Lô Sơn
Khách là
người đàn ông chưa đến tuổi trung niên, ăn mặc chải chuốt, đến chùa vào một
buổi chiều mùa xuân. Khách đưa mắt nhìn chung quanh rồi hỏi chú Đa Trí:
- Chùa
Huyền Không ở đâu vậy chú?
Đa Trí
ra giọng thiền sư thi sĩ:
- Nếu
không phải là Tô Đông Pha thì dù đang ở tại Lô Sơn, chú vẫn cứ đi tìm Lô Sơn
như thường!
-!?
Khi Đa Thức bắt chước
cổ nhân
Một vị y
sĩ đến chùa chích ngừa bệnh dịch tả. Xong xuôi, Đa Thức lân la lại gần vị y sĩ:
- Chú
nè! Đa Thức hỏi nhỏ - chú đi chích ngừa dịch tả cho người ta mà chú có chích
ngừa cho chính mình không?
- Dạ, có
chớ! Vị y sĩ thật thà vén tay áo mình lên - tôi đã chích ngừa, còn sưng đây
này!
- Không
phải! Đa Thức lắc đầu nguầy nguậy - Không phải cái đó. Đó là cái bệnh dịch tả
thời khí, cấp tính. Cháu muốn nói đến cái bệnh dịch tả kinh niên, truyền đời,
truyền kiếp kia!
Vị y sĩ
cau mày:
- Chú
nói gì, tôi không hiểu.
Bất đồ,
Đa Thức cười lạt, đứng bật dậy:
- Rứa mà
cũng đòi làm y sĩ chữa bệnh cho thiên hạ! Ngu ơi là ngu!
Vị y sĩ
tím mặt, giận run lẩy bẩy.
Đa Thức
mỉm cười, cất giọng huờ hưỡn:
- Cái
đó! Cái đó! Nó vừa ló một cái đầu rắn dịch tả thâm căn cố đế bất trị ra đấy!
Còn một con nữa. Rứa chú đã tiêm ngừa bao giờ chưa?
Y sĩ
nghe xong, cung tay xá, khuôn mặt dịu lại.
Hoa thật và hoa ni-lông
Vị khách
Tăng từ miền
Nam
ra, biếu chùa một bó hoa ni-lông và một giò phong lan.
Khi trao
hoa ni-lông, vị Tăng nói:
- Loại
hoa này quí và đẹp. Lúc cắm lên, mọi người sẽ trầm trồ vì họ tưởng là hoa thật.
Và khi
trao giò lan:
- Còn
đây là vương giả chi hoa, rất tuyệt vời, khi nở trông đẹp như hoa ni-lông vậy!
Còn bị kẹt
Đa Văn
từ lâu được nổi tiếng là nghe nhiều, nhớ giỏi. Hôm kia, chẳng biết suy nghĩ
được điều gì mà chú hăm hở chạy vào gặp nhà sư, lễ phép và khách sáo nói:
- Con
xin được hầu chuyện với thầy.
- Được,
nhà sư gật - có gì con hãy nói.
Đa Văn
trịnh trọng :
- Thầy
có biết thầy bị kẹt gì không?
- À, hay
lắm! Con cứ thẳng thắn mà chỉ rõ ra đi!
Đa Văn
nói:
- Một
cái tên là đã kẹt rồi! Mà thầy, nào là tục danh, bí danh, pháp danh, tự
hiệu,... sao mà thầy ham danh quá vậy?
Nhà sư :
- A...
ơ...!
Đa Văn
bước ra, nói vọng lại:
- May mà
thầy không có cả hàng chục chức vụ đi theo sau, nếu có, con mà không nhớ hết
thì còn gì là "đa văn" này nữa!
Thức biến
Một cư
sĩ chuyên nghiên cứu và dạy Duy Thức mấy chục năm. Một hôm, ông ta đến thăm nhà
sư và kể huyên thuyên những sở đắc của mình. Cuối cùng, vị ấy kết luận:
- Tất cả
đều do thức biến, chỉ là thức biến! Cả thầy, tôi, tài sản, y áo, vật thực...
tôi đều có thể lý luận rất rõ ràng và cụ thể là do thức biến ráo trọi!
Nhà sư
gật đầu tán thưởng. Đến giờ ngọ trai, nhà sư lặng lẽ ăn một mình. Khách đợi
hoài chẳng thấy ai mời cơm trưa. Nhà sư thủng thỉnh ăn, rồi đưa tay chỉ vào mâm
cơm, thong thả nói:
- Phần
cơm hủ lậu quê mùa này là do "nhà trù biến" chứ bần tăng chẳng có tài cán gì.
Đạo hữu có sẵn thần thông Duy Thức quảng đại, thì cứ tùy nghi biến hóa một mâm
cơm "rõ ràng và cụ thể" mà dùng vậy nhé!
Vô công
Bữa nọ
nhân một đêm trăng sáng, nhà sư cao hứng xuống sông gánh nước. Khi nâng gánh,
vì mất thăng bằng nên nước đổ ào xuống sông.
Vô Văn
đang đứng trong biền bắp, thấy vậy, bật ra hai câu thơ, ngâm sang sảng:
- “Nhà sư làm việc vô công
Dưới trăng gánh nước, đổ sông ra về!"
Đa Văn
đang dạo chơi, tình cờ nghe được, liền ngâm tiếp:
- “Ví như gánh vác Bồ-đề
Tâm không muôn việc, tỉnh mê bỏ ngoài!"
Nhà sư
đứng thẳng dậy, chống đòn gánh nói lớn:
- Gánh
nước mất thăng bằng thì nó đổ, có gì là tỉnh, là mê, là Bồ-đề ở đây hử? Chữ với
nghĩa!
Trồng khoai
Hai chú
đang cuốc đất.
Vô Văn
nói:
- Kể cả
việc trồng khoai, một vị Bồ-tát cũng cần kinh qua và chứng nghiệm.
Đa Lễ
hỏi:
- Có lẽ
là nhằm tích lũy phương-tiện-trí để rộng độ chúng sanh phải không?
- Không
phải!
- Vậy
trồng khoai để làm gì?
- Để ăn
độn chứ gì nữa! Chú không biết hổm rày gạo quá đắt hay sao?
Kẹt đạo! Kẹt đời!
Uống
xong tuần trà, khách nhìn nhà sư cười cười nói:
- Tôi từ
phương xa tới đây, áo lấm bụi đường, mặt chưa kịp rửa đã được nhà sư cho hầu
trà, thật là duyên vạn hạnh. Nhưng tôi còn có cái khao khát hơn, ấy là sự hiểu
biết. Rất mong nhà sư trả lời cho vài câu hỏi, nhưng xin nhà sư...
- Đạo
hữu cứ nói!
- Dạ,
xin nhà sư đừng dùng những từ như khổ đế, trí tuệ, đức tin, nhân quả, nghiệp
báo... Tóm lại là nhà sư đừng sử dụng một thuật ngữ nào thường dùng trong Tam
Tạng. Nghe hoài những danh từ, chữ nghĩa của Đạo, tôi chán lắm! Cái ấy gọi là
kẹt lời, kẹt chữ, kẹt Đạo vậy!
Nhà sư
ôn tồn nói:
- Cũng
được thôi! Nhưng bần tăng cũng có một đề nghị!
