Trung Tâm Hộ Tông Trang Chủ



Nghiệp và Quả Của Nghiệp

Soạn giả: Tỳ khưu Hộ Pháp


III. Pākakālacatukka: 4 Loại Nghiệp Theo Thời Gian Cho Quả

Phần 4 loại nghiệp theo tuần tự cho quả nhất định trước sau xong, tiếp theo phần 4 loại nghiệp theo thời gian cho quả kiếp hiện tại, kiếp sau v.v...:

1. Diṭṭhadhammavedanīyakamma: Nghiệp cho quả ngay trong kiếp hiện tại (kiếp thứ nhất)

2. Upapajjavedanīyakamma: Nghiệp cho quả kiếp kế tiếp (kiếp thứ hai)

3. Aparāpariyavedanīyakamma: Nghiệp cho quả những kiếp sau, kể từ kiếp thứ ba cho đến kiếp chót của bậc Thánh Arahán trước khi tịch diệt Niết bàn.

4. Ahosikamma: Nghiệp vô hiệu quả là nghiệp không còn hiệu lực cho quả của nó được nữa.

Mỗi loại nghiệp có 2 loại là thiện nghiệp và bất thiện nghiệp (ác nghiệp).

Đức Phật dạy:

“Cetanā’ haṃ, bhikkhave, kammaṃ vadāmi, cetayitvā kammaṃ karoti kāyena vācāya manasā”.

(Này chư Tỳ khưu, sau khi đã có tác ý, rồi tạo nghiệp bằng thân, bằng khẩu, bằng ý. Do đó, Như Lai dạy “Tác ý gọi là nghiệp).

Cetanā = Tác ý: Là 1 trong 52 tâm sở, gọi là tác ý tâm sở (cetanācetasika) đồng sinh với tất cả các tâm gồm có 84 hoặc 121 tâm.

Tác ý khi nào gọi là nghiệp? Và tác ý khi nào không gọi là nghiệp?

Nếu khi tác ý tâm sở đồng sinh với 12 bất thiện tâm (ác tâm), thì tác ý tâm sở ấy gọi là bất thiện nghiệp (ác nghiệp). Cho nên, có 12 bất thiện nghiệp (12 ác nghiệp) như sau:

- 8 bất thiện nghiệp (ác nghiệp) trong 8 tâm tham.

- 2 bất thiện nghiệp (ác nghiệp) trong 2 tâm sân.

- 2 bất thiện nghiệp (ác nghiệp) trong 2 tâm si.

Nếu khi tác ý tâm sở đồng sinh với 21 hoặc 37 thiện tâm, thì tác ý tâm sở ấy gọi là thiện nghiệp. Cho nên, có 21 hoặc 37 thiện nghiệp như sau:

- 8 dục giới đại thiện nghiệp trong 8 dục giới đại thiện tâm.

- 5 sắc giới thiện nghiệp trong 5 sắc giới thiện tâm.

- 4 vô sắc giới thiện nghiệp trong 4 vô sắc giới thiện tâm.

- 4 hoặc 20 Siêu tam giới thiện nghiệp trong 4 hoặc 20 Thánh Đạo Tâm.

Ngoài ra, tác ý tâm sở đồng sinh với 36 hoặc 52 quả tâm20 duy tác tâm, tác ý tâm sở ấy không gọi là nghiệp.

- Bất thiện nghiệp (ác nghiệp), thiện nghiệp nương nhờ nơi 3 môn: Thân, khẩu, ý như sau:

- Bất thiện nghiệp (ác nghiệp) theo 3 môn: Thân, khẩu, ý đó là:

Thân ác nghiệp là ác nghiệp nương nhờ nơi thân.

Khẩu ác nghiệp là ác nghiệp nương nhờ nơi khẩu.

Ý ác nghiệp là ác nghiệp nương nhờ nơi ý.

- Thiện nghiệp theo 3 môn: Thân, khẩu, ý đó là:

Thân thiện nghiệp là thiện nghiệp nương nhờ nơi thân.

Khẩu thiện nghiệp là thiện nghiệp nương nhờ nơi khẩu.

Ý thiện nghiệp là thiện nghiệp nương nhờ nơi ý.

Thực ra, tác ý gọi là nghiệp: Bất thiện nghiệp (ác nghiệp) hoặc thiện nghiệp, khi tác ý tâm sở đồng sinh với bất thiện tâm (ác tâm) hoặc thiện tâm, khi tâm ấy làm phận sự tác hành tâm (javanakicca) trong lộ trình tâm sinh rồi diệt liên tục (vīthicitta).

Lộ trình tâm có 6 loại:

1. Nhãn môn lộ trình tâm.

2. Nhĩ môn lộ trình tâm.

3. Tỷ môn lộ trình tâm.

4. Thiệt môn lộ trình tâm.

5. Thân môn lộ trình tâm.

6. Ý môn lộ trình tâm.

Nếu mỗi loại lộ trình gồm có các loại tâm sinh rồi diệt liên tục và đầy đủ, thì chắc chắn có đủ tác hành tâm (javana-citta).

Tác hành tâm (javanacitta) liên quan trực tiếp đến 4 loại nghiệp theo thời gian cho quả trong kiếp hiện tại, trong kiếp kế tiếp, và trong những kiếp sau sau nữa v.v... đó là dục giới tác hành tâm (kāmajavanacitta) chỉ có 12 bất thiện tâm8 dục giới đại thiện tâm mà thôi (không có 1 tiếu sinh tâm và 8 dục giới đại duy tác tâm).

Mỗi lộ trình tâm có dục giới tác hành tâm đầy đủ 7 sát-na tâm cùng một loại tâm sinh rồi diệt liên tục trong một lộ trình ấy, gồm có 3 loại nghiệp theo thời gian cho quả trong kiếp hiện tại, trong kiếp kế tiếp, và trong những kiếp sau sau nữa...

Ví dụ: Đồ biểu lộ trình tâm, 7 dục giới tác hành tâm (kāmajavanacitta)

Lộ trình tâm, 7 dục giới tác hành tâm (kāmajavanacitta)

Mỗi lộ trình tâm, nếu có 7 dục giới tác hành tâm (kāma-javanacitta ) thì gồm có 3 loại nghiệp được phân loại như sau:

1. Tác ý tâm sở đồng sinh với tác hành tâm thứ nhất gọi là nghiệp cho quả ngay trong kiếp hiện tại (kiếp thứ nhất): Diṭṭhadhammavedanīyakamma.

2. Tác ý tâm sở đồng sinh với tác hành tâm thứ 7 gọi là nghiệp cho quả ngay kiếp kế tiếp kiếp hiện tại (kiếp thứ 2): Upapajjavedanīyakamma.

3. Tác ý tâm sở đồng sinh với 5 tác hành tâm từ thứ 2 đến thứ 6 gọi là nghiệp cho quả trong những kiếp sau kể từ kiếp thứ 3 cho đến kiếp chót của bậc Thánh Arahán trước khi tịch diệt Niết Bàn, nếu có cơ hội cho quả: Aparāpariyavedanīyakamma.

Trong 3 loại nghiệp kể trên, khi nghiệp nào không có cơ hội cho quả, thì nghiệp ấy gọi là nghiệp vô hiệu quả (ahosikamma), nghiệp không còn hiệu lực cho quả của nó nữa.

Giải thích 4 loại nghiệp theo thời gian cho quả

1. Diṭṭhadhammavedanīyakamma: Nghiệp cho quả ngay trong kiếp hiện tại

Thế nào gọi là nghiệp cho quả ngay trong kiếp hiện tại (kiếp thứ nhất)?

Diṭṭhadhamme vedanīyaṃ phalaṃ etassāti: Diṭṭha-dhammavedanīyaṃ

Nghiệp nào chỉ cho quả ngay trong kiếp hiện tại mà thôi (không có khả năng cho quả trong kiếp sau), nghiệp ấy gọi là nghiệp cho quả ngay trong kiếp hiện tại (kiếp thứ nhất). Đó là tác ý tâm sở đồng sinh với 12 bất thiện tâm và 8 dục giới đại thiện tâm, khi làm phận sự tác hành tâm thứ nhất của mỗi lộ trình tâm.

- Nghiệp cho quả ngay trong kiếp hiện tại có 2 loại:

Bất thiện nghiệp (ác nghiệp) cho quả ngay trong kiếp hiện tại.

Thiện nghiệp cho quả ngay trong kiếp hiện tại .

1.1. Bất thiện nghiệp (ác nghiệp) cho quả ngay trong kiếp hiện tại

Nếu bất thiện nghiệp (ác nghiệp) có cơ hội cho quả ngay trong kiếp hiện tại, thì cho quả qua 6 môn, có 7 bất thiện quả vô nhân tâm như sau:

- Nhãn thức tâm thuộc bất thiện quả vô nhân tâm nhìn thấy sắc trần không đáng hài lòng.

- Nhĩ thức tâm thuộc bất thiện quả vô nhân tâm nghe thanh trần không đáng hài lòng.

- Tỷ thức tâm thuộc bất thiện quả vô nhân tâm ngửi hương trần không đáng hài lòng.

- Thiệt thức tâm thuộc bất thiện quả vô nhân tâm nếm vị trần không đáng hài lòng.

Thân thức tâm thuộc bất thiện quả vô nhân tâm xúc giác xúc trần không đáng hài lòng.

- Tiếp nhận tâm thuộc bất thiện quả vô nhân tâm tiếp nhận 5 đối tượng sắc, thanh, vị, hương, xúc không đáng hài lòng.

- Suy xét tâm thuộc bất thiện quả vô nhân tâm suy xét 5 đối tượng sắc, thanh, vị, hương, xúc không đáng hài lòng.

1.2. Thiện nghiệp cho quả ngay trong kiếp hiện tại

Nếu thiện nghiệp có cơ hội cho quả ngay trong kiếp hiện tại, thì cho quả qua 6 môn, có 8 thiện quả vô nhân tâm như sau:

Nhãn thức tâm thuộc thiện quả vô nhân tâm nhìn thấy sắc trần đáng hài lòng.

Nhĩ thức tâm thuộc thiện quả vô nhân tâm nghe thanh trần đáng hài lòng.

Tỷ thức tâm thuộc thiện quả vô nhân tâm ngửi hương trần đáng hài lòng.

Thiệt thức tâm thuộc thiện quả vô nhân tâm nếm vị trần đáng hài lòng.

Thân thức tâm thuộc thiện quả vô nhân tâm xúc giác xúc trần đáng hài lòng.

Tiếp nhận tâm thuộc thiện quả vô nhân tâm tiếp nhận 5 đối tượng sắc, thanh, vị, hương, xúc đáng hài lòng.

Suy xét tâm hợp với hỷ thuộc thiện quả vô nhân tâm suy xét 5 đối tượng sắc, thanh, vị, hương, xúc đáng hài lòng.

Suy xét tâm hợp với xả thuộc thiện quả vô nhân tâm suy xét 5 đối tượng sắc, thanh, vị, hương, xúc đáng hài lòng.

Diṭṭhadhammavedanīyakamma là nghiệp chỉ có khả năng cho quả ngay trong kiếp hiện tại mà thôi. Cho nên, nếu nghiệp này không có cơ hội cho quả trong kiếp hiện tại, thì nghiệp này trở thành nghiệp vô hiệu quả (ahosikamma), nghiệp không còn hiệu lực cho quả của nó được nữa. Nghiệp này hoàn toàn không có khả năng cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) và cũng không thể cho quả trong thời kỳ sau khi đã tái sinh (pavattikāla) nữa. Vì sao?

Bởi vì diṭṭhadhammavedanīyakamma là nghiệp mà tác ý tâm sở vừa mới đồng sinh với tác hành tâm thứ nhất trong 7 tác hành tâm chưa nhận được sự hỗ trợ của duyên trợ lực (āsevanappaccaya), nên chưa có nhiều năng lực. Do đó, nghiệp này chỉ có khả năng cho quả trong kiếp hiện tại mà thôi. Nếu nghiệp này không có cơ hội cho quả trong kiếp hiện tại, thì nghiệp này trở thành nghiệp vô hiệu quả, nghiệp không còn hiệu lực cho quả của nó được nữa.

