Trung Tâm Hộ Tông Trang Chủ
Lễ Dâng Y Kathina Soạn giả: Hộ Pháp |
Quả
Báu Của Lễ Dâng
Y Thường Dùng Với Dâng Y Kathina
Quả
báu của lễ dâng y thường dùng
Thí
chủ có đức tin trong sạch nơi Taṃ Bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, cung kính
làm lễ dâng các y thường dùng đến cá nhân Tỳ khưu (paṭipuggalikadāna)
hoặc dâng đến chư Tỳ khưu Tăng (saṃghikadāna). Sau khi thí chủ đã thành tựu
được phước thiện dâng y rồi, quả báu của phước thiện dâng y vô cùng phong phú
tuỳ theo lời phát nguyện của thí chủ.
Ví
dụ:
Tích
Đức Bồ Tát kiếp đầu tiên của Đức Phật Gotaṃa
được tóm lược như sau:
Đức
Thế Tôn ngự trên tảng đá quý cùng với số đông chư Tỳ khưu Tăng ở ven rừng có
nhiều cây hoa thơm gần hồ Anotatta. Khi ấy Đức Thế Tôn truyền dạy về thiện
nghiệp của Ngài đã tạo trong tiền kiếp đầu tiên rằng:
Này
chư Tỳ khưu, các con nên lắng nghe thiện nghiệp mà Như Lai đã tạo trong tiền
kiếp. Như Lai thấy một vị Tỳ khưu hành pháp hạnh đầu đà sống trong rừng, nên
phát sinh đức tin trong sạch, bèn dâng cúng dường đến vị Tỳ khưu ấy một tấm vải
cũ. Ngay khi ấy, Như Lai phát sinh tâm đại bi, có ý nguyện muốn trở
thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, để tế độ cứu vớt chúng sinh thoát khỏi biển khổ
tử sanh luân hồi trong ba giới bốn loài. Đó là tiền kiếp Đức Bồ Tát đầu tiên
của Như Lai có ý nguyện trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Chính nhờ thiện
nghiệp bố thí cúng dường “tấm vải cũ” trong tiền kiếp đầu tiên ấy, dẫn
đến kiếp hiện tại đã trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, có danh hiệu Đức Phật
Gotaṃa.[1]
Tích
chuyện tiền kiếp của Ngài Đại đức Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇattherī, bậc
Thánh nữ Tối Thượng Thanh Văn đệ tử của Đức Phật Gotaṃa, xuất sắc nhất về thần
thông, được tóm lược như sau:
Trong
thời quá khứ, tại Vương quốc Bàrànasi(2),
tiền kiếp của Ngài Đại đức Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇattherī là một cô gái
sinh trong một gia đình nghèo khó. Vào ngày lễ hội, cô nhìn thấy các cô gái
khác cùng trang lứa, ăn mặc y phục bằng tấm vải choàng màu đỏ đắt giá rất đẹp,
khiến cô thèm được mặc tấm vải choàng màu đỏ ay. Cô về xin cha mẹ mua
cho cô tấm vải ấy, cha mẹ an ủi cô rằng:
-
Này con yêu quý! gia đình ta nghèo khó, thiếu thốn, hằng ngày cha mẹ làm lụng
vất vả, cực nhọc, lo kiếm miếng ăn, cái mặc thô sơ còn chưa đủ, làm sao mua sắm
được tấm vải choàng đắt giá sang trọng như vậy, hỡi con!
-
Thưa cha mẹ, nếu vậy, xin phép cha mẹ cho con đi làm thuê, ở mướn trong một gia
đình giàu nào đó, qua một thời gian, người chủ nhà thấy con làm được việc, sẽ
cho con tấm vải ấy.
Được
cha mẹ cho phép, cô gái đến xin làm thuê, ở mướn trong một gia đình phú hộ. Cô
thưa với ông bà chủ rằng:
-
Thưa ông bà phú hộ, con xin ở đây làm công, chỉ mong ước được tấm vải choàng đỏ
mà thôi.
Ông
bà phú hộ đặt điều kiện với cô rằng:
-
Nếu ngươi chịu ở đây, làm việc giỏi suốt 3 năm, chúng ta xét thấy xứng đáng,
chúng ta sẽ cho ngươi tấm vải choàng màu đỏ, mà ngươi ước muốn.
Cô
gái vô cùng hoan hỷ, chấp thuận điều kiện của ông bà phú hộ. Ngày đêm cô siêng
năng cần mẫn làm tốt mọi công việc. Tuy cô làm chưa đủ 3 năm, nhưng ông bà phú
hộ xét thấy cô rất xứng đáng được khen thưởng, nên một hôm gọi cô đến và bảo
rằng:
-
Hôm nay chúng ta ban tặng cho ngươi tấm vải choàng màu đỏ và các tấm vải khác.
Ngươi hãy nên đi tắm cho sạch sẽ rồi mặc tấm vải choàng này.
Cô
gái vô cùng sung sướng nhận tấm vải màu đỏ, thoả lòng mong ước từ lâu. Cô cám
ơn ông bà phú hộ.
Cô
cùng nhóm bạn gái đi đến bên sông, cô đặt tấm vải trên bờ và nghĩ rằng: “Xuống
sông tắm xong, ta sẽ mặc tấm vải choàng này. Có được tấm vải choàng này, ta
phải làm công vất vả ngày đêm, suốt thời gian gần 3 năm qua”
Ngay
khi ấy, một vị Đại đức là bậc Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Phật Kassapa bị mất
trộm tất cả y, nên Ngài mặc tấm y dệt bằng chỉ gai thô đi ngang qua nơi ấy. Cô
gái nhìn thấy Ngài và nghĩ rằng:
“Vị
Đại đức này bị mất trộm y, nên Ngài mặc tấm y như vậy. Còn ta có được tấm vải
choàng này, phải làm công vất vả ngày đêm, suốt thời gian gần 3 năm. Bởi vì
trong quá khứ, tiền kiếp ta không làm phước bố thí vải, cho nên kiếp hiện tại
này, ta phải chịu cảnh nghèo khổ thiếu thốn như thế này. Bây giờ ta nên làm
phước thiện dâng một nửa tấm vải choàng đến Ngài Đại đức”
Nghĩ
xong, cô vội vã bước lên bờ, mặc y phục cũ xong rồi bạch với Ngài rằng:
-
Kính bạch Ngài Đại đức, kính thỉnh Ngài dừng lại một giây lát.