Khách
mau mắn:
- Dạ
được! Nhà sư cứ nói!
- Vâng,
bần tăng cũng xin đạo hữu đặt những câu hỏi nào đừng có những từ ngữ, lời tiếng
thường dùng ở trong đời. Vì cái ấy cũng gọi là kẹt lời, kẹt chữ, kẹt Đời vậy!
Khách
ngẩn người giây lâu, rồi... nhấp một ngụm trà!
Tình yêu và cục đá
Một
thanh niên Phật tử có lẽ là suy gẫm đạo lý đã lâu nên hôm kia đến nói chuyện
với Đa Trí:
- Nếu
tôi yêu cục đá, tình yêu ấy có phạm tội không?
Đa Trí
lắc đầu nói:
- Yêu là
không được rồi, đừng yêu là hơn.
- Đừng
yêu thì tôi sợ sẽ trở thành cục đá!
Đa Trí
ỡm ờ:
- Thì
tốt thôi!
Người
Phật tử nhăn mày:
- Tôi
không hiểu!
- Có gì
mà không hiểu! Cục đá thì có bao giờ yêu cục đá đâu mà sợ!
Kẻ ở ngoài tương quan
Một Ni
cô đến gặp nhà sư, nghiêm trang nói:
- Có một
thời pháp, nhà sư thuyết rằng: "Thế giới tương quan là đau khổ", có phải vậy
không?
Nhà sư
đáp:
- Đúng
thế!
Ni cô
bèn nói:
- Vậy
giáo lý đã bị giảng sai, nhà sư có biết không?
Hơi bất
ngờ, nhà sư hỏi:
- Ở chỗ
nào, Ni cô cứ dạy!
- Không
dám! Nhưng con đã từng suy nghiệm: "Có những pháp không nằm trong thế giới
tương quan mà vẫn đưa đến đau khổ."
- Xin Ni
cô trình bày cho rõ ràng hơn.
- Dạ! Ví
dụ, con thấy thế giới tương quan là rắc rối, não loạn, xung đột... con bèn rút
lui một mình, tịnh cốc, tĩnh cư, sống hạnh không giao tiếp với mọi người!
- Vâng,
rồi chuyện gì xảy ra?
- Dạ, ni
chúng đồng đạo nói cạnh, nói khóe, nói xa, nói gần rằng con là kẻ cao thượng
hảo, kiêu căng, ngã mạn... Họ nói những điều mà con không thể chịu nổi. Vậy là,
"không tương quan" mà vẫn đưa đến đau khổ! Từ rày về sau, nhà sư dạy pháp nên
cẩn thận và dè dặt hơn mới được!
Nhà sư
mỉm cười:
- Ni cô
muốn làm Thượng đế chắc?
-!?
Thấy pháp không phải ta
Nhà Sư
đang nghỉ trưa, bỗng nghe tiếng "sàn sạt" ở hiên sau, bèn hỏi:
- Ai đó?
- Không
có ai hết!
Nghe ra
là giọng chú Đa Lễ.
- Chú
làm cái gì đó?
- Chẳng
làm cái gì hết!
Một hồi
nhà sư mới biết chú ấy đang quét lá. Nhà sư hơi ngạc nhiên về cách trả lời
trống không, vô lễ của chú điệu được tiếng là lễ phép bấy lâu nay. Vừa mới nhổm
dậy thì nhà sư nghe tiếng đọc kinh vang vang xa dần:
“Khi trí tuệ quán chiếu
Thấy pháp không phải ta
Liền thoát ly khổ não
Đó là Thanh Tịnh Đạo!"
- À, ra
thế! Nhà sư lẩm bẩm gật đầu rồi nằm xuống trở lại.
Thường ích kỷ Bồ-tát
Đa Trí
tưới lan xong, ngắm những giò hoa nở một hồi lâu, có vẻ ngẫm ngợi rồi nói với
Đa Văn:
- Chú
nè, mình chơi lan thế này thiệt là kẹt!
Đa Văn
ngạc nhiên hỏi:
- Kẹt
sao?
- Nếu
người ta xin?
- Thì cứ
nhất định là không cho!
- Vậy là
ích kỷ rồi!
Đa Văn
giải thích:
- Đồng ý
là ích kỷ. Nhưng chú tưởng hành theo "hạnh ích kỷ" dễ lắm sao? Ích kỷ nhưng
không phải cho cá nhân mình mà là phụng sự cái đẹp chung. Mình mang tiếng ích
kỷ, nhưng mọi người lại có chỗ để di dưỡng tinh thần, để thần kinh được thư
giãn. Điều đó nên làm lắm chứ!
Đa Trí
lắc đầu:
- Đó là
tâm địa Bồ-tát, tôi chịu thôi!
Vô Văn
đi ngang qua, nghe được liền hỏi:
- Bồ-tát
ấy có tên là gì?
Đa Văn
đáp:
- Đấy
được gọi là: "Thường Ích Kỷ Bồ-tát!"
Vô Văn
vỗ tay:
- Vậy từ
đây ta có thêm một Bồ-tát mới nữa rồi! "Nam Mô Thường Ích Kỷ Bồ-tát Ma ha tát!”
Hoan hô!
Cái gì dơ?
Buổi
sáng, Đa Văn nhận trách nhiệm phân phối công việc, chú nói:
- Hổm
rày cái sân dơ quá, chỗ này chú Vô Tâm nhận cho!
Vô Tâm
cười cười:
- Sân
đâu có dơ, chú!
Đa Văn
gặn hỏi:
- Sân
không dơ thì lá dơ chắc?
Vô Tâm
ỡm ờ:
- Lá có
lẽ cũng không dơ!
Đa Văn
nghiêm mặt lại:
- Sân
không dơ, lá không dơ, nhưng chú cũng phải quét, thế thôi!
Mọi
người cười xòa.
Vô Văn
nghe được, nói lầm thầm: "Đa Văn vì dụng thường ngữ, kẹt nơi tục đế nên gọi sân
dơ! Vô Tâm vì dụng pháp ngữ, kẹt nơi chân đế nên gọi sân không dơ, lá không dơ!
Ta biết cả hai mà còn ngứa óc, ngứa mồm muốn nói, thế là chổi dơ! Ôi! Nếu chổi
dơ thì làm sao quét và quét là quét cái gì đây?"
Mắc mớ gì đến ta
Một nam
Phật tử đau khổ vì tình đến gặp Đa Văn:
- Chú
ơi! Xin chú hãy giúp tôi một vài ý kiến.
Đa Văn
đang ngồi lim dim mắt:
- Chuyện
gì vậy?
- Tôi có
một mối tình!
- Ờ!
- Tôi
rất hạnh phúc!
- Ờ!
- Không,
nàng đã phản bội tôi rồi!
- Ờ!
- Tôi
rất đau khổ!
- Ờ!
- Vậy
bây giờ tôi phải làm sao?
Đa Văn
mở mắt ra, hỏi:
- Ai đem
hạnh phúc cho anh?
- Dạ,
nàng!
- Ai
mang đau khổ cho anh?
- Dạ,
cũng chính nàng!
Đa Văn
"hừm" một tiếng:
- Vậy
thì mắc mớ gì đến ta mà hỏi!
-!?
Ai ngộ?
