“Trang viện họ Thạch ở về ngoại ô
thành Ba-la-nại, kiến trúc theo lối cổ, thời A-dục. Bố cục kết cấu, phương vị,
góc cạnh, đường nét, hình thể không tìm thấy là chỉ duy một nền văn minh nào.
Hình như là cả một công trình tổng hợp, ẩn tàng nhiều triết lý sâu xa.
Nhìn tổng quát trang viện ta thấy có
rất nhiều hình tròn to nhỏ khác nhau, nằm kề bên những hình thể khác nhau. Và
chung quanh đa diện là những hình đá chạm nổi chư thần và chư thiên. Chính giữa
trang viện được đưa nhô lên cao theo lối hình tháp - nhô lên cao rồi thắt eo
lại. Ở vị trí hầu như cực tiểu đó, phóng vọt lên một hình tháp thứ hai, cao
chớn chở rồi lơ lửng bên hông một khối tròn. Cái cực đại ở đây hầu như
được bế lại, giảm trừ do
một tượng thần nữ Kàlì bốn tay hai mặt. Một tay cầm thanh gươm, một tay xách sọ
người - như án ngữ con đường truyền thông, liên lạc với không gian. Chính sự có
mặt của thần Kàlì ở đây - như là một
phản kháng siêu hình, nói lên một cái gì “không được hình thành, phải bị
dang dở”. Vì, thay vì khối tròn phải được tiếp giao ở một trụ thẳng nhọn, lên
cao - “bắt buộc” như vậy theo lối kiến trúc Nam phương. Kết cấu toàn bộ kiến
trúc là cổ truyền, nhưng những đường nét hoàn toàn bị pha trộn bởi những hình
thoi, hình tam giác, đa giác, vay mượn đặc chế của nền văn minh Hy Lạp - tạo
nên một sắc thái đặc thù dày công sáng tạo.
Chầu xung quanh tháp chính là những
toà nhà nhỏ, án ngữ theo phương vị của chòm sao đại hùng tinh. mỗi con sao là
những hình khối bát giác nằm trên những nền hình vuông. Tháp cũng thắt eo lại,
nở ra khôi tròn. Một con rồng vàng ôm quanh khối tròn rồi vươn móng chới với ra
giữa không gian. Phương là hình vuông, viên là hình tròn. Phương ở dưới, viên ở
trên - rõ ràng là mô phỏng hình dáng con Rùa (lưng tròn bụng vuông) của vua
Thần Hy trong huyền sử kinh dịch Trung Hoa. Hình tròn là thái cực. Rồng là một
con vật thiêng liêng tượng trưng cho sự tương giao hoà bình giữa âm dương, kiền
và khôn, con người và đạo - vì thủy tổ của rồng là rắn (Xà hóa Long). Rắn ở
dưới đất, rồng ở trên trời. Rồng và thái cực là của văn minh cực đông - nhưng
rồng mà ôm thái cực cũng là một phản kháng siêu hình khác, nếu không muốn nói
là ngạo
khí của một
sinh vật hữu hạn muốn ôm
tròn vô hạn?
Hai phản kháng siêu hình nói lên một
thực tại cực kỳ mâu thuẫn: sự hữu hạn không bao giờ được phép vươn lên vô hạn
(Thần hủy diệt đứng án ngữ con đường truyền thông). Và sự hữu hạn (khi đã thâm
hội mật nghĩa hòa bình âm dương tượng trưng là rồng) thì có thể ôm gọn lỏn vô
hạn (thái cực) ở trong lòng.
Còn tượng trưng của chòm sao đại hùng
tinh và bắc đẩu là gì? Hướng bắc có phải là cội nguồn của sắc tộc Aryen, của
giới cấp bà-la-môn được ân sủng của thánh kinh Vệ-đà, từ phương bắc đổ xuống
xâm lấn dân bản xứ Dravidien? Hướng bắc là hãy trở về nguồn, ai trở về nhà nấy,
hay mỗi người hãy tự trở về nguồn cội? Hay hơn thế nữa, khêu gợi một sự thăm dò
tận nguyên tính? Ý thức cái quê hương sơ thủy đã rơi mất của mỗi hiện hữu?
Còn một mật nghĩa nào về hướng bắc nữa
không? Các rợ Mãn, Mông, Nguyên, Thanh xâm lấn bình nguyên Trung Hoa, chiếm lấy
nền văn minh nông nghiệp của Phục Hy, Thần Nông, Kinh dịch - để bây giờ các dân
tộc phương đông thuở xưa cùng một gốc nguồn, không còn nhìn thấy anh em cùng
thủy tổ?
Một sự phân hóa do óc chinh phục thiên
nhiên - chinh phục chứ không phải là hài hòa - để tạo nên các trạng thái phân
ly giữa con người và thiên nhiên, giữa con người và xã hội, giữa tự thể và tha
thể?
“Dương
trung hữu âm căn, âm
trung hữu dương căn”, do
vậy, dương là cái mạnh hình thức bên ngoài mà yếu cái bên trong, còn âm có nội
lực vững vàng bên trong (dương) mà yếu cái bên ngoài. Trở về bắc cũng là một
phản kháng siêu hình khác nữa: Đảo lộn toàn bộ sự vận hành của vũ trụ. Mà vũ
trụ tất không thể đảo lộn, nó “như vậy là như vậy” từ vô thỉ đến vô chung. Vậy
thì đây có phải là “đảo lộn lại cái nhìn”? Cái nhìn của tuệ giác, ở một cấp độ
nào đó của tâm linh, lội ngược dòng, nhìn ngược chiều - lật ngược tất cả mọi tư
duy, quan kiến, thói quen, kinh nghiệm, truyền thống, lịch sử, thời đại, hiểu
biết - để đến bờ kia, xuất ra ngoài cái không thể xuất vừa tại vừa siêu, sinh
diệt mà hữu tồn, không mà tức sắc?
Mười tám năm rồi, kiến trúc của toàn
bộ trang viện để lại không biết bao nhiêu dấu hỏi trong óc mọi người. Trên kia
là những câu trả lời, những luận giải hoặc là những nghi vấn của một vài thức
giả có thẩm quyền về kiến thức. Vì trang chủ là một nhà đạo đức, thông thái;
cùng người bạn của ông ta, kẻ kiến tạo ra nó là một điêu khắc gia, một kiến
trúc sư, một nghệ sĩ, một
nhà thơ, một hành giả Yogi
- những nhân vật như vậy không thể tạo tác một công trình vô ý nghĩa! Mà ý
nghĩa ở “đại thể” thì nhìn thấy, nhìn ở phương vị nào cũng thấy, cấp độ tâm
linh nào cũng thấy, nhưng đi vào từng
phần chi
tiết, từng cá thể, từng bộ phận thì mông lung mờ mịt - không biết nó
tượng trưng cho cái gì, nói lên cái gì - đôi khi trông có vẻ rời rạc và thừa
thải nữa. Có những hiện hữu trông có vẻ tương quan với nhau, nhưng đồng thời
chúng cũng có vẻ phủ nhận nhau. Vừa chấp nhận vừa chối bỏ! Không có thể xác
định một hiện hữu ở ngoài mọi tương quan, nhưng đồng thời, từng bộ phận riêng
lẽ vẫn hàm tàng một cái gì độc lập, tự chủ, riêng là nó, tự nó đã có ý nghĩa
đặc thù, nói lên ý nghĩa cá biệt!
Dấu hỏi to lớn hơn là hình như công
trình của tòa trang viện chưa hẳn là đã hoàn bị! Ở mỗi nơi hình như còn thiếu
cái gì đó mà không biết thiếu cái gì. Nếu một nghệ sĩ giàu óc tưởng tượng thì y
có thể tùy ý ghép thêm vào tòa kiến trúc bất cứ hình thể nào, đường nét gì - mà
tòa kiến trúc vẫn không vì thế bị sai lệch ý nghĩa. Từ một ý nghĩa cố định nó
khơi mở biết bao nhiêu ý nghĩa khác - nó là vậy nhưng không chắc chắn là phải
vậy, nó có thể khác - Đấy là bài toán nhức óc của tòa trang viện họ Thạch - mà
chưa có lời giải nào là sai cũng chưa có lời giải nào là đúng.
Đã mười tám năm rồi.
Một
đêm kia,
trang chủ
họ Thạch gọi con trai đến nói chuyện:
- Con ạ! Đã mười tám năm nay, cha đợi
chờ phút giây nầy - phút giây con đúng mười tám tuổi - để kể lại
một chuyện
xưa. Chuyện
xưa nhưng
mà nay, nhưng
mà còn
mãi. Con
yêu quý, hãy
lắng nghe!
Con trai trang chủ là một thanh niên
mặt ngọc, nước da xanh, ốm yếu, mảnh mai, đặc biệt là có đôi mắt rất sáng -
lóng lánh như có thần - Y chăm chú nhìn cha, lễ độ, im lặng.
- Con có khả năng về hội họa. Hội họa
chỉ là sự mô phỏng thiên nhiên, bắt chước công trình sáng tạo của thần Bràhma.
Ở phương diện ấy, hội họa mang ý nghĩa siêu hình: giữa con người với đời sống
tại thế hữu hạn, sự diễn đạt khuôn đọng và hữu hạn - cùng thiên nhiên với sự
bao la chớn chở, siêu nhiên, xuất thế và vô hạn của nó. Nói theo thuật ngữ
truyền thống Vệ-đà là giữa Atman và Bràhman, giữa tiểu ngã và đại ngã. Cả hai
bên có sự liên hệ với nhau như thế nào? Đó là bước lần tìm của triết học, của
tôn giáo, cũng là chất liệu gợi hứng vô biên cho các nghệ sĩ gia về điêu khắc,
hội họa, văn chương, thi ca…
Như con thấy, công trình của tòa trang
viện này được sinh ra trong tinh thần đó, thuở cha mẹ vừa hứa hôn. Người sáng
tạo là một nghệ sĩ uông việt, tài hoa, một nhà
tư tưởng và cũng là một
hành giả Yogi danh tiếng lẫy lừng. Y như là một con người toàn diện. Cha có một
người bạn như vậy cũng hãnh diện, suốt một đời, hay còn hơn thế nữa.
Con ơi! Một đêm kia, sau cuộc đàm đạo
giữa chúng ta, lão nghệ sĩ nói với cha rằng:
- Thạch lão đệ! Chúng
ta là những hiện hữu bất toàn trong thế giới bất toàn. Nhưng nhờ bất
toàn thế giới mới vĩnh cửu. Từ xưa đến nay, Thạch lão đệ có thấy một vĩ nhân,
một siêu nhân nào để lại đời đời một tác phẩm bất toàn chưa? Bất toàn trong ý
nghĩa “thành tựu cái bất toàn” chứ không phải chịu ở dưới định luật bất toàn?
- Xin lão huynh chỉ giáo?
- Mọi công trình, sáng tạo phẩm của
nhân loại đều đã thành hình, đã hoàn tất? Đấng giáo chủ nào đó đã hoàn tất một
hệ thống giáo lý. Đấng đạo sư nào đó đã hết bổn phận dẫn dắt môn đồ. Nhà giáo
dục khởi thảo xong một quy chế,một chương trình đào tạo. Một người cha đã hết
trách nhiệm với người con. Nhà văn buông bỏ cái bút xuống sau một tác phẩm dài
ngày. Ta vừa xong một cuộc đàm đạo. Đứa tớ gái đã nấu xong một bữa cơm… Phải
thế? Phải thế? Tất cả đều ước mong đi về cái hoàn tất, cái thành tựu. Dù được
hay không được, nhân loại cũng chạy đua về cái hoàn tất ấy. Họ bảo, chỉ có điều
ấy mới nói lên giá trị tại thế trong
tương quan giữa con người và lịch sử…!Một cơn mưa đã tạnh.
Mặt trời đã gác
sau chân núi. Cây cối đã
cho hoa và lá trong mùa xuân. Con rùa biển đã sinh xong trứng giữa bãi cát…
Phải thế? Phải thế? Vì tất cả đã hoàn tất nên sau đó là sự chết! Phải, nếu
không là sự chết thì cũng là những trạng thái gì tương tự như thế!
Là những cái gì tiếp diễn ngay sau đó. Là sự suy đồi, là thoái hóa, là
hỗn loạn, là ly biệt, là xa căn, một chuyển trạng, sự buồn nản, cái no ứ, màu
vàng, cằn cỗi, tử vong và đau khổ… Phải mà! Sau cái hoàn tất là sự trống rỗng,
cái thất nghiệp, cái thơ thẩn khi không có việc gì làm…, là gì đi nữa thì cũng
hàm ẩn ý nghĩa tương tự: sự chết!
Lão đệ ơi! Cái thế giới này thật kỳ
lạ! Nó màyà làm sao ấy! Nó luôn luôn tập trung nỗ lực, ý chí chiến đấu để đạt
mục đích: cái hoàn toàn. Nhưng khi đạt cái hoàn toàn là gì? Là sự chết! Chân lý
của nó là gì? Tranh đua để đi tìm cái chết! Không kỳ lạ sao chứ? Thế giới này
nó như vậy đấy! Vô ích, vô vọng và xuẩn ngốc như vậy đấy!
Con ơi! Lão nghệ sĩ đã làm kích động
tâm ta dữ dội... Cái nhìn của lão kỳ dị quá. Lão đã làm sáng lại kinh điển, cái
sự sống và cái bề sâu. Có cái gì quá mới mẻ phía sau ngôn ngữ ấy làm cho ta run
lên, hốt hoảng. Ta không biết mình đang đứng ở đâu, hiện hữu ở thế giới nào?
Ôi! Ta chân không và ngộp thở.
Qua
thời gian uống cạn một
chung trà, đôi mắt lão nghệ sĩ sáng rực lên, người lão như to lớn hơn,
giọng nói xuyên sâu hơn, như một mũi tên lao thẳng vào vùng tâm linh dày đặc
của ta! Ôi! Tiếng nói ấy!
- Bổn phận cuối cùng và tột bực của nghệ sĩ là “lao thẳng vào dòng sống
bất tử, uống cạn giọt nước đầu nguồn”, tạo cái sinh động nhịp nhàng cho thế
giới tĩnh chỉ, ngưng đặc của hiện hữu.
Lão nghệ sĩ lại im lặng, khoảng cách
im lặng chỉ như vừa đủ thời gian ngưng tắt của một gợn sóng trên mặt hồ.
Lão đệ ơi! Có những khi ta đứng rất
lâu nhìn vào một khoảng mờ trên đỉnh núi - khoảng mờ do sương, tuyết hoặc mây.
Khoảng mờ ấy được dấu kín và óc tưởng tượng của ta được tự do bay nhảy, luận
lý, dự đoán, phỏng chừng, xác định! Thế giới đó vì là thế giới chưa biết - nên
thật là muôn màu và vô hạn! Phải vậy không? Thế giới ấy không bao giờ chết, nó
sống mãi, nó sống mãi theo với cái óc tưởng tượng của con người! Óc tưởng tượng
của con người phong phú chừng nào, phức tạp chừng nào - thì thế giới ấy cứ y
như vậy được sinh ra… sinh ra mãi… vô cùng vô tận… Và ta cũng được thẩm quyền
tranh cãi với nhau mà không ai dám bảo người khác sai, cũng chẳng dám khẳng
định là mình đúng. Nếu thật sự có người đã đến nơi vén mở khoảng mờ ấy - nếu
quả có điều đó thật – thì y cũng ra đi với sự bí mật trong lòng, vì nếu có năm
kẻ mù sờ voi thì y cũng chỉ là kẻ
mù thứ sáu thôi - thế gian sẽ bảo y như thế!
Một tòa kiến trúc, một tác phẩm - giá
trị ở chính khoảng mờ, hoặc là cái không hiện hữu lộ liễu, trần truị
mà người
ta có
thể chụp bắt
được bằng
giác quan. Phía sau đời sống, là khoảng mờ ấy. Là sự chết. Ta không biết
gì về phía đằng sau nó cả. Ôi! Vì vậy mà nó mới vĩnh cửu, hấp dẫn và lôi cuốn
xiết bao!
Con ạ! Khi ấy ta không hiểu rõ ràng
lắm những điều lão nghệ sĩ nói. Những lý luận của lão nghệ sĩ quá thiên về tổng
hợp, nên cũng mù mờ như chính cuộc đời mù mờ của lão. Ta hoàn toàn không chụp
bắt được khoảng mờ ấy!
- A... ha... ha...! Nhưng phía sau các
cuộc hoàn tất là sự chết, đồng thời không là sự sống sao? Một giáo lý, một chế
độ chính trị, một tác phẩm, một bữa cơm, chiếc trứng của rùa trên hoang đảo? Ấy
không là bắt đầu những sinh hoạt trần gian sao? Không là sự sống sao? Ôi! Bí
mật ở đấy, mầu nhiệm ở đấy mà màyà cũng chính là ở đấy!
- Thạch lão đệ! Ai cũng làm cái việc
hoàn thành thì lão sẽ để lại một tác phẩm “không hoàn thành”! Ai cũng khổ cầu
cái hoàn toàn thì lão sẽ để lại một tác phẩm bất toàn! Hà… hà! Trước khi “trở
về nguồn cội”, thì ta sẽ: “Thành
tựu một cái
bất toàn, nói lên giá trị
bất toàn trong cái toàn thể bất toàn. Ấy là cái mà bên Phật giáo có vị Phật gọi
là Bất Không Thành Tựu Như Lai vậy...”
Nhưng… Hỡi ôi!
Kể đến ngang đó, trang chủ họ Thạch im
lặng một cách đột ngột. Người thiếu
niên anh tuấn bỡ ngỡ nhìn cha,
thấy trong đôi mắt của lão trang chủ ứa ra hai hàng lệ đỏ. Y kính trọng niềm
xúc động ấy của cha nên không tò mò hỏi han gì. Lặng lẽ, chờ đợi…
- Lão nghệ sĩ giữ đúng lời hứa, nghĩa
là trang viện này được thành tựu trong ý nghĩa “không thành tựu”. Nhưng hỡi ôi!
Cũng chính vì thành tựu “cái bất toàn” đó nên lão nghệ sĩ đã ra đi. Đã ra đi
vĩnh viễn.
Người thiếu niên anh tuấn hai mắt chợt
sáng lên, lóng lánh một cách kỳ lạ, nhưng chỉ một thoáng sau đã trở lại bình
thường. Y vẫn không hề hỏi một tiếng nào!