Cô
đến đảnh lễ Ngài rồi ngồi tại nơi ấy, xé tấm vải thành 2 tấm, cô cung kính dâng
đến Ngài một nửa tấm vải. Ngài tạm lánh vào chỗ kín thay tấm y cũ bằng nửa tấm
vải choàng ấy, mặc nghiêm chỉnh xong, Ngài bước ra. Bây giờ, cô nhìn thấy Ngài
Đại đức mặc nửa tấm vải vào, rất trang nghiêm, làm cho cô vô cùng hoan hỷ. Cô
kính xin dâng đến Ngài một nửa tấm vải choàng còn lại rồi phát nguyện rằng:
“Kính
bạch Ngài, trong vòng tử sinh luân hồi, con nguyện kiếp nào cũng là người nữ
xinh đẹp nhất, làm cho người nam nào nhìn thấy con, họ đều bị mê hồn, mất trí,
không còn biết mình nữa. Con sẽ là người phụ nữ xinh đẹp tuyệt trần”.
Cô
gái ấy, sau khi chết, do năng lực phước thiện dâng tấm vải cho quả tái sinh,
khi thì tái sinh làm thiên nữ trên cõi trời, là một thiên nữ xinh đẹp nhất, có
hào quang sáng ngời hơn tất cả các chư thiên khác; khi thì tái sinh làm người
nữ, là một cô gái xinh đẹp tuyệt trần, không một ai sánh bằng. Như kiếp tái
sinh làm con gái của ông phú hộ Tiritivaccha tại kinh thành Ariṭṭha, cô có tên
là Ummādandī, có nghĩa là cô gái có sắc đẹp làm mê hồn. Thật vậy, những
người đàn ông mới nhìn thấy cô, họ đều say mê, mất trí như người điên, như
người say, say bởi tâm tham ái.
Thời
kỳ Đức Phật Gotaṃa xuất hiện trên thế gian, hậu thân của cô gái nghèo dâng tấm
vải choàng đến Ngài Đại đức, bậc Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Phật Kassapa
trong thời quá khứ, do phước thiện dâng tấm vải choàng ấy cho quả tái sinh kiếp
chót làm con gái ông phú hộ xứ Sàvatthi, cô xinh đẹp tuyệt trần, rất trang
trọng, thật đáng chiêm ngưỡng, nên được đặt tên la Uppalavaṇṇā. Khi cô
trưởng thành thì Đức vua các nước lớn nhỏ, các phú hộ đều đến cầu hôn với cô.
Ông phú hộ phụ thân của cô không thể gả cô cho một người nào được, ông khuyên
dạy cô nên từ bỏ nhà đi xuất gia trở thành Tỳ khưu ni. Vốn kiếp này là kiếp
chót của cô, cho nên, khi nghe thân phụ khuyên dạy như vậy, cô vô cùng hoan hỷ
nghe lời khuyên dạy ấy. Cô được phép xuất gia trở thành Tỳ khưu ni, sau đó
không lâu, Tỳ khưu ni Uppalavanna thực hành thiền tuệ, chứng đắc thành bậc
Thánh Arahán cùng với Tứ tuệ phân tích, đặc biệt có Lục thông xuất sắc hơn các
hàng nữ Thanh Văn của Đức Phật Gotaṃa.
“Đức
Thế Tôn tuyên dương Ngài Đại đức Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇattherī là bậc Thánh nữ
Tối Thượng Thanh Văn đệ tử của Đức Phật Gotaṃa, xuất sắc nhất về thần thông
trong các hàng nữ Thanh Văn”.
Như
vậy, quả báu của phước thiện dâng tấm vải choàng của cô gái nghèo, thật vô cùng
phong phú từ kiếp này sang kiếp khác, cho đến kiếp chót trở thành bậc Thánh nữ
Arahán Tối Thượng Thanh Văn đệ tử của Đức Phật Gotaṃa.
Quả Báu Của Phước Thiện Bố Thí Một Tấm Choàng
*
Sự tích ông Bàlamôn Cūḷekasāṭaka(3)
Đức
Phật đang ngự tại ngôi chùa Jetavana gần kinh thành Sàvatthi, Ngài thuyết giảng
đề cập đến ông Bàlamôn tên Cūḷekasāṭaka được tóm lược như sau:
Trong
kinh thành Sàvatthi, có ông Bàlamôn Cūḷekasāṭaka, ông Bàlamôn này có một tấm
choàng. Tấm choàng ấy là tài sản chung của vợ chồng ông Bàlamôn. Mỗi khi ông
hay bà đi ra khỏi nhà, thì mới mặc tấm choàng ấy.
Một
hôm, nghe tin Đức Phật thuyết pháp tại ngôi chùa Jetavana, ông Bàlamôn nói với
bà Bàlamôn rằng:
-
Này bà, hôm nay Đức Phật thuyết pháp tại ngôi chùa Jetavana, vợ chồng chúng ta
chỉ có một tấm choàng, cho nên, chúng ta không thể cùng nhau đi chung được. Vậy
bà đi nghe pháp ban ngày hay ban đêm?
Bà
Bàlamôn thưa với chồng rằng:
-
Này ông, tôi sẽ đi nghe pháp ban ngày, còn ông nên đi ban đêm.
Đêm
hôm ấy, ông Bàlamôn đi đến ngôi chùa Jetavana, ngồi phía trước Đức Phật. Khi
nghe Đức Phật thuyết pháp, ông liền phát sinh tâm hỷ lạc, có đức tin trong sạch
nơi Đức Thế Tôn, ông muốn cúng dường đến Đức Thế Tôn tấm choàng mà ông đang mặc
trên thân. Nhưng ngay khi ấy, do tâm keo kiệt bủn xỉn gấp ngàn lần phát sinh,
nên ông nghĩ lại rằng: “Nếu ta cúng dường tấm choàng này đến Đức Thế Tôn, thì
không chỉ có ta mà còn vợ của ta cũng sẽ không còn tấm nào để mặc nữa”.