Nghiệp cho quả ngay trong kiếp hiện tại (diṭṭhadhammavedanīya-kamma) có 2 loại:

a) Paripakka diṭṭhadhammavedanīyakamma: Nghiệp già dặn, có nhiều năng lực, cho quả trong khoảng thời gian 7 ngày trong kiếp hiện tại ấy.

b) Aparipakka diṭṭhadhammavedanīyakamma: Nghiệp chưa già dặn, có ít năng lực, cho quả sau thời gian sau 7 ngày cho đến trọn kiếp hiện tại ấy.

Phần giải thích

a) Nghiệp già dặn, có nhiều năng lực, cho quả trong khoảng thời gian 7 ngày ngay trong kiếp hiện tại như thế nào?

Nghiệp già dặn, có nhiều năng lực, cho quả trong khoảng thời gian 7 ngày ngay trong kiếp hiện tại, nghĩa là sau khi đã tạo nghiệp xong, nghiệp này có năng lực rất mạnh, chắc chắn trong vòng 7 ngày ngay trong kiếp hiện tại, nghiệp ấy sẽ cho quả của nó.

- Thiện nghiệp cho quả trong khoảng thời gian 7 ngày ngay trong kiếp hiện tại

Ví dụ:

Trường hợp một người nghèo khó tên Mahāduggata làm phước thiện bố thí cúng dường vật thực đến Đức Phật Kassapa. Sau khi Đức Phật ngự đến tế độ thọ thực tại nhà ông xong, ông ôm bát tiễn đưa Đức Phật Kassapa ngự về đến cốc của Ngài. Đảnh lễ Đức Phật xong, ông xin phép trở về nhà, ông nhìn thấy 7 thứ báu vật từ hư không rơi xuống tràn từ trong ra ngoài nhà của mình.

Đức vua tấn phong ông là đại phú hộ ngay trong ngày hôm ấy.

Trường hợp ông bà Puṇṇa nghèo khó làm phước thiện bố thí cúng dường đến Ngài Đại đức Sāriputta vừa mới xả diệt thọ tưởng buổi sáng hôm ấy. Ông Puṇṇa đã cày thửa ruộng từ buổi sáng, đến buổi trưa, những luống đất cày ấy hóa thành những thỏi vàng ròng sáng chói. Ông đem một thỏi vàng đến trình lên Đức vua Bimbisāra, tâu xin Đức vua truyền lệnh đem 1.000 (một ngàn) chiếc xe đến thửa ruộng kia để khuân tất cả số vàng ấy về cung điện.

Quân lính trong triều khuân toàn bộ số vàng ấy đem về chất giữa sân rồng thành đống vàng cao 80 hắc tay.

Đức vua Bimbisāra tấn phong ông Puṇṇa là vị đại phú hộ có số vàng nhiều nhất v.v…

- Ác nghiệp cho quả trong khoảng thời gian 7 ngày ngay trong kiếp hiện tại

Ví dụ:

Trường hợp tên Nanda hãm hiếp Ngài Đại đức Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇattherī là bậc Thánh Arahán. Sau khi đã tạo ác nghiệp trọng tội xong, tên Nanda vừa đặt hai chân xuống mặt đất, thì mặt đất nứt nẻ làm hai phun lên ngọn lửa hút tên Nanda vào trong lòng đất. Sau khi chết, ác nghiệp ấy cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp kế tiếp trong cõi đại địa ngục Avīci, chịu quả khổ suốt thời gian lâu dài.

Trường hợp tên đồ tể Nanda làm nghề giết bò để bán thịt. Một hôm, người nhà bán hết thịt bò, không còn lại miếng thịt nào cho y. Tức giận, y lấy con dao đến chuồng bò cắt cái lưỡi con bò còn sống, đem vào bảo vợ làm món ăn cho y. Khi y ăn món lưỡi bò ấy, thì ngay khi ấy, cái lưỡi của y bị đứt lìa rơi xuống, vô cùng đau đớn khiến y quằn quại, rống lên như con bò bị cắt tiết, rồi y chết tại nơi ấy.

b) Nghiệp chưa già dặn, ít năng lực, cho quả sau thời gian 7 ngày cho đến trọn kiếp hiện tại như thế nào?

Nghiệp chưa già dặn, ít năng lực, cho quả sau thời gian 7 ngày cho đến trọn kiếp hiện tại, nghĩa là sau khi đã tạo nghiệp xong, nếu có cơ hội cho quả thì nghiệp ấy sẽ chỉ cho quả sau 7 ngày cho đến suốt kiếp hiện tại ấy mà thôi (không cho quả trong thời gian kiếp sau).

Người nào đã tạo thiện nghiệp nào hoặc ác nghiệp nào trong thời kỳ thiếu niên, thì người ấy có thể thọ nhận quả của thiện nghiệp ấy hoặc quả của ác nghiệp ấy trong thời kỳ thiếu niên, hoặc trong thời kỳ trung niên, hoặc trong thời kỳ lão niên.

Người nào đã tạo thiện nghiệp nào hoặc ác nghiệp nào trong thời kỳ trung niên, thì người ấy có thể thọ nhận quả của thiện nghiệp ấy, hoặc quả của ác nghiệp ấy trong thời kỳ trung niên, hoặc trong thời kỳ lão niên.

Người nào đã tạo thiện nghiệp nào hoặc ác nghiệp nào trong thời kỳ lão niên, thì người ấy có thể thọ nhận quả của thiện nghiệp ấy hoặc quả của ác nghiệp ấy trong thời kỳ lão niên trong kiếp hiện tại. Nghiệp ấy không có khả năng cho quả trong thời kỳ kiếp sau.

Như vậy, gọi là nghiệp chưa già dặn, ít năng lực, cho quả sau thời gian 7 ngày cho đến trọn kiếp hiện tại ấy.

Như trong bộ Chú giải Uparipaṇṇāsaṭṭhakathā giải thích rằng:

Yaṃ pathamavaye kataṃ pathamavaye vā majjhimavaye vā pacchimavaye vā. Majjhimavaye kataṃ majjhimavaye vā pacchimavaye vā. Pacchimavaye vā kataṃ tattheva vipākaṃ deti taṃ diṭṭhadhammavedanīyaṃ nāma”.

(Nghiệp nào đã được tạo trong thời kỳ thiếu niên, thì nghiệp ấy có thể cho quả trong thời kỳ thiếu niên hoặc trong thời kỳ trung niên hoặc trong thời kỳ lão niên. Nghiệp nào đã được tạo trong thời kỳ trung niên, thì nghiệp ấy có thể cho quả trong thời kỳ trung niên hoặc trong thời kỳ lão niên. Nghiệp nào đã được tạo trong thời kỳ lão niên, thì nghiệp ấy có thể cho quả trong thời kỳ lão niên).

Đó gọi là nghiệp diṭṭhadhammavedanīyakamma: Nghiệp cho quả ngay trong kiếp hiện tại.

Tính chất đặc biệt của nghiệp cho quả trong khoảng thời gian 7 ngày

Nghiệp mà có khả năng cho quả trong khoảng thời gian 7 ngày ngay trong kiếp hiện tại, thì chắc chắn người tạo nghiệp ấy và đối tượng để tạo nghiệp ấy phải có tính chất đặc biệt hơn các nghiệp khác. Cho nên, không phải nghiệp nào cũng có khả năng đặc biệt cho quả của nó trong khoảng thời gian 7 ngày được.

a) Thiện nghiệp bố thí có khả năng cho quả trong khoảng thời gian 7 ngày

Thiện nghiệp bố thí có khả năng cho quả trong khoảng thời gian 7 ngày, cần phải hội đầy đủ 4 nhân duyên như sau:

1. Vatthusampadā: Bậc thọ thí là Đức Phật, hoặc bậc Thánh Arahán hoặc bậc Thánh Bất Lai.

2. Paccayasampadā: Vật bố thí được phát sinh một cách hợp pháp và hoàn toàn trong sạch.

3. Cetanāsampadā: Thí chủ là người có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, có đầy đủ 3 thời tác ý thiện tâm trong sạch và hoan hỷ là:

Tác ý thiện tâm trong sạch và hoan hỷ trước khi làm phước thiện bố thí.

Tác ý thiện tâm trong sạch và hoan hỷ đang khi làm phước thiện bố thí.

Tác ý thiện tâm trong sạch và hoan hỷ sau khi đã làm phước thiện bố thí xong.

4. Guṇātirekasampadā: Bậc thọ thí có ân đức đặc biệt như Đức Phật, hoặc bậc Thánh Arahán, hoặc bậc Thánh Bất Lai vừa mới xả diệt thọ tưởng suốt 7 ngày đêm xong, rồi đi khất thực.

Nếu phước thiện bố thí hội đủ 4 nhân duyên này, thì chắc chắn thiện nghiệp ấy sẽ cho quả trong khoảng thời gian 7 ngày, có khi ngay trong ngày hôm ấy, như những trường hợp sau:

- Tích người nghèo khó Mahāduggata

Tích người nghèo khó Mahāduggata được tóm lược như sau:

Vào thời kỳ Đức Phật Kassapa xuất hiện trên thế gian, Đức Phật cùng với 20 ngàn bậc Thánh Arahán ngự đến thành Bārāṇasī. Một hôm, sau khi độ vật thực xong, Đức Phật thuyết pháp dạy rằng:

- Này cận sự nam, cận sự nữ, trong đời này:

Số người tự mình làm phước thiện bố thí, mà không động viên, khuyến khích người khác cùng làm phước thiện bố thí với mình, thì phước thiện bố thí ấy cho quả đối với số người ấy là họ có nhiều của cải, nhưng không có bạn bè, thuộc hạ thân thiết.

Số người động viên, khuyến khích những người khác làm phước thiện bố thí, nhưng chính mình thì không chịu đem của cải ra làm phước thiện bố thí, thì phước thiện của sự động viên, khuyến khích ấy cho quả đối với số người ấy là họ có nhiều bạn bè, thuộc hạ thân thiết, nhưng không có nhiều của cải.

Số người tự mình không làm phước thiện bố thí, cũng không động viên, khuyến khích những người khác làm phước thiện bố thí, thì số người ấy sống ở nơi nào cũng là người ít của cải, nghèo khổ, thiếu thốn và cũng không có bạn bè, không có thuộc hạ thân thiết.

Số người tự mình làm phước thiện bố thí, còn động viên, khuyến khích những người khác cùng làm phước thiện bố thí với mình, thì những phước thiện ấy cho quả đối với số người ấy là giàu sang phú quý, có nhiều của cải, tài sản lớn và có nhiều bạn bè, có nhiều thuộc hạ thân thiết,…

Một người cận sự nam có trí tuệ ngồi nghe pháp, suy tư rằng: “Ta muốn có được nhiều của cải và được nhiều bạn bè, thuộc hạ thân thiết”.

Người ấy đảnh lễ Đức Phật, rồi bạch rằng:

- Kính bạch Đức Thế Tôn, ngày mai con kính thỉnh Đức Thế Tôn cùng tất cả 20.000 (hai mươi ngàn) chư Đại đức Tăng, để làm phước thiện bố thí vật thực.

Đức Phật nhận lời bằng cách im lặng.

Ông trở về đi thông báo cho toàn thể dân chúng trong thành biết rằng ngày hôm sau sẽ làm phước thiện bố thí đến Đức Phật cùng tất cả 20.000 chư Đại đức Tăng, ai có khả năng làm phước thiện bố thí đến bao nhiêu vị, xin ghi danh. Có gia đình xin thỉnh 10 vị, có gia đình xin thỉnh 20 vị, ... có gia đình xin thỉnh 100 vị, v.v…

Khi gặp cậu Mahāduggata là người nghèo khó nhất trong thành, ông động viên khuyến khích rằng:

- Này cậu Mahāduggata, ngày mai, tôi có thỉnh Đức Phật cùng 20.000 Đại đức Tăng để làm phước thiện bố thí, cậu có khả năng làm phước thiện bố thí được bao nhiêu vị?

- Thưa ông! Gia đình con nghèo khó, vợ chồng con đi làm thuê, làm được ngày nào ăn ngày ấy còn không đủ nữa, thì lấy gì mà làm phước thiện bố thí! Thưa ông.

