ Khưu thọ nhận. Đến đây, hoàn toàn hợp lý để có thể kết luận rằng tăng thí có năng lực mạnh mẽ hơn và đem lại lợi ích nhiều hơn cá nhân thí vậy.

* Cúng dường đến Đức Phật

Khi Đức Phật còn tại thế, những người có tâm tín thành được đặc ân cúng dường đến tự thân ngài. Song ngày nay Đức Phật không còn ở với chúng ta nữa, vì thế chúng ta phải học từ nơi kinh sách cách nào để cúng dường hết lòng mình đến đức Phật.

Trước tiên bạn phải sửa soạn vật thực cúng dường đủ cho một vị tỳ khưu và đặt vật thực trước tượng Đức Phật. Nếu gần đó không có tượng đức Phật, bạn có thể mường tượng hình ảnh đức Phật với lòng tôn kính và cúng dường vật thực đến hình ảnh đó. Cần nhớ là bạn phải hướng cetanā hay chủ ý của bạn vào tự thân đức Phật.

Sau khi cúng dường xong, bạn có thể cho vật thực ấy đến một Phật tử đang công quả giữ gìn sạch sẽ khu vực ngôi Chùa hay Tháp đó, có thể người ấy là cư sĩ hay một vị Sư. Một người làm công quả, giữ bát quan trai giới (uposatha sīla) có thể ăn vật thực (cúng Phật) đó trước khi làm việc, nếu như giờ ngọ (12 giờ trưa) chưa đến.

Vào những dịp lễ long trọng, nếu bạn muốn cúng dường vật thực đến chư tăng (saṅgha) do Đức Phật dẫn đầu, cũng áp dụng cách thức như trên để thực hiện việc cúng dường đến Đức Phật.

Trường hợp cúng dường y casa đến đức Phật cũng thế, cần phải giữ thái độ như trên. Các vị sư công quả ở ngôi Chùa hay Tháp ấy được quyền thọ dụng những bộ y cúng dường đó. Một điều bạn phải thận trọng là các phẩm vật như hương, hoa, nhang đèn, và nước tại chùa hay tháp không nên để thành một mớ hỗn độn trước các tượng hay hình ảnh Đức Phật. Bố thí của bạn phải được làm với sự gọn gàng tươm tất. Chỉ lúc đó bạn mới có được những quả lành trong đời này hoặc đời sau, và các kiếp sống tương lai của bạn mới được trong sạch, không sai sót.

* Làm thế nào để tỏ lòng tôn kính từ xa

Thường thường hầu hết Phật tử tỏ lòng tôn kính và cúng dường đến hình tượng đức Phật trong nhà riêng của mình vì họ không có đủ thời gian đi đến chùa hay tu viện hàng ngày. Đã từng có những tranh luận về điều: không biết làm như vậy có phước hay không. Vì chúng ta đã biết rằng yếu tố quyết định (phước hay không phước) là cetanā (thiện chí của bạn trong trường hợp này), chúng ta có thể tin chắc rằng việc làm ấy sẽ đem lại những lợi ích lớn. Nếu chủ ý hay tư của bạn được hướng đến đức Phật, dứt khoát nó phải là tư thiện (kusala-cetanā), vì thế không có lý do gì lại không có phước.

Một trăm lẻ tám đại kiếp (kappas) trước, Đức Phật Atthadassi đạt đến sự giác ngộ. Một hôm, một người thiện nam nhìn thấy Đức Phật và các vị thánh đệ tử của ngài phi hành qua hư không bằng năng lực thần thông, anh ta liền thiết lễ cúng dường hương hoa từ đằng xa. Do thiện nghiệp này, trong hàng ngàn kiếp anh ta chẳng bao giờ phải tái sinh vào bốn ác đạo và trở thành một bậc Alahán trong thời Đức Phật Thích Ca của chúng ta với tên là Desapujaka Therā (trưởng lão Desapujaka).

Tư tiền - Tư hiện - Tư hậu

Mọi hình thức bố thí cần phải có ba loại cetanā (tư hay chủ ý), đó là, tư tiền (pubba-cetanā), tư hiện (muñca-cetanā), và tư hậu (apara-cetanā).

* Tư tiền (pubba - cetanā)

Thiện ý khởi lên trong lúc đang tìm kiếm và chuẩn bị cho cuộc bố thí là tư tiền. Cetanā hay tư của bạn phải thoát khỏi sự kiêu mạn hoặc ích kỷ như là, “Ta là người xây dựng ngôi chùa này; ta là thí chủ của tu viện nọ; ta là thí chủ của những vật cúng dường kia,” v.v… Trong khi sửa soạn cho công việc bố thí, bạn và những người trong gia đình không nên để xảy ra cãi vả do bất đồng ý kiến với nhau. Bạn cũng không nên do dự trong việc thực hiện điều thiện một khi đã quyết định làm. Nếu bạn cảm thấy thích thú và hân hoan trong suốt lúc chuẩn bị này, bạn có thể yên chí rằng tư tiền (pubba - cetanā) trong sạch chân thành sẽ thắng thế.

* Tư hiện (Muñca - cetanā)

Thực ra chữ muñca có ý nghĩa là từ bỏ. Do đó, muñca - cetanā là tư hiện hay cho ra (bố thí), chẳng hạn như trong hành vi bố thí thức ăn, tư hay thiện ý khởi lên khi người ta đang làm công việc bố thí đến người thọ nhận, hoặc trong hành vi bố thí bằng cách ra lệnh, tư hay thiện ý khởi lên vào lúc người ấy nói “Tôi bố thí” được gọi là muñca - cetanā hay tư hiện. Vào sát-na tư hiện này, nếu bạn có thể ngăn được những tâm bất thiện không cho khởi lên, hoặc tránh được sự dính mắc vào người thọ nhận, hoặc bố thí một cách rộng rãi không mong đợi một sự đáp trả nào của người thọ nhận, bạn có thể yên chí rằng tư hiện hay thiện ý từ bỏ của bạn đã khởi sanh với sự trong sạch.

* Tư hậu - Apara - cetanā

Cetanā hay tư thứ ba này, vốn khởi lên sau khi đã hoàn tất việc làm phước, là niềm sung sướng của sự hoàn thành mà bạn thọ hưởng vì đã làm được một hành vi đạo đức. Bạn cảm thấy hoan hỷ đối với thành tựu của mình, luôn luôn nhớ lại nó và ước mong sớm được lặp lại việc làm ấy. Đây là lúc tư hậu - apara cetanā của bạn đang phát triển nhanh.

Tuy nhiên, sau khi làm việc phước xong, tư hậu của bạn cũng có thể bị ô nhiễm nếu bạn cảm thấy không hài lòng với số tài sản đã mất trong cuộc bố thí, hoặc cảm thấy thất vọng đối với vị trụ trì mà bạn vừa dâng cúng một ngôi chùa. Và bạn có thể suy nghĩ "Lẽ ra ta không nên làm việc từ thiện đó". Nếu bạn có ý nghĩ như vậy, chẳng những tư hậu của bạn bị ô nhiễm mà bạn còn phát triển một thái độ sân hận bất thiện (akusala dosa) nữa.

* Cảnh giác

Xây chùa, tạo Tháp, v.v… là bố thí có tầm mức to lớn. Cũng có những hình thức bố thí tầm mức nhỏ hơn như khi bạn dâng cúng vật thực, y áo cho chư sư hoặc khi bạn đem thức ăn, nước uống cho người thực sự đang cần. Trong việc bố thí có tầm mức to lớn, bạn có thể gặp phải sự cản trở từ chính nội tâm bạn cũng như từ những yếu tố hiểm độc bên ngoài.

Do đó, nếu bạn muốn thực hiện một cuộc bố thí có tầm mức to lớn, bạn không nên tự mình dự định mà cần phải tìm lời khuyên từ nơi bạn bè hoặc những bậc thầy hiểu biết. Chỉ khi đó bạn mới có được những người thọ nhận xứng đáng với cuộc bố thí của bạn. Chọn một người thọ nhận dĩ nhiên không đến nỗi quan trọng như vậy nếu bố thí với mức độ nhỏ; ngay cả cho con vật ăn cũng có phước riêng của nó. Yếu tố quyết định trong việc bố thí là phải có thái độ đúng đắn. Cố gắng thực hiện những cuộc bố thí đến tăng hay tăng thí bất cứ khi nào bạn có thể làm được. Đừng bao giờ dính mắc vào những vật dụng mà bạn có ý định bố thí. Hãy để cho tâm bạn tràn ngập với sự xả ly hoàn toàn các sở hữu vật chất mà bạn đã dành riêng cho việc bố thí. Thái độ này được gọi là muttacāgī - thí xả giả (mutta có nghĩa là xả ly một cách hào phóng, và cāgī là người có thói quen bố thí). Vì thế những người làm việc bố thí nên ghi nhớ trong tâm rằng: chớ để bị dính mắc vào người thọ nhận; chớ để bị dính mắc vào vật bố thí; chớ bố thí với tâm mong cầu đời sống xa hoa vật chất trong cõi người và cõi trời (phước báu nhân thiên); mà chỉ với ước nguyện cao quý muốn đạt được hạnh phúc tối thượng của Niết Bàn. Điều này sẽ làm cho bạn trở thành một người thí chủ lý tưởng.

* Phân loại các thiện nghiệp (kusala)

Trong các tâm sở thiện (cetasikas) chúng ta biết vô tham (alobha), vô sân (adosa) và vô si (amoha) là các nhân thiện hay cội gốc của thiện. Giống như cội gốc của một cái cây nuôi nấng toàn bộ cơ thể cây được khoẻ mạnh như thế nào, ba gốc thiện này cũng vậy, làm cho các tâm (citta) và tâm sở (cetasika) thiện tăng trưởng và phát triển như thế ấy. Do đó, tâm thiện (kusala citta) có thể phân thành hai loại: tâm thiện nhị nhân (dvihetuka - kusala citta), tức tâm thiện kết hợp với hai nhân hay gốc vô tham và vô sân; còn tâm thiện tâm nhân (tihetuka - kusala - citta) là tâm thiện kết hợp với cả ba nhân - vô tham, vô sân và vô si.

* Tâm thiện nhị nhân (Dvihetuka kusala citta )

Khi một người nuôi dưỡng một tâm thiện với vô tham và vô sân, thời tâm thiện của người ấy là tâm thiện nhị nhân. Trong mười loại phước nghiệp sự, chánh kiến (sammādiṭṭhi) là tin và hiểu biết nghiệp và quả của nghiệp. Sự hiểu biết đúng hay chánh kiến này còn được gọi là kammassakata-ñāṇa - nghiệp tác trí.

Nếu một đứa bé hay một người thiếu trí không biết gì về nghiệp và quả của nghiệp đem cho người nghèo khó một vật gì, họ cũng cảm thấy một niềm hân hoan nào đó khi làm như vậy. Song sự hoan hỷ ấy không đi kèm với kammassakata-ñāṇa (nghiệp tác trí) - tức không hiểu biết về nghiệp và quả của nghiệp, do đó không có vô si (amoha) trong tâm thiện của họ. Vì chỉ có hai nhân vô tham và vô sân nên một tâm thiện như vậy được đặt tên là tâm thiện nhị nhân (dvihetuka-kusala-citta).

Ngày nay, nhiều người Phật tử làm việc từ thiện và đặt bát cho Chư Tăng theo thói quen mà không có sự hiểu biết đúng về nghiệp và quả của nghiệp. Tâm bố thí như vậy chỉ gọi là tâm thiện nhị nhân. Ngay cả một người có học nếu làm các việc thiện một cách qua loa chiếu lệ, thiện tâm của họ cũng rơi vào cùng phạm trù như thế. Tóm lại, mọi thiện sự nếu làm không có trí tuệ đều được sắp vào loại thiện nhị nhân (dvihetuka-kusala) cả.

