Trung Tâm Hộ Tông  Trang Chủ


Lễ Dâng Y Kathina

Soạn giả: Hộ Pháp


Quả Báu Của Lễ Dâng Y Thường Dùng Với Dâng Y Kathina

Quả báu của lễ dâng y thường dùng

Thí chủ có đức tin trong sạch nơi Taṃ Bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, cung kính làm lễ dâng các y thường dùng đến cá nhân Tỳ khưu (paṭipuggalikadāna) hoặc dâng đến chư Tỳ khưu Tăng (saṃghikadāna). Sau khi thí chủ đã thành tựu được phước thiện dâng y rồi, quả báu của phước thiện dâng y vô cùng phong phú tuỳ theo lời phát nguyện của thí chủ.

Ví dụ:

Tích Đức Bồ Tát kiếp đầu tiên của Đức Phật Gotaṃa được tóm lược như sau:

Đức Thế Tôn ngự trên tảng đá quý cùng với số đông chư Tỳ khưu Tăng ở ven rừng có nhiều cây hoa thơm gần hồ Anotatta. Khi ấy Đức Thế Tôn truyền dạy về thiện nghiệp của Ngài đã tạo trong tiền kiếp đầu tiên rằng:

Này chư Tỳ khưu, các con nên lắng nghe thiện nghiệp mà Như Lai đã tạo trong tiền kiếp. Như Lai thấy một vị Tỳ khưu hành pháp hạnh đầu đà sống trong rừng, nên phát sinh đức tin trong sạch, bèn dâng cúng dường đến vị Tỳ khưu ấy một tấm vải cũ. Ngay khi ấy, Như Lai phát sinh tâm đại bi, có ý nguyện muốn trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, để tế độ cứu vớt chúng sinh thoát khỏi biển khổ tử sanh luân hồi trong ba giới bốn loài. Đó là tiền kiếp Đức Bồ Tát đầu tiên của Như Lai có ý nguyện trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Chính nhờ thiện nghiệp bố thí cúng dường “tấm vải cũ” trong tiền kiếp đầu tiên ấy, dẫn đến kiếp hiện tại đã trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, có danh hiệu Đức Phật Gotaṃa.[1]

Tích chuyện tiền kiếp của Ngài Đại đức Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇattherī, bậc Thánh nữ Tối Thượng Thanh Văn đệ tử của Đức Phật Gotaṃa, xuất sắc nhất về thần thông, được tóm lược như sau:

Trong thời quá khứ, tại Vương quốc Bàrànasi(2), tiền kiếp của Ngài Đại đức Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇattherī là một cô gái sinh trong một gia đình nghèo khó. Vào ngày lễ hội, cô nhìn thấy các cô gái khác cùng trang lứa, ăn mặc y phục bằng tấm vải choàng màu đỏ đắt giá rất đẹp, khiến cô thèm được mặc tấm vải choàng màu đỏ ay. Cô về xin cha mẹ mua cho cô tấm vải ấy, cha mẹ an ủi cô rằng:

-         Này con yêu quý! gia đình ta nghèo khó, thiếu thốn, hằng ngày cha mẹ làm lụng vất vả, cực nhọc, lo kiếm miếng ăn, cái mặc thô sơ còn chưa đủ, làm sao mua sắm được tấm vải choàng đắt giá sang trọng như vậy, hỡi con!

-         Thưa cha mẹ, nếu vậy, xin phép cha mẹ cho con đi làm thuê, ở mướn trong một gia đình giàu nào đó, qua một thời gian, người chủ nhà thấy con làm được việc, sẽ cho con tấm vải ấy.

Được cha mẹ cho phép, cô gái đến xin làm thuê, ở mướn trong một gia đình phú hộ. Cô thưa với ông bà chủ rằng:

-         Thưa ông bà phú hộ, con xin ở đây làm công, chỉ mong ước được tấm vải choàng đỏ mà thôi.

Ông bà phú hộ đặt điều kiện với cô rằng:

-         Nếu ngươi chịu ở đây, làm việc giỏi suốt 3 năm, chúng ta xét thấy xứng đáng, chúng ta sẽ cho ngươi tấm vải choàng màu đỏ, mà ngươi ước muốn.

Cô gái vô cùng hoan hỷ, chấp thuận điều kiện của ông bà phú hộ. Ngày đêm cô siêng năng cần mẫn làm tốt mọi công việc. Tuy cô làm chưa đủ 3 năm, nhưng ông bà phú hộ xét thấy cô rất xứng đáng được khen thưởng, nên một hôm gọi cô đến và bảo rằng:

-         Hôm nay chúng ta ban tặng cho ngươi tấm vải choàng màu đỏ và các tấm vải khác. Ngươi hãy nên đi tắm cho sạch sẽ rồi mặc tấm vải choàng này.

Cô gái vô cùng sung sướng nhận tấm vải màu đỏ, thoả lòng mong ước từ lâu. Cô cám ơn ông bà phú hộ.

Cô cùng nhóm bạn gái đi đến bên sông, cô đặt tấm vải trên bờ và nghĩ rằng: “Xuống sông tắm xong, ta sẽ mặc tấm vải choàng này. Có được tấm vải choàng này, ta phải làm công vất vả ngày đêm, suốt thời gian gần 3 năm qua

Ngay khi ấy, một vị Đại đức là bậc Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Phật Kassapa bị mất trộm tất cả y, nên Ngài mặc tấm y dệt bằng chỉ gai thô đi ngang qua nơi ấy. Cô gái nhìn thấy Ngài và nghĩ rằng:

Vị Đại đức này bị mất trộm y, nên Ngài mặc tấm y như vậy. Còn ta có được tấm vải choàng này, phải làm công vất vả ngày đêm, suốt thời gian gần 3 năm. Bởi vì trong quá khứ, tiền kiếp ta không làm phước bố thí vải, cho nên kiếp hiện tại này, ta phải chịu cảnh nghèo khổ thiếu thốn như thế này. Bây giờ ta nên làm phước thiện dâng một nửa tấm vải choàng đến Ngài Đại đức

Nghĩ xong, cô vội vã bước lên bờ, mặc y phục cũ xong rồi bạch với Ngài rằng:

-         Kính bạch Ngài Đại đức, kính thỉnh Ngài dừng lại một giây lát.