- Trang viện được khánh hạ đúng vào
ngày cha mẹ thành hôn. Người ta đến dự lễ rất đông. Hình như có đủ cả các giới
tai mắt thành Ba-la-nại, một phần vì nể lời mời của cha, một phần là để chiêm
ngưỡng công trình kiến trúc kỳ dị của lão nghệ sĩ. Trong lúc mọi người đang
trầm trồ bàn tán, khen cái đường nét này, thắc mắc cái bố cục kia… thì lão nghệ
sĩ từ trên lầu cao chạy xuống, khuôn mặt tái xanh, thở hổn ha hổn hển.
Lão chạy
tới chạy
lui, nhìn
phía bên này tháp, nhìn
phía bên kia tháp, rồi đột ngột la lớn:
- Ta phải làm cho nó “không được thành
tựu”, ta phải làm cho nó “đúng thực là bất toàn”.
Chẳng ai hiểu ý lão nghệ sĩ muốn nói
gì. Khi ấy lão đang cầm trong tay một cái búa lớn, ý chừng như đang định đập
phá một cái gì! Mọi người hốt hoảng đổ xô lại hỏi nguyên cớ hoặc tìm cách ngăn
cản. Cha đến gặp lão đúng lúc ấy Lão nói chậm rãi, tỉnh trí, sáng suốt:
- Ta đã phản bội thần Shìva, đồng thời
lại phản bội luôn cả thần Vichnou. Lão đệ ơi! Đáng lý ra ta không còn trở lại
trần gian này nữa, bởi không còn việc để làm, bởi tâm thức không hề còn mảy may
dính líu một sự việc gì đang còn dang dở. Ân oán giang hồ, tình nghĩa áo cơm ta
đã hoàn tất. Ta cứ tưởng là tâm ta đã niết-bàn. Nhưng hỡi ôi! Bây giờ thì hỏng
rồi! Ta phải trở lại trần gian mất thôi. Ta phải trở lại để làm lại từ đầu. Từ
đầu, nghĩa là tiếp tục lại cái gì đang còn dang dở! Thành tựu cái bất toàn!
Nhưng thật ra - đã gọi là bất toàn thì làm sao thành tựu? Vậy mà ta lại đã tự
đắc ngông cuồng muốn thành tựu cái bất toàn! Ôi! Khôi hài chưa? Ngu xuẩn chưa?
Lý luận đã làm cho ta tử sinh. Trí thức đã làm cho ta luân hồi. Sự khôn ngoan
đã làm cho ta vô minh, dại dột.
Lão nghệ sĩ lả ra trong tay mọi người.
Chẳng mấy người hiểu rõ cái thâm sâu vô lượng trong cái ưu tư của lão nghệ sĩ.
Sau khi được cứu tỉnh, Lão lại đứng đăm đăm
nhìn trang viện, nhìn không chớp
mắt. Lão đứng bất động như vậy rất lâu.
Con ơi! Cha rất ăn năn là không được
gặp lão nghệ sĩ lần cuối cùng. Cả
ngày hôm
đó cha phải bận bịu với rất
nhiều lễ lượt
phiền phức, tiếp đón khách khứa, họ hàng, cho đến khi công việc tạm
ngưng dứt thì gia nhân cho biết là lão nghệ sĩ đã ra đi. Lão gởi lời vĩnh biệt!
Lão vào rừng? Vào non cao động vắng để ẩn tích mai danh? Vào sơn cùng thủy tận
để thành tựu đạo lớn? Nào ai biết được. Nhưng quả thật, con ơi, từ độ ấy, cha
đã mất đi một người bạn khả kính! Một người bạn mà, từ tuổi tác đến đức hạnh,
đến trí tài, đều đáng bậc huynh trưởng hay hơn thế nữa: bậc thúc phụ!
Bí mật, nguyên do của sự ra đi của lão
nghệ sĩ còn ẩn kín đến nay. Chẳng biết là có ẩn kín trongchiếc hộp này không,
thì chỉ có con may ra mới hiểu được!
Nói xong, lão trang chủ lấy ra một hộp
vuông vức, chiếc xinh xắn, trịnh trọng để lên bàn, trước mặt người con trai.
Thấy hộp như thấy lại người xưa, lão lại cảm xúc để rơi vài giọt lệ.
- Gia nhân trao lại cho cha chiếc hộp này với lời dặn dò kỳ lạ của lão
nghệ sĩ: “Nếu bí mật của sự chết, nếu bí mật của “khoảng mờ” mà ta tiên tri
không lầm lạc, thì mười tám năm sau, lão đệ hãy trao chiếc hộp này
cho người con trai
rồi hãy kể câu chuyện về tòa trang viện, về cuộc đời của
lão-nghệ-sĩ-bất-toàn này cho y nghe… Rồi chỉ có y mới là kẻ có thẩm quyền về sự
bất tử!
“Con ạ! Hôm nay,
gọi con đến đây, là để ta hoàn thành
tâm nguyện của
người xưa, chiếc hộp này, cha chưa dám mở lấy một lần!”
Người thiếu niên anh tuấn kính cẩn đưa
tay nhận chiếc hộp, nét mặt thoáng chốc biến đổi. Y đã hai lần đổi sắc mặt từ
khi ngồi hầu chuyện đến bây giờ.
Mười tám năm trôi qua rồi, mà con ơi,
thiệt như là giấc mộng đầu hôm. Lão nghệ sĩ ra đi mà để lại cho không biết bao
nhiêu người dân thành Ba-la-nại những nghi vấn cũng như những cảm hoài xa xót.
Cha lại nôn nóng đợi chờ đến phút giây này biết bao nhiêu? Tại sao lão nghệ sĩ
lại biết rằng, cha sẽ có con trai đầu lòng? Và bí mật chiếc hộp lại là bí mật
“sự chết”, bí mật của “khoảng mờ”mà chính tự thân con biết? Kẻ có liên hệ gì
không đến lão? Cha nghĩ rằng, nếu lão nghệ sĩ nói đúng, thì con sẽ là kẻ tiếp
tục một tiên tri từ quá khứ, con là kẻ đi nốt đoạn đường của lão nghệ sĩ đang
còn dang dở, phải chăng? Hay chính con là hậu thân của lão nghệ sĩ?
Người thiếu niên anh tuấn không trả
lời câu hỏi của người cha vội. Y
vân vê, nhìn
ngắm chiếc
hộp ở trong tay mãi. Sắc mặt y thay đổi mấy lần. Rồi y lại nhắm mắt lại.
Rất lâu. Khi mở mắt ra, y ngửng đầu nhìn nóc tháp rồi nói:
- Hình như tất cả ngọn nguồn của vấn
đề là ở nơi thanh gươm của đức huyền mẫu Kàlì, phía chóp nóc tháp chính. Cha có
khi nào nghĩ như thế không?
Y vẫn
chưa mở
hộp ra. Và
đấy là câu nói đầu tiên của
y.
- Con ơi! Cha cũng biết một phần! Mười
lăm năm trước đây, cha thường thắc mắc tại sao lão nghệ sĩ lại bố trí đức huyền
mẫu Kàlì và thanh gươm ở đó – ở cái phần mà nó phải vươn lên cao bởi một trụ
thăng vót để tiếp giao luồng linh điển của vũ trụ! Lão nghệ sĩ đã chặt đứt mối
cảm thông, cảm ứng của đất trời bởi bà vợ của đức thần hủy diệt Shìva. Câu hỏi
phổ thông của mọi người là, công trình ở nóc tháp hình như chưa được hoàn
thành. Con ơi, thật là kỳ diệu làm sao - một đêm kia, cha mới “thật sự hiểu thế
nào là sự dang dở, sự bất toàn” hoặc tất cả những ẩn nghĩa trong câu chuyện xa
xưa của lão nghệ sĩ.
Người thiếu niên anh tuấn chợt nhíu
mày nghĩ ngợi một lúc rồi hỏi:
- Xin cha hãy nói cho con nghe về tất
cả những gì mà cha gọi rằng hiểu, rằng biết - về những gì mà cha đã từng tư duy
sâu kín nhất mà cha chưa hề nói với ai. Con cần nghe tất cả những điều ấy.
- Nói chứ. Nói chứ. - Lão trang chủ
thấy vẻ mặt nghiêm trọng của con, vội vã trả lời - Con yêu quý! Cha
sẽ nói hết. À! Nói
bắt đầu từ
chỗ nào
nhỉ. À! Thôi! Cứ nói hết. Nói bắt đầu từ khi con mới ba tuổi. Phải! Lúc
ấy, con mới chập chững biết đi. Cách đây đã mười lăm năm! Cái
hôm gặp
lão khách thương kỳ lạ ấy. Phải. Bắt đầu từ hôm ấy, cha mới lãnh hội
thấm thía ý nghĩa về sự bất toàn, dang dở của cuộc đời….
Lão trang chủ tằng hắng lấy giọng rồi
bắt đầu kể:
- Thuở đó, con vừa chập chững biết đi.
Hôm ấy có người khách thương từ miền xa đến, y mang rất nhiều hàng hóa, có trên
một trăm cỗ xe. Tất cả hàng hóa đều là vật quý, có rất nhiều thứ được sản xuất
ở nước ngoài. Người ta để ý nhiều nhất là những hàng tơ lụa và những tấm thảm.
Cha có mặt trong những người đi xem và
để ý một tấm thảm thêu những con rồng vàng. Đây là sản phẩm của Trung Quốc và
là đồ ngự dụng, con nhà dân giả thường không được phép dùng. Thấy con rồng
vàng, cha chợt nghĩ đến lão nghệ sĩ, đã một thời bôn ba sang vương quốc ấy để
đọc thi và đọc dịch. Thấy vật, tưởng đến người xưa, cha có ý định mua tấm thảm
ấy để an trí vào nơi tôn nghiêm nhất - hoặc là nơi thờ tự - nó ở nơi phía
thượng lầu tây - nhìn ra khoảng núi rừng trùng điệp… Cha bèn trả giá để mua thì
người khách thương cười khỉnh không trả lời. Hồi lâu, hình như khó chịu vì cha
cứ trả giá cả, y hỏi một cách xấc xược
rằng: ông có được bao nhiêu đồng
tiền vàng? Gia đình ta tuy không giàu có hơn ai nhưng cũng thuộc hàng trưởng
giả chứ - thế là cha xin trả một ngàn
đồng tiền vàng -
số tiền ấy là cả một phần gia
tài của
ta rồi. Ban
đầu y cũng tỏ vẻ ngạc
nhiên, Nhưng sau
y vẫn lắc đầu,bảo rằng, cho dù mười ngàn đồng tiền vàng nữa y cũng không
bán. Mười ngàn đồng tiền vàng? Quả là không thể tưởng tượng được. Thế là cha
đành tiếc rẻ và trở về nhà.
Đêm đó, trời đổ mưa. Cha vừa cầu kinh
xong thì gia nhân vào cho biết là có một người khách xin được gặp mặt. Sau khi
uống cạn ly nước thánh cha đến phòng khách thì thấy người khách thương đang
ngồi chờ. Quả là kỳ lạ. Y đã tìm đến nhà. Và là để bán tấm thảm chăng?
- Chẳng hay ông đã đổi ý kiến? Một
ngàn đồng tiền vàng - để mua một tấm thảm! Hẳn không phải ai cũng có thể làm
được?
- Không. Tôi không phải đến đây để bán
tấm thảm. Ông lầm! Tôi đến cũng không phải vì một ngàn đồng tiền vàng. Ông lầm!
Bỏ ra cả một phần gia tài để mua một tấm thảm xa xỉ, đây không là điều ngạc
nhiên đáng tìm hiểu sao?
- Hóa
ra ông đến chỉ vì ngạc
nhiên mà tìm hiểu thôi sao?
- Phải! Tôi đến chỉ để tìm hiểu rằng,
quý phu nhân xấu đến mức nào, hung dữ đến mức nào mà ông phải bỏ ra số tiền lớn
để mua tấm thảm ấy?
Tưởng tai mình nghe lầm, cha gặn hỏi
lại:
- Ông đến để tìm hiểu rằng, hiền thê
của tôi xấu đến mức nào
và hung
dữ thế
nào sao? Sao kỳ vậy? Chuyện ấy nó có liên hệ gì đến tấm thảm và những
ngàn đồng tiền vàng?
- Có chứ. Có chứ. Nếu không muốn nói
là chỉ có điều ấy mới liên hệ! Ông không biết sao, tôi là một người đàn ông
diễm phúc. Diễm phúc vì có một người vợ xấu như ma, lại hung dữ như quỷ. Từ khi
lấy nàng về, vì mang phải cái nghiệp nghèo nên tôi luôn bị nàng đánh đập và
chửi rủa. Nàng chửi mắng tôi là hạng cùng đinh, lại không có tài, không có chí,
không có công danh sự nghiệp. Tôi phải đi làm ăn xa. Năm thứ nhất, tôi đem về
cho nàng hai mươi đồng tiền vàng dành dụm được. Nàng bắt tôi nhốt vào phòng tối
và mỗi ngày được ăn ba nắm cơm muối và được đánh đập ba lần. Năm thứ hai tôi
lặn lội suốt năm trên rừng kiếm ngà voi, sừng tê giác, gạc nhung, cao hổ cốt,
mật ong và trầm. Tôi đem về cho nàng được ba trăm đồng tiền vàng. Tưởng là sẽ
được đền bù xứng đáng, ai ngờ nàng lại cho tôi một trận đòn nên thân! Nàng nói:
Nam nhi người
ta chí khí phải bay xa ngàn
dặm, sức vượt kình ngư - còn nam nhi của anh chỉ đo bằng ba trăm và hai chục
đồng tiền vàng, không hơn thế được! Sau lần thứ hai đó, tủi nhục và ê chề quá,
tôi đi thẳng, đi xa, đi mải miết - quyết là phải có gia tài trăm vạn tôi mới
trở về!
Người khách thương chợt ngước lên nhìn
cha với đôi mắt mệt mỏi. Bây giờ cha mới để ý là y đã dày dạn và phong sương
quá đỗi; vừng trán đã cày những vết nhăn quá sâu, nước da đen sạm mà người ta
có thể bóc ra ở trên đó - mùi muối mặn của biển, nắng của sa mạc, bụi trần và
ngày tháng.
- Ông chủ! Bây giờ gia tài tôi đã có
trăm vạn sau hơn ba mươi năm bôn ba lưu lạc xứ người. Tôi giàu đến độ không còn
muốn giàu nữa. Và có một điều làm cho tôi bần thần suy nghĩ bấy nay, là không
biết bây giờ mình sống để làm gì? Bà vơỷ sứ của tôi quy đã chết. Tôi không biết
trả thù ai, tôi không biết mang gia tài này về xứ để làm gì! Tôi tưởng rằng vợ
tôi sẽ chóa mắt, sẽ kinh hãi bởi chí nam nhi của tôi, chí lấp bể vá trời! Tôi
đã lặn lội vào triều đình Trung Quốc, bỏ ra hai chục ngàn đồng tiền vàng để mua
tấm thảm kia - và cả rất nhiều đồ ngự dụng nữa - cốt là để mang về biếu nàng,
biếu người vợ ma quỷ của tôi. Ôi! Tấm thảm ấy mà dùng để cho nàng lót chân thì
tương xứng biết bao nhiêu! Thế mà! Ôi! Vợ tôi đã chết! Nàng đã chết thì đời
này, tôi chẳng còn gì là sinh thú nữa!
Người khách buôn già thở dài não ruột.
Cha đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Quả thật, phía bên ngoài chân
trời có nhiều điều vượt quá sức tưởng tượng của con người. Mới mẻ biết bao! Kỳ
dị biết bao! Trường hợp một người đàn bà, không hẳn là trường hợp của tất cả
các người đàn bà - cái định kiến thường đem người ta đến những lầm lẫn tai hại.
Con ạ! Sau đó, người khách buôn già
cho chúng ta chiếc thảm ấy, y không lấy đồng nào. - Diễm phúc thay cho những ai
có bà vợ xấu xa và hung dữ để phấn đấu với cuộc đời - y nói - Các nàng cần phải
được biếu những vật quý giá hơn thế nữa trên thế gian. Gia tài này của ông chủ,
tựu trung cũng nhờ nàng, có phải?
Con ơi! Cha biết trả lời làm sao cho
người khách thương ngu si tội nghiệp ấy hiểu rõ cái lầm lẫn tai hại của y? Cha
chỉ nhìn y xót xa, im lặng. Sau rồi y nói tiếp:
- Nếu nàng yêu thương chìu chuộng tôi,
thì tôi đâu có cơ hội đi đó đi đây để biết những chân trời xa rộng, sa mạc, đại
dương, sông hồ và núi non hùng vĩ? Lại biết được cả những quốc độ có những kinh
thành hoa lệ, có cả yêu thương đùm bọc lẫn cả tình đời phản trắc? Ồ! Tôi đã học
được không biết là bao nhiêu, tôi thấy, tôi nghe, tôi nhìn cũng không biết là
bao nhiêu. Nhiều lắm! Ông chủ ơi! Nếu không có nàng thì tôi chỉ là gã đàn ông
hủ lậu quê mùa, lại chỉ là tên cùng đinh tay trắng hạ tiện. Cho hay, cái gì là
hung dữ, xấu xa, độc ác - đều là nguyên nhân hoặc là lộ trình tiến thân - cho
nam nhi trên đời này cả. Nhưng mà ông chủ ạ! Nếu vợ tôi đừng chết?
Đến đây cha mới bắt đầu để y vì trong
câu nói của y đã hàm ẩn sự khôn ngoan của kinh nghiệm sống. Cha bèn hỏi:
- Nếu vợ ông không chết thì sao? Ông hãy nói tiếp đi?
- Chẳng sao cả! Nếu vợ tôi không chết,
thế thôi! Nếu vợ tôi không chết và con đường thương mãi của tôi cứ lời rồi cứ
lỗ? Cứ lời, cứ lỗ rồi tiếp diễn mãi như thế, tiếp diễm mãi không cùng. Đừng
thành công! Đừng đến đoạn cuối. Đừng chấm dứt với gia tài hằng trăm vạn thì hay
biết bao nhiêu? Có gia tài hằng trăm vạn trong tay là đồng nghĩa với sự buồn
nản, khổ đau và sự chết. Tôi không còn sống được nữa ông chủ ạ! Sống thì phải
làm gì, còn tôi là kẻ không còn biết sống để làm gì!
Con ơi! Thật là kỳ dị xiết bao! Con có
thể tưởng tượng được điều này không: Thế là ý nghĩa ẩn mật sâu xa về sự bất
toàn và sự không thành tựu của lão nghệ sĩ - cha đã tìm được lời giải ở nơi câu
chuyện của lão khách thương ngớ ngẩn ấy!