- Này cậu Mahāduggata, trong thành này, những người giàu sang phú quý, có nhiều của cải, có quyền cao chức trọng… là do nhờ quả của phước thiện bố thí. Còn gia đình cậu, ngày qua ngày làm thuê mà không đủ ăn, đó là do không làm phước thiện bố thí, cậu có hiểu biết rõ như vậy không?

- Thưa ông! Con hiểu rồi, xin ông ngày mai cho gia đình con thỉnh một vị Đại đức Tăng, để làm phước thiện bố thí.

Ông cận sự nam hoan hỷ chấp thuận cho gia đình cậu Mahāduggata thỉnh một vị Đại đức Tăng, để làm phước thiện bố thí vào ngày hôm sau, nhưng ông quên ghi vào danh sách, mà tiếp tục đi động viên khuyến khích người khác nhận đủ 20.000 vị Đại đức Tăng.

Sau khi được ông cận sự nam chấp thuận cho thỉnh một vị Đại đức để làm phước thiện bố thí vào ngày hôm sau, cậu Mahāduggata vô cùng hoan hỷ, trở về báo tin cho người vợ hay biết, người vợ cũng vô cùng hoan hỷ, bàn tính nhau làm thuê kiếm gạo, đồ ăn về để ngày hôm sau làm phước thiện bố thí đến vị Đại đức ấy.

Mahāduggata đi tìm việc làm, ông phú hộ nhìn thấy cậu gọi lại thuê chẻ đống củi, để ngày hôm sau nấu đồ ăn dâng cúng đến chư Đại đức Tăng, cậu vô cùng hoan hỷ, lấy búa chẻ trong chốc lát là xong ngay đống củi lớn, ông phú hộ ngạc nhiên hỏi:

- Này Mahāduggata, sao hôm nay cậu làm việc siêng năng và nhanh nhẹn thế?

- Thưa ông! Ngày mai gia đình con sẽ làm phước thiện bố thí đến một vị Đại đức Tăng, nên con cảm thấy hoan hỷ, sung sướng mà làm việc không biết mệt.

Ông phú hộ ca tụng cậu, làm một việc khó làm. Ông trả công cho 4 ô gạo sāli (loại gạo ngon thời xưa).

Về phần vợ của cậu đi giúp việc nhà bếp cho bà phú hộ, cô cũng rất hân hoan làm mọi công việc một cách sạch sẽ, gọn gàng, nhanh nhẹn, nên bà phú hộ vừa rất hài lòng, lại vừa ngạc nhiên hỏi:

- Này con, sao hôm nay con có vẻ vui sướng và làm việc giỏi vậy?

- Thưa bà! Ngày mai gia đình con sẽ làm phước thiện bố thí đến một vị Đại đức Tăng, nên con cảm thấy sung sướng làm việc, để được những món gia vị làm đồ ăn cho ngày mai.

Nghe nói vậy, bà phú hộ ca tụng cô đã làm được một việc khó làm. Bà trả công bằng bơ, dầu, đồ dùng…

Vợ chồng Mahāduggata vô cùng hoan hỷ được gạo ngon, dầu bơ, đồ dùng để làm phước thiện bố thí vào hôm sau.

Sáng sớm hôm sau, người vợ thưa với chồng, đi kiếm một ít rau về nấu một bát canh. Mahāduggata đi ra khỏi nhà, vừa đi vừa ca hát, đi ngang bến ghe chài; đêm hôm trước, người dân chài bắt được nhiều cá vừa cập bến, nghe tiếng ca hát của Mahāduggata bèn gọi:

- Này Mahāduggata cậu đi đâu đó? Sao hôm nay vui sướng quá vậy? Hãy xuống đây giúp tôi đem cá bán, rồi tôi sẽ cho một ít cá.

- Này bạn, hôm nay gia đình tôi sẽ làm phước thiện bố thí đến một vị Đại đức Tăng, tôi đang đi tìm rau về nấu canh; may quá, có được cá lại càng tốt.

Mahāduggata hăng hái đem cá bán, hôm ấy dân chúng trong thành mua cá làm đồ ăn để làm phước thiện bố thí cúng dường đến chư Đại đức Tăng, nên phần cá bán không còn con nào cả. Cậu nóng lòng muốn về nhà cho kịp làm phước thiện bố thí, bèn hỏi người chủ thuyền:

- Này bạn, phần cá của tôi đâu?

- Bạn đừng lo, tôi còn một phần cá đặc biệt ở dưới ghe, để tôi lấy cho bạn.

Người chủ đem cho Mahāduggata 4 con cá hồi (rohita-maccha). Cậu vội vàng đem về nhà.

Canh chót đêm ấy, Đức Thế Tôn nhập đại bi định, khi xả định quán xét chúng sinh nào có duyên lành nên tế độ; Đức Phật nhìn thấy Mahāduggata là người có đức tin trong sạch, nhận lãnh một vị Đại đức Tăng để làm phước thiện bố thí, nhưng người cận sự nam quên ghi vào danh sách, đến khi Mahāduggata gặp người cận sự nam xin nhận lãnh vị Đại đức ấy thỉnh về nhà, thì không còn một vị Đại đức nào cả. Vậy, chính Như Lai sẽ tế độ Mahāduggata mà thôi.

Vua trời Sakka cảm thấy chỗ ngồi phát nóng, quán xét thấy rõ hôm nay Mahāduggata sẽ làm phước thiện bố thí cúng dường Đức Phật, nên hiện xuống giúp đỡ cậu để tạo phước thiện. Vua trời Sakka biến hóa thành một người đầu bếp tài giỏi đến xin giúp việc cho Mahāduggata không lấy tiền công, chỉ bỏ công làm phước thiện mà thôi. Mahāduggata đồng ý chấp thuận, xin mời vào nhà lo giúp việc nấu ăn, Vua trời Sakka nấu cơm, các món ăn đều bỏ đồ gia vị cõi trời, hương trời, Đức vua trời Sakka bảo rằng:

- Này bạn, công việc nấu nướng để tôi lo, bạn hãy đi thỉnh vị Đại đức về nhà cho kịp giờ.

Mahāduggata đi đến tìm người cận sự nam xin thỉnh một vị Đại đức, mà ông đã động viên khuyến khích. Khi đến gặp ông, hởi ôi! Ông đã quên, nên không còn một vị Đại đức nào cả, cậu thất vọng buồn tủi ôm mặt khóc; mọi người nhìn thấy cậu đáng thương và trách người cận sự nam ấy, người cận sự nam ấy an ủi cậu rồi hướng dẫn rằng:

- Còn Đức Phật ở trong cốc chưa mở cửa. Đức vua, các quan, phú hộ đang trông chờ Đức Phật mở cửa để thỉnh bát của Ngài. Chư Phật thường tế độ những người nghèo khó, vậy cậu hãy vào xin Đức Phật tế độ.

Nghe nói vậy, đôi mắt của Mahāduggata sáng lên, niềm hy vọng phát sinh, cậu dũng cảm đến trước cửa cốc, đảnh lễ, đầu va chạm vào cửa, bạch rằng:

- Kính bạch Đức Thế Tôn, trong thành này người nghèo khó hơn con không có, kính xin Ngài có lòng đại bi tế độ con. Bạch Ngài.

Đức Phật mở cửa trao bình bát trên tay cậu. Cậu được bình bát của Đức Phật mừng hơn được ngai vàng của Đức Chuyển Luân Thánh Vương. Đức vua, các quan, phú hộ xin lại bình bát trên tay cậu hứa sẽ ban cho cậu nhiều tiền của, nhưng cậu không màng đến.

Cậu kính thỉnh Đức Phật về đến nhà, Đức vua trời Sakka hóa thành người đầu bếp đã làm xong vật thực ngon lành, trải chỗ ngồi cao quý, thỉnh Đức Phật vào nhà.

Khi Đức Phật vừa bước vào, thì căn nhà cao hẳn lên, nên Ngài không phải cúi khom người xuống, Ngài ngự trên chỗ ngồi đã trải sẵn. Còn Đức vua trời là người đầu bếp đã làm xong những món vật thực, liền bảo Mahāduggata đem những món vật thực dâng cúng đến Đức Phật. Mùi thơm của các món vật thực toả khắp cả kinh thành Bārāṇasī. Trong khi đó, Đức vua cùng các quan, phú hộ đi theo sau Đức Phật đến nhà của Mahāduggata để biết xem cậu làm phước thiện bố thí cúng dường Đức Phật bằng những món vật thực gì, khi đến nơi tất cả đều được ngửi mùi thơm của những món vật thực, mà trong đời chưa từng được ngửi bao giờ. Đức vua trời Sakka đảnh lễ Đức Phật, rồi ngồi hầu Đức Phật.

Độ vật thực xong, Đức Phật thuyết pháp tế độ gia đình Mahāduggata, rồi Ngài ngự trở về chùa, Mahāduggata ôm bát theo sau tiễn đưa Đức Phật.

Đức vua trời Sakka hoan hỷ phước thiện bố thí xong, cũng trở về cung Tam Thập Tam Thiên.

Khi Mahāduggata trở về đứng trước cửa, nhìn thấy từ hư không rơi xuống 7 thứ báu vật đầy nhà, người vợ phải dắt tay đứa con ra khỏi nhà, vì 7 thứ báu vật tràn từ trong ra ngoài nhà của ông, không còn chỗ nào trống cả.

Cậu nghĩ rằng: “Đó là quả báu của phước thiện bố thí của chúng ta ngày hôm nay”.

Mahāduggata liền đến chầu Đức vua tâu rằng:

- Tâu Hoàng thượng, nhà của tiện dân đầy cả thất báu, xin bệ hạ đem 1.000 chiếc xe đến nhà tiện dân chở tất cả thất báu ấy về cung điện.

Đức vua truyền quân lính trong triều đình đem 1.000 chiếc xe chở tất cả 7 thứ báu vật đem về chất thành đống trước sân rồng.

Đức vua truyền hỏi:

- Trong thành này, người nào có của cải nhiều như thế này không?

Tất cả mọi người đều tâu:

- Tâu Hoàng thượng, không một người nào có nhiều của báu như thế ấy cả.

Do đó, Đức vua tấn phong Mahāduggata địa vị đại phú hộ, rồi truyền rằng:

- “Tất cả của cải này là quả báu phước thiện bố thí của nhà ngươi, vậy nhà ngươi hãy nhận lấy”

Đức vua cấp đất đai, xây cất những căn nhà lớn, cấp nhiều gia nhân. Khi xây cất nhà xong, phú hộ Mahāduggata thỉnh Đức Phật cùng chư Đại đức Tăng làm phước đại bố thí suốt 7 ngày và từ đó về sau cậu thường bố thí, giữ giới, tạo mọi thiện pháp cho đến hết tuổi thọ, do năng lực mọi phước thiện ấy cho quả tái sinh lên cõi trời dục giới hưởng mọi sự an lạc.

Đến thời kỳ Đức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, hậu kiếp của Mahāduggata trong thời kỳ Đức Phật Kassapa là vị thiên nam, sau khi hết tuổi thọ tại cõi trời, thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh đầu thai vào người con gái của ông phú hộ. Đến thời kỳ, người mẹ sinh ra một bé trai đặt tên là “Paṇḍita”. Người mẹ của cậu vốn là người hộ độ Ngài Đại đức Sāriputta.

Khi lớn lên được 7 tuổi, cậu bé Paṇḍita xin mẹ cha chấp thuận cho phép xuất gia trở thành Sadi Paṇḍita, với Ngài Đại đức Sāriputta là thầy tế độ.

Cha mẹ của Ngài đến chùa làm phước thiện bố thí vật thực, đặc biệt có món cá hồi (rohitamaccha) đến Đức Phật cùng chư Đại đức Tăng suốt 7 ngày. Qua đến ngày thứ 8, Sadi Paṇḍita thực hành thiền tuệ chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc từ Nhập Lưu Thánh Đạo - Nhập Lưu Thánh Quả cho đến Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả cùng với Tứ tuệ phân tích, trở thành bậc Thánh Arahán, hoàn thành xong phận sự của Samôn.

