Trung Tâm Hộ Tông Trang Chủ
Hành Giới Soạn giả:
Tỳ khưu Hộ Pháp |
Tính Chất Của Ngũ Giới Ngũ giới là thường giới (niccasīla) của tất cả mọi người tại gia cư sĩ. Nếu người nào không giữ ngũ giới đầy đủ (dù chỉ phạm 1 trong 5 điều giới cũng gọi là không giữ ngũ giới đầy đủ), thì người ấy phải chịu những tai hại xấu xa.Và nếu người nào giữ ngũ giới đầy đủ trọn vẹn, thì người ấy được những quả báu tốt lành. Như vậy, quả ác nghiệp của người không có giới, và quả thiện nghiệp của người có giới hoàn toàn trái ngược với nhau. Đức Phật thuyết giảng bài kinh Sīlasutta([1]) dạy về 5 tai hại của người không có giới, và 5 quả báu của người có giới đầy đủ trọn vẹn hoàn toàn trái ngược nhau như sau: * Tai hại của người không có giới: ─ Này chư Tỳ khưu, 5 điều tai hại của người không có giới, người phạm giới. 5 điều ấy như thế nào? ─ Này chư Tỳ khưu, 5 điều tai hại của người không có giới, người phạm giới. 5 điều tai hại ấy là: 1- Này chư Tỳ khưu, trong đời này, người không có giới, người phạm giới làm tiêu tan nhiều của cải to lớn vì nhân dể duôi. - Này chư Tỳ khưu, đó là tai hại thứ nhất của người không có giới, người phạm giới. 2- Này chư Tỳ khưu, còn điều này, người không có giới, người phạm giới có tiếng xấu lan truyền khắp mọi nơi. - Này chư Tỳ khưu, đó là tai hại thứ nhì của người không có giới, người phạm giới. 3- Này chư Tỳ khưu, còn điều này, người không có giới, người phạm giới có tâm sợ sệt, rụt rè e thẹn khi đi vào nơi hội đoàn Hoàng gia, hội đoàn gia chủ, hội đoàn Samôn, hội đoàn Bàlamôn. - Này chư Tỳ khưu, đó là tai hại thứ ba của người không có giới, người phạm giới. 4- Này chư Tỳ khưu, còn điều này, người không có giới, người phạm giới phát sinh tâm mê muội lúc lâm chung. - Này chư Tỳ khưu, đó là tai hại thứ tư của người không có giới, người phạm giới. 5- Này chư Tỳ khưu, còn điều này, người không có giới, người phạm giới, sau khi chết, ác nghiệp không giữ giới cho quả tái sinh trong cõi địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh. - Này chư Tỳ khưu, đó là tai hại thứ năm của người không có giới, người phạm giới. ─ Này chư Tỳ khưu, đó là 5 điều tai hại của người không có giới, người phạm giới như vậy. * Quả báu của người có giới: ─ Này chư Tỳ khưu, 5 quả báu của người có giới, người giữ gìn giới trong sạch đầy đủ trọn vẹn. 5 quả báu ấy như thế nào? ─ Này chư Tỳ khưu, 5 quả báu của người có giới, người giữ gìn giới trong sạch đầy đủ trọn vẹn. 5 quả báu ấy là: 1- Này chư Tỳ khưu, trong đời này, người có giới, người giữ gìn giới trong sạch đầy đủ trọn vẹn có được nhiều của cải lớn lao, do nhờ nhân không dể duôi. - Này chư Tỳ khưu, đó là quả báu thứ nhất của người có giới, người giữ gìn giới trong sạch đầy đủ trọn vẹn. 2- Này chư Tỳ khưu, còn điều này, người có giới, người giữ gìn giới đầy đủ trong sạch trọn vẹn có được danh thơm tiếng tốt lan truyền khắp mọi nơi. - Này chư Tỳ khưu, đó là quả báu thứ nhì của người có giới, người giữ gìn giới trong sạch đầy đủ trọn vẹn. 3- Này chư Tỳ khưu, còn điều này, người có giới, người giữ gìn giới trong sạch đầy đủ trọn vẹn có tâm dũng cảm, không rụt rè e thẹn khi đi vào nơi hội đoàn Hoàng gia, hội đoàn gia chủ, hội đoàn Samôn, hội đoàn Bàlamôn. - Này chư Tỳ khưu, đó là quả báu thứ ba của người có giới, người giữ gìn giới trong sạch đầy đủ trọn vẹn. 4- Này chư Tỳ khưu, còn điều này, người có giới, người giữ gìn giới trong sạch đầy đủ trọn vẹn phát sinh tâm không mê muội, tâm trí sáng suốt lúc lâm chung. - Này chư Tỳ khưu, đó là quả báu thứ tư của người có giới, người giữ gìn giới trong sạch đầy đủ trọn vẹn. 5- Này chư Tỳ khưu, còn điều này, người có giới, người giữ gìn giới trong sạch đầy đủ trọn vẹn, sau khi chết, thiện nghiệp giữ giới cho quả tái sinh cõi thiện dục giới: Cõi người, các cõi trời dục giới,… - Này chư Tỳ khưu, đó là quả báu thứ năm của người có giới, người giữ gìn giới trong sạch đầy đủ trọn vẹn. ─ Này chư Tỳ khưu, đó là 5 quả báu của người có giới, người giữ gìn giới trong sạch đầy đủ trọn vẹn như vậy. Quả Nghiệp Của Mỗi Giới Ngũ giới có 5 điều giới, mà mỗi điều giới có đối tượng khác nhau, nên cách phạm mỗi điều giới, cách tạo ác nghiệp của mỗi điều giới khác nhau. Và cách giữ gìn mỗi điều giới, cách tạo thiện nghiệp của mỗi điều giới cũng khác nhau. Do đó, quả ác nghiệp của mỗi điều giới, và quả thiện nghiệp của mỗi điều giới khác nhau. 1- Sự Sát Sinh Sự sát sinh liên quan đến sinh mạng của chúng sinh, có thể tạo nên 2 loại nghiệp: - Người phạm điều giới sát sinh là giết hại chúng sinh, tạo nên ác nghiệp sát sinh. - Người giữ giới tránh xa sự sát sinh, không sát sinh, tạo nên thiện nghiệp không sát sinh. Quả của ác nghiệp sát sinh và quả của thiện nghiệp không sát sinh hoàn toàn trái ngược nhau. 1. 1 Quả của ác nghiệp của người phạm điều giới sát sinh Người nào phạm điều giới sát sinh, giết hại sinh mạng của chúng sinh, dù lớn dù nhỏ cũng tạo nên ác nghiệp sát sinh. Nếu có tội nặng, thì sau khi người ấy chết, ác nghiệp sát sinh ấy cho quả tái sinh trong cõi ác giới, chịu quả khổ của ác nghiệp ấy cho đến khi mãn quả của ác nghiệp, mới thoát được khỏi cõi ác giới. Sau khi thoát khỏi cõi ác giới, trường hợp nếu có thiện nghiệp nào khác cho quả tái sinh trở lại làm người. Và trường hợp, nếu người nào phạm điều giới sát sinh, tạo ác nghiệp sát sinh có tội nhẹ, sau khi người ấy chết, ác nghiệp sát sinh ấy không có khả năng cho quả tái sinh, mà thiện nghiệp nào khác có cơ hội cho quả tái sinh trở lại làm người; thì cả hai trường hợp này, người ấy sẽ còn phải chịu quả xấu của ác nghiệp sát sinh từ kiếp quá khứ. Trong Chú giải Khuddakapātha giảng giải về 23 quả xấu của ác nghiệp sát sinh từ kiếp quá khứ như sau: 1- Có thân hình tật nguyền. 