Lão trang chủ kể đến ngang đây thì
dừng. Thiếu niên nói:
- Con cũng hiểu, thưa cha! Nhưng hình
như cha vẫn còn muốn nói thêm gì về điều ấy nữa chứ?
- Phải
mà!Cha còn
muốn nói
nữa. Ngày hôm sau, lão
khách thương đã tự tử bên đống hàng hóa trăm vạn của y. Rồi câu chuyện được
truyền tụng không ngớt qua cửa miệng của mọi người.
Ôi! Cám cảnh thay thân phận của một
kiếp người. Tối hôm sau, nhân một đêm trăng sáng, cha cứ đi thơ thẩn mãi ngoài
vườn không ngủ được. Hình ảnh và câu chuyện của lão khách thương ám ảnh cha dữ
dội. Hóa ra, con người, suốt đời chiến đấu được là nhờ động lực của hư vô! Lão
khách thương suốt ba mươi năm bị đẩy bật ra khắp góc bể chân trời là nhờ cái
“không thành”. Nhờ cái “không thành” thì y mới sống! Cái không thành, cái không
thành, cha lẩm nhẩm trong miệng như vậy rồi ngước mắt lên nhìn nóc tháp. Một
luồng điện xẹt qua và rung động trọn vẹn tâm thức của cha. Đức thần hủy diệt và
thanh gươm ở đấy đang lấp lánh dưới ánh trăng, huy hoàng và rạng rỡ làm sao.
Nhờ có ngài thì đời sống này mới tiếp diễn được liên tục, mới có thế giới và sự
vĩnh cửu. Sự bất toàn mà lão nghệ sĩ đã cưu mang một đời có phảng phất dấu hiệu
của “ý thức trầm luân” như cha vừa thấy đấy không? Một cái gì phản nghịch quá
với tuyệt đối, như
là một
cái gì “khước từ tuyệt đối”, để cam phận, hoặc reo ca, dù hãi hùng, dù
bi tráng, nước mắt hoặc tử vong, khơi vơi và viễn mộng - nghĩa là chấp nhận
trọn vẹn dòng đời, lòng đời hữu hạn, dù nó có thống khổ thê lương đến
mấy chăng nữa?
Con ơi! Con hiểu
ý cha muốn nói gì chứ? Sự
bất toàn và vĩnh cửu, lão nghệ sĩ có nghĩ như thế không? Nỗi đau đớn hoằng viễn
của lão vào lúc cuối đời có còn để lại một dấu tích nào bên trong chiếc hộp kia
không? Và về sự bất toàn, duy nhất chỉ có từng ấy hay là còn gì khác nữa?
Thiếu niên anh tuấn chợt nhếch môi
cười:
- Cha đã ngộ về sự bất toàn ấy, con
rất vui mừng. Còn lão nghệ sĩ, thưa cha, y chỉ là kẻ loay hoay. Kẻ đang còn tìm
kiếm.
Người cha ngạc nhiên:
- Hóa ra con cũng đã từng tư duy về
những điều tương tự ư?
- Thưa cha! Phải. - Người thiếu niên
gật đầu mạnh mẽ - Con là một họa sĩ nửa vời, nửa mùa - ai cũng thường bảo con
như thế. Thưa cha, bởi là họa sĩ, kẻ chuyên mô phỏng thiên nhiên, bắt chước
thiên nhiên, đúng như cha nói - nên không có hình ảnh nào của ngoại giới mà con
không chụp bắt với đôi mắt thịt của con, đôi khi bằng cả tâm nhãn nữa. Tòa
trang viện này, là vật đã liên hệ thiết cốt với con trong mười
tám năm nay.
Con cùng nói, cùng thở va
cùng vui buồn với tác phẩm bất toàn này, từ khi có nhận thức và tư duy. Con đã
hiểu từ trong thâm sâu trực giác, rằng là nó với con cùng chung một sinh mệnh.
Có nó thì con mới hiện hữu và ngược lại. Trực giác này nó mạnh mẽ
dường bao? Mạnh mẽ
như một xác tín, một khẳng định mà không biết nguyên do tại đâu: Con
không hiểu. Con không cần hiểu. Thưa cha, cũng vì vậy, nhờ nó mà con đã hoàn
thành những bức tranh tuyệt mỹ và vĩ đại - nếu không muốn nói là cổ kim hạn
hữu.
Người cha chợt cười xòa:
- Những tác phẩm vĩ đại? Con có nói
giỡn không chứ? Những bức tranh với dăm ba đường nét không thành hình của con,
vẽ xong rồi lại xé bỏ?
Giọng thiếu niên vẫn trang nghiêm:
- Con không phải thiếu lễ độ để nói
với cha rằng: cha là một nhà đạo đức, một học giả thông thái.
- Cha chưa hề bị lấm tai vì những tên
gọi của người đời.
- Thưa cha! Con tin chắc cha có một
phong thái thanh cao, một nội tâm thanh tịnh đáng kính như vậy.
Người cha tò mò hỏi:
- Quả đáng quý thay con ta! Nhưng con ơi, hình như con sử dụng ngôn ngữ
cùng tư tưởng tinh tế quá, cha không nắm bắt được ý nghĩa!
- Thưa
cha! Ý con muốn nói
rằng, cha
không phải là một nhà nghệ sĩ.
- À! Vậy ha - người cha lại cười vui -
hồi xưa, lão nghệ sĩ cũng đã từng bảo cha như vậy. Có phải ý con muốn nói rằng,
vì cha không phải là nghệ sĩ nên không thể hiểu nổi những bức tranh của con?
- Phải. Thưa cha! Lại còn hơn thế nữa,
cha còn chưa hiểu rằng, con đã từng vẽ đêm, vẽ ngày. Con vẽ những bức tranh vĩ
đại giữa không gian, khi con ngồi một mình nhìn ra phía cửa sổ, dưới xa kia là
sông Gangà sóng vỗ tận chân trời xanh thẳm, và xa nữa, xa tít phương bắc là dãy
tuyết sơn phủ mây trắng xóa. Con lại vẽ những bức tranh tuyệt mỹ tự tâm hồn, tự
tâm nội đầy tràn chất ngất. Con lại còn vẽ nữa cả trong những giờ thánh tẩy,
trong lúc tọa thiền, ngọa thiền, cho đến cả những lúc ngoạn du. Và cha ơi! Nhờ
vậy con mới biết chắc rằng, lão nghệ sĩ đã không nói sai khi bảo công trình
mình đã hỏng.
- Cha cũng chưa hiểu rõ lắm, từ chuyện
vẽ tranh của con qua chuyện bất toàn của lão nghệ sĩ.
- Lão nghệ sĩ muốn dùng những chất
liệu bất toàn, sự kiện bất toàn, dữ kiện bất toàn - để hoàn thành ý nghĩa bất
toàn trong thế giới bất toàn. Ở phương diện này, lão nghệ sĩ đã thành công.
Nhưng than ôi! Cũng chính vì thành công cho nên ý nghĩa ẩn mật đã trở nên thất
bại!
- Con hãy
nói rõ
hơn? Có
phải thế giới sự vật vốn
tỉnh chỉ, trong lúc trò diệu hóa của màyà vốn biến động, thay đổi diệt sinh
trong từng giây khắc?
- Cha nói đúng! Nhưng đấy
mới chỉ
là tiền diện của vấn đề. Chiều sâu thẳm của nó là: Lão nghệ sĩ đã thất
bại khi
“không hoàn toàn diễn đạt cái bất
toàn”. Công trình trang viện là một phủ định chiều sâu tâm chứng của tác giả.
Đến phút cuối cùng, ánh sáng ấy mới lóe lên nên Lão nghệ sĩ muốn đập phá cũng
phải.
- Nhưng đập phá cũng là chối bỏ, phủ
định. Chối bỏ, phủ định cũng là hình thức khác của thành công?
- Thưa cha, cha nghĩ đúng. Lão nghệ sĩ
cũng đã có nghĩ đến điểm đó nên lão đã ngần ngừ bất quyết. Con cũng chính vì
điểm này mà bị bế tắc trong thời gian gần đây. Điêu khắc là một cái gì tĩnh
chỉ, một cái gì không còn biến hóa nữa, một cái gì chết - trong lúc vũ trụ là
cái sống động không cùng. Thiên nhiên, tên gọi khác của đạo, là cái bao la,
huyền nhiệm, kỳ diệu, nó là thế giới muôn màu muôn vẻ, trùng trùng và mớilạ
trong từng giây khắc - Thế giới ấy, điêu khắc làm thế nào chụp bắt hoặc mô
phỏng trên mặt đá, mặt gỗ ù lì xám ngoét? Như vậy, đạo gồm hai mặt tĩnh, mặt
động. Thái cực sinh lưỡng nghi, nhất âm nhất dương chi đạo. Một âm thôi, nghĩa
là tĩnh thì vũ trụ sẽ tiêu trầm - sẽ chỉ là thanh gươm và đầu người vừa mới
chặt của huyền mẫu Kàlì, còn thiếu bàn tay kia
đầy ơn phúc
che chở và sáng hóa của bà.
Vũ trụ vừa là thần Shìva vừa là thần Vichnou. Hai vị thần này ở dưới quyền điều
động của thần sáng tạo (Bràhma). Cho nên, sáng tạo nghĩa là vừa sinh thành vừa
hủy diệt, vừa xây dựng vừa đập bỏ. Ấy là sinh và tử
vậy! Nhờ sinh
nhờ tử mới
tạo thành nguồn sống hằng
cửu.
Thật ra, điều ấy cũng chẳng có gì là
mới mẻ cả. Cha ơi! Nhưng mà từ khi con ngộ lý này, con không còn muốn tiếp tục
công trình của lão nghệ sĩ nữa, con quay qua vẽ, nghĩa là con muốn vượt cái bế
tắc của lão. Những bức tranh vẽ của con, không bao giờ thành hình, vì thành
hình là dấu hiệu của sự chết. Con là một nghệ sĩ sáng tạo, vậy thì con phải là
thần Vichnou (hoàn thành) vừa là cả thần Shìva nữa (xé bỏ). Nhưng khi mà tay
con vừa xé bức hình, con hiểu rằng mình đã sai lầm một cách trọng đại, như lão
nghệ sĩ đã từng sai lầm: chối bỏ tác phẩm! Ôi! Thưa cha! Sao con lại điên rồ,
ngu xuẩn, kiêu căng đến mức như vậy: dám chối bỏ tác phẩm của mình? Hủy diệt
công trình của một hiện hữu?
Điều ấy mới thoạt trông thì thật là
giản dị và vô hại, nhưng khi đi sâu vào ta mới thấy nó kinh khiếp dường bao!
Cha ạ! Vạn vật vốn tự sinh tự hóa. Tự sinh tự hóa nói lên chân lý tự do và nhân
bản. Khi để cho vạn vật tự nhiên sinh hóa là dấu hiệu của đạo đức hằng cửu, vì
mỗi hiện
hữu sẽ tự tác tự thọ trong
tác động nhân quả qua lại giữa nhau; nhưng khi mà ta tạo một “tác động” cho vạn
vật sinh hóa, góp tay góp sức bởi ý đồ, mưu cầu hoặc tham vọng quỷ quyệt là ta
đã tạo thêm nước mắt và tử vong cho cuộc đời. Mới đây, con có lãnh hội một số
triết thuyết nền tảng phía bên kia trời tây. Những tư tưởng đó xoay quanh lý
tưởng này: chinh phục thiên nhiên, cải tạo xã hội, tư tưởng cũng như con người.
Nền tảng vẫn là âm dương mâu thuẫn và xung đột của Trung triết, vẫn là thần
Shìva và Vichnou của Vệ-đà. Họ chỉ thấy một diện của thực tại và không thấy
được diện thứ hai: xung khí dĩ vi hòa. Huyền mẫu Kàlì vừa là thần sanh đẻ vừa
là thần giết chóc. Họ không thấy sự cần thiết quân bình của hai năng lực âm
dương đó, nên đời sống của họ là những cuộc bạo động dài ngày trong lịch sử -
hay hơn thế nữa - dẫn nhân loại đến chỗ diệt vong, chặt đứt gốc rễ trở về quê
hương của con người, càng ngày càng sa đọa và vong bản! Họ chỉ thấy “chân lý
đối tượng” và “chân lý mâu thuẫn” nên họ tiếp sức cho thế lực này hủy diệt thế
lực kia và bảo là đẩy mạnh bánh xe lịch sử, đẩy mạnh bánh xe tiến hóa! Lấy con
người để khống chế xã hội hay lấy xã hội để không chế con người - đều vô tình
đi ngược lại định luật âm dương vận hành tương hỗ của Trung triết - đi ngược
lại lộ trình sáng tạo vi diệu của thần Bràhma - nghĩa là
phản bội
chân-lý-toàn-diện, phản
bộ tư
nhiên, phản bội đạo vậy. Họ là kẻ vô luân, vô đạo và cuồng tín nhất trên
thế gian! Giáo lý nào, nghệ thuật sáng tạo phẩm nào mà không nhằm cưỡng ép, bức
bách, khống chế - mà ở trong tinh thần gọi kêu, khơi mở tâm thức tự
giác thâm sâu, nương và chuyển cuộc đời - thì giáo lý ấy, nghệ thuật
sáng tạo phẩm ấy chính là vẻ đẹp, thiên thu, màu xanh, trái cây và cơm bánh cho
con người trần gian khổ nạn nầy. Con xé bỏ bức tranh của mình, lão nghệ sĩ đập
bỏ công trình của tòa kiến trúc - thì từ trong thẳm sâu của tự ngã chỉ là kẻ
ngụy-đạo-đức, ngụy-nghệ-sĩ mà thôi!
Con vượt bỏ Tây phương, vượt bỏ lão
nghệ sĩ nhưng con chưa vượt được “ý niệm vượt bỏ”! Thế là con vẫn còn kẹt trong
nhị nguyên, mâu thuẫn, xung đột, nghịch chiều. Khổ đau trong con vẫn còn tồn
tại.
Cha ơi! Để tìm lối thoát, con quay qua
vẽ bằng tâm, tâm họa chứ không còn là bút họa nữa. Con vẽ trời đất, trăng sao,
núi đồi, thung lũng, cây cối, khe, suối, sương mù…. Con phóng trên nền trời,
trong tâm tưởng những màu sắc đẹp lạ kỳ. Nó đẹp hơn cả thực tại. Nó vượt xa
thực tại. Con sung sướng miên man, con phỉ lạc biết bao nhiêu! Giai đoạn này
con không cần ăn, không cần uống, vì con đã tự no đủ. Con sống no đầy, phỉ lạc
trong thế giới tâm tưởng của riêng con!
Người
thiếu niên anh tuấn im lặng
đột ngột qua một hồi say mê trình bày con đường tâm chứng của mình qua hội họa.
Người cha đi từ ngạc nhiên này qua ngạc nhiên khác. Trước mặt ông, đứa con trai
chợt trở nên to lớn phi thường. Người ta thường gọi ông là một nhà đạo đức, một
học giả - nhưng quả thật là nhỏ bé và hủ lậu quá so với thế giới này - cái thế
giới nghệ sĩ trẻ trung - họ đi theo con đường của họ - con đường có bướm có
chim, có nhật nguyệt; con đường được lát bằng những tấm thảm xanh như nhung của
cây cỏ, da trời và biển rộng. Ôi! Thế giới của ta nhỏ hẹp quá - thế giới của
chữ nghĩa, văn tự và kinh điển đã khô chết tự ngàn xưa. Cái thế giới không có
lấy một hơi thở, một tiếng gà kêu, một con chim thình lình cất tiếng hót rộn rã
giữa bình minh xanh, giữa hoàng hôn vàng. Phải. Cái thế giới chết của những
chồng sách vở vô tri, không có cả một cơn gió khô, một đài hoa rụng, một chiếc
lá úa. Dù khô, dù úa, dù rụng nhưng nó vẫn là dấu hiệu của sự sống. Ôi! Vĩ đại
biết bao nhiêu là thế giới ấy! Không ngờ cuối cuộc đời tàn phế và khô nỏ của
tâm hồn, ta lại có thêm chất nước, cỏ hoa, vị ngọt để lấy thêm sinh lực cho
cuộc ra đi dài hạn…!
Nghĩ đến đây, lão trang chủ hân hoan
quá, ông ôm chầm lấy người con trai:
- Kỳ lạ thay, con ta! Đáng kính đáng
yêu biết mấy là con ta. Lối nào cũng về La Mã. Đồng quy nhi thù đồ. Cho
đến bây
giờ cha
mới hiểu mật nghĩa ấy.
Đã từ lâu, nguyện vọng của cha chỉ
được gói ghém trong chiếc hộp này, biết được bí mật của nó trước khi nhắm mắt -
nhưng nay thì đã được khơi mở rộng lớn hơn, có kích thước vũ trụ hơn - ấy là bí
mật của dòng đời, của lòng đời.
Đạo là ở chỗ ấy, kỳ vĩ và tuyệt mỹ biết bao nhiêu.
Người thiếu niên anh tuấn khuôn mặt
vẫn lạnh lùng, trầm mặc, trang nghiêm. Ở nơi y không có dấu hiệu nào chứng tỏ
một con người bị tình cảm chi phối. Y đang tự chủ, đang trọn vẹn với thế giới
nào đó của riêng y!
Niềm hân hoan vừa mới chớm nở trong
lòng của lão trang chủ chợt tàn úa đi ngay bởi con người “tịch mịch bất khả tư
nghị” của thiếu niên.
Người cha ân cần hỏi:
- Con vẫn đang còn nghi vấn về điều
gì? Thế giới nhiệm mầu và tuyệt mỹ biết bao nhiêu?
Người thiếu niên anh tuấn trầm giọng
đáp:
- Con cũng đồng ý với cha như vậy: thế
giới nhiệm mầu và tuyệt mỹ biết bao nhiêu! Nhưng thưa cha, cũng giống y như
trong những tranh vẽ của con: thế giới nhiệm mầu và tuyệt mỹ biết bao nhiêu!
- Vậy sao con … còn có vẻ “tịch mịch”
đến như vậy?
- Thưa cha! Tại sao thì con đã nói rồi
đấy chứ! Thế giới nhiệm mầu và tuyệt mỹ thật, nhưng nó chỉ thực tại ở trong
tranh vẽ mà thôi, nó chỉ thực tại ở trong "tâm" và "tưởng" thôi!
Người cha há hốc mồm.
Người con tiếp:
- Con
đã từng
có những bức tranh ở trong
tâm và tưởng, nó đẹp hơn cả thực tại, nó vượt quá thực tại, nhưng chưa bao giờ
nó đẹp như là thực tại.