* Tâm thiện tam nhân (Tihetuka-kusala-citta)

Một tâm thiện kết hợp với ba nhân - vô tham, vô sân và vô si, được gọi là tâm thiện tam nhân. Mọi thiện sự nếu làm với nghiệp tác trí - Kammassakata ñāṇa đi kèm (tức làm với sự hiểu biết về nghiệp và quả của nghiệp) đều nằm trong phạm trù này. Ngày nay nhiều người Phật tử có học thức làm các thiện sự vì Tam bảo (Phật, Pháp, Tăng) cũng như vì cha mẹ và các bậc tôn trưởng của họ với thái độ rất tốt. Bởi lẽ tâm họ kết hợp với sự hiểu biết rõ ràng về những quả lợi ích trong vòng luân hồi (saṁsāra), nên thiện nghiệp của họ trở thành thiện tam nhân (tihetuka-kusala). Nếu bố thí được làm với tư duy minh sát (vipassanā): Những vật chất này thực ra chỉ là các tổng hợp sắc (rūpa-kalāpa), và chúng mang tính chất vô thường (anicca), khổ (dukkha) và vô ngã (anatta), thời không cần phải nói, một tâm trạng bố thí như vậy chắc chắn phải là tâm thiện tam nhân cao quý nhất của nó rồi. Do đó, điều thiết yếu là các bậc cha mẹ và huynh trưởng nên dạy cho con em của mình hiểu biết về nghiệp và quả của nghiệp, cũng như sự hiểu biết cơ bản về tính chất vô thường, khổ và vô ngã trước khi làm những việc phước và trước khi chia sẻ những phước báu có được (hồi hướng công đức).

* Thiện nghiệp cao thượng và thiện nghiệp hạ liệt

Trong từ vựng Pāli, ukkaṭṭha có nghĩa là cao thượng, còn omaka có nghĩa là hạ liệt. Nếu các tâm thiện nhị nhân và tâm thiện tam nhân được vây quanh bởi những trạng thái thiện vào lúc khởi lên của tư tiền (pubba-cetanā) hoặc vào lúc khởi lên của tư hậu (apara-cetanā), nghiệp đó được xếp vào loại thiện nghiệp cao thượng (ukkaṭṭha-kusala). Còn nếu chúng bị vây quanh bởi những trạng thái tâm bất thiện, thời nghiệp ấy được xếp vào loại thiện nghiệp hạ liệt (omaka-kusalakamma).

Khi chúng ta nói được vây quanh bởi những trạng thái tâm thiện hay bất thiện, là muốn nói tới những trạng thái tâm nào liên hệ trực tiếp với thiện nghiệp đã làm. Nếu những trạng thái ấy không liên quan đến thiện nghiệp đã làm, chúng ta không thể nói có sự kèm theo của thiện nghiệp (kusala) hay bất thiện nghiệp (akusala) được. Giả sử, một Phật tử ngay trước khi thực hiện một cuộc bố thí lớn thì phẫn nộ với con nợ và đòi kiện anh ta. Dĩ nhiên, đây là sân bất thiện (dosa-kusala). Nhưng nếu cơn giận không ảnh hưỏng đến cuộc bố thí và anh ta vẫn cảm thấy hoan hỷ sau việc làm phước, thời sân bất thiện phát sinh do sự giận dữ trước đó không gây ảnh hưởng bất lợi đến tính chất của tâm thiện bố thí của anh ta.

Tóm lại chúng ta có thể nói: các thiện nghiệp tam nhân cao thượng là những thiện nghiệp được làm với cả hai tư tiền và tư hậu - tức trước và sau lúc làm việc thiện đều có chủ ý tốt. Nếu một trong hai cetanā (tư tiền và tư hậu) này vắng mặt, nghiệp đó trở thành thiện nghiệp tam nhân hạ liệt. Nếu cả hai cetanā đều vắng, thời nghiệp ấy thuộc vào loại thiện nghiệp tam nhân hạ liệt hơn nữa. Tương tự, thiện nghiệp nhị nhân cao thượng và thiện nghiệp nhị nhân hạ liệt cũng phải hiểu như vậy. Đối với các thiện sự khác như trì giới, cung kính, phục vụ, v.v… chúng ta cũng có các phạm trù tư tiền, tư hiện, và tư hậu của loại thiện nghiệp nhị nhân và tam nhân và của loại thiện nghiệp cao thượng và hạ liệt y như vậy.

Yếu chỉ :

1. Một thiện sự được làm với sự hiểu biết về nghiệp và quả của nghiệp là thiện nghiệp tam nhân.

2. Nếu sự hiểu biết này vắng mặt, nó trở thành thiện nghiệp nhị nhân.

3. Nếu một thiện nghiệp được đi trước và nối tiếp sau bởi các tâm thiện, thì đó là thiện nghiệp cao thượng.

4. Nếu tâm bất thiện phát sinh trước và sau một thiện sự, đó là thiện nghiệp hạ liệt.

Phân loại khác

Bố thí (dāna) có thể được xếp theo ba mức độ: hạ liệt thí (hīna-dāna), trung bình thí (majjhima-dāna) và cao thượng thí (paṇīta-dāna). Cách phân loại này dựa trên những vật phẩm cúng dường. Nếu những vật phẩm cúng dường hay bố thí thấp hơn những gì ta dùng, đó là hạ liệt thí (hīna-dāna). Nếu ta cúng dường những vật có phẩm chất tương đương với những gì ta dùng, đó là trung bình thí (majjhima-dāna). Nếu ta bố thí những vật phẩm tốt hơn những gì ta dùng, đó là cao thượng thí (paṇīta-dāna).

Một cách khác, bố thí có thể được phân thành ba: nô bộc thí (dasa-dāna), bằng hữu thí (sahayadāna) và chủ thí. Nô bộc thí được coi là hạ liệt thí (hīna-dāna), tức bố thí thuộc loại hạ liệt giống như cho một kẻ nô bộc; bằng hữu thí được coi là trung bình thí, tức bố thí thuộc loại trung bình giống như cho một người bạn; và chủ thí được coi là cao thượng thí (paṇīta), tức bố thí thuộc loại cao thượng giống như dâng cho người chủ.

Cách khác

Ước muốn (làm), tinh tấn và tư (cetanā) yếu tạo thành hạ liệt thí (hīna-dāna); ước muốn, tinh tấn và tư vừa phải tạo thành trung bình thí (majjhima-dāna) và ước muốn, tinh tấn và tư mạnh mẽ tạo thành cao thượng thí (paṇīta-dāna).

Cách khác

Bố thí với hy vọng được khen, như “Anh ta là thí chủ của ngôi chùa này hoặc ngôi tháp nọ”, hoặc bố thí vì danh vọng là hạ liệt thí (hīna-dāna). Bố thí được thực hiện với suy tư về những lợi ích trong đời tương lai khi còn trôi lăn trong luân hồi là trung bình thí (majjhima-dāna). Bố thí không tính đến những lợi ích tương lai mà chỉ với thiện chí chân thành hợp với phong tục của các bậc giới đức và các bậc trí tuệ là cao thượng thí (paṇīta-dāna).

Ghi chú : Những thiện sự được làm không mong đợi đáp trả được xem là cao quý hơn những thiện sự được làm với hy vọng được một phần thưởng tương lai nào đó. Thiện chí vô ngã, vị tha đối với hạnh phúc của tha nhân chỉ thuộc về những nhân cách cao quý nhất như các vị Bồ tát (Bodhisattas) chẳng hạn.

Cách phân loại khác

Bố thí với hy vọng có được đời sống xa hoa vật chất là hạ liệt thí; bố thí với ý định thoát khỏi luân hồi là trung bình thí; đại thí của các bậc Bồ tát để hoàn thiện bố thí balamật (dānapāramī) với hy vọng giúp các hữu tình chúng sinh tự giải thoát khỏi vòng tử sinh luân hồi được liệt vào cao thượng thí. Đó là những cấp độ bố thí khác nhau dựa trên thái độ tinh thần của người bố thí. (Đối với các thiện sự khác như trì giới, cung kính, phục vụ… cũng có thể gặp những mức độ khác nhau như vậy)

* Quả của bố thí

Bố thí, để bát (Chư Tăng), làm từ thiện và thiện chí giúp người nói chung đều gọi là bố thí (dāna) cả. Quả của bố thí là người bố thí sẽ được giàu sang hơn trong kiếp sau. Nhưng nếu bạn không có tư hậu (apara-cetanā) tốt, tức là nếu bạn cảm thấy bủn xỉn hoặc hối tiếc sau khi bố thí, bạn sẽ không được hạnh phúc trong đời sau dù giàu có. Bạn sẽ trải qua những tháng ngày của đời bạn theo như cách của người cơ cực mặc dù bạn là người rất giàu sang.

Câu chuyện của một phú ông

Trước thời đức Phật Gotama (Đức Phật Thích Ca), có một người đàn ông giàu có, nhà ông một hôm được Đức Phật Độc Giác (Paccekabuddha) đến khất thực. Mới đầu, người này ra lệnh cho kẻ ăn người làm của mình mang vật thực ra cúng dường cho Đức Phật Độc Giác. Nhưng sau đó ông lại cảm thấy rằng cúng dường như vậy chỉ là một sự phí phạm; ông ta đã không có tư hậu tốt và không được vui.

Do thiện nghiệp cúng dường vật thực này ông được sanh làm người giàu sang trong thời Đức Phật Gotama của chúng ta. Tuy nhiên do tư hậu không tốt, ông chẳng bao giờ thích sống một cuộc sống giàu sang. Ông mặc những loại quần áo tầm thường, rẻ tiền và chỉ ăn những loại gạo nát với dấm chua. Cứ như vậy, ông sống giống như một người nghèo khổ cho đến chết; sau khi ông qua đời tất cả tài sản của ông bị đức vua sung công hết, do không có người thừa tự.

Bài học từ câu chuyện trên

Ngẫm nghĩ sâu xa về người đàn ông giàu có này, chúng ta thấy thời nay cũng đâu thiếu những con người bủn xỉn, sống cuộc đời không hưởng được sự giàu sang của họ như vậy! Họ không có lòng dạ đâu mà mặc những quần áo tốt đẹp và ăn những món ngon vật lạ. Nếu họ đem tiền bạc và tài sản mà biếu những người nghèo khó và túng thiếu, thời còn biện minh cho sự tiết kiệm của họ được. Song sự keo kiết này đích thị là ác. Trong những kiếp đời sống tương lai sau, sự keo kiết, bủn xỉn của họ sẽ theo đuổi họ dưới hình thức của dị thục quả (vipāka). Rồi họ cũng chấm dứt cuộc đời như người đàn ông giầu có khốn khổ trên mà thôi.

Điều tốt nhất

Hãy nhớ rằng đã là người giàu có thời phải sống đúng theo địa vị và sự giàu sang của mình. Bạn phải sống một cách thoải mái, dành một phần để làm di sản và cũng phải biết bố thí làm phước. Chỉ khi đó bạn mới có thể được xem là biết sống xứng đáng, đem lại lợi ích cho đời này cũng như những đời sau. Ngài Dipeyin Sayadaw khuyến giáo như sau: “Thức ăn đã ăn vào thời trở thành phân; hãy xem của cải bỏ lại phía sau khi người ta chết thì biết; trồng cây - ước của thiện nghiệp (kusala kamma) trong lúc còn sống trong cõi người xứng đáng này, hãy ăn những gì bạn kiếm được; song cũng phải để dành một phần mà làm di sản và bỏ ra một phần để bố thí. Đây là cách sống của con người đức hạnh.”

* Những lợi ích của bố thí

Có lẽ không cần phải trình bày chi tiết những lợi ích của bố thí ở đây. Thiện nghiệp cho một con vật ăn chỉ một lần còn đem lại (a) sống lâu, (b) sắc đẹp, (c) tài sản, (d) sức mạnh và (e) trí tuệ cho cả một trăm kiếp về sau. Do bố thí trong kiếp này, khi tái sinh vào nhân giới hay thiên giới, bạn sẽ vượt trội hơn những chúng sinh khác.