2- Có thân hình không cân đối, xấu xí. 3- Là người chậm chạp. 4- Có lòng bàn tay, và dưới lòng bàn chân lõm sâu (không đều đặn). 5- Có thân hình xấu xí, đầy sẹo. 6- Có sắc diện tối tăm. 7- Có da thịt sần sùi. 8- Có tính hay sợ hãi. 9- Có sức khỏe yếu đuối. 10- Có lời nói lặp đi lặp lại, không suôn sẻ. 11- Bị mọi người ghét bỏ. 12- Có những bộ hạ tùy tùng bị chia rẽ. 13- Có tính hay giật mình, hoảng sợ. 14- Thường bị tai nạn do khí giới, thuốc độc… 15- Là người si mê, ngu dốt. 16- Có rất ít bạn bè. 17- Có thân hình dị hợm, đáng ghê sợ. 18- Có thân hình kỳ dị. 19- Hay bệnh hoạn ốm đau. 20- Thường sầu não, lo sợ. 21- Con cháu thường xa lánh. 22- Mỗi kiếp thường bị chết yểu. 23- Bị chết do người khác giết. Đó là 23 quả xấu của ác nghiệp sát sinh từ trong kiếp quá khứ. 1. 2 Quả của thiện nghiệp của người giữ điều giới không sát sinh Người nào giữ gìn ngũ giới trong sạch và trọn vẹn, trong đó có điều giới “có tác ý tránh xa sự sát sinh”; sau khi người ấy chết, thiện nghiệp không sát sinh ấy cho quả tái sinh làm vị thiên nam hoặc thiên nữ trong cõi trời dục giới, hưởng mọi sự an lạc trong cõi trời ấy cho đến hết tuổi thọ. Sau khi chết tại cõi trời ấy, nếu trường hợp thiện nghiệp không sát sinh cho quả tái sinh trở lại làm người trong cõi người. Và trường hợp, nếu sau khi người ấy chết, thiện nghiệp không sát sinh không cho quả tái sinh lên cõi trời dục giới, mà lại cho quả tái sinh trở lại làm người trong cõi người; thì cả hai trường hợp này, người ấy sẽ có được quả báu tốt của thiện nghiệp không sát sinh từ kiếp quá khứ đáng hài lòng hoan hỷ. Trong Chú giải Khuddakapātha giảng giải 23 quả báu của thiện nghiệp không sát sinh từ kiếp quá khứ như sau: 1- Có thân hình không tật nguyền, đầy đủ các bộ phận lớn nhỏ trong cơ thể. 2- Có thân hình cân đối xinh đẹp. 3- Là người nhanh nhẹn. 4- Có lòng bàn tay, lòng bàn chân đầy đặn. 5- Có thân hình xinh đẹp, không tỳ vết. 6- Có da thịt mềm mại, hồng hào. 7- Có thân hình sạch sẽ, trong sáng. 8- Có tâm dũng cảm, không sợ hãi. 9- Có sức khỏe dồi dào. 10- Có giọng nói thanh tao, lời nói ngọt ngào, suôn sẻ. 11- Được mọi người quý mến. 12- Có bộ hạ tùy tùng, bạn bè đoàn kết gắn bó thương yêu nhau. 13- Thân tâm được an lạc tự tại, không hoảng sợ. 14- Không bị tai nạn do khí giới, thuốc độc…. 15- Có trí tuệ sáng suốt. 16- Có nhiều bạn bè thân thiết. 17- Có thân hình đẹp đẽ, đáng quý mến. 18- Có các bộ phận lớn nhỏ trong thân thể cân đối đẹp đẽ. 19- Là người ít bệnh hoạn ốm đau. 20- Là người có tâm thường an lạc. 21- Là người thường được sống gần gũi với con cháu yêu quý. 22- Là người được trường thọ, sống lâu. 23- Không có một ai có thể mưu sát được. Đó là 23 quả báu tốt của thiện nghiệp không sát sinh từ trong kiếp quá khứ. 2- Sự Trộm Cắp Sự trộm cắp liên quan đến của cải tài sản của người khác, có thể tạo nên 2 loại nghiệp: - Người phạm điều giới trộm cắp của cải tài sản của người khác, tạo nên ác nghiệp trộm cắp. - Người giữ giới tránh xa sự trộm cắp, không trộm cắp, tạo nên thiện nghiệp không trộm cắp. Quả của ác nghiệp trộm cắp và quả của thiện nghiệp không trộm cắp hoàn toàn trái ngược nhau. 2. 1 Quả ác nghiệp của người phạm điều giới trộm cắp Người nào phạm điều giới trộm cắp của cải tài sản của người khác dù ít dù nhiều cũng tạo nên ác nghiệp trộm cắp. Nếu có tội nặng, thì sau khi người ấy chết, ác nghiệp trộm cắp cho quả tái sinh trong cõi ác giới, chịu quả khổ của ác nghiệp ấy cho đến khi mãn quả của ác nghiệp, mới thoát được khỏi cõi ác giới. Sau khi thoát khỏi cõi ác giới, trường hợp nếu có thiện nghiệp nào cho quả tái sinh trở lại làm người. Và trường hợp, nếu người nào phạm điều giới trộm cắp, tạo nên ác nghiệp trộm cắp có tội nhẹ, sau khi người ấy chết, ác nghiệp trộm cắp ấy không có khả năng cho quả tái sinh, mà thiện nghiệp nào khác cho quả tái sinh trở lại làm người; thì cả hai trường hợp này, người ấy sẽ còn phải chịu quả xấu của ác nghiệp trộm cắp từ kiếp quá khứ. Trong Chú giải Khuddakapātha giảng giải về 11 quả xấu của ác nghiệp trộm cắp từ kiếp quá khứ như sau: 1- Không thể có những thứ của cải quý giá. 2- Thiếu thốn những nhu yếu phẩm như lúa gạo, tiền bạc, đồ dùng, v.v… 3- Là người nghèo khổ túng thiếu của cải. 4- Không phát triển được những thứ của cải mới. 5- Khi làm ra được của cải quý giá, thì không giữ gìn được lâu dài. 6- Không thể có được thứ của cải mà mình mong muốn. 7- Khi có được của cải, thì thường bị thiệt hại do lửa thiêu cháy, do nước lũ cuốn trôi, do kẻ trộm cướp chiếm đoạt, do nhà Vua tịch thu... 8- Của cải được phát triển, thì cũng liên quan đến nhiều người, không riêng cho mình được. 9- Là người không thể nào chứng đắc được pháp Siêu tam giới (4 Thánh Đạo + 4 Thánh Quả và Niết Bàn). 10- Là người thường nghe đến danh từ ‘không có’. 11- Là người sống không được an lạc. Đó là 11 quả xấu của ác nghiệp trộm cắp từ trong kiếp quá khứ. 2. 