Thưa cha! Thế giới đó, tâm và cảnh, nó
một hay là hai? Là một thì không thể được, là hai cũng chẳng phải. Vì sao? Vì
tâm vẫn phân biệt được cảnh, từ chủ năng ta nhận biết được ngoại giới khách
quan thì chúng chẳng thể là một được. Và nếu là hai cái cách biệt, thì mỗi cái
riêng tự nó hiện hữu, độc lập chẳng liên hệ gì đến nhau. Mà có thật nó không
liên hệ với nhau chăng, thưa cha? Nếu không liên hệ thì con đã chẳng xúc động
thật tình vì một cảnh sắc huy hoàng của bình minh, sự dịu dàng và đầy ơn phúc
của lá xanh và những cơn gió đìu hiu đầu thu va động lăn tăn trên đầu cây, ngọn
cỏ! Hình như phải bảo rằng, ngoại cảnh quyết định cho các trạng thái tâm, nó
liên hệ tương quan như bóng với hình, không có cái này thì không có cái kia và
ngược lại.
Nhưng than ôi, thưa cha! Khi con vẽ
bằng tâm và tưởng, thì những bức tranh đó đã tách rời thế giới cụ thể khách
quan để nhảy vào thế giới nội cảnh. Nó là cái
bóng của
chiếc ảnh
thực, nó là hình ảnh
mô phỏng không rõ nét hoặc chẳng hoàn toàn trung thành thiên nhiên. Qua lăng
kính tâm chắc nó đã đổi khác đi. Như vậy có ích gì không những bức tranh vẽ của
con, thưa cha? Mặc dầu các đường nét có hoằng viễn cách
mấy, có nguy nga cách mấy,
nó cũng chỉ là cái bóng mờ của thực tại, một cái gì mông lung, ảo dị, một cái
gì không bao giờ đúng y là thực tại, như nó là thực tại. Con là cái ấy. Ngươi
là chân như. Vệ-đà bảo thế. Chân như là như chân như thực. Nhưng làm thế nào để
hiểu rõ như chân như thực là gì? Như chân như thực là một thế giới mà ta chẳng
thể nào chụp bắt được, vĩnh viễn là như thế, thưa cha!
Người cha thở một hơi dài:
-Thế là thế nào? Lại rối ren đến thế ư? Té ra con vẫn chưa đạt được cái
gì sao? Cha đi từ bỡ ngỡ này đến bỡ ngỡ khác.
Con ơi! Kinh điển có lý luận, có tư
tưởng, có con đường, nhưng là một cái gì dễ dàng và khả tri hơn thế. Các giáo
chủ uyên thâm nhất của truyền thống Vệ-đà cũng trích dẫn cái câu đã trở thành
thời thượng, sáo ngữ ấy: Ngươi là chân như. Phải chăng, đây là một thông điệp
kêu gọi ý thức tự quy, trở về cái thâm sâu nhất của tự ngã? Và đây, ngươi là
cái ấy, ở trong cái bản ngã sinh diệt đó chứ không là đâu hết. Các nhà luận
giải và chú giải trong Áo-nghĩa-thư khi đề cập đến các cấp độ tâm linh thì họ
tuần tự nói như thế này: Đầu tiên là ý thức bình phàm, cái ý thức chìm đắm và
thụ hưởng các đối tượng vật chất. Từ ý thức
ấy, con người tiếp xúc,
kinh nghiệm ngoại giới.
Rất có
thể vì nó chẳng
thể đạt được những phúc lạc
thâm sâu, tế vi - nên nó
đành phải chuyển hướng vào bên trong: và đấy là trình độ thức giác thứ
hai. Đây tạm gọi là thức giác nội giám, cái Yoni, cái chủ tể. Ta thì ta gọi đây
là cái dòng sống, chủ khách câu vong. Nhưng còn một thức giác cuối cùng nữa,
thức giác siêu việt, viên mãn, tri giác và suy tưởng có hiện hữu ở đây, nhưng
không còn có tên là tri giác và suy tưởng nữa. Bất khả diễn đạt. Cái vô nhị và
an tĩnh.
Con ơi! Suốt đời cha cũng nghiên cứu,
cũng vẽ vời bằng thế giới tâm tưởng này nọ, nhưng cái biết của cha qua kinh
nghiệm sách vở ấy chắc gì đã vượt qua được cái biết của con? Có thể cha sử dụng
ngôn ngữ, cách diễn đạt, tuần tự phân tích hoặc tổng hợp - sẽ được mọi người
đồng ý hơn - vì cái ấy vốn đã phổ thông, cái có sẵn từ nghìn đời. Nhưng con thì
lại khác, con đi bằng con đường của chính mình, không nô lệ vào lề thói cũ, đầy
sáng tạo. Con có hình ảnh và ngôn ngữ của riêng con. Nhưng con ơi, có một điều
chắc chắn là trình độ giác ngộ của cha, đến đâu, cha biết - còn trình độ giác
ngộ của con, đến đâu, cha không biết. Mọi tìm kiếm của con đều mới lạ, hấp dẫn
và lôi cuốn cha. Còn cha ư? Cha
lần mò theo con đường cũ,
con đường không sáng tạo, con đường
mang vẻ đẹp đã phế tàn, thành quách lâu đài đều cũ kỹ, rêu phong, những bức
tượng phủ đầy bụi, những cánh cửa
sắt lâu đời đã rỉ sét. Có
còn một
hơi thở, một sự sống nào ở đấy không? Đôi
khi cha tự hỏi lẩn thẩn như
vậy. Hay đây là một bảo tàng viện, dấu tích vàng son của một thời đại chỉ còn
cái gì là vô danh như tên gọi của nó trong lịch sử? Đấng Bràhman ư? Ngài ở đâu,
mà nơi đây chỉ còn treo cái giá áo và vương miện của ngài:
“Tại ba phần ấy, một phần ngài ngự.
Ơ nơi phần chót, ba phần là của
Bràhman
Để thực nghiệm cái có và cái không
Ngài có hai bản tính”
Phải. Ngài có hai bản tính.
Con ơi! Cái gì vậy? Đây có phải là mật
thư cho những ai đi đến kho tàng, là chìa khóa mở cánh cửa sắt? Con ạ! Cha cũng
đã bỏ công khá lâu để đi tìm mật nghĩa ấy. Con đường này cha đã không có cách
gì vượt qua, kiếm tìm, khám phá. Con đường hầu như ai cũng biết, cũng đều tin
chắc là sẽ đến đất hứa, nhưng rồi hình như lại lạc cả vào vùng đất trích. Người
ta có quyền hoài nghi như vậy lắm chứ? Vì ai cũng có thể có thẩm quyền - mà
đồng thời - chẳng ai có đủ thẩm quyền cả. Còn thế giới của con, con đường của
con, biết đâu là con đường tắt? Con đường với chức năng và thẩm quyền của kẻ
sáng tạo? Sao vậy? Con đừng làm cho cha thất vọng, con đường của con vẫn hứa
hẹn có nhiều ánh sáng chứ?
Thiếu niên anh tuấn lắc đầu, giọng
buồn bã:
- Theo
truyền thống Vệ-đà thì có ba
con đường thật. Con đường hành động, con đường chiêm ngưỡng thờ phượng và con
đường trầm tư và thiền định. Các nhà luận giải càng ngày càng chia ngõ chia
ngách và làm cho con đường trở thành mờ mịt và rắc rối thêm. Như cha biết đó,
con có một người bạn - là Thiếu Quang - y là một nhà luận giải cấp tiến, uyên
thâm Vệ-đà và thông bác nhiều giáo lý khác ngoài truyền thông. Y là kẻ đầy lòng
mạo hiểm, y hoài nghi cả những luận giải của cả những bậc được coi là trí tuệ
nhất. Và hầu như y đã phá bỏ tất cả mọi con đường. Rồi khám phá một con đường
mới lạ hẳn. Nhưng y mới phát quang một đoạn đường rồi lại bối rối trước con lộ
mà y mới khám phá ra: một con đường hẹp. Con đường này hoang liêu và cô tịch
quá, lại là con đường dốc ngược, duy nhất một người lên. Y cứ đứng ở đấy mãi,
phân vân bất quyết - vì trước mặt y chẳng hứa hẹn một bình nguyên nào cả: đấy
là hướng Tây, hướng của mặt trời khô bỏng, của sa mạc. Đến đây là tự hủy chính
mình. Mà giải thoát có phải là tự hủy chính mình. Mà giải thoát có phải là tự
hủy? Tự hủy bản ngã với ý nghĩa siêu hình? Y không biết. Con không biết. Không
có ai trả lời! Mà duy chỉ có lộ trình đó: lộ trình vô dục. Còn tất cả con đường
đều là con đẻ của màyà thôi!
Cha ơi! Y bảo rằng, các nhà luận
giải đang múa may trên
mép rìa của thực tại, đang
bò quanh miệng chén mà không biết trung tâm điểm là đâu. Làm gì có con đường
hành động? Có nhận thức rồi mới có hành động chứ? Hay ý kinh bảo rằng, nhận
thức chính là hành động? Có thể y là đồ đệ của Brentano bên kia trời Tây khi
cho rằng, ý-hướng-tính là thuộc tính của ý thức nhằm tác động đến đối tượng!
Nhưng sau đó y lại hỏi ngược lại thầy: nếu không có các đối tượng ngoại giới
thì ý-hướng-tính do đâu tồn tại? Nói đúng ra, y thường lý luận ngược xuôi, sử
dụng các triết thuyết, các tư tưởng như tay ảo thuật dùng làm phương tiện đối
đãi với nhau – chứ y là kẻ phá hoại. Phá hoại toàn triệt. Y còn nói rằng, con
đường hành động của ta và duy thực, duy nghiệm của bọn quỷ trắng có gì khác
nhau? Mà nói đến duy thực, duy nghiệm thì quả là ngây thơ làm sao khi hiểu rõ
pháp giới là cả một vận hành tương quan? Ấy, đấy, bây giờ, khi bảo vậy là y đã
lôi Husserl ra để đối chứng với Brentano: “mọi công trình khảo cứu của tôi, đều
được hướng dẫn bởi trọng trách xây dựng một cách hệ thống tính cách tiên thiên
của mối tương giao này".
Cha ơi! Nếu nói theo ngôn ngữ của Đông
phương ta, thì đấy là sự tương giao giữa tâm và vật, theo Phật giáo là lý duyên
khởi vậy. Như thế, duy vật luận (duy thực, duy nghiệm) đã nói lên cái ấu trĩ
của mình, mà duy-tâm-luận cũng ngu
ngốc không kém:
cả hai đều chưa hiểu mối
tương quan
trùng trùng của vạn hữu. Kẻ nào “duy-hành-động” thì
kẻ đó chưa bước ra khỏi thế giới vật thể, còn lông lá và chưa có nhân
tính. Còn con đường chiêm ngưỡng thờ phượng? Từ một tâm thức yếu đuối, y nương
tựa vào những hình ảnh phù du bên ngoài. Phân tích kỹ thì tuy ý-hướng-tính của
y nhắm đến các đối tượng bên ngoài, nhưng thật ra là để huân tập, làm vững mạnh
đối tượng ấy ở bên trong y. Nhưng vững mạnh là vững mạnh cái gì? Vững mạnh một
đấng, một ngài, một cảnh, một cõi? Tâm y tưởng tượng hoặc tạo ra một hình ảnh,
và y lấy hình ảnh đó để tôn thờ! Đấy, y làm cái gì vậy? Thái độ ám thị này chưa
phải là lối giải quyết trường cửa của kẻ trí. Y bảo vậy. Cuối cùng, chỉ còn con
đường trầm tư và thiền định. Trầm tư và thiền định không phải là tìm kiếm kinh
nghiệm hoặc hiểu biết. Kinh nghiệm và hiểu biết chỉ nhằm tô bồi và tích lũy bản
ngã. Vả chăng, kinh nghiệm và hiểu biết là cái “có sẵn” trong y, chứ không phải
là cái mới lạ đầy trẻ trung của sự sống? Vả chăng, tất cả chúng chỉ là hiện
tượng sinh diệt bọt bèo? Nếu hiểu trầm tư và thiền định là nhằm phá vỡ cái lớp
bản ngã thâm sâu, thiêu hủy các giả tướng vay mượn của cuộc đời - đốt cháy ý
thức thường nghiệm - để cho cái-tôi-siêu-thế, cái chân ngã lộ diện nguyên hình
- thì may ra không phản bội truyền thống tâm linh tuệ giác Ấn Độ. Chính Husserl
bên kia trời Tây
cũng bảo
con người trở về với “ý-thức-siêu-nghiệm”, thì
đã hẳn
biết bỏ
vật, bỏ tâm, bỏ những biểu
tượng, ký hiệu để thâm đạt yếu tính của thực tại. Có thể con đường giảm trừ
hiện tượng học của y không nói lên một thẩm quyền nào về trực giác - sự lãnh
hội không do ý thức thường nghiệm – nhưng cũng nói lên được điều này: mọi chân
trời tư tưởng đều có thể gặp nhau. Khác chăng là cái thực chứng và không thực
chứng, trí thức và tâm linh, lý luận và thể nghiệm vô ngôn. Cho hay, trí thức
có thể với tới những bến bờ ngoài khả năng của y. Đôi khi nó lại có thể hiểu
bằng trực giác nữa nhưng không đủ thẩm quyền về những trực giác ấy. Các nhà
thuần túy tâm linh học họ xây dựng cơ sở từ bến bờ này - chỗ mất tích, vô tăm
bất lực của lý trí - và họ gọi là tôn giáo, đạo học. Những điều mà triết học
khoanh tay thì tôn giáo và đạo học giải thích, nói ra, “như-thị-thuyết”.
Cha ơi! Nền văn minh tâm linh cao cả
của Vệ-đà bây giờ đã sa đọa thành một triết học, một triết lý. Người ta đang
bàn cãi với nhau, tranh cãi với nhau: hành động này vị tha, hành động kia vị
kỷ, cách chiêm ngưỡng này có phước báo lớn, có công năng lớn, có lợi ích
lớn hơn
cách chiêm ngưỡng thờ phượng kia… Tất cả những lý luận của họ xem ra hợp
lý dường bao - nhưng quả thật - không nói lên được, không phát quang
được cái trực giác
thâm sâu, cái tồn
tại vinh quang và giềng
mối cho mọi sinh hoạt, mọi hiện hữu: Tuệ giác
và chân ngã. Chẳng có
tiêu chuẩn bản căn
và phổ biến cho toàn thể thế gian -
hẳn thế - nhưng mà các tông phái con đẻ của Vệ-đà họ đưa ra từng tiêu chuẩn,
từng giá trị, từng con đường mà không biết rằng: con đường, tiêu chuẩn, giá trị
là những cái nhằm hủy diệt nhau! Đây cũng là giai đoạn của thời-cơ-chủ-nghĩa
xuất hiện, tạo thành những bức bình phong, nhãn hiệu trá ngụy để khuynh loát và
tranh giành ảnh hưởng. Ở Ấn Độ này tệ lắm cũng có vài triệu vị thần. Và thế là
dĩ nhiên, có thần của tôi hơn thần của anh. Thần này cho tài, thần này cho lộc,
thần kia cho phước, thần nọ cho thọ. Ôi! Sao mà rối rắm vậy? Đạo là nâng trần
gian lên, lôi con người lên - mà con người thì lôi đạo xuống để phục vụ cho
những mục đích đê hèn và vị kỷ của họ!
Phải chăng, từ tất cả những dữ kiện
đó, từ tất cả mọi sinh hoạt mênh mang đó, tất cả mọi con đường đó… cuối cùng,
đều do tâm? Tâm là chủ? Tâm tạo tác? Vậy cái Tâm ấy mới là cái bản căn chứ? Mới
là cái cốt tủy chứ? Cứ chạy theo nhánh, theo ngọn mà bỏ quên gốc, không biết
quay đầu trở lại, quay về nguồn, trở về chính mình. Trở về chính minh, trở về
tâm. Thưa cha, nhà luận giải Vệ-đà cấp tiến nọ đã có công chặt đứt tất cả những
ngành ngọn để đem về một gốc tâm duy nhất. Nhưng
than ôi,
thưa cha! Cuối cùng, y là kẻ còn tâm chứ không còn cảnh!
Thế là thế nào? Còn Tâm không còn
Cảnh! Té ra bây giờ ta mới thấy rõ, loay hoay cho lắm thì y cũng chưa bước ra
khỏi cái duy-tâm-luận hoặc là bình diện thứ hai của thức giác trong
Áo-nghĩa-thư. Làm thế nào để bước qua giai đoạn thứ ba, để rồi bước vào thức
giác thứ tư là cái vô nhị và an tĩnh đời đời?
Thưa cha! Trọn bộ thánh kinh Vệ-đà
không nói con đường cho chúng ta đi, thảng hoặc có nói đến con đường nhưng
không nói cách đi như thế nào. Nhưng nói đến con đường tất lại rơi vào nhị
nguyên thuyết, tranh luận – đọa vào duy vật, duy tâm, duy danh, duy thực, duy
nghiệm… Đây là một cái gì bất khả, là một cái gì đổ vỡ, một cái gì thất bại,
một cái gì bất toàn!
Thiếu niên anh tuấn nói xong, người
cha trầm mặc rất lâu. Thời gian ngưng lại. Mảnh trăng sơ huyền lơ lửng trên
cao, giữa bầu trời xanh thẳm. Một cái gì rất cao, rất xa không thể với tới,
không bao giờ với tới! Gió thổi hiu hiu nhè nhẹ khua gợn lăn tăn, xào xạc, xào
xạc đâu đó trong không gian, rồi chìm mất. Đêm lại yên tĩnh, dịu dàng, mênh
mông, rất cao và rất xa…!
ĐI VÀO HUYỀN NGHĨA
Họ đều là kẻ lên đường, đang lên
đường, lão nghệ sĩ, lão trang chủ, thiếu niên anh tuấn và Quái-đầu-đà. Nhưng họ
có thẩm quyền nào về tâm linh, hay chỉ là những kẻ đang lần mò quờ quạng trên
lối về tự tánh? Đều có trải qua hoang mang, nghi ngờ, bế tắc, an lạc hoặc khổ
đau?
Triết Hựu mơ màng nghĩ ngợi. Trong
thời gian quen biết với Quái-đầu-đà, cả hai đã từng bàn cãi với nhau rất nhiều
vấn đề. Tình thân êm đềm có đến với họ, nhưng lộ trình đi lên lại càng mù mịt!