Thời Đức Phật Kassapa (Ca-Diếp) có hai vị sư rất thân với nhau. Một trong họ là người bố thí rộng rãi trong khi người kia thì không. Vì cả hai đều giữ giới (sīla) trong sạch, nên sau khi chết, họ cứ tái sinh hết làm người đến làm chư thiên cho mãi tới thời Đức Phật Thích Ca. Trong mỗi kiếp như vậy, vị biết bố thí luôn luôn ở địa vị cao hơn vị kia. Kiếp cuối cùng, cả hai đều tái sinh làm người trong cung điện của đức vua Kosala (Kiếu Tất La). Vị bố thí rộng rãi trở thành hoàng tử, và vị kia, là con trai của một viên đại thần. Trong khi vị hoàng tử ngủ trong chiếc nôi làm bằng vàng có che lọng trắng biểu tượng của hoàng gia, con trai viên đại thần thì lại ngủ trong chiếc nôi làm bằng gỗ. Mặc dù cả hai đều đạt đến Niết Bàn tối hậu như nhau song những lợi ích họ hưởng trong mỗi kiếp vẫn khác nhau hoàn toàn.

* Bố thí có kéo dài vòng luân hồi không?

Có một số người lầm tưởng rằng bố thí sẽ chỉ kéo dài vòng tử sinh luân hồi thêm mà thôi. Trong câu chuyện của hai người bạn kể trên chúng ta đã thấy rằng người biết bố thí cũng đâu có đắc Niết Bàn trễ hơn. Do đó, thật phi lý khi quả quyết rằng bố thí kéo dài thêm vòng luân hồi. Thực ra, chính sự bất tịnh trong tâm của người bố thí mới có trách nhiệm cho việc kéo dài thêm vòng luân hồi. Việc bố thí thúc đẩy bởi lòng khao khát muốn được hưởng những xa hoa vật chất của cõi người hay cõi trời mới khiến cho con người phải nấn ná trong vòng luân hồi này.

Một số còn lầm lẫn cho rằng chính Đức Phật đã phải lăn lộn lâu hơn trong vòng luân hồi vì thích bố thí trong mỗi kiếp sống. Điều này hoàn toàn không đúng. Chính do bố thí Balamật mà vô lượng chư Phật đã đạt đến sự giác ngộ tối thượng trong khi chúng ta vẫn còn lặn hụp trong vòng trầm luân sinh tử. Liệu có thể cho rằng những cuộc bố thí của chúng ta vượt xa bố thí của chư Phật không? Đức Bồ-tát Vessantara (tiền thân của Đức Phật Thích Ca) đã thực hiện một cuộc đại thí vô tiền khoáng hậu để đạt đến Phật quả chỉ sau có hai kiếp. Dó đó, rõ ràng rằng bố thí không phải là nguyên nhân của khổ đau lâu dài trong vòng luân hồi.

Bây giờ chúng ta đã thấy rằng bố thí không làm cho vòng luân hồi dài thêm. Chỉ có tâm bị ô nhiễm bởi ái dục mới có ảnh hưởng lớn trên chúng ta, và làm cho vòng luân hồi dài thêm mà thôi. Tất cả các vị Bồ tát chỉ phấn đấu để đạt đến sabbaññutāñāṇa - Nhất Thiết Trí và các vị phải lang thang trong sanh tử luân hồi cho đến khi nào những Balamật cần yếu cho Nhất Thiết Trí này được hoàn tất mới thôi. Tất nhiên các ngài phải tích luỹ trí tuệ xứng đáng với một vị Phật. Trái xoài sẽ không chín trừ khi và cho đến khi đủ già có lẽ là hình ảnh liên hệ thích hợp ở đây vậy.

* Hai loại thiện (Kusala)

Một thiện sự được làm không phải với hy vọng thoát khỏi luân hồi mà chỉ để thọ hưởng phước báu nhân thiên gọi là vaṭṭanissita-kusala: thiện y chỉ luân hồi hay thiện sự dựa vào luân hồi. Một thiện sự được làm với hy vọng thành tựu Niết Bàn gọi là vivaṭṭanissita kusala, thiện xuất ly luân hồi hay thiện sự không y tựa vào luân hồi. Trong hai loại thiện này, bất cứ điều gì thuộc y chỉ luân hồi, dù là bố thí hay giữ giới cũng sẽ kéo dài khổ đau của ta trong luân hồi. Ngược lại mọi hình thức của thiện xuất ly luân hồi sẽ thúc đẩy chúng ta vượt thoát khỏi tử sanh luân hồi và trợ giúp chúng ta thành đạt nguyện ước cao quý là chứng đắc Niết Bàn.

* Bố thí trợ giúp sự hoàn thiện các pháp Balamật

Những người bố thí rộng rãi thường có đầy đủ tài sản trong những kiếp sống tương lai của họ, nhờ thế họ có thể sống một cách thanh nhàn. Người có lòng nhân ái và đã thực hiện được những nghiệp thiện xuất ly luân hồi (vivaṭṭanissita kusala) trong đời quá khứ có thể giữ giới, nhất là Bát quan trai giới. Trong khi những người nghèo khổ, túng thiếu, phải lăn lộn kiếm sống, không thể giữ giới được. Trong việc theo đuổi con đường học vấn cũng vậy, người giàu có được đầy đủ phương tiện hơn. Nói gì đến những ngôi trường tốn kém, ngay cả những ngôi trường thuộc chế độ tu viện mà sự giáo dục hoàn toàn miễn phí cũng thế, con em của những gia đình giàu có đương nhiên được quan tâm nhiều hơn. Như vậy, khi một người đã làm các việc bố thí trong quá khứ, họ cũng được tiếp nhận sự giáo dục với nhiều thoải mái hơn.

Một người giàu cũng dễ dàng thực hành đức kham nhẫn khi phải đương đầu với sự lăng mạ hoặc sỉ vả bởi vì họ có thể phớt lờ chúng với sức mạnh của ý chí và lòng tự trọng của họ. Nhưng đối với một người nghèo, nếu bị sỉ nhục, chắc chắn họ sẽ bị ám ảnh bởi mặc cảm rằng chính cái nghèo đã gây nên sự bất công đó và vì thế mà họ phản ứng lại một cách mạnh mẽ. Vì lẽ một người giàu có thường được các thành phần xã hội khác kính trọng, nên họ lại luôn có dịp biểu lộ lòng từ ái và bi mẫn đối với những thành phần này. Một người nghèo thường không có được tình thương yêu và kính trọng của người khác cho nên họ luôn ấp ủ lòng sân hận hoặc kiêu căng hão huyền thay vì nuôi dưỡng lòng từ ái và bi mẫn. Do đó, bố thí còn giúp cho sự hoàn thành của các pháp Balamật khác như kham nhẫn (khantī) và tâm từ (mettā).

Trong đời này, thật khó cho người nghèo giữ được lời hứa. Ở đây cũng thế, bố thí giúp cho người ta sống chân thật và giữ được lời hứa. Không có bố thí, thực khó mà có thể hoàn thành pháp chân thật (sacca) Balamật này. Đó là lý do vì sao các vị Bồ tát trước tiên phải hoàn thành pháp bố thí Balamật. Bố thí đứng đầu trong mười Balamật. Đức Phật Gotama của chúng ta đã hoàn thành các Balamật khởi sự với bố thí. Khi còn là đạo sĩ Sumedha (Su-mê-tha) ngài đã hoàn thành bố thí Balamật đầu tiên. Và khi là Vua Vessantara, đức Bồ tát của chúng ta đã hoàn thành bố thí Balamật kể như giai đoạn cuối cùng của sự toàn bích.

* Những ai có thể thực hành mà không cần bố thí

Có những người không cần phải thực hiện các việc bố thí này. Đó là những hành giả căn cơ cao đang nỗ lực nghiêm mật để vượt thoát luân hồi trong kiếp hiện tại. Các vị dành trọn thời gian vào việc thực hành thiền chỉ (samatha) và thiền minh sát (vipassanā). Nếu họ dùng thời giờ của mình vào việc bố thí, điều đó sẽ chỉ làm mất thời gian và nỗ lực vô ích. Một khi họ đã dành toàn tâm toàn ý vào việc mau chóng chứng đắc giải thoát, bố thí không còn cần thiết đối với họ nữa. Họ phải hành thiền tích cực cả ngày lẫn đêm. Xưa có một vị Tỳ khưu ở Mandalay (thủ đô của Miến) rất thích làm việc bố thí, đến hành thiền dưới sự hướng dẫn của Thiền Sư Mahā Gandhayon sayadaw, vị này cũng là thầy Yết-ma của chúng tôi. Một buổi sáng, vị Thiền Sư thấy thiền sinh mới này đang gom nhặt những bông hoa rơi rụng để cúng dường Đức Phật. Ngài liền khuyên: “Trong lúc hành thiền, hãy chỉ chú tâm vào thực hành; sau đó ông có thể cúng dường hoa cũng không muộn”

Bản thân Thiền Sư Mahā Gandhayon sayadaw cũng miệt mài cả ngày lẫn đêm trong việc hành thiền với quyết tâm tự giải thoát mình khỏi tử sinh luân hồi ngay trong kiếp hiện tại. Dù ngài có thành tựu được mục đích cao cả của mình hay không, tôi không đủ tư cách để biết. Song Mahā Gandhayon sayadaw đã dùng hết thời gian của mình để độc cư hành thiền trong cái hang của ngài. Tuy thế ngài không bao giờ quên việc bố thí. Khi ngài rời bỏ cái hang mà ngài từng độc cư thực hành đó, ngài đã bố thí hết những vật dụng thuộc sở hữu của ngài cho các vị Tỳ Khưu khác. Do đó, khi bạn dành thời gian miệt mài trong việc hành thiền với ý định đạt đến sự giác ngộ trong kiếp hiện tại này, việc thực hành bố thí không còn cần thiết nữa. Nhưng khi bạn không bận rộn theo cách đó, dứt khoát bạn nên làm việc bố thí như những người khác vậy.

* Niềm vui của bố thí (Dāna)

Bố thí quả thực là một niềm hạnh phúc. Người có lòng quảng đại và từ thiện luôn luôn cảm thấy bi mẫn đối với những người nghèo khó và túng thiếu. Tâm bi mẫn này sẽ được theo sau bởi lòng từ ái (mettā) đối với mọi chúng sinh. Từ đó bạn trau dồi thêm tâm hoan hỷ (muditā) với những người đã được giàu sang và thịnh vượng. Vì vậy khuôn mặt bạn luôn luôn toả sáng giống như ánh trăng rằm và phong thái của bạn gợi lên một sự điềm tĩnh và an lành.

Đáp lại, những người thọ thí cũng sẽ có lòng từ ái và ước mong cho hạnh phúc của bạn. Thí chủ càng giàu có, người thọ nhận sẽ càng phát triển thật nhiều tâm hoan hỷ đối với họ. Như vậy, một hành động bố thí sẽ đưa đến sự phát triển của cả bốn phạm trú (brahmavihāra) hay bốn trạng thái tâm cao thượng: từ, bi, hỷ, và xả. Cho đến mức độ này một hành động bố thí cao quý và sâu rộng sẽ lót đường cho các phạm trú - mettā, karuṇā và muditā, cũng như thúc đẩy thêm cho sự tu tập thiền chỉ và thiền minh sát.

* Người rộng rãi là người giàu có

Thực sự những người giàu có thoát được cái lo về sinh kế ở đời này không nhiều lắm. Còn người nghèo, người túng thiếu và cơ cực thì rất nhiều. Người nghèo chắc chắn phải là những người không có niềm tin vào việc bố thí trong những kiếp trước của họ. Và người giàu dứt khoát phải là những thí chủ hào phóng trong những kiếp quá khứ. Vậy, những người giàu này có nên thoả mãn với sự giàu sang của mình trong kiếp này không? Tất nhiên là không. Vì sự giàu có và của cải không thể đi theo họ sang đời sau được. Một khi họ đã qua đời, họ sẽ không còn là người giàu nữa. Bởi thế người giàu phải biết để lại một phần tài sản cho những người thừa kế của họ và phần còn lại đem bố thí cho những người nghèo khó, túng thiếu. Chỉ khi đó họ mới được giàu sang trong những kiếp kế và cho tới lúc chứng đắc Niết-bàn. Nguyên tắc quan trọng ở đây là: “Người bố thí rộng rãi trong kiếp trước là người giàu sang trong kiếp này; người bố thí rộng rãi trong kiếp này sẽ là người giàu sang trong những kiếp tương lai”.