2 Quả thiện nghiệp của người giữ điều giới không trộm cắp Người nào giữ gìn ngũ giới trong sạch và trọn vẹn, trong đó có điều giới “có tác ý tránh xa sự trộm cắp”; sau khi người ấy chết, thiện nghiệp không trộm cắp ấy cho quả tái sinh làm vị thiên nam hoặc thiên nữ trong cõi trời dục giới, hưởng mọi sự an lạc trong cõi trời ấy cho đến hết tuổi thọ. Sau khi chết tại cõi trời ấy, nếu trường hợp thiện nghiệp không trộm cắp cho quả tái sinh trở lại làm người trong cõi người. Và trường hợp, nếu sau khi người ấy chết, thiện nghiệp không trộm cắp không cho quả tái sinh lên cõi trời dục giới, mà lại cho quả tái sinh trở lại làm người trong cõi người; thì cả hai trường hợp này, người ấy sẽ có được quả báu tốt của thiện nghiệp không trộm cắp từ kiếp quá khứ đáng hài lòng hoan hỷ. Trong Chú giải Khuddakapātha giảng giải về 11 quả báu của thiện nghiệp không trộm cắp từ kiếp quá khứ như sau: 1- Là người có nhiều của cải quý giá, giàu sang. 2- Có đầy đủ của cải, tài sản như lúa gạo, vàng bạc, châu báu,... 3- Là người có nhiều của cải, tài sản lớn lao, giàu sang phú quý, tiêu dùng không sao hết được. 4- Của cải nào chưa phát sinh, thì của cải ấy sẽ được phát sinh và càng phát triển nhiều. 5- Những thứ của cải quý giá nào như vàng bạc, ngọc ngà, châu báu,… đã có rồi, thì những thứ của cải quý giá ấy được giữ gìn duy trì bền vững lâu dài. 6- Mong muốn những thứ của cải quý giá nào, thì chắc chắn mau chóng thành tựu như ý. 7- Những thứ của cải, tài sản lớn lao của người ấy, không bị thiệt hại do lửa thiêu cháy, do nước lũ cuốn trôi, do kẻ trộm cướp chiếm đoạt, do nhà Vua tịch thu, do người không ưa thích đoạt lấy… 8- Của cải được phát triển, không liên quan đến người khác, chính mình sở hữu. 9- Là người có thể chứng đắc được pháp Siêu tam giới (4 Thánh Đạo + 4 Thánh Quả và Niết Bàn). 10- Là người không thường nghe đến danh từ ‘không có’, bởi vì muốn thứ nào, thì có ngay thứ ấy. 11- Là người sống được an lạc. Đó là 11 quả báu tốt của thiện nghiệp không trộm cắp từ trong kiếp quá khứ. 3- Sự Tà Dâm Sự tà dâm liên quan đến tà dâm với vợ, chồng, con của người khác, có thể tạo nên 2 loại nghiệp: - Người phạm điều giới tà dâm với vợ, chồng, con của người khác, tạo nên ác nghiệp tà dâm. - Người giữ giới tránh xa sự tà dâm, không tà dâm với vợ, chồng, con của người khác, tạo nên thiện nghiệp không tà dâm. Quả của ác nghiệp tà dâm và quả của thiện nghiệp không tà dâm hoàn toàn trái ngược nhau. 3. 1 Quả ác nghiệp của người phạm điều giới tà dâm Người nào phạm điều giới tà dâm với vợ, chồng, con của người khác, tạo nên ác nghiệp tà dâm. Nếu có tội nặng, thì sau khi người ấy chết, ác nghiệp tà dâm ấy cho quả tái sinh trong cõi ác giới, chịu quả khổ của ác nghiệp ấy cho đến khi mãn quả của ác nghiệp, mới thoát được khỏi cõi ác giới. Sau khi thoát khỏi cõi ác giới, trường hợp nếu có thiện nghiệp nào khác cho quả tái sinh làm người. Và trường hợp, nếu người nào phạm điều giới tà dâm, tạo ác nghiệp, có tội nhẹ, thì sau khi người ấy chết, ác nghiệp tà dâm ấy không có khả năng cho quả tái sinh, mà thiện nghiệp nào khác cho quả tái sinh trở lại làm người; thì cả hai trường hợp này, người ấy sẽ còn phải chịu quả xấu của ác nghiệp tà dâm từ kiếp quá khứ. Trong Chú giải Khuddakapātha giảng giải về 20 quả xấu của ác nghiệp tà dâm từ kiếp quá khứ như sau: 1- Là người có nhiều người oan trái. 2- Là người có nhiều người thù ghét. 3- Là người nghèo khổ, thiếu thốn. 4- Là người ngủ không được an lạc. 5- Là người thức không được an lạc. 6- Là người không tránh khỏi 4 cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh). 7- Là người ái nam, ái nữ (không phải đàn ông, cũng không phải đàn bà). 8- Là người có tính hay nóng giận. 9- Là người sinh vào dòng họ thấp hèn, hạng người thấp hèn. 10- Là người có tính không minh bạch, hay che giấu tội lỗi. 11- Là người có thân hình tật nguyền, xấu xí. 12- Là người có sắc diện mặt mày sầu não, khổ tâm. 13- Là người bị mọi người coi thường khinh bỉ, không tin tưởng. 14- Là người khuyết tật: Đui mù, câm điếc,... 15- Sinh làm người đàn bà (tiền kiếp là người đàn ông). 16- Là người có nhiều chứng bệnh đáng ghê sợ. 17- Là người không biết đủ, sống khổ cực. 18- Là người sống nơi nào cũng không được an lạc. 19- Là người gặp nhiều tai hại, oan trái với mọi người. 20- Là người sống xa người thân yêu, hay bị ruồng bỏ. Đó là 20 quả xấu của ác nghiệp tà dâm từ kiếp quá khứ. 3. 2 Quả thiện nghiệp của người giữ điều giới không tà dâm Người nào giữ gìn ngũ giới trong sạch và trọn vẹn, trong đó có điều giới “có tác ý tránh xa sự tà dâm”; sau khi người ấy chết, thiện nghiệp không tà dâm ấy cho quả tái sinh làm vị thiên nam hoặc thiên nữ trong cõi trời dục giới, hưởng mọi sự an lạc trong cõi trời ấy cho đến hết tuổi thọ. Sau khi chết tại cõi trời ấy, nếu trường hợp thiện nghiệp không tà dâm cho quả tái sinh trở lại làm người trong cõi người. Và trường hợp, nếu sau khi người ấy chết, thiện nghiệp không tà dâm không cho quả tái sinh lên cõi trời dục giới, mà lại cho quả tái sinh trở lại làm người trong cõi người; thì cả hai trường hợp này người ấy sẽ có được quả báu tốt của thiện nghiệp không tà dâm từ kiếp quá khứ đáng hài lòng hoan hỷ. Trong Chú giải Khuddakapātha giảng giải về 20 quả báu tốt của thiện nghiệp không tà dâm từ kiếp quá khứ như sau: 1- Là người không có người oan trái. 2- Là người được mọi người thương yêu quý mến. 3- Là người có nhiều của cải giàu sang phú quý. 4- Là người ngủ được an lạc. 5- Là người thức được an lạc. 6- Là người có thể tránh được 4 cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh). 7- Sinh làm người đàn ông hoàn toàn 100%. 8- Là người có tính ôn hòa, ít nóng giận. 9- Là người sinh ra trong dòng họ cao quý, có tính khiêm nhường. 