Có tiếng
ồn ào ở phía trên rẫy, nhà sư vừa bước ra khỏi thiền thất thì chú Liễu Minh
cũng vừa đi tới.
- Bạch
thầy! Rẫy mình vừa bị mất trộm, sáng nay lên nhổ sắn chúng con mới biết.
- Thế à!
- Dạ mất
đâu khoảng chừng vài vồng.
Nhà sư
dừng lại, chậm rãi nói:
- Con ạ!
Mất sắn và trộm sắn không phải là vấn đề của chúng ta! Là kẻ tu hành, vấn đề
của chúng ta là, nhân đó, ta thử lắng nghe lại lòng mình một cách trung thực
hơn. Ta sẽ lắng nghe rằng: ta có thể rộng lượng tha thứ được cho người chăng?
Ta có móng khởi một tiếc rẻ nào khi mất đi một ít vật chất, của cải? Ta có thể
san sẻ cho người bằng cách nhịn ăn một vài bữa! Và, sau hết, trong ta có dậy
mối bất bình, phiền não chăng? Chúng ta là người học hạnh giải thoát, có gì
phải giải quyết ngoài những vấn đề tương tự?
Liễu
Minh sững lại, nhà sư mỉm cười nắm tay chú theo lối mòn lên rẫy.
Liễu
Minh nói:
- Bạch
thầy! Hồi nãy, con với chú Bất Đạt cãi nhau. Con thì nói tha. Chú Bất Đạt lại
nói bắt. Con và chú ấy thường có quan niệm bất đồng.
Bất Đạt
và Bất Ác từ trong những lùm sắn bước ra, mỗi người tay xách mấy chùm sắn vụn.
Thấy nhà sư, Bất Đạt cất giọng oang oang:
- Bạch
thầy! Cái lũ ăn trộm này, gặp con, chúng sẽ biết tay!
Liễu
Minh cãi lại:
- Biết
tay như thế nào? Chú bắt chăng? Ý thầy là thầy sẽ tha cho phù hợp với tâm từ!
Nhà sư
nói:
- Không
, Liễu Minh con! Thầy không tha! Vì tâm từ nên thầy không tha!
Bất Đạt
reo lên:
- Đó,
chú Liễu Minh thấy chưa? Vì tâm từ nên thầy không tha, thầy sẽ bắt.
Nhà sư
cười:
- Không,
Bất Đạt con! Thầy không bắt! vì tâm từ nên thầy sẽ không bắt.
Cả ba
chú đều ngơ ngác:
- Bạch
thầy thế thì...
Thấy
vầng trán và cặp chân mày của Liễu Minh cau lại, nhà sư dịu dàng nói:
- Liễu
Minh! Con hiểu về tâm từ như thế nào mà bảo nên tha?
- Vì tâm
từ là thương người, yêu chúng sanh, mong chúng sanh thảy đều yên vui, hạnh
phúc!
- Như
vậy, vì tình thương mù quáng, con sẽ dung dưỡng kẻ trộm trên thế gian!
Bất Đạt
góp lời:
- Vì
không muốn dung dưỡng kẻ trộm trên thế gian, cho nên, con sẽ bắt mới đúng nghĩa
tâm từ!
- Như
vậy, vì tâm từ nóng vội con sẽ nuôi dưỡng hận thù giữa cuộc đời!
Im lặng
một lúc, nhà sư tiếp:
- Các
con ạ! Tâm từ là vậy mà không phải vậy. Thật ra, trong các con, chưa ai hiểu
tâm từ là gì!
Biết là
cả hai chú đều rơi vào hoài nghi to lớn, nhưng nhà sư vẫn chưa trả lời vội,
người dẫn cả ba chú đến một lùm cây rậm, chỉ vào đám cỏ rạp.
- Đêm
kia, thầy thấy cậu ăn trộm rình núp ở đây. Người bạn ăn đêm kiên nhẫn đợi thầy
tắt đèn và đi nghỉ, nên thầy đã tắt đèn và đi nghỉ!
Không
cưỡng được ý mình, Liễu Minh buột miệng:
- Thế là
thầy đã tha!
- Ừ!
Thầy đã tha nhưng cái tha của thầy khác với cái tha của con. Thầy tha mà không
dung dưỡng kẻ trộm trên thế gian. Rồi con sẽ hiểu điều ấy.
Im lặng
một lúc, Chú Liễu Minh lại nói:
- Thế là
con sai ít mà chú Bất Đạt sai nhiều. Thầy đã không bắt!
- Không,
không phải thế đâu con! Thầy có bắt, nhưng không nuôi dưỡng hận thù, nên cái
bắt của thầy khác với cái bắt của Bất Đạt!
Đầu óc
của các đệ tử rối loạn như một mớ bòng bong, như tổ chim, chẳng biết đạo lý câu
chuyện nó nằm ở đâu nữa!
Buổi
chiều, trong giờ học Đạo, nhà sư lấy trong túi ra một lá thư bằng giấy học trò,
nét chữ cứng cáp, không thẳng hàng thẳng lối, chẳng có chấm phết, sai chính tả
lung tung.
Liễu
Minh và Bất Đạt chăm chú đọc:
"Thưa
thầy,
Thầy
biết con là thằn ăn cắp không những hai vồng thắn mà còn ăn cắp một tượng Phật
nhỏ bằng đồng đen, ăn cắp mười giò phong lan tước đây nữa. Thầy biết mà thầy
lặng lẽ không nói với ai, cũng không hề tả lời một câu khi công an xã qua điều
ta! Bây giờ thầy lại còn giúp con vốn liếng, tiền ăn tiêu mười ngày để con lên
"đá bạc" khai thác đá là nghề cũ tước đây của con. Tiền thầy cho, con còn dư dã
để thắm thanh dụng cụ hành nghề. Ơn đức thầy thật là kể thao cho xiết. Con hứa
từ nay cho đến tọn đời, con thề làm người lương thiện để khỏi phụ tấm lòng cao
cả của thầy.
Con,
..."
Lá thư
bên dưới có ký tên nhưng nhà sư đã lấy kéo cắt đi rồi.
Bất Ác
bây giờ mới cất giọng nói:
- Con
nhận nhiệm vụ bí mật của thầy, con biết cả. Con nghe hai chú Liễu Minh và Bất
Đạt cãi nhau, con chỉ cười.
Nhà sư
hỏi:
- Con
cười sao?
- Con
cười vì cả hai chú đều sai!
- Không
đâu con! Cả hai chú đều không sai!
Câu trả
lời của nhà sư thật bất ngờ.
Nhà sư
lại phải giải thích:
- Cả hai
không sai, nhưng cả hai chú đều không đúng! Tại sao vậy? Vì trên sự tướng, tha
hay bắt không quan trọng. Tha hay bắt chỉ quan trọng là khi tha để làm gì và
bắt để làm gì? Tha rồi có giáo hóa được người và bắt thì có giáo hóa được
người? Trên tất cả, đối với chúng ta, tha hay bắt là để học bài học giác ngộ mà
thôi!
Bất Đạt
chợt nói:
- Ý con
cũng có thể là vậy lắm! Con bắt rồi con sẽ tìm cách giáo dục người ta nữa chứ!
Liễu
Minh nhíu mày:
- Chú mà
giáo dục! Chú thượng cẳng chân hạ cẳng tay thì có! Rồi chú còn bắt trói người
ta mà giải qua công an! Cái bắt đó là cái bắt của người đời, chỉ tăng thêm oán
thù chứ không được tích sự gì!
Bất Đạt
không giận mà cười khì khì:
- Còn
chú thì sao hử? Chú tha rồi chú giáo dục người ta làm sao nào, nói đi? Tha
trống không cái kiểu của chú thì chi bằng kêu ba thằng ăn trộm vô khiêng chùa
chiền đi hết cho khỏe! Vậy là tha theo hạnh bố thí ba-la-mật đấy!
Nhà sư
khoát tay:
- Các
con tranh cãi hay tranh luận đấy? Các con đừng nghĩ rằng giải pháp của thầy là
tối ưu, từ đó, lấy làm thước đo để xử sự ở đời! Các con có biết rằng, tha hay
bắt chỉ là sự thể hiện bên ngoài? Tha hay bắt rồi sau đó tìm cách giáo hóa,
cũng chỉ là sự khôn ngoan của sự thể hiện bên ngoài ấy mà thôi. Có một cái tâm,
các con ạ! Khi biết cái tâm ấy, trú nơi cái tâm ấy, thì tha hay bắt đều trở nên
đúng cả vậy. Tâm ấy là tâm gì, ai biết?
Cả ba
chú đồng đáp:
- Dạ,
tâm từ!
- Đúng
thế! Vậy thì từ rày về say, khi gặp bất cứ tình huống nào cũng phải sáng suốt,
bình tĩnh. Sáng suốt là Tuệ, bình tĩnh là Định. Từ Tuệ, từ Định mà khởi tâm từ
thì mọi hành động của các con đều phù hợp với giáo pháp cả, không sợ sai lầm
đâu!
- Chúng
con đã hiểu cả rồi. Ôi! Thật tuyệt vời thay cái bài học hôm nay!
Nhà sư
từ bi nhìn ba chú, tủm tỉm cười, thầm nghĩ: "Chỉ nên dẫn cho chúng lên ngang
chỗ đó thôi! Chúng đâu có hiểu rằng, tâm từ còn có trước ý, dụng ý, còn vấn đề
lợi và hại, hay và dở, tốt và xấu thì tâm từ ấy đâu đã được gọi là từ vô lượng?
Huyền Không
Lăng Cô - Hải Vân - 1977
Con chim sẻ
Một ngày
vừa lên bên ngoài khung cửa. Bình minh. Mùa xuân. Nắng nhẹ lung linh trên những
đọt lá xanh non.
Rời bàn
viết, nhà sư đi lần về phía cửa sổ. Muôn hoa nở đầy vườn. Nhà sư vươn vai đón
nhận làn thanh khí mát mẻ của đất trời mà cảm nghe một hòa điệu mênh mông, chan
hòa với vạn vật.
- Bạch
thầy, bạch thầy...
Tiếng
gọi ngập ngừng từ bên ngoài vọng vào. Nhà sư quay lại:
- Liễu
Minh đấy à? Có chuyện gì vậy con?
Liễu
Minh mở nhẹ cánh cửa:
-
Sau giờ công phu khuya đến giờ, chẳng hay thầy bận rộn điều gì mà không ngồi
thiền theo lệ thường?
Nhà sư
mỉm cười dịu dàng:
- Con
thấy thầy chong đèn rồi bảo thầy "bận rộn" đó à?
- Con...
con...
Nhà sư
cất giọng từ ái:
- Con ạ!
Đọc sách, xem kinh không phải là bận rộn; viết truyện, viết sách không phải là
bận rộn. Cho chí lao động suốt ngày, làm việc để kiếm thêm sắn khoai, rau cải
cũng không phải là bận rộn. Trái lại, có kẻ công việc chẳng làm ra đầu ra đũa,
bỏ mứa chuyện này, bỏ phế chuyện kia, lăng xăng, loay hoay... mà bận rộn suốt
cả cuộc đời! Hai trường hợp ấy khác nhau ra sao con có hiểu không? Khác nhau ở
cái "tâm" con có biết không?
- Dạ,
con đâu có dám nghĩ là tâm thầy bận rộn... Con chỉ hỏi chừng sức khỏe của thầy!
Nhà sư
ôn tồn:
- Con
thấy đó, thầy làm việc nơi bàn viết mỗi ngày năm, sáu tiếng; lao động chân tay
hai, ba tiếng; công phu hành thiền hai hoặc ba thời; còn tập thể dục, yoga,
thái cực quyền... nữa. Ơn Phật cho thầy được sức khỏe nên chẳng bao giờ uống
thuốc Tây, thuốc
Nam, thuốc Bắc; thế mà rất
ít ốm bệnh, vài ba năm chỉ nhức đầu, sổ mũi sơ sơ vài ba ngày... vậy thì còn
đòi hỏi gì nữa hở con?
Liễu
Minh cúi đầu. Nhà sư khẽ vỗ lên vai chú:
- Mà cho
dù sức khỏe có sa sút, có ốm đau này nọ cũng là chuyện thường tình. Có thân ắt
có bệnh. Mình muốn thân này không bệnh là đi ngược lại với sự vận hành tự nhiên
của nhiên giới. Vậy là không được. Vậy là dục vọng. Người hiểu Đạo phải sống
theo Pháp, thuận Pháp.
- Dạ,
con đã hiểu.
- Còn
nữa, đấy là chưa nói cái chí hướng, cái chí nguyện. Đức Bồ-tát thí thân cứu hổ
dữ, cắt thịt mình cho chim ăn, hy sinh cái thân vì hạnh phúc cho phần đông.
Chúng ta là kẻ xuất gia, cái thân này chỉ tạm mượn mà tu hành. Lại nữa, xuất
gia là ý chí tối thượng, là Ba-la-mật; như mũi tên kia đã đặt trên dây cung,
như hành trang nọ đã chuẩn bị sẵn với con thiên lý mã; vậy chỉ còn là sự tinh
tiến, quyết tâm lên đường nữa thôi. Có sá gì cái thân này hở con?
Liễu
Minh gục gặc đầu ra vẻ lãnh hội được bài học, chú nói:
- Thế ra
cái thân này chỉ dùng để mà thể nghiệm Đạo lớn?
Nhà sư
cười:
- Đúng,
nhưng không cần nói đao to búa lớn như vậy. Giới nơi thân có ba, có ba là nói
theo pháp học chứ thật ra là hàng chục. Không phải chỉ có sát, đạo, dâm... mà
tất thảy những vọng động của thân, những lắc lư, ưỡn ẹo, tay đấm chân đá nữa!
Mỗi lần xin giới con đều có đọc: "Con xin vâng giữ điều học..." Điều học gì?
Phải học bài học giác ngộ ở đó!
Nhà sư
tự nghĩ: "Đơn giản vậy mà không dễ gì nó lãnh hội hết đâu, nhưng chỉ cần cái
gợi ý, gợi ý đúng hướng nó sẽ tư duy đúng hướng."
Lát sau,
nhà sư ân cần nắm tay Liễu Minh đi về hướng chánh điện. Mùi hoa huệ trắng tỏa
hương thơm tinh khiết phảng phất trong không gian
- Con
chim sẻ, bạch thầy! Con chim sẻ hồi hôm vẫn còn!
Theo
hướng tay chỉ của Liễu Minh, nhà sư thấy phía trên bệ thờ, một con chim sẻ đang
kêu chiêm chiếp, vươn vai ưỡn cánh vô tư...
Nhà sư
nói:
- Con
chim kia có vẻ vô tư, thoải mái con nhỉ! Dường như đó là những giây phút vô tư
hạnh phúc, bình yên của nó.
- Vâng,
quả có vậy.
Trầm
ngâm giây lâu, nhà sư hỏi:
- Con có
thể cho thầy biết rằng, là cái hạnh phúc, bình yên kia có chân thật không? Hay
là ẩn sau cái hạnh phúc, bình yên ấy là những sợ hãi, những lo âu?
Vừng
trán đầy thông minh của Liễu Minh chợt cau lại. Nhà sư biết là mình đã đặt một
câu hỏi vượt quá sức của chú. Vừa định tìm cách khơi dẫn thì con chim sẻ vừa
cất cánh bay lên khung cửa gương phía trên cao. Chim vì thấy có người, định tìm
lối thoát nhưng cũng bị dội ngược trở lại. Đã mấy lần chim lập lại mãi cái nỗ
lực vô vọng ấy.
Liễu
Minh chợt reo lên:
- Con
tìm ra câu trả lời rồi! Hạnh phúc, bình yên kia chẳng phải là cái chân thật,
chỉ là cái tạm thời. Bạch thầy, vì quê hương nó không phải là ở đây, mà ở bên
ngoài cửa gương, nơi bầu trời mênh mông, cao rộng...
Nhà sư
nhè nhẹ gật đầu:
- Con đã
nghĩ đúng. Ôi! Nếu cái nghỉ ngơi tạm thời kia mà được gọi là hạnh phúc, bình
yên thì hạnh phúc, bình yên của đời người mới ngắn ngủi, mới đáng mỉa mai làm
sao, con nhỉ! Thụ hưởng được tí chút hạnh phúc, bình yên để rồi phải đối đầu
với mọi nỗi lo âu, sợ hãi. Thụ hưởng được tí chút hạnh phúc, bình yên để rồi
nhận ra rằng mình đang bị vây bủa trong bốn bức tường cao!
Liễu
Minh con! Hãy nhìn thêm sự đau khổ đã rã rời trên đôi cánh của chim. Con hãy
nhìn để biết, để thấy và để cứu!
Trên
cao, chim vẫn láo liêng, ngơ ngác, bay ngược, bay xuôi; vẫn lặp đi, lặp lại mãi
cái động tác quen thuộc: lao vào liền bị dội ra!
Như đã
không còn chịu đựng nỗi cái đau khổ của chim, Liễu Minh hốt hoảng:
- Hãy
cứu, bạch thầy, hãy cứu nó!