Câu chuyện về tòa trang viện, về thanh gươm, về sự bất toàn, về chiếc hộp - mà
Quái-đầu-đà cho biết bên trong chỉ là một bình trà cổ - đã đưa chàng đến những
biên giới mông lung hơn, ảo dị hơn. Chàng cũng mơ hồ rằng là, có thể có nhiều
con đường thật, có nhiều phương diện và có nhiều góc cạnh khác nhau của
chiếc vạn hoa kính duy nhất thật - nhưng từ nơi ấy chàng thấy gì? Lý trí, luận
lý và sự loay hoay! Gã thiếu-niên-anh-tuấn-tịch-mịch trong
câu chuyện dù là lão nghệ
sĩ tái sanh đi nữa - đúng như lời y kể - thì có giúp cho chàng một ánh sáng nào
về sự giải thoát - hay là cả một cái gì quẩn quanh và bi tráng dường bao! Tất
cả đều có thật, nhưng những sự thật ấy chỉ giúp thêm dữ kiện cho sự thật này
nổi bật thêm lên: sự khổ đau, trống rỗng và tịch mịch của đời sống! Vĩnh cửu và
chân phúc ư? Nó vẫn ở đâu đó, trên mây, trong đám sương vàng huyền hoặc; đâu
đó, bãng lãng trên lớp khói mù của sông nước chiều hôm; chờn vờn trên ý thức,
lãng vãng trong tâm niệm; dấu mặt đâu đó sau cái tà huy và hoàng hôn của cuộc
lữ. Khó thay! Khó thay!
Triết Hựu lại thở dài. Biết bao nhiêu
lần rồi chàng đã thở dài, sau lần chứng ngộ “nhất thể” ấy! Quái-đầu-đà đã phá
vỡ lớp vỏ an toàn của chàng, đã đưa chàng về với cái hoang mang và hỗn loạn đầu
đời.
- Không vong ngã thì cũng là đại ngã thôi, lão đệ! Không là cái
tôi-vong-tính thì cũng là cái tôi-tuyệt-đối thôi, bạn lành! Tâm thức giải thoát
là phải từ nơi cái ý thức thường nghiệm này, thường hằng tiếp xúc với ngoại
giới mà nó vẫn an lạc và vô nhiễm! Y bảo thế. Nhưng y đã là kẻ chứng nghiệm
chưa hay rốt lại chỉ là nhà luận
giải? Chàng hoài nghi quá. Quả thật, họ và chàng đã gặp gỡ nhau ở rất nhiều
điểm về kiến giải, suy tư và thiền định. Nhưng nhiều điểm cũng chưa thể nói lên
một cái gì chung quyết vì trong chân lý “đa
số không
tuyệt đối”! Nhà kiến trúc
cũng đến được bến bờ, nhà thơ cũng
đến được bến bờ, nhà họa sĩ cũng đến được bến bờ – điều đó không sai -
nhưng đâu mới thật là bến bờ? Hay bến bờ của người này không phải là bến bờ của
người kia?
Lão nghệ sĩ đã lặn lội một đời khá dài
trên đường tìm kiếm, tốn khá nhiều sinh lực và tế bào não - rồi cũng chết đứng
nơi chỗ “tựu thành” cuối cùng của y. Thế giới đều đi đến chỗ hoàn tất - hoàn
tất là sự chết - thế mà lão lại cố buông bỏ cái tâm niệm đeo níu còn lúc nhúc
không chịu lặng yên. Nhưng an nghỉ vĩnh viễn theo nghĩa ấy thì có khác gì hư
vô? Sự tái sanh, do cường độ năng lực của các tư tưởng - dù lão nghệ sĩ có thể
biết được bằng khả năng nào đó của mình - thì lão cũng không thể nào chấm dứt
được tâm niệm đeo níu. Lão không thể nào kiểm soát được cái vùng vô thức thâm
sâu hằng diễn và bất tức. Và như vậy, mọi nỗ lực của lão, hữu hạn và vô hạn,
đạo và đọa tính, hoàn toàn và bất toàn - là một cái gì dường như vô ích và phù
phiếm. Một lối chơi của bọn trí thức trưởng giả, khoe khoang và hợm hĩnh làm
sao? Một công trình thành tựu cái bất toàn như một thách thức với Thượng đế,
một sự vươn vọt vào thế giới bình lặng như chân. Một khước từ hữu hạn để lao
thẳng đời mình vào một bến bờ được sự tưởng tượng cao đại và phong phú của trí
năng. May mắn thay, lão hỏng chân vì
cái tâm
thức giải thoát, lão lại
với được đầu mối tái
sanh. Và gã thiếu
niên lại tiếp
tục bước tới những bến bờ mà lão đã có công sáng tạo từ kiếp trước. Gã
thiếu niên từ chối kiến trúc và bút họa vì nó không phô diễn được tình-cảm-động
của pháp giới. Các tâm niệm vẽ vời của gã xem chừng cũng mông lung, mờ mịt và
bất thực xiết bao - nhưng bản căn của trí tuệ xem chừng gã đã trưởng thành,
biết dung nhiếp hài hòa hai trạng thái động tịnh của vạn hữu! Cái tư duy của gã
cũng đi đến bờ vực như ta vậy. Chưa ai bước ra khỏi được thế giới ý nghĩa, biểu
tượng hoặc tượng trưng - dù lý trí biết. Chàng đã nói rõ điều ấy với
Quái-đầu-đà thì y bảo rằng:
- Vậy thì lão đệ cũng muốn dùng ý
nghĩa để vượt qua ý nghĩa. Trùng phức làm sao. Phải là một “hành động tâm linh”
mới với tới được cái nền tảng.
- Lão huynh muốn khai dẫn điều gì?
- Cái thấy.
- Cái thấy chính là hành động tâm linh
ư?
- Phải. Cái thấy giải quyết trọn vẹn
mọi vấn đề. Cái thấy đảo hoán tận căn mọi sai lầm, chấp thủ cũng như ngu xuẩn
của chúng ta. Hình thức biểu tượng, ý nghĩa
thì hãy để
dành cho các
nhà kiến
trúc, triết gia… và cuộc đời.
- Cảm ân lão huynh đã chỉ giáo. Nhưng
“cái thấy” có như thực chuyển hóa được cá nhân và xã hội? Có thay đổi được tận
bản căn những nhiễm ô của chúng ta không?
Khi hỏi như vậy, Triết Hựu đã rùng
mình nhớ lại sự sa đọa của chàng. Các pháp diệt nhưng không diệt. Nó vẫn hiện
hữu ở đây, đâu đó phía bên trong vô thức, duyên cảnh, nó sẽ hiện hành ngay -
đầy đủ bóng dáng, kích thước, màu sắc, âm thanh…
- “Cái thấy” mỗi người mỗi khác. “Cái
thấy” thường bị che lấp bởi kiến thức, thói quen, kinh nghiệm riêng tư của mỗi
người. Vứt bỏ toàn triệt mọi riêng tư, chủ quan - ta sẽ đạt cái "thấy khách
quan". Và cái thấy-khách-quan ấy được gọi là “cái-thấy-vô-nhiễm”,
“cái-thấy-trung-thực”, cái thấy-viên-giác”.
Triết Hựu lại thở dài. Chẳng có gì mới
lạ cả trong cái mớ chữ nghĩa ấy. Tất cả mọi nỗ lực tư duy của nhân loại hầu như
chỉ để nói lên cái bế tắc của hữu hạn, cái cùng đường của hữu hạn, sự bi đát
của hữu hạn. Đi vòng quanh hoặc là đến bờ vực rồi đứng đấy. Ở đấy. Nhiễm ô, tục
lụy, tội lỗi vẫn đầy ứ bên trong, chật cứng bên trong -
không có cái thấy siêu việt nào có khả năng đem chúng ra hết. Một vài
trạng thái nào đó của thiền định, một vài ánh sáng nào đó của
tâm thức, lóe lên - rồi người
ta rêu rao với nhau là đạt cái
này, đắc cái nọ, chứng nghiệm cái này, chứng nghiệm cái kia - nhưng khi trở về
với thức thường nghiệm, con người vẫn là cái gì bất an và đau khổ.
Buổi chiều
hôm đó, chàng kiếm một tảng đá và dựng thẳng lưng như một bức tường. Đây
là lần cuối cùng, chàng nghĩ, phải thấu suốt tự ngã hoặc làm chủ tự ngã, không
có thể kéo thêm dài ngày một cách vô ích nữa. Nếu không thành công, chàng sẽ từ
bỏ nó như từ bỏ một đại họa. Đừng nghĩ đến cái ăn cái uống nữa, sinh tử đang
thúc hối bên lưng. Đây là lần cuối cùng, phải nỗ lực để đẩy tư duy đến bến bờ
của nó. Không lẽ lý thuyết Vệ-đà chỉ đưa ta đến đó: Hòa đồng với
đại-ngã-vũ-trụ? Hòa đồng với đại ngã là để cho cái tôi, cái tiểu ngã mất tích
vào một đại dương lớn, rồi tôi sẽ không còn tôi? Chàng đã chứng nghiệm điều
này, giây phút ấy không còn xung đột thật, nhưng nó vẫn là cái phù du, thoáng
mất. Sau trạng thái ấy, pháp vẫn lôi cuốn chàng đi nếu sự tỉnh giác không đủ
chín muồi để tạo một lực tự phát. Hay là chàng phải gạn lọc mọi nhơ bợn, như
một mặt nước lắng trong? Khi lắng trong sẽ thấy rõ suốt tự ngã? Cái thấy làm
sao thay đổi tận bản căn được? Chàng đã thấy quá nhiều rồi. Và cũng có lúc
chàng đã thấy với tâm vô nhiễm. Nhưng chuyện đó hiếm hoi làm sao. Như một
khoảng xanh họa hiếm
trên bầu trời mùa đông. Như
vài giọt nắng họa hiếm dưới đám rừng dày. Sự an lành nhỏ nhoi quá giữa đời sống
này, trong tâm thức chàng. Bầu trời mùa xuân vẫn như vậy và mặt trời vẫn huy
hoàng và lồng lộng ở trên cao...
Triết Hựu xả thiền khi mặt trời đã gác
chân núi. Nội tâm đã yên lặng, dịu dàng. Chàng đi kinh hành dọc theo con đường
nhỏ nhìn hoàng hôn bắt đầu sẫm màu trên vạn vật. Ừ! Cứ thế, tâm ta hình như
đang lắng lại, những cáu bợn đã ngủ yên. Dòng tâm ta trôi chảy nhẹ nhàng và
thanh lặng làm sao. Nếu chàng không hiểu trước thì chàng sẽ tưởng là đang hòa
đồng với đại ngã vũ trụ. Ồ! Không phải vậy đâu. Chàng đã lầm lẫn tai hại. Nó
chỉ là sự trôi chảy bình lặng của con sông khi chưa qua ghềnh, xuống thác. Nó
sẽ reo ca, nó sẽ giận dữ, nó sẽ trải mình đầy dục tính giữa đại dương để giao
hoan với mặt trời. Tâm chàng đó. Tự ngã của chàng đó. Nhưng không. Hãy ở yên.
Hãy ở yên như vậy.
Với tâm bình lặng, Triết Hựu đi mãi.
Một cơn gió mạnh lùa qua làm rơi xào xạc những chiếc lá. Vạn vật như huyền vơi
đêm, một màu nhờ nhợ. Tâm chàng ngay giây phút này nó cũng huyền như vậy, không
rõ nét. Hãy bỏ tất cả tư duy và chỉ bước, nhìn và lắng nghe. Ồ! Đừng khởi lên
vấn đề gì cả. Không có vấn đề gì cả. Nội tâm vốn không có vấn đề, các pháp vốn
không có vấn đề: nó duyên sanh rồi diệt. Ồ! Hãy để yên. Đừng hỏi. Đừng trả lời.
Chỉ bước, nhìn và lắng nghe.
Mặt trăng ló ra khỏi cụm mây trắng. Có
tiếng động lạ
sạt về
phía trái
con đường, một cánh chim tung cánh lên cao và chùm cây lay động… rồi hai
bóng người hớt hải bỏ chạy. Ồ! Và chàng sững sờ, kinh ngạc. Đứng lặng: Vì đấy
rõ ràng là Quái-đầu-đà và một cô gái!
Chàng đứng lặng như vậy rất lâu.
Đến khuya, Triết Hựu mới về đến am.
Chàng cẩn thận trải tấm tọa cụ rồi ngồi thẳng lưng, tham thiền trở lại. Một
chốc, chàng lại mở mắt ra. Đứng dậy. Đi kinh hành một chốc rồi quay vào. Chàng
không ngồi yên được. Tại sao vậy? Có chuyện gì vậy? Sau cuộc đi dạo chàng thấy
gì mà lại bức rức, xốn xang, đăm chiêu và tư lự như vậy?
Không thể như thế được, chàng tự nghĩ.
Y là kẻ lên đường, một con người từ bỏ sản nghiệp và vợ con! Rồi cuối cùng lại
trở về với cái ấy? Làm sao chàng quên câu chuyện đó được, câu chuyện kể về một
nhà luận giải Vệ-đà cấp tiến, một chàng thanh niên đầy dũng khí, kẻ dám thử
thách với hư vô, đấu chiến với Sinh Tử, lại sẩy chân và sa đọa một cách đê tiện
như vậy!
- Ồ! Bạn thấy không? Tất cả mọi người đều từ chối định mệnh
của mình. Nhưng
kẻ cưu mang định mệnh mới
là kẻ từ chối định mệnh một cách khẳng liệt nhất. Không có gánh nặng nào trên
vai y. Bạn thấy đó. Tất cả đều là nụ cười và sự bình yên. Nước mắt ư? Đấy là
những hạt ngọc long lanh của cuộc đời. Là vẻ đẹp của một chuyện tình. Đấy là vẻ
đẹp xót xa và vẻ đẹp tàn úa của ngọn lá vàng trên cây xanh. Vẻ đẹp! Ồ! Bạn ơi!
Sự bất toàn, thanh gươm và đức thần hủy diệt. Thiên thu ở đấy. Đáng kính và
đáng yêu xiết bao. Thế mà tôi đã từ giã nó, từ bỏ mái nhà, đồng nội để về đây
làm một người rừng. Tôi là một kẻ vô luân.
- Một kẻ vô luân? Huynh đài hãy cẩn
thận về danh từ. Kẻ quá khinh xuất về ngôn ngữ, không cân lường được giá trị,
thể tính của ngôn ngữ thì y là một kẻ vô luân đích thị. Nhưng kẻ từ bỏ mái nhà
và đồng nội không phải là vô luân. Là một cái gì cao vời và miên viễn.
- Cao vời và miên viễn ư? Nói dóc! Cao
vời và miên viễn chính là đời sống này. Cái bình thường tâm với mọi tương quan.
Bạn đừng lý luận với tôi. Bạn là đứa trẻ con. Tôi đã dẫm lên những thánh tích
tâm linh, đền đài, núi, biển, tế bào não, tuổi tác và chữ nghĩa. Tôi đã đi đến
chỗ cuối cùng ấy. Và chỗ cuối ấy là hư vô. Tôi đã gặp hư vô, dốc cao, sa mạc và
mặt trời cháy lửa. Bạn thử tưởng tượng đi, bạn sẽ bị đốt cháy thành than. Ở
đấy. Bạn sẽ bị nuốt chửng. Bạn sẽ bị cuốn
lốc vào lòng
đại dương sâu.
Bạn sẽ bị biến mình thành
hư không. Bị chẻ vụn ra bởi lưỡi búa của đức thần hủy diệt. Ồ! Cánh cửa thật
hẹp và đỉnh cao ấy, chỉ có giá trị khơi mở một vấn đề, một cánh cửa tự do cho
tâm thức. Bạn sẽ đến đấy, đúng, nhưng đấy là ở đây, tại thế gian này! Nói đúng
hơn, văn vẻ hơn, quê hương ở chính trong viễn mộng. Điều này để dành phần
thưởng cho những hiện sinh can đảm và vô biên liều lĩnh dám rơi tỏm đời mình,
tính mệnh mình vào dòng nước xoáy, tung mình giữa khoảng không lồng lộng. Định
mệnh thắt buột ta ở mỗi lần mở mắt, chỉ có vậy mới mong bước ra! Đừng bước ra
ngoài trái đất. Nên nhớ. Nên nhớ. Đừng bước ra ngoài trái đất! Nên nhớ. Nên
nhớ!
- Huynh đài hình như đã phủ nhận trọn
vẹn cuộc đời “hành hương tâm linh” của mình, đã dừng lại, đã thất bại hay là đã
thỏa hiệp với màyà. Cái đó tùy. Nhưng tôi là kẻ còn ra đi và còn tìm kiếm. Thất
bại hoặc thỏa hiệp không có trong tôi. Tôi phải đến đất Hứa dù biết rằng mình
sẽ bị cháy thành than…
- Ra đi và tìm kiếm? Hẳn ai không là
thế? Tôi vẫn ra đi và tìm kiếm. Nhưng tôi không còn đi tới nữa. Tôi đi lui.
Nhưng tôi không đi bằng tư duy và suy tưởng. Trong bước đi của tôi có hơi thở,
máu xương, nước mắt và cả ma quỷ. Còn trong bước đi của bạn có mặt trăng, sương
mù, hư vô, thánh thần và tế bào não. Ồ! Bạn sẽ ra ngoài trái đất,
người em tội nghiệp của
tôi?
- Cảm ân huynh đài đã chỉ giáo. Nhưng
đấy chỉ là cái thấy của một người. “Cái thấy riêng tư”.
- A ha ha! Hay!
Thật là “gậy ông đập lưng
ông”.
Được lắm. Này nhé! Cái lối đi ra ngoài
trái đất ấy cũng cần thiết lắm. Ồ! Thật là ta không thể nào tưởng tượng được sự
hỗn loạn và chật chội khi con người không nhìn ra ngoài trái đất. Ồ! Quả đất sẽ
ra sao nếu chẳng có cái hư không nâng đỡ y? Thế giới sẽ như thế nào nếu toàn là
ma quỷ? Núi non, sông suối sẽ như thế nào nếu không có gió mưa, cỏ cây và sương
mù? Và tâm hồn ta sẽ thế nào nếu không có: “Lung linh nguyệt chiếu đầy sao,
mộng mơ hé cửa trần lao mỉm cười”? Cần thiết, cần thiết tất. Nhưng mà, “xin
chàng lãng tử vào chơi, đêm nay thu lạnh, đất trời nên duyên!”