10- Là người có tính minh bạch rõ ràng, không che giấu tội lỗi. 11- Là người không có tật nguyền, có thân hình xinh đẹp, đáng ngưỡng mộ. 12- Là người có sắc diện trong sáng. 13- Là người được mọi người tin tưởng. 14- Là người có ngũ quan (5 giác quan của con người) đầy đủ và tốt đẹp. 15- Là người có tư cách đáng kính. 16- Là người không có những chứng bệnh đáng ghê sợ. 17- Là người có trí tuệ, đời sống được an lạc. 18- Là người sống nơi nào cũng được an lạc. 19- Là người không có tai hại, không có người gây oan trái. 20- Là người thường được sống gần gũi với người thân yêu. Đó là 20 quả báu tốt của thiện nghiệp không tà dâm từ kiếp quá khứ. 4- Sự Nói Dối Sự nói dối liên quan đến nói lời không chân thật, lừa dối,... có thể tạo nên 2 loại nghiệp: - Người phạm điều giới nói dối gây ra thiệt hại đến người khác, tạo nên ác nghiệp nói dối. - Người giữ giới tránh xa sự nói dối, không nói dối, tạo nên thiện nghiệp không nói dối. Quả của ác nghiệp nói dối và quả của thiện nghiệp không nói dối hoàn toàn trái ngược nhau. 4. 1 Quả ác nghiệp của người phạm điều giới nói dối Người nào phạm điều giới nói dối gây ra sự thiệt hại dù ít dù nhiều cũng tạo nên ác nghiệp nói dối. Nếu có tội nặng, thì sau khi người ấy chết, ác nghiệp nói dối cho quả tái sinh trong cõi ác giới, chịu quả khổ của ác nghiệp ấy cho đến khi mãn quả của ác nghiệp, mới thoát được khỏi cõi ác giới. Sau khi thoát khỏi cõi ác giới, trường hợp nếu có thiện nghiệp nào khác cho quả tái sinh trở lại làm người. Và trường hợp, nếu người nào phạm điều giới nói dối, tạo ác nghiệp, có tội nhẹ, thì sau khi người ấy chết, ác nghiệp nói dối ấy không có khả năng cho quả tái sinh, mà thiện nghiệp nào khác cho quả tái sinh trở lại làm người; thì cả hai trường hợp này, người ấy sẽ còn phải chịu quả xấu của ác nghiệp nói dối từ kiếp quá khứ. Trong Chú giải Khuddakapātha giảng giải về 14 quả xấu của ác nghiệp nói dối từ kiếp quá khứ như sau: 1- Là người có ngũ quan (5 giác quan của con người) không trong sáng. 2- Là người có giọng nói không rõ, khó nghe. 3- Là người có đôi hàm răng không đều đặn, xấu xí. 4- Là người có thân hình quá mập, dị kỳ. 5- Là người có thân hình quá ốm, tong teo. 6- Là người có thân hình quá thấp, lùn tịt. 7- Là người có thân hình quá cao, lêu nghêu. 8- Là người có da thịt sần sùi, xấu xí. 9- Là người mà trong miệng thường thoát ra mùi hôi khó chịu. 10- Là người nói không ai tin theo. 11- Là người nói không ai muốn nghe. 12- Là người có cái lưỡi cứng và ngắn. 13- Là người có tâm thường thoái chí nản lòng. 14- Là người có tật nói cà lăm, hoặc bị câm điếc. Đó là 14 quả xấu của ác nghiệp nói dối từ trong kiếp quá khứ. 4. 2 Quả thiện nghiệp của người giữ điều giới không nói dối Người nào giữ gìn ngũ giới trong sạch và trọn vẹn, trong đó có điều giới “có tác ý tránh xa sự nói dối”; sau khi người ấy chết, thiện nghiệp không nói dối ấy cho quả tái sinh làm vị thiên nam hoặc thiên nữ trong cõi trời dục giới, hưởng mọi sự an lạc trong cõi trời ấy cho đến hết tuổi thọ. Sau khi chết tại cõi trời ấy, nếu trường hợp thiện nghiệp không nói dối cho quả tái sinh trở lại làm người trong cõi người. Và trường hợp, nếu sau khi người ấy chết, thiện nghiệp không nói dối không cho quả tái sinh lên cõi trời dục giới, mà lại cho quả tái sinh trở lại làm người trong cõi người; thì cả hai trường hợp này người ấy sẽ có được quả báu tốt của thiện nghiệp không nói dối từ kiếp quá khứ đáng hài lòng hoan hỷ. Trong Chú giải Khuddakapātha giảng giải về 14 quả báu tốt của thiện nghiệp không nói dối từ kiếp quá khứ như sau: 1- Là người có ngũ quan (5 giác quan của con người) trong sáng. 2- Là người có giọng nói ngọt ngào, dễ nghe. 3- Là người có đôi hàm răng đều đặn, đẹp đẽ. 4- Là người có thân hình không mập quá. 5- Là người có thân hình không ốm quá. 6- Là người có thân hình không thấp quá. 7- Là người có thân hình không cao quá. 8- Là người có da thịt mịn màng, mềm mại. 9- Là người mà trong miệng có mùi thơm tho thoát ra dễ chịu như mùi hoa sen. 10- Là người nói được nhiều người tin theo, không có ai ganh tỵ. 11- Là người nói được nhiều người muốn nghe. 12- Là người có cái lưỡi mềm mỏng, màu hồng như cánh hoa sen đỏ. 13- Là người có định tâm vững vàng. 14- Là người có lời nói rõ ràng, ý nghĩa sâu sắc, được nhiều người tin tưởng và tôn trọng. Đó là 14 quả báu tốt của thiện nghiệp không nói dối từ kiếp quá khứ. 5- Sự Uống Rượu Và Các Chất Say Rượu và các chất say liên quan đến uống rượu và các chất say, là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện pháp, có thể tạo nên 2 loại nghiệp: - Người phạm điều giới uống rượu và các chất say, tạo nên ác nghiệp do uống rượu và các chất say. - Người giữ giới tránh xa sự uống rượu và các chất say, không uống rượu và các chất say, tạo thiện nghiệp do không uống rượu và các chất say. Quả của ác nghiệp do uống rượu và các chất say và quả của thiện nghiệp do không uống rượu và các chất say hoàn toàn trái ngược nhau. 5. 