Một
lần nữa, đức tin trong sạch nơi Đức Thế Tôn lại phát sinh, tiếp theo tâm bủn
xỉn keo kiệt ngàn lần lại phát sinh, đè bẹp đức tin. Ông Bàlamôn suy đi xét lại
rằng: “Ta có nên cúng dường hay không nên cúng dường tấm choàng này đến Đức Thế
Tôn?”. Suốt canh đầu đêm đã trôi qua, hễ đức tin phát sinh càng mạnh,
thì tâm keo kiệt bủn xỉn cũng phát sinh càng mạnh, tự đấu tranh giằng co giữa
đức tin với tâm keo kiệt bủn xỉn; bước sang canh giữa đêm vẫn chưa phân thắng
bại. Đến canh chót, ông Bàlamôn suy xét kỹ càng và phân trích rõ ràng rằng: “Đức
tin của ta với tâm keo kiệt bủn xỉn tranh đấu giằng co suốt 2 canh rồi, nếu để
tâm keo kiệt bủn xỉn tăng trưởng thì nó chỉ dẫn dắt ta sa đọa trong 4 cõi ác
giới: Địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh mà thôi”. Suy xét và phân tích
rõ ràng như vậy, đức tin trong sạch nơi Đức Thế Tôn lại phát sinh mạnh, đè bẹp
được tâm keo kiệt bủn xỉn; ông Bàlamôn liền đưa hai tay cởi tấm choàng đặt dưới
bàn chân của Đức Thế Tôn, cung kính cúng dường đến Ngài. Ông Bàlamôn vô cùng
hoan hỷ sung sướng lên tiếng 3 lần:
“Jitaṃ
me! Jitaṃ me! Jitaṃ me!”
“Ta
được thắng rồi! Ta được thắng rồi! Ta được
thắng rồi!”
Đức
vua Pasenadi Kosala đang ngồi nghe Đức Phật thuyết pháp, Đức vua truyền gọi vị
quan cận thần đến hỏi ông Bàlamôn kia: “Ông thắng ai?”.
Vị
quan đến hỏi ông Bàlamôn biết rõ sự việc, đến tâu lên Đức vua. Đức vua nghĩ
rằng: “Vị Bàlamôn này làm được việc khó làm, ta nên ban thưởng cho y”.
Đức
vua truyền lệnh mang 2 tấm choàng đến để ban thưởng cho ông Bàlamôn. Ông
Bàlamôn lại cung kính cúng dường 2 tấm choàng ấy đến Đức Thế Tôn.
Thấy
vậy, Đức vua ban cho ông 4 tấm choàng, ông cũng cung kính cúng dường đến Đức
Thế Tôn. Cứ như vậy, Đức vua ban cho ông 8 tấm choàng, 16 tấm choàng, 32 tấm
choàng, 64 tấm choàng. Ông Bàlamôn nghĩ rằng: “Mỗi lần ta cung kính cúng dường
hết các tấm choàng đến Đức Thế Tôn, Đức vua lại ban thưởng cho ta gấp đôi. Vậy
lần này ta chỉ cung kính cúng dường đến Đức Thế Tôn 60 tấm choàng, còn lại 4
tấm choàng, phần của ta 2 tấm choàng và vợ của ta 2 tấm choàng”.
Đức
vua nghĩ rằng: “Vị Bàlamôn này làm được việc khó làm, trong cung điện của ta có
2 tấm gấm quý giá, 100 ngàn đồng kapàpana, ta sẽ ban thưởng đến vị Bàlamôn này”.
Ông
Bàlamôn nhận 2 tấm gấm quý giá mà Đức vua ban cho ông, ông nghĩ rằng: “2 tấm gấm
quý giá này ta không nên sử dụng, ta chỉ nên cúng dường đến Đức Phật cùng chư
Đại đức Tăng mà thôi. Vậy, một tấm gấm làm tấm trải chỗ nằm của Đức Phật trong
cốc Gadhakuṭi, và một tấm gấm còn lại làm tấm trải chỗ ngồi của chư Đại đức
Tăng thọ thực trong nhà của ta”. Ông Bàlamôn thực hiện theo ý nghĩ của
ông.
Một
buổi chiều, Đức vua Pasenadi Kosala đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn tại cốc
Gadhakuṭi trong ngôi chùa Jetavana, nhìn thấy tấm gấm quý giá trải trên
chỗ nằm của Đức Phật, Đức vua bèn bạch hỏi Đức Thế Tôn rằng:
-
Kính bạch Đức Thế Tôn, thí chủ nào cúng dường tấm gấm quý giá ấy? Bạch Ngài.
Đức
Thế Tôn truyền dạy rằng:
-
Này Đại vương, ông Bàlamôn Cūḷekasāṭaka
cúng dường Như Lai tấm gấm quý giá ấy.
Đức
vua Pasenadi Kosala nói rằng:
-
Vị Bàlamôn của ta thật đáng mến!
Đức
vua ban cho ông Bàlamôn 4 con voi, 4 con ngựa, 4.000 đồng kahàpana, 4 người đàn
bà, 4 người tớ gái, 4 người đàn ông, 4 làng để thâu thuế. Đức vua đã ban cho
ông Bàlamôn gồm có 7 thứ, mà mỗi thứ có 4.
Tại
giảng đường, chư Tỳ khưu tụ hội bàn luận về ông Bàlamôn Cūḷekasāṭaka rằng:
“Thật
lạ thường, ông Bàlamôn Cūḷekasāṭaka làm phước cúng dường một tấm
choàng đến Đức Thế Tôn, chỉ trong chốc lát sau, Đức vua ban cho ông mỗi lần gấp
đôi (2, 4, 8, 16, 32, 64 = 126 tấm choàng). Đức vua còn ban cho ông 7 thứ, mà
mỗi thứ có 4. nghiệp thiện mà ông đã làm trong hiện tại này, nghiệp thiện ấy đã
cho quả báu ngay hiện tại hôm nay”.
Chư
Tỳ khưu đang bàn luận về ông Bàlamôn Cūḷekasāṭaka; khi ấy, Đức Thế Tôn ngự lên
chỗ cao quý đã trải sẳn, Đức Thế Tôn bèn hỏi rằng:
-
Này chư Tỳ khưu, các con đang bàn luận về chuyện gì?