Cái trí thì chỉ để mà nương tựa, còn
cái tình là để mà sống. Tất cả kinh điển mười phương phải được biến thành những
hạt mưa nhỏ long lanh trên mái tóc nhỏ yêu kiều của mùa xuân. Ồ! Thơ, hoa lá,
chim, sương khói, mây trời, tư tưởng phải kết dệt thành những thể tính bãng
lãng chắp đôi cánh tôi bay lang thang hí du ba ngàn cõi. Ồ! Và bạn ơi! Vậy là
hết câu hỏi, hết tư duy, hết ngôn ngữ. Bây giờ tôi chỉ cần sống. Và sống là
tình, là thơ, là thiên thu, là chí mỹ. Dĩ nhiên cả chí thiện nữa.
- Huynh đài
không còn cả sư
buông thả ngông cuồng cho
tự ngã ư?
- Ồ! Đừng nói xóc! Người em ôi! Tôi
thương người em lắm. Tự ngã ư? Quý giá gì nó? Một con bọ hung cũng có tự ngã
vậy. Đại ngã ư? Một con bọ chét
cũng có đại ngã vậy. Atman? Bràhman?
Tiếng “Om” linh thánh? Cái đó không phải nằm trên mây, không phải ở trong những
ngôi đền quanh năm trầm hương nhang khói. Mà nó ở đây, ở trong dòng đời tục lụy
nầy. Bạn phải bơi vào đấy để học tự ngã.
- Đừng điên. Đừng lý luận thân xác như
thế. Rồi huynh đài sẽ khổ đau.
- Ai khổ đau? Hả? Ai khổ đau đã chứ?
Vả chăng, tự do và đau khổ là một vận hành biện chứng? Nô lệ và hạnh phúc là
một vận hành biện chứng thứ hai?
Bạn muốn gì? Tự do? Nô lệ? Hạnh phúc
hay đau khổ?
- Có ai lại đi tìm nô lệ và đau khổ
bao giờ?
- Ôi! Thật là ngu si làm sao. Ngu si
không thể tưởng tượng được. Tự do và hạnh phúc không thể đứng bên nhau. Kẻ nào
muốn tự do thì phải kham nhẫn cả triệu mùa hỏa ngục, phải chất nặng cả hằng vạn
núi lửa trên vai. Bạn là một hiện sinh tự do ư? Thì bạn cứ kiếm tìm, cứ lên
đường, tôn sùng cái tôi tối thượng, cái tôi vô biên, cái tôi tuyệt đối - và bạn
phải cắn răng bịt mũi hứng chịu mười sáu ngàn quả trứng thối của thế gian. Được
chưa? Hãy là tự do đi! Còn hạnh phúc ư?
Muốn hạnh
phúc thì
cũng phải còng lưng lại,
cúi đầu xuống. Tự do thì ngửng mặt mà đạp qua than hồng, niềm sỉ nhục - còn
hạnh phúc thì phải biết lòn trôn kẻ chợ. Ồ! Không phải sao? Phải biết quỳ gối
lạy vợ. Phải biết nói
lời giả dối nịnh nọt người tình. Ồ, em đẹp lắm tuy rằng em xấu như ma.
Ồ! Anh cao thượng quá mặc dù anh là tên đĩ bợm. Thế đó, thế đó. Phải nói ngược
lại hết. Phải sống ngu như bò, dơ như heo, giả dối như sếu, gù gù như bồ câu,
dâm như dê, lệt đệt như vịt, oác oác như quạ, bươi móc như gà… Còn nữa thôi?
Hay là phải còn nhịn bụng cho con no? Phải sống nô lệ trong các quy ước của xã
hội. Phải lao tâm, lao lực, đầu tắt mặt tối hầu kiếm đồng tiền vàng cho gia
đình thân quyến? Đồng ý chưa? Đấy là hạnh phúc. Và hạnh phúc được định nghĩa là
nô lệ vậy. Cũng được định nghĩa là đau khổ vậy. Còn ta ư? Tự do và hạnh phúc
đều là cỏ rác. Thượng đế và phạm thể đều là dê và trừu. Ta là kẻ tìm về mình.
Tìm về mình và học chính mình.
… Ồ! Có lẽ vậy. Hôm đó, y đã trình bày
mọi sự một cách thật rõ ràng nhưng chàng đã vô tâm quên bẵng đó thôi. Y đã phơi
mở cả con người y để cho ta thấy sự thật bên trong. Nhưng có lẽ nào? Có lẽ nào
một con người với trí tuệ và tâm linh dường ấy lại làm những việc lén lút ám
muội? Y đã từng từ bỏ hai người vợ xinh như mộng để đến núi rừng này trong hình
thức người không phải người, dã
thú không phải dã thú để hò hẹn với người đàn bà vô danh nào đó trong bụi rậm?
Cái dáng hối hả của y và cái dáng luống cuống của người đàn bà – có một cái gì
làm cho chàng ghê
tởm. Y tập phạm
tội? Phạm tội để làm gì chứ? Để học gì nơi cái phạm tội ấy? Để tìm học
chính mình? Chỉ ngụy biện thôi. Chàng không thể nào tha thứ được. Cái đó gọi là
học thân xác. Cái đó gọi là học bản năng. Cái đó gọi là học thú vật.
Suốt đêm, Triết Hựu không chợp mắt
được. Có quá nhiều hình ảnh lẫn mộng mị lan man đã đến với chàng. Hình ảnh của
một người đã đi lên đỉnh núi cao rồi lại phải chúc đầu xuống, rơi vào lòng một
chiếc hố đen ngòm, sâu thẳm. Một bóng người đi trên miền gió ngược, tà y phất
phới dưới bóng mặt trời hồng, có cái gì hiên ngang và kiêu hãnh quá, rồi chợt
sa chân, rồi hút mất, rồi đêm tối đã nuốt chửng y. Ồ! Không phải, y đã gục ngã.
Đã nằm ngoan hiền trên chiếc giường thất bảo của nữ vương khoái lạc…! A! Nhưng
sao ai rồi cũng như vậy cả? Từ cha, từ mẹ, từ em gái, Vọng Việt, hai người tỳ
nữ, hai người con gái giữa đồng? Họ thảy đều là hiện thân của thân xác, nghĩa
là bóng tối, địa ngục và tử sinh? Bây giờ là Quái-đầu-đà. Dáng dấp hiên ngang,
cường tráng, mặt trời, biển và núi - lịch sử một thời đi khắp miền Trung Ấn vấn
đạo, từng cắm những nhánh liễu (tượng trưng sự thách đố) - ở các thị trấn hữu
danh có rất nhiều luận sư, chân sư và danh gia. Thế mà… thế mà… y lại gục ngã
nơi đây, nơi xó xỉnh hang hốc của một khu rừng, trong vòng tay của một người
đàn bà, rồi hối hả, thẹn thùng lủi đi như một tên đạo tặc. Ồ! Thật
là không thể hiểu được! Thật là tồi tệ biết bao nhiêu?
May ra, trước mắt chàng vẫn còn hai
người là vẫn còn vẹn tuyền, trinh trắng: Sư phụ và vị sa-môn đầu-đà. Ồ! Mà
phải. Đá thì nhiều mà ngọc vốn hiếm. Kẻ trí thì ít mà người
ngu thì nhiều. Cuộc đời này hơi đâu mà vuốt đuôi chó!
Gần sáng, chàng ngủ được một chốc. Ồ
không, chàng mê. Chàng bị một cơn ác mộng. Giữa con đường đầy lửa đỏ rực, nóng
cháy sém da thịt, chàng hối hả băng mình chạy. Nhưng kinh hãi thay, một con rắn
lớn thè lưỡi đỏ hỏn về phía chàng. Khoảng đường hẹp quá và hai bên là vực thẳm.
Rắn càng lúc càng lớn và phì phò tiến lại, mùi tanh tưởi xông lên nồng nặc.
Không còn ngõ thoát, chàng định quay về lối cũ. Lửa đã cháy xèo xèo tóc râu, y
áo và da thịt, nhưng chàng đã cắn răng để dẫm qua những cục than hồng. Nhưng ô
kìa, đằng sau cũng có một con rắn lớn tương tự đang nằm khoanh tròn bịt mất cả
lối đi. Khiếp đảm quá. Đã tuyệt lộ rồi. Chàng hét to lên một tiếng rồi bất
tỉnh. Bất tỉnh trong cơn ngủ là tỉnh lại sau cơn mê. Mùi tanh của rắn và mùi
khét của da thịt hình như còn phảng
phất đâu đây.
Trái tim đang còn đập bồi
hồi. Vừng trán hâm hấp nóng. Có lẽ chàng đã bị cảm. Đã hai ngày rồi chàng không
ăn gì. Giấc ác mộng kinh hoàng quá. Chàng là kẻ đã cùng đường. Mọi cánh cửa
đều đã
bị chắn lại. Tri ngã. Tri ngã. Chàng chẳng thể tri ngã được nữa rồi. Bây
giờ chàng không còn biết gì nữa hết. Không thấy gì nữa hết. Tối om. Vĩnh viễn
không còn biết đâu là đến, đâu là đi. Định mệnh săn đuổi sau lưng, niềm bất an
sừng sững ở hiện tại và hư vô nghìn nghịt ở đằng trước. Địa ngục nào đây mà
chàng đang bị vây tròng? Đâu là cõi miền tịch lặng chân phúc linh thánh? Tự do
và đau khổ là một vận hành biện chứng. Ồ! Không phải y đã từng nói như vậy rồi
sao? Tự do tâm linh là sự cứu chuộc và đóng đinh trên cây thập tự giá của
Christ. Phải mang vác thập tự giá và ra đi hành hương qua hết mọi bến miền biên
cõi của đất trích. Cô đơn, bão, vực, lửa, máu, nước mắt, nỗi buồn và hoàng hôn.
Biết đâu phải sinh thực cả rễ cây, củ rừng, niềm đau và dã thú? Thế gian đều là
bọn ma quỉ ở chung lộn với những tên ác hạnh cùng kẻ phạm tội. Chúng đều là
thân quyến với nhau. Muốn làm bậc linh thánh thì ta phải hứng chịu mười sáu
ngàn quả trứng thối, vác cả trần gian này lên vai để đi qua sa mạc. Dám lắm.
Dám lắm. Ồ! Chết còn sướng hơn là phải đầu hàng, bại trận một cách nhục nhã, vô
liêm khiết. Nhưng mà chàng còn có một niềm tin, một hơi sức, một nhịp đập của
con tim để lên đường nữa không, hay những chiếc xương sườn của ta đã bắt đầu
phế mục?
Triết Hựu ngồi bật dậy, cố đứng thẳng,
nhưng rồi lại ngã vật
xuống. Tứ chi
mỏi rời, xương cốt kêu răng rắc. Đầu óc choáng váng, tai lùng bùng. Mọi
vật quay cuồng trước mặt. Thầy ôi! Sư phụ ôi! Sao bây giờ con cô đơn quá, con
yếu đuối quá. “Hãy kham nhẫn, hãy kham nhẫn”, con sư tử trong chàng bấy lâu ngủ
yên bây giờ chợt gọi lên nho nhỏ. Gọi một tiếng rồi cũng đi đâu mất, bỏ chàng
trơ trọi một mình với nỗi buồn khổ vô hạn. Chàng thấy mình trôi nổi đảo lộn
giữa màu vàng, sền sệt bùn và máu. Chàng như mê đi, mê đi. Hình ảnh cha, hình
ảnh mẹ, hình ảnh em gái lại xuất hiện dịu dàng bên chàng. Ồ! Họ xuất hiện dịu
dàng làm sao! Một cánh tay nâng đầu chàng dậy. Cánh tay của người tình hoang,
của em gái hay mẹ? Và còn đôi mắt nữa. Đôi mắt bao la, ngọt ngào và ủi an biết
mấy. Mẹ ơi, mẹ! Và chàng thấy mình biến thành trẻ thơ trong lòng chiếc nôi nhỏ.
Người cha lại xuất hiện, gương mặt nghiêm khắc lạnh lùng. Rồi tất cả
mọi người đi cầu kinh, chàng nằm yên lặng hít mùi hương và trầm, bơi lội
thoải mái trong chiếc chăn bông ấm cúng. Căn nhà của mẹ và của cha thanh bình
và êm ả quá, có cả ngọn khói chiều, bánh kẹo cùng quà xuân xanh đỏ. Một ngày
xuân có mưa từng sợi nhỏ li ti, em
gái chàng từ Ba-la-nại về khoe với chàng cái y khăn quàng mới thêu kim tuyến,
có vị thần ngọc nữ óng ánh chiếc vương miện màu vàng ròng! Ồ! Sao yêu kiều và
hoan lạc quá. Mẹ ơi mẹ! Con khát nước. Chàng
được uống
nước rồi sau đó, uống sữa
và cơm đề hồ. Rồi mẹ chàng ca cho chàng nghe khúc ca chiến thắng của thần
Krishna trong hiện thân lão đánh xe cho vị vua trẻ ngoài chiến trận. Tiếng ca
mỗi lúc một thấp xuống, không còn rõ lời mà chỉ thoang thoảng những âm thanh
ngọt ngào quyến rũ. Âm thanh của mẹ hòa lẫn âm thanh của em gái chàng thuở xưa
bên suối với khúc ca tình ái! Rồi lại hòa lẫn khúc hát của người con gái chăn
dê mỗi buổi chiều nào chàng đi kinh hành qua núi. Người con gái có đôi má hồng
và đôi mắt long lanh tình tứ quá. Chàng đã vội cúi xuống tránh làn thu thủy rồi
bước đi…! Nhưng sao lạ, dù chàng cố xua đuổi bao nhiêu thì hình ảnh cô gái
trong tâm chàng càng hiện rõ nét. Tiếng ca phiếu diễu, phiêu bồng, như
vuốt ve, như mơn trớn làm cho ngọn gió chiều đã phải dậy tình nhẹ nhàng
đến mơn man vùng ngực cao mịn màng. Triết Hựu nóng bừng mặt và chợt ngồi bật
dậy. Ồ! Kinh hoàng quá. Ma vương đã đến quyến rũ ta trong cơn đau ngật ngây
nầy. Ồ! Hình như có ai vừa ra khỏi nơi chàng ngụ? Mùi thơm kỳ lạ của tóc, của
da thịt con gái - mà chàng không thể đánh hơi lầm - đang còn tản mạn đâu đây.
Ồ! Còn cả cơm đề hồ lưng đĩa! Ta đã làm gì trong cơn mê? Ai đã cho ta ăn trong
lúc ta bất tỉnh nhân sự? Ai đã nâng đầu ta dậy rồi hát cho ta nghe? Ồ! Còn cả
hơi ấm ở đây nữa, hơi ấm của một người con gái. Chàng hoảng quá.
Người con gái nào đã
đến săn sóc ta khi ta đau? Khi ta cảm thấy cô đơn lẫn thống khổ cùng
cực? Khi ta đang thèm khát một mái nhà? Một tuổi thơ? Một sự an ủi dịu dàng của
mẹ? “Xin vâng, xin vâng”, con cừu non bên trong chàng lại cất lên tiếng gọi yếu
ớt. Bây giờ chàng đã nhu nhược quá rồi…!
Chàng nằm lả xuống và cảm thấy hai
cánh tay mình run run. Đến chiều, quả có người con gái trở lại: người con gái
chăn dê. Chàng ngước mắt nhìn ra và thản nhiên chờ đợi.
- Cảm tạ thượng đế! Quả là chàng đã
qua khỏi cơn nguy hiểm.
Người con gái mang theo một chiếc giỏ,
bước đi nhanh nhẹn, đôi chân có những ngón hồng.
- Hồi sáng, thiếp đi qua núi, nghe
trong miếu có tiếng người mê sảng la hét. Bước vào thấy chàng. Ồ! Tội nghiệp
quá. Phần cơm của thiếp chàng chỉ dùng được một ít. Ồ! Tội nghiệp cậu tuổi trẻ
tu hành cô độc.
Người con gái nở nụ cười như đóa hoa
hồng nở buổi sáng rồi ngồi xuống bên chàng, đưa tay sờ trán:
- Còn nóng lắm. Lại hâm hấp
mồ hôi nữa. Đừng nhúc nhích, cứ nằm im.
Người con gái quay lại, lấy trong giỏ
ra một nắm lá, đưa mắt nhìn ngược xuôi, chợt thấy cái bát sắt ở trên bệ thờ,
nàng nhanh tay lấy xuống, bỏ lá vào. Triết Hựu định cản lại nhưng không còn kịp
nữa. Nàng đang giả nhỏ nắm lá bằng viên đá trong cái bát đi khất thực hằng bữa
của chàng! Cử chỉ nào của nàng cũng lanh lẹ, hoạt động, toát ra một sinh lực
hồn nhiên, nhịp nhàng, như được tuôn phát bởi một cái gì của tuổi trẻ ở bên
trong. Ồ! Nhưng mà rồi, một ngày mai nào đó cũng chỉ còn lại một nắm cốt khô
thôi chứ có hay hướm gì! Thân xác đẹp đẽ ngọc ngà ấy chỉ là cái bì da, bên
trong đựng máu mủ, nước tiểu, nước dơ, đờm, rải, phẩn, ngu si, tình dục, giận
dữ lẫn khinh mạn… mà thôi!
Triết Hựu xoay mình nằm ngửa nhìn lên
nóc miếu. Người con gái lại đến bên chàng, mùi thơm tỏa ngát trong không gian,
êm đềm và gần gũi. Nàng lại hát véo von một khúc ca tình ái mà chàng đã được
nghe thoảng trong cơn mê. Lấy chiếc khăn mặt của mình, nàng bỏ lá vào trong rồi
nhẹ nhàng, cẩn thận cột lên trán chàng.
- Rồi sẽ khỏi ngay, cưng ạ! Ồ! Không,
sa-môn chứ! Một chú sa-môn tí hon dễ thương! Ồ! Chàng sa-môn ơi! Rồi thiếp sẽ
hát cho chàng nghe khúc ca bên núi khi đức huyền mẫu Kàlì tỏ tình với thần
Shìva.
- Có đoạn ấy đâu. Thánh kinh Vệ-đà làm
gì có đoạn tỏ tình ấy?
- Có chứ! Những kẻ đạo đức giả, giả vờ
không thích tình ái, cao thượng rởm đã bỏ đoạn ấy đi. Những tên “cù lần” ấy,
chúng chẳng hiểu gì về thú yêu thương cả.
- Đừng đùa thế cô bé ạ! Vệ-đà là thánh
kinh, là cõi tinh thần sáng láng.
- Ồ! sa-môn! Đừng lý luận hợm hĩnh.
Không có tình ái, yêu thương sao lại có chuyện Kàlì là vợ của thần Shìva? Chàng
thông minh đến độ ngốc nghếch. Thôi, im đi cưng! Để thiếp hát cho chàng nghe.
“Đấy chỉ là ý nghĩa tượng trưng.”