1 Quả ác nghiệp của người phạm điều giới uống rượu và các chất say Người nào phạm điều giới uống rượu và các chất say dù ít dù nhiều cũng tạo nên ác nghiệp do uống rượu và các chất say. Nếu có tội nặng, thì sau khi người ấy chết, ác nghiệp do uống rượu và các chất say cho quả tái sinh trong cõi ác giới, chịu quả khổ của ác nghiệp ấy cho đến khi mãn quả của ác nghiệp, mới thoát được khỏi cõi ác giới. Sau khi thoát khỏi cõi ác giới, trường hợp nếu có thiện nghiệp nào khác cho quả tái sinh trở lại làm người. Và trường hợp, nếu người nào phạm điều giới uống rượu và các chất say, tạo ác nghiệp, có tội nhẹ, thì sau khi người ấy chết, ác nghiệp do uống rượu và các chất say ấy không có khả năng cho quả tái sinh, mà thiện nghiệp nào khác cho quả tái sinh trở lại làm người; thì cả hai trường hợp này người ấy sẽ còn phải chịu quả xấu của ác nghiệp do uống rượu và các chất say từ kiếp quá khứ. Trong Chú giải Khuddakapātha giảng giải về 30 quả xấu của ác nghiệp do uống rượu và các chất say từ kiếp quá khứ như sau: 1- Là người không biết những công việc đã làm, đang làm và sẽ làm. 2- Là người thường không có trí nhớ, hay quên mình. 3- Là người loạn trí, điên cuồng. 4- Là người không có trí tuệ. 5- Là người có tính lười biếng trong công việc. 6- Là người thường hay buồn ngủ. 7- Là người bị câm điếc từ khi đầu thai. 8- Là người si mê, ngu dốt. 9- Là người khó nhớ, dễ quên. 10- Là người có sự hiểu biết kém cỏi, dốt nát. 11- Là người có thân hình nặng nề chậm chạp. 12- Là người thường bị tai nạn. 13- Là người sầu não, khổ tâm. 14- Là người hay nói lảm nhảm. 15- Là người hay nói lời chia rẽ, nói lời thô tục, nói lời vô ích. 16- Là người có tính biếng nhác ngày đêm trong công việc nặng, nhẹ. 17- Là người không biết ơn và không biết đền ơn đối với người ân nhân của mình. 18- Là người không biết công việc đã làm xong. 19- Là người keo kiệt, bủn xỉn. 20- Là người không thích làm phước thiện bố thí đến cho người khác. 21- Là người không có giới, hoặc phạm điều giới. 22- Là người không chân thật, không ngay thẳng. 23- Là người hay sinh tâm sân hận. 24- Là người không biết hổ thẹn tội lỗi, khi làm ác. 25- Là người không biết ghê sợ tội lỗi, khi làm ác. 26- Là người có tà kiến hiểu lầm, chấp lầm trong mọi đối tượng. 27- Là người dám tạo mọi tội ác. 28- Là người không có trí tuệ, không hiểu rõ chân lý. 29- Là người không thể phát sinh trí tuệ. 30- Là người không biết phân biệt được sự lợi, sự hại, điều chánh, lẽ tà. Đó là 30 quả xấu của ác nghiệp do uống rượu và các chất say từ kiếp quá khứ. 5. 2 Quả thiện nghiệp của người giữ điều giới không uống rượu và các chất say Người nào giữ gìn ngũ giới trong sạch và trọn vẹn, trong đó có điều giới “có tác ý tránh xa sự uống rượu và các chất say”; sau khi người ấy chết, thiện nghiệp do không uống rượu và các chất say ấy cho quả tái sinh làm vị thiên nam hoặc thiên nữ trong cõi trời dục giới, hưởng mọi sự an lạc trong cõi trời ấy cho đến hết tuổi thọ. Sau khi chết ở cõi trời ấy, nếu trường hợp thiện nghiệp do không uống rượu và các chất say ấy cho quả tái sinh làm người trong cõi người. Và trường hợp, nếu sau khi người ấy chết, thiện nghiệp do không uống rượu và các chất say không cho quả tái sinh lên cõi trời dục giới, mà lại cho quả tái sinh trở lại làm người trong cõi người; thì cả hai trường hợp này người ấy sẽ có được quả báu tốt của thiện nghiệp do không uống rượu và các chất say từ kiếp quá khứ đáng hài lòng hoan hỷ. Trong Chú giải Khuddakapātha giảng giải về 30 quả báu tốt của thiện nghiệp do không uống rượu và các chất say từ kiếp quá khứ như sau: 1- Là người có trí tuệ sáng suốt, hiểu biết mau lẹ những công việc đã làm, đang làm và sẽ làm. 2- Là người thường có trí nhớ. 3- Là người không loạn trí, điên cuồng. 4- Là người có trí tuệ, thông minh, nhạy bén. 5- Là người có sự tinh tấn không ngừng. 6- Là hạng người có tam nhân (vô tham, vô sân, vô si) từ khi đầu thai. 7- Là người không bị câm điếc,… từ khi đầu thai. 8- Là người có trí tuệ sáng suốt, không mê muội. 9- Là hạng người không dể duôi trong mọi thiện pháp. 10- Là hạng người đa văn túc trí, học nhiều hiểu rộng. 11- Là người có thân hình đầy đủ, cân đối các bộ phận lớn nhỏ xinh đẹp. 12- Là người ít gặp tai nạn. 13- Là người ít có sầu não, khổ tâm. 14- Là người thường nói lời chân thật, đáng tin. 15- Là người không nói lời chia rẽ, không nói lời thô tục, không nói lời vô ích. 16- Là người có sự tinh tấn không ngừng ngày đêm trong mọi công việc thiện. 17- Là người có lòng biết ơn và biết đền ơn đối với người ân nhân của mình. 18- Là người hiểu biết những công việc đã làm. 19- Là người không có tính keo kiệt, bủn xỉn của cải của mình. 20- Là người có tâm hoan hỷ trong việc làm phước bố thí của cải đến cho người khác. 21- Là người có giới đầy đủ và trọn vẹn. 22- Là người trung thực với mình và mọi người. 23- Là người ít sinh tâm sân hận . 24- Là người biết hổ thẹn tội lỗi, không dám làm điều ác. 25- Là người biết ghê sợ tội lỗi, không dám làm điều ác. 26- Là người có chánh kiến thấy đúng, có khả năng thấy rõ, biết rõ thực tánh của các pháp. 27- Là người có nhiều phước thiện cao thượng. 28- Là người có nhiều trí tuệ, hiểu biết các pháp. 29- Là bậc thiện trí hiểu biết phân biệt được điều lợi, điều hại, điều chánh, lẽ tà,…. 