Của cải chẳng qua chỉ là vật sở hữu tạm thời; giàu sang chỉ trong một kiếp, một đời thôi. Chúng ta không nên xem của cải của ta là “sở hữu của ta”. Nó sẽ là “của ta, nếu biết dùng nó cho hạnh phúc của người nghèo”

Chúng ta không nên ngần ngại đem tài sản của mình ra bố thí cho những người thực sự cần nó vậy.

* Người giàu tựa như một con sông…

Một người giàu có, đức hạnh có thể sánh với một con sông, một cội cây, hay một trận mưa, như đã được đề cập trong “Lokaniti” (một tác phẩm răn đời của Miến). Con sông dù chứa đầy nước, nó vẫn không uống lấy một giọt. Con sông chỉ vì lợi ích của tha nhân mà phục vụ. Người ta đi đến bên sông để giặt, để tắm hoặc để uống nước. Cũng thế, cây không ăn những trái nó sinh ra. Trái nó sinh ra cho người khác dùng mà thôi. Mưa không chỉ rơi xuống các sông hồ và giếng nước mà còn rơi cả trên những vùng đất cằn cỗi và trên sa mạc.

Tương tự, người giàu có đức hạnh tích luỹ của cải không chỉ cho riêng họ mà cũng còn để giúp đỡ người nghèo khó. Họ dùng của cải của họ cho hạnh phúc của người nghèo. Khi họ thực hành phước bố thí, không phải họ chỉ dâng nó cho các vị thầy (sayadaw) nhiều phước như những giếng nước đã đầy mà còn cho đến những người nghèo như những mảnh đất khô cằn sỏi đá.

Như trên đã nói, bố thí làm tăng thêm các trạng thái cao thượng hay các phạm trú: từ (mettā), bi (kaniṇā) và hỷ (muditā). Bố thí tạo cho con người có được vẻ mặt tươi sáng vui vẻ. Người bố thí còn tạo được nhiều thiện nghiệp (kusala) trong kiếp này, và cũng sẽ có đầy đủ tài sản trong đời sau. Chúng ta không nên sao lãng đức hạnh bố thí, một đức hạnh có sức mạnh thúc đẩy con người nhanh chóng đạt đến Niết-bàn.

Bởi thế, nếu chúng ta theo lời dạy của Đức Phật, giữ tám giới, mười giới, hoặc Ājīvaṭṭhataka (Hoạt mạng đệ bát giới - giới thứ tám là chánh mạng), tắm và mặc áo quần sạch sẽ, tu tập ba tâm vô thượng: từ, bi và hỷ, với ý định đạt đến Niết-bàn, dám nói với tâm kiên định, “Addhā imāya paṭipattiyā jarāmaraṇamhā parimuccissāmi” – “chắc chắn nhờ việc thực hành bố thí này ta sẽ thoát khỏi những thống khổ như già, bệnh và chết”, có thể thực hành bố thí với tâm hoan hỷ với tất cả những ai đến với chúng ta bất kể họ là người ngay thẳng hay độc ác; thì điều đó thật là sung sướng biết bao? Làm thế nào việc bố thí này lại có thể giữ chúng ta lâu dài trong vòng luân hồi được chứ? Chẳng phải nó sẽ thúc đẩy chúng ta nhanh chóng đạt đến Niết-bàn đó sao?

* Chúng ta không thể không cần đến bố thí

Ta không nên cho rằng những gì vừa nói ở trên là đã bao hàm mọi lợi ích của bố thí. Thực ra, để liệt kê hết những lợi ích của bố thí đòi hỏi phải có một luận giải riêng về đề tài ấy. Nếu một người tin theo những phường hiểm ác nào đó mà từ bỏ việc bố thí, thì những mối tương quan thân thiện sẽ chấm dứt và lòng từ ái nơi họ sẽ tiêu vong. Người giàu sẽ không còn bố thí đến người nghèo mà sẽ có thái độ bất chấp, không quan tâm gì đến mọi người và còn nói, “Ồ, ai chết mặc ai. Lo gì!” Nhân loại không có pháp bố thí thực sự sẽ rất man rợ. Và, dĩ nhiên tâm man rợ này cuối cùng sẽ dẫn đến thân hành thô lỗ.

Bồ Tát Tất-đạt-đa đã đạt đến Giác ngộ và trở thành đấng Như-lai (Tathagata) sau khi từ bỏ của cải quyền lực và sự vinh quang của ngôi vua, chỉ sống nhờ vào sự giúp đỡ và hỗ trợ của các thí chủ cúng dường vật thực hàng ngày. Ngài có thể thuyết giảng Diệu pháp và thiết lập Giáo hội Tăng già để truyền bá Giáo pháp (sasana) của ngài là nhờ sự hỗ trợ của các Phật tử giàu có như Ông Cấp-cô-độc (Anathāpiṇḍika), Bà Visākhā, đức Vua Tầnbāsala, v.v… Nếu không có những thí chủ giàu lòng quảng đại ấy, Đức Phật hẳn sẽ không có mặt trên thế gian, nói gì đến giáo pháp của ngài. Không chỉ đức Phật Gotama của chúng ta thôi, mà vô lượng chư Phật quá khứ chắc hẳn sẽ không đạt đến Toàn Giác nếu thế gian không có pháp bố thí. Vì vậy, tôi muốn thành tâm ước nguyện: “Mãi mãi sẽ không có người nào chống báng hoặc không biết tới việc làm quảng đại của bố thí này”.

Chắc chắn không thể liệt kê một cách đầy đủ những lợi ích bạn sẽ gặt hái được nhờ bố thí, nhờ lòng từ thiện. Nếu như không có bố thí, thì cũng không có Chư Phật chỉ đường cho chúng ta đi đến Niết-bàn. Hãy nhớ rằng những thành phần ưu tú của xã hội, những vị chư thiên lộng lẫy, đa phần trong họ có thể bảo là nhờ vào sự bố thí mà được như vậy, người nghèo và người túng thiếu là những người không có lòng quảng đại. Nếu bạn thành tâm ước nguyện muốn thoát khỏi luân hồi, hãy dùng đến pháp bố thí (dāna).

2. GIỮ GIỚI

Người ta thường nói rằng, “Giới là đức hạnh cao quý hơn bố thí.” Có lẽ bạn không dễ bị thuyết phục bởi điều này, tuy nhiên có một ý nghĩa thâm sâu nằm dưới lời tuyên bố ấy. Để hiểu được ý nghĩa này đòi hỏi phải có một lý luận nghiêm túc. Trong thế gian này, bảo vệ và che chở cho người khác khỏi những nỗi bất hạnh và khổ đau là một việc làm cao quý. Nâng cao hạnh phúc và thịnh vượng của tha nhân cũng là một việc làm cao quý khác. Bố thí giúp người khác được sống thuận lợi. Giữ giới bảo vệ họ khỏi những điều bất hạnh khổ đau.

[Sīla (giới) ở đây có nghĩa là giữ ngũ giới và ăn ở theo đúng hoạt mạng đệ bát giới - Ājīvaṭṭhamaka sīla - giới và chánh mạng kể như giới thứ tám. Giữ Bát quan trai giới và Thập giới]

* Nhiệm vụ của bố thí

Con người phải có trách nhiệm đối với việc làm của mình. Giả sử một người đang khổ vì nghèo do nghiệp riêng của họ; giúp đỡ người nghèo này có nghĩa là bố thí. Các vị Tỳ khưu không phải là những người nghèo đúng theo nghĩa của nó, song các vị cần bốn món cần thiết (tứ vật dụng; thực phẩm, y áo, thuốc men, chỗ ở) để duy trì sự sống của mình; vì thế cũng có thể xem họ là những người nghèo túng. Do đó cúng dường vật thực và những vật dụng cần thiết đến các vị Tỳ Khưu cũng có nghĩa là bố thí.

Một số vị Tỳ Khưu hoặc Trụ trì thọ nhận rất nhiều của cúng dường và khéo giữ gìn (những vật dụng ấy). Tuy thế nếu bạn cúng dường cho các vị những gì họ cần, đấy cũng là giúp cho người túng thiếu. Ngay cả nếu bạn cúng dường cho họ những vật họ không cần, thì cúng dường của bạn cũng có nghĩa là đang giúp cho người thiếu thốn, vì các vị thường chia sẻ những vật cúng dường ấy cho những vị Tỳ Khưu khác hoặc Cư sĩ thiếu thốn. Dù cho bạn giúp một ít người hay giúp được cho nhiều người, bố thí vẫn là cao quý, là một đức hạnh tuyệt vời. Những ai thực sự hiểu được những lợi ích của bố thí sẽ luôn luôn thấy rằng bố thí là một việc làm chính đáng.

* Tránh sát sanh (Pāṇātipātā-virati)

Còn về Giới, nhiệm vụ của nó là bảo vệ các hữu tình chúng sinh khỏi khổ. Giới thứ nhất của ngũ giới là tránh không sát hại các loài chúng sinh (người và các sinh vật nói chung). Chúng ta hãy tưởng tượng những hậu quả khủng khiếp của việc vi phạm giới thứ nhất này xem. Hãy nghĩ tới nỗi bất hạnh xảy đến với nạn nhân. Hãy hình dung con số những sinh vật ở biển, các loại trâu bò, gia cầm, v.v… phải bị giết do chúng ta không giữ giới thứ nhất. Cũng thử hình dung ra những tội giết người đang hoành hành mà cuối cùng sẽ dẫn đến chiến tranh, máu đổ tràn lan khắp toàn cầu này xem. Đó là sự thực hiển nhiên cho thấy rằng giới thứ nhất (không sát sanh) này không ai được phép vượt qua vì điều đó sẽ gây ra tai hoạ cho một người và cho mọi cư dân của quả đất này vậy.

Nhờ giữ nguyên tắc bất sát, bạn cứu được mạng sống của một, hai, ba hoặc vô số chúng sinh khác. Giới bảo đảm cho sự an toàn của mọi chúng sinh và làm thăng hoa các trạng thái tâm cao thượng: từ (mettā), bi (karuṇā) và hỷ (muditā) đối với tất cả chúng sinh. Từ đó, thế gian này sẽ trở thành một trú xứ cát tường nơi mọi hữu tình chúng sinh sống với nhau một cách an bình, hạnh phúc.

So sánh

Bây giờ khi bạn đã thấy được lòng nhân từ của bố thí và lòng nhân từ của giữ giới, ắt hẳn bạn sẽ tin chắc rằng giới là đức hạnh cao quý hơn bố thí rồi phải không. Chúng ta có thể so sánh mức độ hoan hỷ của người thọ nhận một món quà với mức độ hoan hỷ của người được tha chết cảm nhận. Người sau chắc chắn sẽ ngàn lần vui sướng hơn người trước. Cũng vậy, sự vui mừng của một người đang đói được cho ăn và sự vui mừng của một người bị kết án tử hình được ân xá khác nhau một trời một vực. Người trước không cách nào có thể so sánh với người sau được.

* Tránh trộm cắp (Adinnādāna-virati)

Người ta có thể đau khổ cùng cực khi của cải của họ bị đánh cắp hay bị ăn trộm. Trên bình diện rộng hơn, Vua Chúa và Hoàng Tộc cũng như những công dân của một đất nước còn cảm thấy đau đớn hơn rất nhiều khi quê hương họ bị kẻ khác xâm lăng. Đất nước bị xâm lăng ấy sẽ ngày càng nghèo nàn hơn do người dân trong nước không thể tận dụng hết được những nguồn tài nguyên thiên nhiên của đất nước họ. Vì thế trộm cắp gây ra bao nỗi khổ và bất hạnh cho các nạn nhân. Do đó, tránh trộm cắp - adinnādāna virati, được xem là một giới có công năng giải thoát mọi người khỏi khổ đau và bất hạnh và còn tạo được sự bình yên cả về thể xác cũng như tinh thần.