Ngài Đại đức Sāriputta đi khất thực độ xong, còn đem về cho Sadi Paṇḍita một phần vật thực, trong đó có món cá hồi, theo nguyện vọng của Sadi, người đệ tử có sắc thân bé nhỏ, song tâm là bậc Thánh Arahán cao thượng.

Làm phước thiện bố thí đến Đức Phật với đức tin trong sạch, hoan hỷ trong phước thiện, quả báu của phước thiện bố thí ấy không chỉ được giàu sang phú quý ngay trong kiếp hiện tại, những kiếp vị lai đầy đủ của cải thế gian, mà còn kiếp chót cũng có đầy đủ 9 pháp Siêu tam giới đó là: 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn.

* Tích gia đình ông Puṇṇa

Tích ông Puṇṇa, người làm thuê của ông phú hộ Sumana, được tóm lược như sau:

Trong thời kỳ Đức Phật Gotama còn tại thế, gia đình ông Puṇṇa nghèo khó làm ruộng thuê của ông phú hộ Sumana, mọi người trong gia đình đều có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo.

Một buổi sáng, ông đi cày ruộng, cũng vào buổi sáng hôm ấy, Ngài Đại đức Sāriputta xả diệt thọ tưởng (sau 7 ngày đêm), đi khất thực để tế độ gia đình ông Puṇṇa, nên Ngài đi thẳng về hướng ông Puṇṇa đang cày ruộng. Nhìn thấy Ngài Đại đức Sāriputta từ xa đến, ông Puṇṇa liền bỏ cày, đến hầu đảnh lễ Ngài, dâng cúng cây tăm xỉa răng và nước dùng, nước uống. Ngài Đại đức Sāriputta thọ nhận xong, đi theo đường hướng về nhà ông Puṇṇa, gặp vợ ông Puṇṇa đang đem cơm cho chồng. Bà đảnh lễ Ngài Đại đức Sāriputta xong, bạch rằng:

- Kính bạch Ngài Đại đức, kính xin Ngài từ bi thọ nhận phần vật thực nghèo nàn này của gia đình chúng con.

Ngài Đại đức Sāriputta từ bi tế độ thọ nhận tất cả phần vật thực, bà vô cùng hoan hỷ phát nguyện:

- Do nhờ phước thiện bố thí này của chúng con, cầu mong cho gia đình chúng con được một phần pháp mà Ngài đã chứng đắc.

Ngài Đại đức Sāriputta chúc phúc rằng:

- Mong cho gia đình các con được toại nguyện.

Bà vô cùng hoan hỷ quay trở về nhà, nấu lại phần cơm khác đem cho chồng, rồi vội vàng mang cơm ra đồng ruộng, với tâm hoan hỷ phước thiện bố thí đến Ngài Đại đức Sāriputta, làm cho thân tâm của bà nhẹ nhàng, nhu nhuyến không sao giấu được.

Còn phần ông Puṇṇa, trễ giờ đói bụng, thả bò đi ăn cỏ, ông lên bờ ngồi dưới bóng mát cây, chờ đợi vợ. Dù đói bụng, nhưng tâm vẫn hoan hỷ, niệm tưởng lại việc làm phước thiện bố thí tăm xỉa răng và nước đến Ngài Đại đức Sāriputta. nhìn từ xa, ông thấy vợ mình đang đi đến trễ hơn mọi ngày, nhưng bà có vẻ khác thường, chắc chắn bà đang hoan hỷ một điều gì đó. Bà vừa đến nơi liền thưa với chồng rằng:

- Hôm nay, xin anh hoan hỷ thật nhiều! Sáng nay, khi em đem cơm cho anh, giữa đường gặp Ngài Đại đức Sāriputta đang đi khất thực, em phát sinh đức tin trong sạch, đem phần cơm của anh để bát cúng dường đến Ngài Đại đức Sāriputta, Ngài không chê vật thực nghèo hèn của chúng ta. Ngài Đại đức có tâm từ bi tế độ thọ nhận tất cả vật thực phần của anh, xin anh nên hoan hỷ phần phước thiện bố thí này!

Ông Puṇṇa vừa lắng nghe từng tiếng, từng câu làm cho ông phát sinh thiện tâm hỷ lạc đến cực độ, nên không thể theo dõi liên tục trọn vẹn lời nói của vợ ông. Sực tỉnh lại, ông muốn biết chắc chắn chính mình nghe đúng sự thật là như vậy không, nên ông bảo với vợ rằng:

- Này em, xin em hãy nói lại cho anh nghe một lần nữa!

Bà vợ thưa lại rõ ràng một lần nữa, lần này ông nghe rõ biết chắc chắn đúng sự thật như vậy rồi, ông vô cùng hoan hỷ phước thiện bố thí của vợ, đã đem phần cơm của mình cúng dường đến Ngài Đại đức Sāriputta; tiếp theo ông nói cho vợ biết ông cũng vừa làm phước thiện bố thí cúng dường cây tăm xỉa răng và nước đến Ngài Đại đức Sāriputta. nghe xong, bà cũng vô cùng hoan hỷ việc phước thiện bố thí của chồng.

Hai vợ chồng cùng nhau hoan hỷ việc phước thí cúng dường đến Ngài Đại đức Sāriputta. Dùng cơm xong, ông nằm niệm tưởng đến phước thiện bố thí vừa mới làm, mới thiu thiu giấc ngủ, ông bừng tỉnh lại, ngồi nhìn thấy phần đất ruộng vừa cày buổi sáng, đã hóa thành những thỏi vàng y (vàng ròng) làm cho ông hoa cả mắt; và vợ của ông cũng cảm thấy như ông vậy. Ông lấy lại bình tỉnh đi xuống ruộng, lấy lên một thỏi, đúng thật là thỏi vàng ròng; ông đem đến khoe và nói với vợ rằng:

- Này em, vợ chồng chúng ta đã làm phước thiện bố thí cúng dường đến Ngài Đại đức Sāriputta, do phước thiện bố thí ấy, liền cho quả báu đến vợ chồng chúng ta ngày hôm nay, chúng ta không thể nào giấu một số vàng lớn như thế này được!

Ông Puṇṇa lấy một số thỏi vàng bỏ vào khay, đem trình lên Đức vua và tâu rằng:

- Tâu Đức vua, sáng nay tiện dân đi cày ruộng, tất cả đất cày đều hóa thành những thỏi vàng ròng. Kính xin Đức vua truyền lệnh cho binh lính đem xe đến chở số vàng ấy về cất trong kho báu của Đức vua.

Đức vua hỏi:

- Nhà ngươi là ai?

Ông Puṇṇa tâu:

- Tâu Đức vua, tiện dân là Puṇṇa, một nông dân nghèo khó làm thuê.

- Sáng nay, nhà ngươi đã làm được việc gì đặc biệt?

- Tâu Đức vua, tiện dân làm phước cúng dường cây tăm xỉa răng và nước dùng, nước uống đến Ngài Đại đức Sāriputta; còn phần vợ tiện dân làm phước cúng dường phần cơm của tiện dân đến Ngài Đại đức.

Đức vua truyền rằng:

- Này Puṇṇa, vợ chồng ngươi đã làm phước thiện bố thí cúng dường đến Ngài Đại đức Sāriputta, cho nên, quả báu phát sinh ngay trong ngày hôm nay. Vậy, ngươi muốn Trẫm làm gì?

Ông Puṇṇa tâu:

- Tâu Đức vua, tiện dân xin Đức vua truyền lệnh đem ngàn chiếc xe đến thửa ruộng kia, để khuân tất cả số vàng ấy về cung điện.

Đức vua truyền lệnh đem hàng ngàn chiếc xe đến chở vàng ròng, quân lính trong triều nghĩ và nói rằng: “Vàng của Đức vua”, tức thì những thỏi vàng trở lại thành đất như cũ. Quân lính trong triều trở về tâu lên Đức vua sự việc xảy ra như vậy. Đức vua sáng suốt bèn truyền rằng:

- Các ngươi nghĩ như thế nào, khi nhặt lấy những thỏi vàng ấy?

- Tâu Bệ hạ, chúng hạ thần nghĩ và nói rằng: “Vàng của Đức vua”.

Đức vua phán:

- Số vàng ròng kia không phải của Trẫm. Các người nên trở lại nghĩ và nói rằng: “Vàng của ông bà Puṇṇa” rồi khuân số vàng ấy về đây.

Họ vâng lệnh Đức vua trở lại nơi ấy.

Thật đúng vậy, lần này họ khuân toàn bộ số vàng ấy đem về, chất giữa sân rồng thành một đống vàng cao 80 hắc tay.

Ông Puñña trình thỉnh với Phật

Đức vua cho truyền dân chúng trong thành hội họp tại sân rồng, bèn hỏi rằng:

- Trong kinh thành này, có người nào khác có số vàng lớn như thế này không?

Toàn thể dân chúng trong thành tâu:

- Tâu bệ hạ, không có người nào khác cả.

Đức vua hỏi tiếp:

- Trẫm nên tấn phong ông Puṇṇa như thế nào mới xứng đáng?

- Xin Hoàng thượng tấn phong ông Puṇṇa địa vị đại phú hộ.

Đức vua phán rằng:

- Này Puṇṇa, từ nay ngươi là đại phú hộ, có tên “Bahu-dhanaseṭṭhi: Phú hộ nhiều của cải”.

Sau khi trở thành đại phú hộ Puṇṇa, gia đình ông càng có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, làm phước thiện bố thí cúng dường đến chư Tỳ khưu Tăng có Đức Phật chủ trì suốt 7 ngày. đến ngày thứ 7 Đức Phật thuyết pháp tế độ gia đình ông Puṇṇa, toàn gia đình ông đại phú hộ Puṇṇa (hai vợ chồng và đứa con gái tên Uttarā) đều chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu.

Vợ chồng ông Puṇṇa làm phước thiện bố thí cúng dường đến Ngài Đại đức Sāriputta, sau khi xả diệt thọ tưởng, do năng lực phước thiện bố thí trong sạch và hội đủ nhân duyên ấy, liền cho quả báu trong ngày hôm ấy, trở thành đại phú hộ nhiều của cải thế gian và đặc biệt hơn nữa, toàn gia đình chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo - Nhập Lưu Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu, thuộc pháp Siêu tam giới.

Những trường hợp tương tự trên, có không ít trong Phật giáo.

b) Ác nghiệp nặng có khả năng cho quả trong 7 ngày

Tích nàng kỹ nữ Ciñcāmāṇavikā

Tích nàng kỹ nữ Ciñcāmāṇavikā, được tóm lược như sau:

Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại ngôi chùa Jetavana gần kinh thành Sāvatthi. Khi ấy, Đức Thế Tôn đang ngự tại giảng đường thuyết pháp tế độ tứ chúng đệ tử, thì nàng kỹ nữ Ciñcāmāṇavikā xinh đẹp giả làm người mang thai hằn học bước vào, đứng chỉ tay về Đức Thế Tôn, buông lời vu khống rằng: “Nàng mang thai với Đức Thế Tôn”, rồi mắng nhiếc Ngài giữa tứ chúng đệ tử, để làm mất uy tín của Ngài theo âm mưu của các nhóm ngoại đạo.

Đức Phật xuất hiện trên thế gian, vào thời kỳ đầu, chánh pháp của Đức Phật được phát triển mạnh mẽ, có nhiều người chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn trở thành bậc Thánh Nhân, cho nên, danh thơm tiếng tốt của Đức Phật được lan truyền khắp mọi nơi. Vua chúa, Hoàng tộc, giai cấp Bàlamôn, các phú hộ, phần đông dân chúng phát sinh đức tin nơi Đức Phật, nơi Đức Pháp, nơi Đức Tăng, có số xin xuất gia trở thành Tỳ khưu trong Phật giáo, còn số khác xin thọ phép quy y Tam Bảo trọn đời, càng ngày càng thêm đông. Đại đa số, trước kia đã từng là đệ tử của nhóm ngoại đạo, nay họ đã từ bỏ các nhóm ngoại đạo để trở thành đệ tử của Đức Phật, họ có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, thường cúng dường những thứ vật dụng đến Đức Phật cùng chư Đại đức Tỳ khưu Tăng, không cúng dường đến các nhóm tu sĩ ngoại đạo nữa. Đó là điều mà các tu sĩ ngoại đạo cảm thấy bị tổn thương, những tín đồ cũ không giữ được, tín đồ mới không có, cho nên, những lễ vật cúng dường, lợi lộc càng ngày càng giảm dần.

