Trung Tâm Hộ Tông Trang Chủ
Tác giả:
Minh Đức Triều Tâm Ảnh |
RA ĐI LÚC HOÀNG THÀNH SAY NGỦ Cổ thành Kapilavatthu đêm nay thật là huy hoàng, tráng lệ. Để mừng cho mình đã có một đứa cháu nội - một hoàng tôn đẹp đẽ - đức vua cho cả kinh thành yến tiệc trong ba ngày. Sau ba ngày, đức vua sẽ bố cáo rộng rãi ngày lễ đăng quang cho thái tử chính thức trị vì ngôi báu. Dịp này không những muôn dân được giảm thuế mà tội tử tù sẽ được giảm khinh, tội nhẹ thì được tha bổng. Cả nước được vui chơi thêm bảy ngày, có ngân quỹ của hoàng gia và các trấn thành đài thọ... Hằng đêm như thế, tòa thành cung điện sáng lung linh diễm ảo như một viên kim cương vĩ đại. Trên tường thành, các tháp canh cao lớn được trang điểm như một cây hoa đăng, ngoài ra, cách khoảng đều đặn chừng vài chục sải tay còn dựng những bó đuốc khổng lồ rực sáng giữa nền trời. Khắp các đường phố, vua cũng ra lệnh trang hoàng như các ngày lễ hội; các loại đèn nhựa thông, dầu mù u, dầu lạc... được quân canh thay nhau canh lửa suốt đêm. Tại công viên của Cung Vui, thái tử đã cho chuẩn bị đâu đó xong xuôi một buổi dạ tiệc. Chàng muốn chung vui với các ông hoàng - như là sự gặp mặt cuối cùng trước khi âm thầm ra đi, sống cuộc đời lang thang sương gió. Yasodharā chỉ mấy ngày đã lấy lại được sức khỏe bình thường nhờ thuốc quý của hoàng gia và sự tận tình chăm sóc của hai viên quan ngự y; nhưng thái tử khuyên nàng nên nghỉ ngơi, lại còn tiếp chuyện với hai bà mẹ cùng cô em Sundarī Nandā nữa. Họ đến từ sớm. Có lẽ mải chuyện vui nên chốc chốc tiếng cười khe khẽ vẳng ra. Thái tử cảm thấy yên tâm. Đứa bé đã cho họ niềm vui quý hiếm. Khi tòa thành phía Tây che giấu những vạt nắng cuối cùng thì hoàng hôn cũng vừa buông xuống, nhường chỗ cho ánh sáng lửa bừng lên. Những chùm đèn sáng rực đó đây giữa lối đi, giữa các hàng cây, vườn cảnh... soi tỏ những chiếc bàn sang trọng đã được thị nữ chuẩn bị chu đáo thức ăn, vật uống. Đêm nay, thị nữ, vũ nữ, ca nhi được phục sức và trang điểm như ngọc nữ. Nhạc công, vũ công... thì trông tựa như tiên đồng. Tất cả xà-rông, xiêm y, khăn, đai... của họ đều lấy màu xanh làm nền: Xanh da trời, xanh nước biển, xanh lá cây, xanh nõn chuối... nên trông dịu dàng mát mẻ như một bài thơ mùa xuân của thi sĩ thiên nhiên. Một khán đài lộ thiên được dựng công phu giữa hai cội hồng táo cũng được trang điểm gấm lụa nhiều màu sắc, điểm hoa thêu. Hoa sứ, hoa lài, hoa cúc, hoa vạn thọ, hoa kadamba, hoa campaka, hoa saraca... được kết thành từng tràng, từng chuỗi từ diềm cao rủ xuống trông vô cùng duyên dáng và gợi cảm. Không gian thơm nức mùi hương. Thái
tử ngồi trầm ngâm bên lò trầm, đưa mắt nhìn lên nền trời xanh có mảnh trăng như
dát bạc. Vô vàn vì sao mờ tỏ lấp láy. Phương
Ngựa hí, những tiếng nhạc ngựa leng keng, những bánh xe dừng lại ken két ở ngoài ngõ. Các ông hoàng, trước sau, lần lượt xuất hiện. Đầy đủ cả. Đầy đủ tất cả những nhân vật tài hoa của cả hai cổ thành. Thái tử mỉm cười ôm vai nhau vui mừng với từng người một, trong thâm tâm lại nghĩ, họ sẽ là những phụ tá đắc lực mai hậu cho chàng khi tìm ra được đạo lớn - con đường bất tử. Đêm ấy thật là đặc biệt. Đã quá lâu họ mới có cuộc gặp mặt đông vui như thế này. Từ độ hợp tác cải cách, canh tân đất nước thất bại, họ xa nhau, ai cũng trở về với bổn phận và trách nhiệm của mình. Đa phần họ được thay thế lớp già lão để làm các quan tổng trấn, đại thần hoặc phụ tá các các vị trong hội đồng nguyên lão. Con đường làm quan thì giàu sang, vinh hiển. Có kẻ bệ vệ, chững chạc nhưng cũng có kẻ đã có vài nếp nhăn nơi đuôi mắt, vầng trán. Thái tử quan sát từng người và chàng cảm nhận một cách minh nhiên rằng là, chẳng có ai hạnh phúc cả! Họ cười nói ha hả, hào sảng, vô tư... nhưng ai cũng muốn giấu đằng sau những lo nghĩ, phiền muộn. Nhất là Mahānāma, người đã có gia đình, lúc nhúc vợ con. Kế đến là Bhaddiya, một vị minh quan được triều đình nể trọng. Chỉ còn có Ānanda và Anuruddha, cả hai đều một mực từ chối làm quan, từ chối lập gia đình... là còn vui tươi, hồn nhiên, trong sáng. Trên khán đài lộ thiên, tốp vũ nữ và đám ca nhi thay nhau những tiết mục đặc sắc. Họ vào tiệc, ăn uống, chúc vui, chúc mừng nhau... mạnh khỏe, sống lâu, công thành, danh toại... Ai nấy đều học rộng, biết nhiều, có đời sống tinh thần vững mạnh, có chiều sâu tâm hồn; họ đều biết những lời chúc tụng đẩy đưa ấy là khách sáo, nhưng nếu không có những lời đầu môi chót lưỡi ấy thì họ không biết nói gì! Họ bất lực trước cái hữu hạn, trước cái ràng buộc của ngôn lời, của xã giao đời thường mà chẳng biết làm sao! Họ ăn uống chừng mực. Nghe xem cũng chừng mực. Thái tử sai thị nữ mang thêm thức ăn, thức uống - rồi muốn phá vỡ không khí im lặng ấy, chàng nói: - Công việc tại các trấn thành như thế nào, các bạn? Bhaddiya nói oang oang: - Đệ không muốn làm quan tổng trấn, chỉ xin chức phụ tá để xem công việc như thế nào, xem mình sẽ làm được những gì cho mọi người... Nhưng rốt lại, vô ích thôi, thái tử ạ! - Đệ hãy nói cụ thể hơn. Ở đây sẽ có được ý kiến của nhiều người - Thái tử quan tâm hỏi. Bhaddiya thở dài: - Chưa nói đến bảy mươi ba ngàn dân lao động cực nhọc, khốn khổ, nghèo nàn... trong một trấn thành một trăm mười ngàn dân – như ở Kapilavatthu này – là khó giải quyết! Chưa nói đến tệ nạn quan liêu, tham nhũng, hối lộ... của các quan chức điều hành các cơ sở nghiệp vụ chuyên môn... tại thị trấn, làng xã, phường xóm...là những căn bệnh lâu ngày khó chữa trị. Chỉ mới một việc nhỏ thôi - tại trấn thành của đệ, chỉ có mấy chục ngàn dân, muốn đưa số dân nghèo ra khỏi đời sống của động vật, sống cho ra con người mà cũng không làm được! Thái tử hiểu Bhaddiya muốn nói gì. Chàng đã từng đi quan sát nhiều ngôi làng của cư dân thủ-đà-la. Họ chưa có một ngôi nhà đúng nghĩa là một ngôi nhà: Tất cả chỉ là những cái chòi, những cái hang, những mái che tạm bợ, sơ sài. Chỗ ngủ nghỉ của họ là những sạp cây, sạp nứa đóng ghép cẩu thả, đểnh đoảng, ọp ẹp, hư mục... Đôi nơi họ nằm cả trên nền đất bẩn. Chưa thôi. Trước cửa ra vào xiêu vẹo, bên trái là năm bảy con dê, bên phải là vài ba con bò...; máng ăn cho súc vật quăng bỏ bừa bãi trên đống rác xả thải đủ loại... Phân dê, phân bò cùng nước tiểu của chúng, lâu ngày tẩm lên đất một mùi xú uế nồng nặc, đứng xa hai mươi sải vẫn ngật ngầy mùi hôi đến lợm giọng, nôn mửa. Thế nhưng, đám dân thủ-đà-la ấy cùng sống chung, sống với dê, bò, với hôi hám bẩn thỉu ấy một cách an nhiên, tự tại! Sự rách rưới, đói nghèo, bệnh tật, ghẻ lở... của họ - quả là không còn thuốc trị, quả không còn khả năng để cứu giúp nữa... Ôi! Thái tử hiểu rất rõ, rất rõ... Kimbila xen lời có vẻ vừa mỉa mai vừa tâm sự: - Cứ cải cách đi, cứ canh tân đi! Rồi biện pháp này lại đụng đến người này, biện pháp kia thì đụng đến người khác. Nuốt chén cơm quý tộc mà nghe đắng chát như trái bồ hòn. Anuruddha cười ha hả: - Cái vỏ đao chặt quá! Dụng sức rút hoài chưa ra khỏi vỏ thì nói gì đến chuyện rút đao tương trợ, cứu khốn, phò nguy, giúp dân, giúp nước... Ānanda đồng tình nhưng lại nói nhạo: - Vậy thì hoàng huynh bỏ vũ khí ra! Xem đệ đây, không có đao mà cũng chẳng có kiếm! Mọi người đồng cười rộ. Mahānāma cất giọng điềm đạm: - Tâm sự của Bhaddiya là của tất cả chúng ta. Ở trấn của đệ cũng tương tợ thế, là bài toán ngàn đời nan giải... - Ông cúi đầu xuống, im lặng một lát rồi nói tiếp - Anuruddha và Ānanda thế mà sướng, thế mà khôn... vừa thoát được cái tròng hoạn lộ, vừa thoát được cái tròng vợ con! Xin chúc mừng, chúc mừng... Mahānāma cầm ly rượu chanh chưa kịp cụng ly với mọi người - thì Anuruddha đã chọc ghẹo: - Khôn thì nhất định chúng đệ khôn rồi. Nhưng sung sướng thì còn cần phải xét lại! Huynh hai vợ, bốn con, chưa đủ; còn đào hoa gánh thêm một kiều nữ kiều diễm nữa. Kết quả mối tình mặn nồng thơ mộng này cho huynh thêm cô bé Vāsabha-khattiyā xinh đẹp như tiểu tiên nữ - không là món quà hạnh phúc là gì! Mahānāma cúi đầu rầu rĩ. Anuruddha cụng ly với Ānanda: - Chúng mình một phe, chúc mừng! Đồng thời ủng hộ cuộc nhân duyên lai huyết thống mà ai cũng phản đối ấy! Thái tử biết chuyện ấy, cả hội đồng trưởng lão Sākya lên án, làm cho ưu tư của Mahānāma càng thêm ngổn ngang, rối bời - nên mở lời chia sẻ, thông cảm: - Máu thì ai cũng đỏ. Mồ hôi, nước mắt thì ai cũng mặn. Phân biệt huyết thống mà làm gì! Tất cả chúng ta đều ủng hộ phải không? Mọi người đồng vỗ tay tán thành: - Vương huynh nói phải! Devadatta bây giờ mới từ từ cất tiếng: - Đệ quyết liệt từ chối lập gia đình nhưng phụ tá vương vị thì không thể giao phó cho ai. Tình trạng Koliya chẳng khác gì Sākya. Cũng như Bhaddiya, Mahānāma đã nói - là không làm được việc gì ra trò, ra trống cả. Việc gì cũng nửa vời. Việc gì cũng đắp đổi tình thế đầu ngọn, ngoài da cả. Ý nghĩa và giá trị cuộc sống càng ngày càng mù mịt. Tâm không yên. Trí không yên. Sau những cuộc vui chốc lát như thế này, bên huynh đệ tâm sự như thế này - có lẽ là những kỷ niệm đáng nhớ nhất, hạnh phúc nhất của đệ đấy! Rồi khi trở về, lại với công việc bộn bề, phía này thì va đụng phải bức tường thành truyền thống, phía kia thì húc phải hư vô, rỗng không cùng với những tri kiến rối bời! Đệ biết sống để làm gì? Niềm vui ngũ dục thì tầm thường quá - mà khát vọng tâm linh thì chỉ có nỗi đau và vực thẳm. Ở đâu cũng nỗi đau và vực thẳm cả... Sau lời tâm sự của Devadatta, không khí cuộc vui như chùng xuống. Dường như đấy cũng là nỗi niềm chung của các ông hoàng nên ai cũng trầm ngâm, lặng lẽ. Các chương trình, tiết mục biểu diễn trên sân khấu lộ thiên ai cũng hững hờ. Trời về khuya trăng càng sáng tỏ. Đêm mênh mông và yên tĩnh. Vài cơn gió mát lạnh từ phương Bắc tràn xuống. Cây cỏ lao xao. Chợt tiếng nói bên hiên vọng ra: - Con đừng tiễn nữa, Gopā! Hơi sương đêm không tốt đâu đấy. Thái tử đứng dậy, bước nhanh lại: - Để hoàng nhi tiễn