Đa Văn
và Vô Văn đang trỉa lúa khô, Đa Thức cắp nách rổ đi hái rau, dừng lại nói:
- Nè,
các chú ơi! Có một ông cư sĩ rất chi là trí thức vừa bị thầy "cạo" cho một
trận.
Đa Văn
đứng thẳng lưng dậy:
- Kể
nghe!
Đa Thức
hăm hở:
- Ông cư
sĩ ấy đạp xe từ dưới phố lên, thầy hỏi: "Có mệt không con?" Cư sĩ chậm rãi dựng
xe cười: "Bạch thầy, mệt gì đâu! Con cứ để tâm "vô phân biệt" mà đạp. Lên dốc
thì con nghĩ: "À, lên dốc à!" Qua ruộng thì con nghĩ: "À, qua ruộng à!" Thế là
con luôn trú nơi cái sát-na vĩnh cửu của hiện tại. Không gian, thời gian bất
khả hiện hữu. Năng tri và sở tri không hai. Vậy thì có gì xa với gần, mệt với
không mệt hở thầy?"
Nghe
xong, thầy nói: "Hay dữ ha! Vậy ra con tu hành là để "xa với gần không biết",
"người với đường thành một", "không tôi, không người", "đàn ông, đàn bà không
khác"... "Vô phân biệt" tuốt, luốt! Hay dữ ha!
Kể xong,
chú Đa Thức nói tiếp:
- Hôm
trước, có một ông "phân biệt" thì bị thầy "lóc". Bữa nay, một ông "vô phân
biệt" thì bị thầy "cạo"! Eo ôi! Khó ơi là khó!
Đa Văn
nói:
- Tại
cái ông cư sĩ dại, không biết đàng mà lui tới. Thầy nói gì cứ mặc thầy. Có bao
giờ tâm vô phân biệt mà biến thành sỏi đá đâu mà sợ? Con ruồi bay qua vẫn biết
rõ ruồi đực ruồi cái mà tâm vẫn vô phân biệt như thường!
Vô Văn
vẫn lom khom trỉa lúa:
- Này,
thôi nghe! Hãy lo làm công chuyện!
Đa Văn
nhìn Vô Văn ngờ ngợ:
- Ê, chú
ngộ rồi hả! Giải quyết sao?
Vô Văn
đứng dậy:
- Ngộ
cái gì? Giải quyết cái gì?
Chú Đa
Thức đưa hay tay lên trời, chiếc rổ lăn tròn xuống hồ rau muống, than dài:
- Eo ơi!
Cha nào cũng thiền sư hết trơn hết trọi! Cho chết! Dù có biết, có thấy, ta cũng
không nói nửa lời đâu!
Không thỏa hiệp
Chú ơi!
- Gì đó
anh?
- Kỳ này
tôi cương quyết "không thỏa hiệp" với trần gian nữa!
- Một
lần nói dối!
Người
thanh niên tức giận:
- Sao
chú bảo tôi nói dối?
Vô Văn
đưa thêm một ngón tay nữa:
- Hai
lần nói dối!
Thanh
niên như không còn tự chủ được:
- Nếu
chú không giải thích, tôi không để chú yên đâu!
Vô Văn
cười khà khà.
Thanh
niên tím mặt lại:
- Chú
lại còn trút thêm dầu vào lửa!
Vô Văn
bây giờ mới thủng thỉnh nói:
- Cái gì
anh cũng "thỏa hiệp" cả mà dám bảo là "không thỏa hiệp"! Nói dối vừa vừa thôi
chứ!
-!
Tâm vô thường
Đa Trí
được nhà sư giao cho việc hướng dẫn các chú giới tử sơ cơ học giáo pháp. Hôm
đó, chú đang say sưa giảng về cái tâm vô thường của chúng sanh. Chú thao thao
phân tích, đưa ra những ví dụ thực tiễn, xác đáng... muốn cho đàn em ai cũng
phải khâm phục sức học uyên bác và trí tuệ thâm sâu của mình!
Nhìn
xuống lớp học, Đa Trí chợt thấy Vô Tư đang gục lên gục xuống trên bàn. Chú gọi
to:
- Vô Tư!
Vô Tư
giật nẩy mình, ngơ ngác:
- Dạ!
- Điệu
có biết điệu bao nhiêu tội rồi không?
- Dạ,
không ạ!
Đa Trí
cất giọng rổn rảng:
- Này,
hãy trả lời cho tôi nghe. Lần trước tôi bảo ngủ thì điệu lấy bài ra học. Bây
giờ, giờ học thì điệu lại ngủ gà ngủ gật. Tại sao khi siêng năng lúc biếng nhác
thất thường vậy hả?
- Dạ...
Dạ... cái đó thì em cũng chịu thôi!
- Sao
vậy? Đa Trí gắt - trả lời cho đứng đắn xem nào!
- Dạ,
chú dạy cái gì... à, "quán tâm vô thường". Tâm đã vô thường thì nó thay đổi
luôn, lúc là thế này, lúc là thế nọ! Vậy thì thử hỏi, em làm sao lại dám đi ra
ngoài định luật vô thường ấy?
Đa Trí
la hoảng lên "chết tôi", rồi chú đứng im sững!
Nếu biết thế!
Vị sư đệ
tam y nhất bát phong trần trở về đến gặp vị trụ trì:
- Sư
huynh ạ! Cái câu mà bên thiền tông họ hay nói: "Thần thông là gánh nước, bổ củi
là diệu dụng" hồi trước đệ nghĩ là nói láo, nghe láo chơi, bây giờ đệ thấy nó
chí lý làm sao!
Vị trụ
trì cân cần:
- Ừ! Đệ
thấy chí lý như thế nào?
Sư đệ
đáp:
- Thiền
là pháp môn tiêu hủy phiền não. Vậy thì bất cứ khi nào tâm ta trong sáng, bình
lặng, tỉnh thức thì đấy là thể hiện thiền, là thiền quán, là thiền Minh Sát
Tuệ. Dù gánh nước hay bửa củi mà tâm ta vô ưu, vô lự, vô phiền, thì đó là diệu
dụng chân thật, là thần thông chân thật rồi!
Vị trụ
trì khen ngợi:
- Cảm ơn
Phật Thánh! Đệ đã thấy!
Buổi
chiều, sư huynh nói với sư đệ:
- Lúc
này hạn hán quá, bể cạn, cây khô, sư đệ hoan hỷ vận thần thông diệu dụng gánh
ít chục đôi nước nghe!
Sư đệ
mau mắn:
- Dạ,
xong ngay!
Tối đến
lúc uống trà, sư huynh nói:
- Thần
thông và diệu dụng của đệ quả là ghê gớm, một buổi chiều mà gánh những bốn chục
đôi nước! Sư đệ có mệt không?
Vị sư đệ
cười cười:
- Cái đó
gọi là trú nơi "tam muội chân hỏa", làm sao mệt được sư huynh!
Sư huynh
cười ha hả:
- Phật
ôi! Nếu biết thế thì chùa mình khỏi đặt mua cái máy bơm nước tốn mấy chục ngàn!
-!?
Công án thứ
1701
Tôi đã
bảo chú là "ngũ ấm vốn không", các pháp vô tự tính, không có gì cả đâu!
- Sao
lại không có được!
- Không
có mà. Này nhé, "sắc" có không?
- Có!