Chư
Tỳ khưu bạch với Đức Thế Tôn biết rõ câu chuyện như vậy, Đức Thế Tôn truyền dạy
rằng:
-
Này chư Tỳ khưu, nếu ông Ekasāṭaka
làm phước dâng tấm choàng đến Như Lai vào canh đầu đêm, thì ông sẽ được quả báu
mỗi thứ có 16.
Nếu
làm phước dâng tấm choàng đến Như Lai vào canh giữa đêm, thì ông sẽ được quả
báu mỗi thứ có 8.
Hai
canh (canh đầu và canh giữa đêm), ông chưa có thể dâng được, đến canh chót đêm,
ông mới làm phước dâng tấm choàng đến Như Lai, cho nên ông được quả báu 7 thứ
mà mỗi thứ có 4.
Thực
ra, người tạo nghiệp thiện, khi tâm thiện đầu tiên phát sinh không để cho chậm
trễ, mà nên tạo nghiệp thiện ấy, ngay lúc đó. Người tạo nghiệp thiện chậm trễ,
thì quả của nghiệp thiện ấy cũng bị chậm trễ. Vì vậy, nên tạo nghiệp thiện liền
sau khi thiện tâm phát sinh.
Đức
Thế Tôn thuyết dạy câu kệ rằng:
“Abhittharetha
kalyāṇe,
pāpacittaṃ
nivāraye.
Dandhaṃ
hi karato puññaṃ,
pāpasmiṃ
raṃatī mano”([4])
Nhanh
chóng tạo nghiệp thiện,
Ngăn
cản tâm tội ác.
Người
làm phước chậm trễ,
Tâm
thích thú trong ác.
Pāpasmiṃ:
Tâm của hạng phàm nhân thường thích thú say mê trong những điều tội lỗi, tội
ác; đó là tâm bất thiện, tâm ác trong đó có nghiệp ác mà nghiệp ác thì cho quả
khổ trong kiếp hiện tại, trong kiếp kế tiếp (kiếp sau) và những kiếp vị lai.
Bởi vậy cho nên, mỗi khi có tâm thiện phát sinh muốn làm phước thiện, tạo
nghiệp thiện thì nên nhanh chóng thực hiện ngay ý định ấy. Nếu chậm trễ thì tâm
dễ dàng thay đổi ý định ấy.
Cho
nên, trong mọi phước thiện, mỗi người trong chúng ta nên tự mình động viên,
khuyến khích mình rằng:
“Ahaṃ
pure! Ahaṃ pure! ...”
“Ta
là người trước tiên! Ta là người trước tiên!...”
Nghiệp
thiện ấy chắc chắn có năng lực rất mạnh, thì quả báu của nghiệp thiện ấy chắc
chắn rất đầy đủ và rất phong phú.
Nếu
như ông Bàlamôn Cūḷekasāṭaka dâng cúng dường tấm choàng đến Đức Phật vào canh
đầu đêm, thì ông sẽ được quả báu mỗi thứ có 16. Nhưng canh đầu và canh giữa
đêm, đức tin của ông chưa có đủ sức mạnh thắng được tâm keo kiệt bủn xỉn, cho
đến canh chót đêm; ông nhờ có một nhận thức đúng đắn, tạo nên đức tin mạnh mẽ,
có năng lực thắng được tâm keo kiệt bủn xỉn, ông liền làm phước thiện kính dâng
tấm choàng đến Đức Phật, do chậm trễ cho nên quả báu của nghiệp thiện bố thí ấy
mỗi thứ chỉ có 4 mà thôi.
Ông
Bàlamôn Cūḷekasāṭaka làm phước thiện bố thí cúng dường 1 tấm choàng đến Đức
Phật, ngay sau đó, quả báu của nghiệp thiện bố thí là được Đức vua ban thưởng
không những có được 164 tấm choàng, 2 tấm gấm quý giá, mà còn có 4 con voi, 4
con ngựa, 4.000 đồng kahàpana, 4 người đàn bà, 4 người tớ gái, 4 người đàn ông,
4 làng để thu thuế; gồm có 7 thứ mà mỗi thứ có 4.
8
Quả Báu Của Phước Thiện Bố Thí Vải
Trong
bộ Apàdàna, sự tích Ngài Đại Trưởng Lão Pilindavaccha([5])
là bậc Thánh Arahán có Tứ tuệ phân tích, 8 Pháp giải thoát (Vimokkha), Lục
thông. Ngài là bậc Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Phật Gotaṃa, có đức hạnh đặc
biệt xuất sắc làm hài lòng hoan hỷ nhiều chư thiên hơn các bậc Thánh Thanh Văn
khác. Ngài nhớ lại những tiền kiếp của mình đã từng làm phước thiện bố thí
những thứ nào và quả báu của thứ ấy ra sao.
Trong
phần này xin trích dẫn về phước thiện bố thí dâng vải và quả báu của phước
thiện dâng vải (dussànisaṃsa). Ngài Đại Trưởng Lão dạy rằng:
“Dussàni
Sugate datvà,
Saṃghe
gaṇavaruttaṃe,
atthànisaṃse
anubhomi.
Kaṃmànucchavike
mama...”(2)
Tôi
đã cung kính cúng dường những tấm vải,
đến
Đức Phật cùng chư Đại đức Tăng cao thượng,
Tôi
hưởng được tám quả báu của phước thiện ấy,
tùy
theo thiện nghiệp của tôi đã tạo như:
-
Tôi là người có màu da óng ánh như vàng,
-
Bụi bặm dơ dáy không thể bám vào thân,
-
Có hào quang sáng ngời lan tỏa xung quanh,
-
Có ánh sáng đặc biệt hơn các chư thiên khác.
-
Thân hình của tôi rất xinh đẹp, mềm mại.
*
Kiếp tử sinh luân hồi của tôi:
-
Có một trăm ngàn tấm vải màu trắng,
-
Có một trăm ngàn tấm vải màu vàng,
-
Có một trăm ngàn tấm vải màu đỏ.
Như
vải lụa, vải gấm, vải bông, vải len,
Mà
tôi có được trong khắp mọi nơi.
Đó
là quả báu của phước thiện bố thí vải,
Mà
tôi đã làm trong kiếp quá khứ.
Ngài
Đại Trưởng Lão Pilindavaccha thuật lại nghiệp thiện bố thí vải và 8 quả
báu của nghiệp ấy.
Trong
buổi lễ dâng y có dâng thêm cái bát (dùng cho vị Sadi, Tỳ khưu đi khất thực).