30- Là bậc thiện trí biết sự lợi ích kiếp hiện tại, sự lợi ích kiếp vị lai, sự lợi ích Tối Thượng Niết Bàn. Đó là 30 quả báu tốt của thiện nghiệp do không uống rượu và các chất say từ kiếp quá khứ. Nhận Xét Về Nghiệp Và Quả Của Nghiệp Ngũ Giới Ngũ giới có 5 điều giới, là thường giới (niccasīla) đối với tất cả mọi người, không phân biệt tôn giáo, dân tộc, người có thọ trì ngũ giới hoặc người không có thọ trì ngũ giới. Hễ người nào phạm điều giới nào, thì người ấy đã tạo nên ác nghiệp điều giới ấy. Và hễ người nào giữ gìn ngũ giới trong sạch và đầy đủ trọn vẹn, thì người ấy đã tạo nên thiện nghiệp của mỗi giới. * Ác nghiệp và quả của ác nghiệp ngũ giới ─ Nếu ác nghiệp cho quả trong kiếp hiện tại, thì người ấy phải chịu khổ do bị mất mát nhiều của cải, do tiếng xấu lan truyền mọi nơi, tâm sợ sệt, rụt rè,... ─ Nếu ác nghiệp có cơ hội cho quả tái sinh kiếp sau, thì sẽ tái sinh trong 4 cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh) phải chịu quả khổ của ác nghiệp của mình đã tạo trong kiếp quá khứ, cho đến khi mãn quả của ác nghiệp ấy mới thoát ra khỏi cõi ác giới. ─ Ác nghiệp trọng tội (akusalagarukakamma) là ác nghiệp giết mẹ, giết cha, giết bậc Thánh Arahán, thuộc về ác nghiệp vô gián (ānantariyakamma). Nếu người nào phạm ác nghiệp vô gián nào, thì sau khi chết, chắc chắn ác nghiệp vô gián ấy cho quả tái sinh kiếp sau kế tiếp trong cõi đại địa ngục Avīci, mà không có nghiệp nào khác có thể ngăn cản được, phải chịu quả khổ thiêu đốt suốt thời gian lâu dài trong đại địa ngục ấy, cho đến khi mãn quả của ác nghiệp. * Thiện nghiệp và quả của thiện nghiệp ngũ giới ─ Nếu thiện nghiệp ngũ giới cho quả trong kiếp hiện tại, thì người ấy được an lạc do có được nhiều của cải, có tiếng tốt lành lan truyền khắp mọi nơi, có tâm dũng cảm không sợ sệt, rụt rè... ─ Nếu thiện nghiệp ngũ giới có cơ hội cho quả tái sinh kiếp sau, thì sẽ tái sinh làm người trong cõi người, hoặc tái sinh làm thiên nam (hoặc thiên nữ) trong 6 cõi trời dục giới, hưởng quả an lạc của thiện nghiệp mà mình đã tạo trong những tiền kiếp quá khứ, cho đến hết tuổi thọ. Trường hợp thiện nghiệp ngũ giới cho quả trong cõi người, có 2 thời kỳ: ─ Thời kỳ tái sinh (paṭisandhikāla) đó là sát-na đại quả tâm đầu tiên đầu thai vào lòng mẹ cùng với 3 sắc pháp: Thân (kāya), sắc nam tính hoặc sắc nữ tính (bhava) và sắc ý căn (hadayavatthu) tạo thành ngũ uẩn đầu tiên. ─ Thời kỳ kiếp hiện hữu (pavattikāla) đó là khoảng thời gian kể từ sau khi đã tái sinh, thai nhi được phát triển và tăng trưởng trong bụng người mẹ, đến ngày sinh ra đời và duy trì sinh mạng kiếp sống hiện tại cho đến lúc chết. Trong khoảng thời kỳ sau khi đã tái sinh, kiếp hiện hữu của mỗi người, tất cả mọi thiện nghiệp, mọi ác nghiệp đã được tích luỹ từ vô số kiếp trong quá khứ cho đến kiếp hiện tại này, nếu nghiệp nào có cơ hội cho quả thì nghiệp ấy cho quả của nó. Cho nên, khi thì thiện nghiệp cho quả an lạc; khi thì ác nghiệp cho quả khổ, trong suốt khoảng thời kỳ kiếp hiện hữu này. Trong bộ Chú giải Khuddakapātha có giảng giải về nghiệp và quả nghiệp ngũ giới như sau: Hễ phạm điều giới nào thì tạo ác nghiệp điều giới ấy và chịu quả xấu của ác nghiệp ấy. Hễ giữ gìn điều giới nào trong sạch thì tạo thiện nghiệp điều giới ấy và hưởng quả tốt lành của thiện nghiệp ấy. Quả của thiện nghiệp, ác nghiệp hoàn toàn trái ngược với nhau, được tóm lược như sau: 1- Sự Sát Sinh a) Phạm điều giới sát sinh, thì tạo nên ác nghiệp sát sinh và quả của ác nghiệp sát sinh có 23 điều xấu. b) Giữ gìn điều giới tránh xa sự sát sinh, thì tạo nên thiện nghiệp không sát sinh và quả của thiện nghiệp không sát sinh có 23 điều tốt. 2- Sự Trộm Cắp a) Phạm điều giới trộm cắp, thì tạo nên ác nghiệp trộm cắp và quả của ác nghiệp trộm cắp có 11 điều xấu. b) Giữ gìn điều giới tránh xa sự trộm cắp, thì tạo nên thiện nghiệp không trộm cắp và quả của thiện nghiệp không trộm cắp có 11 điều tốt. 3- Sự Tà Dâm a) Phạm điều giới tà dâm, thì tạo nên ác nghiệp tà dâm và quả của ác nghiệp tà dâm có 20 điều xấu. b) Giữ gìn điều giới tránh xa sự tà dâm, thì tạo nên thiện nghiệp không tà dâm và quả của thiện nghiệp không tà dâm có 20 điều tốt. 4- Sự Nói Dối a) Phạm điều giới nói dối, thì tạo nên ác nghiệp nói dối và quả của ác nghiệp nói dối có 14 điều xấu. b) Giữ gìn điều giới tránh xa sự nói dối, thì tạo nên thiện nghiệp không nói dối và quả của thiện nghiệp không nói dối có 14 điều tốt. 5- Sự Uống Rượu Và Các Chất Say a) Phạm điều giới uống rượu và các chất say, thì tạo nên ác nghiệp do uống rượu và các chất say và quả của ác nghiệp do uống rượu và các chất say có 30 điều xấu. b) Giữ gìn điều giới tránh xa sự uống rượu và các chất say, thì tạo nên thiện nghiệp do không uống rượu và các chất say và quả của thiện nghiệp do không uống rượu và các chất say có 30 điều tốt. (đã trình bày trong phần trước) Như vậy, kiếp sống của mỗi người như thế nào, khổ hoặc an lạc, giàu hoặc nghèo, đại trí hoặc thiểu trí, có thân hình đẹp hoặc xấu, v.v... hoàn toàn tùy thuộc vào quả của nghiệp mà chính mình đã tạo từ vô số kiếp trong quá khứ cho đến kiếp hiện tại này. Cho nên, vấn đề nghiệp và quả của nghiệp chỉ cần có đức tin (saddhā) mà thôi, không thể sử dụng trí tuệ (paññā) mà tư duy quán xét về nghiệp và quả của nghiệp, bởi vì nghiệp và quả của nghiệp là 1 trong 4 điều bất khả tư nghì (acinteyya) mà Đức Phật đã dạy cho các hàng Thanh Văn đệ tử. Thật ra, chỉ có Đức Phật Toàn Giác mới có khả năng thấy rõ, biết rõ nghiệp và quả của nghiệp của chúng sinh mà thôi, còn các bậc Thanh Văn, dù là bậc Thánh Arahán cũng không thể biết rõ mọi nghiệp và quả của nghiệp của tất cả chúng sinh được. Cho nên, đối với các hàng Thanh Văn cần phải có đức tin rằng: “Kammassako’mhi kammadāyādo kammayoni kammabandhu kammappaṭisaraṇo, yaṃ kammaṃ karissāmi kalyānaṃ vā pāpakaṃ vā, tassa dāyādo bhavissāmi”([2]). (Ta có nghiệp là của riêng, ta là người thừa hưởng quả của nghiệp, nghiệp là nhân sinh ra ta, nghiệp là bà con thân quyến của ta, nghiệp là nơi nương nhờ của ta. Ta tạo nghiệp nào: “Thiện