Cô đến đảnh lễ Ngài rồi ngồi tại nơi ấy, xé tấm vải thành 2 tấm, cô cung kính dâng đến Ngài một nửa tấm vải. Ngài tạm lánh vào chỗ kín thay tấm y cũ bằng nửa tấm vải choàng ấy, mặc nghiêm chỉnh xong, Ngài bước ra. Bây giờ, cô nhìn thấy Ngài Đại đức mặc nửa tấm vải vào, rất trang nghiêm, làm cho cô vô cùng hoan hỷ. Cô kính xin dâng đến Ngài một nửa tấm vải choàng còn lại rồi phát nguyện rằng:

Kính bạch Ngài, trong vòng tử sinh luân hồi, con nguyện kiếp nào cũng là người nữ xinh đẹp nhất, làm cho người nam nào nhìn thấy con, họ đều bị mê hồn, mất trí, không còn biết mình nữa. Con sẽ là người phụ nữ xinh đẹp tuyệt trần”.            

Cô gái ấy, sau khi chết, do năng lực phước thiện dâng tấm vải cho quả tái sinh, khi thì tái sinh làm thiên nữ trên cõi trời, là một thiên nữ xinh đẹp nhất, có hào quang sáng ngời hơn tất cả các chư thiên khác; khi thì tái sinh làm người nữ, là một cô gái xinh đẹp tuyệt trần, không một ai sánh bằng. Như kiếp tái sinh làm con gái của ông phú hộ Tiritivaccha tại kinh thành Ariṭṭha, cô có tên là Ummādandī, có nghĩa là cô gái có sắc đẹp làm mê hồn. Thật vậy, những người đàn ông mới nhìn thấy cô, họ đều say mê, mất trí như người điên, như người say, say bởi tâm tham ái.

Thời kỳ Đức Phật Gotaṃa xuất hiện trên thế gian, hậu thân của cô gái nghèo dâng tấm vải choàng đến Ngài Đại đức, bậc Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Phật Kassapa trong thời quá khứ, do phước thiện dâng tấm vải choàng ấy cho quả tái sinh kiếp chót làm con gái ông phú hộ xứ Sàvatthi, cô xinh đẹp tuyệt trần, rất trang trọng, thật đáng chiêm ngưỡng, nên được đặt tên la Uppalavaṇṇā. Khi cô trưởng thành thì Đức vua các nước lớn nhỏ, các phú hộ đều đến cầu hôn với cô. Ông phú hộ phụ thân của cô không thể gả cô cho một người nào được, ông khuyên dạy cô nên từ bỏ nhà đi xuất gia trở thành Tỳ khưu ni. Vốn kiếp này là kiếp chót của cô, cho nên, khi nghe thân phụ khuyên dạy như vậy, cô vô cùng hoan hỷ nghe lời khuyên dạy ấy. Cô được phép xuất gia trở thành Tỳ khưu ni, sau đó không lâu, Tỳ khưu ni Uppalavanna thực hành thiền tuệ, chứng đắc thành bậc Thánh Arahán cùng với Tứ tuệ phân tích, đặc biệt có Lục thông xuất sắc hơn các hàng nữ Thanh Văn của Đức Phật Gotaṃa.

“Đức Thế Tôn tuyên dương Ngài Đại đức Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇattherī là bậc Thánh nữ Tối Thượng Thanh Văn đệ tử của Đức Phật Gotaṃa, xuất sắc nhất về thần thông trong các hàng nữ Thanh Văn”.

Như vậy, quả báu của phước thiện dâng tấm vải choàng của cô gái nghèo, thật vô cùng phong phú từ kiếp này sang kiếp khác, cho đến kiếp chót trở thành bậc Thánh nữ Arahán Tối Thượng Thanh Văn đệ tử của Đức Phật Gotaṃa.

       Quả Báu Của Phước Thiện Bố Thí Một Tấm Choàng

*     Sự tích ông Bàlamôn Cūḷekasāṭaka(3)

Đức Phật đang ngự tại ngôi chùa Jetavana gần kinh thành Sàvatthi, Ngài thuyết giảng đề cập đến ông Bàlamôn tên Cūḷekasāṭaka được tóm lược như sau:

Trong kinh thành Sàvatthi, có ông Bàlamôn Cūḷekasāṭaka, ông Bàlamôn này có một tấm choàng. Tấm choàng ấy là tài sản chung của vợ chồng ông Bàlamôn. Mỗi khi ông hay bà đi ra khỏi nhà, thì mới mặc tấm choàng ấy.

Một hôm, nghe tin Đức Phật thuyết pháp tại ngôi chùa Jetavana, ông Bàlamôn nói với bà Bàlamôn rằng:

- Này bà, hôm nay Đức Phật thuyết pháp tại ngôi chùa Jetavana, vợ chồng chúng ta chỉ có một tấm choàng, cho nên, chúng ta không thể cùng nhau đi chung được. Vậy bà đi nghe pháp ban ngày hay ban đêm?

Bà Bàlamôn thưa với chồng rằng:

- Này ông, tôi sẽ đi nghe pháp ban ngày, còn ông nên đi ban đêm.

Đêm hôm ấy, ông Bàlamôn đi đến ngôi chùa Jetavana, ngồi phía trước Đức Phật. Khi nghe Đức Phật thuyết pháp, ông liền phát sinh tâm hỷ lạc, có đức tin trong sạch nơi Đức Thế Tôn, ông muốn cúng dường đến Đức Thế Tôn tấm choàng mà ông đang mặc trên thân. Nhưng ngay khi ấy, do tâm keo kiệt bủn xỉn gấp ngàn lần phát sinh, nên ông nghĩ lại rằng: “Nếu ta cúng dường tấm choàng này đến Đức Thế Tôn, thì không chỉ có ta mà còn vợ của ta cũng sẽ không còn tấm nào để mặc nữa”.