Vừa nói,
Liễu Minh vừa chạy tới, chạy lui đầy thương yêu và lo lắng; nhưng khoảng cách
giữa người đến chim quá xa, chẳng thể làm gì được. Chú vỗ tay, chú đập thùng,
chú hét, chú la... Tất cả đều vô ích. Nỗ lực của chú chỉ làm cho chim hốt
hoảng, sợ hãi thêm mà thôi.
Nhà sư
cũng thương yêu chim nhưng bình tĩnh hơn. Nhà sư đưa mắt nhìn quanh, quan sát
và suy nghĩ biện pháp, rồi nói:
- Con
chạy ra sau vườn, nơi chỗ cây sàla, lấy ngay cây sào vào đây.
Khi đã
có cây sào, nhà sư lấy tấm vải rách cột lên đầu sào. Chỉ cho Liễu Minh thấy lỗ
hổng thông gió ở đầu hồi chánh điện, nhà sư bảo chú xua chim vào hướng ấy.
Quả
nhiên, theo cách làm như vậy, lát sau, chim sẻ được cứu thoát ra ngoài.
Liễu
Minh thở một hơi dài nhẹ nhõm:
- Nếu
không có thầy thì con chỉ làm cho nó thêm sợ hãi. Con quả là thiểu trí.
- Con đã
tỏ ra đầy lo lắng, thương yêu khi chim bị nạn, như vậy là có tâm bi. Nhưng nếu
thiếu trí, thì bi kia sẽ rơi vào những tình cảm sướt mướt, bá vơ, đôi khi không
hữu ích gì cho cuộc đời này; lại làm cho cuộc đời này thêm rối loạn, như chim
đã rối loạn. Thiếu trí con sẽ chạy tới, chạy lui mãi giữa thế gian, thương
người, thương đời nhưng không biết làm sao mà cứu!
Thấm
thía bài học, Liễu Minh rưng rưng như chực sa nước mắt.
Nhà sư
bước tới điện thờ, tự tay đốt đèn cầy, thắp hương, xông trầm với tư thái chậm
rãi, cẩn trọng, trang nghiêm. Rồi nhà sư nói:
- Con
hãy đến đảnh lễ Phật - nhìn Liễu Minh đảnh lễ, nhà sư tiếp - đảnh lễ một cách
định tĩnh, buông xả cả thân lẫn tâm! Ngay giây phút đảnh lễ thì bản ngã, kiêu
căng, tham sân, sầu muộn... thảy đều phải được buông xuống hết. Đảnh lễ là giải
thoát thân, giải thoát tâm, giải thoát trí đấy con ạ! Thôi được, xong rồi, bây
giờ con hãy ngồi xếp bằng theo thế liên hoa và nhắm mắt lại.
Thấy
Liễu Minh làm y lời, nhà sư nói:
- Những
tạp niệm đã lắng xuống rồi, bây giờ hãy làm cho tâm con được trong sáng và lớn
rộng hơn. Con có nghe rõ đấy không?
- Dạ
nghe rõ.
- Con có
thấy bầu trời trong xanh và cao rộng chưa?
- Dạ
thấy rồi.
- Bây
giờ con hãy "tưởng" con là bầu trời, không một tư niệm nào; một bầu trời rộng
lớn, vô biên, trong sáng, không hề có một đám mây nào gợn! - chăm chú nhìn Liễu
Minh, lát sau nhà sư tiếp - Vậy là tốt, hãy cứ để tâm như vậy chừng năm, mười
phút.
Cuộc đối
thoại chìm trong yên lặng. Trầm, hương mênh mang tỏa khói, những sợi nhỏ lãng
đãng uốn mình xuyên qua những tia nắng bình minh rồi tan hòa mất hút giữa thinh
không. Vài tiếng động bên ngoài cũng chợt như xa vắng. Thời gian và không gian
đọng lại trong vũng sáng lưu ly... nơi cái giây phút hư không, vô nhiễm. Tất cả
đều là hư không, vô nhiễm!
Nhà sư
"đánh thức" Liễu Minh:
- Thôi,
đủ rồi con!
Liễu
Minh mở mắt ra.
- Tâm
hồn con bình yên rồi đấy chứ!
- Dạ
vâng.
- Cái hư
không vô nhiễm kia không phải là niết-bàn nhưng là chỗ "tạm thời nghỉ ngơi" của
chúng ta! Chỗ "tạm cư" ấy nó nhẹ nhàng hơn, yên ổn hơn tất cả những cái gọi là
hạnh phúc giữa cuộc đời này. Khi nào phiền muộn con hãy đến đó mà nghỉ ngơi
nhé! Con chưa thiền quán được thì tạm thời lấy cái "tưởng" hư không vô nhiễm ấy
mà làm nơi an trú...
- Dạ,
con nghe rõ.
- Còn
nữa! Thầy phải cần lặp lại rằng, cái chỗ nghỉ ngơi của con chim sẻ là không yên
ổn, chỗ nghỉ ngơi vừa rồi yên ổn hơn, nhưng nó chưa phải là mục đích phạm hạnh
của chúng ta. Bài học của con chim sẻ không phải chỉ có chừng đó, con hãy chiêm
nghiệm thêm. Nhớ nhé!
Buổi
tối, sau giờ tụng kinh, nhà sư hỏi:
- Từ
chuyện chim sẻ hồi sáng, con học thêm được bài học gì, nói cho thầy nghe thử
xem?
Liễu
Minh vòng tay:
- Con
suy nghĩ kỹ rồi, bạch thầy! Thuở mới vào chùa, con tưởng đời sống tu sĩ nhàn
hạ, thảnh thơi. Nhưng con đã lầm, sự nhàn hạ, thảnh thơi ấy dễ phát sanh những
thụ hưởng ích kỷ, biếng nhác. Vậy con chính là con chim sẻ ấy và thầy là người
dẫn lối đưa đường cho con ánh sáng để thấy rõ mình hơn.
- Rất
tốt. Vậy còn bài học gì nữa?
- Thầy
đưa con đến chỗ hư không vô nhiễm mà thầy còn nói đó là chỗ nghỉ ngơi tạm thời.
Bởi chính ngay nơi chỗ nghỉ ngơi ấy cũng dễ phát sanh thụ hưởng, ích kỷ, vị
ngã. Con đã hiểu như vậy, là bài học thứ hai, không biết có sai lầm chăng, bạch
thầy?
- Không
sai đâu! Còn bài học nào nữa hở con?
- Bây
giờ, chim sẻ không còn là con nữa mà chim sẻ là hình ảnh của chúng sanh vạn
loài. Vì vô minh, vì ái dục, chúng sanh cứ mải mê trong hạnh phúc tạm bợ thế
tình, những thỏa mãn ngũ dục phù du. Khi nhìn lại thì xung quanh đã bị vây bủa
bít bùng, không còn tìm thấy lối ra. Đâu đâu cũng là bóng đêm. Đâu đâu cũng là
tử sinh và nước mắt. Bạch thầy, đấy là bài học thứ ba.
Nhà sư
mỉm cười:
- Khá
lắm! Nhưng dường như con muốn nói gì đó nữa?
- Dạ
đúng thế. Con còn muốn ví von rằng, tấm gương mỏng và trong bên cửa sổ cao kia
được ví như màn vô minh. Vì trong và mỏng quá nên chúng sanh không biết đấy là
vô minh. Nhưng vô minh dầu mỏng, dầu dày cũng rất khó thấy. Đối với kẻ trí, ít
nghiệp chướng thì nó rất mỏng. Đối với người ngu, nhiều nghiệp chướng thì nó
chắc hẳn phải dày. Nhưng, đập vỡ được nó ra thì bên kia là vùng trời giải
thoát!
- Lành
thay! - nhà sư tán thán- con còn muốn nói gì nữa không?
- Bạch
thầy, hồi sáng, nhờ cây sào của thầy, con mới đưa chim ra được bầu trời tự do.
Cây sào ấy được ví như là giáo pháp, nói gọn và gần hơn nó chính là Bát Chánh
Đạo. Chỉ có Bát Chánh Đạo mới đưa được chúng sanh từ nơi lo âu, sợ hãi, phiền
muộn đến nơi giải thoát an vui!
- Hay
lắm!
- Bạch
thầy - Liễu Minh say sưa nói - Phải xua, phải đuổi, phải đánh, phải đập những
con chim sẻ đần độn, ngu muội! Phải tát vào mặt, phải quất vào lưng những con
chim sẻ ngủ mê, hưởng thụ, biếng nhác! Phải làm cho chúng tỉnh dậy, phải làm
cho chúng ra đi, cho chúng bay, cho chúng thoát. Phải giúp đỡ cho chúng sanh
bằng mọi phương tiện có thể được. Bây giờ không còn là thứ từ bi thụ động, tiêu
cực, nước mắt sướt mướt... mà phải là bão để cuốn phăng, phải là lửa để đốt
cháy... cho chúng sanh tỉnh giấc mộng trường! Và ngay chính bản thân con, con
chim sẻ ngu muội, cũng phải biết thủ tiêu cái hèn mọn của tự ngã, sự nghỉ ngơi
tạm thời... để lên đường, để ra đi...
Nói ra
đi như vậy, nhưng con chưa dám nghĩ là để thành tựu điều gì, mà chỉ là đáp đền
hồng ân Tam Bảo, đáp đền ân thầy tổ, đàn-na thí chủ và tình nghĩa đệ huynh. Và
nhất là để khỏi hổ thẹn với chính mình!
Nhà sư
ân cần nắm tay Liễu Minh đứng dậy:
- Đấy là
những suy nghĩ chân chính, đáng khen. Chà! Một con chim sẻ vừa ngu muội đó mà
bây giờ đã trở nên thông minh rồi! Thầy hài lòng lắm, con biết không?
Liễu
Minh nở nụ cười sung sướng còn tươi đẹp hơn mùa xuân bên ngoài.
Tam Bảo - Đà Nẵng - 1977
Giàn bí đỏ
Sáng
nay, cả chùa ai cũng phải gánh nước tưới cây. Cái khô hạn của nắng hè làm cho
cây vườn héo úa, cháy vàng. Lá xanh như bốc hơi. Đất đai như lửa nung.
Bất Đạt
nói:
- Phải
chăng đây là lửa của nghiệt chướng? của tội lỗi? của tham sân? Làm thế nào để
tắt được lửa này?
Bất Ác
than:
- Lửa!
Lửa! Ôi! Lạy Phật từ bi!
Bất Đạt
nhăn mày:
- Cứ
than như vậy mà được à? Thầy nói đúng, chú là kẻ lười biếng, thụ động, tiêu
cực. Tu mà chỉ thích nguyện cầu. Cái cầu nguyện kia hãy để cho người yếu đuối.
Nam
nhi như chú phải mạnh lên. Hãy dùng dõng lực của trí tuệ mà tu, hiểu chưa?
Bất Ác
cãi lại:
- Nguyện
cầu không được sao? Ối! Em nguyện cầu rồi thì đức Phật cũng cứu. Người tu theo
đức tin, người tu theo trí tuệ, người tu theo tinh tấn; chưa biết rồi mèo nào
cắn mỉu nào!
Liễu
Minh tưới xong mấy dây bầu, để thùng gánh nước một bên, bước lại góp chuyện:
- Đố các
chú, lửa này do đâu mà có?
Bất Ác
nói:
- Do
nắng hạn chứ sao?
Bất Đạt
lắc đầu:
- Do
lòng tham sân của con người! Chú em không biết thì ngồi dựa cột mà nghe!
Bất Ác
tức tối:
- Chú
khi nào cũng áp đảo người khác. Vậy do nguyên nhân gì hở chú Liễu Minh?
Liễu
Minh cười đáp:
- Chú
Bất Đạt nói đúng đấy! Này nhé! Do lòng tham của con người mà phá rừng, làm gỗ,
làm củi, đốt than. Cứ mỗi phút như vậy, khắp nơi trên thế giới, mất đi hàng
trăm ngàn hecta rừng nguyên sinh. Khắp nơi hạn hán lũ lụt là do vậy. Còn nữa,
các loại bụi công nghiệp, các chất thải hóa học làm vẩn đục và nung nóng bầu
khí quyển, nhiệt độ trái đất tăng lên. Hiểm họa môi sinh đã báo động khắp nơi
trên thế giới. Lòng tham vô tận, vô độ của con người đã tự hủy diệt môi trường
sinh thái của mình. Lại nữa, những tâm địa sân hận của thế gian như ác độc, hận
thù, ganh ghét... như những năng lượng từng giờ từng phút tung ra bầu khí quyển
những sức nóng kinh khiếp. Ôi! tâm như vậy, cảnh như vậy, tạo một cộng lực vĩ
đại, đến một lúc nào đó trái đất sẽ bị thiêu hủy ra tro, hà huống...!
Bất Ác
"à" lên một tiếng.
- Trong
kinh có nói quả đất sẽ bị thiêu hủy khi bảy mặt trời xuất hiện?
Bất Đạt
gật đầu:
- Chú em
rứa là giỏi! Bảy mặt trời là như thế. Đừng hy vọng nhân loại sau này sẽ tốt
hơn. Cái tham lam ác độc của con người mỗi ngày mỗi tăng, và sẽ tăng nhiệt độ
cho bằng bảy mặt trời là vừa "hết ý"!
Bất Ác
hỏi "mát":
- Là
người tu hành mà chú nói dửng dưng như vậy à?
- Chứ
sao! Cho chết luôn!
Liễu
Minh cười giàn hòa:
- Chú ấy
nói chơi đó mà! Thôi ta còn đi tưới, thêm nước "từ bi" cho vườn chùa kẻo tội
quá!
Nhà sư
từ vườn dưới cũng vừa gánh nước đi lên. Bỏ nhẹ đôi gánh trên vai xuống, nhà sư
hỏi:
- Các
con vừa thảo luận với nhau chuyện gì?
Bất Ác
mau mắn, thưa:
- Dạ...
Nóng. Lửa. Tham lam, sân hận, ác độc, khô hạn.... là một, cho đến khi bảy mặt
trời xuất hiện thì quả địa cầu thành tro! Bạch thầy!
Liễu
Minh và Bất Đạt thay nhau kể lại tường tận hơn.
Nhà sư
tán thán:
- Thế là
các con đã thấy được chiều sâu của vấn đề, như vậy là vừa đủ chẳng cần góp thêm
ý kiến gì.
Rồi nhà
sư lại hỏi:
- Trên
này đã tưới xong chưa?
Liễu
Minh đáp:
- Dạ!
Chỉ còn giàn bí đỏ.
- Vậy
các con hãy lấy đôi nước kia mà tưới cho nó.
Bất Đạt
nhanh tay xách hai thùng từ từ tưới cho giàn bí đỏ.
Nhà sư
quay qua hỏi Bất Ác:
- Này
con! Mùa này muốn cho bí ra hoa được đậu trái, chúng ta tưới như vậy đã đủ
chưa?
- Dạ
thưa - Bất Ác đáp - vậy cũng tạm đủ, nó sẽ đơm hoa kết trái thôi.
Nhà sư
hỏi Liễu Minh:
- Còn
con thì sao?
Liễu
Minh đưa mắt nhìn giàn bí rồi trả lời:
- Nắng
hạn quá, bạch thầy! Có lẽ phải tưới nhiều hơn nữa!
Bất Đạt
phát biểu ý mình:
- Còn
con thì khác. Mùa này hết thời vụ trồng bí rồi, nên trồng thứ khác.
Nhà sư
im lặng một lúc, bảo ba chú cùng ngồi xuống, chậm rãi nói:
- Các
con biết không, chúng ta là người tu hành, từ khi bắt đầu công phu cho đến khi
giác ngộ cũng ví như trồng một giàn bí đỏ vậy. Trồng một giàn bí đỏ muốn thành
công, ra hoa và kết trái thì phải làm giàn, sau đó phải đầu tư phân, nước và
công lao chăm sóc. Cái giàn chính là giới, nước chính là đức tin, phân là trí,
công lao chăm sóc là tinh tấn... Câu trả lời của Bất Ác chứng tỏ ngay chính đức
tin cũng chưa vững vàng, chưa biết bồi dưỡng và phát huy đức tin. Còn giới, trí
và tấn dường như hoàn toàn thiếu sót. Kẻ tu hành như vậy thường dễ nẩy sinh
buông xuôi, biếng nhác, hời hợt. Như vậy, cái giàn bí ấy, dẫu có ra trái cũng
rụng mất. Quả bồ-đề làm sao lớn, làm sao có kết quả được hở con?
Cả ba
chú nghe mà lạnh mình.
Nhà sư
quay qua hỏi Liễu Minh:
- Còn
con là người có chút nghị lực, có chút ít ý chí phấn đấu, biết tô bồi đức tin,
biết nuôi dưỡng và nâng đỡ đức tin... Cái giàn bí kia nếu cứ việc tưới, tưới
mãi thì trái cũng không thể lớn. Con có biết tại sao không?