- Nói
sao kỳ? Vậy "thọ" có không?
- Có!
- Vẫn
cứng đầu! "Tưởng", "hành", "thức" có không?
- Có!
- Thiệt
là cái chấp kiến lì lợm! Té ra chú tu hành lâu ni, trí tuệ được thế đấy!
- Hừ!
Đừng có lên giọng kẻ cả! Chú được tài lập lại kinh điển, ngôn ngữ của cổ nhân.
Tôi hỏi chú, chú bảo tôi chấp hữu, lì lợm. Nhưng mà coi chừng! Hãy nghe đây!
Nói rằng, sắc, thọ, tưởng, hành, thức là không, đồng ý! Nhưng này, ai đang đứng
trước mặt tôi đây?
- Bộ
xương nặng 35 ký.
- Tầm
bậy, bộ xương không biết nói!
- Ha...
ha... ha...
Chú điệu
cao, trắng vai vác cây cuốc chỉa vụt cất tiếng cười rang rảng rồi chạy lên đồi.
Bóng chú lẫn vào rẫy sắn. Chú điệu thấp, da đen cháy, tay cầm cây chổi rành
đứng dưới gốc bồ đề nhìn theo, bặm môi tức tối.
Nắng
chiều ấm, nhảy loăng quăng trên những đọt sắn. Tiếng lá thông reo vi vu. Tiếng
chim kêu rời rạc. Mấy chiếc lá khô đuổi nhau chạy loi choi về cuối vườn. Một
đám mây trôi bâng khuâng trên vòm trời rộng, xanh lơ.
Chú điệu
thấp, đen huơ mạnh cây chổi. Những chiếc lá vàng khô tung lên, rớt xuống. Cây
chổi lại quét mạnh đẩy chúng về một phía. Lá lại bay lên, đáp xuống.
Những
nhát chổi đều đặn hất tới, hất tới; những tấm lá bị đùa nhích tới vài bước rồi
lại lì lợm nằm chờ nhát chổi kế tiếp.
Nắng dịu
dần, gió thổi mạnh hơn. Nơi chân trời xa đã thấy thấp thoáng vài cánh chim bay
về tổ. Tiếng nghé ọ của bầy trâu vọng lại từ con đường băng ngang sau đồi.
Giọng hát trong trẻo của cô gái nào đó đang giặt dưới bến sông chốc chốc lại
theo gió thoảng lên. Con chích chòe đậu trên cành thông cất tiếng hót phụ
họa...
Chú điệu
thấp dồn lá lại thành đống rồi chạy nhanh vào nhà bếp lấy cái bội tre. Lá sẽ
được cất để chụm dần. Chú nhanh nhẹn hốt từng ôm lá nhét vào bội. Một, hai, ba,
bốn... Bỗng một cơn gió quái ác: r...ào... ào, ào tới hất đám lá bay tứ tung.
Chú điệu thấp loay hoay huơ chổi quét dồn lại. Nhưng mới hốt được một ôm, cơn
gió thiên lôi lại ào tới phá đám.
- Cái
lão gió này!
Chú đứng
lên nhìn theo những chiếc lá bay chờn vờn như trêu ghẹo. Chú tức bực:
- Đồ phá
đám!
- Ai phá
đám?
Câu hỏi
vang lên đột ngột.
Chú điệu
đen, thấp quay lại. Chú điệu cao, trắng xách hai gốc sắn còn nguyên củ, tay cầm
cái cuốc chỉa đứng đó tự bao giờ, cười hì hì.
- Gió
chứ ai!
- Gió
đâu?
- Đâu?
Chú chỉ gió cho tôi coi nào?
- Thì
đó... ủa!
Chú điệu
đen, thấp ngớ ra, im lặng, vì lúc ấy trời không một chút gió. Những đọt thông
thôi reo. Những chiếc lá nằm yên không nhúc nhích.
Im lặng.
- Gió
đâu? Đâu là gió?
Chú điệu
cao, trắng đứng cười hì hì, hà hà.
Chú điệu
đen, thấp nhíu mày, bặm môi, quay qua quay lại. Chú tìm gió! Chợt chú ngồi
xuống lượm cây chổi, nhanh như chớp, quất mạnh vào đôi chân của chú kia.
- Ý da!
Sao chú đánh tôi? Chú điệu cao nhảy cẫng lên la lớn.
- Gió
đấy! Gió đấy! Chú điệu đen, thấp lại cười khà khà.
Chú điệu
cao, trắng tức tối:
- Đó là
chú đánh tôi chứ gió đâu mà gió!
Chú điệu
đen, thấp lên giọng:
- Chuyển
động là gió. Kinh dạy như thế mà! Tôi là gió mà chú là vật bị gió quật chứ có
gì lạ đâu! Hì hì...
- Được
đấy!
Nói xong
chú điệu cao, trắng hậm hực, quày quả đi về phía nhà bếp.
Chú điệu
đen, thấp đứng chống chổi nhìn theo cười khì, rồi nhanh nhẹn cúi xuống ôm lá
nhét vào bội.
Trời đã
nhá nhem. Tiếng chuông công phu bắt đầu buông thong thả từng gióng một. Trên
chánh điện, ánh sáng từ ngọn đèn lọt qua những khung cửa phóng thành những vệt
dài trên các lối đi, cây cảnh, lùm bụi quanh chùa.
Sau giờ
công phu tọa thiền, Tăng chúng qui tụ tại pháp đường. Ba hồi kiền chùy gióng
lên. Tất cả chấp tay nghiêm cẩn. Hòa thượng bước vào và lên pháp tòa. Sau khi
niệm Phật hiệu, hòa thượng cao giọng:
- Đêm
nay, bần đạo sẽ đưa ra một công án. Quí vị ai có đủ thẩm quyền xin bước ra ấn
chứng.
Rồi Ngài
tiếp:
-
Sinh tử là việc lớn. Quý vị cát ái từ thân vào chốn thiền lâm để làm gì? Phải
chăng là nối gót chí nguyện của lão già mặt vàng và tên rợ mắt xanh? Vậy thì
hãy quyết chí hạ thủ công phu, đêm ngày quên bặt. Trọn cả thân tâm như đặt trên
bờ vực cao ngàn trượng; như ở trong đám cháy lớn bốn phía hừng hực, ráng mà
chạy thoát ra ngoài; như ở trong cơn đại hồng thủy bị nước cuốn trôi, cố hết
sức bám vào một mảnh gỗ duy nhất trôi bập bềnh trên sóng nước. Mau lên! Mau
lên! Chớ để bạch câu vút qua, thoi đưa thấm thoắt rồi ngàn sau ân hận!
Nhảy
qua! Nhảy qua bờ kia! Hãy nhảy qua cả bờ kia nữa, hỡi chư thiện hữu!
Bodhisvàhà!
Công án
thứ hai mươi ba của Vô Môn. Hai ông tăng tranh luận gió và phướn.
Một ông
nói:
- Phướn
động!
Ông kia
bảo:
- Gió
động!
Cả hai
cãi qua cãi lại không ra lẽ.
Lục Tổ
đi qua bảo:
- Không
phải gió động, không phải phướn động. Tâm hai ông động đấy.
Hai ông
tăng giật mình kinh sợ.
Bây giờ
bần đạo xin được hỏi quý vị:
- Phướn
động hay gió động? Nói mau! Nói mau!