Các nhóm ngoại đạo tìm mọi cách ngăn cản nhóm đệ tử không cho tìm đến Đức Phật nhưng chúng hoàn toàn bất lực, không thể ngăn cản được. Cho nên, lợi lộc càng ngày càng suy giảm, đời sống không được sung túc như trước nữa. Các nhóm tu sĩ ngoại đạo hội họp với nhau, bày mưu tính kế thâm độc để hạ uy tín của Đức Phật.

Thời ấy, trong thành Sāvatthi có cô kỹ nữ xinh đẹp như thiên nữ tên là Ciñcāmāṇavikā, nàng vốn là đệ tử thuần thành của các nhóm tu sĩ ngoại đạo. Thấy sắc đẹp tuyệt trần của nàng, các tu sĩ nghĩ ra một diệu kế: “Chúng ta dùng nàng kỹ nữ Ciñcāmāṇavikā giả mang thai rồi vu khống cho Samôn Gotama, gây ra sự hiểu lầm, để làm mất uy tín của Samôn”.

Mưu kế ấy được chúng đều chấp nhận.

Một hôm, như lệ thường nàng Ciñcāmāṇavikā đến tu viện ngoại đạo, đảnh lễ các tu sĩ xong, nàng ngồi một bên. Nàng Ciñcāmāṇavikā rất ngạc nhiên không hiểu sao các tu sĩ ngồi im lặng không nói với nàng một câu nào. Nàng thầm nghĩ: “Mình có lỗi gì đây!”.

Nàng bạch vị Trưởng Lão rằng:

- Kính bạch Ngài, con đã lễ bái quý Ngài ba lần rồi, nhưng con không biết con có lỗi gì mà quý Ngài không nói với con một lời nào?

Vị Trưởng Lão tỏ vẻ nghiêm nghị nói với nàng:

- Không! Này con, con là một đệ tử rất tốt, con không có lỗi gì! Hiện nay đời sống của quý thầy khổ sở, thiếu thốn lắm con à! Vì vậy, quý thầy buồn bực, khổ tâm, không ai buồn nói với ai điều gì cả.

Nàng Ciñcāmāṇavikā ngạc nhiên, nóng lòng hỏi:

- Kính bạch quý Ngài, trước đây đời sống của quý Ngài được đầy đủ lắm, sao hiện nay lại lâm vào hoàn cảnh khổ cực như vậy?

- Này Ciñcāmāṇavikā, con không biết gì hay sao? Chính Samôn Gotama đã làm khổ quý thầy, chính Samôn Gotama đã làm cho quý thầy mất hết cả uy tín, danh vọng và những lợi lộc cúng dường… cho nên, quý thầy phải sống trong cảnh thiếu thốn khổ cực như vậy!

Nàng Ciñcāmāṇavikā cảm thấy rất đau lòng, chân tình thưa:

- Vậy mà con có hay biết gì đâu? Không biết con có thể làm gì, để giúp đỡ cho quý Ngài?

Các vị tu sĩ ngoại đạo giả vờ im lặng một lúc rồi có vị nói:

- Chỉ sợ con ngại khó, mà không giúp quý thầy đó thôi.

Nàng Ciñcāmāṇavikā mau mắn đáp:

- Không, khó khăn gì con cũng có thể làm được, miễn là làm sao cho quý Ngài được sống an lạc, thế là con mãn nguyện lắm rồi!

Vị tu sĩ ngoại đạo nghiêm chỉnh nói:

- Đây là việc rất hệ trọng, đòi hỏi con phải khôn khéo. Nếu con thật tình muốn giúp đỡ quý thầy, thì chỉ có một phương pháp duy nhất là con hãy dùng cái sắc đẹp duyên dáng, đầy quyến rũ của con, làm thế nào đó giả mang thai với Sa môn Gotama. Con làm được như vậy, sẽ làm giảm uy tín của Sa môn Gotama, như thế thì phần đông tín đồ của Samôn Gotama sẽ trở về lại với chúng ta.

Nàng Ciñcāmāṇavikā hớn hở nói:

- Đúng vậy, kế này rất hay! Xin quý Ngài hãy tin tưởng nơi con, con sẽ cố gắng làm tròn bổn phận để đền đáp công ơn của quý Ngài đối với con.

Từ hôm ấy, cứ vào mỗi buổi chiều dân chúng trong thành Sāvatthi sau khi nghe Đức Phật thuyết pháp tại chùa Jetavana xong, đảnh lễ Đức Phật trở về nhà, họ thường gặp nàng Ciñcāmāṇavikā ăn mặc đẹp đẽ rất quyến rũ, cầm một bó hoa trên tay đang đi trên đường hướng đến chùa Jetavana, có người tò mò dừng lại hỏi:

- Chiều tối rồi, cô đi đâu mà ăn mặc đẹp vậy?

Nàng Ciñcāmāṇavikā trả lời cố ý tạo ra một sự nghi ngờ:

- Tôi đi đâu là việc của tôi, quý vị biết phỏng có ích lợi gì!

Nói xong, nàng bước đi theo hướng đến chùa Jetavana, nhưng lại nghỉ qua đêm tại một tu viện ngoại đạo ở gần đó.

Rồi sáng hôm sau, khi có một số cận sự nam, cận sự nữ đem vật dụng đến chùa Jetavana để cúng dường Đức Phật và Tăng chúng, thì lại thấy nàng Ciñcāmāṇavikā từ hướng chùa Jetavana trở lại thành Sāvatthi, người ta lại hỏi nàng:

- Đêm hôm qua cô nghỉ ở đâu mà sáng nay lại vào thành sớm vậy?

Nàng Ciñcāmāṇavikā ỡm ờ đáp:

- Tôi nghỉ ở đâu có nơi có chỗ của tôi, quý vị biết phỏng có lợi ích gì!

Và từ đó, cứ vào mỗi buổi chiều và mỗi buổi sáng, từ tháng này sang tháng khác, nàng Ciñcāmāṇavikā đều làm như vậy. Cho đến một hôm, có số người cận sự nam, cận sự nữ khác hỏi rằng:

- Đêm hôm qua cô nghỉ ở đâu mà sáng nay lại vào thành sớm vậy?

Nàng Ciñcāmāṇavikā thấy đã đến lúc cần phải nói, để bắt đầu gây ra sự ngờ vực.

- Chuyện riêng tư của tôi mà quý vị muốn biết hay sao? Sớm muộn gì quý vị cũng sẽ biết thôi mà! Nếu quý vị muốn biết bây giờ tôi xin khai thật: “Đêm qua tôi nghỉ ở Gandhakuṭi chung với Samôn Gotama để phục vụ Ngài, đó là một niềm vinh dự lớn lao của đời tôi”.

Nói xong, nàng tỏ vẻ đắc ý bỏ vào thành.

Khi nghe nàng Ciñcāmāṇavikā nói vậy, một số cận sự nam, cận sự nữ thiểu trí, sinh tâm bán tín bán nghi. 3 - 4 tháng sau, nàng Ciñcāmāṇavikā lấy vải độn bụng, mặc áo lụng thụng che bên ngoài làm như người đang mang thai. Có một số người không có trí tuệ, không hiểu biết về giáo pháp của Đức Phật nghĩ là cô Ciñcāmāṇavikā thật sự có thai với Samôn Gotama rồi.

Thời gian đã đến 9 tháng, màn kịch hạ uy tín Đức Thế Tôn đến hồi chung cuộc. Nhóm tu sĩ ngoại đạo gọi nàng Ciñcāmāṇavikā đến, họ dùng một miếng gỗ đẽo hình dạng giống như cái thai sắp đến ngày sinh nở, có 4 đầu dây giăng. Nàng Ciñcāmāṇavikā mang vào buộc chặt sau lưng, mặc áo phủ kín lại, nhìn giống như người mang thai thật; sau đó, nhóm tu sĩ ngoại đạo dùng cây đánh vào sống bàn tay, bàn chân của nàng cho sưng lên nhìn đúng là người đàn bà sắp đến thời kỳ sinh nở.

* Đức Phật thắng nàng Ciñcāmāṇavikā

Vào một buổi chiều, khi Đức Phật đang ngự trên pháp tòa, tại giảng đường chùa Jetavana, tứ chúng đệ tử đang ngồi im lặng lắng nghe pháp như thường lệ, thì nàng Ciñcāmāṇavikā từ ngoài xồng xộc đi vào, đến trước Đức Phật, chỉ tay buông lời mắng nhiếc:

- Này ông Đại Samôn Gotama! Ông thuyết pháp thật là hay, thật là giỏi, ông tế độ biết bao nhiêu người, còn tôi sao ông không tế độ? Tôi bụng mang dạ chửa là vì ông, ông nói ngon nói ngọt với tôi, bảo là sẽ giúp tôi thế này, thế nọ… Hôm nay, sắp đến ngày sinh nở, ông lo thuyết pháp tế độ người khác, chẳng đoái hoài gì đến tôi. Dầu ông bận không lo cho tôi được, thì ông bảo những người hộ độ ông như Đức vua Pasenadi, ông phú hộ Anāthapiṇḍika, bà Visākhā… lo cho tôi cũng được. Nhưng đằng này, ông chỉ biết thỏa mãn dục vọng cá nhân, ông không hề biết đến nỗi khổ của tôi phải chịu bụng mang dạ chửa như thế này đây!

Nghe nàng Ciñcāmāṇavikā mắng nhiếc, Đức Phật ngưng thuyết pháp, vẫn ngồi an nhiên tự tại, an tịnh trên pháp tòa rồi từ tốn nói:

“Bhagini, tayā kathitassa tathabhāvaṃ vā vitathabhāvaṃ vā ahameva ca tvañca jānāma”.

(Này cô! Cô nói lời chân thật hay giả dối chỉ có Như Lai và cô biết rõ mà thôi!)

Nàng Ciñcāmāṇavikā liền đáp:

- Đúng vậy, này ông Đại Samôn, chỉ có ông và tôi biết rõ mà thôi!

Ngay giây phút ấy, tại cung trời Tam Thập Tam Thiên, bảo tòa của Vua trời Sakka nóng lên, bằng thiên nhãn quan sát nguyên nhân, vua trời thấy rõ nàng Ciñcāmāṇavikā đang mắng nhiếc Đức Phật trước tứ chúng đệ tử, bởi những chuyện không có thật. Đây là âm mưu thâm độc của nhóm tu sĩ ngoại đạo, dùng cô kỹ nữ Ciñcāmāṇavikā vô liêm sĩ, cố ý làm hạ uy tín của Đức Phật trước tứ chúng đệ tử. Vua trời Sakka quyết định phải làm sáng tỏ chuyện này. Vua trời cùng 4 thiên nam xuất hiện xuống giảng đường chùa Jetavana ngay tức khắc. Theo lệnh của Đức vua trời, 4 vị thiên nam hóa thành 4 con chuột, cùng một lúc bò lên cắn đứt 4 sợi dây dùng để cột tấm gỗ, hình dạng giống bào thai, sau lưng nàng Ciñcāmāṇa-vikā, đồng thời Vua trời hóa một luồng gió thổi cho tấm gỗ kia rơi xuống đất đụng nhằm hai bàn chân của nàng Ciñcā-māṇavikā, làm cho đôi chân của nàng bầm máu.

Sự việc xảy ra trong thời gian ngắn ngủi, mọi sự thật hiển nhiên phơi bày trước mắt tứ chúng đệ tử. Nàng Ciñcāmāṇavikā bị mắng nhiếc không tiếc lời, có người đánh đập, nhổ nước bọt rồi xua đuổi nàng ra khỏi khuôn viên chùa. Nàng Ciñcā-māṇavikā thất vọng, thất tha, thất thểu bước đi ra vừa khuất tầm mắt của mọi người, mặt đất liền nứt ra làm hai, phát lên một tia lửa thiêu cháy nàng rồi hút xác nàng xuống sâu dưới lòng đất. Sau khi nàng Ciñcāmāṇavikā chết, do ác nghiệp ấy cho quả tái sinh vào đại địa ngục Avīci, chịu quả khổ do ác nghiệp đã tạo.