* Tránh tà dâm (Kāmesu-micchācāra virati)

Hàng phàm phu (puthujjana) thường rất thích các dục lạc đặc biệt là khoái lạc của sự xúc chạm hay khoái lạc của thân thể. Không một người có ý thức nào chịu chia sẻ, huống nữa là cho không, vợ hay chồng của mình cho người khác. Mọi người ai cũng rất quý cái nửa (vợ hay chồng) của mình, và không ngại bảo vệ nó một cách mãnh liệt. Họ có thể chịu đựng được sự mất mát tài sản đến một mức độ nào đó, chứ tuyệt đối không thể dung thứ kẻ phạm tội đối với vợ hay chồng của họ. Bởi thế tránh tà dâm nghĩa là tránh gây đau khổ cho người khác, và tránh chuyện ngoại tình hay tránh sự quá đáng về tình dục sẽ mang lại bình yên cho mọi người.

* Tránh nói dối (Musāvāda-virati)

Những ai đã từng nếm trải việc bị gian lận, lường gạt hoặc bị nói dối hẳn cũng đã phải chịu đựng một hình thức phẫn nộ nào đó, dù có hơi vi tế. Hậu quả tai hại của việc bị lừa thực là dễ thấy. Một số kẻ nói dối sành sỏi trong nghề của họ đến độ thậm chí có thể lừa được cả toàn xứ sở. Ngày nay, có nhiều nhà lãnh đạo các giáo phái khi truyền bá tín ngưỡng của họ tự nhận đó là chân lý tuyệt đối. Bởi thế hàng triệu người đã bị dẫn đi lạc đường, cuối cùng gặp phải biết bao là tai hoạ. Do đó, tránh nói dối nghĩa là đã bảo vệ người khác khỏi khổ vậy.

(Ngay cả những người Phật tử chúng ta cũng vậy, khi gặp phải những vị pháp sư rởm thích truyền bá những tín ngưỡng sai lạc, và những vị không có đủ trình độ, đáng buồn thay, lại có đức tin lớn nơi những người như vậy và còn tỏ ra rất tôn trọng họ. Đây là điều đáng để chúng ta suy gẫm)

* Tránh uống rượu và các chất say (surāpāna virati)

Người đã dùng một loại chất say nào đó tất nhiên sẽ phải gánh chịu những hậu quả xấu trong những kiếp sau của họ. Song nếu họ chỉ uống một mình và không gây hại cho ai khác, điều đó còn có thể tha thứ được. Tuy nhiên hầu hết những người uống rượu, khi đã say rồi họ sẽ phạm vào các giới khác không hề do dự. Họ sẵn sàng cãi nhau, giết nhau, trộm cắp hoặc nói dối. Cũng như một tay đầu sỏ tất nhiên không bao giờ tự mình phạm vào một tội ác nào hết, mà chỉ sai bảo lũ đàn em của mình làm những việc đó, rượu hoặc các chất gây say cũng vậy, xúi dục những con nghiện phạm vào các tội ác mà không ngăn cản. Họ sẽ không hề tỏ ra miễn cưỡng khi phạm tội giết người, hiếp dâm, đốt nhà, trộm cắp, v.v… Trở thành một kẻ nghiện kinh niên nghĩa là đang theo con đường phóng dật và gây đau khổ cho gia đình gần gũi nhất, tức là cha me, vợ chồng, con cái, anh em của mình. Sau đó người nghiện này còn gây phiền muộn cho hàng xóm láng giềng của anh ta. Những ai tránh được uống rượu và các chất say sẽ tránh được cho thế gian những phiền muộn và khổ đau này.

Sau khi hiểu rõ những lợi ích của việc giữ ngũ giới, bằng một thái độ tương tự, chúng ta có thể tiếp tục nghiên cứu những lợi ích của hoạt mạng đệ bát giới, hay giới có chánh mạng (sammā ājīva) là thứ tám. Từ trước đến đây chúng ta đã thấy rằng việc giữ ngũ giới sẽ cứu thế gian này khỏi những phiền muộn và lo lắng. Giờ đây chúng ta đã thực sự hiểu được Giới cao quý hơn cả bố thí. Với quan niệm này mọi người chúng ta nên thận trọng giữ gìn giới, nhất là ngũ giới căn bản này. Cầu mong quý độc giả có thể giữ gìn trong sạch ngũ giới và truyền bá lòng từ ái (mettā) và bi mẫn (karuṇā) đến tất cả chúng sinh!

* Bát quan trai giới (Uposatha - sīla)

Các giới thuộc uposatha (bát quan) như: phạm hạnh (brahmacariya hoặc tránh việc hành dâm) và tránh việc thọ thực sau mười hai giờ trưa không thuộc về loại giới (sīla) giống như ngũ giới đã đề cập trên mà chúng ta giữ chỉ để không làm tổn hại kẻ khác; những giới này được giữ để làm cho tâm chúng ta cao thượng. Nói rõ hơn, giới Bát quan trai (uposatha) là giới mà chúng ta giữ một cách nghiêm túc chứ không như kiểu người ta thường giữ để người chung quanh chú ý, nên được gọi là Thánh giới (Ariya uposatha).

Vì thế, những người giữ Bát quan trai giới, sau khi đã thọ giới xong nên độc cư hành thiền, quán tưởng các ân đức của Phật, Pháp, Tăng, hoặc niệm tưởng các đức hạnh bố thí và trì giới của họ. Nhờ thế họ sẽ thấy rằng tham, sân, si và các trạng thái tâm bất thiện khác càng ngày càng ít khởi lên trong họ. Tâm họ mỗi ngày mỗi thanh tịnh và cao thượng hơn. Như vậy, rõ ràng rằng Bát quan trai giới không chỉ là giữ giới đơn thuần mà còn là một người bạn đồng hành của việc tu thiền (bhāvanā) nữa. Do đó, Bát quan trai giới được xem là pháp hành cao quý hơn ngũ giới thông thường.

3. TU THIỀN (Bhāvanā)

Bhāvanā nghĩa là phát triển hay trau dồi tâm. Nó là một hình thức của ý nghiệp (manokamma) làm cho tâm trở nên thanh tịnh. Khi bạn thành tâm ước mong cho hạnh phúc của tất cả chúng sinh và phát toả từ tâm đến họ, là bạn đang thực hành mettā-bhāvanā (thiền tâm từ). Trước tiên bạn trau dồi tâm từ trong tâm bạn và rồi cố gắng phát triển nó sao cho toàn thể con người bạn được thấm đẫm với lòng từ này.

Khi tâm từ đã phát triển trong tâm, bạn cảm thấy xót thương cho những người nghèo đói, bơ vơ không nơi nương tựa. Do đó, bạn phát toả những ý nghĩ trắc ẩn hay tâm bi đến những người cơ nhỡ. Đây gọi là karuṇā bhāvanā (thiền tâm bi). Giờ đây bạn sẽ phát triển một thôi thúc mãnh liệt muốn làm vơi nhẹ những nỗi khổ đau của người nghèo và bất hạnh. Từ khi tâm từ và tâm bi nảy nở trong bạn, bạn bắt đầu cảm thấy hoan hỷ đối với người giàu. Bạn cảm thấy một niềm hoan hỷ vị tha thực sự đối với họ. Đây là muditā bhāvanā (thiền tâm hỷ). Ba loại tu tập thiền (bhāvanā) kể trên có thể được phát triển bởi mọi người với một cái tâm cao thượng trong cuộc sống hàng ngày.

* Đề mục (nghiệp xứ) Tuỳ niệm Ân Đức Phật -Buddhanussati-kammaṭṭhāna

Đối với đề mục tuỳ niệm hay niệm tưởng các Ân Đức Phật (Buddhanussati-kammaṭṭhāna), bạn cần tập trung sâu vào ba thuộc tính: (1) sự tốt đẹp của nhân quá khứ, (2) sự tốt đẹp của quả, và (3) lợi ích cho tất cả chúng sinh.

- Sự tốt đẹp của nhân quá khứ

“Nhân” ở đây muốn nói tới sự hoàn thiện các pháp Balamật (Pāramīs) trong vô lượng kiếp quá khứ. Đức Phật đã thực hiện các nghiệp thiện và hành các Pháp Balamật với nghị lực phi thường. Những việc làm cao quý mà Ngài thực hiện trong suốt kiếp luân hồi không phải để cho riêng Ngài, mà cho sự giải thoát chung của mọi chúng sinh khỏi khổ đau trong trầm luân sinh tử. Chẳng hạn, chúng ta hãy nhớ lại việc thực hiện pháp bố thí balamật của Đức Vua Vessantara, tiền thân Đức Phật của chúng ta xem.

Phần lớn mọi người bố thí là để được nổi tiếng như một đại thí chủ. Thậm chí họ còn xem mình là ân nhân của người thọ nhận, và những người này cần phải biết ơn họ, nếu có thể phải tỏ lòng tri ân họ nữa. Họ hy vọng được tái sinh trong những cảnh giới cao sang. Họ nguyện đắc Niết-bàn chỉ có tính cách chiếu lệ. Còn đối với Đức Vua Vessantara thì khác, ngay khi vừa sinh ra đời, Ngài đã yêu cầu mẹ cho ngài một vật gì đó để bố thí bằng cách chìa bàn tay ra xin mẹ. Là một đứa trẻ thơ Ngài hoàn toàn không có mục đích vị kỷ nào cả. Ngài chỉ có một ước muốn thiết tha được bố thí hợp theo thói quen (vāsanā) của ngài mà thôi.

Do đó, ngài bố thí hết tất cả ngọc ngà châu báu và y áo của mình cho mọi người. Khi lên làm Vua, Ngài cho xây dựng nhiều phước xá và đãi ăn hàng ngày. Những cuộc bố thí của Ngài mỗi ngày lên tới hàng trăm ngàn đồng tiền vàng lúc đó. Ngài thọ hưởng niềm hạnh phúc được thấy mọi người no cơm, ấm áo. Ở đây, cũng vậy, Ngài không hề có ước muốn ích kỷ đối với danh tiếng hoặc mong được tái sinh trong cảnh giới cao sang. Mục đích duy nhất của ngài là được giúp đỡ tha nhân. Ngài tin rằng bổn phận của người giàu là phải chăm lo cho người nghèo. Ước nguyện cứu giúp người nghèo của Ngài quả thực là to lớn.

Việc Ngài bố thí con bạch tượng Paccaya, báu vật của hoàng gia, đã gây sự phản đối ầm ĩ từ phía dân chúng. Song đức Bồ tát Vessantara không lưu tâm đến việc gì khác ngoài ước nguyện chứng đắc toàn giác trí (Sabbaññuta-ñāṇa). Ở đây người ta có thể biện luận rằng mục đích này cũng là vì lợi ích cá nhân của Ngài mà thôi. Tuy nhiên, chúng ta phải hiểu rằng việc chứng đắc toàn giác trí hàm ý gánh vác một công việc gay go hơn đối với Ngài, vì từ đó ngài phải du hành ngàn dặm dưới những điều kiện khác nhau để giảng dạy giáo pháp (của Ngài). Vì thế việc thành tựu toàn giác trí là để phục vụ cho những chúng sinh đang đau khổ, chứ không phải để hoạch đắc lợi lạc cá nhân cho riêng Ngài.