Một lần nữa, đức tin trong sạch nơi Đức Thế Tôn lại phát sinh, tiếp theo tâm bủn xỉn keo kiệt ngàn lần lại phát sinh, đè bẹp đức tin. Ông Bàlamôn suy đi xét lại rằng: “Ta có nên cúng dường hay không nên cúng dường tấm choàng này đến Đức Thế Tôn?”. Suốt canh đầu đêm đã trôi qua, hễ đức tin phát sinh càng mạnh, thì tâm keo kiệt bủn xỉn cũng phát sinh càng mạnh, tự đấu tranh giằng co giữa đức tin với tâm keo kiệt bủn xỉn; bước sang canh giữa đêm vẫn chưa phân thắng bại. Đến canh chót, ông Bàlamôn suy xét kỹ càng và phân trích rõ ràng rằng: “Đức tin của ta với tâm keo kiệt bủn xỉn tranh đấu giằng co suốt 2 canh rồi, nếu để tâm keo kiệt bủn xỉn tăng trưởng thì nó chỉ dẫn dắt ta sa đọa trong 4 cõi ác giới: Địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh mà thôi”. Suy xét và phân tích rõ ràng như vậy, đức tin trong sạch nơi Đức Thế Tôn lại phát sinh mạnh, đè bẹp được tâm keo kiệt bủn xỉn; ông Bàlamôn liền đưa hai tay cởi tấm choàng đặt dưới bàn chân của Đức Thế Tôn, cung kính cúng dường đến Ngài. Ông Bàlamôn vô cùng hoan hỷ sung sướng lên tiếng 3 lần:

“Jitaṃ me! Jitaṃ me! Jitaṃ me!”

“Ta được thắng rồi! Ta được thắng rồi! Ta được  thắng rồi!”

Đức vua Pasenadi Kosala đang ngồi nghe Đức Phật thuyết pháp, Đức vua truyền gọi vị quan cận thần đến hỏi ông Bàlamôn kia: “Ông thắng ai?”.

Vị quan đến hỏi ông Bàlamôn biết rõ sự việc, đến tâu lên Đức vua. Đức vua nghĩ rằng: “Vị Bàlamôn này làm được việc khó làm, ta nên ban thưởng cho y”.

Đức vua truyền lệnh mang 2 tấm choàng đến để ban thưởng cho ông Bàlamôn. Ông Bàlamôn lại cung kính cúng dường 2 tấm choàng ấy đến Đức Thế Tôn.

Thấy vậy, Đức vua ban cho ông 4 tấm choàng, ông cũng cung kính cúng dường đến Đức Thế Tôn. Cứ như vậy, Đức vua ban cho ông 8 tấm choàng, 16 tấm choàng, 32 tấm choàng, 64 tấm choàng. Ông Bàlamôn nghĩ rằng: “Mỗi lần ta cung kính cúng dường hết các tấm choàng đến Đức Thế Tôn, Đức vua lại ban thưởng cho ta gấp đôi. Vậy lần này ta chỉ cung kính cúng dường đến Đức Thế Tôn 60 tấm choàng, còn lại 4 tấm choàng, phần của ta 2 tấm choàng và vợ của ta 2 tấm choàng”.

Đức vua nghĩ rằng: “Vị Bàlamôn này làm được việc khó làm, trong cung điện của ta có 2 tấm gấm quý giá, 100 ngàn đồng kapàpana, ta sẽ ban thưởng đến vị Bàlamôn này”.

Ông Bàlamôn nhận 2 tấm gấm quý giá mà Đức vua ban cho ông, ông nghĩ rằng: “2 tấm gấm quý giá này ta không nên sử dụng, ta chỉ nên cúng dường đến Đức Phật cùng chư Đại đức Tăng mà thôi. Vậy, một tấm gấm làm tấm trải chỗ nằm của Đức Phật trong cốc Gadhakuṭi, và một tấm gấm còn lại làm tấm trải chỗ ngồi của chư Đại đức Tăng thọ thực trong nhà của ta”. Ông Bàlamôn thực hiện theo ý nghĩ của ông.

Một buổi chiều, Đức vua Pasenadi Kosala đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn tại cốc Gadhakuṭi trong ngôi chùa Jetavana, nhìn thấy tấm gấm quý giá trải trên chỗ nằm của Đức Phật, Đức vua bèn bạch hỏi Đức Thế Tôn rằng:

-        Kính bạch Đức Thế Tôn, thí chủ nào cúng dường tấm gấm quý giá ấy? Bạch Ngài.

Đức Thế Tôn truyền dạy rằng:

-        Này Đại vương, ông Bàlamôn Cūḷekasāṭaka cúng dường Như Lai tấm gấm quý giá ấy.

Đức vua Pasenadi Kosala nói rằng:

-        Vị Bàlamôn của ta thật đáng mến!

Đức vua ban cho ông Bàlamôn 4 con voi, 4 con ngựa, 4.000 đồng kahàpana, 4 người đàn bà, 4 người tớ gái, 4 người đàn ông, 4 làng để thâu thuế. Đức vua đã ban cho ông Bàlamôn gồm có 7 thứ, mà mỗi thứ có 4.

Tại giảng đường, chư Tỳ khưu tụ hội bàn luận về ông Bàlamôn Cūḷekasāṭaka rằng:

Thật lạ thường, ông Bàlamôn Cūḷekasāṭaka làm phước cúng dường một tấm choàng đến Đức Thế Tôn, chỉ trong chốc lát sau, Đức vua ban cho ông mỗi lần gấp đôi (2, 4, 8, 16, 32, 64 = 126 tấm choàng). Đức vua còn ban cho ông 7 thứ, mà mỗi thứ có 4. nghiệp thiện mà ông đã làm trong hiện tại này, nghiệp thiện ấy đã cho quả báu ngay hiện tại hôm nay”.

Chư Tỳ khưu đang bàn luận về ông Bàlamôn Cūḷekasāṭaka; khi ấy, Đức Thế Tôn ngự lên chỗ cao quý đã trải sẳn, Đức Thế Tôn bèn hỏi rằng:

- Này chư Tỳ khưu, các con đang bàn luận về chuyện gì?