Chàng định cất tiếng cãi lại nhưng người con gái đã hát rồi.
“Mù sương xuống che mất vòm trời sao
lộng lẫy
Ôi! Tình đẹp như mây hồng
Ôi! Tình tuyệt như sao băng
Thuở thiên địa sinh
Ta cùng chàng chia tay
Thuở thiên địa sinh
Ta cùng chàng gặp gỡ
Đấng chủ tể là nhất chân
Người chia ta làm hai ngã
Đấng chủ tể là muôn năm
Đem ta về chân ngã
Ôi! Chàng ôi!
Chiếc búa thần của chàng đâu
Bửa cái cầu tạo hóa
Sinh lực Pràna
Niềm hân hoan của cỏ
Ôi! Chàng ôi!
Lời hẹn hò một trăm năm
Thần huy hoàng cùng thần bất tử
Với lọng vàng của Purusha
Ta là thần ngã
Có bao giờ lấp?
Có bao giờ che?
Những vòm trời sao lộng lẫy
Trong khối tình ta vô biên
Trong khối tình ta toàn phúc.
Ôi! Chàng ôi!
Gió thổi từ vì sao ngâu
Ôi! Chàng ôi!
Mây sa từ vì sao quế
Sương quyện khối tình sương
Mây níu khối tình mây
Ta hợp mà ly
Ta ly mà hợp
Ý lực và uyên nguyên
Phạm thể đâu?
Ai là ngài, khả tri?
Tịch viên đâu?
Ai là ngươi, khả lượng?
Hữu tồn là giác linh
Giác linh là nẻo tử
Ai tương hợp
Ấy tương ly
Shìva hỡi, chàng hỡi!
Bắt nhịp cầu mà qua
Bổ nhịp cầu mà đến
Mối tình ta tinh vân
Sao khuê và sao khuyết
Ta làm bản hòa ca
Hủy thể chính So'ham
Thần linh trong thân xác
Shìva hỡi, chàng hỡi
Atman! “Om! Om! Om!”
…
Đến ngày thứ ba thì Triết Hựu lành hẳn
bệnh. Mỗi sáng, mỗi chiều, cô gái chăn dê đều đến săn sóc chàng, cho chàng cơm
cháo và thuốc men.
Chàng định đi khất thực trở lại vào
ngày thứ tư, sau đó chú tâm vào đề mục thiền định hầu lấy lại sức thăng bằng
nội tâm sau mấy ngày ốm bệnh. Chàng đã sa đọtận cùng. Lại xanh xao quá đỗi.
Chàng lên án mình dữ dội, đồng thời lại thấy nhớ nhung, thân thiết làm sao
những bước chân, nụ cười, mùi hương, tiếng ca, bàn tay của nàng!
Buổi sáng, chàng để tâm trôi chảy nhịp
nhàng, muốn không còn mảy may tư niệm nào, muốn tư tưởng hãy diệt mất đi, muốn
vô duy cả cuộc đời. Nhưng chàng
đã bất
lực - khi
một cơn gió qua, rơi rụng
xào xạc
những chiếc lá khô, chàng lại quay mặt lại nhìn, tưởng là nàng đến.
Chàng thẹn đỏ mặt, rồi bần thần, mệt mỏi nằm xuống. Nhưng khi có nàng, chàng
lại thấy mình nghiêm trang và đứng đắn dường bao.
- Tôi đã lành bệnh, xin cảm ân nàng.
Có lẽ tôi sẽ đi khất thực và trở lại thiền định vào ngày mai. Nàng đừng để mất
thì giờ vì tôi nữa.
Người con gái đưa tay sờ trán rồi sờ
ngực chàng:
- Ồ! Đã lành bệnh đâu. Người còn nóng
mà tim lại đập nhanh quá. Vậy là thêm một cái bệnh yếu tim!
Chàng cố gượng và lách ra xa người con
gái.
- Sao vậy? Đừng trở mình. Hãy nằm yên!
Rồi thiếp sẽ hát cho chàng nghe.
“- Ôi! Chàng ôi!
Gió thổi từ vì sao ngâu
Ôi! Chàng ôi!
Mây sa từ vì sao quế
Sương quyện khối tình sương
Mây quyện mối tình mây
Ta hợp mà ly
Ta ly mà hợp
Ý lực và uyên nguyên
Phạm thể đâu?
Ai là ngài, khả tri?
Ai là ngươi, khả lượng?
Hữu tồn là giác linh
Giác linh là nẻo tử
Ai tương hợp
Ấy tương ly
Sa-môn hỡi… chàng hỡi!
- Đừng hát nữa! Tôi van cô. Đừng hát
nữa. Tôi là sa-môn.
Cô gái cười khúc khích:
- Sa-môn không là người sao? Sa-môn
không có tình sao?
- Cô đã làm cho tôi phạm giới, cô có
biết không?
Nói xong, chàng chảy nước mắt, người
con gái lại lấy khăn lau cho chàng.
- Giới luật gì đâu mà phạm! Hãy thôi
khóc đi cưng! Ồ! Chú nhỏ sa-môn hãy nín khóc đi. Sáng nay ta lại có cái ăn
tuyệt vời. Đặc ân của chủ mẫu đó!
- Chủ mẫu nào?
- Đức mẹ tình ái của ta. Sáng nay ông
chủ bà chủ đi tạ thần vì sinh được con trai. Thiếp là tỳ nữ trong nhà nên cũng
được vài cái bánh ngon.
Nói xong, người con gái lấy từ trong xách ra hai chiếc bánh to còn
nóng, hương vị mùi nếp thơm nồng ấm và dịu dàng.
- Thiếp đã nhanh tay mượn tạm của nữ
thần hai cái thôi. Chàng một, thiếp một. Thế là vừa đôi. Ôi! Mẹ tình ái! Diễm
phúc và hoan lạc xiết bao!
Triết Hựu chợt sa sầm mặt lại:
- Nàng lại trộm cắp nữa, không biết
xấu hổ ư?
Người con gái lấy ngón tay trỏ “nhí”
vào trán chàng:
- Xấu hổ là xấu hổ cái trán này, cái
mặt này, con mắt này. Xấu hổ là xấu hổ ở trong ấy!
Triết Hựu đỏ bừng cả đôi má vì thiếu
nữ đã thấy chàng nhìn trộm nàng. Chàng nhắm mắt lại, muốn độn thổ đi. Ôi! Xấu
hổ quá. Chàng đã sa đọa đến tột cùng tâm tưởng. Tất cả tiếng gọi kêu
lý-trí-tinh-thần-sư-tử đều đã vô hiệu lực. Chàng đã hiện nguyên hình là một con
người xấu xa, đê tiện. Ô! Mà sao giá trị của tử sinh và bóng tối nó vĩ đại quá.
Từ lâu ta đã bao che bên ngoài thế giới này một lớp tinh thần sáng láng, một
lớp tinh thần linh thánh và cao thượng. Ta nhốt nó lại. Ta không dám nhìn mặt
nó. Ta khỏa lấp hoặc cố tình chối bỏ, nhưng không vì thế mà nó mất đi. Những
tình cảm, ghét mẹ, ghét cha, em gái cùng Vọng Việt phải chăng chỉ là phản ảnh
của bên trong chàng? Sự xung đột xẩy ra là bởi chàng dối trá không nhìn ra
chính mình? Sự
khổ đau xẩy ra
là do chàng không dám sống thực? Sợ rằng mình là một con người thân xác
bản năng? Sợ rằng mình không là kẻ phi thường? Ôi! Rõ ràng là tinh thần và lý
trí là những chiếc cạm bẫy bằng vàng. Nó tỏa ra ánh sáng lửa. Ở xa là hào quang
trinh tuyền chân phúc mà ở gần là nhiệt độ đốt cháy người. Nó đã lôi
cuốn ta, hấp dẫn ta chạy thất điên bát đảo - để cuối cùng, suýt bị đốt
thành than! Ô! Nơi cõi tinh thần cũng có cạm bẫy, ngươi sẽ bị hủy diệt ở đấy.
Con chim trắng một hôm nào mộng mị đã cất lời tiên tri báo triệu mà ta nào có
biết. Ta sẽ không thể bay đến đó bằng sức mình. Ta sẽ bị rơi xuống đại dương
sâu. Ngoài đảo xa kia, đấng Guru của ta cất cánh phụng hoàng, nhưng mà quả
thật, ngài đang hiện hữu trên mặt đất trần gian này, đầu trần chân đất, ăn xin
từ nhà này sang nhà khác, khổ hạnh, vô dục và bình dị xiết bao. “Bần tăng là kẻ
bình thường, nên chỉ xin sống cuộc đời bình thường. Xin ăn, bần tăng đã có bát,
bước đi, bần tăng đã có đôi chân, suy tư, bần tăng đã có trí vô tri.” Ồ! Ngài
đã không nói vậy rồi sao? Ta muốn cao thượng hơn đấng Guru của ta ư? Ồ, Không
phải đó sao? Sao bấy lâu ta lại từ chối thân xác? Từ chối thân xác là một cái
gì nghịch lý nên khổ đau. Đã bao nhiêu năm ta đã tạo nên một bãi chiến trường
khôn nguôi giữa tinh thần và thân xác mà không làm nên được một trạng thái êm
dịu bình hòa. Ta lại
muốn chạy bắt vô hạn?
Ta là gì mà dám chạy bắt vô hạn? Cả tinh thần lẫn thể xác đều là cái hữu
hạn, sinh diệt mà ta lại mất công tìm kiếm vô hạn và bất tử. Ồ! Thật là đại ngã
mạn làm sao? Rõ ràng là ta đã cuồng vọng thái quá khi từ chối mọi hiện hữu. Cả
trần gian há chỉ là cái gì vô ích và phù phiếm, mà ít nhất
cũng lập căn từ một giá trị
ngàn đời nào chứ?
Ta từ bỏ tất cả và ra đi. Ta oanh liệt
quá mà đồng thời lại ngu si quá. Bất tử là ở đây, bây giờ, ở ngay chính trong
sinh tử. Chân phúc là ở đây và bây giờ, ở nơi cõi hỗn mang tao loạn và thống
khổ này. Dòng đời là sự vận hành nhịp nhàng của tất cả mọi hiện hữu, hỗ tương
qua lại xuống lên, vào ra. Ta là một khả thể bất ly, định mệnh buộc chặt từ khi
vừa mở mắt. Vậy mà ta đã không thấy. Ta đã làm một nỗ lực đi ra ngoài thế gian
để tìm kiếm hư vô. Quái-đầu-đà đã nói đúng: Ở đấy là cái dốc cao, mặt trời lửa
và sa mạc - bạn sẽ bị đốt cháy thành than. Ta đã đến đấy và biết. Nó có giá trị
khai mở một cánh cửa tự do cho tâm thức, để cho tâm thức vươn đến tuệ giác. Là
cái không còn bị nô lệ bởi tư tưởng và thức. Tuệ giác không phải bước đi bằng
tế bào não mà phải bước đi bằng hơi thở và trái tim nóng hổi, phải cọ xát lên
thực tại bằng cả tứ chi và thân thể. Ồ! Vọng Việt cũng nói đúng nữa. Ta đi bằng
đầu óc mà vào cuộc đời. Ồ! Y là Vọng Việt mà thật ra chẳng “vọng việt" chút
nào, Ta là Triết Hựu mà ta chăng "triết hựu" chút nào. Ta
đã vọng việt qua suốt bao nhiêu chặng đường chỉ để biết rằng tên mình
chính là triết hựu từ bao giờ. Cha ta cũng là kẻ tiên tri định mệnh của ta, vậy
mà ta đã nguyền rủa ông. Mẹ ta nữa. Ôi! Xin mẹ hãy tha thứ cho con. Và Triết
Nguyệt, ta đã khinh bỉ em. Khi em chấp nhận cuộc đời
tại thế. Vọng Việt
ơi, rồi
ngươi vẫn là kẻ minh triết,
vẫn đúng là giáo chủ Minh triết giáo, ngươi vẫn là kẻ đến đích trước ta. Ồ! Có
lẽ chưa phải là vậy, y chỉ là kẻ mới thấy cái giới hạn của mình. Tuy ta đã biết
cảm thông và tha thứ cho tất cả, nhưng biết đâu, điều này cũng là cạm bẫy? Biết
đâu con đường lại có cái gì huyền nhiệm nữa? Phía trước con đường, phải tới tận
nơi rồi mới thấy, mới biết?
Bây giờ chàng
mới như thực thấy rằng, mình đã từ chối tất cả cái gì đang hiện hữu rồi
lại đi tìm kiếm một cái gì không rõ mặt. Định mệnh sau lưng, ta thường gọi thế,
nhưng định mệnh là định mệnh nào, cái gì làm nên định mệnh? Ta không biết,
không ai biết. Bây giờ thì phải biết cảm thông và tha thứ cho cuộc đời vì trong
ta cũng chính là cuộc đời. Điều kiện phát sanh đến cho mẹ, cho cha như vậy, nếu
là chàng - thì chàng có đi ra ngoài thông lệ? Bước ra khỏi từ lực của nam châm,
là sức hút của trần lao và thế tục , mà bản chất của mỗi tự hữu vốn là một cái
gì tương ưng - thuộc tính của đại dương sinh tử kia - cái nhấp nhô
lên xuống
của những hiện hữu
trong sức quay điên đảo và
vũ cuồng của vô minh và dục tính. Điều kiện phát sanh đến cho chàng, như với
người con gái chăn dê, thì ai là kẻ đủ sức để bước ra khỏi tương quan. Chàng
nhìn mình và thấy rõ ràng như vậy, mặc dầu, bên ngoài chàng có vẻ là một con
người tinh thần ghê gớm
và cao
thượng nhất -
kẻ từ chối thân xác!
Nhưng bên trong vẫn là thế tục, là
cuộc đời, là điều kiện tất yếu của mỗi hiện hữu trên mặt đất. Điều ấy ghê gớm
quá, nó có thể làm co rúm lại tâm hồn thánh thiện của kẻ lên đường. Nhưng đây
là giá trị, là định mệnh của hữu hạn, của mỗi hiện sinh trong dòng trôi chảy vô
biên của hữu hạn.
Triết Hựu thở một hơi dài. Mọi vấn đề
hầu như đã lắng dứt, đã yên nghỉ!?
Buổi chiều, chàng chờ đợi người con
gái chăn dê trở lại để giã từ ra đi. Chàng sẽ trở lại ngôi đại tự để trình bày
pháp môn tri ngã cho thầy nghe, đồng thời sám hối những tội lỗi của mình. Ô!
Không có vấn đề gì nữa. Ta là một con người tầm thường, bình thường, như thường
thôi. Thế là nhẹ hẫng. Ta từ đâu tới ư? Đây là vấn đề của vô hạn. Rồi ta sẽ về
đâu ư? Dĩ nhiên là do nhân duyên và điều kiện. Các pháp đều do nhân duyên và
điều kiện - thì ta là gì? Không phải là ta đang ở trong dòng pháp ư? Các pháp
đều sinh diệt mà ta lại muốn mình phi diệt phi sinh ư? Ồ! Mê vọng quá,
đồng thời lại tham lam
vô tận vô độ
nữa.
Tìm chân phúc, bất tử trong ý nghĩ bấy
lâu của ta, chỉ chứng tỏ cuộc đời này không thỏa mãn đủ lòng khát khao vô bờ
bến của dục vọng. Tất cả những danh từ như toàn thiện, tuyệt đối, chân ngã,
chân đế - sự hiện hữu của chúng là để làm cân bằng lại cán cân cuộc đời,
níu kéo lại
một cái gì đó đã quá đà, đã
nghiêng lệch. Ta phải thấy rõ sự thăng bằng ấy ở trong chính ta - tinh thần ở
bên này cực đoan và vật chất ở bên kia cực đoan. Sự bình an không phải là đấu
tranh giữa chúng mà là sự giàn hòa. Là sự thấy biết minh triết. Nội tâm phải là
khung trời bao dung của tình mẫu, của đất; để cho chúng nhỡn nhơ, hát ca, vui
đùa hồn nhiên, không hận thù, không ích kỷ, không oan trái, không khi mạn,
không tham vọng điên cuồng. Nội tâm phải bát ngát, mênh mông để sẵn sàng tha
thứ cho những hạt bụi nổi, những hạt cát bay, mưa sa và gió chướng. Sự thăng
bằng ấy cần thiết quá. Sự thăng bằng ấy được gọi là vô tranh và vô dục, là bình
an và dừng nghỉ. Trung đạo của đức Phật, trung dung của Khổng cũng không đi
ngoài lý trên. Do vậy, không thể có con đường từ chối thân xác, hoặc cưỡng chế
nó theo một thể cách, một phương pháp nào. Chỉ có sự hòa điệu, thấy rõ mình một
cách như thực để lên đường; nhưng không phải lên đường bằng sự xung đột và cô
lập mà phải
bằng trái tim
mở rộng đầy yêu
thương, bao dung và tha
thứ; bằng vòng tay mát dịu tình người; bằng
nụ cười hồn nhiên lạc phúc như hoa cỏ;
bằng đôi mắt sáng ngời tin tưởng và vắng lặng; bằng bước đi vững chãi lẫn khiêm
nhu của một người đã bước ra khỏi mọi giá trị; bằng vừng trán mông mênh phăng
lặng của bầu trời dịu dàng mùa thu… Và trên tất cả, là giềng mối bản căn, là
trí tuệ, đại bi của đức Phật vậy.
Suốt buổi chiều và một đêm, người con
gái không thấy đến, Triết Hựu quyết định dời ở lại đến ngày hôm sau. Chàng
không có hành trang, hành lý gì lắm: bình bát, tam y và chiếc tọa cụ! Đời sống
này giản dị và thanh tịnh xiết bao, như mây trời và cánh hạc. Và hết. Triết Hựu
đưa mắt nhìn theo lối mòn quen thuộc. Mặt trời đã lên cao. Thường thì nàng hay
đến vào giờ này, cho dê và bò ăn ngoài cánh đồng cỏ rồi nàng đi vào như luồng
gió với tiếng ca trong trẻo của những hạt sương mai. Hương hoa rừng, hương nội
cỏ tràn vào là nàng xuất hiện. Thường thì ít khi chàng thấy lầm. Phải từ giã
nàng, dù sao thì ta cũng nhờ nàng mà vượt qua được cơn bệnh hoạn do sự bế tắc
tâm linh mà có. Ồ! Có lẽ nàng cũng sẽ buồn biết bao nhiêu. Nhưng làm sao hơn?