Trong giai đoạn cuối cùng của việc hoàn thiện các pháp balamật như một vị Vua, Đức Bồ tát Vessantara đã bố thí con trai, con gái, và cả Hoàng Hậu, vợ của ngài. Đây là một bằng chứng quá đủ để cho thấy lòng vị tha và thiện chí của ngài đối với tất cả chúng sinh. Chúng ta thử bàn luận chi tiết hơn vấn đề này xem. Có vợ đẹp con khôn được kể như là tột đỉnh của hạnh phúc trong các cõi nhân thiên này. Ngay cả vua Chuyển Luân Vương, nếu không có vợ đẹp, con khôn cũng sẽ không tìm thấy chút hạnh phúc nào trong cuộc đời! Nhưng Đức Bồ tát, Vua Vessantara dám từ bỏ những người thân thương nhất, đó là vợ con yêu quý của mình, và đem bố thí họ cho người khác. Hành động bố thí vô song này chắc chắn không phải vì danh hay lợi, mà vì muốn thành tựu toàn giác trí nhờ đó ngài có thể giải thoát các chúng sinh khỏi khổ.

Với mục đích cao quý và lòng vị tha như vậy, đức Bồ tát đã hy sinh cả sinh mạng của mình để thành tựu hạnh trì giới và kham nhẫn trong nhiều đại kiếp. Ngài cũng đã cứu mạng sống người khác với cái giá phải hy sinh chính sinh mạng của ngài để hoàn thành các pháp balamật khác. Những hành động cao quý và các pháp balamật đã được thành tựu trong những kiếp quá khứ của Ngài là nhân và duyên cho việc trở thành một vị Phật trong thế gian này.

- Sự tốt đẹp của quả

Khi những việc làm cao quý và các pháp balamật như vậy đã thành tựu, những kết quả, tự nó chắc chắn sẽ phải là tốt đẹp và cao quý. Do đó, trong kiếp hiện tại, là một vị Phật, Ngài có tướng hảo thanh thoát và tao nhã nhất, trí tuệ cao tột nhất, sức mạnh vĩ đại nhất, và tuệ giác thâm sâu nhất. Bạn nên quán niệm những thuộc tính này của đức Phật, kết quả của những thiện nghiệp quá khứ của Ngài theo chi tiết, khi bạn thực hành đề mục tuỳ niệm Phật.

- Những lợi ích các chúng sinh được hưởng

Như trên đã nói, khi những việc làm cao quý và các pháp balamật đã được Đức Phật hoàn thành, chúng sẽ đem lại cho ngài những kết quả thù thắng nhất và cuối cùng thúc đẩy ngài đạt đến toàn giác trí (Sabbaññutā ñāṇa). Sau khi thành Phật, ngài không yên nghỉ trong sự thoả mãn với thành tựu tối thượng này. Suốt bốn mươi lăm năm còn lại của đời ngài, Đức Phật đã thuyết giảng thánh pháp đến mọi tầng lớp con người vì hạnh phúc và lợi ích của họ. Thậm chí, khi sắp nhập Vô-dư Niết-bàn (Mahāparinibbāna) ngài còn khuyến hoá các đệ tử:

Handa dāni bhikkhave āmantayāmi vo,

“Vayadhammā saṅkhārā, appamādena sampādetha”

Hãy nhìn, này các Tỳ khưu, Như Lai khuyên các con,

“Các pháp hữu vi đều có bản chất biến diệt và tan hoại. Do đó, hãy chuyên cần nỗ lực với chánh niệm.”

Những lời dạy của Ngài đã chỉ đường cho chúng sinh thoát khỏi khổ đau và chấm dứt tử sanh luân hồi. Như vậy bạn nên quán niệm với lòng tin sâu xa trên ba thuộc tính vĩ đại trong cuộc đời của Đức Phật, đó là; sự tốt đẹp của các nhân quá khứ, sự tốt đẹp của quả, những lợi ích vun bồi cho các chúng sinh. Từ đó bạn sẽ thấy rằng bạn đã phát triển được một niềm tin trọn vẹn nơi Đức Phật; và bạn tìm đến nương nhờ ngài, bằng cách đọc, “Buddho me saraṇaṁ, aññaṃ natthi - Đức Phật là nơi nương nhờ của con; không có nơi nương nhờ nào khác”. Nhờ thế lòng mộ đạo và đức tin với sự hiểu biết đầy đủ nơi Đức Phật của bạn sẽ đơm hoa kết trái trong dòng tâm tương tục (hữu phần) của bạn. Đây là lời giải thích tóm tắt về pháp thiền tuỳ niệm ân Đức Phật (Buddhanussati - bhāvanā).

Như vậy, sự phát triển của lòng từ (mettā) hoặc sự tu tập niệm Ân Đức Phật trong dòng tâm tương tục của bạn, nói chung, được gọi là bhāvanā (tu tập tâm). Sự tu tập này có thể được thực hành thường xuyên trong cuộc sống hàng ngày. Bạn có thể khởi sự, hoặc với mettā-bhāvanā (tu tập tâm từ) hoặc với Buddhanussati-bhāvanā (tu tập niệm Ân Đức Phật) tuỳ bạn thấy pháp nào là thích hợp. Còn về việc thực hành có tính cách miên mật hơn pháp tu tập tâm này, bạn có thể tham khảo từ các cuốn sách khác, chẳng hạn như bộ Thanh tịnh đạo (Visuddhimagga) để có chi tiết đầy đủ hơn.

4. CUNG KÍNH (Apacāyana)

Apacāyana có nghĩa là tỏ lòng tôn trọng hay cung kính đối với những người hơn bạn về tuổi tác, giới đức, tính thanh liêm, trí tuệ, công hạnh, v.v… Cung kính các bậc trưởng lão như cha, mẹ, cô, chú của bạn; nhường chỗ ngồi và nhường đường cho các bậc đáng kính; cúi đầu và tỏ lòng khiêm cung, chắp tay xá các vị Sư; bỏ nón, chào họ theo phong tục, v.v… đều là những dấu hiệu tỏ lòng tôn trọng. Tuy nhiên, nếu bạn tỏ lòng tôn kính có tính cách miễn cưỡng trước một người quyền thế do sợ hãi hoặc với một mục đích cá nhân nào đó, hành động này không thể gọi là apacāyana hay cung kính được, vì bản chất của nó là tự thị, khoa trương và chỉ có nghĩa là lừa đảo (māyā) mà thôi.

* Vấn đề cần suy gẫm

Cúi đầu hoặc khom mình thường được mọi người chấp nhận như những cử chỉ tỏ lòng cung kính. Ở Miến ( Myanmar ) người ta còn đặt những vật đang mang trên đầu xuống và nằm phủ phục trên đường khi gặp các vị Sư. Có số thì quỳ trên đường đất bụi bặm mặc cho quần áo mới của họ bị lấm lem. Trong khi số khác quỳ trên lề đường hoặc trên sân ga để đảnh lễ các vị sư hoặc tỏ lòng cung kính các bậc Trưởng lão. Tất nhiên, những hành động ấy nếu được làm với sự chân thành thì không có gì đáng trách. Song vào thời buổi này khi con người phải vội vã trong những nơi tất bật, chỉ cần một cái cúi đầu hoặc một vài lời khiêm tốn là đủ để tỏ lòng cung kính rồi. Quỳ và phủ phục để tỏ sự sùng kính khi gặp một vị sư trên đường hay ở những nơi đông đúc bận rộn trước mặt những người ngoại quốc thực sự không cần thiết lắm.

5. PHỤC VỤ (Veyyāvacca)

Phụ giúp hoặc phục vụ trong những thiện sự của người khác được gọi là Veyyāvacca - phục vụ. Chúng ta nên sẵn lòng tự nguyện phục vụ để cho những thí chủ có thể cảm thấy được thư thả, bớt lo lắng và công việc bố thí được hoàn thành viên mãn. Chúng ta cũng nên sẵn lòng giúp đỡ người đau ốm, người tàn tật và già yếu, phụ giúp cho những người đang mang vác những vật nặng, hoặc giúp cho cha mẹ và các bậc lớn tuổi bớt đi những gánh nặng. Như vậy, mọi hình thức tự nguyện phục vụ cho người khác (với điều kiện những việc làm ấy không phải là việc làm xấu, ác) đều được kể là veyyāvacca-kusala - phục vụ thiện.

Nếu bạn có thiện chí và chủ ý (cetanā) muốn tự nguyện phục vụ đích thực, những lợi ích (quả báo) bạn nhận được có thể sẽ lớn hơn quả báo của thí chủ. Chẳng hạn, vào thời Đức Phật có một vị lãnh Chúa tên Pāyāsi, vốn là người ngoại đạo song nhờ lời dạy của tôn giả Kumāra Kassapa đã trở thành một người có lòng tin với Tam Bảo. Pāyāsi sau đó thường xuyên làm các việc bố thí và để bát cho chư tăng. Nhưng ông không tự mình làm những thiện sự ấy. Thay vào đó ông uỷ thác cho thanh niên Uttara làm công việc cúng dường vật thực đến các vị tỳ khưu. Mặc dù Uttara làm việc nhân danh vị lãnh chúa, song anh đặt hết tấm lòng mình vào việc để bát. Khi cả hai chết, Pāyāsi tái sinh vào cõi Tứ đại Thiên vương (Catumahārājika), cõi trời thấp nhất trong sáu cõi trời dục giới, trong khi Uttara được sanh về cung trời Đạo lợi (Tāvatiṁsa), cõi trời cao hơn Tứ đại thiên vương.

6. HỒI HƯỚNG CÔNG ĐỨC (hay chia phước- Pattidāna)

Chia phước hay chia những thiện sự đã làm với người khác được gọi là hồi hướng công đức – pattidāna, (patti là những gì bạn có được; dāna là bố thí hay chia sẻ). Người làm phước hay thí chủ chắc chắn sẽ hưởng được những lợi ích của việc phước mình đã làm. Song ước muốn chia sẻ phước báu ấy với người khác lại còn cao thượng hơn nữa. Do đó, sau mỗi lần làm được một thiện sự nào, mọi người chúng ta nên công bố, “Phàm những ai được nghe lời này, hãy cùng chia phước báu với tôi. Cầu mong các vị được thật nhiều lợi ích như tôi vậy”, và như thế bạn đã chia những phước báu mình kiếm được. Đây là pattidāna hay hồi hướng công đức, một việc làm tự thân nó kể như một thiện sự riêng biệt.

Cẩn thận : Có một số thí chủ chỉ nói bằng miệng, “Tôi xin chia phước đã làm” vậy thôi chứ không thực sự muốn làm như thế. Sự chia sẻ có tính cách chiếu lệ này không đủ điều kiện để trở thành pattidāna - hồi hướng công đức.

Xưa có một người thí chủ, sau khi vay mượn được một số tiền, đã mời rất nhiều người tới dự bữa tiệc linh đình mừng con trai ông xuất gia sa-di. Tiền đóng góp (từ những người khách mời) không đủ để trang trải những phí tổn của buổi tiệc theo như ông mong đợi. Sau buổi lễ, đến phần chia phước hay hồi hướng công đức vào lúc ông đang nhẩm tính xem mình phải thiếu nợ bao nhiêu, một người ngồi kế bên nhắc ông việc chia phước. Bức bách bởi nghĩ đến món nợ nặng nề sẽ phải trả, thay vì nói, “Tôi xin chia phước này đến mọi người” ông lại thốt lên thật lớn, “Tôi hoàn toàn chẳng có xu nào cả!”

* Chia phước không làm giảm quyền lợi của bạn

Khi bạn làm một thiện sự và chia phước đã kiếm được đó cho mọi người, có thể bạn nghĩ rằng phước báu của bạn sẽ giảm đi. Ở đây chúng ta phải nhớ rằng phước báu có được hợp theo cetanā hay chủ ý của bạn. Khi chúng ta bố thí với một thiện ý thật sự, chúng ta kể như đã làm được một việc thiện, và chúng ta cũng đã kiếm được một phước báu xứng đáng với việc thiện đó. Vì thế khi bạn chia phước đã kiếm được với người khác, bạn lại có thêm phần phước báu cho tính cao thượng của bạn. Không có lý do gì phước báu của bạn lại giảm đi được.