Pháp
đường ngột ngạt. Con tắc kè trên nóc điện tắc lưỡi thở dài.
Chợt một
vị tăng bước ra. Hòa thượng hỏi:
- Phướn
động hay gió động? Mau!
"Gió thổi mưa dồn dập
Trời không, không gợn mây."
- Tha
cho ba chục hèo!
Vị tăng
cúi lạy một lạy rồi lui về chỗ cũ.
Hòa
thượng nhìn quanh cao giọng:
- Cả
pháp đường không lẽ toàn là bọn giá áo túi cơm cả ư?
Im lặng
trôi qua.
Hòa
thượng bước xuống pháp tòa.
Chợt
phía sau tăng chúng, chú điệu thấp, đen chạy ra:
- Bạch
hòa thượng!
Hòa
thượng chững lại, thét lớn:
- Là gì?
Chú điệu
đen, thấp la to:
- Lão
bán củi đất Dương Châu động chứ không phải hai ông tăng động.
Hòa
thượng chụp vội cây gậy phang thẳng cánh vào người chú điệu.
- Ai
động? Nói mau!
- Hòa
thượng!
Nói
xong, chú điệu thấp, đen cúi lạy đi về chỗ cũ.
Hòa
thượng đưa gậy lên trời đứng sững, rồi bước ra khỏi pháp đường về tịnh thất.
Chú điệu
đen, thấp cũng lách mình ra cửa. Chú chạy về hậu viện. Trong lúc vội vàng chú
vấp phải vật gì ngáng ngang đường, té sấp xuống. Chú vội lom khom trổi dậy.
Chưa kịp
hoàn hồn thì đã nghe quát:
- Ai
động ? Nói mau!
- Dạ,
không biết!
Chú
ngửng đầu lên nhìn người lên tiếng hỏi.
- A! Té
ra chú!
- Hì
hì... Ai động? nói mau!
Chú điệu
cao, trắng vừa cười vừa hét nhỏ.
Chú điệu
đen, thấp im lặng quay mình đi vào đêm tối.
Bầu trời
chợt như cao hơn, sâu thẳm hơn, huyền diệu và mông lung hơn với vô vàn hạt sao
li ti lấp lánh nhảy múa.
Có tiếng
rơi nhè nhẹ đâu đây...
Pháp
Tông
Mùa Thu 1980
Trăng không lặn
Chú điệu
Tâm vừa mới vào ở chùa, những đêm đầu tiên vì nhớ nhà nên chú cứ đi thơ thẩn
mãi ở ngoài vườn.
Hôm nọ
chú ngồi khóc một mình, thấy Vô Văn đi ra, điệu đánh trống lảng:
- Ồ! Đêm
nay trăng sáng quá!
Vô Văn
ra vẻ ta đây:
- Rõ vớ
vẩn! Trăng thì khi nào lại không sáng, cứ gì đêm nay!
Điệu Tâm
cãi:
- Hôm
qua nó có sáng đâu.
- Có
chứ!
- Tối
om!
- Sao
lại tối ?
- Vì bị
mây che.
Vô Văn
cười hít hít:
- Đấy,
vì bị mây che chứ không phải trăng không sáng.
Điệu Tâm
im lặng.
Vô Văn
lên giọng kẻ cả:
- Nghe
thơ đây:
"Trăng vốn sáng nhưng lòng mây u uất
Che
nguồn trăng không soi thấu lá cành"
Này nhé!
Trăng chính tuệ giác đấy! Mây
chính là vô minh. Vô minh che mờ tuệ giác! Chú em có
hiểu thế không?
Điệu Tâm
lắc đầu:
- Em
không biết!
Vô Văn
trừng mắt:
- Không
biết? Đồ ngốc! Thế thì học đi! Vậy có thuộc mấy câu thơ của Đại sư bá không hở?
- Sao ạ
?
- Thơ
thế này:
“Ngàn
xưa từ ngàn xưa
Chưa một lần trăng lặn!"
Vô phúc
cho chú, vừa lúc Sơ Tổ đi ngang, nghe được, nói khẽ:
- Hoa nở
rồi tàn, trăng tròn rồi lại khuyết, ta có bảo trăng không lặn bao giờ đâu mà
nói oan cho sư bá thế!
Vô Văn
thè lưỡi, lủi mất.
Lý do ngủ không nằm
Vị khách
kia nghe đồn nhà sư ngủ không nằm, hâm mộ lắm, tìm đến và xin được gặp mặt.
- Đại
đức hành pháp môn cao thượng này được bao nhiêu lâu rồi?
- Ý ngài
muốn nói chuyện gì? Nhà sư ngạc nhiên hỏi.
- Chuyện
đại đức ngủ mà không nằm đấy!
Nhà sư
cười:
- À, cám
ơn ngài đã có ý hỏi han. Vâng, từ khi bần tăng bị mấy cái mụt nhọt ở nơi lưng,
nơi hông nó hành, từ đấy bần tăng không còn nằm được nữa!
Chiêu thức của Đa Trí
Một
thanh niên có vẻ trí thức đến chùa, ngồi thuyết tràng giang đại hải về chân lý,
tuyệt đối, bản thể. Cuối cùng, y tóm tắt:
- Như
vậy, rõ ràng là "nhất thiết pháp không", tôi không, các chú không, không có sở
đắc, không có Niết-bàn, viên mãn không, tất cánh không.
Đa Trí
chăm chú lắng nghe, rồi lắc đầu:
- Vô lý,
thậm vô lý!
Khách
ngạc nhiên:
- Tại
sao vậy? Tôi đã nghiên cứu hầu hết hai truyền thừa Bắc và
Nam
tông, có khác gì những điều tôi nói.
Đa Trí
nhếch mép:
- Bởi
vậy tôi mới bảo là tào lao!
Khách
tím mặt giận run.
Hồi lâu,
Đa Trí mới cười cười, nhã nhặn:
- Như
vậy chứng tỏ cái "giận" của ông bạn là có thật đấy chứ ạ?
Khách
"à" một tiếng rồi ngớ ra.
Đáp án của Vô Văn
Vô Tâm
về thăm nhà lên, gặp Vô Văn đang tưới ớt bên hông chùa, chú hí hửng kéo Vô Văn
lại gốc cây.
- Công
án mới đây! Hãy chăm chú lắng nghe! Sẵn sàng chưa?
- Sẵn
sàng rồi!
Vô Tâm
kể:
- "Một
người cha đánh con. Lần thứ nhất bảo là không được khóc. Lần thứ hai bảo, không
khóc thì được rồi, nhưng cấm chảy nước mắt. Lần thứ ba lại bảo, không khóc,
không chảy nước mắt, nhưng cấm cái bản mặt tỉnh bơ như thế".
Vậy
trường hợp chú thì chú tính sao? Hử? Nói đi! Nói ngay tức khắc!
Vô Văn
đứng dậy:
- Tôi đi
tưới cây.
Đạo... lan!
Đa Trí
ngồi nhìn chú Đa Thức tưới lan, săn sóc lan, chú nhăn mày suy nghĩ rất lâu rồi
hăm hở đến gặp nhà sư.
- Thầy
à! Con vừa tìm ra được cái Đạo... lan!
-
Sao? Đạo lan là? Thử nói ta nghe.