Liễu
Minh gãi đầu. Nhà sư nói:
- Vì con
không biết thêm phân! Sở dĩ gọi là thêm phân, vì nó cần phải có trí để soi rọi
và hướng dẫn đức tin. Tín và trí phải song đôi, ngoài ra phải bỏ công lao chăm
sóc theo dõi cái giàn bí đỏ ấy, nghĩa là cần phải có tinh tấn nữa, thì may ra
quả bồ-đề mới có cơ hội tăng trưởng. Con biết như vậy chứ?
Nhà sư
quay qua Bất Đạt:
- Con
luôn là người ngược lại với huynh đệ! Con thuộc căn trí nên nhặm lẹ, mau mắn,
nhưng nhặm lẹ, mau mắn thì dễ sinh nóng nảy, gốc của tâm sân. Trí phát triển
thì nghi dễ sinh và tín dễ mất. Vậy thì con cần bồi dưỡng đức tin. Đức tin là
nước mà từ bi cũng là nước, con cần hai yếu tố mát mẻ này may ra mới quân bình
được đời sống phạm hạnh!
Nhà sư
như đọc được tâm ý, sở học, sở hành của mỗi người nên ba chú ngồi im re.
Nhà sư
đưa tay chỉ một đọt bí lủng lẳng giữa hư không:
- Các
con xem kìa! Hồi nãy thầy có nhắc đến giới là lý do này đây. Dây bí kia không
có gì nâng đỡ phía dưới nên không biết bám víu vào đâu. Cũng vậy, cuộc sống
trên đời của những kẻ không có giới, cũng bò, nhưng không biết bò về đâu, vất
vưởng, lênh đênh, vô định. Dẫu có ra hoa kết trái thì trái ấy cũng teo tóp, rồi
thân bí sẽ bị lôi tuột xuống đất đen, xuống vực! Do vậy tín, giới, tấn, trí là
cái gì căn bản nhất, cần thiết nhất cho mỗi người để trồng một giàn bí đỏ trong
lòng mình. Các con hiểu những điều thầy muốn trao gởi đó chứ?
Họ đồng
thanh đáp:
- Dạ
hiểu!
Rồi Bất
Ác rụt rè:
- Bạch
thầy cái giàn bí đỏ của con chỉ có một chút nước... còn thiếu thì thiếu tất cả?
Nhà sư
mỉm cười:
- Cái
giàn bí của con không chắc chắn, nước tưới lại ít, phân không có, công chăm sóc
thì “bạ đâu hay đó”. Có phải thế không?
Bất Ác
cúi đầu lẳng lặng nghĩ đến cái tên “Bất ác” thầy đặt cho mình. “Bất ác” nghĩa
là không làm điều ác! Không làm điều ác thì mới là khía cạnh tiêu cực, thụ động
của giới. Còn khía cạnh tích cực nữa là “phải làm thiện”. Khi mà làm thiện thì
ta lại có thêm đầy đủ giới, tín và tấn. Thêm tấn thì có luôn cả trí. À hay
lắm!”
Nghĩ
vậy, chú bèn đáp:
- Bạch
thầy, con hiểu toàn bộ vấn đề rồi.
Đến
phiên Liễu Minh:
- Riêng
con thì cần thêm một chút tấn, chút trí nữa.
- Đúng
vậy, nhà sư đáp, thầy hy vọng rằng lần hồi con sẽ liễu minh vấn đề của chính
con!
Còn Bất
Đạt thì phát biểu:
- Con
thường ỷ y mình là người có căn trí nên cái gì cũng muốn chóng xong, chóng đạt.
Cái này mà ngó bộ không xong là quay qua cái khác liền! Bạch thầy, con đã hiểu
con, hiểu ẩn nghĩa bất đạt là gì rồi!
Trời đã
khá trưa, không gió, núi rừng im phăng phắc. Có tiếng mang khàn khàn vọng từ
trên suối xuống, nghe rõ mồn một. Nhà sư trìu mến nhìn ba người đệ tử rồi từ từ
đứng dậy.
Bất Ác
chợt nói:
- Bây
giờ phải trồng lại cái giàn bí đỏ khác ở trong tâm!
Nhà sư
nói:
- Bây
giờ ấy à? Bây giờ là phải thu xếp , cất đặt đồ đạc; sau đó cùng phụ nhau để nấu
cơm trưa. Đạo lý chính là chỗ ấy!
Nói
xong, nhà sư đi về phía am tranh. Cả ba chú đều sững lại, dường như họ đang cố
tìm cho ra đạo lý cất đồ đạc và nấu ăn trưa!
Huyền
Không
Lăng Cô - Hải Vân – 1976
Trái đu đủ cắt tư
Sửa soạn
mâm cơm cho nhà sư xong, Bất Đạt cầm trái đu đủ ngắm nghía. Chú nghĩ, trái đu
đủ này quá nhỏ, tuy vậy cắt bốn phần đều đặn là việc con nít làm cũng được. Chỉ
hơi bực một chút là khi có thêm một hoặc ba vị khách, phải chia năm, chia bảy
mới phiền.
Trái đu
đủ cắt xong thì đã nghe Bất Ác ồn ào ở phía cửa bếp:
- Cái
bụng nó xuống đường biểu tình rồi chú “hỏa đầu quân” ơi! Hôm nay chú dẹp tụi nó
bằng “lựu đạn” (khoai) hay “ca nông” (sắn)? À, mà “axit” (tương) có còn không?
- Lựu
đạn và axit đã khan hiếm - Bất Đạt vừa nói vừa lấy lồng bàn úp mâm cơm lại -
Kho cơ hữu nhà ta chỉ còn ca-nông và ca-nông thôi! Bảy quả ca-nông, báo cáo chú
em!
Bất Ác
dựng vội cúp và rựa bên hiên, lao nhanh vào:
- Sắn
với sắn thôi à? Thế là chết tôi! Thế là chết em rồi chú ơi!
Bất Đạt
cười khì khì:
- Chết
chú nhưng mà nhất tôi! Này nhé: bột sắn nấu là một, bánh sắn hấp là hai, bánh
sắn ram là ba, nước tương sắn là bốn, canh sắn là năm, sắn nướng là sáu, chè
bột sắn là bảy, vị chi bảy món. Sắn bảy món có thua gì các chú đâu!
Bất Ác
xụ mặt:
- Thế là
chú chẳng thương em chút nào. Em có mấy cái mụt nhọt mưng mủ chưa lành mà chú
lại cho ăn cái kiểu này! Ôi, sắn ơi là sắn! Mủ ôi là mủ!
Bất Đạt
phì cười:
- Chú
em, “dĩ độc trị độc” thế mà hay đấy! Chú có nhớ hôm đến phiên chú, chú làm “cà
bảy món” mà chú nói là “ca bảy câu” không? “Ca bảy câu” sao nổi khi thời gian
đó tôi vừa bớt bệnh, thế mà tôi đành phải bịt tai nhắm mắt “ca” cho xong “bảy
câu” của chú! “Một chén cà bằng ba chén thuốc”, hèn chi tôi bị hành dữ!
Bất Ác
nhăn mày nói:
- Thuở
đó em đâu có biết cà là âm độc? Vô tâm là không có tội! Còn chú là người học
rộng nghe nhiều, y lý tinh thông, chú há không biết sắn cũng độc không thua gì
cà sao?
Thấy Bất
Ác buồn, Bất Đạt xuống giọng:
- Ừ,
thật ra tôi quên, không nhớ là chú bị nhiệt! Số là sáng nay đến phiên tôi nấu
ăn, xuống bếp lục “cụi”, lục “kho” thấy chẳng còn thứ gì. Rau muống mới trỉa
hạt, môn vừa trồng lại, khoai hôm kia bị bò liếm hết trơn; rau dền, rau má thì
nhiều nhưng ăn hoài cũng ngán... Tuy nhiên khi đứng tần ngần, tôi chợt nảy ra
cái ý làm “ca nông bảy quả” để đáp trả thịnh tình “ca bảy câu’ của chú và “môn
bảy kiểu” của chú Liễu Minh đó mà!
Bất Ác
im lặng không nói gì. Chợt nhiên có giọng ồm ồm bên tai hai người:
- Cái gì
là “ca bảy câu”, cái gì là “ca nông” bảy quả? Con nhà Phật mà chẳng có văn
chương cửa Thiền chút nào cả. Cái món của tôi được gọi là “bảy cửa (môn) vào
cõi Huyền Không” chứ lị!
- Chú...
chú! Bất Ác gọi Liễu Minh - “Ca bảy câu” cũng được, “bảy cửa vào cõi Huyền
Không” cũng hay, nhưng “ca nông bảy quả” làm sao nỗi khi em mụt nhọt cả người
như thế này này?
Liễu
Minh quăng khúc củi xuống hiên, cười trấn an Bất Ác:
- Không
có sao đâu chú em. Để chút nữa tôi đi kiếm cái gì mát mát như lá chùm bao, lá
rau má, hoặc trái đu đủ... thuộc âm hàn mà “bổ” vào là nó quân bình âm dương
lại ngay.
Bất Đạt
cười hề hề:
- Khỏi
lo! Có món đu đủ. Tôi thủ hậu món đu đủ cho nó giải nhiệt mà!
Liễu
Minh sà lại bên mâm cơm. Bất Ác đưa tay giở lồng bàn, chợt chú la toáng lên:
- Phật
ôi! Chú đành lòng nào mà trái đu đủ có bấy nhiêu lại cắt làm bốn phần đều đặn
như vậy? Ta nóng thì thầy cũng nóng, nỡ nào...
“- Lợi
hòa đồng chia” - Bất Đạt nói át - bấy lâu thầy đã từng dạy như thế. Cắt phần
thầy lớn thì thầy quở trách đó, chú không nhớ sao?
Bất Ác
thò tay lẳng lặng lấy phần của mình bỏ vào đĩa trong mâm cơm của nhà sư rồi
bưng lên tịnh thất. Liễu Minh và Bất Đạt thoáng ngỡ ngàng, nhưng như đồng một
lúc, cùng lấy phần đu đủ của mình bỏ vào đó luôn.
Khi Bất
Ác bưng mâm cơm đi rồi, Liễu Minh và Bất Đạt ngồi thừ như vậy rất lâu.
Liễu
Minh chợt nói:
- Bỏ cái
âm hàn dương nhiệt đi chú nhé, ta chỉ bàn chuyện vừa rồi. “Lợi hòa đồng quân”
mà cái gì cũng chia phần đều nhau như trường hợp vừa rồi, tôi thấy bất ổn sao
là!
- Tôi
cũng như vậy - Bất Đạt đăm chiêu. Hôm kia làm bánh sắn nhân đậu xanh, mỗi người
được tám cái, thầy ăn tám cái chắc vừa bụng. Tôi và chú tám cái ăn không thấm
vào đâu. Còn chú Bất Ác mà làm tám cái thì e là... đã đánh mất “trung đạo” rồi!
Liễu
Minh gật đầu :
- Dường
như từ lâu thầy muốn chỉ dạy chúng ta điều gì đây, chú có thấy không? Đáng lý
ra, thầy tối thiểu cũng phải có một sa-di thị giả. Thế mà ở đây, chúng ta chỉ
lo được có một mâm cơm! Có lẽ thầy muốn nâng đỡ chúng ta mặt nào đó nên thầy đã
sống rất bình đẳng với mọi người. Chính thầy đã tự tước đi tất cả các tiện nghi
đáng ra thầy xứng đáng được hưởng. Nói xứng đáng cũng không đúng nữa- chính nhờ
công đức phước báu của thầy, thầy đã san sẻ, nuôi nấng chúng ta. Còn đến công
việc thì thầy không bao giờ ra giọng sai bảo; chỉ gợi ý, đề nghị hoặc vạch
chương trình để làm chung. Cho đến những lao động nặng nhọc thầy cũng cùng làm
với chúng ta. Mà bao giờ thầy cũng là người vác cúp, vác cuốc đi trước. Còn
chúng ta thì...”chưa ăn thì anh rìu em rạ, ăn rồi thì anh ngả em nghiêng”, thế
đấy!
Bất Đạt
khẽ cúi đầu xuống:
- Đúng
là vậy, nghĩ chuyện trái đu đủ, tôi còn hổ thẹn với Bất Ác. Đôi khi lý trí tôi
nó làm việc như cái máy. Thiệt là bậy, thiệt là cái đầu óc tôi nó hư hỏng, lệch
lạc mất rồi! Té ra, “y kinh giảng nghĩa tam thế Phật oan”! Nguy hiểm, thậm nguy
hiểm!
Liễu
Minh như đang chìm trong suy tư của mình:
- Chú có
nhớ cái “bánh ít chia bốn” của chú Bất Ác không?
- Nhớ,
còn nhớ! Chả là hôm đó Bất Ác vừa mới vào, chùa mình có chín một trái ổi xá lị
đầu tiên, thầy bảo nên chia bốn phần cho mỗi người thưởng thức một tí. Ít hôm
sau, thầy đi bát về, ngoài gạo và khoai sắn ra, có một cái bánh ít. Thế là với
bổn cũ soạn lại, Bất Ác cắt chia bốn phần đều nhau, ăn không dính kẽ răng. Có
điều lạ là hôm đó, tôi hầu cơm thầy, thầy mỉm cười nói: “Con hỏi Bất Ác có phải
cái bánh ít mà chia làm bốn phần, nó lúng túng lắm phải không?”
- Phải
rồi - Liễu Minh cướp lời - vậy là thầy biết, thầy dư biết chúng ta chưa học
được bài học “lợi hòa đồng quân”. Không những thầy cười Bất Ác mà thầy còn cười
cả sự... máy móc của chúng ta đó! “Lợi hòa đồng quân” kiểu của chúng ta là hình
thức chia chác lợi lộc rất là nguy hiểm, nó còn thiếu “nội dung” đó chú”
- Chú cứ
trình bày cho hết ý
- Tôi
từng sống nhiều nơi, tôi biết. Có nhiều chuyện xảy ra không hay ho gì trong đời
sống cộng đồng tăng lữ. Vật phát sanh đến, nếu chia không đủ thì bốc thăm, làm
cho nhiều vị rất tốt, đôi khi nảy tâm mong cầu được cái này, cái nọ... Mà thôi,
đừng nói chuyện ấy nữa, ta thường thấy hạt bụi trong mắt người mà không thấy
được cái rác trong mắt ta! Tôi chỉ muốn nêu lên vài trường hợp cụ thể để chúng
ta cùng thấy rằng, “lợi hòa đồng quân” không phải chỉ dừng lại nơi hình thức
bên ngoài, mà còn phải để ý cái tâm bên trong nữa chứ!
Bất Đạt
“à” lên một tiếng:
- Phải
rồi! Cái gì cũng chia đều thì đến một lúc nào đó mình tưởng là mình có quyền
ngang bằng với thầy tất cả. Ngang bằng sao được, ngoài đời còn có ông bà cha
mẹ, trong đạo phải có tổ, có thầy. Công ơn thầy dạy đạo to lớn hơn công ơn của
cha mẹ nữa. Coi chừng, nếu không suy xét cho thấu đáo, lửa địa ngục sẽ thiêu
cháy tan xương nát thịt chúng ta mất thôi.
Hai
người nói chuyện ngang đây thì Bất Ác bưng mâm cơm trở xuống. Thức ăn gần hết,
nhưng đĩa đu đủ thì còn ba lát, nhà sư chỉ dùng một.
Bất Ác
mau mắn kể lại.
- Khi
thấy đĩa đu đủ có bốn miếng, thầy hỏi: “Hôm qua có mấy trái đu đủ chín hả
con?”. Em đáp: “Dạ, chỉ có một”. Thầy cười với đôi mắt sáng lấp lánh: “Có lẽ là
cho đến hôm nay, các con mới bắt đầu hiểu ý nghĩa sâu xa của “lợi hòa đồng
quân” rồi đấy!”
Liễu
Minh chợt vỗ tay:
- Tôi
biết rồi! Tôi hiểu rồi!
Bất Ác
vô tình kể tiếp:
- Khi
thầy nói vậy, em ngạc nhiên vô cùng, liền láu táu: “Bạch thầy, “lợi hòa đồng
quân” thì con đã hiểu lâu rồi!”. Thầy bèn nghiêm mặt: “Đừng có đại ngôn! Kể cả
những người ăn cơm Phật, mặc áo cà sa cho đến bạc đầu mà áp dụng nó chẳng khác
gì là phỉ báng Phật! Con mới vào tu mà nói vậy, coi chừng mắc thói “tăng thượng
mạn” đó! “Mấy chú ơi, em thấy mặt thầy nghiêm lại, em ớn quá, em le lưỡi, thụt
cổ rồi im thin thít luôn .
Bất Ác
quay qua Liễu Minh :
- Chú
nói hiểu là hiểu làm sao nói cho em nghe thử coi?
Liễu
Minh chỉ vào mâm cơm:
- Đói
bụng rồi, ăn đã!
- Không!
Bất Ác giẫy nẫy- “sớm nghe đạo, chiều chết cũng cam”, Chú không nói thì em
tuyệt thực.
Bất Đạt
cười khì:
- Chú em
ngán sắn thì nói ngán sắn cho rồi, vờ nói tuyệt thực làm gì! Xấu, xấu lắm nghe
em!