hai mẹ về nhé! - Không! - Lệnh bà Gotamī nhìn về phía các ông hoàng - Con hãy chung vui với các bạn một lúc nữa. Lát sau, ca nhi, vũ nữ được cho nghỉ ngơi. Các ông hoàng cũng lần lượt từ giã. Trong lúc thị nữ và gia nhân thu dọn bữa tiệc tàn thì thái tử chậm rãi tản bộ đến phía cuối vườn. Đèn đuốc vẫn sáng lung linh. Thái tử ngồi bất động trên một tảng đá, rất lâu, không để ý lúc ấy sương xuống đã nặng hạt. Yasodharā liếc nhìn bóng dáng thái tử khuất sau hàng cây, nàng đội khăn, trùm đầu, đi quành ra phía góc vườn đối diện, tằng hắng, gõ cửa căn lều nhỏ: - Channa... Channa... Ngọn đèn được vặn sáng lên. Hóa ra Channa còn thức. Thấy lệnh bà Yasodharā, Channa nói lắp bắp: - Thưa lệnh bà... chẳng hay... - “Suỵt” - Công chúa khẽ nói - Đừng cho thái tử biết. Con hãy chuẩn bị yên cương, áo mão dạ hành, kể cả thức ăn ngon cho ngựa. Đêm nay, thái tử rất cần con với Kaṇṭhaka đấy! Yasodharā đi rồi mà Channa còn há hốc nhìn theo... Và quả thật đúng như vậy, đêm ấy thái tử quyết định ra đi. Đợi lúc mọi người yên ngủ cả, chàng dạo một vòng quanh công viên, nhìn những hồ nước, những cây cảnh, những ngọn đèn đá, những bồn hoa, những đường đi lối lại... suốt bao nhiêu năm qua đã trở nên quen thuộc. Chàng nói thầm trong tâm rằng: “Cảm ơn các bạn, những người bạn cỏ hoa vô tình đã cho ta những phút giây an bình, thư thái. Hôm nay, ta chào từ giã các bạn.” Sau đó, thái tử rảo bước một vòng quanh hành lang cung điện mùa hè. Đâu đó đều vắng lặng như tờ, thỉnh thoảng, tiếng nghiến răng, tiếng ngáy của gia nhân, người hầu vọng lại. Trăng sáng vằng vặc dọi chiếu vào các cửa sổ mở rộng. Những chùm đèn vẫn còn sáng tỏ lác đác đó đây. Thái tử muốn vào nhìn mặt Yasodharā và Rāhula lần cuối cùng. Khi đi ngang qua căn phòng sang trọng dành cho ca nhi, vũ nữ, bất giác chàng dừng lại. Sau buổi biểu diễn mệt mỏi, các cô nàng nằm ngủ la liệt, buông lơi, trễ tràng... Họ là những mỹ nữ đã được tuyển chọn, đẹp như tiên nữ nhà trời mà bây giờ trông như những xác chết. Có cô trốc váy, hở hang, nằm soải dài, thản nhiên cất tiếng ngáy. Có cô phấn son nhòe nhoẹt, da trắng bệch, miệng há ra, nước bọt sùi ra bên mép. Có mấy cô nằm gác chân lên nhau ngang dọc, để lộ trơ trẽn những bộ phận cơ thể lõa lồ. Mùi phấn, mùi son, mùi nước dãi, mùi mồ hôi, mùi hơi thở, mùi da thịt... quyện lẫn trong nhau tỏa ra cái mùi tổng hợp ngây ngấy, lợm giọng... Ồ! Hóa ra đây là sự thật đằng sau cái gọi là sắc đẹp, âm thanh, hương vị mỹ diệu của cuộc đời mà vô lượng kiếp, chúng đã đưa ta và chúng sanh vào các cõi dục đắm say. Quả đúng là một bãi tha ma, mộ địa bốc mùi xú uế..., là cái mà chúng đã quyến rũ ta và chúng sanh quẩn quanh hoài trong sinh tử rồi trầm luân vạn kiếp? Thái tử đứng bất động. “- Ta đã thấy ngươi rồi, sắc đẹp! Ta đã thấy rồi những tô vẽ diễm lệ ở bên ngoài cái xác thân hôi hám kia! Rồi lại còn âm thanh du dương, trầm bổng? Mùi hương thơm tho, quyến rũ? Mỹ vị ngon béo ngọt ngào? Xúc chạm mịn màng, êm ái...? Tất cả, chúng cám dỗ thế gian đến say mê điên đảo. Nhưng sự thật, bản chất của chúng là rỗng không, ghê tởm.” Trước mắt thái tử chợt hiện ra những ý nghĩ so sánh với những hình ảnh, kế tục những hình ảnh: “- Sự cám dỗ ấy ví như như cục xương khô mà đàn chó nhà đang nhe nanh vuốt cấu xé, giành giật lẫn nhau. Chúng bán sống bán chết để tranh cho được cục xương. Nhưng rồi chúng có làm được gì?! Chúng chỉ nuốt được bọt nước miếng của mình thôi!” “- Sự cám dỗ ấy giống như miếng thịt thối mà diều, quạ, kên kên... đồng lao xuống cướp giật. Con này cắn được, mang đi, con khác rượt theo, mổ, tranh chí chóe. Cuối cùng, có con nào được cái gì đâu! Chỉ có trầy da, trốc lông, tươm máu là có thật!” “- Sự cám dỗ ấy ví như người cầm bó đuốc cỏ khô đang cháy, đi ngược chiều gió. Ngọn lửa táp vào tay... cũng không chịu vứt bỏ! Cuối cùng bị cháy bỏng, đau đớn đến gần như chết.” “- Sự cám dỗ ấy giống như hầm than hồng, ngầm cháy, bên trên có lớp tro trắng che phủ. Trên ấy, có người vẫn vô tư, hồn nhiên đi lui đi tới, vui tươi hí hửng, nhảy múa, hát ca... Đùng một cái, bị rớt xuống hầm, bị thiêu đốt quằn quại, đau đớn...” “- Sự cám dỗ ấy ví như có người nằm mộng thấy phú quý, vinh hoa tột bực, thọ hưởng dục lạc trăm phần thỏa mãn. Khi tỉnh lại, hóa ra không có gì cả. Chỉ có xương cốt rã rời, thân tâm mệt mỏi là có thật!” “- Sự cám dỗ ấy giống như đồ mượn dùng trong chốc lát! Chốc lát thôi - vì không thể thọ hưởng được lâu dài. Khi trả lại cho vô thường thì hóa ra tay trắng vẫn hoàn tay trắng! Chỉ có tiếc rẻ, ngẩn ngơ, sầu muộn là còn lại.” “- Sự cám dỗ ấy giống như trái cây chín có thuốc độc. Thấy trái cây chín có màu da đẹp, láng lẩy, mịn màng, mọng đỏ, thơm lừng lựng... bèn hái ăn! Ôi, quả là tuyệt vời... trái chín ngọt tươm mật, tươm hương. Nhưng khi ăn xong, chất độc ngấm vào bao tử, ngấm vào ruột non, ngấm vào máu... người ấy quằn quại la hét, mắt trợn ngược, trắng dã, da tím tái, mồ hôi nhờn tuôn đổ... là dấu hiệu của tử vong.” “- Những sự cám dỗ ấy chúng không chỉ mê hoặc một người, vài người... mà chúng đầu độc cả thế gian. Vợ chồng, con cái, anh em, bạn bè, quyến thuộc... cũng vì chúng mà sinh ra không biết bao nhiêu cảnh huống thương tâm, ly tán, đoạn trường. Rồi nào là dòng họ, tập cấp, làng xã, bộ tộc... cũng vì chúng mà sinh ra xung đột, bạo lực, thù hận, chiến tranh... tương tàn tương sát, máu chảy thành sông, xương chất cao như núi...!” Thái tử thở dài một lượt nữa. Ý chí xuất gia thêm một lần nữa, càng trở nên kiên định... Thái tử vén rèm, nhìn vào phòng Yasodharā. Nàng và con đang yên giấc. Thái tử bước gần lại. Qua ánh đèn, thái tử thấy khuôn mặt của Rāhula bị che khuất sau mảnh vải lụa từ cánh tay trái của nàng Yasodharā. Thái tử muốn ôm con, muốn thấy mặt con lần cuối cùng. Vừa thò tay xuống, thái tử chợt dừng lại, chàng sợ lay động giấc ngủ của công chúa. Nàng thường ngủ rất tỉnh. Và như vậy thì sự ra đi của chàng càng trở nên khó khăn. Thái tử sợ giọt nước mắt của nàng. Giọt nước mắt của người nữ có thể làm tê liệt, làm cho bủn rủn ý chí của tất cả các trang nam nhi! Thái tử đứng nhìn ngắm Yasodharā. Nàng đúng là một người đàn bà vẹn toàn năm vẻ đẹp, chưa kể vẻ đẹp tâm hồn thế gian khó tìm. Cho chí trong giấc ngủ vẫn tỏa ra nét đoan trang, kín đáo... như một nụ hoa hàm tiếu! Dáng nằm nghiêng về bên phải, chân co, chân duỗi - đúng là cách nằm của bậc mẫu nghi thiên hạ! Ôi, nàng đã cùng ta đi suốt một chặng đường dài, ngoại trừ bản chất mềm yếu đương nhiên của nữ tính, thái tử thấy nàng như một viên ngọc maṇi không tỳ vết, chẳng khiếm khuyết nào về mỹ dung cũng như đức hạnh... Mà thôi! Dù sao thì mọi chuyện, thái tử đã nói hết rồi. Đừng nên quyến luyến, bịn rịn nữa. Ngay cả sự cám dỗ ngọt ngào này... ta cũng phải cắt đứt. Chàng bước ra, nhè nhẹ, sau đó lại trở vô, vén rèm nhìn hai mẹ con một lượt nữa. Cuối cùng, thái tử quay lưng, cất bước đi nhanh. Trăng sáng vằng vặc. Sương đêm lấp lánh. Thái tử đến cuối vườn. Channa còn thức. - Channa - Thái tử gọi - Đem ngựa Kaṇṭhaka với đầy đủ yên cương cho ta! Tuy đã được Yasodharā báo trước, nhưng Channa cũng hỏi: - Thái tử đi đâu khuya vậy? Không đáp thẳng vào câu hỏi của Channa, thái tử nói: - Nhớ kiểm tra lại vó ngựa. Cho nó ăn uống đầy đủ trước khi lên đường. Sau khi đã thực hiện đâu đó xong xuôi, Channa dẫn Kaṇṭhaka với đầy đủ yên cương, áo dạ hành, kể cả nước uống, thức ăn cho người và ngựa. Thái tử hơi ngạc nhiên trước sự mau mắn, nhậm lẹ của Channa; sợ không còn thời giờ, chàng đến bên ngựa vuốt ve, vỗ về: - Đây là một chuyến đi xa, Kaṇṭhaka! Chuyến đi rất quan trọng với ta! Chuyến đi quyết định cả một đời người! Con hãy ra sức hết lòng nhé! Kaṇṭhaka dậm chân, hí một tràng dài như vui mừng, như sung sướng. Sợ mọi người thức dậy, nhất là sợ Yasodharā tỉnh ngủ, Thái tử vuốt ve đầu ngựa... Channa nói: - Con có đi cùng không, thái tử? Chàng gật đầu rồi hỏi: - Nó có đủ sức chở hai người không, Channa? - Dư sức, thái tử! Một ngày đi ngàn dặm mà còn dẻo dai, sung sức. Thái tử leo lên ngựa. Channa cũng nhẹ nhàng nhảy lên ngồi ở phía sau. Ra khỏi cổng Cung Vui, nhắm cửa thành Đông nam, thái tử cho ngựa đi nước kiệu, thong dong, nhàn nhã. Kinh thành đang say ngủ, đèn đuốc vẫn còn cháy đỏ bập bùng ở nơi này, nơi khác. Cổng thành Đông nam mọi khi đóng chặt, nhưng hôm nay sao được mở rộng? Quân canh mọi lúc canh gác nghiêm ngặt nhưng bây giờ họ đi đâu vắng cả, có lẽ yến tiệc say sưa ngủ mê mệt hết rồi chăng? Ngửng nhìn trời sáng rực hào quang, thái tử biết sự ra đi của mình hôm nay được thiên thần hỗ trợ, nên ý chí xuất gia như được tiếp thêm sức mạnh. Ra khỏi cổng, ngựa Kaṇṭhaka như muốn khoe tài, nó hí một tràng dài rồi tung vó, lướt đi nhẹ nhàng như làn gió mát. Chừng hơn nửa dặm đường, thái tử dừng ngựa, quay lại nhìn kinh thành lần cuối cùng. Kapilavatthu nằm im lìm giữa trời trăng và giữa những đốm lửa bập bùng. Những tháp hoa đăng và những bó đuốc khổng lồ trên bốn bức tường thành như vạch giữa đêm đen một hình chữ nhật lửa vĩ đại. Thái tử mang một cảm giác kỳ lạ, bồi hồi khó tả. Nơi đấy, nơi cổ thành hoa lệ ấy, chàng đã được sinh ra, được lớn lên, được học hành, được nuông chìu trong ba tòa Cung Vui. Cũng tại đấy, một tuổi thơ hồn nhiên, vô tư vui chơi cùng chúng bạn... Và rồi cũng từ đó mà cùng thao thức và trở trăn. Nơi ấy có người vợ dấu yêu từ nhiều kiếp trước, đã hiểu chàng, đã thông cảm cho chàng, đã biết chàng từ chân tơ kẽ tóc của ý tình và tâm sự. Có đứa con thơ với mầm sống bé nhỏ vừa ra đời được mấy ngày. Rồi phụ hoàng, một người cha vừa nghiêm khắc vừa nhân từ, tuy già lão mà còn cứng cáp như tùng, như bách. Rồi di mẫu Gotamī nữa, người đã thương yêu chàng như mẹ thương con, quan tâm và lo lắng cho chàng còn hơn cả Nandā và Sundarī Nandā - là con ruột của người. Rồi còn các ông hoàng