*
Nếu người thí chủ làm phước thiện dâng cái bát thì có quả báu như thế nào?
Ngài
Đại Trưởng Lão Pilindavaccha dạy rằng:
“Tôi
đã cung kính cúng dường bát,
đến
Đức Phật cùng chư Đại đức Tăng cao thượng,
Tôi
hưởng được mười quả báu của phước thiện ấy,
Tùy
theo thiện nghiệp của tôi đã tạo như:
-
Tôi thường dùng vật thực trong chén đĩa,
Bằng
vàng, bằng ngọc mani, bằng bạc,...
-
Tôi là người không gặp điều nguy hiểm,
-
Không có điều rủi ro tai hại.
-
Được nhiều người cung kính.
-
Tôi là người có đầy đủ cơm, nước, y phục, và mọi thứ đồ dùng.
-
Tài sản của tôi không gặp tai họa nào làm hư mất.
-
Tôi là người có tâm định vững chắc.
-
Tôi luôn luôn thích trong chánh pháp.
-
Tôi là người ít phiền não.
-
Nay tôi không còn phiền não trầm luân (Ngài là bậc Thánh Arahán).
Những
quả báu, ân đức ấy theo tôi trong các cõi trời, cõi người không bao giờ tách
rời, như bóng không bao giờ tách rời khỏi cây.
Trong
thời kỳ Đức Phật đang còn trên thế gian, một số người nam xin Đức Phật cho phép
xuất gia trở thành Tỳ khưu, Ngài cho phép một số người nam xuất gia trở thành
Tỳ khưu bằng cách truyền dạy rằng:
“Ehi
Bhikkhu! Svàkkhato dhammo cara brahmacariyaṃ sammà dukkhassa antakiriyàya”.
“Con
hãy đến với Như Lai, con trở thành Tỳ khưu theo ý nguyện! Chánh pháp mà Như Lai
đã thuyết hoàn hảo ở phần đầu, phần giữa, phần cuối; con hãy nên cố gắng tinh
tấn thực hành phạm hạnh cao thượng để chứng đắc Arahán Thánh Đạo, Arahán Thánh
Quả và Niết Bàn, để chấm dứt sự khổ tử sinh luân hồi”.
Sau
khi Đức Phật truyền dạy vừa dứt lời, ngay tức thì người nam ấy (hoặc Đạo sĩ, tu
sĩ ngoại đạo...) trở thành vị Tỳ khưu có đầy đủ 8 thứ vật dụng của Samôn (3 y +
1 bát + 1 dây thắt lưng + 1 dao cạo + 1 ống kim chỉ + 1 đồ lọc nước)
được thành tựu do quả của phước thiện bố thí của người ấy (iddhimayapattacìvara).
Vị Tỳ khưu ấy có tăng tướng trang nghiêm, ngũ căn thanh tịnh như một vị Tỳ khưu
có 60 hạ. Nhưng cũng có trường
hợp, người nam sau khi lắng nghe Đức Phật thuyết pháp, ngay tại nơi ấy, chứng
đắc thành bậc Thánh Nhân, người nam ấy xin Đức Phật cho phép xuất gia trở thành
Tỳ khưu, thì Đức Phật truyền hỏi người nam ấy có đầy đủ 8 thứ vật dụng của
Samôn hay không. Nếu người nam ấy chưa đầy đủ 8 thứ vật dụng của Samôn, thì cần
phải đi tìm cho đầy đủ mới được phép xuất gia trở thành Tỳ khưu.
Vấn:
Vì lý do gì khi người nam xin Đức Phật cho
phép xuất gia trở thành Tỳ khưu, có một số người nam được Đức Phật cho phép
xuất gia trở thành Tỳ khưu bằng cách truyền dạy: “Ehi Bhikkhu!”, còn có một số
người nam khác, Đức Phật hỏi người nam ấy có đầy đủ 8 thứ vật dụng của Samôn
hay không. Nếu người ấy chưa đầy
đủ 8 thứ vật dụng ấy thì cần phải đi tìm cho đầy đủ mới được phép xuất gia trở
thành Tỳ khưu?
Đáp:
Mỗi khi Đức Phật cho phép người nam nào xuất gia trở thành Tỳ khưu bằng cách
truyền dạy “Ehi Bhikkhu!” Đức Phật xem xét tiền kiếp của người nam ấy đã từng
làm phước thiện bố thí taṃ y (y 2 lớp, y vai trái và y nội) bát và các thứ vật
dụng của Samôn đến chư Tỳ khưu trong thời kỳ Đức Phật quá khứ hay không, và
tiền kiếp người nam ấy có phát nguyện xuất gia trở thành Tỳ khưu bằng cách “Ehi
Bhikkhu!” hay không. Nếu người nam ấy có đủ điều kiện như vậy, thì Đức Phật mới
truyền dạy “Ehi Bhikkhu!”. Sau khi Đức Phật truyền dạy vừa dứt lời, tức thì
người nam ấy (hoặc Đạo sĩ, tu sĩ ngoại đạo...) trở thành Tỳ khưu có đầy đủ 8
thứ vật dụng của Samôn được thành tựu do phước thiện của người ấy
(iddhimayapattacìvara).
Còn
người nào trong tiền kiếp không từng làm phước bố thí 8 thứ vật dụng của Samôn
và cũng không từng phát nguyện xuất gia trở thành Tỳ khưu bằng cách “Ehi
Bhikkhu!” thì Đức Phật không thể truyền dạy “Ehi Bhikkhu!”được.
Trong
thời kỳ Phật giáo hiện đang còn tồn tại trên thế gian, chư Tỳ khưu hiện đang
còn tồn tại, đó là một cơ hội tốt hiếm có, cũng rất hy hữu để cho những thí chủ
có đức tin trong sạch nơi Taṃ Bảo, có dịp tốt làm phước bố thí cúng dường taṃ
y, bát và các thứ vật dụng đến chư Tỳ khưu Tăng, rồi phát nguyện kiếp sau gặp
Đức Phật xin xuất gia trở thành Tỳ khưu theo cách “Ehi Bhikkhu!”. Nhất
là trong dịp lễ dâng y kathina thì lời phát nguyện của mình sẽ thành tựu như ý,
bởi vì buổi lễ dâng y kathina có nhiều phước thiện lớn lao vô lượng, phát
nguyện điều gì mà chẳng thành tựu được! Chắc chắn sẽ thánh tựu như ý.