Chuyện nàng Ciñcāmāṇavikā vu khống Đức Phật đã lan truyền khắp mọi nơi, từ xứ này sang xứ khác. Và ai ai cũng đều biết đó là âm mưu thâm độc đê tiện của nhóm tu sĩ ngoại đạo. Một số người trước kia còn hộ độ nhóm tu sĩ ngoại đạo, nay họ nghe thấy như vậy, mất hết đức tin, nên không còn phát sinh tâm cúng dường các thứ vật dụng cho nhóm tu sĩ ngoại đạo nữa, đời sống của nhóm tu sĩ ngoại đạo thiếu thốn khổ cực, nay lại càng tệ hại hơn nữa.

Trái lại, dân chúng khắp mọi nơi phát sinh thiện tâm trong sạch cúng dường Đức Phật và chư Tăng các thứ vật dụng sung túc; số người nào chưa có đức tin thì nay lại có đức tin nơi Tam Bảo; số người nào đã có đức tin nơi Tam Bảo rồi, đức tin lại càng thêm tăng trưởng.

* Tích tên Nanda hãm hiếp Ngài Đại đức Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇattherī

Chuyện tên Nanda hãm hiếp Ngài Đại đức Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇattherī là bậc Thánh Arahán, được tóm lược như sau:

Tiền kiếp của Ngài Đại đức Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇattherī

Trong thời kỳ Đức Phật Padumuttara xuất hiện trên thế gian, tiền kiếp của Ngài Đại đức Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇat-therī là một tiểu thư của phú hộ trong thành xứ Haṃsavatī. Một hôm, cô cùng với dân chúng trong thành đến hầu Đức Phật Pamuduttara, lắng nghe Đức Phật thuyết pháp. Nhân dịp ấy, Đức Phật có tuyên dương một vị Đại đức Tỳ khưu ni, là bậc Thánh Nữ Tối Thượng Thanh Văn xuất sắc nhất về thần thông trong hàng nữ Thanh Văn đệ tử của Ngài. Nhìn thấy như vậy, cô vô cùng hoan hỷ, phát sinh thiện tâm trong sạch, có ý nguyện muốn được địa vị cao quý như vị Đại đức Tỳ khưu ni ấy. Cho nên, cô kính bạch với Đức Phật, kính thỉnh chư Đại đức Tăng có Đức Phật chủ trì, để làm phước thiện đại thí suốt 7 ngày. Đến ngày thứ 7, cô kính bạch với Đức Phật Padumuttara ý nguyện của cô muốn địa vị: “Bậc Thánh nữ Tối Thượng Thanh Văn xuất sắc nhất về thần thông trong hàng nữ Thanh Văn đệ tử của Đức Phật trong thời vị lai”.

Đức Phật Padumuttara đã thọ ký xác định thời gian còn lại 100 ngàn đại kiếp trái đất nữa, đến thời kỳ Đức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, cô sẽ thành tựu được như ý nguyện.

Cô vô cùng hoan hỷ tiếp tục bồi bổ 10 pháp hạnh ba-la-mật từ thời kỳ Đức Phật Padumuttara cho đến thời kỳ Đức Phật Gotama thời gian suốt 100 ngàn đại kiếp trái đất, tử sinh luân hồi trải qua vô số kiếp, khi thì tái sinh làm thiên nữ cao quý trong cõi trời, khi thì tái sinh làm người trong cõi người. Có một kiếp, cô làm phước kính dâng đến Đức Phật Độc Giác vừa xả diệt thọ tưởng một đóa hoa sen hồng rất xinh đẹp, do nhờ quả báu cúng dường đóa hoa sen ấy, kiếp nào cô cũng là người rất xinh đẹp, có màu da hồng hào như màu cánh sen hồng.

Đến thời kỳ Đức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, kiếp áp chót của cô là một thiên nữ, chết từ cõi trời, thiện nghiệp cho quả tái sinh đầu thai làm con của gia đình phú hộ tại kinh thành Sāvatthi. Khi sinh ra đời, cô là một bé gái rất xinh đẹp, có màu da hồng hào như màu cánh sen hồng, nên cô được đặt tên là Uppalavaṇṇā. Khi đến tuổi trưởng thành, cô nổi tiếng là người xinh đẹp trong cõi Nam Thiện Bộ Châu, các công tử, phú hộ đều gởi người đến ông phú hộ xin cầu hôn với tiểu thư của ông, khiến ông phú hộ gặp phải điều khó xử, bởi vì không thể nào làm vừa lòng tất cả những người ấy được. Cho nên, ông chỉ còn có một cách là gọi đứa con gái đến dạy rằng:

- “Amma pabbajituṃ sakkhissasi?”.

(Này con yêu quý! Con có muốn xuất gia trở thành Tỳ khưu ni hay không?).

Vốn kiếp này là kiếp chót của cô, khi nghe phụ thân hỏi đến pabbajituṃ (xuất gia), cô vô cùng hoan hỷ thưa với phụ thân rằng:

- “Pabbajissāmi tātā”.

(Kính thưa phụ thân, con muốn xuất gia trở thành Tỳ khưu ni).

Ông phú hộ đưa cô đến ngôi chùa Tỳ khưu ni, xin cho cô xuất gia trở thành Tỳ khưu ni. Sau khi trở thành Tỳ khưu ni không lâu, một hôm, đốt đèn trong chánh điện, Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇa nhìn thấy ánh sáng đèn, liền dùng làm đề mục lửa để thực hành thiền định, chứng đắc các bậc thiền hữu sắc, dùng bậc thiền hữu sắc làm nền tảng đối tượng để thực hành thiền tuệ dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán cùng tứ Tuệ phân tích, đặc biệt chứng đắc Lục thông.

Về sau, Đức Phật tuyên dương Ngài Đại đức Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇa là bậc Thánh nữ Tối Thượng Thanh Văn xuất sắc nhất về thần thông trong hàng nữ Thanh Văn đệ tử của Đức Phật, đúng theo nguyện vọng của Ngài Đại đức Tỳ khưu ni, đã được Đức Phật Padumuttara thọ ký trong quá khứ.

Ngài Đại Đức Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇattherī bị hãm hiếp

Một thuở nọ, Ngài Đại đức Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇa ở trong cốc nhỏ trong rừng, Ngài đi vào kinh thành Sāvatthi để khất thực.

Khi ngài còn sống tại gia, tên Nanda, con của một người cô, say mê sắc đẹp của Ngài, y đã theo dõi biết Ngài đã xuất gia trở thành Tỳ khưu ni ở trong rừng, biết giờ Ngài đã đi khất thực, nên y lén vào cốc của Ngài trong rừng, nằm chờ ở dưới giường. Khi khất thực độ xong, Ngài trở về cốc trong rừng, vừa ngồi lên giường, tên Nanda bò ra từ dưới giường, dùng sức mạnh cưỡng hiếp Ngài, Ngài đã ngăn cấm rằng:

- Này tên si mê ngu muội (bāla) chớ nên làm điều tội lỗi!

- Này tên si mê ngu muội chớ nên làm điều tội lỗi!

Mặc dù Ngài ngăn cấm, tên Nanda vì quá si mê, không còn biết ghê sợ tội lỗi, nên đã dùng sức mạnh hãm hiếp Ngài theo dục vọng của y. Cho nên, sau khi thỏa mãn, y đã tạo ác nghiệp trọng tội, mặt đất nứt nẻ ra, ngọn lửa phun lên hút y vào trong lòng đất. Sau khi chết, ác nghiệp trọng tội cho quả tái sinh trong cõi đại địa ngục Avīci ngay trong ngày hôm ấy, chịu quả khổ thiêu đốt trong cõi địa ngục ấy suốt thời gian lâu dài.

Đó là những trường hợp bất thiện nghiệp (ác nghiệp) cho quả ngay trong kiếp hiện tại trong khoảng 7 ngày.

2. Upapajjavedanīyakamma: Nghiệp cho quả kiếp kế tiếp

Thế nào gọi là nghiệp cho quả kiếp kế tiếp (kiếp thứ 2)?

Upapajjavedanīyaṃ phalaṃ etassāti: Upapajjavedanīyaṃ

Nghiệp nào cho quả kiếp kế tiếp liền sau khi chấm dứt kiếp hiện tại (kiếp thứ nhất), nghiệp ấy gọi là nghiệp cho quả kiếp kế tiếp (kiếp thứ 2), đó là tác ý tâm sở đồng sinh với 12 bất thiện tâm hoặc 8 dục giới đại thiện tâm làm phận sự dục giới tác hành tâm (kāmajavanacitta), sát-na tâm thứ 7 (cuối cùng) trong mỗi lộ trình tâm.

* Nghiệp cho quả kiếp kế tiếp có 2 loại:

Bất thiện nghiệp (ác nghiệp) cho quả kiếp kế tiếp.

Thiện nghiệp cho quả kiếp kế tiếp.

- Nghiệp được tạo bằng thân có 2 loại:

Thân ác nghiệp.

Thân thiện nghiệp.

- Nghiệp được tạo bằng khẩu có 2 loại:

Khẩu ác nghiệp.

Khẩu thiện nghiệp.

- Nghiệp được tạo bằng ý có 2 loại:

Ý ác nghiệp.

Ý thiện nghiệp.

Thiện nghiệp nào hoặc bất thiện nghiệp (ác nghiệp) nào cũng chỉ được thành tựu trong mỗi lộ trình tâm, trong phần 7 sát-na dục giới tác hành tâm (kāmajavanacitta) cùng một loại tâm sinh rồi diệt liên tục mà thôi. Trong 7 sát-na tác hành tâm cùng một loại sinh rồi diệt liên tục, mà tác ý tâm sở (cetanācetasika) đồng sinh trong mỗi sát-na tác hành tâm làm phận sự tạo nghiệp như sau:

- Tác ý tâm sở đồng sinh trong sát-na dục giới tác hành tâm thứ nhất, làm phận sự tạo nghiệp cho quả ngay kiếp hiện tại (kiếp thứ nhất).

- Tác ý tâm sở đồng sinh trong sát-na dục giới tác hành tâm thứ 7, làm phận sự tạo nghiệp cho quả kiếp kế tiếp (kiếp thứ 2).

- Tác ý tâm sở đồng sinh trong 5 sát-na dục giới tác hành tâm, từ tác hành tâm thứ 2 đến tác hành tâm thứ 6, làm phận sự tạo nghiệp cho quả những kiếp sau từ kiếp thứ 3 cho đến kiếp chót của bậc Thánh Arahán trước khi tịch diệt Niết Bàn, nếu có cơ hội cho quả của nó.

Thật ra, trong 7 sát-na dục giới tác hành tâm của mỗi lộ trình tâm, thì sát-na tác hành tâm thứ 7 đóng vai trò chính yếu trong mọi hành động, lời nói, ý nghĩ để tạo thân ác nghiệp hoặc thân thiện nghiệp; khẩu ác nghiệp hoặc khẩu thiện nghiệp; ý ác nghiệp hoặc ý thiện nghiệp. Cho nên, sát-na tác hành tâm thứ 7 này có nhiều năng lực hơn 6 sát-na tác hành tâm ở trước nó, bởi vì, nó tiếp nhận được đầy đủ sự hỗ trợ năng lực từ 6 sát-na tác hành tâm sinh rồi diệt theo tuần tự. Do đó, tác ý tâm sở đồng sinh với sát-na tác hành tâm thứ 7 này tạo nên nghiệp cho quả kiếp kế tiếp liền sau chấm dứt kiếp hiện tại, không có khoảng cách thời gian gián đoạn; nghĩa là trong cận tử lộ trình tâm (maraṇāsan-navīthicitta) các sát-na tâm sinh rồi diệt theo tuần tự đến sát-na tâm tử (cuticitta), quả tâm làm phận sự chết (chấm dứt kiếp hiện tại) liền tiếp theo 1 sát-na quả tâm khác sinh, làm phận sự tái sinh kiếp sau, bắt đầu 1 kiếp mới. Quả tâm tái sinh (paṭisandhicitta) này hoàn toàn khác với quả tâm tử trong kiếp trước.