- “Đốt”
chú đi! Em không chơi với chú. Em nói chuyện đứng đắn với chú Liễu Minh!
Liễu
Minh xen vào:
- Thôi
chúng ta cùng ăn rồi thảo luận. Chú em Bất Ác à, tôi bụng to thì cứ việc ăn
nhiều, chú bụng nhỏ thì cứ việc ăn ít, vậy là “lợi hòa đồng quân” đó!
Thế là
cả ba bắt đầu ăn. Bất Đạt dường như đã hiểu nên chú gục gặc đầu có vẻ đắc ý
lắm. Một lát chú nói:
- Hôm
nay, phần đu đủ của mình, mình dâng hết cho thầy, thầy nhường lại cho mình, rồi
mình nhường lại hết cho chú Bất Ác để chú “tả nhiệt”. Thế là “ lợi hòa đồng
quân”, phải không chú Liễu Minh?
- Phải
“lợi hòa đồng quân” theo cách chia bên ngoài mới chỉ là “tướng hòa”! Tướng hòa
mà thiếu” tâm hòa” thì dễ đưa đến xung đột, tranh chấp; và là điều kiện để phát
sanh phiền não, khổ đau. Còn khi tâm đã hòa rồi thì mọi thể hiện bên ngoài thế
nào cũng là hòa cả. Chú đã hiểu chưa, Bất Ác? Đôi khi chú đã từng thực hành
theo nghĩa “tâm hòa” rồi mà chú không biết đó thôi!
- Em ư?
Bất Ác nhướng mắt hỏi - em là kẻ hay làm phiền rộn thầy và chư huynh lắm mà, có
hòa gì đâu?
- Không
phải thế! Bất Đạt thân thiết nhìn Bất Ác nói - Chú em không làm ai bực mình cả,
ngược lại là khác. Chú em sống rất có tình nghĩa, biết kính, biết lễ, biết
thương yêu mọi người. Chú em hay hành động theo con tim, theo lý lẽ của con tim
nên đôi khi tưởng là hư, là xấu. Hư xấu cũng có đấy, nhưng chỉ là một phần nhỏ,
còn đa phần đều tốt, như trường hợp chú tự động lấy phần mình để vào phần thầy.
Tâm hòa là như rứa đó.
- Em
chưa hiểu. Chú đừng nịnh em!
Tiếp lời
Bất Đạt, Liễu Minh giải thích :
- Đúng
thế chú em à! Tâm hòa nghĩa là tình thầy trò, tình huynh đệ, tình chúng sanh
đấy chứ có gì lạ đâu! Khi sống với nhau trong một ngôi chùa, không cần phải
chia chác vật gì cả, lợi lộc phát sinh cứ để chung một nơi và tùy theo nhu cầu
của mỗi người mà sử dụng. Có thương nhau thật sự mới sống được như thế. Như
trường hợp trái đu đủ, vì kính trọng và yêu thương thầy, ta hoan hỷ dâng hết
cho thầy. Nếu thầy nhường lại mình hay thầy dùng hết thì cái đó cũng chẳng phải
là vấn đề. Còn chú Bất Ác có ăn trọn cả trái đu đủ, chúng ta vẫn hòa với nhau
như thường. Đấy mới đúng nghĩa “chữ hòa” mà Chư Phật muốn chỉ dạy.
Bất Ác
chợt la lên :
- A!
Chính trong tâm em, em cũng nghĩ như vậy mà em lại không biết mới chết chứ!
Cả ba
cùng cười vui. Thật là không có ở đâu “hòa” hơn thế nữa!
Cũng
từ trái đu đủ
Sau khi
nghe các chú trình bày những kiến giải về chữ hòa của Phật đạo, nhà sư hoan hỷ
nói:
- Từ
chuyện trái đu đủ cắt tư mà các con đã thảo luận với nhau đi đến chỗ “tâm hòa”,
thì quả là các con đã biết đào xới vấn đề, đã có một chiêm nghiệm đúng đắn.
Sâu, cạn chưa biết thế nào, nhưng sự thấy, biết ấy thật đáng khích lệ, thật
đáng được khen thưởng.
Nhà sư
ngưng nói nhìn các chú - thấy ai mặt mày cũng rất hớn hở .
Nhà sư
tiếp:
- Bây
giờ các con muốn thưởng cái gì nào?
Bất Ác
mau mắn nói:
- Sáu
bảy tháng nay cả chùa ăn cơm độn khoai, độn sắn đến bảy tám mươi phần trăm. Con
thèm ăn cơm trắng quá, các chú cũng vậy, nhưng các chú ấy vì thể diện, vì
ngượng mồm, ngượng miệng không dám nói ra. Vậy xin thầy thưởng cho chúng con
một bữa cơm trắng thôi!
Mọi
người ngỡ ngàng. Bất Đạt, Liễu Minh cúi đầu, im lặng nhưng không dấu được vẻ
bối rối, lúng túng vì Bất Ác đã nói đúng sự thật.
Nhà sư
cười vui để xóa tan không khí ngột ngạt ấy:
-
Thầy đồng ý vô điều kiện. Nhưng đấy là nhu cầu của cơ thể chứ không phải khen
thưởng. Thầy sẵn sàng đáp ứng nhu cầu chính đáng ấy. Chúng ta sẽ được ăn cơm
trắng không phải một bữa mà có thể năm, bảy bữa cho lại sức, còn
việc khen thưởng vẫn cứ tiến hành.
Bất Ác
hoan hô cả miệng và cả hai tay.
Bất Đạt
nói:
- Còn
việc khen thưởng thì thầy cứ tùy nghi. Thầy biết cái gì thích hợp cho từng
người.
Liễu
Minh và Bất Ác đều đồng ý.
Nhà sư
nói:
- Vậy là
tốt. Đầu tiên là Liễu Minh. Liễu Minh từ lâu thích một chiếc xe đạp “xịn”. Vậy
thì thầy sẽ thưởng cho chú ấy một chiếc xe đạp mới toanh toanh để đi công việc
này, công việc kia..! Được chưa?
Bất Ác
vỗ tay:
- Hết ý!
Vậy là con có cơ hội “đi ké”!
- Còn
con - nhà sư nhìn Bất Ác - Con là người mê ngủ nhất, không bao giờ thức dậy
đúng giờ để hành Thiền, tụng kinh, vậy thầy thưởng cho con một đồng hồ báo
thức!
Bất Đạt
thấy Bất Ác không có phản ánh gì, bèn nói:
- Thầy
thưởng cho chú, sao chú không vỗ tay? Hay là sợ từ rày về sau phải tỉnh “giấc
mộng Nam Kha”?
Bất Ác
xụ mặt lại.
Nhà sư
nói với Bất Đạt:
- Bất
Đạt hay than phiền rựa không bén, cúp cuốc mòn vẹt không sướng tay. Vậy thì
thầy sẽ tặng thưởng một cái rựa mới, một cái cúp lưỡi dài ba gang, một cái cuốc
dài ba tấc... cho vừa sức tay mà làm việc!
Bất Ác
nhăn mày:
- Rứa là
thầy không công bằng rồi! Con thì không nói làm gì, nhưng thưởng cho chú Bất
Đạt kiểu ấy thì thật là... tội nghiệp!
Nhà sư
nói:
- Phần
thưởng bên ngoài là “tướng bất hòa” cho nên bên trong “tâm” cũng “bất hòa” sao?
Liễu
Minh thưa:
- Dạ,
đại hòa là khác!
Bất Đạt
phát biểu:
- Thế là
cúp, cuốc, rựa dùng chung mà con phải chịu trách nhiệm. Xe đạp dùng chung mà
chú Liễu Minh phải lo tu sửa, bảo quản. Còn Bất Ác thì lời không cái đồng hồ!
Sướng nhé, em út!
Bất Ác
toét miệng cười:
- Ờ há!
Thế mà em lại không biết! Hoan hô cái kiểu “lợi hòa đồng quân” này!
Để cho
các chú vui vẻ một lát, nhà sư tiếp tục câu chuyện:
- Đức
Phật chế pháp Lục Hòa, trong đó có “lợi hòa đồng quân” để tạo sự bình đẳng vật
dụng trong cộng đồng tăng lữ. Mục đích là nâng đỡ kẻ sơ tu, nâng đỡ những tu sĩ
ít phước báu về tứ sự, cũng là tước bỏ bớt đời sống tích lũy, tư hữu có hại cho
hạnh khước từ.
Nhưng
các pháp thế gian vốn là tương đối, nó chỉ có khả năng đối trị tạm thời chứ
không có giá trị vĩnh cửu. Do vậy, áp dụng “lợi hòa đồng quân” mà không hiểu
giá trị tương đối của chúng thì dễ đưa đến xung đột, cố chấp, phỉ báng Phật.
Các con hiểu rõ điều này rồi chứ?
Cả ba
chú trang nghiêm đồng thanh đáp:
- Dạ
hiểu!
- Đi xa
hơn chút nữa, “hòa” và “bất hòa” còn giúp chúng ta liên hệ đến những cặp phạm
trù khác như hơn-thua, phải-trái, được-mất, khen-chê,... đều là thế gian tương
đối, cũng được hiểu như vậy cả.
Bất Ác
im lặng. Bất Đạt ngần ngừ:
- Có
phải những cặp phạm trù ấy, triết học Tây phương họ gọi là “nhị nguyên” phải
không hở thầy?
- Chẳng
những Tây phương mà Đông phương cũng thường đề cập các cặp ấy vì nó hằng đem
đến đau khổ cho chúng sanh.
- Bạch
thầy! Liễu Minh nói - họ gọi là song quan, song lực, lưỡng nguyên, nhị giá,...
gì gì đó!
Bất Ác
nhăn mặt:
- Nói gì
lung tung rối rắm thế? Chữ nghĩa vừa thôi chứ, ai mà hiểu thấu!
Bất Đạt
nói:
- Vì chú
em ... hơi dốt đó thôi!
Bất Ác
rất tức nhưng không đáp được. Liễu Minh bèn bênh vực:
- Không
đâu! Bất Ác không dốt đâu, chú Bất Đạt và tôi dốt! Chúng tôi nuốt chưa trôi chữ
nghĩa nên vướng mắc từ triết học!
Bất Ác
rạng rỡ mặt mày:
- Chỉ có
chú Liễu Minh là hiểu em! Rồi chú quay qua nhà sư - Bạch thầy! Nói cho dễ hiểu,
cái “nhị nguyên” đưa đến đau khổ là gì?
Nhà sư
mỉm cười đáp:
- Con
vừa thể hiện cái “nhị nguyên” ấy, con không thấy sao?
Bất Ác
chưng hửng! Nhà sư tiếp:
- Khi
con bị chú Bất Đạt chê, con bèn tức tối “xụ” mặt xuống. Khi con được chú Liễu
Minh khen, sướng quá, con liền phổng mũi lên. Vậy là tâm con đã bị cái khen,
cái chê nó chuyển, con đã phiền não bởi lời khen, tiếng chê ấy, con chưa thấy
sao?
Cả ba
chú đều lạnh mình. Quả không có cái gì dễ hiểu, dễ lãnh hội như cái “thiết thực
hiện tại” vừa rồi!
Nhà sư
nhìn Bất Ác:
- Khi
con không còn bị lời khen tiếng chê kia chi phối nữa, con không còn bị hai sức
mạnh (song lực) kia lay động nữa - như vậy, tạm gọi là con đã bỏ bè tương đối,
vượt thế gian để sang được “bờ kia”!
Bất Ác
vỗ tay la lên:
- A! Dễ
hiểu làm sao! Thế là con lên bến, con đến bờ kia, con “đáo bỉ ngạn” tức khắc!
Nhà sư
nghiêm mặt:
- Đừng
có đại ngôn!
Bất Ác
cúi đầu xuống. Bất Đạt nháy mắt nhìn Bất Ác, cười hề hề:
- Thấy
không? Mới lót tót “đáo bỉ ngạn” đó, mà bị thầy phất tay “pháp nộ” một cái là
chú em “hồi thử ngạn ngay bon! Xuội lơ em chưa?
Thấy ba
chú đều im lặng. Nhà sư lại tiếp tục:
- Các
con ạ! Thế gian tương quan đối đãi này còn một nghĩa rất vi diệu nữa, thầy chưa
rõ các con có đủ trình độ để lãnh hội không?
Cả ba
chú đồng thanh đáp:
- Chúng
con sẽ cố gắng.
- Ừ! Này
nhé! Nhà sư nói - Vì thế gian “bất hòa” nên lấy cái “hòa” để đối trị. Đối trị
có nghĩa là tạm dùng rồi bỏ. Đừng chấp vào cái “hòa” ấy mà phải để tâm tự tại,
giải thoát.
Giọng
Bất Ác:
- Bạch
thầy, cái này thì con rối mù!
- À! Để
thầy cho ví dụ. Khi con bị cái gai đâm vào chân, thì con lấy cái gai khác gỡ
cái gai ấy ra, có phải thế không?
- Dạ
phải!
- Vậy
thì khi gỡ cái gai ấy rồi, con sẽ giữ lại cái gai nào?
- Bạch
thầy, con vứt hết, con sẽ vứt cả hai.
Nhà sư
lại hỏi:
- Thế
thì khi vứt cả hai, nếu con lỡ bị cái gai khác đâm thì sao?
- Thì
con sẽ kiếm cái gai khác nữa mà gỡ nó ra.
- Phải
rồi! Nhà sư gật đầu - gặp gai ác thì lấy gai thiện mà gỡ, gặp cái gai tham lam,
bỏn xẻn thì lấy cái gai bố thí mà gỡ, gặp cái gai sân hận, nóng nảy thì lấy cái
gai từ bi mà gỡ. Gỡ xong rồi thì quăng hết.
Bất Ác
giật mình:
- A! Có
ghê không? Những pháp tối thượng như thiện pháp, bố thí, từ bi,... mà cũng phải
bỏ luôn sao thầy?
- Nó là
gai hay không phải gai?
- Là
gai.
- Là gai
mà con muốn mang theo thì tùy ý!
Bài học
hôm nay đã dẫn ba chú đến đỉnh cao chênh vênh, ngợp gió. Thiện pháp, bố thí, từ
bi... mà cũng phải quăng đi, phải viễn ly thì thật là kinh khiếp. Bất Đạt toát
mồ hôi. Liễu Minh thấy lạnh xương sống.
Nhà sư
thấy điều đó nên nói tiếp:
- Các
con ạ! Đức Phật ví Pháp như chiếc bè dùng để qua sông, chánh pháp cũng phải bỏ
huống hồ phi pháp! Vậy thì qua sông mà còn mang vác thiện pháp, bố thí, từ
bi... đi theo thì sẽ nặng biết chừng nào? Cái bản ngã thiện pháp, bản ngã bố
thí, bản ngã từ bi... kia nó mới to lớn dường bao?
Bất Ác
chợt vỗ tay:
- Vậy là
con hiểu rồi!
- Chưa
đâu! Bây giờ bỏ cái chuyện “gai lễ gai” quay sang ví dụ bệnh và thuốc. Đức Phật
thường nói “tùy bệnh cho thuốc”. Vậy, gì là bệnh, gì là thuốc?
Bất Đạt
đáp:
- Dạ,
phiền não là bệnh, giáo pháp là thuốc.
- Chúng
sanh có bao nhiêu “bệnh”, giáo pháp có bao nhiêu “diệu dược”?
- Bạch
thầy! Chúng sanh có tám vạn bốn ngàn phiền não, Pháp của Phật có tám vạn bốn
ngàn pháp môn.
- Con kể
sơ cho thầy nghe, đó là những phiền não gì?
Bất Đạt
đáp:
- Con có
nhớ một số phiền não như: Ái, sân, si, hung dữ, thù oán, bạc ơn, kiêu căng,
ganh tị, bỏn xẻn, giả dối, phản phúc, ngang ngạnh, ngã mạn, giải đãi, hôn trầm,
phóng tâm... Ngoài ra còn có những phiền não thuộc pháp tà vạy, lầm lạc, trầm
luân, chìm đắm, chấp thủ,...
- Vậy là
tạm đủ -Nhà sư gật đầu- còn gì là thuốc?
Liễu
Minh đáp:
- Bạch
thầy! Nói tóm lại là ba mươi bảy phẩm trợ đạo, các thiện pháp, mười pháp
ba-la-mật, tứ vô lượng tâm,...
- Đúng
rồi! Nhưng các con hãy cho ví dụ bệnh và thuốc như thế nào?
Bất Đạt
đáp:
- Tương
tự ví dụ “gai lễ gai”! Như: tham là bệnh, bố thí là thuốc; sân là bệnh, từ bi
là thuốc; si là bệnh, trí tuệ là thuốc, chấp thủ là bệnh, xả là thuốc; loạn tâm
là bệnh, định là thuốc; ganh tị là bệnh, hỷ là thuốc...
- Đúng
thế! Nhà sư gật đầu - Tùy bệnh cho thuốc. Nhưng phải đúng bệnh, đúng thuốc.