huynh đệ nữa. Đã hằng chục buổi hội thảo lớn, hằng trăm cuộc đàm đạo nhỏ... vẫn không thể tìm ra kế sách đem đến hạnh phúc, an vui cho nhiều người. Vẫn bế tắc, vẫn mịt mù trước ý nghĩa cuộc sống. Tất cả họ, có phải thế chăng, hiện giờ đều đang say ngủ? Có phải thế chăng, họ không biết gì đến cái vòng quay nghiệt ngã của luân hồi tử sanh tất định? Có phải thế chăng, họ đang an phận muôn đời trong cái giới hạn vô lượng của đau thương và khổ nạn? Thái tử tự hứa với lòng là phải tìm cho ra con đường bất tử, nếu không, quyết không trở lại kinh thành Kapilavatthu nữa. Khi thái tử quay ngựa dớm bước đi - thì trên hư không, trước mặt, xuất hiện một đài mây sáng. Một vị thiên thần phục sức cao sang, mỹ lệ hiện ra, có vẻ chặn đường. - Ngài là ai? - Thái tử hỏi. - Ta là vua cõi trời Tha hóa tự tại, thưa thái tử! - Ngài đến đây có việc gì? Vị ấy là thiên vương cõi trời Vassavati, chúa cõi trời Dục giới thứ sáu, thế gian thường gọi là Ma ba tuần. Nó chính là vị Đại ma vương nhiều phước báu và nhiều quyền lực. Tất cả mọi chúng sanh - trừ phạm thiên giới - đều ở trong sự chi phối của y. Ngay cả Đao-lợi, Đẩu-xuất cũng không biệt lệ. Thời gian gần đây, Đại ma vương nghe tất cả các cõi thiên giới đều xôn xao; nhất là từ khi chúng chư thiên, phạm thiên đến thỉnh bồ-tát Setaketu giáng sanh cõi trần để tiếp nối con đường bất tử của mình, sẽ đắc quả Chánh Đẳng Giác để cứu độ chúng sanh. Mới vừa rồi, chư thiên hiện ra trong cung điện kinh thành Kapilavatthu để phân xử con chim hạc - Đại ma vương cũng có nghe. Rồi chư thiên hiện thân sứ giả người già, người bệnh, người chết, vị sa-môn... để kinh cảm đến thái tử cũng không thoát khỏi được đôi mắt thiên nhãn của Đại ma vương. Đặc biệt, đêm nay, giữa hư không, thiên chúng mừng vui, tấu nhạc trời, mở hội hoan ca để cung tiễn thái tử xuất gia tầm đạo. Kinh thành Kapilavatthu sáng rỡ hào quang. Cổng thành Đông nam chư thiên mở rộng ra, cho quân binh say ngủ, để tạo sự thuận lợi cho thái tử xuất hành. Đại ma vương biết cả, thấy cả. Ông ta mang nỗi niềm khó tả, vừa tự ái vừa lo sợ. Đại ma vương vốn là chúa của bóng tối và vô minh, quyền lực của nó chỉ có giá trị khi thế gian sống say mê trong dục lạc ngũ trần. Những chúng sanh tu tập thiền định để lên cõi trời Sắc và Vô sắc, viễn ly dục lạc vật chất là đã thoát khỏi quyền lực của Đại ma vương rồi. Nhưng nó không lo, khi hết phước báu và năng lực thiền định - thì cũng phải rơi trở vào tròng như cũ. Đại ma vương lo ngại nhất là vị thái tử này. Vì dục lạc tối thượng tại ba tòa Cung Vui cũng không giữ chân chàng được. Thái tử muốn thoát khỏi quyền lực của Đại ma vương. Thái tử dám đi tìm ánh sáng và con đường bất tử sao? Quyết không thể được! Do vậy, khi được thái tử hỏi, Đại ma vương cất giọng ngọt ngào: - Ta đến đây hoàn toàn với thiện ý. Ta báo cho thái tử một tin mừng là trong vòng bảy ngày nữa, thì bảy báu[1] sẽ xuất hiện. Và như vậy thái tử sẽ là vị Chuyển luân Thánh vương, cai trị bốn châu thiên hạ, giàu sang tột bực, phú quý vô cùng và quyền uy tối thượng. Thái tử mỉm cười: - Ngươi dụ dỗ ta ấy à? - Không, không phải dụ dỗ. Mà đó là sự thật. Ta chỉ nói sự thật. Với thần lực biết quá khứ, vị lai - ta chỉ mách cho thái tử hay đó thôi. - Thế à! - Thái tử thản nhiên nói - Vậy thì ta xin cảm ơn hảo ý của ngươi. Bây giờ thì hãy tránh đường cho ta đi. - Thái tử đi đâu? Sao không ở lại hoàng thành để đợi chờ bảy báu của Chuyển luân Thánh vương xuất hiện? - Này, ta báo cho ngươi hay. Ta từ chối mọi vinh quang của thế gian. Ta khước từ mọi cạm bẫy ngọt ngào của ngũ dục. Ta sẽ bước ra khỏi quyền lực của ngươi, này ma vương! Rồi ta sẽ xóa tan bóng tối của vô minh. Ta sẽ không cam chịu đời sống thấp hèn, si mê và nô lệ. Ta sẽ tìm cho ra ánh sáng của đạo bất tử. Ta sẽ lặn lội kiếm phương thuốc cứu khổ cho muôn triệu sanh linh. Dù chông gai, trở ngại cũng không làm cho gót chân ta lùi bước. Dù bão cuồng, gió giật cũng không lay động được ý chí của ta. Hỏa diệm sơn hoặc hố than hồng hừng hực cũng không đốt cháy được quyết định của ta. Lựa chọn con đường xuất gia là một lựa chọn bất thối. Chẳng ai trên thế gian này cản trở được ta đâu. Ngươi hãy đi đi thôi! Đừng hòng giở trò dối lừa, phỉnh gạt quỷ quyệt nữa. Ngươi là bóng tối thì hãy tan theo bóng tối. Tức khắc tan ngay! Đại ma vương biết không dễ gì lung lạc thái tử được nữa - một chúng sanh vĩ đại đã từng tu tập ba-la-mật trong vô lượng kiếp - nhưng rồi y sẽ chờ đợi. Thái tử, khi đang còn thân xác trần tục của một con người, chắc một lúc nào đó ông ta sẽ có một vài lỗi lầm, sẽ có một vài tư tưởng xấu, sẽ có một vài khoảnh khắc mềm yếu; và những khi như vậy, ta sẽ tức khắc xuất hiện, tìm cách cám dỗ trở lại trong vòng quyền lực của ta... Nghĩ thế xong, Đại ma vương biến mất giữa hư không... Và cũng từ giây phút đó, Đại ma vương theo dõi từng bước chân, từng tâm niệm của thái tử... dường như suốt cả cuộc đời! Channa cứ há hốc mồm... mà nghe thái tử nói giữa hư không! Y ngạc nhiên là phải vì cuộc đối thoại vừa rồi chỉ xảy ra trong một không gian riêng giữa Đại ma vương và thái tử. Chỉ có thái tử thấy và nghe - còn ai khác đều không thể. Đuổi ma vương đi rồi, thái tử thản nhiên như không có chuyện gì, cúi xuống khẽ vuốt ve bờm ngựa: - Bắt đầu từ đây, con sẽ ra oai, con nhé! Con sẽ cố gắng hết sức mình. Với sức thần mã vô địch, trong vòng nửa đêm, con sẽ đưa ta vượt Sākya, vượt Koliya để đến bên kia quốc độ Malla con nhé! Kaṇṭhaka như hiểu được tiếng người, dựng bờm, dậm vó, hí vang... rồi lao đi. Từ nước kiệu, đổi sang phi nước đại; sau đó Kaṇṭhaka trổ uy thần mã trên dặm dài thiên lý. Thế rồi, nhà cửa, cây cối, ruộng vườn, núi đồi... chợt lùi ra phía sau, lùi xa ra mãi. Kaṇṭhaka phi nhẹ nhàng như một lằn sáng trắng - nhưng ngồi trên yên, thái tử vẫn cứ cảm giác như ngồi trên tấm thảm nhung, êm ái, không lay xóc. Theo mãi hướng Đông nam, một đỗi sau, bắt gặp một xa lộ rộng rãi - là con đường giao thông huyết mạch của thương nhân từ phía Kosala đến Sākya, Koliya, Malla, Vajjī, Licchavī... tiếp giáp sông Gaṅgā... và qua bên kia là quốc độ Māgadha rộng lớn. Thái tử nhẩm tính từ kiến thức địa lý đã học được. Từ Kapilavatthu đến Lumbinī - nơi chàng chào đời - khoảng chừng sáu do-tuần (khoảng bảy mươi hai km). Từ Lumbinī đến Koliya chỉ vài ba do-tuần, nhưng có con sông Rohini phải vượt qua, mới vào được kinh đô Devadaha của nước Koliya. Từ đây, chỉ bốn năm do-tuần nữa là đến quốc độ Malla rồi. Nơi nào có con sông rộng ấy là sông Anomā... Như vậy, tổng cộng lộ trình trên dưới mười bốn do-tuần (trên một trăm sáu mươi km) với sức ngựa như thế này, ta sẽ vượt qua được bên kia Anomā lúc trời rạng sáng, gặp khu rừng dự định. Đúng như thái tử phỏng đoán, đầu canh ba, ngựa Kaṇṭhaka đã vượt qua sông Rohini - khúc sông cạn - sau đó, tiếp tục đến Koliya. Không theo lối vào kinh thành Devadaha, theo xa lộ của thương buôn, ngựa vẫn phi nhẹ nhàng, lâu lâu hứng thú, nó hí lên một tiếng, âm thanh như phá vỡ sự yên lặng của đêm sâu. Có lẽ là bắt đầu ra khỏi địa giới Koliya, thái tử cho ngựa dừng chân bên một hồ nước ven đường để nghỉ sức. Sao mai sáng trong lấp lánh như một hạt kim cương. Gió mát thổi rì rào. Thái tử bước xuống. Kaṇṭhaka rịn mồ hôi. Channa cho ngựa uống nước, cho ăn đậu xanh, đường và mật... đã cụ bị đầy đủ trong tay nải. Họ lại lên đường. Lúc sao mai mờ, trời rựng sáng, họ đã đến được một dòng sông khá rộng. Nhìn dãy núi và khu rừng bên kia bờ, thái tử biết mình đã đến nơi. Như vậy, con thần câu vô địch chỉ trong thời gian một canh rưỡi đã đưa thái tử và Channa vượt một chặng đường dài trên mười mấy do-tuần mà dường như nó vẫn còn sung sức. Dòng sông Anomā nước xanh trong, mênh mông. Đưa mắt nhìn phía thượng lưu đến hạ lưu, thấy khó hy vọng gặp đoạn sông cạn, thái tử phân vân... Thường ở đây có những chiếc bè lớn cho thương buôn và khách bộ hành sang sông, nhưng nhìn quanh chẳng thấy. Thái tử nói: - Có lần, Bhaddiya kể rằng, ở đây có ba hay bốn bến sông do nhu cầu của thương buôn từ nhiều hướng khác nhau. Vậy, ở đâu đó sẽ có bè, ta đi trật lối rồi, Channa, phải tìm bến mới có bè sang sông được. - Hóa ra là chuyện qua sông - Channa hăm hở nói - chẳng cần thế, thái tử. Kaṇṭhaka dư sức bay qua khúc sông này mà! - Chẳng lẽ nào? Ngươi nói chắc đấy chứ? - Chắc chắn - Channa gật - thuở nhỏ, ở trại nuôi ngựa, con đã từng huấn luyện cho Kaṇṭhaka bay qua một cái đầm rộng, có lẽ còn rộng hơn đoạn sông trước mặt. Nó khoái lắm! Phải vậy không, Kaṇṭhaka? Như hiểu ý, Kaṇṭhaka lại dựng bờm, dậm chân lịch bịch, hí vang. Thái tử và Channa lại lên ngựa, đi trở lui một khoảng xa để lấy trớn. Thái tử tin lời của Channa và còn tin vào khả năng thần kỳ của Kaṇṭhaka nữa. Vì suốt quãng đường dài, nhiều khi Kaṇṭhaka phi rất nhanh mà bốn vó dường như không dính đất. Và quả thật như vậy, sau khi lấy đà, Kaṇṭhaka bay nhanh đến gần mép sông, nó uốn mình tạo lực đẩy; rồi như một mũi tên thoát khỏi dây cung, nó băng băng bay qua dòng sông như một luồng sáng. Kaṇṭhaka bay nhanh quá, thái tử nằm xuống ôm sát cổ ngựa, bám chặt thân mình để tránh sức cản của gió. Channa cũng thế, nhưng do đà lao nhanh, hai tay ôm chặt hông ngựa nhưng hai chân phải soải dài ra sau... trông như bám vào đuôi ngựa vậy... Gió thổi lồng lộng bên tai. Bờ đất hiện ra. Kaṇṭhaka hết đà, dừng chân hí vang vì nó biết rằng nó đã chiến thắng. Channa rơi, té sấp. Thái tử bước xuống, chậm rãi đến bên Kaṇṭhaka, ôm đầu nó rồi nói rằng: - Ta vô cùng cảm ơn con, Kaṇṭhaka! Con đã đưa ta qua sông một cách uy dũng và ngoạn mục. Còn cả chuyến đi nữa. Đấy là chuyến đi hệ trọng, chuyến đi định hướng cuộc đời của ta đó. Con đã nhiệt tình giúp ta trong bước đầu trên lộ trình bất tử. Một lần nữa, ta cảm ơn con! Phước báu và công đức của con cao thượng lắm, con biết không? Kaṇṭhaka