nghiệp hoặc ác nghiệp”, ta sẽ là người thừa hưởng quả của thiện nghiệp hoặc ác nghiệp ấy). Người nào có đức tin nơi nghiệp và quả của nghiệp, người ấy thuộc hạng người có chánh kiến về nghiệp của mình (kammassakatā sammādiṭṭhi) Người nào không có đức tin nơi nghiệp và quả của nghiệp, mà tin nơi không đáng tin, người ấy thuộc hạng người tà kiến. Nghiệp và quả của nghiệp rất công bằng, nếu nghiệp nào có cơ hội cho quả, thì nghiệp ấy cho quả của nó, mà không hề thiên vị một ai, thậm chí cả Đức Phật và chư Thánh Arahán. Dù ai có tin hoặc không tin nghiệp và quả của nghiệp, khi nghiệp nào có cơ hội cho quả, thì nghiệp ấy vẫn cho quả của nó một cách tự nhiên. Đức Phật dạy câu kệ rằng: “Yādisaṃ vapate bījaṃ, tādisaṃ harate phalaṃ. Kalyāṇakārī kalyānaṃ, pāpakārī ca pāpakaṃ”([3]) “Người nào gieo hạt giống thế nào, Người ấy gặt quả như thế ấy. Người hành thiện thì được quả thiện, Người hành ác thì chịu quả ác”. Như vậy, muốn quả thiện như thế nào, thì nên tạo thiện nghiệp như thế ấy. Không muốn quả ác như thế nào, thì chớ nên tạo ác nghiệp như thế ấy. Đó là lẽ công bằng của nghiệp và quả của nghiệp. Cho nên, nghiệp và quả của nghiệp không hề thiên vị một ai cả. Tầm Quan Trọng Của Ngũ Giới Sự an lạc hoặc sự khổ não của mỗi người tại gia trong kiếp sống hiện tại và trong những kiếp vị lai, hoàn toàn tùy thuộc vào cơ bản ngũ giới. Cho nên, ngũ giới có một tầm quan trọng rất lớn trong đời sống của người tại gia. Nên tìm hiểu trong bài kinh Verasutta(1), mà Đức Phật thuyết dạy ông phú hộ Anātha-piṇḍika, được tóm lược như sau: Một thuở nọ, ông phú hộ Anāthapiṇḍika đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn xong, ngồi một nơi hợp lẽ; khi ấy, Đức Thế Tôn thuyết dạy ông phú hộ Anāthapiṇḍika rằng: ─ Này ông phú hộ, người tại gia chưa từ bỏ được 5 điều oan trái gọi là người không có giới, người phạm điều giới, sẽ tái sinh trong cõi địa ngục. 5 điều oan trái ấy như thế nào? 5 điều oan trái ấy là sự sát sinh, sự trộm cắp, sự tà dâm, sự nói dối, sự uống rượu và các chất say là nhân sinh dể duôi trong mọi thiện pháp. ─ Này ông phú hộ, người tại gia chưa từ bỏ được 5 điều oan trái này, gọi là người không có giới, người phạm điều giới, sẽ tái sinh trong cõi địa ngục. ─ Này ông phú hộ, người tại gia đã từ bỏ được 5 điều oan trái này, gọi là người có giới, sẽ tái sinh cõi thiện dục giới ([4]). 5 điều oan trái ấy như thế nào? 5 điều oan trái ấy là sự sát sinh, sự trộm cắp, sự tà dâm, sự nói dối, sự uống rượu và các chất say là nhân sinh dể duôi trong mọi thiện pháp. ─ Này ông phú hộ, người tại gia đã từ bỏ được 5 điều oan trái này, gọi là người có giới, sẽ tái sinh trong cõi thiện dục giới . - Này ông phú hộ, người tại gia phạm tội sát sinh, thì sẽ gặp điều tai hại, oan trái cả trong kiếp hiện tại lẫn nhiều kiếp trong vị lai, sẽ chịu cảnh khổ thân, khổ tâm, bởi vì nguyên nhân sát sinh. Người tại gia đã tránh xa sự sát sinh, thì sẽ không gặp tai hại, oan trái ấy cả trong kiếp hiện tại lẫn nhiều kiếp trong vị lai, sẽ không bị khổ thân, khổ tâm, bởi vì đã tránh xa sự sát sinh là tránh được tai hại, oan trái ấy. - Này ông phú hộ, người tại gia phạm tội trộm cắp, thì sẽ gặp điều tai hại, oan trái cả trong kiếp hiện tại lẫn nhiều kiếp trong vị lai, sẽ chịu cảnh khổ thân, khổ tâm, bởi vì nguyên nhân trộm cắp. Người tại gia đã tránh xa sự trộm cắp, thì sẽ không gặp tai hại, oan trái ấy cả trong kiếp hiện tại lẫn nhiều kiếp trong vị lai, sẽ không bị khổ thân, khổ tâm, bởi vì đã tránh xa sự trộm cắp là tránh được tai hại, oan trái ấy. - Này ông phú hộ, người tại gia phạm tội tà dâm, thì sẽ gặp điều tai hại, oan trái cả trong kiếp hiện tại lẫn nhiều kiếp trong vị lai, sẽ chịu cảnh khổ thân, khổ tâm, bởi vì nguyên nhân tà dâm. Người tại gia đã tránh xa sự tà dâm, thì sẽ không gặp tai hại, oan trái ấy cả trong kiếp hiện tại lẫn nhiều kiếp trong vị lai, sẽ không bị khổ thân, khổ tâm, bởi vì đã tránh xa sự tà dâm là tránh được tai hại, oan trái ấy. - Này ông phú hộ, người tại gia phạm tội nói dối, thì sẽ gặp điều tai hại, oan trái cả trong kiếp hiện tại lẫn nhiều kiếp trong vị lai, sẽ chịu cảnh khổ thân, khổ tâm, bởi vì nguyên nhân nói dối. Người tại gia đã tránh xa sự nói dối, thì sẽ không gặp tai hại, oan trái ấy cả trong kiếp hiện tại lẫn nhiều kiếp trong vị lai, sẽ không bị khổ thân, khổ tâm, bởi vì đã tránh xa sự nói dối là tránh được tai hại, oan trái ấy. - Này ông phú hộ, người tại gia phạm tội uống rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện pháp, thì sẽ gặp điều tai hại, oan trái cả trong kiếp hiện tại lẫn nhiều kiếp trong vị lai, sẽ chịu cảnh khổ thân, khổ tâm, bởi vì nguyên nhân uống rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện pháp. Người tại gia đã tránh xa sự uống rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện pháp, thì sẽ không gặp tai hại, oan trái ấy cả trong kiếp hiện tại lẫn nhiều kiếp trong vị lai, sẽ không bị khổ thân, khổ tâm, bởi vì đã tránh xa sự uống rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện pháp là tránh được tai hại, oan trái ấy. Đức Phật thuyết bài kệ: “Người nào trong đời tạo ác nghiệp. Sát hại sinh mạng của chúng sinh, Trộm cắp tài sản của người khác, Thường nói dối không biết hổ thẹn, Tà dâm với vợ, chồng người khác, Thường uống rượu và các chất say, Người ấy chưa tránh năm oan trái. Gọi là người ác không có giới, Là người si mê trước lúc chết, Sẽ tái sinh trong cõi địa ngục. Người nào trong