Để
thành tựu những quả báu của phước thiện bố thí lớn lao vô lượng, thì cần phải
hợp đầy đủ những nhân tố cần thiết như:
-
Vật thí
phải được phát sinh một cách hoàn toàn trong sạch.
-
Thí chủ
có tác ý thiện tâm (cetana) hoàn toàn trong sạch.
-
Bậc thọ thí
là người có giới đức hoàn toàn trong sạch, hành thiện pháp cao thượng.
Khi
đã thành tựu phước thiện bố thí rồi, thí chủ có được nhiều phước thiện thanh
cao, cho nên thí chủ phát nguyện như thế nào, do nhờ năng lực nghiệp thiện ấy
sinh quả đem đến thành tựu quả báu như thế ấy. Cũng như người đã cố gắng tinh
tấn làm công việc lớn lao, có được nhiều tiền của; người ấy muốn mua sắm thứ
gì, thì cũng được như ý.
Trong
các buổi lễ làm phước thiện bố thí các thứ vật dụng (không phải pháp thí) thì
chỉ có lễ làm phước thiện dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng đã an cư nhập hạ
suốt 3 tháng trong mùa mưa là cao quý hơn cả, và quả báu của lễ dâng y kathina
cũng phong phú vô lượng không sao kể xiết.
QUẢ
BÁU CỦA LỄ DÂNG
Y KATHINA
Thí
chủ có đức tin trong sạch nơi Taṃ Bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, có trí tuệ
sáng suốt, cung kính làm lễ dâng tấm y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng
(saṃghikadāna) đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa tại một ngôi chùa, hoặc
một nơi thanh vắng trong rừng núi, hang động, v.v… Đó là một cơ hội tốt rất
hiếm có, rất đặc biệt, thật vô cùng hy hữu. Bởi vì chư Tỳ khưu Tăng đã an cư
nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa tại một nơi nào, chư Tỳ khưu Tăng tại nơi ấy chỉ
được phép thọ nhận tấm y kathina của thí chủ một lần duy nhất trong ngày hôm
ấy, trong mùa lễ dâng y kathina ấy mà thôi. Cho nên, quả báu của buổi lễ dâng
tấm y kathina rất đặc biệt hơn quả báu của các buổi lễ làm phước thiện bố thí
cúng dường khác đến chư Tỳ khưu Tăng.
Đức
Phật thuyết giảng bài pháp Pakinnakadesanà so sánh quả báu của một lần
làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng như sau:
“Yāva
akaṃṭṭthā devā,
Suvaṇṇaṃ
rajataṃ bahuṃ.
Nānāratanarāsiṃ
ca,
Dade
saṃghassa sabbadā.
Ekakathinadānassa,
Kalaṃ
nagghati soḷasiṃ.
Sataṃ
hatthi Sataṃ assā,
Sataṃ
assatarī rathā.
Sataṃ
kaññāsahassāni,
Āmuttaṃaṇikuṇdalā.
Ekakathinadānassa,
Kalaṃ
nagghati soḷasiṃ.
Yatthake
ca parikkhāre,
Dade
saṃghassa sabbadā.
Ekakathinadānassa,
Kalaṃ
nagghati soḷasiṃ.
Caturāsītisahasse,
Kārāpetvāna
vihāre.
Pallaíke
ratanamaye,
Dade
saṃghassa sabbadā.
Taṃ
taṃ dānaṃ mahāpphalaṃ,
Vipulaṃ
sukhadāyakaṃ.
Ekakathinadānassa,
Kalaṃ
nagghati soḷasiṃ.
Suvaṇṇaṃayapāsādaṃ,
Ratanavicittaṃ
katvā.
Uddhaṃ
Yāva akaniṭṭhā,
Dade
saṃghassa sabbadā.
Taṃpi
dānaṃ mahāpphalaṃ,
Ulāraṃ
sukhakāranaṃ.
Ekakathinadānassa,
Kalaṃ
nagghati soḷasiṃ.
Yasmà
cāpattim nàseti,
Bhikkhūnaṃ
kathinadānaṃ.
Tasmā
taṃ sabbadānehi,
Atidānaṃ
vuttaṃ mayà.
Tasmā
hi paṇḍito poso,
Sampassaṃ
sukhamattano.
Sammate
kathinakhette,
Dade
saṃghassa kathinaṃ
…”([6])
Ý
nghĩa bài pháp:
Này
các hàng Thanh Văn đệ tử !
Các
con lắng nghe quả báu một lần
Dâng
y ka-thi-na đến chư Tăng.
Hằng
ngày dâng cúng dường đến chư Tăng,
Nhiều
vàng bạc và các thứ châu báu,
Chất
cao từ cõi người đến cõi trời,
Phạm
thiên sắc giới Sắc cứu cánh thiên,
Không
bằng quả báu một phần mười sáu,([7])
Của
một lần dâng y kathina,
Đến
chư Tăng đã an cư nhập hạ.
Mỗi
ngày có được trăm con voi quý,
Trăm
con ngựa quý, trăm xe ngựa quý,
Trăm
ngàn cô gái đeo bông tai ngọc,
Không
bằng quả báu một phần mười sáu,
Của
một lần dâng y ka-thi-na,
Đến
chư Tăng đã an cư nhập hạ.
Hằng
ngày dâng cúng dường đến chư Tăng,
Những
thứ vật dụng dù nhiều bao nhiêu,
Không
bằng quả báu một phần mười sáu,
Của
một lần dâng y ka-thi-na,
Đến
chư Tăng đã an cư nhập hạ.
Xây
tám mươi bốn ngàn ngôi chùa lớn,
Làm
pháp toà bằng các thứ châu báu,
Rồi
hằng ngày cúng dường đến chư Tăng,
Sự
cúng dường ấy có quả báu lớn,
Thật
vĩ đại, cho quả được an lạc,
Không
bằng quả báu một phần mười sáu,
Của
một lần dâng y ka-thi-na,
Đến
chư Tăng đã an cư nhập hạ.