-
Dạ, chơi lan phải biết "cho đi" tiền bạc, thì giờ, công lao, sức khỏe... Biết
"cho đi" nhiều thứ như vậy thì có khác gì bố thí ba-la-mật... lan?
Nhà sư
nhăn mày:
- Cứ nói
tiếp.
- Phải
chăm sóc, gìn giữ cẩn thận từng cái rễ, cái lá, cái nụ, cái chồi... cũng như
giữ gìn thân, khẩu, ý vậy.
Cái đó được gọi là trì giới ba-la-mật... lan!
- Được
lắm!
- Phải
cố gắng thường xuyên, không được lười biếng, cẩu thả, bê trễ. Phải chăm tưới
hằng ngày; tưới ít hoặc nhiều lại còn tùy nắng hay mưa, khô hay ẩm, lạnh hay
nóng, không được phép dễ đuôi. Cái ấy được gọi là tinh tấn ba-la-mật... lan,
không sai!
- Ồ!
Đa Trí
hăng hái nói tiếp:
- Phải
biết rõ đây là loại nấm đà, nấm đen, nấm trắng... do vi khuẩn nào gây ra. Phải
biết phân biệt đâu là bệnh rầy, bệnh cháy lá, bệnh thối lá, thối đọt, thối rễ;
bệnh do ung thư, còi cọc, do úng rễ, phỏng lá; bệnh do khô quá, ướt quá... để
mà cứu chữa kịp thời. Đấy
không phải là trí tuệ ba-la-mật... lan là gì?
- À!
- Khi
tưới tắm chăm sóc thì để trọn tâm hồn vào đấy, chăm chú, chuyên nhất,... Cái đó
gọi là thiền định Ba-la-mật... lan chính hiệu!
Thấy Đa
Trí còn muốn nói nữa, nhà sư ngăn lại:
- Thôi
đủ rồi! Vậy là ta hiểu rồi!
Đa Trí
hỏi:
- Vậy
thầy nghĩ thế nào? Ấy có được gọi là Đạo chăng?
Nhà sư
mỉm cười:
- Ta bây
giờ già rồi, đầu óc lú lẫn, không có được "biện tài giải", "tuệ phân tích" như
con. Con đã "không thầy chỉ dạy" mà tìm ra con đường cho chính mình, khác con
đường của các đấng Như Lai! Khá lắm!
Đa Trí
nhũn nhặn:
- Dạ,
con không dám! Con chỉ mới suy luận thôi!
- Ồ! Vậy
ta cũng suy luận đây! Ta hỏi con nhé, nếu có cái được gọi là ba-la-mật lan, thì
cũng phải có ba-la-mật cuốc đất, ba-la-mật nhổ cỏ, ba-la-mật lái xe, ba-la-mật
họa, ba-la-mật thơ, ba-la-mật đánh cờ... có phải không?
Đa Trí
vỗ tay:
- Chính
thị! Chẳng có gì không có Ba-la-mật cả! Chẳng có gì mà không có Đạo. Rồi chú
ngâm:
“Mười phương chân lý, Đạo
Thảy thảy hiện trần sa
Thảy thảy ba-la-mật
Thảy thảy Bồ-đề-tát-bà-ha!"
Nhà sư
ôn tồn hỏi:
- Con
nè, thế ba-la-mật lan của con với ba-la-mật của Phật không có gì khác nhau đấy
chứ?
- Dạ,
không khác. Chân lý vốn chỉ có một mà thôi. Đã Đạo rồi thì đâu cũng là Đạo cả.
- Con
này, nhà sư chậm rãi nói - không đâu là không có Đạo. Đồng ý! Nhưng cái Đạo lan
của con có giải thoát được sầu, bi, khổ, ưu, não không?
- Dạ, có
chứ! Đa Trí mau mắn đáp - Nhìn lan nở là con giải thoát liền!
- Có an
vui tự tại không?
- Dạ có!
- Rất
tốt! Rất tốt!
Rồi nhà
sư nhẹ nhàng vỗ vai Đa Trí mà rằng:
- Con
nè, việc tưới lan, chăm sóc lan, tháng này qua tháng khác, năm này qua năm nọ
thật là vất vả; nên trước đây, chư tăng họp lại rồi phân công đồng đều để các
chú có cơ hội tu tập công đức. Nay con đã "thâm ngộ" cái Đạo lan, đã giải thoát
được nhờ Đạo lan, đã an vui tự tại được cũng nhờ Đạo lan. Quí hóa thay! Hy hữu
thay! Vậy thì từ nay, con hãy bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn thiền định,
trí tuệ ba-la-mật cái vườn lan "một mình" cho chùa vậy nhé!
Đa Trí
tròn xoe mắt một hồi rồi tự rủa thầm: "Ta tự hại ta rồi?"
Đường... ta!
Ối dào!
Đường lên chùa sư nó xa quá trời là... "xa"!
Sư vốn
lãng tai, hỏi:
-
Con nói cái gì... "ta"?
- Dạ,
đường ạ!
Sư gật
gù đáp:
-
Phải rồi! Đường... ta, ta... đường! Khi tâm phân biệt thì có "ta", có "đường"!
Còn khi tâm không phân biệt thì "không thấy ta", "không thấy đường".
Đã vong năng, vong sở, không ta, không đường thì chẳng thấy đâu
là xa, đâu là gần cả con ạ!
Ni lâu đạo hữu
buôn bán mần ăn ra sao?
Một
thương gia giàu lòng tín tâm, làm phước, bố thí rất nhiều. Sau mấy tháng chuyên
tâm nghiên cứu về giáo pháp, hôm kia ông ta đến gặp nhà sư:
- Bạch
thầy! Mọi pháp hữu vi đều là vô thường, đau khổ, vô ngã...
- Đúng
thế!
- Nếu
các pháp vốn là vô tự tính, không thực hữu, tất cả đều là không, vậy chẳng hay,
tu giới, tu định, tu huệ thì "được" cái gì, "lợi" cái gì?
Nhà sư
tủm tỉm cười rồi hỏi:
- Ni lâu
đạo hữu buôn bán mần ăn ra sao?
-!?
Chém luôn!
Tại sao
Nam Tuyền trảm miêu?
Đấy là
câu hỏi được đem ra bàn cãi trong giờ uống trà buổi tối.
Một vị
sư nói:
- Có lẽ
Nam Tuyền lão sư muốn xóa bỏ cái chấp thủ về sở hữu của lưỡng đường.
Vị khác:
- Chưa
chắc là vậy. Ngón trỏ chính là ở nơi ý niệm đúng, sai, có, không của lưỡng
chúng; chém mèo là hành động tối hậu để đẩy tâm thức môn sinh vượt khỏi bến bờ
nhị nguyên đối đãi.
- Trật
lất! Vị sư khác phát biểu - Chán chi cách khai mở tuệ giác mà lại dùng phương
tiện sát sanh để phạm tội giới? Ý hẳn Nam Tuyền hòa thượng muốn vén mở tâm thức
giải thoát, vô tác, vô hành, không còn chi phối bởi nhân quả chăng?
Một vị
la lên:
- Trời
ơi! Thế là tà kiến! Thế là rơi vào "đoạn diệt luận" của chúng ngoại đạo. Biết
đâu hành động chém mèo chỉ là hành động bình thường nói về nhân quả, nghiệp
báo?