Chư Tỳ khưu bạch với Đức Thế Tôn biết rõ câu chuyện như vậy, Đức Thế Tôn truyền dạy rằng:

- Này chư Tỳ khưu, nếu ông Ekasāṭaka làm phước dâng tấm choàng đến Như Lai vào canh đầu đêm, thì ông sẽ được quả báu mỗi thứ có 16.

 Nếu làm phước dâng tấm choàng đến Như Lai vào canh giữa đêm, thì ông sẽ được quả báu mỗi thứ có 8.

Hai canh (canh đầu và canh giữa đêm), ông chưa có thể dâng được, đến canh chót đêm, ông mới làm phước dâng tấm choàng đến Như Lai, cho nên ông được quả báu 7 thứ mà mỗi thứ có 4.

Thực ra, người tạo nghiệp thiện, khi tâm thiện đầu tiên phát sinh không để cho chậm trễ, mà nên tạo nghiệp thiện ấy, ngay lúc đó. Người tạo nghiệp thiện chậm trễ, thì quả của nghiệp thiện ấy cũng bị chậm trễ. Vì vậy, nên tạo nghiệp thiện liền sau khi thiện tâm phát sinh.

Đức Thế Tôn thuyết dạy câu kệ rằng:

“Abhittharetha kalyāṇe,

pāpacittaṃ nivāraye.

Dandhaṃ hi karato puññaṃ,

pāpasmiṃ raṃatī mano”([4])

Nhanh chóng tạo nghiệp thiện,

Ngăn cản tâm tội ác.

Người làm phước chậm trễ,

Tâm thích thú trong ác.

Pāpasmiṃ: Tâm của hạng phàm nhân thường thích thú say mê trong những điều tội lỗi, tội ác; đó là tâm bất thiện, tâm ác trong đó có nghiệp ác mà nghiệp ác thì cho quả khổ trong kiếp hiện tại, trong kiếp kế tiếp (kiếp sau) và những kiếp vị lai. Bởi vậy cho nên, mỗi khi có tâm thiện phát sinh muốn làm phước thiện, tạo nghiệp thiện thì nên nhanh chóng thực hiện ngay ý định ấy. Nếu chậm trễ thì tâm dễ dàng thay đổi ý định ấy.

Cho nên, trong mọi phước thiện, mỗi người trong chúng ta nên tự mình động viên, khuyến khích mình rằng:

Ahaṃ pure! Ahaṃ pure! ...

Ta là người trước tiên! Ta là người trước tiên!...

Nghiệp thiện ấy chắc chắn có năng lực rất mạnh, thì quả báu của nghiệp thiện ấy chắc chắn rất đầy đủ và rất phong phú.

Nếu như ông Bàlamôn Cūḷekasāṭaka dâng cúng dường tấm choàng đến Đức Phật vào canh đầu đêm, thì ông sẽ được quả báu mỗi thứ có 16. Nhưng canh đầu và canh giữa đêm, đức tin của ông chưa có đủ sức mạnh thắng được tâm keo kiệt bủn xỉn, cho đến canh chót đêm; ông nhờ có một nhận thức đúng đắn, tạo nên đức tin mạnh mẽ, có năng lực thắng được tâm keo kiệt bủn xỉn, ông liền làm phước thiện kính dâng tấm choàng đến Đức Phật, do chậm trễ cho nên quả báu của nghiệp thiện bố thí ấy mỗi thứ chỉ có 4 mà thôi.

Ông Bàlamôn Cūḷekasāṭaka làm phước thiện bố thí cúng dường 1 tấm choàng đến Đức Phật, ngay sau đó, quả báu của nghiệp thiện bố thí là được Đức vua ban thưởng không những có được 164 tấm choàng, 2 tấm gấm quý giá, mà còn có 4 con voi, 4 con ngựa, 4.000 đồng kahàpana, 4 người đàn bà, 4 người tớ gái, 4 người đàn ông, 4 làng để thu thuế; gồm có 7 thứ mà mỗi thứ có 4.

8 Quả Báu Của Phước Thiện Bố Thí Vải

Trong bộ Apàdàna, sự tích Ngài Đại Trưởng Lão Pilindavaccha([5]) là bậc Thánh Arahán có Tứ tuệ phân tích, 8 Pháp giải thoát (Vimokkha), Lục thông. Ngài là bậc Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Phật Gotaṃa, có đức hạnh đặc biệt xuất sắc làm hài lòng hoan hỷ nhiều chư thiên hơn các bậc Thánh Thanh Văn khác. Ngài nhớ lại những tiền kiếp của mình đã từng làm phước thiện bố thí những thứ nào và quả báu của thứ ấy ra sao.

Trong phần này xin trích dẫn về phước thiện bố thí dâng vải và quả báu của phước thiện dâng vải (dussànisaṃsa). Ngài Đại Trưởng Lão dạy rằng:

Dussàni Sugate datvà,

 Saṃghe gaṇavaruttaṃe,

 atthànisaṃse anubhomi.

 Kaṃmànucchavike mama...(2)

 Tôi đã cung kính cúng dường những tấm vải,

 đến Đức Phật cùng chư Đại đức Tăng cao thượng,

 Tôi hưởng được tám quả báu của phước thiện ấy,

 tùy theo thiện nghiệp của tôi đã tạo như:

-  Tôi là người có màu da óng ánh như vàng,

-  Bụi bặm dơ dáy không thể bám vào thân,

-  Có hào quang sáng ngời lan tỏa xung quanh,

-  Có ánh sáng đặc biệt hơn các chư thiên khác.

-  Thân hình của tôi rất xinh đẹp, mềm mại.

* Kiếp tử sinh luân hồi của tôi:

-  Có một trăm ngàn tấm vải màu trắng,

-  Có một trăm ngàn tấm vải màu vàng,

-  Có một trăm ngàn tấm vải màu đỏ.

Như vải lụa, vải gấm, vải bông, vải len,

Mà tôi có được trong khắp mọi nơi.

Đó là quả báu của phước thiện bố thí vải,

Mà tôi đã làm trong kiếp quá khứ.

Ngài Đại Trưởng Lão Pilindavaccha thuật lại nghiệp thiện bố thí vải và 8 quả báu của nghiệp ấy.