Hằng
ngày dâng cúng dường đến chư Tăng,
Lâu
đài bằng vàng và các châu báu,
Cao
đến cõi trời Sắc cứu cánh thiên,
Sự
cúng dường ấy có quả báu lớn,
Thật
vĩ đại, là nhân sanh sự an lạc,
Không
bằng quả báu một phần mười sáu,
Của
một lần dâng y ka-thi-na,
Đến
chư Tăng đã an cư nhập hạ.
Bởi
vì lễ dâng y ka-thi-na,
Đến
chư Tăng đã an cư nhập hạ,
Tỳ
khưu thọ y, chư Tăng hoan hỷ,
Được
hưởng quả báu 4 giới không phạm,
Suốt
thời gian hưởng quả báu dâng y.
Vì
vậy, Như Lai dạy các con rằng:
Phước
dâng y ka-thi-na cao quý,
Hơn
tất cả mọi phước bố thí khác,
Cho
nên người có trí tuệ quán xét,
Sự
lợi ích sự an lạc của mình,
Trong
mùa lễ dâng y kathina,
Nên
làm lễ dâng y kathina,
Đến
chư Tỳ khưu Tăng đã an cư,
Nhập
hạ trong suốt 3 tháng mùa mưa.
Nhận
Xét Về Phước Thiện và Quả Báu Của Lễ Dâng Y Kathina
Sở
dĩ quả báu của lễ dâng y kathina đặc biệt hơn tất cả mọi quả báu của phước
thiện bố thí khác, là vì lễ dâng y kathina được phát sinh một cách hoàn toàn
trong sạch, do bởi đại thiện tâm hợp với trí tuệ hiểu biết rõ phước thiện dâng
y kathina là cao quý, và quả báu của lễ dâng y kathina là cao quý, không do một
vị Tỳ khưu nào động viên khuyến khích làm lễ dâng y kathina.
Lễ
dâng y kathina chỉ có trong Phật giáo mà thôi, không có ngoài Phật giáo. Nơi
nào có chư Tỳ khưu Tăng đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa, thì nơi ấy, thí
chủ mới có cơ hội tốt làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng ấy. Thí chủ có
thể làm lễ dâng y kathina được một tháng trong một năm, kể từ ngày 16 tháng 9
cho đến ngày rằm tháng 10 là hết hạn mùa dâng y kathina. Và tại mỗi nơi, mà chư
Tỳ khưu Tăng đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa xong, chỉ được phép thọ nhận
y kathina của thí chủ một lần duy nhất trong một ngày ấy mà thôi; hay nói cách
khác, trong một năm chỉ có 1 tháng, trong 1 tháng chỉ có 1 ngày, trong 1 ngày
chỉ có 1 lần duy nhất tại nơi ấy, chư Tỳ khưu Tăng ấy được phép thọ nhận y
kathina của thí chủ một lần duy nhất trong mùa lễ dâng y kathina mà thôi.
Nếu Tỳ khưu bị đứt hạ, Tỳ khưu an cư nhập hạ sau kể từ ngày 16 tháng 7
cho đến ngày 16 tháng 10, Tỳ khưu không an cư nhập hạ tại một nơi nào, Tỳ khưu
an cư nhập hạ từ một nơi khác đến nơi này,… thì tất cả những vị Tỳ khưu ấy
không được phép thọ nhận y kathina của thí chủ, không hưởng đặc ân 5 quả báu
của lễ thọ y kathina của chư Tăng, mà chỉ được phép thọ nhận y thường dùng mà
thôi.
Do
đó, cơ hội tốt để làm lễ dâng y kathina là một điều rất hiếm có, rất hy hữu. Có
khi thí chủ phải chờ đợi qua thời gian lâu, mới có được cơ hội tốt làm lễ dâng
y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng.
Còn
các buổi lễ làm phước thiện bố thí khác, thí chủ có thể làm bao nhiêu lần trong
một năm, trong một tháng, trong một ngày không bị giới hạn. Cho nên, làm lễ dâng
y kathina dù chỉ một lần cũng thật là cao quý hơn các buổi lễ làm phước
thiện bố thí khác gấp bội lần không thể so sánh được.
Đối
với chư Tỳ khưu Tăng, sau khi đã làm lễ thọ y kathina của chư Tăng, tất cả chư
Tỳ khưu Tăng đồng thanh nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina của chư Tăng,
chính lễ thọ y kathina của chư Tăng ấy, có một oai lực phi thường, hộ trì cho
chư Tỳ khưu không bị phạm 4 giới, mà Đức Phật đã chế định và ban hành đến chư
Tỳ khưu Tăng, trong suốt thời gian hưởng đặc ân 5 quả báu của y kathina, cho
đến ngày rằm tháng 2 mới hết hạn.
Bố
Thí Của Bậc Thiện Trí
Đối
với thí chủ, buổi lễ dâng y kathina thuộc ve sappurisadàna: Phước
thiện bố thí cúng dường của bậc thiện trí, gồm đủ 5 chi pháp như sau:
1-
Saddhadāna:
Bậc thiện trí bố thí có đức tin trong sạch nơi Taṃ Bảo, tin nghiệp và quả của
nghiệp.
Bố
thí với đức tin này có quả báu giàu sang phú quý và đặc biệt nhất là có sắc
thân xinh đẹp, đáng chiêm ngưỡng.
2-
Sakkaccadāna:
Bậc thiện trí bố thí với sự cung kính và vật thí phát sinh một cách trong sạch.
Bố
thí với sự cung kính có quả báu giàu sang phú quý và đặc biệt nhất là toàn thể
gia đình vợ con, tôi tớ, bà con, bạn bè, thuộc hạ… cả thảy đều ngoan ngoãn vâng
lời, dễ dạy.
Kāladāna:
Bậc thiện trí bố thí đúng thời, đúng lúc như trong buổi lễ dâng y tắm mưa, dâng
y kathina, bố thí đến Tỳ khưu khách, Tỳ khưu đi xa, Tỳ khưu bệnh, người bệnh,
người đang đói khát…
Bố
thí cúng dường đúng thời, đúng lúc, có quả báu giàu sang phú quý và đặc biệt
nhất là có quả báu tốt lành từ thuở ấu niên cho đến lão niên, có những vật mà
người khác khó có, được những vật mà người khác khó được…
3-
Anuggahadāna:
Bậc thiện trí bố thí với tâm tế độ người thọ thí.