dường như nó hiểu. Nó đưa đôi mắt buồn buồn nhìn thái tử, rồi nó lại đưa lưỡi liếm liếm vào bàn tay chàng. Thái tử quay sang nói với Channa: - Ta ra đi, ta xuất gia, lìa khỏi tất cả, Channa ạ! Ta cũng rất cảm ơn con đã hết lòng hầu hạ ta bấy lâu mà lúc nào cũng nhiệt tình, vui vẻ. Cái đức tính ấy rất quý hiếm đấy, Channa! Channa chỉ biết nhỏ lệ, nghẹn ngào. Thái tử quay lại nhìn dòng sông, nói tiếp: - Sở dĩ ta chọn con sông này là có lý do! Nếu kiến thức về địa lý của ta không lầm thì nó đúng là sông Anomā, không thể là con sông khác được. Anomā với nghĩa cổ xưa là cao thượng, cao quý tột cùng. Từ đây, từ Anomā, ta sẽ đi theo lộ trình cao thượng, cao quý tột cùng: Ấy là lộ trình xuất thế vậy. Lại quay nhìn trước mặt, núi tiếp núi, rừng tiếp rừng, cây xanh phơi phới, những cụm đá trầm mặc... mà lòng dâng lên một cảm giác rất kỳ lạ - một cảm giác chưa hề có trong đời! Giọng bùi ngùi của Channa thoảng bên tai thái tử: - Thái tử đi hẳn, không trở về sao? - Ta sẽ trở về khi nào tìm ra Đạo lớn, Channa! Channa xót xa: - Mọi người sẽ buồn lắm, thái tử! Ngài là ngôi sao sáng, là linh hồn của Kapilavatthu. Ngài còn là mặt trời, mặt trăng của muôn dân bá tánh nữa! Ôi, công chúa Yasodharā sẽ sầu khổ biết bao nhiêu! Rồi còn đức vua, lệnh bà Gotamī cùng các ông hoàng cũng vậy nữa. Ai cũng nhớ thương thái tử như trái tim của mình! - Ta biết, Channa - Thái tử nói như phân trần - Ta phải hy sinh tình thương nhỏ hẹp để hướng đến tình thương cao cả, rộng lớn hơn, Channa! Ta phải tìm cho ra con đường cứu khổ tất cả chúng sanh. Channa cúi đầu, những giọt lệ tuôn chảy lặng lẽ. Kaṇṭhaka đưa đôi mắt đỏ lệ nhìn thái tử. Nó cũng đứng im, bất động. Thái tử chợt cất những bước dài, đến đứng trên một tảng đá tại một mô đất cao. Với một cử chỉ dứt khoát, cạo bộ râu lún phún, sau đó, tay trái nắm búi tóc, tay phải đưa cao gươm báu, đoạn lìa mái tóc xanh. Thái tử ngước nhìn lên hư không, phát lời đại nguyện: “- Nếu quả thật, ta tu hành đắc quả Chánh Đẳng Giác - thì nắm tóc này xin nằm lại giữa hư không. Nếu không phải thế, nghĩa là chẳng thành tựu Phật quả - thì cho nắm tóc này rơi trở lại xuống đất.” Nói xong, thái tử quăng nắm tóc lên hư không... rồi nó cứ lên cao mãi, lên cao mãi rồi biến mất giữa mây xanh. Lý do là, lời phát nguyện vô thượng của thái tử làm cho ngai vàng của Đế-thích (Sakka) chợt trở nên nóng bỏng. Ông ta hối hả dùng oai lực hút nắm tóc lên tận cõi trời Ba mươi ba, hứng bằng chiếc khay vàng, sau đó đem tôn thờ tại bảo tháp Cūḷāmāṇi. [2]Channa thấy hiện tượng lạ lùng quá, chắp hai tay lên trời vái mãi. Thái tử biết là mình sẽ thành Phật, hoan hỷ trong lòng, lấy kiếm, xâu chuỗi ngọc, cái đai bào đính bảo ngọc lưu ly... ân cần trao cho Channa rồi nói rằng: - Bảo kiếm, đai bào lưu ly này là vật hộ thân của ta, luôn ở bên ta chưa hề rời xa; ngươi hãy mang chúng về trình lên phụ vương, nói rõ chí nguyện bất thối của ta, đảnh lễ người giùm ta và nói rằng: “Siddhattha bất hiếu, chưa báo đáp ân sâu, chưa xin phép người mà đã ra đi xuất gia tầm đạo. Nguyện đắc thành Phật quả, Siddhattha sẽ về tạ tội với phụ hoàng sau” Channa tay nắm di vật, đỏ lệ, gật đầu. Thái tử tiếp: - Còn chuỗi ngọc này chính là chuỗi ngọc ân tình, trong cuộc thi sắc đẹp năm xưa, ta đã ưu ái ban tặng cho Yasodharā... Nhưng năm sau, Yasodharā lại đeo lại cho ta, nói rằng: “Thiếp ở bên chàng nhưng không bao giờ gần chàng được, cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Trí óc và tâm hồn thái tử - luôn ở cảnh giới nào đó rất xa xăm. Vậy chàng hãy mang lại xâu chuỗi ngọc này để thiếp cảm thấy ấm áp vì nó luôn tiếp xúc với hơi ấm và sự sống của chàng.” Vậy, này Channa, hãy mang xâu chuỗi ngọc này về giao tận tay công nương Yasodharā, và nói rằng: “Thái tử luôn yêu thương công chúa cùng đứa con trai bé bỏng. Công chúa là người nữ duy nhất trên thế gian đã cảm thông, đã âm thầm nâng đỡ cho chí nguyện tối thượng của ta. Bao giờ thành đạo, ta sẽ trở về gặp lại hai mẹ con nàng.” Thái tử chợt vỗ vai Channa: - Ta biết, Channa! Chỉ cần để tâm một chút là ta biết Yasodharā đã tiên liệu giờ giấc ra đi của ta. Có phải nàng đã lén gặp ngươi, bảo ngươi chuẩn bị yên cương, nước uống, kể cả đậu xanh, đường, mật cho Kaṇṭhaka? - Dạ... dạ phải! Thái tử lại thở ra: - Thôi, ngươi đừng bịn rịn nữa! Sự giác ngộ của ta sau này có công đức của ngươi dự phần! - Dạ... Dạ! Channa nước mắt rơi lã chã. Hai con mắt của Kaṇṭhaka cũng đẫm ướt như chủ của nó. Thái tử bước tới lại một lần nữa vuốt ve, vỗ về. Nó cúi xuống, liếm tay thái tử và với nước mắt tuôn chảy thành dòng. Thái tử cảm động, cất giọng dịu dàng: - Con cũng vậy, hãy về đi, Kaṇṭhaka! Công đức của con cũng không thua gì Channa đâu. Sau này ta cũng sẽ cứu độ cho con! Channa nghẹn ngào không nói được một lời nào, cúi đầu, nắm cương Kaṇṭhaka, kéo đi... Cuộc chia tay nào cũng bịn rịn, xót xa... (Kinh và chú giải kể rằng, ngựa Kaṇṭhaka quay lưng đi vừa được bảy bước, nó liền đứt ruột, vỡ tim mà chết. Chỗ khác giải thích, do tận dụng toàn vẹn sức lực để bay qua sông - nên ruột nó đã đứt từng đoạn rồi - tuy nhiên, đợi giã từ thái tử xong, nó mới chết; sau đó, Kaṇṭhaka tức khắc hóa sanh lên cõi trời Tāvatiṃsa, làm một vị thiên nam, có tên là Kaṇḍaka. Một nơi khác, bảo Kaṇṭhaka đưa Channa về đến khu vườn cũ, nó nhịn ăn suốt một tuần lễ ở trong chuồng, sau đó mới thanh thản chấm dứt hơi thở. Kaṇṭhaka cũng hóa sanh lên cõi trời Tāvatiṃsa, làm vị thiên nam có tên là Kaṇḍaka như trên. Mặt trời đã lên cao, nắng vàng long lanh như ánh mật. Chim bay lượn nhởn nhơ giữa hư không thoáng rạng. Chim ca hót râm ran trên những tàn cây rậm. Gió mát thổi rì rào. Dòng sông xanh in bóng mây trời thênh thang, nhẹ hẫng. Thiên nhiên cây cỏ yên ổn, vắng lặng làm cho bao mối ưu tư, phiền não của Siddhattha chợt như tan biến mất cả. Siddhattha quay lưng lại bờ sông, nhìn vào khu rừng già trước mặt. Từ đây, không cửa không nhà, không hành trang, tư lương, sở hữu... Hốc đá, cội cây, non cao, động vắng... là quê hương! Trăng sao khói mây, gió sương... là bạn lữ. Phải lấy nỗi khổ chung của sanh loại làm mục đích kiếm tìm. Phải đào bới tận nguyên nhân, gốc rễ của tử sanh và luân hồi vô tận. Từ đây, ta không còn thao thức, trăn trở... chuyện tế thế an bang; chuyện quốc gia chủng tộc; chuyện miếng cơm manh áo đời thường. Hãy để cho các ông vua làm việc ấy. Hãy để cho kẻ chạy theo danh lợi thế phàm quẩn quanh với đủ mọi danh nghĩa hay ho “sặc mùi chân lý” – tha hồ cho họ dựng cờ múa kiếm. Ta đã chán mứa mọi thứ vinh quang - mà bên sau ngầy ngật xú khí hão huyền, rỗng không và hạ liệt. Ta đi. Phải xé bức màn hư vô ngàn đời để tìm cho ra sự thật... Một tiếng động. Hóa ra một chú nai tơ làm gãy cành khô đang đưa mắt trẻ con nhìn chàng. Siddhattha ngồi xuống. Ôi! Chú nai có đôi mắt tròn xanh, ngây thơ, hồn nhiên, đáng yêu vô cùng. Chàng nhìn quanh, có bẫy sập hoặc chú thợ săn nào độc ác ở đây chăng? Quạnh vắng. Chàng cảm giác như mình vừa được thoát nạn, được bình yên chứ không phải là chú nai con dại khờ này. Sột soạt. Hai chú sóc rượt đuổi nhau chạy lên vòm cây cổ thụ, cái đuôi xòe nở ra trông giống cái chổi lông! Ồ! Thiên nhiên bình yên quá. Sự sống yên bình đang diễn khắp mọi nơi! Ừ! Siddhattha ngẫm nghĩ, bạn bè ta còn nhiều lắm, còn biết bao nhiêu là động vật hiền lành... Siddhattha đứng dậy, nhắm hướng Đông nam, đi theo mé rừng cây cối thưa thớt. Hoa nở từng lùm, từng khóm đủ sắc màu rực rỡ. Hương rừng thơm quá, cái thơm tĩnh lặng, dịu dàng, lan tỏa... mà không phô trương, kiêu kì, gượng gạo... như tại chốn cung đình... Đây là khu rừng Anupiyāvara, chàng biết, thế là đã đi vào địa phận của vương quốc Malla trù phú. Khu rừng này chạy dài nhiều dặm, sau đó là đồng bằng và thảo nguyên. Anupiyāvara không có nhiều lâm sản quý hiếm nhưng có nhiều voi, báo, sư tử, cọp, nai, hươu, linh dương, ngựa vằn... Có lẽ có ít người khai thác gỗ nên còn nét nguyên sinh, nhưng thợ săn thì chắc nhiều. Vừa đi, vừa suy nghĩ miên man, lúc ngửng lên thì Siddhattha trông thấy một đạo sĩ! Ồ! đạo sĩ mà tay sao lại cầm cung và sau lưng đeo một bó tên sắt? Chàng dừng lại. - Xin hỏi, ông là thợ săn, phải không? Người đàn ông tóc râu xồm xoàm, gật đầu “phải phải”, rồi tò mò nhìn ngắm Siddhattha từ đầu đến chân. - Đúng là một bậc vương giả, quý tộc...! Mà sao lại đi lang thang nơi xó rừng hẻo lánh này...? Ác thú nhiều lắm đó nghe! Siddhattha lại chăm chú nhìn tấm áo màu vàng đất của người thợ săn, ngạc nhiên, nói: - Ừ! Ta từ chốn kinh thành đến đây, muốn tập tành đời sống sa-môn, đạo sĩ. Nhưng còn ông, là thợ săn sao lại khoác chiếc áo của kẻ tu hành? Người đàn ông cười ha hả, vô tư nói: - Khu rừng này nhiều ông sa-môn, đạo sĩ mặc tấm áo như thế này; không biết sao mà họ không sợ thú rừng và thú rừng không hề sợ họ. Đôi khi lại có những chú hươu, chú nai, thỏ, linh dương... thản nhiên lui tới gần bên họ nữa mới kì chứ! Siddhattha nhíu mày: - Vậy là ông đã giả trang làm đạo sĩ để giết chúng? - Ồ! Đúng vậy! Kiếm cái ăn thôi mà, công tử! Khổ quá, đói quá mà! Siddhattha cởi chiếc hoàng bào có đính kim cương, có dệt những sợi chỉ vàng lóng lánh rồi trao cho người thợ săn: - Thôi! Ông đổi cái áo ấy cho ta. Ta cần có nó hơn là ông. Còn chiếc hoàng bào này cũng khá đắt giá, cỡ mấy trăm đồng tiền vàng đấy. Ông có thể bán nó, lấy tiền để mở một cửa tiệm nhỏ hoặc làm vốn liếng mưu sinh. Hãy kiếm một nghề nghiệp chơn chánh, lương thiện. Là thợ săn, nghiệp sát đã nặng rồi - mà ông còn cái nghiệp giả mạo làm đạo sĩ để giết vật nữa, tội càng lớn hơn, ông biết không? Người đàn ông mừng quá, lắp bắp: - Đổi thật à? Công tử có giỡn không đấy? Siddhattha không nói gì, cúi xuống cởi luôn đôi giày vương giả - cũng đính trân châu, bảo ngọc - rồi nói: - Đôi giày này cũng vậy. Nó cũng là nửa gia tài của ông