Trong buổi lễ dâng y có dâng thêm cái bát (dùng cho vị Sadi, Tỳ khưu đi khất thực).

*    Nếu người thí chủ làm phước thiện dâng cái bát thì có quả báu như thế nào?

Ngài Đại Trưởng Lão Pilindavaccha dạy rằng:

“Tôi đã cung kính cúng dường bát,

 đến Đức Phật cùng chư Đại đức Tăng cao thượng,

 Tôi hưởng được mười quả báu của phước thiện ấy,

 Tùy theo thiện nghiệp của tôi đã tạo như:

-  Tôi thường dùng vật thực trong chén đĩa,

 Bằng vàng, bằng ngọc mani, bằng bạc,...

-  Tôi là người không gặp điều nguy hiểm,

-  Không có điều rủi ro tai hại.

-  Được nhiều người cung kính.

-  Tôi là người có đầy đủ cơm, nước, y phục, và mọi thứ đồ dùng.

-  Tài sản của tôi không gặp tai họa nào làm hư mất.

-  Tôi là người có tâm định vững chắc.

-  Tôi luôn luôn thích trong chánh pháp.

-  Tôi là người ít phiền não.

-  Nay tôi không còn phiền não trầm luân (Ngài là bậc Thánh Arahán).

Những quả báu, ân đức ấy theo tôi trong các cõi trời, cõi người không bao giờ tách rời, như bóng không bao giờ tách rời khỏi cây.

Trong thời kỳ Đức Phật đang còn trên thế gian, một số người nam xin Đức Phật cho phép xuất gia trở thành Tỳ khưu, Ngài cho phép một số người nam xuất gia trở thành Tỳ khưu bằng cách truyền dạy rằng:

Ehi Bhikkhu! Svàkkhato dhammo cara brahmacariyaṃ sammà dukkhassa antakiriyàya”.

“Con hãy đến với Như Lai, con trở thành Tỳ khưu theo ý nguyện! Chánh pháp mà Như Lai đã thuyết hoàn hảo ở phần đầu, phần giữa, phần cuối; con hãy nên cố gắng tinh tấn thực hành phạm hạnh cao thượng để chứng đắc Arahán Thánh Đạo, Arahán Thánh Quả và Niết Bàn, để chấm dứt sự khổ tử sinh luân hồi”.

Sau khi Đức Phật truyền dạy vừa dứt lời, ngay tức thì người nam ấy (hoặc Đạo sĩ, tu sĩ ngoại đạo...) trở thành vị Tỳ khưu có đầy đủ 8 thứ vật dụng của Samôn (3 y + 1 bát + 1 dây thắt lưng + 1 dao cạo + 1 ống kim chỉ + 1 đồ lọc nước) được thành tựu do quả của phước thiện bố thí của người ấy (iddhimayapattacìvara). Vị Tỳ khưu ấy có tăng tướng trang nghiêm, ngũ căn thanh tịnh như một vị Tỳ khưu có  60 hạ. Nhưng cũng có trường hợp, người nam sau khi lắng nghe Đức Phật thuyết pháp, ngay tại nơi ấy, chứng đắc thành bậc Thánh Nhân, người nam ấy xin Đức Phật cho phép xuất gia trở thành Tỳ khưu, thì Đức Phật truyền hỏi người nam ấy có đầy đủ 8 thứ vật dụng của Samôn hay không. Nếu người nam ấy chưa đầy đủ 8 thứ vật dụng của Samôn, thì cần phải đi tìm cho đầy đủ mới được phép xuất gia trở thành Tỳ khưu.

Vấn: Vì lý do gì khi người nam xin Đức Phật cho  phép xuất gia trở thành Tỳ khưu, có một số người nam được Đức Phật cho phép xuất gia trở thành Tỳ khưu bằng cách truyền dạy: “Ehi Bhikkhu!”, còn có một số người nam khác, Đức Phật hỏi người nam ấy có đầy đủ 8 thứ vật dụng của Samôn hay không. Nếu người ấy chưa  đầy đủ 8 thứ vật dụng ấy thì cần phải đi tìm cho đầy đủ mới được phép xuất gia trở thành Tỳ khưu?

Đáp: Mỗi khi Đức Phật cho phép người nam nào xuất gia trở thành Tỳ khưu bằng cách truyền dạy “Ehi Bhikkhu!” Đức Phật xem xét tiền kiếp của người nam ấy đã từng làm phước thiện bố thí taṃ y (y 2 lớp, y vai trái và y nội) bát và các thứ vật dụng của Samôn đến chư Tỳ khưu trong thời kỳ Đức Phật quá khứ hay không, và tiền kiếp người nam ấy có phát nguyện xuất gia trở thành Tỳ khưu bằng cách “Ehi Bhikkhu!” hay không. Nếu người nam ấy có đủ điều kiện như vậy, thì Đức Phật mới truyền dạy “Ehi Bhikkhu!”. Sau khi Đức Phật truyền dạy vừa dứt lời, tức thì người nam ấy (hoặc Đạo sĩ, tu sĩ ngoại đạo...) trở thành Tỳ khưu có đầy đủ 8 thứ vật dụng của Samôn được thành tựu do phước thiện của người ấy (iddhimayapattacìvara).

Còn người nào trong tiền kiếp không từng làm phước bố thí 8 thứ vật dụng của Samôn và cũng không từng phát nguyện xuất gia trở thành Tỳ khưu bằng cách “Ehi Bhikkhu!” thì Đức Phật không thể truyền dạy “Ehi Bhikkhu!”được.

Trong thời kỳ Phật giáo hiện đang còn tồn tại trên thế gian, chư Tỳ khưu hiện đang còn tồn tại, đó là một cơ hội tốt hiếm có, cũng rất hy hữu để cho những thí chủ có đức tin trong sạch nơi Taṃ Bảo, có dịp tốt làm phước bố thí cúng dường taṃ y, bát và các thứ vật dụng đến chư Tỳ khưu Tăng, rồi phát nguyện kiếp sau gặp Đức Phật xin xuất gia trở thành Tỳ khưu theo cách “Ehi Bhikkhu!”. Nhất là trong dịp lễ dâng y kathina thì lời phát nguyện của mình sẽ thành tựu như ý, bởi vì buổi lễ dâng y kathina có nhiều phước thiện lớn lao vô lượng, phát nguyện điều gì mà chẳng thành tựu được! Chắc chắn sẽ thánh tựu như ý.