Thấy các
Sư tranh luận, Vô Văn không dám "thèo leo", bèn chạy một mạch ra bến sông, vừa
lấy tay phạt làm đao vừa la lớn:
- Con
mèo chấp thủ: chém một đao!
Con mèo nhị nguyên: chém một đao!
Con mèo vô nhân quả: chém một đao!
Con mèo hữu nhân quả: chém một đao!
Lúc đó
Sơ Tổ đang đi dạo mát giữa trăng, nghe được, nhẹ nhàng bước tới:
- Vô
Văn!
- Dạ!
- Còn
con một đao, ta một đao nữa, chém luôn!
Vô Văn
nghe một luồng khí lạnh chạy dọc xương sống, chú quỳ xuống, sụp lạy!
Hạng người ưu thắng
Lúc này,
giới tử vào chùa đông: điệu Tân, điệu Lộc, điệu Hạnh (chưa có pháp danh), Vô Tư
và Vô Ý. Đa Thức nhận trách nhiệm quản chúng cùng dạy kinh, dạy giáo lý.
Hôm kia,
Đa Thức giảng một đoạn kinh ngắn rồi chú kết luận:
- Thế là
có hai hạng người ưu thắng thường được đức Phật khen ngợi: "trong tâm có cấu uế
biết rằng có cấu uế, trong tâm không có cấu uế biết rằng không có cấu uế."
Buổi
trưa có thức ăn ngon, các điệu dùng sau, làm hết luôn phần chó và mèo, những
cái bụng đầy căng!
Đa Thức
xuống tận nơi, ôn tồn nói:
- Vậy là
tâm các điệu có "cấu uế" đấy, biết không? Ăn quá độ, tham ăn là cấu uế, đã rõ
chưa?
Tất cả
đồng thanh đáp:
- Dạ rõ!
Đa Thức
giáo huấn:
- Vậy
lần sau bỏ cái tính tham ăn ấy đi nghe!
Vô Tư
cười hì hì:
- Bỏ làm
chi, chú, "Tâm có cấu uế biết rằng tâm có cấu uế", ấy là hạng người ưu thắng
thường được đức Thế Tôn khen ngợi mà!
Đa Thức
đưa hai tay lên trời!
Cái gì bẩn?
Mấy lúc
sau nầy các Sư bận học hành, nghiên cứu nên công việc trong ngoài đều giao hết
cho các chú.
Nhân đầu
mùa trồng trọt, các chú họp bàn thảo luận công việc với nhau. Vô Văn nói:
- Ta chỉ
có một sào đất màu mỡ bên sông, vậy nên trồng gì để có khả năng kinh tế cao
nhất?
Đa Trí
nói:
- Nên
trồng thuốc lá bán nhiều tiền, nó "lợi" hơn các loại khác gấp bội.
Đa Văn
nói:
- Thuốc
lá tốn nhiều phân, nhiều công, lợi bất cập hại đấy. Trồng bắp và đậu là khỏe
re, tuy ít tiền nhưng được "lợi" thì giờ.
Đa Thức
đứng dậy bỏ đi. Vô Văn hỏi:
- Chú đi
đâu ?
- Tôi đi
rửa tai!
- Tại
sao ?
- Tu
hành mà người thì bảo lợi "tiền", người thì bảo "lợi thì giờ"! Không bẩn tai
sao được chứ?
Vô Văn
bước nhanh lại, vạch tai chú Đa Thức xem, rồi gật đầu:
-
Đúng vậy! Té ra tai chú bẩn! Hèn gì!
Đa Trí
và Đa Văn được dịp cười khoái trá!
Thiệt là tiện lợi
Vô Văn
và Vô Ý đang đào lỗ trồng chuối, chợt chú Vô Ý dừng cuốc nói:
- Chú Vô
Văn nè! Khoa học đã đến trình độ chế biến vải, thịt heo... từ dầu hỏa; làm nước
ngọt giải khát từ rong biển. Vậy tại sao người ta không sáng chế ra một loại
máy, mà khi găm xuống đất nó hút lên nào ngọt, nào bùi, nào béo...? Thiệt là
tiện lợi hết ý!
Vô Văn
lắc đầu:
- Chẳng
tiện lợi chút nào. Cả một đống phiền phức xuất hiện: Đầu tư công tác thí
nghiệm, chế máy; rồi nhân công, nhiên liệu, bảo trì .v..v... Chi bằng cứ như
thế này; ưa ngọt thì trồng chuối, trồng mít; ưa cay thì trồng ớt, trồng tiêu;
ưa béo thì gieo đậu phụng, đậu nành.v..v... Thế không tiện hơn sao?
Mời quý ngài dùng trà
kẻo nguội
Hôm đó
nhân buổi Trung Thu, tại vườn Thanh Tâm có cuộc họp mặt đông đảo các vị trí
thức gồm học giả, nhà thơ, nhà văn, nhà giáo.v..v... Trong không khí mát mẻ,
đầm ấm, họ uống trà thảo luận chuyện văn chương, chữ nghĩa. Sau rốt, có người
đặt câu hỏi, giáo pháp của đức Phật, cái gì là quan trọng nhất? Thế là mọi
người đưa ra ý kiến, quan điểm của mình. Họ yêu cầu nhà sư chủ trì cuộc thảo
luận này.
Người
thứ nhất: Theo tôi, cái quan trọng nhất của đạo Phật là trí tuệ. Có trí tuệ mới
biết đường, biết sá mà đi, khỏi rơi vào tà lộ, khỏi bị lầm lạc. Nói đến đạo
Phật thì trí tuệ là đệ nhất.
Người
thứ hai: Nói thế là đúng, nhưng là cái đúng chưa trọn vẹn. Đạo Phật gồm đủ cả
hai: Trí Tuệ và Từ Bi. Nếu không có Từ Bi thì đạo Phật có mặt trên đời này để
làm gì? Thuyết pháp độ sanh cho ai? Coi chừng Từ Bi còn quan trọng hơn Trí Tuệ
nữa đấy.
Người
thứ ba: Tự Tại mới là cái tối thượng của đạo Phật, Trí Tuệ và Từ Bi là hai cánh
của một con chim để bay đến chân trời Tự Tại. Nếu không có Tự Tại, chúng ta sẽ
sống đời lao chao như những con lật đật, nghiêng bên này, ngả bên kia; sẽ bị
pháp trần cuốn trôi vào dòng sông sinh tử đầy hệ lụy và khổ não.
Người
thứ tư: Thế cũng chưa rốt ráo. Nói Tự Tại thì phải nói đến Tự Do mới trọn
nghĩa. Không có tự do thì làm gì có tự tại? Không có tự do, mình sẽ bị lệ
thuộc, gông cùm, ràng buộc. Vả lại, kẹt vào Tự Tại có nghĩa là nô lệ, phụ thuộc
Tự Tại vậy. Theo tôi, Tự Do mới là cái chân phúc.
Người
thứ năm: Không có ai sai cả, nhưng Giải Thoát mới là cái cao nhất, rốt ráo
nhất. Quý vị không từng thấy thế gian này đau khổ vì bị buộc ràng bởi tiền tài,
danh vọng, sự nghiệp, vợ con... Biết bao nhiêu máu và nước mắt đã đổ ra từ
những tham vọng quyền lực, tham vọng thế gian kia! Giải Thoát mới là cái tối
thượng của Phật đà.