đấy. Ta đổi luôn đôi dép da trâu của ông. Nhớ nghe lời ta, hãy sống một đời hiền lương, vô hại! Người đàn ông “dạ dạ” rối rít, cứ tưởng mình nằm mơ! Trong một lúc mà được đổi đời, sung sướng quá, ông hối hả bước đi như sợ chàng đổi ý. Siddhattha nhìn lại mình. Ồ! Trông giống một sa-môn thật sự rồi! Chàng ngồi lại dưới bóng cây mát mẻ, lắng dứt mọi ý nghĩ, lắng nghe hơi thở để nghỉ ngơi... lần đầu tiên sống đời lang thang không cửa không nhà. Lúc Siddhattha mở mắt ra, không biết thời gian trải qua bao lâu, chàng đã chìm sâu vào cảnh giới nào đó, thâm sâu lạ lùng, yên tĩnh lạ lùng. Siddhattha cảm nghe cả thân tâm đều khỏe khoắn, no đầy. Từng chân tơ kẽ tóc dường như cũng an lạc. Nửa cuộc đời vương giả, với ngũ dục tối thượng, chàng chưa bao giờ hưởng được cảm giác an lạc, thanh thoát, êm đềm như thế này. Sau các cuộc hưởng thụ ngũ dục là chán nản, mệt mỏi, ngao ngán. Nhưng sau sự phúc lạc, an bình của nội tâm thì nó còn lan tỏa năng lượng mát mẻ, vui tươi, dịu dàng và yên ổn. Siddhattha đứng dậy, khẽ vươn vai rồi bước đi. Nắng chảy tràn trên thung lũng xanh, trên đọt cây, đầu lá. Đến một gốc cổ thụ, thấy trái chín rơi rụng đầy do chim chóc ăn rơi vãi, chàng cảm thấy đói bụng, bèn cúi xuống lượm ăn. Trái ngọt như mật ong. Cũng thú vị, chàng nghĩ. Từ đây, ta không còn sơn hào hải vị, chẳng còn thực phẩm cứng mềm thượng vị nữa. Các sa-môn, đạo sĩ ở Tuyết Sơn, lâu lâu về thành, họ chỉ cần dầu và muối - còn thức ăn có lẽ chỉ có lá, rễ, củ và trái cây. Bắt đầu từ nay, ta cũng phải sống như vậy. Ồ! Nhưng ta nào biết là rễ, củ, lá, trái nào ăn được và thứ nào không ăn được? Vậy phải học hỏi từ từ. Học hỏi trên con đường từ đây... Đến một vũng nước nhỏ, trong như mắt mèo, Siddhattha đứng lại, nhìn mình trong vùng nước lặng. Chàng nhìn không ra, đúng là của một sa-môn nào! Chàng chăm chú nhìn kỹ, lại có một vị đạo sĩ lạ mặt đứng sau lưng chàng nữa. Siddhattha quay lại. Khuôn mặt vị đạo sĩ gầy gò, khắc khổ, da sạm đen phong trần, tấm áo vá nhiều mảnh, một bình bát nhỏ bên hông, một ấm nước, tay cầm chiếc gậy trúc. - Hiền hữu! Vị đạo sĩ gọi chàng - Hiền hữu vừa mới xuất gia làm đạo sĩ phải chăng? Siddhattha chấp tay xá chào rồi đáp: - Phải, thế còn tôn huynh? Trông dáng dấp phong sương, y áo bạc màu thời gian; chắc xuất gia đã lâu lắm rồi nhỉ? Đôi mắt vị đạo sĩ sâu hoắm, tóc râu xanh, đậm, thân thiện nói: - Cũng chưa lâu lắm! Nhưng đời lang thang sương gió nó như vậy đấy! Họ cùng ngồi xuống bên một tảng đá, đàm đạo. - Tôn huynh tu học theo ai? Siddhattha hỏi - và pháp môn tu đó ra sao? - Trước đây, tôi ở đạo tràng của đạo sư Ālāra, dòng dõi Kālāma. Pháp môn tu là các tầng thiền định cổ truyền. Nhưng tôi tu hoài cũng không chứng đắc được gì cả, bèn tìm đến ngôi rừng vắng lặng này cùng mấy bạn đồng tu - Vị đạo sĩ chỉ tay ra phía sau góc rừng - ở trong đó, trong đó có nhiều hang động mát mẻ và thanh tịnh. Siddhattha nói: - Trước đây, tôi có nghe danh đạo sư Ālāra Kālāma từ các phái đoàn khất sĩ. Họ coi vị ấy như một vị thánh sống. Tôi có thể đến đó để học hỏi được không, hả tôn huynh? - Được thôi - đạo sư Ālāra bây giờ đang ở trong một ngôi rừng phía bắc thành phố Vesāli, hiền hữu! Vượt qua khu rừng Anupiyāvara này, cứ nhắm hứng Đông nam mà tiến. Đi hết mấy cánh đồng, mấy thôn làng sẽ gặp một xa lộ của khách thương, khoảng chừng trên mười do-tuần (trên một trăm hai mươi km) là đến thành phố Vesāli trù phú và thạnh mậu. Nếu đi chậm, mất trên mươi ngày, tức là vừa đi vừa khất thực, nghỉ ngơi, tọa thiền... Có thể dừng chân ở thành phố ấy mấy ngày nếu hiền hữu thích. Tại đây có nhiều giáo phái trong và ngoài truyền thống. Một kinh thành nổi tiếng có thành phần giai cấp chiến sĩ - phục sức và khí giới chói lòa - đẹp như thiên binh nhà trời. Sa-môn, đạo sĩ được tự do hành đạo. Quần chúng hoan hỉ cúng dường và khoái thích các cuộc luận tranh, đấu khẩu của các luận sư, lang thang sư, ngụy biện sư! Thật là hoạt náo, ồn ỉ và yên bình của tự do tư tưởng! Tuy nhiên, đấy là mặt nổi của hiện tượng, còn các nhóm tu hành chân chính đều rút vào rừng sâu cả. Từ Vesāli, đạp về hướng Đông nam, chừng hơn ba do-tuần sẽ gặp những quả đồi và những cánh rừng già. Đạo tràng của đạo sư Ālāra ở đấy. Là địa chỉ mà hiền hữu muốn tìm. Hỏi bất cứ ai, người ta đều biết và sẵn sàng chỉ đường! Ngài có năm trăm đệ tử ở lác đác các vùng đồi và những ngọn núi kế cận... Hiền hữu nên đi ngay, vì nghe nói đạo tràng của đạo sư Ālāra sắp dời về Māgadha, phía Tây ngoại thành Rājagaha! Đạo sĩ say sưa nói, rõ ràng, phân minh từng chi tiết một. Tuy chỉ là bản phác thảo sơ lược nhưng đã giúp cho Siddhattha khái quát toàn bộ những điều cần biết. Vị này tiềm tàng học vấn thâm sâu, quảng bác chứ không đơn giản đâu - Siddhattha thầm nghĩ. - Thật vô cùng cảm ơn tôn huynh - Siddhattha nói. Vị đạo sĩ quan sát chàng một hồi rồi nói: - Hiền hữu có nước da sáng như mạ vàng ròng, tướng mạo uy nghi như chúa sư tử. Đôi mắt của hiền hữu xanh trong như mặt nước hồ thu không gợn. Vừng trán của hiền hữu nhẵn bóng như vách đá cẩm thạch. Hiền hữu lại cao lớn, phương phi, cốt cách cao nhã như quý tộc của giống dòng Aryan thượng đẳng từ ngàn xưa còn lại. Tôi không dám hỏi gốc gác của hiền hữu, nhưng rõ ràng hiền hữu không phải kẻ tầm thường. Cả hiện tại cũng như tương lai, hiền hữu là bậc phi phàm không ai dám sánh... Nhưng mà nắng gió, tuyết sương, giường cây, gối đất... cỏ lá, rễ, củ, trái cây... lót dạ qua ngày... ngại rằng hiền hữu chịu đựng không nổi chăng? Siddhattha thầm nghĩ rằng: “Anh chàng đạo sĩ này nhìn ta rất kỹ, nói năng giống y nhà nhân tướng học. Tuy nhiên, ngôn ngữ lưu loát, lời ý chí tình... thật đáng trân trọng vậy thay!” Bèn cung tay, lễ độ: - Rất cảm ơn tôn huynh những lời chỉ dạy quý báu. Tôi sẽ chịu đựng được, thưa tôn huynh! Vị đạo sĩ cười ha hả, gật đầu: - Đúng vậy! Đôi mắt, vừng trán, cặp chân mày của hiền hữu đã nói lên điều ấy. Tôi đọc được. Có một cái gì đó bất khuất, kiên định và dũng cảm tột bực ở đấy. Nói xong, đạo sĩ tháo dây buộc vai, trao cho Siddhattha chiếc bình bát: - Áo nhuộm màu vàng đất kia là đôi cánh, còn chiếc bình bát tầm thường này là chiếc mỏ của con chim. Tôi tặng hiền hữu như một món quà tri ngộ. Cầu nguyện cho hiền hữu bay qua biển rộng, sông dài, bay qua muôn dặm trường gian lao, khổ ải trước mặt... - Thế còn...? - Không sao! Vị đạo sĩ cất tiếng cười hào sảng - Tôi có người bạn đồng tu, bị bệnh thương hàn chết tháng trước, sau khi hỏa thiêu, còn thừa một chiếc bát ở trong hang động. Khi từ giã, vị đạo sĩ còn quay lại dặn dò thêm: - Hãy kiếm thêm một cây gậy, hiền hữu, khi đi trong núi rừng hoặc qua miền cỏ rậm! Là sa-môn thì không đao, không gậy[3] - nhưng qua suối thì ngại đá trơn, qua lau lách thì có nhiều rắn độc. Gót chân sa-môn thì vô hại nhưng da thịt thì mềm yếu lắm... phải tập qua lần lần, từ từ... rồi hiền hữu sẽ vượt qua tất cả. - Một lần nữa tôi rất cảm ơn. Tôn huynh tên là gì, để tôi còn ghi khắc vào lòng. - Thật không đáng gì! Tôi là Vappa, dòng dõi bà-la-môn, còn tôn huynh? - Tôi là Siddhattha, dòng dõi sát-đế-lỵ! Chợt Vappa reo lên: - Ồ, đúng rồi, tôi đã ngờ ngợ. Đúng là vị thái tử tài đức, văn võ song toàn ở kinh thành cổ kính của dòng dõi Sākya anh hùng - mà chúng tôi đã nghe danh thơm tràn qua tai, tràn qua cả trong những giấc ngủ! Ôi! Thật là nhiệm mầu! Nhưng mà thôi, hiền hữu nên đi theo con đường của mình. Chúng ta còn gặp lại, chắc chắn là vậy, bắt buộc, nhất định là vậy! Siddhattha ngơ ngẩn một lúc. Tuy nhiên sau giây phút ngẫm ngợi, thái tử đã đoán ra. Chàng nhớ, lúc chàng vừa sinh được năm ngày, đạo sĩ Asita tiên đoán quả quyết, sau này, chàng sẽ đắc quả Phật. Trong tám thầy bà-la-môn thì có bảy người đưa lên hai ngón tay, ý nói, một, ở tại vương vị thì làm Chuyển luân Thánh vương, hai, nếu xuất gia thì đắc quả Phật. Riêng bà-la-môn Koṇḍañña, rất trẻ, chỉ đưa lên một ngón tay, khẳng định thái tử chỉ chọn một con đường và chắc chắn đắc quả Chánh Đẳng Giác. Mấy năm trước đây, trong giới bà-la-môn ở kinh thành, có tin đồn, Koṇḍañña đã rũ bốn người con của bảy vị bà-la-môn năm xưa đi xuất gia, tập sống đời phong sương khổ hạnh để sau này gặp lại thái tử. Như vậy, họ có cả thảy năm người. Koṇḍañña bây giờ có lẽ đã lớn tuổi, tối thiểu là đã gần sáu mươi, còn bốn vị còn lại có thể đều trên dưới năm mươi tuổi cả. Đạo sĩ Vappa là một trong bốn vị còn lại. Đội sương, đội nắng, đạp núi, đạp rừng, dẫm qua suối khe, triền non, vực thẳm... lòng thái tử vô cùng thanh thản, cứ nhàn hạ bước đi, không nôn nóng, không vội vã. Lâu lâu, Siddhattha gặp một đạo sĩ. Có vài đạo sĩ mình gầy trơ xương ngồi dưới gốc cây hoặc cạnh một hang đá. Một vài vị khác đang kiếm trái cây rừng qua bữa. Siddhattha đến làm quen, học cách quan sát màu sắc thân, lá, trái...Loại này ăn được, loại kia thì không. Có đạo sĩ ân cần chỉ cho chàng các loại củ ăn vào sẽ tăng thêm sức lực. Loại lá này ăn vào sẽ nhuận trường, khí huyết mát mẻ. Lại còn có loại chống tháo dạ, giải độc hoặc tiêu trừ nhức đầu, cảm sốt... Đến đây thì kho tàng kiến thức y học cổ truyền mà Siddhattha đã học từ nhỏ, được dịp khai thông. Siddhattha vô cùng sung sướng. Có lẽ đây là bài học thú vị nhất trong cuộc đời chàng: bài học tự mưu sinh để tồn tại! Siddhattha cứ đi mãi. Chàng còn học được trên đường những loại cây có nước ngọt. Có những đọt cây có chất béo bổ. Có những thân cây, bẻ ra, nước nhỏ giọt, có tính năng giải khát, tăng năng lực. Có những dây leo bền chắc có thể kết thành võng nằm, làm dây buộc lều, dây đi qua vực thẳm. Các loại lá có thể kết lại, che mưa đỡ nắng nhiều tháng dài mà không hư mục! Ồ! Là cả một thế giới đang trùng trùng bí mật, với thời gian, chúng hé lộ dần dần. Dường như khởi nguyên của các bộ tộc, người ta sống như thế này đây, chẳng ai tranh chấp ai. Thiên