Bố
thí với tâm tế độ, có quả báu giàu sang phú quý và đặc biệt nhất là quan tâm
đến sự hưởng thụ của cải cho được an lạc.
4-
Anupahaccadāna:
Bậc thiện trí bố thí không làm khổ mình, không làm khổ người.
Bố
thí không làm khổ mình, không làm khổ người có quả báu giàu sang phú quý và đặc
biệt nhất là tất cả của cải không bị thiệt hại do bởi lửa thiêu hủy, không bị
nước ngập lụt cuốn trôi, không bị kẻ trộm cướp chiếm đoạt, không bị Đức vua
tịch thu, không bị người không ưa thích tranh giành.
Như
trong kinh Sappurisadānasutta([8])
Đức Phật dạy:
Này
chư Tỳ khưu, bậc thiện trí làm phước thiện bố thí bằng đức tin trong sạch
sẽ được quả báu nhiều tiền của, giàu sang phú quý và đặc biệt là người có sắc
thân rất xinh đẹp, có màu da mịn màng trắng trẻo, sạch sẽ, đáng để cho mọi
người ngưỡng mộ.
Bậc
thiện trí làm phước thiện bố thí bằng sự cung kính sẽ được quả báu nhiều
tiền của, giàu sang phú quý và đặc biệt vợ con tôi tớ, người làm công, bè bạn,
v.v… đều lắng nghe và cung kính vâng lời làm theo lời khuyên dạy.
Bậc
thiện trí làm phước thiện bố thí hợp thời, hợp lúc, sẽ được quả báu
nhiều tiền của, giàu sang phú quý và đặc biệt khi cần có thứ gì sẽ có được thứ
ấy theo sự mong muốn của mình.
Bậc
thiện trí làm phước thiện bố thí với tâm tế độ người thọ thí, sẽ được
quả báu nhiều tiền của, giàu sang phú quý và đặc biệt là người ấy thường quan
tâm đến sự thọ hưởng của cải, đầy đủ sung túc ngũ trần.
Bậc
thiện trí làm phước thiện bố thí không làm khổ đến mình và người sẽ được
quả báu nhiều tiền của, giàu sang phú quý và đặc biệt tất cả của cải tài sản
không bị thiệt hại bởi lửa cháy, nước lụt, trộm cướp, vua chiếm đoạt và kẻ
không ưa thích phá hoại.
Này
chư Tỳ khưu đó là 5 cách phước thiện bố thí của bậc thiện trí và quả báu của
nó.
Kathina
có ý nghĩa là “vững chắc” thì quả báu của lễ dâng y kathina cũng có tính
chất đặc biệt hơn các quả báu của các phước thiện bố thí khác đó là “vững chắc”,
bền vững lâu dài, có đầy đủ 5 quả báu:
-
Àyu:
Sống lâu.
-
Vanna:
Có sắc đẹp đáng chiêm ngưỡng.
-
Sukha:
Thân và tâm được an lạc.
-
Bala:
Thân và tâm có sức mạnh.
-
Paññā:
Có trí tuệ sáng suốt.
Những
quả báu này được vững chắc, bền vững từ thời ấu niên, trung niên cho đến lão
niên, và tất cả các tài sản sự nghiệp cũng được vững chắc, bền vững, không bị
hủy hoại, không bị thiệt hại do lửa thiêu hủy, do nước lụt cuốn trôi, do bọn
trộm cướp chiếm đoạt, do Đức vua tịch thu,…
Lễ
dâng y kathina có tính chất đặc biệt hơn tất cả phước thiện bố thí khác đó là:
Cơ hội tốt để thí chủ tạo được phước duyên sâu sắc nhất trong Phật giáo.
Chính do nhờ phước duyên này hỗ trợ cho thí chủ dễ phát sinh đức tin nơi Taṃ
Bảo; khi gặp Đức Phật, nếu hậu thân của thí chủ muốn xuất gia trở thành Tỳ
khưu, Đức Phật cho phép xuất gia Tỳ khưu theo cách gọi“Ehi Bhikkhu!”: Con hãy
lại đây! Con trở thành Tỳ khưu theo ý nguyện… Ngay khi Đức Phật truyền
dạy dứt câu, vị ấy trở thành Tỳ khưu có đầy đủ 8 thứ vật dụng đó là y 2 lớp, y
vai trái, y nội, bát, dây thắt lưng, dao cạo tóc, ống kim chỉ và đồ lọc; những
thứ ấy được thành tựu do phước thần thông của vị ấy, vị tân Tỳ khưu liền có
Tăng tướng trang nghiêm, lục căn thanh tịnh như một vị Đại đức có 60 tuổi hạ.
Trong
thời kỳ Đức Phật còn tại thế, có nhiều vị Tỳ khưu được Đức Phật cho phép xuất
gia trở thành Tỳ khưu bằng cách gọi “Ehi Bhikkhu!”, đó là những vị Tỳ
khưu mà trong kiếp quá khứ, quý Ngài đã từng dâng y, bát, các thứ vật dụng đến
cá nhân Tỳ khưu, hoặc đến chư Tỳ khưu Tăng, nhất là có cơ hội đã từng làm lễ
dâng y kathina và đã từng phát nguyện rằng:
“Do
năng lực phước thiện dâng y kathina này, kiếp sau sẽ gặp Đức Phật và được Ngài
cho phép xuất gia trở thành Tỳ khưu bằng cách gọi “Ehi Bhikkhu!”.
Khi
thí chủ có nhiều phước thiện dâng y kathina cùng với lời phát nguyện thì sẽ
được thành tựu như ý.
1
Bộ Apadàna, Buddhàpadàna pubbakammapiloti.
2
Bộ Jàtaka, phỏng theo tích Ummànandìjàtaka.
3
Bộ Chú giải Dhammapadaṭṭhakathā, sự tích Cūḷekasāṭaka-brahmaṇavatthu.
4
Dhammapadagàthà số 116.
5
Bộ Apàdàna, sự tích Pilindavacchatheràpàdàna.
6
Tipitakapakinnakadìpanì.
7
Solasim còn có nghĩa 1 phần 256.
8
Aṅguttaranikàya, phần 5 chi, kinh Sappurisadànasutta.
|
[Ðầu trang][Trở về trang Mục Lục][Trở về trang Thư Viện]
updated: 2007