Để thành tựu những quả báu của phước thiện bố thí lớn lao vô lượng, thì cần phải hợp đầy đủ những nhân tố cần thiết như:

-     Vật thí phải được phát sinh một cách hoàn toàn trong sạch.

-     Thí chủ có tác ý thiện tâm (cetana) hoàn toàn trong sạch.

-     Bậc thọ thí là người có giới đức hoàn toàn trong sạch, hành thiện pháp cao thượng.

Khi đã thành tựu phước thiện bố thí rồi, thí chủ có được nhiều phước thiện thanh cao, cho nên thí chủ phát nguyện như thế nào, do nhờ năng lực nghiệp thiện ấy sinh quả đem đến thành tựu quả báu như thế ấy. Cũng như người đã cố gắng tinh tấn làm công việc lớn lao, có được nhiều tiền của; người ấy muốn mua sắm thứ gì, thì cũng được như ý.

Trong các buổi lễ làm phước thiện bố thí các thứ vật dụng (không phải pháp thí) thì chỉ có lễ làm phước thiện dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng trong mùa mưa là cao quý hơn cả, và quả báu của lễ dâng y kathina cũng phong phú vô lượng không sao kể xiết.


QUẢ  BÁU CỦA LỄ DÂNG Y KATHINA    

Thí chủ có đức tin trong sạch nơi Taṃ Bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, có trí tuệ sáng suốt, cung kính làm lễ dâng tấm y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng (saṃghikadāna) đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa tại một ngôi chùa, hoặc một nơi thanh vắng trong rừng núi, hang động, v.v… Đó là một cơ hội tốt rất hiếm có, rất đặc biệt, thật vô cùng hy hữu. Bởi vì chư Tỳ khưu Tăng đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa tại một nơi nào, chư Tỳ khưu Tăng tại nơi ấy chỉ được phép thọ nhận tấm y kathina của thí chủ một lần duy nhất trong ngày hôm ấy, trong mùa lễ dâng y kathina ấy mà thôi. Cho nên, quả báu của buổi lễ dâng tấm y kathina rất đặc biệt hơn quả báu của các buổi lễ làm phước thiện bố thí cúng dường khác đến chư Tỳ khưu Tăng.

Đức Phật thuyết giảng bài pháp Pakinnakadesanà so sánh quả báu của một lần làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng như sau:

Yāva akaṃṭṭthā devā,

Suvaṇṇaṃ rajataṃ bahuṃ.

Nānāratanarāsiṃ ca,

Dade saṃghassa sabbadā.

Ekakathinadānassa,

Kalaṃ nagghati soḷasiṃ.

Sataṃ hatthi Sataṃ assā,

Sataṃ assatarī rathā.

Sataṃ kaññāsahassāni,

Āmuttaṃaṇikuṇdalā.

Ekakathinadānassa,

Kalaṃ nagghati soḷasiṃ.

Yatthake ca parikkhāre,

Dade saṃghassa sabbadā.

Ekakathinadānassa,

Kalaṃ nagghati soḷasiṃ.

Caturāsītisahasse,

Kārāpetvāna vihāre.

Pallaíke ratanamaye,

Dade saṃghassa sabbadā.

Taṃ taṃ dānaṃ mahāpphalaṃ,

Vipulaṃ sukhadāyakaṃ.

Ekakathinadānassa,

Kalaṃ nagghati soḷasiṃ.

Suvaṇṇaṃayapāsādaṃ,

Ratanavicittaṃ katvā.

Uddhaṃ Yāva akaniṭṭhā,

Dade saṃghassa sabbadā.

Taṃpi dānaṃ mahāpphalaṃ,

Ulāraṃ sukhakāranaṃ.

Ekakathinadānassa,

Kalaṃ nagghati soḷasiṃ.

Yasmà cāpattim nàseti,

Bhikkhūnaṃ kathinadānaṃ.

Tasmā taṃ sabbadānehi,

Atidānaṃ vuttaṃ mayà.

Tasmā hi paṇḍito poso,

Sampassaṃ sukhamattano.

Sammate kathinakhette,

Dade saṃghassa kathinaṃ …”([6])

Ý nghĩa bài pháp:

Này các hàng Thanh Văn đệ tử !

Các con lắng nghe quả báu một lần

Dâng y ka-thi-na đến chư Tăng.

Hằng ngày dâng cúng dường đến chư Tăng,

Nhiều vàng bạc và các thứ châu báu,

Chất cao từ cõi người đến cõi trời,

Phạm thiên sắc giới Sắc cứu cánh thiên,

Không bằng quả báu một phần mười sáu,([7])

Của một lần dâng y kathina,

Đến chư Tăng đã an cư nhập hạ.

Mỗi ngày có được trăm con voi quý,

Trăm con ngựa quý, trăm xe ngựa quý,

Trăm ngàn cô gái đeo bông tai ngọc,

Không bằng quả báu một phần mười sáu,

Của một lần dâng y ka-thi-na,

Đến chư Tăng đã an cư nhập hạ.

Hằng ngày dâng cúng dường đến chư Tăng,

Những thứ vật dụng dù nhiều bao nhiêu,

Không bằng quả báu một phần mười sáu,

Của một lần dâng y ka-thi-na,

Đến chư Tăng đã an cư nhập hạ.

Xây tám mươi bốn ngàn ngôi chùa lớn,

Làm pháp toà bằng các thứ châu báu,

Rồi hằng ngày cúng dường đến chư Tăng,

Sự cúng dường ấy có quả báu lớn,

Thật vĩ đại, cho quả được an lạc,

Không bằng quả báu một phần mười sáu,

Của một lần dâng y ka-thi-na,

Đến chư Tăng đã an cư nhập hạ.