Chia phước cũng giống như mồi đèn từ một cây đèn đã cháy vậy. Cây đèn đầu tiên tất nhiên phải được thắp sáng nhờ bật một que diêm. Nhưng có thể dùng cây đèn này để mồi cho nhiều đèn khác; cho dù bao nhiêu đèn có được mồi chăng nữa, độ sáng của cây đèn đầu tiên cũng không sao giảm đi được. Trái lại, ánh sáng kết hợp của tất cả các ngọn đèn sẽ toả sáng thêm rất nhiều. Chia phước kiếm được từ thiện nghiệp giữ giới (sīla-kusala) và thiện nghiệp tu thiền (bhāvanā kusala) cũng là hồi hướng công đức (pattidāna) vậy.

7. TUỲ HỶ CÔNG ĐỨC - Pattānumodana

Hoan hỷ khi thí chủ hồi hướng công đức hay chia phước họ đã làm, nôm na gọi là tuỳ hỷ công đức - pattānumodana. Khi ai đó chia phước, bạn nên hoan nghinh điều đó và bày tỏ lời “sādhu” (lành thay) ba lần. Cảm thấy vui đối với thiện sự người khác làm là thái độ rất đáng ca ngợi. Thái độ ấy có bản chất của tâm hỷ (muditā). Tuy nhiên, để thành tựu việc tuỳ hỷ công đức thực sự không phải là dễ. Một người tỏ bày lời “sādhu” - lành thay có tính chất thông lệ, thiếu chủ tâm và không hoan hỷ thực lòng thì đó không phải là tuỳ hỷ công đức mà chỉ là nghi thức, và đôi khi đã không thực sự cảm thấy hoan hỷ đối với việc làm công đức của người khác, thay vào dó họ có thể trưởng dưỡng thêm tâm ganh ghét và đố kỵ mà thôi.

* Lợi ích tức thì của tuỳ hỷ công đức

Thường thường người ta bố thí và đặt bát cho Chư Tăng là để hồi hướng phước cho những người thân trong gia đình đã quá vãng. Nếu người đã chết tái sinh trong các cõi xấu nhận được phước hồi hướng với tâm hoan hỷ, họ sẽ lập tức thoát khỏi khổ cảnh. Theo kinh điển, nếu việc hồi hướng công đức hay chia phước được làm sau khi bố thí thức ăn hay đặt bát cho Chư tăng, người quá cố, tỏ lời “sādhu”-lành thay, sẽ lập tức thoát khỏi đói khát; nếu bố thí hay cúng dường thuộc về y áo người chết sẽ được y phục đầy đủ do tỏ lời sādhu. Điều quan trọng nhất bạn cần lưu ý là trong việc đặt bát hay cúng dường vật thực để hồi hướng cho người quá vãng, đối tượng thọ nhận phải là người xứng đáng cúng dường. Xưa, tang quyến của gia đình nọ mời một ác giới Tỳ khưu (dussila-bhikkhu) - tức một vị sư không có đạo đức - đến nhà và cúng dường vật thực để hồi hướng phước cho người thân đã quá vãng. Thậm chí khi phước báu được hồi hướng đến ba lần, người quá vãng - là một ngạ quỷ (peta) lúc đó - cũng không nhận được phần phước (đáng được hưởng) của mình. Vì thế y kêu la quyến thuộc, “Ác giới Tỳ khưu này đã ăn cắp phần phước của tôi rồi!” Thế là quyến thuộc y phải làm phước cúng dường đến một vị sư giới đức. Chỉ khi ấy ngạ quỷ mới nhận được phần phước của mình và thoát khỏi kiếp ngạ quỷ. (Xem chú giải kinh Phân Biệt Cúng Dường - Dakkhināvibhaṅga Sutta - Trung Bộ Kinh).

Sự việc trên dạy cho chúng ta một bài học. Khi chúng ta hiến dâng phước bố thí của chúng ta cho một người bạn hay quyến thuộc đã quá vãng, điều trước tiên phải làm là loại trừ tâm đau đớn, ưu sầu của chúng ta đi đã. Chỉ lúc đó chúng ta mới nên cúng dường vật thực, y áo, dù, dép, chùa chiền, v.v… đến các vị Sư. (cúng dường một ngôi Chùa hay xây cất một ngôi Chùa là để cho ngạ quỉ có chỗ ở). Còn về đặt bát, chúng ta phải thỉnh một vị sư có giới đức trong sạch; hoặc phải thực hiện tăng thí (sanghika- dāna), tức là cúng dường với tác ý đến toàn thể tăng chúng. Trước khi làm lễ cúng dường này, chúng ta nên mời người đã quá vãng đến để chia phước. (Họ sẽ đến nếu như có thể). Trong trường hợp đó chúng ta phải gọi đích danh tên người đã quá vãng và chia phần phước có được đến cho họ.

* Lễ nghi ngày nay

Ngày này, hầu hết mọi người, sau khi người thân qua đời, không lưu tâm tới việc chọn những vị Sư giới đức. Họ cũng chẳng màng đến việc loại trừ tâm đau khổ, buồn rầu của họ. Họ cúng dường vật thực hoặc thậm chí cả tiền bạc đến các vị Sư ngay tại nghĩa trang, xem đó như một thông lệ, dường như để tránh tiếng đời cười chê và để được mọi người khen ngợi (là con cháu hiếu thảo) mà thôi. Và rồi họ cũng hồi hướng công đức song chẳng nghĩ sâu xa đến những lợi ích cho người quá vãng. Thà rằng cúng dường vật thực ở nhà mà tâm không ưu sầu hơn là làm thế tại nghĩa trang trong lúc còn bị bức bách bởi bi ai và sầu muộn. Tất nhiên những thiện sự đã làm và vật thực đặt bát tại nghĩa trang cũng sẽ tạo thành công đức nếu điều đó được thực hiện với tâm không ưu sầu và than khóc.

* Ai là người được hưởng phước hồi hướng?

Những người đã quá vãng nếu tái sinh làm ngạ quỷ (petas) có thể nhận được những lợi ích từ việc hồi hướng công đức hay chia phước với điều kiện họ phải có mặt trong khu vực quanh (chỗ làm phước) đó. Nếu họ đã tái sinh làm người, làm thú vật, hoặc làm ngạ quỷ ở những núi rừng xa xôi, họ không thể nhận được phần phước đã chia. Tuy nhiên, những thân bằng quyến thuộc đã chết khác hiện làm ngạ quỷ trong vùng lân cận, có thể hoan hỷ với lễ làm phước này và được tái sinh trong những cảnh giới tốt đẹp hơn. Do đó, chia phước đến người đã chết là một việc làm xứng đáng, và mọi người phải nên duy trì.

8. THÍNH PHÁP (Dhammasavana)

Dhammasavana nghĩa là Thính Pháp hay nghe Pháp của bậc Giác Ngộ. Có năm lợi ích của việc thính pháp: (1) có thêm kiến thức mới, (2) những điều đã hiểu biết được sáng tỏ hơn, (3) giải toả được những điều mơ hồ, hoài nghi, (4) có được đức tin chân chánh, (5) làm cho tâm trong sáng nhờ phát triển niềm tin và trí tuệ.

* Những cách nghe Pháp không đúng

Nghe Pháp với ý định gặt hái năm lợi ích kể trên là nghe Pháp chính đáng. Có số người đi dự những buổi thuyết Pháp chẳng qua vì họ thân thiện với vị Pháp Sư; có người vì thích nghe những câu chuyện cười và những giai thoại có tính cách tiếu lâm; có số vì sợ người khác cáo buộc là quá lười; số khác thích đi nghe Pháp để đánh giá khả năng của vị pháp sư, v.v… Tất nhiên bạn chẳng thể gặt hái được lợi ích gì từ việc nghe Pháp với những ý định thấp hèn như vậy. Xưa có một người Trung Hoa qua sông trên một chiếc thuyền nan, lúc người chèo thuyền cảnh báo rằng chiếc thuyền bị rò một lỗ. Người Trung Hoa nghĩ như thế có nghĩa là nước từ trong thuyền sẽ rỉ ra và chảy vào sông; vậy thì có chuyện gì mà phải lo. Được một lát, ông để ý thấy đũng quần mình bị ướt. Ông kinh hoảng và la lên "Thuyền này đâu có rỉ ra đâu; nó còn cho nước lọt vào đây này!" Mục đích chính xác của việc nghe Pháp là để cho những tư duy ác của chúng ta chảy ra. Vì thế chúng ta phải rất thận trọng, nếu không chúng ta sẽ để lọt vào tâm nhiều điều ác thêm mà thôi.

* Những lợi ích của đọc sách

Ngày nay có rất nhiều quyển sách có thể đem lại cho chúng ta sự khôn ngoan và kiến thức. Ở Miến, một quốc gia lấy đạo Phật làm quốc giáo, có hàng trăm cuốn sách chuyên đề Phật học xuất hiện trên các kệ sách. Nhờ đọc những cuốn sách này bạn có được những lợi ích giống như nghe Pháp vậy. Do đó, đọc các loại sách như thế này có thể còn lợi ích hơn nghe những bài thuyết giảng hiện đại rất nhiều. Thậm chí nếu bạn không đọc được, bạn có thể nhờ người khác đọc lớn lên cho bạn nghe. Điều này cũng tương đương với việc nghe Pháp.

9. THUYẾT PHÁP (Dhammadesanā)

Dhammadesanā có nghĩa là thuyết giảng Pháp (dhamma). Nếu được làm với lòng chân thành và cao thượng, thuyết pháp vượt xa các hình thức bố thí (dāna) khác. Chính Đức Phật đã nói “Sabbadānaṁ Dhammadānaṁ jināti” (Pháp thí thắng mọi thí). Để thực sự thành tựu thiện nghiệp thuyết Pháp chân chánh, người thuyết giảng hay Pháp Sư phải không mong đợi quà cáp, cúng dường; danh vọng hoặc ngã mạn. Vì nếu thuyết pháp với tâm mong cầu như vậy, lòng tham (lobha) đối với lợi lạc vật chất sẽ làm ô nhiễm và giảm bớt những công đức do thuyết pháp đem lại. Lúc đó vị Pháp Sư sẽ chẳng khác gì kẻ ngu si kia đem đổi gỗ trầm hương đáng giá cả trăm ngàn lấy một bình dấm chua vô vị.

* Tư cách của một vị Pháp Sư

Một vị Pháp Sư đầy đủ tư cách không chỉ là người diễn thuyết thông thường. Họ phải có một giọng nói rõ ràng và đầy oai lực; nhất là phải có đủ khả năng để làm cho người khác hiểu mình một cách minh bạch. Một vị Pháp Sư như vậy quả thực là khó kiếm. ví như cả ngàn con bò trong một trang trại chăn nuôi lớn, song chỉ một con trong số đó sanh ra được con bê đực hoàn hảo. Cũng vậy, hàng ngàn bà mẹ chưa chắc đã sinh ra được một vị Pháp Sư lỗi lạc. Một vị Pháp Sư lỗi lạc quả thực là một nhân vật hiếm hoi trong cuộc đời này.

* Những bất lợi của việc phát âm không đúng

Những vị pháp sư có đầy đủ tư cách cũng cần phải biết đến những thiện nghiệp trong các kiếp quá khứ của họ, khi đọc hay trùng tuyên thánh pháp do Đức Phật dạy, pháp sư phải dõng dạc đọc với chất giọng rõ ràng của đấng trượng phu, không nên cố tình làm cho giọng mình ra vẻ khả ái bằng cách sử dụng trọng âm, ngữ âm hay phong cách không phù hợp.

Đức Phật đã nêu ra những bất lợi của việc vận dụng không đúng âm ngữ, làm cho tiếng nói ngọt ngào giống như đang hát trong lúc thuyết pháp. Những bất lợi đó là: (1) trở nên tham đắm với chính giọng nói của mình; (2) người nghe cảm thấy thích thú theo kiểu dâm dật đối với giọng nói của pháp sư; (3) pháp sư bị chê trách vì đang hát giống như người thế tục; (4) pháp sư sẽ mất sự tập trung trong lúc bản thân ông đang cố gắng tạo ra giọng nói ngọt ngào; (5) các thế hệ tu sĩ kế tiếp sẽ bắt chước cho giống cái kiểu (thuyết pháp) không đúng đắn này.