nhiên hào phóng đã ban tặng cho con người tất cả. Nhưng từ khi khám phá ra sắt và đá lửa thì đời sống đã khác đi. Có vũ khí, người ta làm tên, giáo mác... để săn bắn và cũng để giết nhau, tranh rừng, tranh đất. Có lửa để nấu chín thịt, để chống cơn lạnh giá mùa đông và cũng để tế thần! Các bộ lạc phát triển, sinh sôi các nhu cầu về tư hữu, của cải tài sản, đòi hỏi họ phân chia nhiệm vụ lao động, sản xuất. Nhu cầu vật chất cùng nhiều thứ tham muốn càng tăng... và thế là, càng văn minh, tiến bộ... thì nhu cầu thỏa mãn dục lạc càng là cái mục đích hướng đến của con người.Từ đấy mà sinh ra cướp bóc, giật giành, bạo lực, đàn áp, bóc lột, chiến tranh, đau khổ, phiền não! Sắc tộc Aryan - dòng dõi của Siddhattha đã không từ miền Tây bắc xa xôi, xâm chiếm bình nguyên xứ này để chăn thả cừu, dê, bò đó sao? Chúng đẻ ra các giai cấp, ưu đãi giới cầm quyền có học, để áp bức đám tiện dân nô lệ cùng khổ đó sao? Siddhattha trầm tư nhiều đêm vì lẽ công bằng trên trần thế, cũng không có lời giải. Có một đêm nọ, trời đổ cơn mưa rừng lạnh lẽo, Siddhattha tìm ẩn tại một hang động có một đạo sĩ tu khổ hạnh. Tấm áo của chàng mong manh, ướt át... cộng thêm khí đá khiến chàng lạnh quá, run cầm cập. Lại nữa - nhiều ngày ăn trái, lá, chưa quen... đã nhiều lần bị tháo dạ... nên sức khỏe sa sút rất nhanh. Vị đạo sĩ thấy vậy, bước đến vách đá, lấy hai viên đá lửa cọ xát vào một chất dẫn cháy. Góc động có sẵn củi, đạo sĩ lấy từng hanh dựng lên. Lát sau lửa tỏa bập bùng, ấm nóng, reo vui tí tách... Siddhattha học thêm cách lấy lửa. Bên lửa ấm, chàng hỏi đạo sĩ cách tu. Đạo sĩ hỏi chàng lý do xuất gia, xuất thân, dòng dõi. Siddhattha kể thật, và rồi chàng nói ra luôn tình trạng sức khỏe sau mấy ngày ăn cây trái chưa quen của mình. Đạo sĩ mỉm cười, có vẻ thông cảm, sau đó chỉ chàng một số cách thức bấm huyệt trên cơ thể, nhất là xoa ấm vùng bụng dưới, xoa thật lâu, một trăm lẻ tám lần. Siddhattha thấy người khỏe hẳn. Đạo sĩ nói: - Đi khất thực ở các thôn làng thì tương đối đủ chất nuôi cơ thể, nhưng ở rừng thì thường thiếu tinh bột, đường, chất béo, muối... Ta tu khổ hạnh, lại có thiền định nên dễ dàng vượt qua. Lại nữa, cái cơ thể chúng ta nó cũng sống bằng thói quen. Cái gì cũng tập cả. Từ từ mà tập. Lâu dần thì nó tự thích ứng lấy. Đạo sĩ thò tay vào hốc đá, lấy ra một nắm củ, củ tròn, dài cỡ bằng ngón chân cái, khều một đống than, bỏ vào... Lát sau, củ chín, thơm lừng lựng. Đạo sĩ nói: - Đây là củ thuốc (hoài sơn) - có tính năng tăng lực và điều hòa khí huyết cơ thể. Hiền hữu bị tháo dạ, nên dùng chúng để mai có sức mà lên đường... Khẽ tri tạ tấm lòng tốt của đạo sĩ, Siddhattha ăn từng củ một. Ngon, thơm, bùi béo quá! Còn hơn tất cả thượng vị trên đời... Siddhattha hỏi tên củ, đạo sĩ đáp: - Ta không biết tên, mà cũng chẳng ai biết tên cả! Các đạo sĩ ở rừng đều gọi là “củ thuốc” vậy thôi! Một đêm yên tĩnh trôi qua. Siddhattha cảm thấy cơ thể khỏe khoắn như vừa được uống một liều thần dược. Khi từ giã, đạo sĩ tặng chàng hai viên đá lửa, một ít chất dẫn cháy. Chàng cũng không khách sáo gì, thọ nhận bằng đôi mắt biết ơn, thầm lặng. Đi thêm nhiều ngày qua những đồng ruộng những làng mạc đến biên địa Malla; lại thêm chín mười ngày đường nữa thì thành phố Vesāli đã hiện ra. Trên đường, đều thấy đạo sĩ đi chân không, không có gậy - nên Siddhattha cũng bắt chước y như thế. Chàng cũng tập sự đi khất thực khi đi qua những xóm nhà, nhận được cơm vắt, cơm sữa, xôi, ca-ri, khoai, chuối... vật thực đủ dùng. Lựa một gốc cây, một lùm cây hoặc một cái hang nào đó, bất kỳ, chàng ngồi xuống, quán tưởng rồi chánh niệm, bốc ăn ngon lành. Từ lúc rời vương cung đến nay, ngoại trừ mấy củ thuốc kỳ diệu - thì những ngày qua xóm làng - mới thật sự có được bữa ăn đúng nghĩa, của nhân gian. Đêm, chàng ngồi thiền chừng một canh, sau đó, nằm nghiêng đi vào giấc ngủ. Tuy nhiên có đêm ngủ được, có đêm thao thức, trằn trọc. Vì chưa quen nằm đất, gối sương... nên sức khỏe sa sút, đã thế, cơ thể rất nóng, tấm áo tẩm mồ hôi, nhớp nháp khó chịu. Vài ba hôm, Siddhattha trốn vào một góc suối, mương nào đó vắng người để tắm giặt, phơi khô rồi mặc lại. Chỉ với hai manh áo, tấm trong và tấm ngoài, cứ thế đắp đổi qua ngày... cũng là vấn đề lớn mà chàng tâm niệm phải vượt qua, phải chịu đựng. Và quả thật, “cơ thể cũng có thói quen thích ứng của nó”, gần một tháng sau, chàng mới thấy quen, mới thấy tạm thời dễ chịu! Đúng như lời tả của Vappa, Vesāli đông đúc, thạnh mậu quá, nhưng tươm tất và sạch sẽ thì không bằng Kapilavatthu của chàng. Vài ngôi làng gần Vesāli, đời sống no đủ nhưng ở đâu cũng thấy dê, bò và nước tiểu, phân của chúng. Súc vật sống cùng người, ở luôn với người, tương tự các thôn xóm nghèo nàn của Sākya. Ở đâu cũng rác và xú khí. Tại thành phố thì khá hơn - nhưng bụi rác và bẩn thì còn nhiều. Ở đâu, đường nào, góc nào, phố nào cũng gặp đạo sĩ... nhưng trông chẳng ra hồn, ra dạng. Chỉ thấy tóc râu và lếch thếch, dơ dáy... Nhìn họ, chàng chưa dám đi chung. Họ giống với kẻ lang thang, hành khất xin ăn hơn là một đạo sĩ chân chánh. Các vị đạo sĩ gặp ở các hang động thì có cốt cách, phong thái chững chạc, thanh cao hoàn toàn khác biệt nơi này. Ở Vesāli chỉ hai hôm là Siddhattha lại lên đường. Buổi cuối cùng, chàng nhận được thực phẩm thượng vị của hai vị chiến sĩ xuống ngựa đặt bát. Đúng là như thiên binh, thiên tướng với quân bào, nai nịt, gươm giáo chói lòa. Họ tò mò, nhìn ngắm rồi cúng dường cho chàng. Họ thưa: - Đạo sĩ có phải từ phương Bắc xuống? - Vâng! - Ngài đẹp quá! Ngài khác xa đạo sĩ ở xứ này! Chẳng hay đạo sĩ thường lưu trú ở đâu để chúng tôi còn có dịp cúng dường? Siddhattha mỉm cười, từ tốn đáp: - Tôi chỉ mới là kẻ sơ tu, đang lang thang tầm đạo; mai tôi đã xuôi về Đông nam, đến đạo tràng của đạo sư Ālāra. Xin cảm ơn lòng tốt của quý vị. Hôm ấy, ngay lúc ấy, lại có thêm một kỹ nữ từ kiệu bước xuống, đẹp lộng lẫy, phục sức sang trọng, xa hoa, trang điểm sáng ngời châu báu... Cô ta cũng muốn đặt bát, nhìn Siddhattha rất lâu, thỏ thẻ nói: - Tiện thiếp cũng muốn cúng dường! Hai vị chiến sĩ sát-đế-lỵ bước lui, vòng tay mỉm cười. Siddhattha lấy tay ngăn bình bát, đầu cúi xuống, nghiêm trang: - Hôm nay vật thực tôi đã đủ dùng, xin cảm ơn thí chủ. Người kỹ nữ nói tiếp: - Thỉnh đạo sĩ một tháng đặt bát cúng dường tại biệt điện tư gia, xin ngài chấp nhận cho! Siddhattha nghĩ là nên nói vài lời, không những với nàng kỹ nữ xinh đẹp mà còn với hai chiến sĩ sát-đế-lỵ: - Tôi đã từ phú quý, vinh hoa mà từ bỏ. Tôi đã từ ngũ dục tối thượng mà từ bỏ... Vậy chẳng lẽ nào, hôm nay, ở đây, tôi lại loanh quanh, luẩn quẩn với những chuyện tượng tợ như thế này. Xin cảm ơn sự chân tình của quý vị. Nói xong, chàng chậm rãi bước đi. Mọi người tò mò trông theo. Chàng suy nghĩ suốt mấy hôm. Cạm bẫy, chông gai trên đường trường, trên từng bước chân thì dễ; nhưng cạm bẫy chông gai nơi sự cung kính, trọng vọng, mến thích... thì nguy hiểm hơn nhiều. Siddhattha hiểu thêm điều đó, và chàng biết mình chỉ cần tỉnh niệm, trực thức là có thể dễ dàng vượt qua được... Siddhattha - với gót chân khất sĩ, còn phải lang thang nhiều giữa gió sương và cát bụi... Vẫn nhắm hướng Đông nam, theo con đường của khách thương, bộ hành đầy bụi bặm, Siddhattha đi mãi. Cứ khoảng xế trưa là chàng đi khất thực ở những xóm nhà. Lại thấy dê và bò. Ở đâu cũng dê và bò, phân và rác. Ngoài những cánh đồng lúa bạt ngàn, ngoại ô Vesāli còn có nhiều khu vườn trồng ớt, rau cải, xoài cùng các loại cây ăn trái khác. Đời sống muôn dân tương đối no ấm. Thực phẩm họ cúng dường cũng đa dạng, đầy đủ chất, bảo đảm dinh dưỡng cho các sa-môn, đạo sĩ. Tuy nhiên, giới cấp lao động vẫn đầu tắt mặt tối, còn giới quý tộc, thương gia lại phởn phơ, sung mãn, lợi dưỡng. Ấy là hai cực đoan mà Siddhattha thấy rất rõ. Còn quần chúng chung chung thì thất học, nghèo nàn và cuồng tín. Chỉ thấy lạ một điều: Ai cũng vui vẻ, rộng rãi, cung kính các bậc tu hành! Quả thật là một điểm son đáng tự hào! Theo chân các đạo sĩ, ba hôm sau, Siddhattha tìm được ngôi rừng như dự kiến. Đây là khu rừng trấn ngự phía bắc thành phố Vesāli, có ba hướng đến, từ những thôn làng nhà cửa san sát có vẻ sầm uất, thịnh vượng. Sự thuận lợi ấy có lẽ là điều kiện mà đạo sư Ālāra chọn lựa để thiết lập đạo tràng: Các đệ tử của ông dễ dàng trong việc khất thực. Len lỏi trong rừng cây rậm rạp, qua mấy ngọn đồi, lơ thơ đá tảng xanh rêu, vài ba con suối nước trong vắt, Siddhattha thấy hiện ra một thung lũng tươi mát, khí hậu trong lành. Chòi lá của đạo sĩ Ālāra nằm trên một ngọn đồi thoai thoải, dưới mấy cội cây cổ thụ tàn lá che phủ sum sê. Ông chừng trên bảy mươi tuổi, rắn rỏi, quắc thước, đang ngồi trên tấm nệm cỏ. Xung quanh ông, ước chừng mấy chục đạo sĩ đang nghe pháp. Yên lặng như tờ. Chỉ có giọng trầm ấm của đạo sư là vang vang giữa núi rừng. Buổi giảng pháp chấm dứt. Các vị đạo sĩ đảnh lễ thầy rồi chậm rãi đứng dậy, tản mạn ra các hướng ở trong khu rừng để tu tập. Siddhattha bước lại, cung kính lễ bái theo cung cách của một môn sinh đến yết kiến bậc thầy rồi chàng nói: - Thưa đức đạo sư! Xin cho phép đệ tử gia nhập hội chúng để tu tập dưới sự dìu dắt của ngài. Lặng lẽ nhìn vị sa-môn trẻ - thật ra không còn trẻ nữa - tướng mạo đàng hoàng, ăn nói lễ độ, toát ra một cái gì rất thoát tục, đạo sĩ Ālāra cất giọng đầm ấm, chan hòa, thân thiện: - Ừ, con cứ tu! Ta chấp nhận con. Nhưng con tên gì? Đã từng tu học với ai chưa? - Thưa, con tên Siddhattha, họ Gotama. Con chưa tu tập dưới sự lãnh đạo của ai cả. Đạo sư Ālāra vui vẻ gật gật: - Ừ! Tốt, tốt lắm! Vậy hãy cố gắng tu tập nhé! Pháp và luật của ta cũng khá nghiêm túc đấy. Tuy nhiên ai chịu khó hành trì đều có chỗ an trú cả. Siddhattha thành kính đảnh lễ rồi lui ra. Lúc ấy trời đã xế chiều, im mát, gió thổi hiu hiu, chàng lần