Hằng ngày dâng cúng dường đến chư Tăng,

Lâu đài bằng vàng và các châu báu,

Cao đến cõi trời Sắc cứu cánh thiên,

Sự cúng dường ấy có quả báu lớn,

Thật vĩ đại, là nhân sanh sự an lạc,

Không bằng quả báu một phần mười sáu,

Của một lần dâng y ka-thi-na,

Đến chư Tăng đã an cư nhập hạ.

Bởi vì lễ dâng y ka-thi-na,

Đến chư Tăng đã an cư nhập hạ,

Tỳ khưu thọ y, chư Tăng hoan hỷ,

Được hưởng quả báu 4 giới không phạm,

Suốt thời gian hưởng quả báu dâng y.

Vì vậy, Như Lai dạy các con rằng:

Phước dâng y ka-thi-na cao quý,

Hơn tất cả mọi phước bố thí khác,

Cho nên người có trí tuệ quán xét,

Sự lợi ích sự an lạc của mình,

Trong mùa lễ dâng y kathina,

Nên làm lễ dâng y kathina,

Đến chư Tỳ khưu Tăng đã an cư,

Nhập hạ trong suốt 3 tháng mùa mưa.

Nhận Xét Về Phước Thiện và Quả Báu Của Lễ Dâng Y Kathina

Sở dĩ quả báu của lễ dâng y kathina đặc biệt hơn tất cả mọi quả báu của phước thiện bố thí khác, là vì lễ dâng y kathina được phát sinh một cách hoàn toàn trong sạch, do bởi đại thiện tâm hợp với trí tuệ hiểu biết rõ phước thiện dâng y kathina là cao quý, và quả báu của lễ dâng y kathina là cao quý, không do một vị Tỳ khưu nào động viên khuyến khích làm lễ dâng y kathina.

Lễ dâng y kathina chỉ có trong Phật giáo mà thôi, không có ngoài Phật giáo. Nơi nào có chư Tỳ khưu Tăng đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa, thì nơi ấy, thí chủ mới có cơ hội tốt làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng ấy. Thí chủ có thể làm lễ dâng y kathina được một tháng trong một năm, kể từ ngày 16 tháng 9 cho đến ngày rằm tháng 10 là hết hạn mùa dâng y kathina. Và tại mỗi nơi, mà chư Tỳ khưu Tăng đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa xong, chỉ được phép thọ nhận y kathina của thí chủ một lần duy nhất trong một ngày ấy mà thôi; hay nói cách khác, trong một năm chỉ có 1 tháng, trong 1 tháng chỉ có 1 ngày, trong 1 ngày chỉ có 1 lần duy nhất tại nơi ấy, chư Tỳ khưu Tăng ấy được phép thọ nhận y kathina của thí chủ một lần duy nhất trong mùa lễ dâng y kathina mà thôi.

        Nếu Tỳ khưu bị đứt hạ, Tỳ khưu an cư nhập hạ sau kể từ ngày 16 tháng 7 cho đến ngày 16 tháng 10, Tỳ khưu không an cư nhập hạ tại một nơi nào, Tỳ khưu an cư nhập hạ từ một nơi khác đến nơi này,… thì tất cả những vị Tỳ khưu ấy không được phép thọ nhận y kathina của thí chủ, không hưởng đặc ân 5 quả báu của lễ thọ y kathina của chư Tăng, mà chỉ được phép thọ nhận y thường dùng mà thôi.

Do đó, cơ hội tốt để làm lễ dâng y kathina là một điều rất hiếm có, rất hy hữu. Có khi thí chủ phải chờ đợi qua thời gian lâu, mới có được cơ hội tốt làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng.

Còn các buổi lễ làm phước thiện bố thí khác, thí chủ có thể làm bao nhiêu lần trong một năm, trong một tháng, trong một ngày không bị giới hạn. Cho nên, làm lễ dâng y kathina dù chỉ một lần cũng thật là cao quý hơn các buổi lễ làm phước thiện bố thí khác gấp bội lần không thể so sánh được.

Đối với chư Tỳ khưu Tăng, sau khi đã làm lễ thọ y kathina của chư Tăng, tất cả chư Tỳ khưu Tăng đồng thanh nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina của chư Tăng, chính lễ thọ y kathina của chư Tăng ấy, có một oai lực phi thường, hộ trì cho chư Tỳ khưu không bị phạm 4 giới, mà Đức Phật đã chế định và ban hành đến chư Tỳ khưu Tăng, trong suốt thời gian hưởng đặc ân 5 quả báu của y kathina, cho đến ngày rằm tháng 2 mới hết hạn.

Bố Thí Của Bậc Thiện Trí

Đối với thí chủ, buổi lễ dâng y kathina thuộc ve sappurisadàna: Phước thiện bố thí cúng dường của bậc thiện trí, gồm đủ 5 chi pháp như sau:

1-     Saddhadāna: Bậc thiện trí bố thí có đức tin trong sạch nơi Taṃ Bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp.

Bố thí với đức tin này có quả báu giàu sang phú quý và đặc biệt nhất là có sắc thân xinh đẹp, đáng chiêm ngưỡng.

2-     Sakkaccadāna: Bậc thiện trí bố thí với sự cung kính và vật thí phát sinh một cách trong sạch.

Bố thí với sự cung kính có quả báu giàu sang phú quý và đặc biệt nhất là toàn thể gia đình vợ con, tôi tớ, bà con, bạn bè, thuộc hạ… cả thảy đều ngoan ngoãn vâng lời, dễ dạy.

Kāladāna: Bậc thiện trí bố thí đúng thời, đúng lúc như trong buổi lễ dâng y tắm mưa, dâng y kathina, bố thí đến Tỳ khưu khách, Tỳ khưu đi xa, Tỳ khưu bệnh, người bệnh, người đang đói khát…

Bố thí cúng dường đúng thời, đúng lúc, có quả báu giàu sang phú quý và đặc biệt nhất là có quả báu tốt lành từ thuở ấu niên cho đến lão niên, có những vật mà người khác khó có, được những vật mà người khác khó được…

3-     Anuggahadāna: Bậc thiện trí bố thí với tâm tế độ người thọ thí.