Người
thứ sáu: Ngài nói không sai! Nhưng mà nếu hiểu Giải Thoát là buông bỏ tất cả
những điều ấy, coi chừng sẽ rơi vào "hư vô luận". Không rơi vào "hư vô luận"
cũng dễ bị thế gian hiểu lầm là thiếu trách nhiệm, thiếu bổn phận với cuộc đời.
Theo tôi, Giác Ngộ mới là mục đích tối thắng của Phật Đạo. Đức Phật cũng được
gọi là đấng Giác Ngộ, đấng Toàn Giác, đấng Diệu Giác! Rồi Thanh Văn Giác, Duyên
Giác, Độc Giác. Ở đâu cũng có chữ “giác” ấy cả. Không có Giác Ngộ thì chúng ta
sẽ còn theo đuổi không biết bao nhiêu mục đích hư huyễn trên trần gian này.
Không Giác Ngộ chúng ta sẽ lập đi lập lại mãi những việc làm vô ích, ngu si chỉ
đem đến đau khổ cho mình và người thôi. Vậy Giác Ngộ mới là đích điểm rốt ráo.
Sau lời
phát biểu của vị thứ sáu, không khí lắng lại một lúc. Mọi người đều có vẻ trầm
ngâm. Chợt một người trung niên đeo mắt kiếng, cười cười góp ý.
Người
đeo kiếng: Tôi phát biểu có lẽ là hơi lếu láo, xin chư quân tử xá tội cho. Tôi
thấy ai phát biểu cũng đúng cả. Người sờ đến cái trán Trí Tuệ thì nói Phật giáo
là Trí Tuệ, đâu có sai! Người sờ được cái tâm Từ Bi thì nói Phật giáo là Từ Bi,
cũng đúng! Tự Tại, Tự Do, Giải Thoát, Giác Ngộ... đều đúng cả. Xin thưa, Phật
giáo phải là toàn diện những điều quý vị vừa nói. Thiếu một, thiếu hai, thiếu
ba... thì con-voi-thực-tại-toàn-diện của Phật giáo bị què, bị cụt còn gì? Vậy
xin quý Ngài cho biết tôn ý?
Người
đeo kiếng phát biểu xong, ai cũng cảm nhận là ông ta nói đúng nhất. Đúng! Phải
là toàn bộ con voi, toàn bộ thực tại ấy. Chẳng có ai tranh luận vượt qua kiến
giải ấy. Tuy nhiên, chợt có người thở dài, nhìn sang thì đấy là tiếng thở dài
của một ông lão tóc trắng. Rồi vị ấy nói chậm rãi, nó nhỏ, như chỉ nói với
mình:
- Trí
Tuệ ư? Cũng hay! Nhưng kẻ có được trí tuệ thì dễ sinh cống cao, ngã mạn, coi
thế gian này như cỏ rác. Trí tuệ thường đứng cao hơn nhân thế một cái đầu, hai
cái đầu, sẽ cách biệt với cuộc đời. Do vậy, đã mấy năm sau này, tôi không còn
dám học trí nữa mà tôi lại học "ngu". Học "ngu", cái mới kỳ! Tuy nhiên học
"ngu" là để "hòa kỳ quang, đồng kỳ trần" đấy quý vị ạ. Tôi có nhớ Thiền sư
Huyền Quang có mấy câu:
Ngu-trí, trí-ngu bình đẳng
tướng
Ma cung, Phật
quốc hảo sinh quan"
Còn Từ
Bi? Cái này thì đúng rồi. Thiếu từ bi thì cuộc đời này đầy nước mắt, đầy gian
ác, hận thù... Nhưng mà coi chừng, từ bi quá thì chúng sanh cứ ỷ lại, biếng
nhác, luôn luôn mong cầu ơn trên cứu rỗi. Con hư tại mẹ đó mà! Vậy từ bi cực
đoan sẽ làm cho cuộc đời này cũng hư như thế. Lại nữa, tâm từ bi quá cũng
phiền. Có mật ngọt thì kiến ruồi dễ bu. Có từ bi thì chúng sanh dễ tìm đến
hưởng lợi. Vô tình bị hệ lụy, bị ràng buộc mất rồi! Do vậy, ai thì tôi không
biết, riêng tôi, tôi còn học thêm cái hạnh "không từ bi" nữa. Không từ bi nhưng
không phải là ác tâm, hận tâm, sân tâm, xin quý vị hiểu cho.
Còn Tự
Tại? Tôi cũng đồng ý. Nhưng tự tại quá tôi cũng ớn lạnh. Vì sao vậy? Người tự
tại, trước hoàn cảnh nào cũng trầm ổn, định tĩnh, bình chân như vại, lúc nào
cũng tỉnh queo, tỉnh khô. Nếu tự tại hơn chút nữa thì sẽ biến thành tảng đá,
đỉnh núi khư khư bất động cũng ớn lắm. Lẽ đó, tôi còn học thêm cái "không tự
tại".
Tự Do
cũng vậy, cũng hay, nhưng tự do tâm linh hay tự do bản năng đây? Tự do bản năng
thì không được rồi, còn tự do tâm linh thì lại khác. Kẻ có tự do tâm linh thì
không còn thích sống tự do, họ tự qui định mình trong những mẫu mực, qui củ,
hình thức, lễ nghi. Và tôi cũng vậy, tôi đang tu tập trên lối về "không tự do".
Giải
Thoát à? Đạo Phật thường nói đến chủ đích này. Nhưng mà giải thoát hết thì tôi
không thích, vì tôi đang còn ở trong cuộc đời này, tôi còn có vợ con, gia sản,
tình huynh đệ, bằng hữu, thầy trò, thôn xóm, quê hương và cả nhân loại nữa. Nên
tôi, với từng này tuổi đầu, tôi đang tập tành cái "không giải thoát".
Giác Ngộ
nữa, đồng ý! Nhưng giác ngộ quá thì ta còn làm được điều gì trên cuộc đời này?
Không làm được cái gì cả. Vì sao vậy? Vì giác ngộ nên ta đã biết ráo trọi mọi
kết quả sau cùng, mọi kết quả hư huyễn "dã tràng xe cát biển đông" của nó. Giác
ngộ thì sẽ không còn vọng tưởng để mà tạo hỏa tiễn máy bay, chinh phục sao kim,
sao hỏa, xây dựng lâu đài, dinh thự... Do vậy sau này tôi còn học cái bài học
"không giác ngộ" nữa.
Nói tóm
lại, cả hai đàng đều phải học hết mới là trọn vẹn đạo Phật. Xin cạn lời!
Cuộc
thảo luận đến đây dường như hết ý. Mọi người quay qua muốn nghe lời phát biểu
của vị chủ trì.
Nhà sư
mỉm cười nâng chung trà lên:
- Xin
chư vị dùng trà kẻo nguội lạnh lâu rồi!
Mọi
người lặng người giây lâu, rồi chợt cười ha hả.
Viết lại, Yên Hà Các, thu
1981
Nhuận sắc, Phong Trúc Am, thu 1996
Tái nhuận sắc, Am Mây Tía, thu 2002
Minh
Đức Triều Tâm Ảnh