Thuốc cũng phải uống đúng liều lượng. Thuốc bổ mà quá liều thì trở thành độc
dược. Độc dược mà biết sử dụng cũng cứu chữa được bệnh. Cho nên bất hòa là
bệnh, hòa là thuốc. Nhưng hòa cũng biết hòa đúng lúc, đúng khi, đúng người,
đúng chỗ; nếu không, cái hòa ấy sẽ đưa đến những tệ hại mà chúng ta đã thấy ở
trên.
Cho nên,
Pháp có hay thì Pháp có dở. Hay đối với người có trí, biết sử dụng. Dở đối với
người ngu, không biết sử dụng. Người giải thoát, giác ngộ ở trên đời họ thường
tùy nghi, biết sống thuận pháp, tùy pháp. Đã giải thoát giác ngộ rồi thì họ
sống hợp với Đạo vậy. Người chưa giác ngộ, giải thoát, dù có làm hữu ích cho
đời thế nào, cũng chỉ hưởng được phước báu nhân thiên mà thôi! Các con đã hiểu
chưa?
Cả ba
cùng cúi đầu đáp:
- Dạ,
thật là hay, thật là thấm thía!
Nhà sư
mỉm cười hài lòng:
- Khi
các con cắt trái đu đủ làm bốn phần, nghĩa là từ “tướng hòa”; nhưng vì kính
trọng thương yêu thầy mà các con đem dâng hết cho thầy, là các con đã bỏ “tướng
hòa” để đạt “tâm hòa”. Thầy lại từ “tâm hòa” mà xuống “tướng hòa”, khi trả lại
ba phần đu đủ cho các con. Các con lại từ “tướng hòa” đem trao hết cho Bất Ác
để đạt cái “tâm hòa”. Tướng trở lại tâm, tâm trở lại tướng. Thì ra tướng và tâm
cũng chỉ là tương quan đối đãi để cho chúng ta học được bài học giác ngộ giữa
cuộc đời này.
Cho nên,
kẻ biết pháp tương đối thì cứ tùy nghi mà sử dụng, không còn chấp trước bên
này, không còn chấp trước bên kia. Ấy gọi là bỏ “bè”, bỏ tương đối. Ấy là người
đã qua sông, đã “đáo bỉ ngạn” vậy!
Huyền
Không
Hải Vân - Lăng Cô
- 1977
Trên đường du hóa
Gần nửa
đêm, Bất Ác không ngủ được, chú trằn trọc, thao thức mãi vì mấy con cá quẫy lộn
trong thùng. Giường bên kia, nhà sư đang đọc sách với ngọn đèn dầu tù mù. Nhà
sư hỏi nho nhỏ:
- Sao mà
con trăn trở hoài vậy?
Bất Ác
thở dài thườn thượt:
- Bạch
thầy! Độ ai chứ độ gia đình thật là quá khó! Đối với mọi người thì con vẫn là
đứa bé ngỗ nghịch, ham chơi. Con thật không thể lớn trong mắt họ, nhất là mẹ
con, thứ đến là anh chị trong nhà, con mãi là “thằng út hỉ mũi chưa sạch, mỏ ác
chưa hết cứt trâu”.
Nhà sư
cười khẽ:
- Thì
con cũng đã lớn với ai đâu? Con vẫn là chú điệu bé tí hon trong mắt thầy đó mà!
Giây
lâu, nhà sư ngồi dậy nói tiếp:
- Như
vậy là con phải lớn mãi, lớn hoài! Lớn với giới đức, trí đức, minh đức của
mình. Lớn với vô tham, vô sân và vô si của mình! Chuyện cứu độ gia đình, con
hãy ít nói năng, chỉ nên thể hiện nơi hành động, nơi đời sống. Con phải sống
tri túc, dễ nuôi, hòa nhã, vui vẻ và giản dị. Phải biết kính trọng, lễ độ,
thương yêu và thông cảm với mọi người. Sống hòa với mọi người nhưng đừng đánh
mất mình bởi mọi người. Do vậy, khi mềm, khi cứng phải rất linh hoạt. Lắm lúc
cũng cần một vài thái độ cương quyết, dứt khoát về một số việc nào đó, như việc
ác, hủ tục mê tín dị đoan... của người khác! Con làm được vậy, sống được vậy
thì ai dám chê con là nhỏ bé nữa?
Bất Ác
nhũn nhặn đáp:
- Con sẽ
nghe lời thầy dạy. Hành động tạo sức mạnh cho lời nói. Lời nói có được sức mạnh
là do đời sống có giới, có trí. Con hiểu rồi, con sẽ cố gắng.
- Ừ! Tất
cả hành động phải biết dựa theo trí tuệ và từ bi. Bao giờ cũng với tâm thái bén
nhạy, trong sáng và định tĩnh để nhìn ngắm vấn đề và giải quyết vấn đề.
Bất Ác
chợt ngồi dậy:
- Bây
giờ con hiểu là con phải làm gì với mấy con cá rồi...
Nhà sư
cười khẽ:
- Đúng
vậy! Thấy việc gì hợp với từ bi vô ngã, trí tuệ vô ngã là làm ngay, không do
dự, không phân vân, lưỡng lự.
Bờ sông
rất xa nhà, Bất Ác âm thầm làm việc trong đêm. Khi nghe được tiếng cá quẫy đuôi
giữa dòng sông rộng, chú mới nở được nụ cười hồn nhiên và sung sướng.
Nhà sư
chờ Bất Ác ở đầu ngõ, thấy chú với những bước dài xăng xái thì đã hiểu chuyện
gì, bèn nói:
- Từ
lâu, con mới chỉ không làm điều ác - bất ác - bây giờ con đã biết làm thêm việc
thiện. Con đã biết bổ túc cái thiếu sót cho công hạnh của mình.
Đêm mùa
hè, trời rất mau sáng. Nhà sư vừa mới ngồi thiền một lát thì gà đồng quê đã đua
nhau gáy vang rân. Tiếng người giục trâu ra đồng, tiếng gọi nhau ơi ới, tiếng
chó sủa, tiếng heo kêu... từ chỗ này, nơi kia vọng lại tạo nên một âm thanh yên
ả, thanh bình.
Nhà sư
vừa mở mắt, thò chân xuống giường tìm đôi dép thì Bất Ác đã mang chậu nước và
khăn sạch đứng một bên.
- Vì con
mà thầy phải một đêm thức trắng.
- Không
có gì đâu con, sức khỏe thầy còn tốt. Vả lại, đôi khi nghĩ đến sức khỏe của
mình thái quá dễ sinh những thói hư tật xấu; sinh ra mê đắm cái thân...
- Dạ,
con hiểu!
Lát sau,
nhà sư mặc y, ôm bát... chào mọi người trong gia đình xin từ giã. Người mẹ nói
với Bất Ác:
- Út, má
đã chuẩn bị món ăn sáng. Con hãy dâng thầy điểm tâm rồi hẳn lên đường.
Bất Ác
nói với giọng ẩn ức trong lòng :
- Thưa
má, thầy con dùng no rồi.
Người mẹ
ngạc nhiên :
- Dùng
rồi ? Dùng bao giờ?
Bất Ác
có vẻ hờn mát :
- Thưa
má, thầy con đã ăn no cái đau khổ của chúng sanh, đã ăn no cái tâm địa si mê
độc ác của con người. Suốt đêm, thầy con đã ăn no những thứ đó
!
Người mẹ
hạ thấp giọng, hai mắt mở lớn :
- Út!
Con nói cái gì kỳ lạ vậy, má không hiểu.
Bất Ác
chợt nghẹn ngào, sa nước mắt :
- Má
không cần hiểu đấy chứ! Vì một miếng ăn ngon, vì một chút khoái lạc của khẩu
dục mà đang tâm đày đọa kẻ khác, giam giữ kẻ khác, moi ruột, chặt đầu, uống máu
kẻ khác. Má bảo má không thấy sao ?
Người mẹ
đã hiểu :
- À...
thì ra là vậy. Con Bảy đó con à! Con Bảy nó mua nó nhốt đó. Con Bảy nói hôm qua
ngày rằm nó không sát sanh. Nó ăn chay tháng bốn kỳ. Còn má thì má hiểu chứ. Từ
lâu má có sát sanh hại vật, ăn gian, nói dối ai đâu! Má không biết tụng kinh,
niệm Phật, không biết ăn chay, nhưng má ăn hiền ở lành lắm con à! Cả làng, cả
xóm má chẳng dám làm mất lòng ai, kể cả một đứa con nít!
Cảm
động, Bất Ác chạy lại ôm mẹ, khóc nức nở:
- Tội
con đáng chết! Xin mẹ hãy hỉ xả tha thứ cho đứa con ngu dại, bất hiếu!
Người mẹ
già đỏ lệ lưng tròng, đưa tay vuốt ve đứa con út mà bà không ngờ nó lớn khôn
đến vậy.
Lát sau,
Bất Ác quay lưng đi, bịn rịn:
- Má à!
Mỗi lần anh chị Bảy móc gan mổ ruột một con cá, má cứ nói với anh chị là coi
như đang móc gan, mổ ruột thằng Út đó. Mỗi lần anh chị Bảy thọc huyết, chặt đầu
con vịt, con gà thì coi như đang thọc huyết, chặt đầu thằng Út đó. Má hãy nói
như vậy nghe má!
Hai thầy
trò đứng đợi xe "lam" bên đường. Một người ăn xin tàn tật đi qua: áo quần tả
tơi, hôi hám, mình mẩy ghẻ lở, da bọc xương; mũi và miệng chỉ còn một, trông
như con quái vật. Bất Ác rụt rè nói với nhà sư:
- Bạch
thầy, con thấy ghê ghê nhưng mà tội nghiệp quá. Muốn giúp người ta một cái gì,
nhưng..., nhưng...
Nhà sư
hiểu:
- Con
muốn cho mà sợ không còn tiền đi xe phải không? Còn nghĩ về cái tiện nghi, cái
an toàn cho mình thì dễ sinh ra vị kỷ, ích kỷ. Nếu con muốn cho thì cứ đem cho
rất là thanh thản. Hết tiền xe thì chúng ta xin "quá giang" chứ có vấn đề gì
đâu!
Lời
khích lệ của nhà sư như một tác động mãnh liệt; chẳng còn lưỡng lự nữa, chú lấy
số tiền ít ỏi trao tặng hết cho người ăn xin khốn khổ.
Nhà sư
cười nhẹ:
- Thấy
không! Tâm con bây giờ nhẹ như một mảnh lông hồng. Ấy chính là hỷ tâm, là lạc
tâm, là phước báu hiện tiền, nó trả quả ngay, không đợi ở đâu xa. Cái phước này
tương đương với cõi trời Dục giới, hiện tại thì có công năng làm mát mẻ và lắng
dịu tâm hồn.
Bất Ác
thấy mình lâng lâng, thật hạnh phúc.
Nắng bắt
đầu lên. Những chuyến xe qua tung bụi mù mịt. Chẳng ai cho hai người quá giang.
Bất Ác lại trở nên nóng nảy:
- Giờ
phải làm sao hở thầy?
- Thầy
có muốn làm sao đâu!
- Người
ta không cho đi?
- Thì
mình hãy đợi!
Mồ hôi
đã rịn trên vầng trán hai người. Ở đó không một bóng cây. Bất Ác len lén đưa
mắt nhìn: sắc mặt nhà sư vẫn bình thản, an nhiên như có một nụ cười lặng lẽ ở
trong tâm!
- Bạch
thầy - Bất Ác đã cảm thấy khô cổ - đợi hoài như thế này thì biết đến bao giờ?
Nhà sư
chậm rãi quay lại, ân cần nói:
- Bây
giờ con hãy đứng thẳng, nhắm mắt lại, thư thái, buông xả. Xong rồi, con hãy bỏ
tất cả chuyện hiện tại, quá khứ, tương lai. Bỏ quá khứ là bỏ tất cả các hoài
niệm, bỏ những gì xảy ra dù chỉ cách đây một, hai phút. Bỏ hiện tại là bỏ quên
chuyện nắng nôi, bụi cát, đón xe và đợi xe. Bỏ tương lai là bỏ mọi dự định đến
đâu và sẽ đi đâu. Trong tâm thái như vậy, con hãy lắng nghe, nghe được gì hãy
nói cho thầy biết.
Bất Ác
làm theo, một lúc sau, chú mở mắt ra:
- Con
không thấy gì cả. Không nghe gì cả!
Nhà sư
thản nhiên:
- Phải!
Nếu nhiếp tâm đúng thì sẽ không thấy gì cả, không nghe gì cả.
Bất Ác
ngạc nhiên:
- Con
vẫn không hiểu.
- Có gì
đâu mà không hiểu! Khi với tâm thái như vậy con có nóng nảy và bất an không?
- Dạ
không!
- Con có
lưỡng lự, băn khoăn và lo lắng gì chăng?
- Dạ
không!
- Vậy
thì thầy đã làm như vậy. Thầy đợi chờ mà như là không đợi chờ gì cả. Nói cách
khác, nhờ thầy trú tâm rỗng không nên thầy được an nhiên và tự tại. Con đợi chờ
mà có cái đợi chờ trước mặt, thế là con bị tương lai tưởng vọng! Con đợi chờ mà
bị chi phối bởi nóng nôi và bụi cát, thế là con bị hiện tại cuốn trôi! Do đó,
con sinh ra nóng nảy, bất an và phiền não! Thật là giản dị, thật là dễ hiểu!
Bất Ác
la lên:
- Ồ! Con
đã hiểu!
Nhà sư
cười nhẹ:
- Vấn đề
là "thấy" và "biết" chứ không phải là "hiểu". Nếu hiểu thì con sẽ bất an trở
lại.
Đúng như
nhà sư nói, một lúc không lâu lắm, Bất Ác lại nói:
- Không
biết trưa nay mình sẽ dùng cơm ở đâu? Đợi cái kiểu này thì có lẽ đến chiều tối
cũng chưa chắc có xe!
Nhà sư
mỉm cười:
- Đấy,
thấy không? Con có thật thấy, thật biết đâu! Con vẫn bồn chồn vì một cái gì đó
ở trước mặt. Con vẫn mong muốn rằng sẽ như thế này hoặc như thế kia. Con còn
sinh ra sợ hãi vì không biết ăn trưa ở đâu, nghỉ trưa ở đâu. Tất cả những ước
vọng này đều phát sinh bởi Vô Minh và Ái Dục. Dường như có lần thầy đã dạy các
con rằng: nghệ thuật sống Đạo, sống Thiền là sống không chuẩn bị, không lưỡng
lự, không chờ đợi cái gì hết, luôn luôn với tâm thái trong sáng, tự tại và an
nhiên! Nghệ thuật ấy con đã không nắm được.
- Con có
hiểu được một phần, nhưng bạch thầy, như trong trường hợp này, nếu mình cứ đứng
mãi nơi đây thì làm sao đến?
- Nếu
con muốn đến, cũng có đến được đâu? Vậy sao con không coi chỗ này như là chỗ
đến của con? Muốn đi thì cái đi ấy cũng là chỗ đến của mình. Hãy coi mục đích
là cái bây giờ. Phương tiện và cứu cánh đều đầy đủ trong sát-na hiện tại này.
Nguyên nhân chính là kết quả. Vậy lúc nào, bao giờ, tâm chúng ta cũng phải an
trú nơi chỗ không có thời gian, không có không gian ấy. Bao giờ và lúc nào tâm
ta cũng phải tỉnh giác và chánh niệm trong cái hiện tại luôn luôn trôi chảy,
mới mẻ, phong phú và sinh động này. Ôi, chỉ có như vậy mà sao tâm con cứ đòi
rắc rối!
Im lặng
một lúc cho người đệ tử thẩm thấu ý nghĩa sâu xa, mầu nhiệm nhưng giản dị trong
lời nói vừa rồi, nhà sư chậm rãi tiếp:
- Cuộc
nhân sinh nầy thật là lắm hệ lụy và nhiều khổ đau, vì con người cứ mong chạy
đuổi, rượt tìm mục đích trước mắt. Con người luôn luôn mơ tưởng cái phía trước,
không bao giờ bằng lòng với cái bây giờ! Họ đã dùng mọi phương tiện, toan tính,
mưu mô xảo quyệt, lọc lừa không từ nan cả những cách thế phi luân, vô đạo để
đạt cho kỳ được mục đích hẳn thôi! Nhưng mục đích nào có đạt được? Vì sao? Vì
tâm tham dục vốn là một hố thẳm không đáy, chẳng bao giờ lấp đầy, nên dẫu có
hụt hơi kiếm tìm họ vẫn không thỏa mãn, không vừa lòng. Họ tìm kiếm nữa, khát
khao nữa... Họ chạy đuổi đến sức cùng lực kiệt và chung cuộc, chỗ họ gặp chính
là nấm mồ! Có kẻ đến tuổi già tóc trắng vẫn chưa thỏa mãn được ước vọng, nhưng
một sớm mai kia, Tử thần đến gõ cửa rồi mang họ ra đi, đến nơi chốn y như tội
lỗi, như ác nghiệp mà họ đã bôn ba tạo tác ở trong đời...!
Bất Ác
lắng nghe những lời, những chữ như len thấm vào tận xương tủy:
- Con đã
hiểu!