* Nghiệp nào chắc chắn cho quả tái sinh kiếp kế tiếp?

Trong tất cả các bất thiện nghiệp (ác nghiệp), thì chỉ có ác nghiệp trọng tội (akusala garukakamma) là ác nghiệp chắc chắn cho quả tái sinh kiếp kế tiếp (kiếp thứ 2).

- Ác nghiệp trọng tội, có 2 loại đó là ác nghiệp tà kiến cố định và ác nghiệp vô gián.

- Ác nghiệp tà kiến cố định hoàn toàn không tin nghiệp và quả của nghiệp, có tà kiến chấp thủ vững chắc, không chịu từ bỏ cho đến lúc lâm chung. Sau khi chết, chắc chắn ác nghiệp tà kiến cố định có quyền ưu tiên, có cơ hội ưu tiên cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp kế tiếp trong cõi đại địa ngục Avīci, chịu quả khổ thiêu đốt trong đại địa ngục này suốt thời gian lâu dài không hạn định.

- Ác nghiệp vô giángiết cha, giết mẹ, giết bậc Thánh Arahán, làm bầm máu bàn chân của Đức Phật, chia rẽ chư Tỳ khưu Tăng. Ác nghiệp vô gián này cho quả không có thời gian gián đoạn nghĩa là sau khi chết, chắc chắn ác nghiệp vô gián này cho quả tái sinh trong cõi địa ngục Avīci, chịu quả khổ thiêu đốt trong đại địa ngục này suốt thời gian lâu dài.

Nếu không có ác nghiệp tà kiến cố định, mà có ác nghiệp vô gián, thì sau khi chết, chắc chắn ác nghiệp vô gián có quyền ưu tiên, có cơ hội ưu tiên cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp kế tiếp trong cõi đại địa ngục Avīci, chịu quả khổ thiêu đốt trong đại địa ngục này cho đến khi mãn quả của ác nghiệp vô gián ấy, mới thoát ra khỏi cõi đại địa ngục Avīci này.

Hai loại ác nghiệp trọng tội này chính là ác nghiệp upapajjavedanīyakamma: Ác nghiệp cho quả kiếp kế tiếp (liền sau khi kiếp hiện tại vừa chấm dứt (chết)).

Ngoài 2 loại ác nghiệp trọng tội này ra, còn lại đối với các ác nghiệp khác; sau khi chết, nếu ác nghiệp nào có cơ hội, thì ác nghiệp ấy cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp kế tiếp trong cõi ác giới: Cõi địa ngục hoặc cõi atula hoặc cõi ngạ quỷ hoặc cõi súc sinh, tùy theo năng lực quả của ác nghiệp ấy.

Trong tất cả mọi dục giới đại thiện nghiệp, sau khi chết, không có dục giới đại thiện nghiệp nào gọi là dục giới đại thiện nghiệp chắc chắn cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp kế tiếp (liền sau khi kiếp hiện tại chấm dứt (chết)). Cho nên, dục giới đại thiện nghiệp nào có cơ hội ưu tiên, thì dục giới đại thiện nghiệp ấy cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp kế tiếp (liền sau khi kiếp hiện tại chấm dứt (chết)) trong cõi thiện dục giới như cõi người hoặc cõi trời dục giới. Đó chính là thiện nghiệp upapajjavedanīyakamma: Thiện nghiệp cho quả kiếp kế tiếp (liền sau khi kiếp hiện tại vừa chấm dứt (chết)).

Tóm lại: Nghiệp upapajjavedanīkamma (nghiệp cho quả kiếp kế tiếp), có 2 thời kỳ:

- Nghiệp cho quả kiếp kế tiếp, trong thời kỳ tái sinh kiếp kế tiếp (kiếp thứ nhì).

- Nghiệp cho quả kiếp kế tiếp, trong thời kỳ sau khi đã tái sinh, kiếp hiện hữu (kiếp thứ nhì).

* Nghiệp cho quả kiếp kế tiếp có 2 loại:

- Ác nghiệp cho quả kiếp kế tiếp.

Dục giới đại thiện nghiệp cho quả kiếp kế tiếp.

Nếu ác nghiệp nào có cơ hội cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp kế tiếp, thì ác nghiệp ấy cho quả tái sinh kiếp kế tiếp trong cõi ác giới: Cõi địa ngục, hoặc cõi atula, hoặc cõi ngạ quỷ, hoặc cõi súc sinh, phải chịu quả khổ trong cõi ác giới ấy. Còn lại các ác nghiệp khác không có cơ hội cho quả trong thời kỳ tái sinh, thì các ác nghiệp này trở thành nghiệp hỗ trợ cho quả trong thời kỳ sau khi đã tái sinh, kiếp hiện hữu, giúp cho quả của ác nghiệp ấy (kiếp hiện hữu) càng thêm khổ nhiều.

Nếu dục giới đại thiện nghiệp nào có cơ hội cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp kế tiếp, thì dục giới đại thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh kiếp kế tiếp trong cõi thiện giới: Cõi người, hoặc cõi trời dục giới, được hưởng mọi sự an lạc trong cõi thiện giới ấy. Còn lại các thiện nghiệp khác không có cơ hội cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp sau, thì các thiện nghiệp này trở thành nghiệp hỗ trợ cho quả trong thời kỳ sau khi đã tái sinh, kiếp hiện hữu, giúp cho quả của thiện nghiệp ấy (kiếp hiện hữu) càng thêm an lạc.

Tất cả mọi ác nghiệp, mọi dục giới đại thiện nghiệp thuộc nghiệp upapajjavedanīkamma: Nghiệp cho quả kiếp kế tiếp nếu không có cơ hội cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp kế tiếp, và cũng không có cơ hội cho quả trong thời kỳ sau khi đã tái sinh, kiếp hiện hữu, thì tất cả mọi nghiệp cho quả kiếp kế tiếp upapajjavedanīkamma trở thành nghiệp vô hiệu quả (ahosikamma), không còn có cơ hội nào cho quả của chúng được nữa. Bởi vì, tất cả mọi nghiệp ấy chỉ có cơ hội cho quả trong kiếp kế tiếp (kiếp thứ 2) mà thôi, không thể cho quả từ kiếp thứ 3 và những kiếp vị lai nữa.

Nghiệp theo thời gian cho quả được phân định căn cứ theo 7 sát-na dục giới tác hành tâm trong mỗi lộ trình tâm:

Tâm sở tác ý trong tác hành tâm thứ nhất gọi là diṭṭha-dhammavedanīyakamma nghiệp chỉ cho quả ngay trong kiếp hiện tại (kiếp thứ nhất) mà thôi.

Tâm sở tác ý trong tác hành tâm thứ 7 gọi là upapajja-vedanīkamma nghiệp chỉ cho quả kiếp kế tiếp kiếp thứ nhì mà thôi.

Do đó, diṭṭhadhammavedanīyakamma upapajjavedanī-kamma này, gọi là nghiệp cho quả theo thời gian.

3. . Aparāpariyavedanīyakamma: Nghiệp cho quả từ kiếp thứ 3 cho đến kiếp chót của bậc Thánh Arahán trước khi tịch diệt Niết Bàn

Thế nào gọi là nghiệp cho quả từ kiếp thứ 3 cho đến kiếp chót của bậc Thánh Arahán trước khi tịch diệt Niết Bàn?

Aparāpariyāyavedanīyaṃ phalaṃ etassāti: Aparāpari-yāyavedanīyaṃ

Nghiệp nào cho quả trong mọi kiếp kể từ kiếp thứ 3 cho đến kiếp chót của bậc Thánh Arahán trước khi tịch diệt Niết Bàn, nghiệp ấy gọi là nghiệp cho quả kể từ kiếp thứ 3 cho đến kiếp chót của bậc Thánh Arahán trước khi tịch diệt Niết Bàn, đó là tác ý tâm sở đồng sinh với bất thiện tâm hoặc 8 dục giới đại thiện tâm làm phận sự 5 dục giới tác hành tâm (kāmajavanacitta) từ sát-na tâm thứ 2 cho đến sát-na tâm thứ 6 trong mỗi lộ trình tâm.

* Nghiệp cho quả từ kiếp thứ 3 cho đến kiếp chót của bậc Thánh Arahán trước khi tịch diệt Niết Bàn có 2 loại:

3.1 Bất thiện nghiệp (ác nghiệp) cho quả từ kiếp thứ 3 cho đến kiếp chót của bậc Thánh Arahán trước khi tịch diệt Niết Bàn.

3.2 Thiện nghiệp cho quả từ kiếp thứ 3 cho đến kiếp chót của bậc Thánh Arahán trước khi tịch diệt Niết Bàn.

Bất thiện nghiệp (ác nghiệp) hoặc dục giới đại thiện nghiệp được tạo bằng thân, bằng khẩu, bằng ý trong mỗi lộ trình tâm trong phần 7 sát-na dục giới tác hành tâm (kāma-javanacitta) cùng một loại tâm sinh rồi diệt liên tục, mà bất thiện nghiệp (ác nghiệp) hoặc thiện nghiệp thuộc về nghiệp aparāpariyavedanīyakamma (nghiệp cho quả kể từ kiếp thứ 3 cho đến kiếp chót của bậc Thánh Arahán trước khi tịch diệt Niết Bàn), đó là tác ý tâm sở đồng sinh với 5 sát-na dục giới tác hành tâm (kāmajavanacitta) kể từ sát-na tâm thứ 2 cho đến sát-na tâm thứ 6 trong mỗi lộ trình tâm.

Aparāpariyavedanīyakamma: Nghiệp cho quả kể từ kiếp thứ 3 cho đến kiếp chót của bậc Thánh Arahán trước khi tịch diệt Niết Bàn.

- Nếu nghiệp này có cơ hội cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp sau (paṭisandhikāla), thì chỉ được tái sinh kiếp sau một kiếp duy nhất mà thôi, còn cho quả trong thời kỳ sau khi đã tái sinh kiếp hiện hữu (pavattikāla), thì không có giới hạn, nghĩa là có thể cho quả nhiều đời, nhiều kiếp, nếu có cơ hội cho quả.

- Nếu chúng sinh còn tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài, thì nghiệp aparāpariyavedanīyakamma này không thể trở thành nghiệp vô hiệu quả (ahosikamma).

* Vậy trường hợp nào thì nghiệp aparāpariyavedanīya-kamma trở thành nghiệp vô hiệu quả?

Trong trường hợp đặc biệt, khi nào bậc Thánh Arahán tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sinh luân hồi trong tam giới. Khi ấy, không những nghiệp aparāpariyavedanīyakamma trở thành nghiệp vô hiệu quả (ahosikamma), mà còn tất cả mọi ác nghiệp, mọi thiện nghiệp đã tích lũy từ vô thủy, vô lượng kiếp trong quá khứ cho đến trước khi trở thành bậc Thánh Arahán, tất cả mọi nghiệp ấy cũng đều trở thành nghiệp vô hiệu quả (ahosikamma), tuyệt nhiên không còn có cơ hội cho quả của chúng được nữa.

Thực ra, khi đã trở thành bậc Thánh Arahán xong rồi, thì tác ý tâm sở đồng sinh với duy tác tâm (kiriyācitta) trong mọi lộ trình tâm, rồi hành động bằng thân, nói bằng khẩu, nghĩ bằng ý hoàn toàn không tạo nghiệp (không tạo bất thiện nghiệp (ác nghiệp), thiện nghiệp nào cả). Như vậy, bậc Thánh Arahán không tạo nghiệp mới nào cả. Song tất cả mọi nghiệp cũ (gồm có mọi bất thiện nghiệp (ác nghiệp), mọi thiện nghiệp) đã tích lũy từ vô thủy trải qua vô lượng kiếp trong quá khứ cho đến khi trở thành bậc Thánh Arahán, tất cả mọi nghiệp ấy, nếu nghiệp nào có cơ hội cho quả của nó trong kiếp hiện hữu cho đến trước khi tịch diệt Niết Bàn, thì nghiệp ấy vẫn có thể cho quả của nó. Nhưng sau khi bậc Thánh Arahán đã tịch diệt Niết Bàn rồi, thì tất cả mọi loại nghiệp, cả nghiệp aparāpariyavedanīyakamma, cũng đều trở thành nghiệp vô hiệu quả (ahosikamma) vĩnh viễn không còn có cơ hội cho quả của chúng được nữa, bởi vì sau khi bậc Thánh Arahán tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

3 Loại Nghiệp Được Thành Tựu và Vô Hiệu Quả

Trong cõi dục giới nếu mỗi lộ trình tâm có đầy đủ 7 sát-na dục giới tác hành tâm (kāmajavanacitta) sinh rồi diệt liên tục qua mỗi lộ trình tâm, thì 3 loại nghiệp được thành tựu cùng trong một lộ trình tâm ấy là:

1. Diṭṭhadhammavedanīyakamma: Nghiệp cho quả ngay trong kiếp hiện tại (kể kiếp thứ nhất).

2. Upapajjavedanīyakamma: Nghiệp cho quả tái sinh kiếp kế tiếp liền sau khi chấm dứt kiếp hiện tại (chết) (kể kiếp thứ nhì).