đời tạo thiện nghiệp. Không sát hại sinh mạng chúng sinh, Không trộm cắp của cải người khác, Không tà dâm với vợ, chồng người, Không uống rượu và các chất say, Người ấy đã tránh năm oan trái. Gọi là người thiện trí có giới, Có trí tuệ trước lúc lâm chung, Sẽ tái sinh cõi thiện dục giới”. Người Ác - Người Thiện Danh từ người ác - người thiện được chế định ra để gọi do căn cứ vào ngũ giới và nghiệp. Người nào phạm ngũ giới, tạo ác nghiệp người ấy bị gọi là người ác. Và người nào giữ gìn ngũ giới trong sạch trọn vẹn, tạo thiện nghiệp người ấy được gọi là người thiện. Người nào tự mình phạm ngũ giới, tạo nên ác nghiệp, còn động viên, sai khiến người khác cùng phạm ngũ giới, tạo ác nghiệp, người ấy bị gọi là người ác hơn người ác. Và người nào tự mình giữ gìn ngũ giới trong sạch, tạo thiện nghiệp, còn động viên khuyến khích người khác cùng giữ gìn ngũ giới trong sạch, tạo thiện nghiệp, người ấy được gọi là người thiện hơn người thiện. Trong bài kinh Sikkhapadasutta([5]), Đức Phật dạy rằng: ─ “Này chư Tỳ khưu, Như Lai sẽ thuyết giảng về người ác, và người ác hơn người ác; người thiện, và người thiện hơn người thiện. Các con hãy lắng nghe, nên chú tâm lắng nghe”. Chư Tỳ khưu vâng lời Đức Thế Tôn, chú tâm lắng nghe lời giáo huấn của Đức Thế Tôn. * Người ác - người ác hơn người ác: Đức Thế Tôn dạy rằng: ─ “Này chư Tỳ khưu, thế nào gọi là người ác? ─ Này chư Tỳ khưu, trong đời này, số người là người sát sinh, người trộm cắp, người tà dâm, người nói dối, người uống rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện pháp. Này chư Tỳ khưu, Như Lai gọi số người ấy là người ác. ─ Này chư Tỳ khưu, thế nào gọi là người ác hơn người ác? ─ Này chư Tỳ khưu, trong đời này, số người tự mình sát sinh, còn động viên, khuyến khích, sai khiến người khác cùng sát sinh. - Số người tự mình trộm cắp, còn động viên, khuyến khích, sai khiến người khác cùng trộm cắp. - Số người tự mình tà dâm, còn động viên, khuyến khích, sai khiến người khác cùng tà dâm. - Số người tự mình nói dối, còn động viên, khuyến khích, sai khiến người khác cùng nói dối. - Số người tự mình uống rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện pháp, còn động viên, khuyến khích, sai khiến người khác cùng uống rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện pháp. ─ Này chư Tỳ khưu, Như Lai gọi số người ấy là người ác hơn người ác. * Người thiện - người thiện hơn người thiện: Đức Thế Tôn dạy rằng: ─ Này chư Tỳ khưu, thế nào gọi là người thiện? ─ Này chư Tỳ khưu, trong đời này, số người là người tránh xa sự sát sinh, người tránh xa sự trộm cắp, người tránh xa sự tà dâm, người tránh xa sự nói dối, người tránh xa sự uống rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện pháp. Này chư Tỳ khưu, Như Lai gọi số người ấy là người thiện. ─ Này chư Tỳ khưu, thế nào gọi là người thiện hơn người thiện? ─ Này chư Tỳ khưu, trong đời này, số người tự mình tránh xa sự sát sinh, còn động viên, khuyến khích người khác cùng tránh xa sự sát sinh. - Số người tự mình tránh xa sự trộm cắp, còn động viên, khuyến khích người khác cùng tránh xa sự trộm cắp. - Số người tự mình tránh xa sự tà dâm, còn động viên, khuyến khích người khác cùng tránh xa sự tà dâm. - Số người tự mình tránh xa sự nói dối, còn động viên, khuyến khích người khác cùng tránh xa sự nói dối. - Số người tự mình tránh xa sự uống rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện pháp, còn động viên, khuyến khích người khác cùng tránh xa sự uống rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện pháp. ─ Này chư Tỳ khưu, Như Lai gọi số người ấy là người thiện hơn người thiện. Ngũ Giới Với Con Người Ngũ giới là cơ bản của con người, những người được sinh ra trong cõi người này, chắc chắn kiếp trước ít nhất đã có ngũ giới trong sạch và trọn vẹn. Thật vậy, nếu kiếp trước không có giới, phạm giới, thì kiếp hiện tại này chắc chắn không thể tái sinh được làm người như thế này! Như vậy, đã được tái sinh làm người, thì người ấy vốn dĩ có ngũ giới trong sạch đã được tích lũy từ kiếp quá khứ. Trong kiếp hiện tại, nếu người nào không có giới, phạm giới, làm mất phẩm chất cao quý của con người, thì người ấy không chỉ lãnh chịu những hậu quả tai hại trong kiếp hiện tại, mà còn phải chịu hậu quả tai hại trong nhiều kiếp vị lai, do ác nghiệp ấy cho quả tái sinh trong cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh) chịu quả khổ cho đến khi mãn quả ác nghiệp ấy, mới mong thoát khỏi cõi ác giới. Trong kiếp hiện tại, nếu người nào giữ gìn ngũ giới trong sạch và trọn vẹn là giữ gìn phẩm chất cao quý của con người, thì người ấy không những hưởng được những quả báu tốt lành trong kiếp hiện tại, mà còn hưởng được những quả báu tốt lành trong nhiều kiếp vị lai, do nhờ thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh trong cõi thiện dục giới (cõi người, cõi trời dục giới) hưởng được mọi sự an lạc trong cõi ấy; đặc biệt còn có thể tạo mọi pháp hạnh ba-la-mật để tạo duyên lành trên con đường giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài nữa. [1] Aṅguttaranikāya, phần Pañcakanipāta, kinh Sīlasutta. [2] Aṅguttaranikāya trong kinh Abhiṇhasutta. [3] Saṃyuttanikāya, phần Sagāthavagga. [1] Aṅguttaranikāya, phần Pañcakanipāta, kinh Verasutta. [4] Cõi thiện dục giới : Cõi người, cõi trời dục giới … [5] Aṅguttaranikāya Catukanipāta, kinh Sikkhapadasutta. |
[Ðầu trang][Trở về trang Mục Lục][Trở về trang Thư Viện]
updated: 2007