Ngày nay người ta có thể bắt gặp những bất lợi này trong rất nhiều trường hợp. Các vị sư trẻ chạy theo tấm gương xấu của các vị pháp sư không đứng đắn. Những người Phật tử mộ đạo hiếm khi có mặt ở những buổi thuyết pháp do các vị pháp sư rởm này điều khiển. Còn những ai đi dự thì chỉ chú ý đến bài pháp một cách qua loa chiếu lệ. Những người thuộc tầng lớp có học, dù rất muốn nghe pháp song lại cảm thấy hổ thẹn khi phải có mặt tại buổi giảng của những vị pháp sư dung tục như vậy.

Điều khẩn thiết hiện nay là các vị pháp sư cần phải có đủ sự nghiêm trang chớ đừng tạo ra những âm điệu du dương từ giáo pháp vô giá của đức Phật nữa. Đó là một kiểu thuyết giảng đáng hổ thẹn lắm vậy.

* Các cách thuyết pháp giản dị

Thuyết pháp không chỉ có nghĩa là giảng pháp trước đông đảo thính chúng trong một giảng đường. Những buổi thảo luận giản dị về pháp giữa đôi ba người cũng là thuyết pháp, với điều kiện là người thuyết không mong đợi có được quà cáp hay bất cứ sự biếu xén gì. Sách tấn những người mộ đạo, cả trẻ lẫn già, dạy những bộ môn học thuật, thủ công hay kỹ nghệ có tính chất vô tội, đọc to lời dạy của Đức Phật cho mọi người nghe, đều xứng đáng để gọi là thuyết pháp - Dhammadesanā cả. Vì thế các vị Tỳ khưu ngày nay nên cố gắng luyện tập để trở thành một vị pháp sư giỏi, có đầy đủ tư cách; ngoài ra các vị còn nên nghiên cứu cách thức nói trước công chúng, cách đọc và viết đúng.

10. TRI KIẾN CHÂN CHÁNH - Diṭṭhijukamma

Có tri kiến chân chánh, ngay thẳng, chính trực được gọi là diṭṭhijukamma (diṭṭhi: kiến, ujukamma: chính trực). Tri kiến là quan niệm của một người về sự vật dựa trên trí hiểu biết của người đó. Khi quan niệm ngay thẳng hay chân chánh, nó được gọi là chánh kiến hay hiểu biết chân chánh (sammādiṭṭhi). Nếu một tri kiến sai lạc, thì gọi là tà kiến (micchadiṭṭhi). Bạn hãy xét kỹ những điều sau:

1. Thiện nghiệp và ác nghiệp;

2. Quả tốt và xấu của những nghiệp ấy;

3. Kiếp sống hiện tại và những kiếp sống tương lai là do những thiện nghiệp và ác nghiệp của một người quyết định;

4. Có các vị chư thiên (devas) và phạm thiên (brahmas)

5. Người nào thực hành theo thánh đạo và đắc các bậc thiền, thần thông hoặc trở thành các vị Alahán.

Nếu sau khi suy xét sâu xa, bạn thấy rằng năm điều kể trên là những sự thực, tin là chúng thực sự có mặt, thời bạn có chánh kiến (sammādiṭṭhi). Đây cũng gọi là tri kiến chân chánh (diṭṭhijukamma) và nghiệp sở hữu trí (kammasakatā-ñāna, do chữ kamma: nghiệp; saka: tài sản riêng của một người; ta: chúng sinh; ñāna: trí hay sự hiểu biết). Nói chung, với sự hiểu biết rằng chỉ có thiện nghiệp và bất thiện nghiệp mà người ta làm là tài sản riêng của họ và đi theo họ bất cứ nơi đâu trong tam giới này, là bạn có chánh kiến.

Nếu bạn loại bỏ tất cả hay bác bỏ một trong năm điều kể trên xem chúng như phi thực, tức chúng không thực sự hiện hữu, như vậy bạn đã có tà kiến (micchadiṭṭhi). Do không tin có nghiệp và quả của nghiệp, người ta không thể nhận ra rằng những con vật cũng là một loại chúng sinh do quả của nghiệp sinh ra. Đó là lý do vì sao những người này không do dự khi đoạt mạng sống của những chúng sinh khác. Họ không cảm thấy cắn rứt lương tâm hay có cảm giác tội lỗi khi làm điều đó vì họ tin rằng không có đời này, không có đời sau do quả của nghiệp, họ có khuynh hướng tin rằng thế gian cùng với các hữu tình trong đó là do một “Đấng quyền năng” sáng tạo ra. Chúng ta có bằng chứng đầy đủ về cuộc đời của đức Phật với những chứng cứ lịch sử. Có bằng chứng nào như vậy về sự hiện hữu của một con người gọi là “Đấng Quyền năng” hay không?

* Là một người Phật tử

Chúng ta vừa nói đến tri kiến chân chánh -diṭṭhijukamma, cũng gọi là chánh kiến - sammādiṭṭhi. Cho đến lúc này chúng ta cũng chưa thể nói rằng mọi người có chánh kiến đều là Phật tử cả. Người theo Ấn giáo cũng tin vào nghiệp và quả của nghiệp song họ vẫn không phải là Phật tử. Chỉ những người nào tầm cầu sự quy y nơi đức Phật, Giáo Pháp (Dhamma) và chư Tăng (Saṅgha) mới là những Phật tử đích thực. Bạn phải công bố, “Con xin quy y đức Phật, Giáo Pháp và chư Tăng” hoặc bằng tiếng Pāli hoặc bằng một thứ tiếng nào khác cũng được. Chỉ sau khi quy y nơi Tam Bảo (Phật - Pháp - Tăng), bạn mới có thể tự gọi mình là một Phật tử. Những người không hiểu rõ pháp Tam quy (Tisaraṇagamana) như các trẻ em chẳng hạn, cũng có thể xem như Phật tử nếu họ tự hiến dâng đời mình cho Tam Bảo theo truyền thống gia đình.

* Làm thế nào để có tri kiến chánh trực

Chánh kiến và nghiệp sở hữu trí (kammassakatā ñāṇa) là đồng nghĩa với tri kiến chánh trực (diṭṭhijukamma). Khi bạn tự mình quán xét hay suy tư trên nghiệp và quả của nghiệp, suy tư trên hiện thực của các kiếp sống quá khứ và vị lai, bạn thành tựu tri kiến chánh trực. Khi bạn ghi nhớ trong tâm, lúc sắp thực hiện việc bố thí và giữ giới, rằng những việc làm cao quý như bố thí và giữ giới sẽ đem lại quả lành trong những kiếp sống tương lai, bạn đã phát triển tri kiến chánh trực. Khi bạn làm việc thiện khác với sự hiểu biết về nghiệp và quả của nghiệp cũng sẽ có giá trị như vậy. Nói chung, lòng nhân từ có mặt trong mọi hình thức của thiện sự được nâng lên cao nhờ tri kiến chánh trực (diṭṭhijukamma).

* Bốn mươi việc thiện

Những thiện sự kể trên được xem là những việc làm cao quý không chỉ khi bạn thực sự thực hiện chúng, mà cả khi bạn bảo người khác làm, hoặc khi bạn giải thích những kết quả tốt đẹp của những thiện sự ấy cho người khác, và khi bạn cảm thấy hoan hỷ với những việc làm cao quý của người khác. Như vậy, từ mười phước nghiệp sự (puññakiya-vatthus) chúng ta đã thảo luận ở trên nhân với bốn yếu tố, đó là (1) thực sự làm, (2) khích lệ người khác làm, (3) giải thích những phẩm chất tốt của việc làm ấy cho người khác, và (4) cảm thấy hoan hỷ, chúng ta có bốn mươi thiện sự được gọi chung là bốn mươi phước nghiệp sự (puññakiya-vatthus).

Kết luận : Trong chương này tôi đã giải thích chi tiết mười thiện sự được làm với tâm thiện và chủ ý hay tư thiện. Đối với hành động bố thí (dāna), tôi cũng đã giải thích về những quả báo của nó. Trước khi chấm dứt chương này tôi xin lược qua một số quả báo của giới (sīla) và tu thiền (bhāvanā).

* Quả lợi ích của giới

Giữ ngũ giới hoặc bát quan trai giới (uposatha sīla) đem lại hạnh phúc cho mọi chúng sinh. Giới cũng giúp bạn sống một cuộc sống không lo lắng và phiền muộn. Những quả lành của giới tuy không thể làm cho bạn giàu có; song chắc chắn nó sẽ đem lại sự an lạc của tâm. Bố thí đem lại giàu sang trong các kiếp sống tương lại (dāmato bhogavā). Giới đem lại sức khoẻ của thân và sự an lạc của tâm (sīlato sukhīto)

* Quả của tu thiền

Những ai muốn thực hành thiền chỉ và thiền quán cần phải tìm đến những nơi rừng núi xa xôi, sống một cuộc sống cô độc (độc cư). Bạn chỉ có thể đắc thiền khi thực sự thấy rõ những khuyết điểm của dục lạc. Nếu bạn muốn thực hành để đạt đến Đạo (magga) và Quả (Phala), bạn phải tiến xa hơn nữa và phát triển tâm nhàm chán và ghê tởm đối với các uẩn của danh và sắc (hợp thể thân-tâm) trong suốt kiếp luân hồi.

Nếu bạn hành thiền và đắc các bậc thiền, bạn sẽ được tái sinh trong phạm thiên giới, ở đây bạn sẽ không còn phải đi tìm một người vợ như trong cõi dục nữa. Bạn sẽ sống một cuộc sống cô độc ở đó để phát triển tâm từ (mettā), bi (karuṇā) và hỷ (muditā). Bạn sẽ sống trong một thiên cung lộng lẫy như một hành giả với vẻ uy nghiêm và bình thản. Còn nếu bạn đã đắc Đạo Quả (Magga-Phala), bạn sẽ không bị dính mắc, chẳng những vào các toà thiên cung mà ngay cả danh và sắc của mình cũng vậy, vì bạn đã ghê tởm và xoay lưng lại với mọi hình thức của danh và sắc. Vì thế khi bạn đạt đến Niết-bàn sẽ chỉ còn lại một yếu tố đặc biệt không liên quan gì với danh và sắc mà thôi.

Do đó, mỗi loại thiện sự (bố thí, trì giới, tu thiền) đều tạo ra những kết quả tương xứng. Mọi hình thức của thiện nghiệp (kusala-kamma) đều đem lại những kết quả lợi ích. Bởi thế, nếu bạn có một mục đích cao thượng muốn đạt đến Niết-bàn, trước hết bạn phải loại bỏ mọi tư duy ác, bất thiện; kế đó, bạn phải dọn con đường cao quý dọc theo vòng luân hồi này bằng cách làm những việc thiện càng nhiều càng tốt.

Cầu mong tất cả độc giả phát triển được khuynh hướng thực hiện các thiện nghiệp của mình nhiều hơn bao giờ hết. Cầu mong tất cả những người cộng tác với tôi hoan hỷ trong các thiện sự với ý định thành tựu sự an lạc tối thượng của Niết-bàn.

Mong cho tôi có thể đứng vững trên nền tảng bố thí, trì giới, và tu thiền; thắng phục được tính miễn cưỡng khi làm các việc thiện dẫn đường đến Niết-bàn. Cầu mong cho tôi có thể phát triển được ngũ lực (hay năm sức mạnh tinh thần), đó là tín (saddhā), tinh tấn (viriyā), định (samādhi), niệm (sati), và tuệ (paññā) trên con đường đi đến mục tiêu cuối cùng (giải thoát khỏi tử sinh luân hồi) của tôi.

Tiếp theo


[Ðầu trang][Trở về trang Mục lục][Trở về trang Thư Viện]

updated: 2008