Ta đã nguyện đem cuộc đời hèn mọn cỏ rác này hiến dâng cho thượng đế, nghĩa là
cho đại ngã và đại thể, thì chắc hẳn không thể để riêng cho một người. Tình yêu
tuyệt vời thật nhưng ta đã có
tình yêu khác, tình yêu
viên dung và viên mãn của đạo lớn. Tình yêu này không phải là dừng chân nơi một
quán trọ, một chân cầu; mà mãi mãi lên đường, mãi mãi phong sương và cát bụi,
mãi mãi với nhật nguyệt, trời cao, sông hồ và biển rộng. Ta lên đường, chưa hẳn
là hóa độ ai, chưa hẳn là để cho mình thành ra cao thượng hơn đời - mà lên
đường bằng trọn vẹn con người mình, sự hào sảng của đại dương, sự ngây ngất của
núi cùng sự hoan lạc của mùa xuân. Ta là người của mọi bến bờ, mọi quê hương.
Cô gái vẫn không thấy đến. Chàng nôn
nao trong lòng. Bước tới bước lui và nhìn. Ồ! Quả thật nàng là một con chim sơn
ca nhỏ. Ở bên nàng ta như tươi trẻ lại. Chú nhỏ sa-môn! Ngạo thật. Tóc ta đã có
vài sợi lốm đốm bạc. Nàng nhí nhảnh và quá dịu dàng. Ấm cúng biết bao nhiêu là
mấy ngày bên góc núi này. Đây là một kỉ niệm đẹp. Đừng nghĩ đây là ma, đây là
kỉ niệm đẹp. Thế gian này cần nó như cần mùa xuân và hơi thở. Ta không phải là
người ngoài thế gian. Sứ mạng của mùa xuân là cho lộc và cho hoa, sứ mạng của
nàng là cho ta thêm sinh lực cùng niềm vui trên cuộc đời này. Nhưng ta là
sa-môn, và sa-môn là phạm hạnh. Mà phạm hạnh nghĩa là xả ly, nên ta sẽ không
chấp thủ, ái trước bất cứ cái gì trên trần gian này cả. Nàng hãy đến và ta sẽ
nói lời xả ly, sẽ giã từ. Chắc nàng sẽ nhìn ta ngạc nhiên, say đắm, đỏ lệ. Rồi
ta sẽ giải thích cho nàng nghe thế
nào là tình yêu vị kỷ của thế gian, những tình yêu buộc ràng và đau khổ, những
tình yêu đem đến nước mắt, đôi khi cả thù hận nữa. Nàng hãy hi sinh tình yêu
nhỏ hẹp của mình để rồi sẽ gặp lại ta trong khối tình vô biên.
Triết Hựu một lần nữa lại nôn nóng
trong lòng. Bất giác chàng khoa chân bước theo con đường nhỏ về
làng, con đường
mà hằng
bữa chàng
đã đi khất thực. Những xóm
nhà ở phía dưới xa kia và đây là một vùng hoang quạnh, có những cánh đồng cỏ
xanh ven chân núi. Trên cánh đồng, và dọc theo con lộ là nơi gặp gỡ chơi đùa
của trẻ chăn dê, chăn bò... Chàng đưa mắt một lượt, cố ý, không hy vọng, kiếm
tìm bóng dáng cô gái nơi cánh đồng ấy. Có một bọn trẻ đang đổ xô lại chỗ lùm
cây. Triết Hựu lại nôn nao trong lòng rồi bước nhanh đến hướng ấy. Bò và dê vẫn
đủng đỉnh gặm cỏ một cách bình yên và thoải mái.
Chàng đã đến nơi đám đông, bọn chúng
dạt ra.
- Ông sa-môn đến! Hãy cứu chị Paduma!
- Rắn độc cắn.
- Chị Paduma đã chết rồi.
Chàng đứng sững lại. Paduma! Paduma!
Liên Hoa! Liên Hoa! Nàng đã chết ư? Cô gái nằm nghiêng một chân co lên, khuôn
mặt tái xanh. Chàng quỳ xuống rồi nắm tay nàng. Cánh tay sưng phù và tím bầm.
Chàng nghe như còn nhịp đập yếu ớt ở hổ khâu tay của nàng. Người con gái chợt
co rúm người lại, các bắp thịt ở trên mặt cũng thế. Nhân dạng người con gái
hoàn toàn biến đổi. Sự sống ở trong nàng như muốn cựa mình để thoát ra. Triết
Hựu thấy mình bình tĩnh hơn cả chàng tưởng, tuy trái tim chàng dường như co
thắt lại. Chàng không hề chảy một giọt nước mắt. Ô! Thế là dấu hiệu tiêu vong
của một cuộc đời! Một kiếp
thanh xuân
đã đi
về hủy diệt! Những cánh bướm trắng nhởn nhơ trong mắt chàng đang bay vào
vùng mặt trời lửa. Những cọng cỏ non vừa lên xanh mũm mĩm thì một trận mưa
tuyết phủ ập xuống. Triết Hựu muốn che mặt đi nhưng rồi lại mở trừng ra nhìn
khuôn mặt đã xám ngoét của cô gái. Chàng không biết mình phải làm gì, bối rối
và lúng túng làm sao. Trước cái chết chàng như cảm thấy mình bất lực hơn.
- Paduma! Paduma! Chú sa-môn đây. Chú
sa-môn đang ngồi bên nàng đây, Paduma!
Chàng gọi nhỏ, chú tâm vào sự sống
mong manh đang còn nhúc nhích ở nơi đôi mắt nàng.
- Paduma! Sa-môn sẽ hát bài ca tình ái
của chủ mẫu cho nàng nghe nhé!
Và thế là không kể đến mọi người, trẻ
nít, người lớn đã bắt đầu bu lại, chàng cất tiếng hát:
“Ôi! Nàng ôi!
Gió thổi từ vì sao ngân
Ôi! Nàng ôi! Mây sa từ vì sao quế
Sương quyện khối tình sương
Mây quyện khối tình mây…
Tiếng hát của một sa-môn - mới hát lần
đầu tiên trong đời này - nghe có một cái gì thật thà, ngô nghê và bi thảm làm
sao! Giọng chàng ồ ề, kéo hơi nhừa nhựa, đôi khi lại lên cao đột ngột. Và đôi
khi, không phải chàng
hát - mà
chàng hét! Đám
đông cười
ồ!
Nhưng không, một lúc sau, họ đã thật
sự bị lời ca cuốn hút, vây chặt, nghẹt thở. Ôi! Bài ca tuyệt vời làm sao, nhất
là được thở ra, tuôn phát ra từ một lồng ngực trinh tuyền, trong trắng, nhiệt
tình, trọn cả tâm hồn. Ồ! Và bây giờ chàng không còn ngồi nữa, mà chàng đứng
dậy, mở rộng vòng tay ra như ôm trọn cả vũ trụ vào lòng, như nói chuyện với
thượng đế trên cao:
Ta hợp mà ly
Ta ly mà hợp
Phạm thể đâu?
Ai là ngài, khả tri?
Tịch viên đâu?
Ai là ngươi, khả lượng?
…
Ôi! Tình đẹp như mây hồng
Ôi! Tình tuyệt như sao băng
Thuở thiên địa sinh
Ta cùng chàng gặp gỡ
Thuở thiên địa sinh
Ta cùng chàng chia tay…
Paduma hỡi! Nàng hỡi!
Mối tình ta tinh vân
Sao khuê và sao khuyết
Ôi! Nàng ôi!
Lời hẹn hò một trăm năm
Thần huy hoàng và thần bất tử
… Ôi! Nàng ôi!
Sương quyện khối tình sương
Mây quyện khối tình mây…
Chàng hát tới hát lui mãi. Hay chỉ là
hát những đoạn nào còn lưu lại trong tâm thức. Chàng hát một cách say sưa, chỉ
có chàng, thiên địa và một khối tình. Ngay giây phút ấy, thế gian vắng mặt.
Danh lợi, quyền uy, địa vị, vương tước, phải trái, hơn thua, khen chê, atman,
bóng tối, ánh sáng, tinh thần, thân xác, vong ngã, đại ngã, chân tri, chân
phúc… đều vắng mặt cả. Chỉ có duy nhất một trái tim mở rộng yêu thương, chất
ngất, đầy tràn, thổn thức và đau khổ…
Chàng hát. Và bắt đầu những hình ảnh
quay cuồng trước mặt. Những giọng nói, tiếng cười, dáng đi của nàng đều hiển
hiện rõ ràng trong chàng. Rồi hình ảnh ấy lại vội tan biến bởi những miệng núi
lửa, dốc cao và sa mạc. Từng cõi chết đìu hiu, hoang vắng, thê lương lại hiện
ra. Nàng ngồi trên con tuấn mã bay qua một miệng vực, lửa từ bên dưới bốc lên
cháy xém mái tóc và mảnh sari trắng phần phật theo chiều gió ngược. Những con
chim cánh đen chao lượn trên cao rồi đâm bổ xuống những xác chết, hót những
tiếng hót não nùng, tha đi những ngón tay hồng, những ngón chân hồng. Con cú
đứng chơ vơ trên đầu một mõm đá rúc lên từng hồi dài; mỗi âm thanh là mỗi mũi
gai nhọn đâm sâu vào trái tim chàng làm chàng đau nhức, té xỉu rồi ngã xuống.
Ồ! Có những tiếng nói xa xôi nào bên
tai, rồi một tiếng hú khác từ xa đến gần. Paduma đã chết. Chị Paduma đã bị
“người rừng” cõng đi. Chàng không nghe tiếng rõ lắm, nhưng ý thức trong chàng
đã bắt đầu động đậy. Ông sa-môn này điên chắc! Ồ! Điên vì tình, thú vị làm sao.
Y ở nơi cái am kia đã mấy tháng nay. Rất nhiều lời bàn tán về chàng như vậy.
Chị Paduma cho y bánh, sữa và ái tình; nhưng thật sự chị là vợ của “người rừng”
kia, vợ dọc bờ dọc bụi. Triết Hựu lùng bùng trong tai và chàng đã ngồi bật dậy
như là một lực tự phát.
- Paduma! Paduma!
Chàng hốt hoảng gọi. Đám đông cười ồ.
- Paduma của ông sa-môn, “người rừng”
đã mang đi rồi ạ!
Không còn xác Paduma ở đấy nữa. Đám
đông lẻ tẻ bỏ đi. Một vài lời bàn tán là còn lại. Rắn mai tại chỗ,
rắn hổ về nhà,
gớm thật. Không. Một con
rắn xanh chỉ nhỏ bằng mút đũa. Tiếc là không có “thầy rắn” ở đây, chị ấy
có thể được cứu sống. Tội nghiệp Paduma! Gái chưa chồng. Xí chưa chồng! Chưa
chồng mà lại năm ba bảy ông. Năm với ba là tám, tám với bảy là mười lăm; trong
đó có kể lão “người rừng hồi nãy không? Chưa kể, lão người rừng với gã sa-môn
này chưa kể…
Triết
Hựu ngồi
trân mặt tại chỗ, cố gắng
đừng cho lọt vào tai tất cả những lời bàn tán tục tỉu sau đó của họ. “Người
rừng” mà họ vừa nói, chàng dư biết là ai. Ừ! Quả thật ta không ngờ nàng trong
trắng dường ấy mà rồi bên trong lại quá tệ hại; một người con gái như nàng có
thể là kẻ đồng lõa với bóng tối để làm những việc lén lút được chăng? Chàng đã
bị tổn thương quá nặng nề mất rồi. Cuộc đời này chúng đã khinh mạn vấy bùn ô uế
lên trái tim trinh bạch của chàng. Ma quỉ đã vỗ tay và cười cợt trong lần thất
bại và khánh kiệt toàn diện này. Khánh kiệt tất cả mọi gia tài; niềm tin, hy
vọng, lối đến, lối về. Ôi! Thanh gươm của đức Kàlì mới bạo tàn, vô nhân, kinh
khiếp dường bao. Một chút yêu thương vừa mới chớm nở thì thần Shìva đã cho
người đến tước đoạt đi. Chẳng còn vòm trời nào nữa cả. Những vòm trời đầy sao
đã tắt. Những đám mây trôi bàng bạc, nhẹ nhàng, vô ưu, vô lự cũng không còn
nữa. “Mây quyện khối tình mây, sương quyện
khối tình sương.” Tất cả là màyà.
Tất cả đều không thực.
Trái tim, khối óc, mọi quan năng đã
bắt đầu đông lại, kết tụ thành một sự sống ráo hoảnh; một sự sống không còn
liên hệ với mọi sự sống, hay đã mất hút, mù tăm vào một đại dương nào. Những ý
nghĩ cựa quậy sau những lớp tế bào não, nhưng nó không còn đủ sức đứng lên để
gọi kêu sự hiện hữu nữa. Chúng đã
bệnh hoạn,
tật nguyền,
ghẻ lở; thân thể chúng đã
mọc đầy mụn độc do sự trước nhiễm khi hít thở, va chạm thế giới lý niệm và tư
tưởng. Mấy cái mụt đỏ hỏn, bầy nhầy thịt thối, xác ma của quá khứ hắt hiu tương
ưng với quạ, kên kên và những chú ruồi xanh. Đó! Thế giới tư duy của chàng! Bịt
chặt cửa sổ tâm linh lại, những cái xác tử thi lại thò đầu vào, qua những vuông
song bằng kiếng đỏ thúc hối sự hủy diệt và tối tăm lên đường. Và; bây giờ,
trong từng khoảnh khắc, từng khoảnh khắc; khi đời sống im tiếng, co mình, lặng
lẽ - thì mật nghĩa đời sống lại đến với chàng. Từ trong cái hương vị ẩm ướt và
hôi hám của sự chết chóc, qua lớp lá vàng úa phủ đầy, qua những hiện hữu vô
danh xa lạ với đôi mắt lờ đờ vẩn đục, dáng đi hớt hải; qua lớp ống khói đã đặc
đầy cả hằng triệu kỷ nguyên tâm thức đổ tuôn ra; nức mầm ra: mộng và thực,
thiệt và hư - từ trong thai bào một mẹ một cha. Ôi! Vô lượng mật nghĩa cứ thay
phiên nhau, thứ lớp, chồng chất; sự êm đềm, sự mỉa mai, sự tủi hổ,
khó khăn và quanh vinh - biến đổi từ
ánh sáng qua bóng tối; từ bóng tối qua ánh sáng; thiên đường và địa ngục; sống
và chết. Những thân thể trần truồng ôm nhau đú đởn, hát ca cuồng loạn; máu rỉ
ra từ đôi vú căng sữa; gươm và đao cọ xát nhau bật lên những tiếng cười ngất
ngây hoan lạc. Cái thế giới tưởng là riêng biệt có hào quang, trật tự, xán lạn,
thiện và mỹ - bỗng dưng đìu hiu và hoang vắng vô cùng - chẳng có thể cứu chuộc
được trần gian; khi mà, từ sát na của nọa tính, mọi hiện hữu đã từ chối nhất
thể và ra đi; nghĩa là từ “đỉnh cao” để bước xuống cõi “lãng đãng mù sương”.
Khi đã thấy rõ tất cả những điều ấy,
chàng thấy mình chìm lắng vào một cõi hoang sâu, tách rời đồng loại, tìm ra
chính mình từ một sơ thủy xa xăm, thuở chưa có vũ trụ và tinh cầu. Từ ngón chân
lên đến đỉnh đầu chàng, chợt nức ra sự vĩnh cửu - và thân xác đi qua các cuộc
hóa sinh phải bị vỡ đi, bị thiêu đốt - để đứa con mới mẻ là chân ngã lộ hiện
nguyên hình là “khuôn mặt tôi” - mà chưa ai quen biết, cả trần gian này. Nó
bước ra, "con người nội tâm" ấy, kẻ lạ mặt chưa hề có một lịch sử, đời sống,
kiến thức, tình yêu thương cũng như lòng cừu hận. Y lặng lẽ đến bên chàng, nụ
cười hồn nhiên như đứa con đỏ; quỳ xuống và cảm tạ chàng. Y mấp máy môi - và
rồi, địa cầu sụp xuống; lịch sử, thời
đại, kỷ nguyên sụp xuống - bởi vì
nó không hề có trọng lượng. Nhưng thế giới ba ngàn không chịu đựng nổi sức nặng
ghê gớm của đôi chân y: vô dục, vô duy và tịch mặc. Ôi! Nó hoang dã, ngây thơ,
vô luân và vô tính làm sao?
Khi Triết Hựu đứng lên thì "cơn mộng
lớn" cũng vừa tan biến. Cánh đồng cỏ đã qua một đêm rồi, một đêm hay cả hằng
đại kiếp của trái đất thì nó cũng không
hề khác hơn. Hình như có sương
đọng trên vai chàng, thấm lạnh. Mầu xanh lam trải trong tầm mắt. Phía xa xa,
trời đất một màu bụi đục, khói mây trộn lẫn, tan nhòa, bàng bạc…
Chàng cất bước chân thứ nhất trong
đời! Phải, bây giờ mới chỉ là bước chân thứ nhất thôi! Chàng mới bắt đầu sống
lại, tỉnh giấc qua giấc ngủ hằng triệu năm, hay hơn thế nữa; hoặc là qua cơn
mộng lê thê của mấy kiếp ngân hà; hoặc hơn thế nữa; từ cõi chết vô danh, kinh
khiếp, huy hoàng, lặng lẽ, bí mật và tối đen. Chàng cất bước chân thứ hai, thời
gian ngừng lại, như chưa hề qua một sát na nào hay cũng như bước ra từ vĩnh
cửu. Ôi! Bước chân không hề máy động, không một niệm nào bị phóng đi! Nó bước
đi, trầm tĩnh và kiêu hùng của một đỉnh núi. Nó bước đi mà vẫn yên trụ từ khởi
điểm, dường như bôn ba, lưu lạc mà nó vẫn chưa rời quê hương một phút giây nào.
Ồ! Nó không hề chiếm một khoảng không gian nào ở phía trước. Bây giờ chàng mới
biết rằng, chàng vốn là một chiếc bóng từ bao giờ!...
Đến một ngọn đồi cao thì chàng đứng lại. Chàng đưa mắt nhìn khắp bốn
phương trời. Nội tâm chàng bây giờ là vũ trụ, đồng thời là một cái gì trinh
tuyền không vấy
bẩn một
hạt bụi;
không nói
vạn hữu ở trong hay bên
ngoài, nhưng nó đầy đủ cả, sinh đồng thời hay chưa sinh thì cũng y nhau. Nhưng
"con người nội tâm" thì quả thật, chưa hề có ý niệm sinh và chưa hề có một quê
hương.
Chàng vốn chưa được sinh ra và chưa hề
có một quê hương.