- Con ạ!
Chỉ có mong cầu một mục đích phía trước thôi mà thế gian này đã xảy ra muôn vạn
nhân duyên chằng chịt của khổ đau như thế. Xã hội nào, tôn giáo nào, con người
nào, chủ nghĩa nào, triết thuyết nào cũng đẻ ra một lý tưởng, một mục đích cao
cả ở phía trước mặt rồi đổ dồn mọi hành động về cho lý tưởng và mục đích ấy. Và
rồi chuyện gì xẩy ra? Đấy chính là chiến tranh, là xung đột, là đố kỵ, là ganh
ghét... xẩy ra tràn lan trên thế giới. Vì sao vậy? Vì mục đích đồng nghĩa với
dục vọng, đồng nghĩa với quyền lợi lẫn quyền lực. Vậy, khi mà các mục đích va
chạm nhau thì đấy là bi kịch máu xương kinh khiếp nhất mà con người vừa là diễn
viên, vừa là khán giả trên sân khấu cuộc đời.
Bất Ác
cúi đầu:
- Con
không ngờ bài học hôm nay lại sâu rộng đến thế!
- Do đó!
Ngay từ bây giờ, con phải biết đợi chờ như không đợi chờ gì hết! Ở đâu cũng là
mục đích cả, chứ đừng lầm lẫn nguy hại phương tiện và mục đích khác nhau. Có
người lại bảo phương tiện hy sinh biện minh cho cứu cánh! Thật là khiếp! Thật
là si mê! Thật là ác độc! Chúng ta là con nhà Phật, phương tiện và mục đích nó
hòa tan trong cái bây giờ. Ở đây cũng vậy, lên xe cũng vậy, đến chỗ nào đó cũng
vậy. Nhân, quả viên dung! Bờ này, bờ kia viên mãn! Như thế thì những cái gọi là
hỗn loạn, giật giành, nóng nảy, bất an, thống khổ làm sao tồn tại? Ta luôn luôn
sống trong giây khắc hồn nhiên, thiên thu, rỗng không và tự tại này. Con nên
nhớ rằng, chỉ một khởi niệm vọng cầu là ta đã góp thêm năng lực xung đột, rối
loan cho cuộc đời này rồi! Hãy nhớ lấy nghe con.
- Bạch
thầy, con sẽ khắc sâu trong tâm khảm.
Giọng
Bất Ác run run chứng tỏ chú đang xúc động mãnh liệt.
Nhà sư
gật đầu hài lòng.
- Thầy
cũng không hy vọng là con đã hoàn toàn thấy rõ. Nhưng mà con cứ nghe, tất cả
rồi sẽ ẩn tiềm trong vô thức, một lúc nào đó tự con sẽ giác ngộ điều ấy.
Khoảng
mười giờ trưa, Bất Ác nói:
- Bạch
thầy, con muốn đi bộ!
- Ừ, như
vậy đấy! Muốn đợi, thì cứ đợi như không đợi gì cả. Muốn đi thì cứ đi như không
đi gì cả. Con ạ! Nghệ thuật sống Đạo là đừng bao giờ phân vân giữa hai vấn đề.
Đừng lưỡng lự trong việc chọn lựa, bằng cách dứt khoát chọn ngay một cái! Đừng
ở núi này mà trông núi kia! Đừng vừa bên này, đừng vừa bên kia. Nếu lơ lửng thì
cứ là lơ lửng. Đừng bỏ chân một lúc cả hai bên mà không bước đi được. Không
bước đi được là dừng lại. Dừng lại là bị đẩy lùi, là bị chìm, là khổ đau!
Bất Ác
nói:
- Xin
thầy cho ví dụ để dễ hiểu.
- Thì
đây, con muốn đợi: thì cứ đợi! Con muốn đi: thì cứ đi! Nếu vừa muốn đợi vừa
muốn đi thì chắc chắn tâm con sẽ bất an.
- Thầy
cho một ví dụ nữa.
- Ví như
chuyện người ăn xin hồi nãy! Muốn cho thì cứ cho, không cho thì thôi. Nếu lưỡng
lự giữa hai đàng sẽ phát sinh bứt rứt, khó chịu ở trong lòng.
- Con
xin một ví dụ nữa.
- Bao
nhiêu ví dụ cũng được cả. Như chuyện thả cá hồi sáng nhé. Muốn thả thì ra sông
thả ngay. Muốn đợi sáng cho mọi người hay, thì hãy đợi sáng. Bởi con đã không
nhất quyết, dứt khoát chọn lựa cái nào nên suốt đêm con đã trằn trọc thao thức
đó, con không nhớ sao?
- Bây
giờ thì rõ ràng quá rồi, con không còn hoài nghi gì nữa.
Hai thầy
trò nhà sư vừa đi vừa trò chuyện trên đoạn đường dài nắng đổ lửa. Nhựa đường
chảy loang loáng, lổ chổ. Không một ngọn gió giữa bầu trời nóng nắng như thiêu
người. Cả hai, đầu trần, chân đất; một hình ảnh kỳ quái, lạ đời trong mắt của
mọi người.
Nhà sư
trực thức ngay điều đó, nói:
- Này
Bất Ác con! Muốn dập tắt tâm ngã mạn, con hãy coi chúng ta không là cái gì hết,
chẳng ai thèm để ý đến chúng ta hết. Chúng ta là người ăn xin tầm thường nhất
trên thế gian này! Tâm niệm được như vậy, bản ngã sẽ không có cơ hội tăng
trưởng!
Bất Ác
phải chịu là đúng, nhưng lát sau lại xẩy ra vấn đề khác:
- Nóng
quá thầy à, chân con như muốn phỏng!
Nhà sư
vẫn thản nhiên:
- Nóng
thì phỏng chân chứ có gì lạ đâu con? Nó rất hợp với tự nhiên mà!
Bất Ác
nói:
- Đúng
thì đúng, nhưng bây giờ phải làm sao?
- Thầy
có muốn làm sao đâu?
- Nhưng
nóng chân quá, con không chịu nổi!
Nhà sư
mỉm cười:
- Vậy
thì dễ dàng thôi. Một là con bỏ cuộc, đầu hàng, tìm một bóng cây mà ngồi. Hai
là cứ tỉnh bơ ra đi, chấp nhận nó một cách hoàn toàn, không có điều kiện.
- Con
chấp nhận nó!
- Vậy
thì cứ an tĩnh mà bước đi. Bởi sợ nóng nên nóng nó sẽ tấn công con. Nếu con
trọn vẹn nhìn ngắm sự nóng ấy, mỉm cười với nó, xem nhẹ nó là nó sẽ bỏ đi. Nó
sẽ hổ thẹn và bỏ đi!
Chịu
đựng một lúc, Bất Ác lại la lên:
- Vẫn
nóng quá thầy à!
- Thầy
sẽ cho con thêm khí giới mới, nghị lực mới. Hãy coi thường thân xác, khinh bỉ
thân xác. Một chút nóng ở ngoài da đâu bằng lửa địa ngục. Không chịu nổi một
chút nóng, thì làm sao đeo đuổi được con đường gian nan, thiên vạn lý, để đạt
đạo quả vô thượng bồ đề, hở con?
Một
chốc, Bất Ác vẫn nhăn mặt, nhà sư gắt:
- Không
thể dừng lại được nữa. Hãy đi! Phải coi đây là cuộc chiến đấu sống còn. Nếu con
đi qua đoạn đường này với tâm vô ngã, mát mẻ và vắng lặng là con đã kề bên
niết-bàn!
Lời
khích lệ cuối cùng như một tác động tâm lý cực mạnh, làm cho Bất Ác mỉm được nụ
cười thản nhiên, mặc dầu lòng bàn chân đã rát bỏng.
Đến đoạn
đường hai bên có cỏ mọc, Bất Ác reo lên:
- Thế là
con đã "gần đạt đạo".
Nhà sư
nghiêm mặt:
- Đừng
tự đắc, tự mãn. Làm thế nào đạt đạo được với bản ngã to lớn hiện giờ ở trong
con?
Bất Ác
le lưỡi.
Họ dừng
chân nơi một miếu hoang. Bất Ác xoa chân xong rồi nằm dài ra thở, mồ hôi mồ kê
nhễ nhại. Nhà sư ngồi lặng, mỉm cười tự nhủ:
- "Nếu
được gọi là khổ hạnh, thì đấy là một khổ hạnh cần thiết cho những kẻ bản chất
mềm yếu, thiếu nghị lực như Bất Ác. Phải tập cho nó cứng và mạnh. Phải tập cho
nó có ý chí hơn, kiên định hơn, dõng lực hơn..."
Đưa mắt
nhìn xóm nhà ven đường, nhà sư ôm bát đứng dậy. Khi ấy một người đàn ông đi
ngang qua cũng vừa dừng xe lại.
- Bạch
thầy! Thầy đi đâu giữa đường nắng nôi như thế?
Ngước
lên, thấy một đệ tử, là một thiện nam, học thức, nhiều tín tâm; nhà sư mỉm
cười:
- À con
đấy à! Thầy đang chuẩn bị đi bát đây!
Người
Phật tử dựng xe, chấp tay xá thật sâu, cười sung sướng:
- Vậy là
may mắn cho con! Sắp đúng ngọ rồi, xin thỉnh thầy về nhà con, cũng gần đây
thôi, để chúng con có dịp cúng dường một bữa.
Nhà sư
im lặng nhận lời.
Bất Ác
thở ra một hơi dài nhẹ nhõm!
Độ ngọ
xong, cả nhà quây quần dưới giàn dưa tây mát mẻ, nhà sư nói về Tam Quy và Ngũ
Giới, tóm tắt như sau:
- Từ
lâu, chư Phật Tử đã có nơi nương tựa. Quý vị nương tựa nơi Tam Bảo, nơi Phật,
nơi Pháp, nơi Tăng. Nhưng quý vị còn nương tựa ở đâu nữa? Quý vị còn phải nương
tựa nơi sự giác ngộ giải thoát, nương tựa nơi sự sáng suốt, nương tựa nơi cái
bồ đề tâm, nương tựa nơi khả năng thành Phật của chính mình. Đấy là nghĩa thứ
hai của quy y Phật.
Quý vị
quy y Pháp, còn có nghĩa là nương tựa chân lý, nương tựa sự thật, nương tựa vào
cái như thật trong lòng mình. Đấy là nghĩa thứ hai của quy y Pháp.
Quý vị
quy y Tăng, còn có nghĩa là nương tựa vào những đức tính cao cả của Tăng sẵn có
trong quý vị, ấy chính là chơn chánh, chánh hạnh, hiền thiện, thanh tịnh, trực
hạnh... Đấy là nghĩa thứ hai của quy y Tăng.
Nghĩa
thứ hai của quy y Tam Bảo này có công năng khai mở trí tuệ, thấy rõ đám mây mù
của Vô Minh và Ái Dục, để xô vẹt, đoạn lìa vô lượng phiền não và nghiệp chướng,
trả lại khung trời bình yên và chân phúc cho tất cả chúng ta.
Những
lời giảng về quy y Tam Bảo này có vẻ mới lạ nên cả nhà lắng nghe một cách chăm
chú, thật chăm chú. Biết vậy, nhà sư nói thêm về Ngũ Giới:
- Chư
Phật tử! Quý vị đã biết rằng Ngũ Giới không phải là điều luật bắt buộc; nó là
hàng rào ngăn giữ những vọng động của thân, khẩu, ý. Giữ được một giới là ngăn
được một điều ác, giữ được năm giới là ngăn được năm điều xấu. Giữ Ngũ Giới là
ngăn chặn những vọng động do tham, sân và si - là các nguyên nhân đưa đến đau
khổ trong tương lai.
Đến
ngang đây thì một người nói :
- Thưa
thầy! Giữ Ngũ Giới quả thật là khó!
Nhà sư
đáp:
- Đúng
thế, ngay thời đức Phật mà các hàng cận sự nam nữ cũng ta thán với Ngài như
vậy. Nhưng phải hiểu rằng, ngay chính nơi tâm thái chăm chú và trầm lặng lắng
nghe như vừa rồi, quý vị đã thọ trì trọn vẹn Ngũ Giới!
Thấy mọi
người có vẻ ngơ ngác, nhà sư tiếp:
- Khi
chăm chú và trầm lặng lắng nghe, thì chư vị đang mở rộng tâm hồn; ở trong chư
vị chan hòa một cảm giao, cảm ứng mênh mông. Khi ấy những cái gọi là hung dữ,
độc ác, hiềm thù, ganh ghét... những thuộc tính của tâm sân ấy có tồn tại trong
tâm quý vị không? Ngay khi ấy quý vị có móng khởi giết hại? Quý vị có tác ý
tiêu diệt sự sống, sát hại sanh mạng?
- Dạ
không!
- Lại
nữa, khi chăm chú và trầm lặng lắng nghe như vậy, tâm của chư vị sẽ công bằng
và chánh trực; quý vị không hề khởi niệm chiếm đoạt tài sản, của cải vật chất
của người. Quý vị đâu có tham lam, xan tham mà phạm giới trộm cắp, có phải thế
không?
- Quả
đúng vậy.
- Cũng
từ tâm thái chăm chú và trầm lặng lắng nghe như vậy, quý vị có sanh tâm tà dâm
hoặc tà hạnh?
- Dạ
không!
- Quý vị
có nói dối? Rộng và đầy đủ hơn nữa, quý vị có nói lời điêu ngoa, xảo trá, nói
hai lưỡi, nói đâm thọc, nói trườn uốn như con lươn, nói ngọt như đường, nói
trơn như mỡ, nói thêu dệt, nói hoa ngôn xảo ngữ? Nói như vậy để làm gì phải
không? Biện hộ cái chi, bảo vệ điều gì, có phải thế không?
- Phải
rồi! Không thể vọng ngữ được.
- Và thế
nào là không uống rượu, các chất say? Chỉ ở trong tâm thái chăm chú và trầm
tĩnh lắng nghe như kể trên, là quý vị sẽ không còn uống rượu, các chất say nữa.
Vì sao vậy? Vì chư vị sẽ không còn muốn chạy trốn cái "bây giờ", quý vị sẽ
không còn tìm quên, núp bóng trong những thỏa mãn nhất thời của cảm giác, của
ảo giác. Chí đến những nhu cầu khoái lạc cho tri thức, quý vị cũng không cần
nữa. Vì quý vị đã đầy đủ tất cả: niềm bình an vô lượng và sự tĩnh lặng phi
thường. Như thế quý vị đã có được "chất rượu vĩnh cửu" rồi, quý vị còn cần gì
nữa chất say tầm thường trên thế gian?
Nói tóm
lại, ở cả hai phương diện tiêu cực và tích cực, Ngũ Giới có công năng khai
phóng và đem con người ra khỏi mọi ám ảnh tội lỗi, sợ hãi, là giải thoát tâm;
chuẩn bị cho giải thoát trí, là con đường tối hậu của chư Phật ba đời.
Nhà sư
nói xong, không gian im lặng. Hai vợ chồng giáo sư già cùng vợ chồng con cái,
cháu chắt, dâu rể gồm bác sĩ, kỹ sư, giáo viên, bộ đội, công nhân, sinh viên,
mấy người giúp việc... cả thảy gần hai mươi người bỗng đâm ra trầm mặc, không
ai nói gì, không ai hỏi gì.
Chị Tư
lặng lẽ đứng dậy, dâng cho nhà sư ly chanh đá. Chị nói:
- Thầy
nói Ngũ Giới mà cao siêu quá, con không hiểu gì hết. Xin thầy giảng cho bình
dân tí nữa, vì con không thể như ông bà, thầy cô trí thức ở đây được.
Nhà sư
cười:
- Khi
con kính thành đem dâng cho thầy ly nước, trong tâm thái ấy, con đã giữ tròn
Ngũ Giới mà con không biết sao?
Mọi
người chợt cười ồ. Chị Tư bẽn lẽn đi lẫn vào phía sau, nói lí nhí:
- Bạch
thầy, con không hiểu.
- Phải
rồi, con không hiểu là phải. Vì khi dâng ly nước, tâm con chỉ còn là sự kính
thành vắng lặng, chứ không có ý nghĩ gì khác có phải vậy chăng?
- Dạ...
- Khi ấy
con có khởi niệm sân hận, độc ác, hung dữ, giết người, giết vật?
- Dạ
không...
- Khi ấy
con có khởi niệm tham lam chiếm đoạt của người, cướp bóc của người?
- Dạ
không...
- Khi ấy
con có khởi niệm tà tâm, tà vạy, tà hạnh, bất chánh?
- Dạ
không...
- Khi ấy
con có chạy trốn sự thật mà sinh ra nói dối, nói trườn uốn và những cách nói hư
vọng khác?
- Dạ
không...
- Khi ấy
con có muốn tìm quên cái hiện tại, chìm đắm trong những ảo giác, cảm giác...
như là dùng các chất say?
- Dạ
không...
Nhà sư
cười khẽ:
- Như
vậy đấy. Khi con kính thành, thương yêu ông bà, các thầy, các cô, các em...
cùng tất cả mọi người xung quanh, là con đã giữ tròn Ngũ Giới một cách rốt ráo.