đến một cội cây, kiếm tạm lá cỏ làm chỗ ngồi. Thế là bây giờ Siddhattha mới tìm ra chỗ dừng chân cho mình trên bước lang thang tìm đạo. Vị đạo sư này nổi danh nhiều phương; và chỉ cần nhìn thần thái, phong cách, giọng nói tự tin, chàng biết đấy là bậc chân tu có sở đắc. Siddhattha cảm thấy yên trí. Chàng ngồi thiền một thời như lệ thường, sau đó đi vào một giấc ngủ khá sâu. Sáng ngày, chim hót râm ran bên tai. Siddhattha mở bừng mắt dậy thì mọi người đã đi đến các thôn làng để khất thực cả rồi. Có một đạo sĩ từ chiếc lều bên kia con suối bước sang, nhìn chàng, tỏ mối quan tâm: - Mới đến tu hả? Vậy hiền hữu hãy ôm bát đi theo tôi. Ở đây thì không lo cái ăn. Các thôn làng quanh đây đa phần đều là đệ tử của đạo sư chúng ta cả. Chỉ cần gắng tu cho tốt thôi. Họ đi vào làng. Siddhattha cũng đã khá quen việc trì bình khất thực nên cách ôm bát, cách đi đứng... có vẻ thuần thục. Vị đạo sĩ bắt chuyện: - Có vẻ hiền hữu xuất gia đã nhiều năm. Vậy chẳng hay đạo hữu đã từ đạo tràng nào mà đến đây? Siddhattha thật tình kể lại một vài chi tiết cần thiết, vừa đủ. Vị đạo sĩ có vẻ mến chàng nên tận tình hướng dẫn. Ông ta vui vẻ cho biết, nếu cần các loại trái cây thì nên đến miền nào, thôn nào. Các loại chất ngọt như đường cục, mật ong, mật mía, đường thốt nốt thì ghé chỗ nào, làng nào. Quả là lời chỉ dẫn quý báu. Tuy nhiên Siddhattha lại nghĩ khác, chàng chỉ muốn đi xin ăn bình đẳng và không chọn lựa. Chàng chỉ thầm cảm ơn người bạn có bụng tốt... Lúc ôm bát vật thực vừa đủ dùng trở về rừng thì mặt trời đã gần đỉnh đầu. Mọi người đang lặng lẽ ngồi thọ thực nơi này nơi khác. Siddhattha trở về cội cây của mình, ngồi xuống, nghĩ tưởng ân đức của thí chủ, cầu nguyện cho họ; đồng thời, tự khuyên mình đừng nên mê đắm cái ăn, chỉ nên xem đây là năng lượng vật chất để duy trì mạng sống mà thôi. Độ thực xong, chàng đến bên suối, rửa bát rồi tìm đổ nước nơi không có cỏ xanh. Điều này chàng làm tự nhiên thôi, nghĩ là phải làm như thế chứ chưa có ai chỉ dạy cả. Vị đạo sĩ bên kia suối quan sát việc làm của chàng, gật gật đầu, mỉm cười. Sau khi đi tản bộ kinh hành năm bảy vòng, Siddhattha trở lại gốc cây ngồi thiền định. Khi xả thiền thì đúng vào giờ đạo sư Ālāra giảng pháp và dạy cặn kẽ pháp môn tu cho từng người. Đến bên đạo sư, chàng được ông ta dạy: - Này, người bạn trẻ! Thứ nhất là phải có lòng tin đối với thầy, lòng tin đối với bạn đạo, lòng tin đối với các giá trị tinh thần thiêng liêng. Thứ hai là phải hành trì học giới. Học giới có nhiều lắm. Cuối mỗi nửa tháng sẽ có một vị luật sư tuyên đọc cho hội chúng nghe. Nhưng có những học giới quan trọng, có lẽ người bạn trẻ cũng hiểu rồi, đó là không được giết hại sinh mạng chúng hữu tình, không được dâm dục, không được trộm cắp và không được tà mạng... Thứ ba là cách đi đứng, ăn nói khi giao tiếp với bạn đạo, khi vào trong các xóm làng... Và cuối cùng là phải nghiêm túc trong hành trì, tu tập thiền định ngày đêm không được lơ là, ngoại trừ lúc đi khất thực, tắm giặt, vệ sinh thân thể và ngủ nghỉ. Nên ngủ rất ít. Đêm ba canh chỉ nên ngủ một, hai canh... Sau đó, đạo sư Ālāra ân cần hướng dẫn cách theo dõi hơi thở, chú niệm vào hơi thở như thế nào... Siddhattha kính cẩn lui ra. Việc trước nhất là phải làm một cái chòi lá. Chàng đi vào rừng, lát sau mang về một vác nặng. Nhờ đã học hỏi trên đường nên Siddhattha dễ dàng tìm cây và lá cần thiết. Rồi vác thứ hai, vác thứ ba. Siddhattha thú vị, say mê công việc mới của mình. Đến chiều tối thì mái vòm lá của chàng khá đẹp, khá tiện nghi. Ông bạn đạo sĩ bên kia suối đứng ngắm nhìn, cứ tấm tắc khen ngợi mãi. Việc tọa thiền điều hòa hơi thở, chú niệm vào hơi thở thì Siddhattha đã quen. Khuya, chàng xả thiền và nằm nghiêng lưng trên đám lá. Ngày mai phải làm một sạp cây ngăn khí đất để giữ gìn sức khỏe, chàng thầm nghĩ. Khoảng đầu canh ba, Siddhattha thức dậy, tọa thiền rồi đi kinh hành, chú niệm vào từng bước chân, trời sáng hồi nào không hay. Buổi sáng, Siddhattha đi khất thực rồi với những công việc như lệ thường. Buổi chiều, Siddhattha lại vào rừng, lấy cây kết làm giường nằm, cùng vài đồ dùng cần thiết khác. Lúc tắm giặt, người bạn đạo sĩ tặng chàng một tấm vải cũ, có lẽ là tấm vải bó tử thi đã giặt sạch. Siddhattha hoan hỷ, cảm ơn - vì quả thật, chàng cần một tấm để mặc trong mỗi khi giặt giũ. Và cứ thế, Siddhattha quen dần với đời sống tại nơi này. Vài ba ngày, chàng tìm đến đạo sư trình pháp một lần. Đạo tràng của đạo sư Ālāra vào các ngày giữa và cuối tháng, cư sĩ nam nữ các thôn làng đến rất đông. Những khi như vậy thì đạo sư Ālāra thuyết pháp, giảng đạo suốt ngày. Thỉnh thoảng, có vài vị đệ tử lớn tuổi thay thầy vài thời pháp. Họ nói nhân quả, thiện ác, nghiệp báo, luân hồi tử sanh, phước báu, các cảnh trời... Nói tóm lại Siddhattha nghe rất thuận tai. Có điều chàng thấy giáo lý tuy đúng nhưng có nhiều kẽ hở, nhiều chỗ còn mù mờ, chưa được rõ ràng, chưa được sâu sắc. Nó không được minh nhiên cho lắm. Siddhattha chỉ thầm nghĩ như thế, chẳng dám nói với ai. Mỗi tháng có hai buổi tối, mấy trăm đạo sĩ tập trung lại - dưới trăng, những bó đuốc cháy bập bùng - nghe các vị luật sư thay phiên nhau tuyên đọc học giới. Ồ! Hóa ra cũng hay lắm. Cách đi đứng, ăn nói, ngủ nghỉ, nằm ngồi... đều có học giới cả. Rồi còn cách giao tiếp, ứng xử đối với mọi người, từ vua chúa, quý tộc, các giới cấp xã hội phải như thế nào cũng có những chế định. Khá toàn hảo, chàng nghĩ, nhưng dường như muốn cho toàn thiện, toàn mỹ hơn thì còn cần nhiều và nhiều nữa. Như cách mặc y, mang bát, cách giữ tâm bình đẳng, mắt phải cúi xuống nhìn phía trước một đòn gánh, hai đòn gánh. Bạn đạo thì phải sống với nhau như thế nào, ví dụ như thân cần phải hòa hợp, lời nói cần phải hòa hợp, ý nghĩ cần phải hòa hợp, tri kiến cần phải hòa hợp... Nếu đi sâu hơn nữa, muốn giáo pháp được hưng thịnh thì phải như thế nào nữa; cả thầy và trò còn cần phải có những quy định cho người sống ở rừng, ở thành phố, làng xã nữa. Mà thôi, chàng nghĩ, tìm được một đạo tràng chân chính như thế này là quý lắm rồi. Hôm kia, Siddhattha đến gặp đạo sư Ālāra để trình pháp: - Đệ tử theo sự chỉ dạy của thầy để điều tức. Ban đầu, đệ tử theo dõi hơi thở, sau đó, bám sát, dính chặt vào hơi thở một cách liên tục, không gián đoạn. Khi đã an trú được rồi thì tất cả mọi tạp niệm lao xao đều lắng dứt. Theo đó, hơi thở của đệ tử càng lúc càng nhẹ nhàng, chỉ còn như làn khí mỏng manh tới lui. Kiên định theo dõi làn khí ấy thì thấy nó càng lúc càng trong và sáng ra. Cứ chú mục mãi vào cái trong và cái sáng ấy thì lát sau, ngoại giới vong bặt, cái “tướng sáng” của hơi thở càng lúc càng trong. Trú tâm, an trú tâm vào cái tướng sáng trong ấy, giây khắc sau, đệ tử cảm nhận một trạng thái tịnh định với phúc lạc chưa từng có trong đời. Đệ tử có thể ngồi một canh, hai canh với niềm tịnh định, phúc lạc ấy. Đó là cái gì, thưa đạo sư? - Hoàn toàn đúng, này người bạn trẻ! Đấy là tầng thiền thứ nhất. Bây giờ con vẫn cứ vào ra tầng thiền ấy cho thuần thục. Vài ba hôm nữa, con hãy đến trình ta, thử xem thế nào! Y lời thầy, Siddhattha đi vào, đi ra thiền ấy. Hôm sau, chỉ cần chú tâm vào hơi thở là chàng đi vào định với thời gian rất ngắn. Rồi chàng muốn trú vào phúc lạc, tức khắc có ngay phúc lạc - và giữ nguyên trạng thái an tĩnh thâm sâu ấy đôi khi cả đêm. Sáng ngày, tinh thần phơi phới, an lành, như qua một giấc ngủ ngon không mộng mị. - Con đã qua tầng thiền thứ hai, tầng thứ ba của thiền định. Tuy nhiên, này người bạn trẻ, trạng thái phúc lạc của định tam thiền, đã rất thâm sâu, nhưng vẫn còn thô tháo; con hãy bỏ nó để bước lên một cảnh giới cao hơn: ấy là thấm sâu vào trạng thái thanh tịnh, yên ổn, trầm lặng cùng sự quân bình tâm hồn một cách tuyệt hảo. Con đã tiến bộ vượt bậc chưa từng thấy, nhưng còn phải nỗ lực tinh cần nữa. Chỉ một hôm sau là Siddhattha đến trình pháp – và đây thiền chứng thứ tư. Đạo sư Ālāra nói: - Thật là tuyệt vời, người bạn trẻ! Bây giờ, con hãy từ bỏ hơi thở, chỉ chú tâm vào cái tướng sáng tròn lặng ban đầu. Chỉ chú tâm miên tục vào nó thôi, đến lúc nào con thấy mọi vật chất, mọi hình sắc đều tan biến, chỉ duy trì cái tưởng hư không rộng lớn, mênh mông, vô biên. Tất cả con, vũ trụ, vạn hữu không còn nữa. Tất cả chỉ còn “hư không vô biên” mà thôi. Chỉ ít hôm sau là Siddhattha đạt được tầng thiền ấy. Ở đây mọi cảm giác không còn nữa, mọi ý niệm khổ và lạc trong tâm cũng vắng bóng, chỉ còn hư không vô biên, vô hạn là tồn tại. Càng chú mục vào thêm nữa thì nội tâm và ngoại giới càng vong bặt, không còn ý thức ngã và ngã sở, chúng chìm mất vào miền hư tĩnh của “hư không vô biên” ấy. Lúc xả thiền, cái “tưởng” ấy vẫn còn mạnh, mọi hiện tượng xung quanh như người, vật, cây cối... thảy đều mơ hồ. Siddhattha lắng nghe hơi thở, nhịp đập của tim... thì mọi cảm giác, ý thức mới bắt đầu hoạt động trở lại. Lúc đi vào xóm làng khất thực, Siddhattha lắng nghe mình có thay đổi gì không, qua mắt nhìn, qua tai nghe... Rồi mọi ký ức, hồi tưởng, suy nghĩ có sự chuyển hóa nào chăng? Chúng vẫn vậy. Chúng vẫn lăng xăng, lao xao qua lại, tuy có yên lắng, trong sáng hơn - nhưng tâm trí vẫn còn nguyên những câu hỏi, những khát vọng gì đó chưa thỏa mãn... Trên lối mòn về rừng, Siddhattha chợt đứng lại, chú tâm vào tưởng định đã đạt, một lát “hư không vô biên” lại hiện ra, chàng và mọi hiện hữu không còn nữa. Xả thiền, Siddhattha chậm rãi bước đi, lắng nghe... thì cảm giác, ý thức, tâm trí trở lại như cũ... Giờ trình pháp, Siddhattha nói ra tất cả mọi cảm nhận của mình, kể cả hoài nghi các ý thức thường nghiệm: “- Không ai có sự cảm nhận sâu sắc, diễn đạt trạng thái trong định, ngoài định rõ ràng, chân xác, như chàng trẻ tuổi này.” - Đạo sư Ālāra thầm nghĩ. Tuy thế, ông nói: - Không sao đâu con. Đấy là tầng thiền vượt qua mọi sắc