Bố thí với tâm tế độ, có quả báu giàu sang phú quý và đặc biệt nhất là quan tâm đến sự hưởng thụ của cải cho được an lạc.

4-     Anupahaccadāna: Bậc thiện trí bố thí không làm khổ mình, không làm khổ người.

Bố thí không làm khổ mình, không làm khổ người có quả báu giàu sang phú quý và đặc biệt nhất là tất cả của cải không bị thiệt hại do bởi lửa thiêu hủy, không bị nước ngập lụt cuốn trôi, không bị kẻ trộm cướp chiếm đoạt, không bị Đức vua tịch thu, không bị người không ưa thích tranh giành.

Như trong kinh Sappurisadānasutta([8]) Đức Phật dạy:

Này chư Tỳ khưu, bậc thiện trí làm phước thiện bố thí bằng đức tin trong sạch sẽ được quả báu nhiều tiền của, giàu sang phú quý và đặc biệt là người có sắc thân rất xinh đẹp, có màu da mịn màng trắng trẻo, sạch sẽ, đáng để cho mọi người ngưỡng mộ.

Bậc thiện trí làm phước thiện bố thí bằng sự cung kính sẽ được quả báu nhiều tiền của, giàu sang phú quý và đặc biệt vợ con tôi tớ, người làm công, bè bạn, v.v… đều lắng nghe và cung kính vâng lời làm theo lời khuyên dạy.

Bậc thiện trí làm phước thiện bố thí hợp thời, hợp lúc, sẽ được quả báu nhiều tiền của, giàu sang phú quý và đặc biệt khi cần có thứ gì sẽ có được thứ ấy theo sự mong muốn của mình.

Bậc thiện trí làm phước thiện bố thí với tâm tế độ người thọ thí, sẽ được quả báu nhiều tiền của, giàu sang phú quý và đặc biệt là người ấy thường quan tâm đến sự thọ hưởng của cải, đầy đủ sung túc ngũ trần.

Bậc thiện trí làm phước thiện bố thí không làm khổ đến mình và người sẽ được quả báu nhiều tiền của, giàu sang phú quý và đặc biệt tất cả của cải tài sản không bị thiệt hại bởi lửa cháy, nước lụt, trộm cướp, vua chiếm đoạt và kẻ không ưa thích phá hoại.

Này chư Tỳ khưu đó là 5 cách phước thiện bố thí của bậc thiện trí và quả báu của nó.

Kathina có ý nghĩa là “vững chắc” thì quả báu của lễ dâng y kathina cũng có tính chất đặc biệt hơn các quả báu của các phước thiện bố thí khác đó là “vững chắc”, bền vững lâu dài, có đầy đủ 5 quả báu:

-     Àyu: Sống lâu.

-     Vanna: Có sắc đẹp đáng chiêm ngưỡng.

-     Sukha: Thân và tâm được an lạc.

-     Bala: Thân và tâm có sức mạnh.

-     Paññā: Có trí tuệ sáng suốt.

Những quả báu này được vững chắc, bền vững từ thời ấu niên, trung niên cho đến lão niên, và tất cả các tài sản sự nghiệp cũng được vững chắc, bền vững, không bị hủy hoại, không bị thiệt hại do lửa thiêu hủy, do nước lụt cuốn trôi, do bọn trộm cướp chiếm đoạt, do Đức vua tịch thu,…

Lễ dâng y kathina có tính chất đặc biệt hơn tất cả phước thiện bố thí khác đó là: Cơ hội tốt để thí chủ tạo được phước duyên sâu sắc nhất trong Phật giáo. Chính do nhờ phước duyên này hỗ trợ cho thí chủ dễ phát sinh đức tin nơi Taṃ Bảo; khi gặp Đức Phật, nếu hậu thân của thí chủ muốn xuất gia trở thành Tỳ khưu, Đức Phật cho phép xuất gia Tỳ khưu theo cách gọi“Ehi Bhikkhu!”: Con hãy lại đây! Con trở thành Tỳ khưu theo ý nguyện… Ngay khi Đức Phật truyền dạy dứt câu, vị ấy trở thành Tỳ khưu có đầy đủ 8 thứ vật dụng đó là y 2 lớp, y vai trái, y nội, bát, dây thắt lưng, dao cạo tóc, ống kim chỉ và đồ lọc; những thứ ấy được thành tựu do phước thần thông của vị ấy, vị tân Tỳ khưu liền có Tăng tướng trang nghiêm, lục căn thanh tịnh như một vị Đại đức có 60 tuổi hạ.

Trong thời kỳ Đức Phật còn tại thế, có nhiều vị Tỳ khưu được Đức Phật cho phép xuất gia trở thành Tỳ khưu bằng cách gọi “Ehi Bhikkhu!”, đó là những vị Tỳ khưu mà trong kiếp quá khứ, quý Ngài đã từng dâng y, bát, các thứ vật dụng đến cá nhân Tỳ khưu, hoặc đến chư Tỳ khưu Tăng, nhất là có cơ hội đã từng làm lễ dâng y kathina và đã từng phát nguyện rằng:

Do năng lực phước thiện dâng y kathina này, kiếp sau sẽ gặp Đức Phật và được Ngài cho phép xuất gia trở thành Tỳ khưu bằng cách gọi “Ehi Bhikkhu!”.

Khi thí chủ có nhiều phước thiện dâng y kathina cùng với lời phát nguyện thì sẽ được thành tựu như ý.



1 Bộ Apadàna, Buddhàpadàna pubbakammapiloti.

2 Bộ Jàtaka, phỏng theo tích Ummànandìjàtaka.

3 Bộ Chú giải Dhammapadaṭṭhakathā, sự tích Cūḷekasāṭaka-brahmaṇavatthu.

4 Dhammapadagàthà số 116.

5 Bộ Apàdàna, sự tích Pilindavacchatheràpàdàna.

6 Tipitakapakinnakadìpanì.

7 Solasim còn có nghĩa 1 phần 256.

8 Aṅguttaranikàya, phần 5 chi, kinh Sappurisadànasutta.


[Ðầu trang][Trở về trang Mục Lục][Trở về trang Thư Viện]

updated: 2007