Bằng ngược lại là con đã phá giới, tâm con đã phá giới.
Chị Tư
có vẻ chăm chú lắng nghe. Chị thưa:
- Con
chỉ hiểu được một tí, nhưng xin thầy giảng thêm.
Nhà sư
quay sang phía chị:
- Con
hãy thử nói lên một công việc gì mà con thường làm trong ngày cho thầy nghe xem
nào.
- Bạch
thầy, như rửa chén bát, nồi niêu, xoong chảo...
Mọi
người cười vui, nhà sư cũng mỉm cười:
- Phải
rồi, như rửa chén bát vậy. Nếu con rửa không sạch, thì sâu xa, con đã phá giới.
Mọi
người yên lặng lắng nghe, nhà sư nói tiếp:
- Rửa
chén bát không sạch, là vì lúc ấy tâm con đang bồn chồn, nóng nảy, muốn làm cho
mau xong. Con có biết tất cả những cái gọi là bồn chồn, nóng nảy, muốn làm cho
mau xong... ấy, nó phát sanh từ đâu? Gốc của nó chính là tâm sân, con có biết
không?
Có người
la lên:
- Đúng
thế! Thật là khủng khiếp!
Người
khác lại nói:
- Trông
thì bình thường nhưng khi phân tích ra mới thấy rõ được cái gốc phát sanh tội.
Nhà sư
tiếp lời:
- Sát
sanh phát sanh bởi tâm sân hận, còn trộm cắp sinh ra từ tâm tham lam.
Chị Tư
thưa:
- Xin
thầy cho ví dụ.
- Được
rồi, nghe nhé! Con làm việc trong ngày, ông bà sẽ trả cho con một số tiền tương
đương với khối lượng công việc mà con phải làm. Vì mong việc chóng thành, con
đã làm cẩu thả, làm cho có lệ. Như vậy, việc gì cũng làm, nhưng việc gì cũng
không tới nơi tới chốn. Suy nghĩ cho sâu xa, là con đã đánh cắp thời gian, tiền
bạc của ông bà một cách khéo léo. Vậy khi rửa chén bát không sạch là tâm con đã
vi phạm giới thứ hai này một cách thật tinh vi, khó có người biết được!
Có tiếng
"a" có vẻ ngạc nhiên. Nhà sư vẫn đều đều cất giọng:
- Thấy
không, do tham, do sân, chúng ta đã nuôi dưỡng tâm sát, tâm trộm cắp. Cũng do
tham do sân, chúng ta còn nuôi dưỡng thêm tà niệm, tà vạy, rồi dung dưỡng cả
những cách nói thiếu chân thật. Tại sao lại phạm luôn giới ẩm tửu? Vì rằng, kẻ
dùng những chất say là kẻ tự đánh lừa mình bằng những ảo giác, những hưng phấn
giả tạo. Ở đây, ngay khi rửa chén bát không sạch, làm công việc cho mau qua,
mau xong là chúng ta cũng muốn tìm thụ hưởng bằng sự nhàn rỗi, nghỉ ngơi...
Thỏa mãn, thụ hưởng, nhàn rỗi, nghỉ ngơi... là chúng ta đã dùng các chất say
dưới hình thức khác, không hơn không kém.
Cuối
cùng, nhà sư kết luận:
- Vì
tham, vì sân, chúng sanh phạm sát, đạo, dâm, vọng, tửu. Vì tham, vì sân mà
chúng sanh trầm luân mãi giữa biển đời sinh tử khổ đau. Ngũ giới nhằm xa lìa
những ác nghiệp tiền căn và cắt đứt mọi trói buộc do những vọng tâm sai sử. Như
vậy, kẻ giữ Ngũ Giới đúng nghĩa là phải đoạn tuyệt tham sân, đúng như Pháp Cú
kinh, Phật thuyết: "Như bông lài buông rơi những cánh hoa tàn úa, cùng thế ấy,
này chư Tỳ kheo, hãy buông bỏ tham sân". Kẻ nào sát sanh, lấy của người mà
không được cho, lân la vợ người, nói lời hư vọng và dễ duôi dùng chất say, kẻ
ấy đã tự đào lỗ chôn mình.
Vậy nầy
chư Phật tử! Hãy bảo trọng Tam Quy và Ngũ Giới như bảo trọng con ngươi của mắt
mình, như chim bảo vệ cặp cánh, như người mẹ bảo vệ đứa con ruột... Chớ quên!
Chớ dễ duôi! Chớ quên! Chớ phóng dật!
Rời gia
đình người Phật tử, hai thầy trò lại lên đường. Lúc ấy khoảng ba giờ chiều.
Bất Ác
nói:
- Sao
thầy không chấp thuận lời mời, để trời mát hãy đi cho khỏe!
Nhà sư
nói:
- Bất
Ác! Con có thấy rằng, trong lời nói của con vừa rồi ẩn chứa một kiếm tìm nghỉ
ngơi nào đó? Một thỏa mãn hoặc một tiện nghi an toàn nào đó? Tất cả đấy là
những trá hình của dục vọng, của bản ngã? Tất cả đấy là những cách thế trốn
chạy thực tại mà người học Đạo, học sự Giác Ngộ có bổn phận phải thấy, phải
biết?
Bất Ác
le lưỡi:
- Thầy
nói đúng y chang! Con đã thấy rồi!
Bước
chân của hai người dẫn đến một khu phố náo nhiệt, có một số người ăn xin nằm,
ngồi, đứng vất vơ bên đường. Nghĩ đến bài học hồi sáng, Bất Ác đem cho hết mấy
chiếc khăn mặt, cùng với số tiền mà gia đình kia đã cúng dường. Thấy trên khuôn
mặt Bất Ác lóe sáng niềm vui, đến một khoảng đường vắng, nhà sư mới nói:
- Con ạ!
Chính những điều thầy đã dạy, con cũng đừng nên coi đó là những mẫu mực, những
quy tắc. Đấy không phải là những công thức cố định nhằm áp dụng cho tất thảy
mọi tình huống phức tạp và đa dạng của cuộc đời. Đấy chỉ là sự gợi ý, mở phơi
để cho con tự học lấy bài học Giác Ngộ. Bởi vậy, con phải biết vượt qua lời
thầy bằng sự sáng tạo linh động từng lúc ở nội tâm con, bằng tuệ-minh-sát
thường trực ở trong con. Nếu thấy "sự cho" vừa rồi là nhằm "thỏa mãn" một cái
gì đó ở trong con, thì sự "thỏa mãn" ấy cũng phải được nhìn ngắm: nó là hỷ tâm?
Là an lạc? Là dục vọng? Hay bản ngã? Hãy cho với tâm của hư không vắng lặng.
Tâm xả. Đừng trụ tướng. Hãy trôi! Hãy chảy!...
Bất Ác
nhíu mày suy nghĩ.
Nhà sư
vỗ về:
- Thầy
biết đấy là những bài học quá sức con. Con có thể "hiểu" nhưng chưa "biết"! Con
có thể "biết" nhưng chưa "thấy"! Thầy muốn dẫn con đi lên, đi lên mãi cho đến
chỗ không còn gì để lên. Chỉ có sự đi lên toàn triệt và tối thượng ấy, chúng ta
mới đến được chỗ giải thoát. Con ạ! Bất cứ ai trên lộ trình ấy cũng ít nhiều va
vấp, dính mắc, chấp trước, dừng lại... chứ không phải chỉ riêng con đâu. Đừng
lo ngại, đừng sợ hãi, đừng bận tâm. Bên con còn có huynh đệ, chư sư thúc, thầy,
sư bá... và cả sư tổ Vô Tướng đại sư nữa. Nhiều lắm! Con đường ấy không phải
chỉ có một mình con đi!
Căn nhà
khá khang trang được hiện ra sau bờ tường thấp, cổng mở, hai thầy trò bước vào.
Một con chó lớn chồm lên sủa inh ỏi, hung tợn. Hai thầy trò giữ tâm xả, lặng
yên. Không thấy một năng lực xung đột, kháng cự nào, con chó lùi dần. Một người
làm vườn đứng tuổi, lễ độ bước ra chào hỏi:
- Thưa
thầy, chẳng hay...
Nhà sư
mỉm cười:
- Bần
Tăng là bạn vong niên của chủ nhà!
- Dạ,
vâng ạ, để con dẫn lối.
- Cảm
ơn. Phải chăng, chủ nhà vẫn hay tham thiền ở sau thiền thất vào mỗi buổi chiều?
- Vâng
ạ!
- Vậy
thì không dám phiền, để chúng tôi tự đi.
Lối đi
lót sỏi trắng. Vườn hoa, non bộ, cây cảnh được chăm sóc, tỉa tót một cách công
phu, có nghệ thuật. Bất Ác tấm tắc khen ngợi.
Nhà sư
nói với chú:
- Con ạ!
Lối đi lên của mỗi người tu Phật cũng cần được lót sỏi trắng. Con đường ấy cần
phải phong quang, sáng sủa, đẹp, thanh cao; ấy là Bát Chánh Đạo. Tâm viên của
mỗi người cũng cần phải có công phu và nghệ thuật như thế này. Những lau lách,
gai góc và cỏ dại cần đốn bỏ, làm sạch tận gốc, nhất là những bụi tham, khóm
sân, cây si. Các thiện pháp cần được vun quén, chăm sóc tỉa tót, nâng niu. Và
như vậy thì những đóa hoa vô ưu, vô phiền sẽ nở; những cành lá tươi tắn sẽ nẩy
lộc, đâm chồi...
Bất Ác
đang cúi đầu suy nghĩ về những lời dạy bảo ấy thì một người hiện ra:
- Chào
đại sư!
- Chào
thượng nhân! Hai thầy trò chúng tôi hôm nay sẽ làm mất thì giờ của thượng nhân
rồi đây!
- Dạ,
không dám! Mấy khi chúng tôi có được hân hạnh thế này.
Chủ nhà
tuổi trung niên, người gầy cao, ốm xanh, vận đồ bà ba trắng dẫn lối hai thầy
trò. Vào phía trong, dưới mái hiên xanh, một bộ ghế mây đặt trên vuông đất lót
đá hoa, xung quanh mấy bụi hoa lài, hoa sói, tường vi thoảng mùi thơm thanh
khiết, dịu dàng.
Sau khi
pha trà, châm trà, cạn vài chung đậm đà, chủ nhân dẫn chuyện.
- Mấy
năm gần đây, tâm tôi chán nản thế gian thật sự. Tôi đã thấy rõ đây là cõi tạm
trú chứ không phải quê hương đích thực của mình. Quả thực là có một cảnh giới
thanh cao hơn, tinh khiết hơn, vi diệu hơn mà tôi đã gặp luôn, đã thấy luôn
trong những cơn xuất thần ngây ngất của thiền định...
Nhà sư
chăm chú lắng nghe, chủ nhà tiếp:
- Đôi
khi lạc vào một cảnh giới, trở về, xung quanh tôi còn thơm ngát những mùi hoa
kỳ diệu mà ngôn ngữ thế gian không diễn tả nổi. Tôi chìm ngập, đắm say, hỷ
hoan, lạc phúc; và rồi cảm nhận ra được cái tục lụy, bất tịnh, ô nhiễm của thế
gian này. Nếu không còn bổn phận với gia đình thì tôi đã ra đi, ra đi hẳn,
không thèm trở về đây nữa...
Chủ nhà
ngưng nói, nhà sư thấy cần phải tỉnh thức người đối diện:
- Quả
vậy! Quả thật là có cảnh giới ấy, có lạc phúc, có hương thơm vi diệu ấy. Và,
thượng nhân, đến một lúc nào đó sẽ bỏ thế gian bất tịnh, xấu xa này để ra đi,
ra đi mãi và không có chỗ trở về! Thượng nhân sẽ ra đi mãi để chạy tìm, săn
đuổi những thỏa mãn của cảm giác: những hình thức từng lúc từng tinh vi và xảo
trá hơn của ma vương, của dục lạc! Thượng nhân thấy cái ô nhiễm, cái tục lụy
của trái đất, vì cái đó không làm thỏa mãn được bầu dục vọng, hố si mê trong
thượng nhân! Trái đất này và những hoa trái của nó không làm vừa lòng thượng
nhân, nên thượng nhân muốn đi tìm những hạnh phúc khác. Nhưng đấy có phải là
hạnh phúc chân thực chăng? Hạnh phúc chân thực không phải là sản phẩm của ý
thức, của tâm trí, cũng không phải là sản phẩm của cảm giác. Thượng nhân phải
coi chừng và lưu ý, kẻo đến một lúc nào đó, ma vương và dục vọng sẽ lôi kéo
thượng nhân ra đi mà không thể cưỡng lại được nữa! Hãy dừng lại, bậc thượng
trí! Hãy dừng lại, người bạn vong niên! Hãy dừng lại, ngắm nhìn nó và xem nó là
cái gì?!
Giọng
nói hùng hồn và lý nghĩa đanh thép của nhà sư như một gáo nước lạnh hắt tạt vào
mặt người đối diện. Chủ nhà chợt dựng thẳng lưng, bàng hoàng, kinh ngạc. Nhà sư
nghĩ thầm là phải đánh phá triệt để, phải đập cho ông ta tỉnh dậy, không thể
nương tay được nữa:
- Thượng
nhân bạc nhược và yếu đuối, thượng nhân đang tối đen và đang si mê. Thượng nhân
chưa học được giáo pháp cơ bản, chưa phân biệt đâu chánh, đâu tà; huống hồ là
tinh yếu của giáo pháp, huống hồ là trang bị cho mình trí tuệ để tự soi! Thượng
nhân có thấy rằng, vì bất lực, bất an, bất mãn cái hiện tại nên muốn đi tìm một
cái khác cao thượng hơn? Thượng nhân có thấy rằng vì chán nản, xung đột tự bên
trong nên thượng nhân muốn đi tìm một cái "ở ngoài mình", cái khác với "cái bây
giờ"? Thượng nhân có biết rằng, cái cảnh giới kia chính là ý niệm dự phóng của
thượng nhân; và cái "ở ngoài mình", "cái khác với cái bây giờ", là "hướng ngoại
cầu huyền" và vọng tưởng đó chăng?
Thấy chủ
nhân đang ôm đầu suy nghĩ, nhà sư cất giọng như thác đập vào ghềnh đá:
- Này
thượng nhân! Thượng nhân có biết rằng chân lý, niết-bàn nó ở ngay chính nơi
cái hiện tiền đang trôi chảy này không? Chỉ có cái hiện tiền đang
trôi chảy ấy là "thực"! Nó "thực" với chẳng sinh chẳng diệt, chẳng hữu chẳng
vô, chẳng thường chẳng đoạn, chẳng khứ chẳng lai, chẳng nhất chẳng dị, chẳng
tịnh chẳng cấu, chẳng tăng chẳng giảm, chẳng khổ chẳng vui, chẳng bờ này chẳng
bờ kia không? Vậy thượng nhân phải biết quay trở lại với hiện tiền này, trọn
vẹn con người mình đây với ngoại giới; nơi ấy chính là sự sống, là vận hành
thiên thu của sự sống. Khổ đau và phiền não là ở đây. Vô phiền, vô khổ cũng ở
đây. Chẳng có một quê hương nào khác. Chẳng có một vĩnh cửu nào khác. Hãy lấy
chính quả đất hoạn nạn và đau thương này làm chỗ sở y mà hiện quán, hãy giải
thoát sinh tử trầm luân. Đừng chấp nhận một vài an vui dễ dãi, tạm thời. Hãy
lên đường! Hãy "hồi đầu thị ngạn"!
Uống cạn
thêm mấy chung trà trong dáng dấp trầm tư, sầu não; chủ nhà chậm rãi nói:
- Đại sư
đã cho tôi uống những chén thuốc đắng, quá đắng. Đại sư đã quẳng tôi vào một hư
vô bát ngát. Tôi đang không thấy gì, không biết gì, chẳng rõ mình là ai, rồi
phải làm gì? Tôi đang thất vọng, đang tuyệt vọng. Hãy cứu tôi!
Nhà sư
đứng dậy:
- Vì
hoài niệm quá khứ, đeo níu quá khứ nên bị bít bùng, đoanh vây trong ma ảnh, ảo
ảnh; những dám mây đen không thực có, những xác chết đã chôn lấp lâu rồi! Vì
vọng tưởng, vọng móng, mơ về tương lai chưa đến nên bị vong thân, ly tính; bị
chập chùng trong những dự cảm, dự thức của dục vọng và bản ngã. Vì dính mắc
trong hiện tại nên bị đắm, bị chìm, bị rối loạn và đánh mất sự quân bình tâm
hồn.
Hỡi kẻ
thượng trí! Hỡi bậc thượng nhân! Hãy nghe lời của đức Phật: "Hãy gỡ mình ra
khỏi quá khứ, hãy gỡ mình ra khỏi tương lai, hãy gỡ mình ra khỏi hiện tại để
đến bờ kia, chẳng nên cam chịu hoài cảnh sinh tử nữa".