tưởng. Khi ở trong định ấy thì thế gian, vạn hữu, tất cả mọi sắc pháp không tồn tại. Con đã tiến bộ một cách phi thường. Nhưng bây giờ, con phải rời “tưởng hư không” ấy. Đúng, con nói đúng. Hư không ấy có được là do “tưởng” của ta cảm nhận, do “tưởng” của ta biến hiện ra. Tầng thiền cao hơn mà con phải bước lên là chỉ có thức, chỉ có ý thức. Thức vẫn là nền tảng của mọi hiện tượng, đồng với vạn hữu. Thức tràn ngập, châu biến, không có ngằn mé... Lại chỉ vào hôm sau, Siddhattha đạt tầng thiền “thức vô biên” ấy. Chỉ có thức, thức vô biên, vô tận. Vậy nó là kinh nghiệm, là trạng thái? Nếu rời bỏ kinh nghiệm và trạng thái ấy, toàn bộ cảm giác và tri giác của ta ra sao? Siddhattha suy nghĩ. Lúc xả thiền, chàng lại tập nhìn, lắng nghe. Do năng lực của thiền còn được duy trì, Siddhattha tiếp đối ngoại cảnh, chàng thấy rằng ở đâu cũng có thức, do thức, không có thức thì không có gì cả. Một hạt cát, một làn gió, một tiếng chim, một chiếc lá rơi, một giọt sương... cũng do thức cảm nhận. Một ý tưởng nhỏ nhiệm, vi tế... cũng như vậy. Cả sơn hà, đại địa, nhật nguyệt, thiên hà... cũng bởi thức mà hiện hữu. Tuy nhiên, nếu thức là vô biên, nền tảng như thế, thì vui buồn, khổ lạc, tham sân, những vướng kẹt tri kiến của ta ra sao? Ồ, chúng có thay đổi do tâm và trí được trong sáng, thanh lặng hơn; nhưng ta vẫn là con người cũ, mọi căn để phiền não vẫn chưa được xa lìa. Có thể nó yên lắng nhưng chưa thật sự đoạn trừ được. Siddhattha lại đến trình pháp với những cảm nhận riêng tư cùng thắc mắc của mình. Đạo sư Ālāra vô cùng khen ngợi, gật đầu lia lịa. Rồi bậc thầy khả kính ấy lại hướng dẫn chàng một loại định cao hơn. Ông nói: - Khi nghĩ là “không vô biên” - thì chỉ có “không vô biên” là nền tảng của vạn hữu. Khi nghĩ “thức vô biên” - thì “thức vô biên” là nền tảng của mọi hiện tượng. Con biết sao không? Định trước thì ta vướng “đối tượng không vô biên ngoại giới”, định sau thì ta kẹt “năng tri thức vô biên nội tâm”. Vậy thì phải xả bỏ đối tượng, xả bỏ năng tri, lìa “không vô biên” bên ngoài, “thức vô biên” bên trong để bước đến một cảnh giới cao hơn: “Không có gì cả”. “Không có gì cả” là không còn năng sở, chủ khách, trong ngoài, đối tượng và nhận thức. Thật là quá rõ ràng, Siddhattha nghĩ, chàng bái tạ đạo sư. Ālāra rộng mở thêm cho chàng một chân trời mới. Và lộ trình tu tập từ bước đầu cho đến bây giờ, chàng thấy thật là chặt chẽ, minh nhiên; là sự viễn ly từng bước một, từ cạn vào sâu, từ trạng thái thô tháo đến vi tế, từ cảm giác, tri giác... nó lộ ra từng nấc, từng nấc trên chiếc thang bước đến giải thoát... Siddhattha có lòng tin đối với đạo sư, trở về góc lều của mình, chàng lại công phu tinh cần, miên mật. Trong thời gian tu tập ở đây, lần hồi có khá nhiều đạo sĩ tìm đến làm quen với chàng. Nhìn vóc dáng cao lớn, uy nghi, đường bệ của Siddhattha thì ai cũng ngần ngại, nhưng khi trao đổi chuyện, họ không ngờ chàng vui vẻ, hòa nhã, lịch thiệp... rất dễ thân cận. Nhất là ông bạn ở bên kia suối. Thấy chàng tiến bộ quá nhanh chóng; và sự ổn định, trầm tĩnh thanh thoát ở nơi chàng, cuốn hút mãnh liệt nên ông ta thường tìm đến học hỏi. Siddhattha - ngoài thời gian công phu tọa thiền hay kinh hành, hễ rảnh rỗi là chàng tận tình hướng dẫn người bạn đồng tu. Nhờ kiến thức uyên bác từ quá khứ, nhờ lộ trình, bước đi thật sự vững chắc, nhờ nghiêm túc hành trì lẫn chiêm nghiệm cá nhân, Siddhattha đã cặn kẽ hướng dẫn với lối giải thích rõ ràng, khúc chiết... dễ nghe, dễ hiểu, dễ hành trì. Vị đạo sĩ sung sướng, hân hoan vô cùng. Đúng là “học thầy không tày học bạn”. Siddhattha có kiến thức như biển rộng, trời cao; lại có cách nói bằng lời, bằng ánh mắt, bằng nụ cười, bằng cử chỉ... giúp cho đạo sĩ lãnh hội rất nhanh chóng - hơn cả đạo sư Ālāra của ông. Nhờ vậy, đạo sĩ hành trì có hiệu quả trông thấy. Chỉ non tuần lễ, Siddhattha đã đi vào định “vô sở hữu xứ” - là định không còn dính mắc bên trong, bên ngoài khi khởi lên tưởng “không có gì cả”. Siddhattha chưa đến trình pháp vội, chàng cần có thời gian đi vào, đi ra định ấy cho thuần thục, đồng thời chiêm nghiệm nó, giác tri nó ra sao. Vị đạo sĩ bạn đã vào được tầng thiền thứ hai, hoan hỷ lắm, lúc này thường cận kề Siddhattha, tìm cách giúp đỡ việc này việc kia, tự coi mình như đệ tử, phải quan tâm hầu hạ “thầy”. - Tôi là Pukkusa. Hôm kia, đạo sĩ nói - Đạo sư Ālāra Kālāma đạt được sở đắc rất cao. Một lần nọ, ngài ngồi dưới gốc cây bên cạnh đường, lúc ấy có mấy trăm cỗ xe bò đi ngang mà đạo sư không hề nghe biết. Thật là hy hữu! Thật là vĩ đại! Siddhattha mỉm cười: - Ừ, đúng vậy, ông bạn. Đạo sư của chúng ta trú định rất sâu nên mới làm được vậy. Cả tôi, cả bạn, ai cũng có thể bước vào cảnh giới mà bạn gọi là hy hữu, là vĩ đại ấy! Pukkusa tròn mắt: - Thật thế sao? Siddhattha giải thích: - Đấy là định “vô sở hữu xứ”. Tôi đã kinh qua định ấy. Và khi trú thâm sâu thì có lẽ năm trăm cỗ xe đi qua vẫn không hay biết - là chuyện bình thường. Vào định ấy, ta dường như đóng cửa tất thảy mọi cảm giác, tri giác, tâm hành, ông bạn ạ! Vị đạo sĩ há hốc miệng. Siddhattha lại thở dài: - Tôi đã rà soát, xem xét, chiêm nghiệm định ấy... và thấy rõ rằng: khi ở trong định ấy thì ta an ổn, vắng lặng, trong sáng, vô nhiễm; nhưng khi rời nó, trong tôi, vẫn ray rứt những câu hỏi, những nhức đau về lẽ tử sinh, về sự giới hạn của đời người. Trong ta, xung quanh ta, vạn hữu vẫn tồn tại sự bất toàn, đổ vỡ, trống không... chẳng có cách gì vượt qua, giải thoát chúng được, ông bạn thân mến ạ! Vị đạo sĩ sững sờ. Quả thật ông ta không ngờ vị sa-môn dáng dấp rồng phượng, quý tộc, vương giả ấy, trong thời gian chỉ hơn tháng đã có những sở đắc ngang với đạo sư của y. Và bây giờ lại còn tỏ vẻ hoài nghi, còn tìm cách vượt qua đạo sư Ālāra nữa chứ! Hôm ấy là đêm rằm, trăng trong vằng vặc, sau khi hàng cư sĩ đến cúng dường, thính pháp ra về hết, Siddhattha vào gặp đạo sư Ālāra Kālāma, trình bày thiền chứng của mình, rồi mong ngài hướng dẫn cho một sự tu tập cao hơn. Nỗi vui mừng rạng rỡ trên khuôn mặt già nua, đạo sư tán thán: - Thật là hy hữu thay, Siddhattha! Thật là vĩ đại thay, Siddhattha! Cái mà ta tu tập một đời, hành trì một đời, người bạn trẻ chỉ hơn một tháng công phu! Trong số đệ tử của ta - chưa ai được như thế! Siddhattha cúi đầu, nhũn nhặn: - Xin thầy mở lượng quảng đại đưa đệ tử bước lên một cảnh giới quang rạng hơn nữa. Thiền định “vô sở hữu xứ” này tuy tròn trặn, sáng trong như lưu ly nhưng lúc trở về với cảm thức thường niệm thì mọi lợn cợn, vẩn đục, mọi thao thức, trăn trở về chuyện sống chết, nguyên nhân tối hậu của trầm luân... trong đệ tử vẫn còn y như cũ. Đạo sư Ālāra Kālāma nhìn Siddhattha, trầm ngâm giây lâu rồi với giọng rất chân tình: - Này Siddhattha! Nói thật, ta cũng chỉ có chừng ấy. Ta cũng chỉ có được chừng ấy. Ta chẳng có gì phải giấu giếm người bạn trẻ. Cái mà ta chứng đạt thì Siddhattha cũng đã chứng đạt, không hơn ta mà cũng không thua ta. Chợt ông hỏi han, thân mật: - Vậy xuất thân, dòng dõi thế nào, hở Siddhattha? - Đệ tử thuộc giòng dõi sát-đế-lỵ, vương triều Sākya, là thái tử con vua Suddhodāna, mẹ là hoàng hậu Mahāmāyā. Sắp đến ngày đăng quang vương vị, đệ tử từ bỏ tất cả để xuất gia tầm đạo, thưa đức đạo sư! - Ồ, thật là đáng kính phục! - Đạo sư Ālāra tấm tắc khen ngợi - Tất cả những gì toát ra nơi người bạn trẻ đều phi phàm. Muôn triệu năm may ra mới có một. Bây giờ, cái gì ta thành tựu thì Siddhattha cũng đã thành tựu rồi. Vậy, hãy ở lại đây, Siddhattha, con rồng vương giả! Hãy ở lại đây để cùng ta chăm sóc hội chúng này. Ta sẽ xem Siddhattha như một người bạn vong niên. Ta già rồi. Và dưới ta, kể cả đệ tử lâu năm, chẳng ai có thể ngang bằng Siddhattha để có thể kế thừa sự nghiệp được cả. Siddhattha chưa dám trả lời thẳng thắn, là không thể, sợ đạo sư Ālāra buồn. Chàng cúi đầu, lặng lẽ. Nhưng khi thấy đạo sư muốn triệu tập hội chúng để tuyên bố sở đắc của chàng, cùng tư cách kế thừa bậc đạo sư, chàng nghĩ là nên nói thật, tốt hơn. Nghĩa là chàng đã từ chối rất lễ độ: - Rất tri ân đạo sư - Siddhattha nói - Đệ tử không thể kế thừa sự nghiệp vinh quang mà đạo sư đã hứa khả. Đệ tử chưa đủ đức, đủ trí, đủ tuổi tác, đủ kinh nghiệm, đủ kiến thức, đủ sở hành để hướng dẫn hội chúng đông đúc này. Đệ tử còn trẻ quá về mọi phương diện. Lại nữa, đệ tử còn cần phải hành trì, phải tu tập, phải tìm cho ra lộ trình bất tử, giải thoát toàn vẹn và toàn mãn mọi khổ đau sinh tử và của rối bời tri kiến. Đệ tử còn cần phải lên đường. Xin đảnh lễ từ tạ đức đạo sư, người đã quan tâm, ưu ái, chiếu cố đệ tử bấy lâu nay. Tuy rất buồn vì sự ra đi của người học trò ưu tú nhưng đạo sĩ Ālāra biết là sự chứng đắc của mình còn nhỏ bé, trí tuệ của mình còn giới hạn, quả thật không thể giữ cánh chim bằng đang khao khát tuyệt đối. Cả đạo tràng hay tin, ai cũng bàng hoàng, sững sờ: Hóa ra Siddhattha mới đó mà sở đắc đã bằng đạo sư Ālāra nổi danh, lại còn hướng đến chân trời khác nữa. Bốn, năm mươi năm nay mới có một người, một nhân cách siêu việt. Trăng đã về khuya, cả mấy cánh rừng dường như không ngủ: Mấy trăm đạo sĩ còn thầm thỉ nói chuyện về một sự kiện hy hữu, phi thường cùng nhân cách cao diệu của Siddhattha khi chàng từ chối chức vị lãnh đạo hội chúng. [1] Xa luân báu, ngọc báu (maṇi), hoàng hậu báu, bá hộ báu (triệu phú), voi báu, ngựa báu, tướng quan báu (đại thần). [2] Kinh sử nói rằng, sau khi cạo râu và cắt tóc xong, cho đến trọn đời, râu của ngài không bao giờ mọc nữa. Còn tóc, sau khi cắt xong, chừa khoảng hai lóng tay - thì tất cả chúng đồng xoăn lại về phía bên phải như hình xoắn ốc; và giữ nguyên hình dáng ấy cho đến lúc Nhập diệt. Đức Phật suốt đời không cạo râu tóc lần nào nữa. [3] Cây, gậy thuở đó được xem như khí giới. |
[Ðầu trang][Trở về trang Mục lục][Trở về trang Thư Viện]
updated: 2008