Chủ nhà
ngơ ngác ngước đầu lên hỏi:
- Làm
sao gỡ mình ra khỏi hiện tại?
- Thượng
nhân phải biết trầm lặng, định tĩnh tâm hồn để lắng nghe. Phải biết lắng nghe
với tâm thái trong sáng trong từng giây khắc một. Lắng nghe tất cả các pháp đến
và đi, không thủ, không xả, hoàn toàn vắng lặng và viên minh. Chỉ có thế thôi!
Rồi Thượng nhân sẽ thấy gỡ mình ra khỏi hiện tại nó như thế nào! Hãy tự mình
thắp đuốc lên mà đi. Hãy nương tựa nơi chính mình, là hòn đảo của mình, đừng
tìm nơi nương nhờ nào khác!
Bần Tăng
đã khuấy sóng mặt hồ bình yên giả tạm của Thượng nhân và để lại đấy những xáo
trộn, những bất an. Vậy hãy thử lắng nghe cái xáo trộn, cái bất an ấy? Thượng
nhân là cái ấy, hay không là cái ấy?
- Tôi
vẫn chưa hiểu.
- Vấn đề
không phải là hiểu. Là biết. Phải thấy. Vấn đề là phải thấy.
- Tôi
vẫn chưa thấy.
- Đừng
lặp lại một cách máy móc, một cách vô thức! Cũng đừng nỗ lực vận dụng tâm trí,
vì nếu vậy, thượng nhân sẽ rơi vào cái bẫy dịu dàng và êm ái của ý dục và trí
dục- là phạm trù của hiểu và biết.
- Tôi
lại càng rối loạn.
- Hãy
lắng nghe chính cái rối loạn ấy. Nó là ta hay không phải là ta?
- Tôi
đang không biết gì hết.
- Kể cả
cái "không biết gì hết" ấy. Nó là ta hay không phải là ta?
-
...!?!?!?
- Kể cả
cái "khoảng trống" mà thượng nhân đang im lặng đó nữa, nó là ta hay không phải
là ta?
Để cho
kẻ đối diện trầm tư, nhà sư quay lưng, từ giã:
- Chúng
tôi xin chào và ra đi, xin gởi đến thượng nhân một lời cuối cùng: "Bây giờ
thượng nhân đang cố vận dụng tâm trí nhằm thỏa mãn sự hiểu biết, tìm ra một lời
giải, một đáp số nào đó, cũng như thượng nhân đã từng dụng công thiền định để
thỏa mãn tham vọng tâm linh của mình. Lòng sở cầu của thượng nhân sẽ đạt được -
bần Tăng tin như vậy - nhưng cuối đường tìm kiếm của tham vọng, của thỏa mãn ấy
là cái gì? Là thực tại ư? Là chân lý ư? Là Thượng đế ư?
Đi bên
cạnh nhà sư mà Bất Ác còn như nghe văng vẳng bên tai những đoạn đối thoại kỳ lạ
vừa rồi. Chú không hiểu gì hết. Té ra tri thức của con người còn quá cao vời,
sâu thẳm hơn là chú tưởng. Nhưng tri thức, hiểu biết dường như không phải trí
tuệ? Ôi! Thật là biển học mênh mông, không bến, không bờ!
- Con
vừa thở dài, hiện con đang bị bấn loạn bởi điều gì?
- Dạ,
quả thật như vậy!
- Và rồi
hiện giờ, cũng như cư sĩ kia, tâm trí con không còn biết bám víu vào đâu, có
phải vậy chăng?
- Dạ,
đúng thế!
Nhà sư
cất lời an ủi:
- Con ạ!
Rồi một lúc nào đó con sẽ thấy thôi. Đừng nóng nảy. Trái cây chưa chín vì chưa
đủ thời gian, vậy đừng mong nó sẽ chín vội; chín vội nó sẽ đắng, sẽ chát. Cũng
vậy, hãy lặng lẽ đi theo lộ trình, đi theo dấu chân của chính mình, bằng toàn
bộ con người mình, thường trực tỉnh giác và thường trực lắng nghe. Và như vậy,
sáng suốt và định tĩnh sẽ luôn luôn có mặt ở nơi con. Lối đi ấy là chánh đạo.
Mà chánh đạo thì đến bến bờ, không chóng thì chầy thôi!
Trời đã
tối hẳn, hai thầy trò xin vào trú ngụ nơi một ngôi chùa vắng ở ngoại ô. Vị sư
già người khô gầy, quắc thước, dáng dấp nhanh nhẹn, diện mạo nghiêm trang; tiếp
nhà sư bằng nụ cười cởi mở, thân thiện:
- Nghe
tiếng nhà sư đã lâu nay mới hân hạnh được gặp mặt, thật là nhân duyên lớn. Xin
nhà sư cạn chung trà cho ấm lòng.
Hai
người cùng chấp tay tương kính. Những nụ cười đầm ấm, dịu dàng. Bất Ác đứng
khép nép bên sau nhà sư mà cảm nghe tâm hồn thật là yên ả, thanh bình.
Vị sư
già lim dim mắt một lúc rồi nói:
- Đời
sống của một vị du tăng hành cước như nhà sư quả thật là nhẹ nhàng, thanh
thoát. "Dã hạc vô lương, thiên địa khoan” (Hạc nội không có lương thực mà đất
trời rộng rãi). Quả vậy, chỉ có tam y, bình bát, chiếc mỏ, cặp cánh mà thong
dong biển rộng sông dài, gác ngoài tai muôn hệ lụy nhân sinh.
Nhà sư
vẫn im lặng, vị sư già tiếp:
- Đời
sống của nhà sư quả là giải thoát. Vậy chẳng hay nhà sư có sứ mạng gì để làm
nữa? Mục đích nào để đạt tới? Bổn phận và trách nhiệm nào phải hoàn thành? Hay
nhà sư đã hoàn toàn rảnh việc, đã hoàn toàn buông bỏ mọi gánh năng trên vai?
- Cám ơn
sự tán thán của ngài, quả thật bần tăng chưa dám là như vậy.
Vị sư
già mở mắt ra, nụ cười xởi lởi:
- Quý
hóa thay! Quả đúng nhà sư là một người cao thượng, có một đời sống rất cao
thượng vậy!
Nhà sư
cất giọng điềm đạm:
- Trước
khi trả lời, bần tăng xin hỏi ngài về ý nghĩa của hai chữ "cao thượng"? Thế nào
là cao thượng? Phải chăng cao thượng là vì thấy mình thành tựu những giá trị to
lớn? Đã thấy mình đủ giới và trí? Đã thấy mình trong sạch và vắng lặng giữa thế
gian bất tịnh và huyên náo nầy?
- Phải
vậy!
- Thế
thì bần tăng chẳng có cốt cách gì cao thượng như Ngài đã nghĩ. Bần Tăng sống
đời bình thường của một tỳ khưu xin ăn bình thường.
Vị Sư
già ngạc nhiên:
- Sao
thế được! Không cao thượng sao được khi cuộc đời này nhà sư không còn dính líu
dù chỉ cái gót chân? Nhà sư đã xa lìa bụi bặm cuộc đời, sống hạnh khước từ, tri
túc, tri chỉ; giới luật tinh nghiêm, lục căn thu thúc, thiền quán tinh cần;
sống đời vô trú rày đây mai đó, tùy duyên hóa đạo như mây trắng ngàn phương,
thong dong tự tại... Đời sống như vậy mà không cao thượng thì trên thế gian này
còn gì gọi là cao thượng nữa?
Nhà sư
mỉm cười:
- Ngài
nói hơi quá! Tuy nhiên, nếu sống mà tốt đẹp được như thế thì tôi cũng không dám
nghĩ rằng sống vậy là để mà hơn người, hơn đời, hay để cho mình được cao thượng
hơn.
Vị sư
già nhíu mày:
- Vậy
sống như thế để làm gì?
- Thưa
ngài, là để mà học bài học Giác Ngộ!
Vị Sư
già ngẫm ngợi hồi lâu:
- Dẫu
thế nào nhà sư cũng quá khiêm nhường!
Nhà sư
đáp:
- Chẳng
phải thế!
Vị Sư
già ngạc nhiên hỏi:
- Tạo
sao?
- Vì bần
Tăng biết và thấy. Bần Tăng biết và thấy rằng, khiêm nhường là ngã mạn, khiêm
nhường là thấy mình ở trên cao phải hạ thấp xuống, khiêm nhường là để được an
toàn bản ngã, để được người ta kính trọng, nể vì. Trên tất cả, khiêm nhường
thường ẩn chứa bóng tối của dối trá và hư ngụy. Bởi vậy, bần Tăng như thế nào
thì xin được là như thế ấy. Bần Tăng là người ăn xin đúng nghĩa, cho nên cao
thượng không có trong bần Tăng mà khiêm nhường cũng không có trong bần Tăng!
Vị Sư
già lưng thẳng dậy:
- Thật
là lạ lùng. Quả là tôi mới nghe lần đầu. Nhưng xin nhà sư cho tôi được hỏi
tiếp: tại sao cao thượng là không mà khiêm nhường cũng bảo là không?
- Thưa,
tất thảy chúng là vận hành của bản ngã, nói rõ hơn, là chiếc bẫy vô hình của Vô
Minh và Ái Dục.
- Khiếp!
Nhà sư
tiếp lời chậm rãi:
- Chúng
ta nên sống với tri như thực, kiến như thực; đừng sống với những quy ước, những
tầng bậc giá trị của thế gian. Chúng ta là kẻ tu hành, vậy thì hãy bước ra
ngoài mọi hào quang của chân lý ước lệ và hào quang của những ngôn ngữ sáo mòn.
Sự sống đích thực không cần chúng. Chân trời giác ngộ, giải thoát nó rộng rãi,
khoáng đãng, mênh mông và vô lượng hơn nhiều.
Vị sư
già nắm chặt hai tay nhà sư, cất giọng xúc động:
- Thật
là tri ân, nhà sư đã mở mắt cho tôi, nhờ vậy tôi mới biết rằng, từ lâu, tôi đã
sống trong các giá trị hữu vi, tôi sống với sự vận hành của bản ngã.
Nhà sư
cũng cảm động:
- Đấy là
lời chân thật tự đáy lòng, bần Tăng rất hoan hỷ.
Vị sư
già cúi đầu hồi lâu:
- Nhà sư
có thể giảng giải rộng những điều vừa nói cho tôi thông suốt vấn đề, được
chăng?
- Xin
vâng! Nhà sư nói - Ngài là một vị chân tu, đứng đắn, đàng hoàng, đạo đức nhưng
vì thiếu trí tuệ nên kết quả tu hành của ngài chỉ gặt hái được phước hữu lậu
nhân thiên mà thôi.
Vị sư
già nói:
- Đúng
vậy, nhưng tôi còn có hành thiền định.
- Tại
sao ngài lại công phu thiền định?
- Là để
đối trị với xáo trộn, bất an, phóng dật, lo âu, sợ hãi...
- Đồng ý
thế rồi, và ngài đã tìm được hạnh phúc?
- Thú
thật là có, hai ba giờ hoặc một hai ngày, tôi cảm thấy hạnh phúc khi nhập định.
Nhà sư
mỉm cười:
- Có khi
nào ngài nghĩ rằng vì bực tức, bất mãn không hài lòng những cái diễn ra nơi nội
tâm, nên ngài mong muốn nhập định để tìm cái hạnh phúc và an lạc khác. Bực tức,
bất mãn, không bằng lòng là do sân, và thoải mái trong hạnh phúc thiền định là
do tham, ngài có thấy không?
- Quả
thật tôi chưa hề nghĩ đến.
- Như
vậy là vì bất an, bất mãn cái hiện tại nên ngài muốn chạy trốn cái hiện tại ấy.
Ngài mong một cái gì khác để khỏa lấp chúng đi! Tất cả đấy chứng tỏ rằng, ngài
đang muốn thành tựu cho một bản ngã, khuếch đại bản ngã bằng tham vọng vi tế
hơn đó là sở đắc thiền định vậy!
Vị sư
già ngạc nhiên:
- Vậy
thì các vị Thánh nhân A-la-hán, chư Phật không có hành, không có đắc, không cao
thượng gì hết sao?
- Dĩ
nhiên các ngài có hành, có đắc, có cao thượng.
- Tôi
nghe dường như mâu thuẫn.
- Không
có mâu thuẫn đâu - Nhà sư ôn tồn đáp - các ngài hành, đắc, cao thượng, để mà
giác ngộ "cái tôi", các ngài vô ngã, còn đắc định như vừa rồi là hữu ngã.
Vị sư
già gật đầu nhưng lại hỏi:
- Vậy
làm thế nào để được vô ngã?
- Vô ngã
không phải là làm như thế này hoặc làm như thế kia. Vô ngã cũng không phải là
cái để mà hành, mà đắc hoặc là để hiểu và biết. Vô ngã thuộc phạm trù của "cái
thấy", của tuệ giác. Ngài nên nhớ rằng, đừng mong cầu để được vô ngã, tại sao
vậy? Vì khi ngài mong cầu vô ngã, rồi quyết định thành tựu cái vô ngã ấy, thì
cuối cùng ngài sẽ đạt được một cái ngã vô ngã!
Vừng
trán vị sư già cau lại, nhà sư nghĩ rằng đã buông lời là buông luôn, không còn
giữ lại:
- Ngài
như thế nào thì ngài thấy như thế ấy, như thế ấy với khuôn mặt như thực của
mình, không thêm, không bớt, không thủ, không xả. Và đấy mới bước qua phạm trù
của quán chiếu bát-nhã, của tuệ giác. Tuệ giác là thường trực trú nơi "vô ngã".
Tôi nói "trú" một cách cố ý, vì rằng, ngài phải thường trực trú nơi cái hiện
tiền trôi chảy của tâm niệm, của tư tưởng. Bất kể tâm niệm, tư tưởng ấy là gì,
là tốt, là xấu, là đục, là trong cũng đều được ghi nhận một cách rõ ràng, chân
xác! Nói cách khác, ngài phải thường trực chánh niệm, tinh tấn và tỉnh giác
trước các pháp đến và đi qua tâm thức. Thường trực lắng nghe chính mình một
cách khách quan, đừng đồng lõa với cái gì, mà cũng đừng chấp nhận, phản ứng
hoặc biện hộ cho cái gì. Tuệ minh sát phải trong sáng, sắc bén, không thiên vị
và hoàn toàn trung chính. Đừng bất mãn cái gì, đừng mong muốn cái gì, vì bất
mãn là sân, mong muốn là tham! Vậy chỉ có một việc duy nhất là chăm chú và trầm
tĩnh lắng nghe. Chỉ có lắng nghe như vậy ngài mới cắt đứt được tham sân và thấy
rõ vô ngã là gì!
Nhà sư
ngừng nói hồi lâu, vị Sư già mới góp lời:
- Bấy
lâu, tôi thấy tôi thành tựu được nhiều, nhà sư đã lột trần tôi ra và tôi thấy
mình chẳng còn gì nữa cả!
- Đúng
vậy! Lời thổ lộ ấy của ngài mới thật là cao quý: Lời của ý-thức-vô-ngã! Như
vậy, thưa ngài, cao thượng đúng nghĩa là khi mình toàn triệt vứt bỏ được "cái
tôi”. Vứt bỏ cũng chỉ là cách nói, chứ thật ra, khi thấy thì tất cả Pháp đều là
vô ngã. Các Pháp là vô ngã thì lấy gì để sở đắc, thành tựu? Hoàn toàn không!
Rốt ráo không! Tuy nhiên, cái không ấy không phải là hư vô mà nó là chìa khóa
để mở cửa niết-bàn!
Trên
đường về chùa, Bất Ác nói với nhà sư:
- Một
ngày hai đêm đi với thầy con học được một vài điều.
- Con
hãy nói xem nào.
- Thứ
nhất, thấy việc thiện là làm ngay, cương quyết và dứt khoát.
- Giỏi
lắm!
- Thứ
hai, chỉ có việc chăm chú và trầm tĩnh lắng nghe, còn hiện tại, quá khứ, vị lai
đều dẹp qua một bên.
- Khá
lắm!
- Thứ
ba, kham nhẫn hoàn cảnh và chịu đứng gian khổ.
- Rất
đúng! Còn gì nữa không con?
Bất Ác
lắc đầu:
- Chỉ
chừng đó thôi, còn câu chuyện thiền định và vô ngã gì gì đó thì con mù tịt!
Nhà sư
trầm ngâm một lúc lâu:
- Thật
ra, con học được như thế cũng đã khá nhiều. Vậy từ bài học ấy, từ nay, con đã
biết cách đối trị với cái tâm thụ động, tiêu cực, đôi khi lại còn biếng nhác,
dễ duôi nữa. Tinh tấn, chánh niệm, tỉnh giác con cũng còn thiếu, có phải thế
không? Nhưng còn điều quan trọng hơn, là thầy chỉ muốn đánh thức ở nơi con một
điều gì đó, để con tự tỉnh dậy và tự bước đi, bằng hai bàn chân của mình, trên
lộ trình của chính mình.
Huyền
Không
Hải Vân - Lăng Cô - 1977