3. Aparāpariyavedanīyakamma: Nghiệp cho quả kiếp sau kể từ kiếp thứ 3 cho đến kiếp chót của bậc Thánh Arahán trước khi tịch diệt Niết Bàn.

Trong mỗi lộ trình tâm cõi dục giới, các loại tâm theo tuần tự sinh rồi diệt liên tục nhiều nhất qua 17 sát-na tâm, theo thời gian tuổi thọ của đối tượng dục giới, qua ngũ môn lộ trình tâm.

* Ngũ môn lộ trình tâm

Ví dụ: Nhãn môn lộ trình tâm tiếp nhận sắc trần rõ ràng làm đối tượng, thì nhãn môn lộ trình tâm, có các loại tâm theo tuần tự sinh rồi diệt liên tục qua 17 sát-na tâm theo thời gian tuổi thọ của sắc trần ấy.

Đồ Biểu Nhãn Môn Lộ Trình Tâm

Bhavaṅgacitta: Hộ kiếp tâm có đối tượng cũ (viết tắt bha).

1. Atītabhavaṅgacitta: Hộ kiếp tâm có sắc trần mới hiện tại (viết tắt atī).

2. Bhavaṅgacalanacitta: Hộ kiếp tâm rung động do sắc trần mới (viết tắt na).

3. Bhavaṅgapacchedacitta: Hộ kiếp tâm bị ngưng do sắc trần mới (viết tắt da).

4. Pañcadvāravajjanacitta: Ngũ môn hướng tâm có khả năng tiếp nhận 5 đối tượng sắc, thanh, hương, vị, xúc (viết tắt pañ).

5. Cakkhuviññāṇacitta: Nhãn thức tâm làm phận sự nhìn thấy sắc trần (viết tắt cak).

6. Sampaṭichanacitta: Tiếp nhận tâm làm phận sự tiếp nhận đối tượng sắc trần (viết tắt sam).

7. Santīraṇacitta: Suy xét tâm làm phận sự suy xét đối tượng tốt hoặc xấu (viết tắt san).

8. Voṭṭhabbanacitta: Xác định tâm đó là ý môn hướng tâm làm phận sự xác định đối tượng sắc trần (viết tắt voṭ) .

9-15 Javanacitta: Tác hành tâm làm phận sự tạo thiện nghiệp hoặc bất thiện nghiệp (ác nghiệp) hoặc tâm duy tác không phải thiện nghiệp cũng không phải bất thiện nghiệp (ác nghiệp) (tâm của bậc Thánh Arahán) (viết tắt ja).

16-17 Tadālambanacitta: Tiếp đối tượng tâm làm phận sự tiếp đối tượng sắc trần, còn lại 2 sát-na tâm nữa là hết tuổi thọ của sắc trần, đồng thời chấm dứt nhãn môn lộ trình tâm (viết tắt ta).

Bhavaṅgacitta: Hộ kiếp tâm trở lại tiếp nhận đối tượng cũ (viết tắt bha).

Đó là nhãn môn lộ trình tâm, tương tự như vậy nhĩ môn lộ trình tâm, tỷ môn lộ trình tâm, thiệt môn lộ trình tâm, thân môn lộ trình tâm, mỗi lộ trình tâm chỉ khác mỗi thức tâm làm phận sự tiếp xúc biết đối tượng như:

Nhĩ thức tâm làm phận sự nghe thanh trần.

Tỷ thức tâm làm phận sự ngửi hương trần.

Thiệt thức tâm làm phận sự nếm vị trần.

Thân thức tâm làm phận sự xúc giác xúc trần.

* Ý môn lộ trình tâm

Ý môn lộ trình tâm có nhiều loại, ví dụ ý môn lộ trình tâmdục giới tác hành tâm .

Ý môn lộ trình tâmdục giới tác hành tâm sinh rồi diệt liên tục theo tuần tự như sau:

Những chữ viết tắt giống như ngũ môn lộ trình tâm, chỉ còn manodvāravajjanacitta: Ý môn hướng tâm tiếp nhận 1 trong 6 đối tượng sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp trần (viết tắt ma).

Ý môn lộ trình tâm có dục giới tác hành tâm sinh rồi diệt liên tục theo tuần tự qua mỗi ý môn lộ trình tâm có nhiều nhất 12 sát-na tâm.

Trong Chú giải giải thích rằng:

Chỉ một lần búng đầu ngón tay, các tâm sinh rồi diệt liên tục 1.000 tỷ lần”.

Cho nên, mỗi khi nhìn thấy sắc trần hình dáng hoặc nghe thanh trần âm thanh v.v... hoặc mỗi khi hành động bằng thân, nói bằng khẩu, nghĩ bằng ý v.v... có vô số lộ trình tâm sinh rồi diệt tiếp diễn từ lộ trình tâm này đến lộ trình tâm khác suốt ngày đêm từ những kiếp quá khứ đến kiếp hiện tại. Cứ qua mỗi lộ trình tâm là đã tạo 3 loại nghiệp theo thời gian cho quả rồi.

* Có khoảng thời gian nào không tạo nghiệp hay không?

Thời gian không tạo thiện nghiệp, không tạo bất thiện nghiệp (ác nghiệp) bằng thân, hoặc bằng khẩu, hoặc bằng ý thì chỉ có thời gian lúc ngủ say không mộng mị, chiêm bao... mà thôi. Khi ngủ say chỉ có hộ kiếp tâm (bhavaṅgacitta) sinh rồi diệt liên tục suốt thời gian ngủ say, khi ấy không có lộ trình tâm nào phát sinh, do đó không tạo thiện nghiệp, cũng không tạo bất thiện nghiệp (ác nghiệp). Nhưng khi nằm mộng, chiêm bao..., khi ấy có mộng lộ trình tâm (supinavīthicitta) phát sinh, nên có thể có thiện nghiệp hoặc bất thiện nghiệp (ác nghiệp).

- Thiện nghiệp trong mộng như:

Trường hợp bà chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī nằm mộng thấy con bạch tượng cao thượng chui vào người bà vào canh chót đêm rằm tháng 6 âm lịch. Đó là lúc Đức Bồ Tát Siddhattha kiếp chót tái sinh đầu thai vào lòng Phật mẫu.

Trường hợp Đức Bồ Tát Siddhattha nằm thấy 5 đại mộng vào canh chót đêm 14 tháng 4 âm lịch. Đức Bồ Tát tiên đoán, chắc chắn Ngài sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác.

Trường hợp nằm mộng thấy bay trên hư không từ ngọn núi này sang ngọn núi khác v.v... khi tỉnh dậy cảm thấy an lạc.

- Ác nghiệp trong mộng như:

Nằm thấy cảnh rùng rợn, cảnh thú dữ đuổi, cảnh bị rơi xuống hố sâu v.v... khi tỉnh dậy cảm thấy hồi hộp, bàng hoàng, sợ sệt v.v...

Thật ra, thiện nghiệp, bất thiện nghiệp (ác nghiệp) trong mộng, chiêm bao không có năng lực cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp sau.

Hai thời kỳ của một kiếp chúng sinh:

Paṭisandhikāla - Pavattikāla

1. Paṭisandhikāla: Thời kỳ tái sinh là thời kỳ bắt đầu một kiếp mới của mỗi chúng sinh nói chung, con người nói riêng.

2. Pavattikāla: Thời kỳ sau khi đã tái sinh, kiếp hiện hữu là khoảng thời gian sau khi đã tái sinh và tiếp diễn suốt một kiếp cho đến khi chết, chấm dứt một kiếp chúng sinh nói chung hoặc một kiếp người nói riêng.

* Một kiếp người phải trải qua 2 thời kỳ ấy như thế nào?

Được sinh làm kiếp ngườiquả của dục giới đại thiện nghiệp mà dục giới đại thiện nghiệp đó là tác ý tâm sở đồng sinh với 8 dục giới đại thiện tâm.

Một kiếp người phải trải qua 2 thời kỳ: Paṭisandhikālapavattikāla

1. Paṭisandhikāla: Thời kỳ bắt đầu tái sinh đầu thai làm người

Trong thời kỳ tái sinh làm người thì 8 dục giới đại thiện tâm có khả năng cho 9 quả tâm: 8 dục giới đại quả tâm suy xét tâm hợp với thọ xả thuộc thiện quả vô nhân tâm. 9 quả tâm này có khả năng làm phận sự tái sinh kiếp sau (paṭi-sandhikicca) làm người hoặc làm chư thiên trong 6 cõi trời dục giới.

9 quả tâm này làm phận sự bắt đầu tái sinh đầu thai làm người, có 3 hạng người như sau:

- 4 dục giới quả tâm hợp với trí tuệ làm phận sự bắt đầu tái sinh đầu thai làm người có tam nhân (tihetukapuggala): Vô tham, vô sân vô si (trí tuệ) từ khi tái sinh.

- 4 dục giới quả tâm không hợp với trí tuệ làm phận sự bắt đầu tái sinh đầu thai làm người có nhị nhân (dvihetuka-puggala): Vô tham vô sân, không có vô si từ khi tái sinh.

- 1 suy xét tâm hợp với thọ xả thuộc thiện quả vô nhân tâm làm phận sự bắt đầu tái sinh đầu thai làm người vô nhân (ahetukapuggala) không có nhân nào trong 3 thiện nhân (Vô tham, vô sân vô si), người này sẽ là người đui mù, câm điếc, tật nguyền, đần độn, ngu muội, dốt nát... từ khi tái sinh.

Trong thời kỳ tái sinh đầu thai làm người, dục giới quả tâm làm phận sự tái sinh đồng sinh với 3 sắc pháp là sắc thân (kāyarūpa), sắc nam tính hoặc sắc nữ tính (bhavarūpa), sắc ý căn (hadayavatthu) cùng một lúc. Cho nên, khi tái sinh đầu thai làm người trong lòng mẹ lần đầu tiên, thai nhi đã được xác định là nam tính hoặc nữ tính (con trai hoặc con gái).

2. Pavattikāla: Thời kỳ sau khi đã tái sinh làm người.

Trong thời kỳ sau khi đã tái sinh đầu thai làm người, 8 dục giới đại thiện tâm này có khả năng cho 16 quả tâm: 8 dục giới đại quả tâm 8 thiện quả vô nhân tâm.

Trong 16 quả tâm này, có 1 trong 9 quả tâm đã làm phận sự tái sinh (paṭisandhikicca) bắt đầu đầu thai làm người, trong thời kỳ tái sinh chỉ 1 sát-na quả tâm, rồi trong thời kỳ sau khi đã tái sinh đầu thai làm người, 1 trong 9 quả tâm này liền tiếp tục làm phận sự hộ kiếp (bhavaṅgakicca) suốt kiếp người cho đến tận cùng của kiếp người; rồi cuối cùng cũng 1 trong 9 quả tâm này làm phận sự tử (chết) (cutikicca) chấm dứt một kiếp người.

8 thiện quả vô nhân tâm phát sinh trong kiếp hiện tại:

1. Nhãn thức tâm, thuộc thiện quả vô nhân tâm nhìn thấy sắc trần những hình dáng đáng hài lòng.

2. Nhĩ thức tâm, thuộc thiện quả vô nhân tâm nghe thanh trần những âm thanh đáng hài lòng.

3. Tỷ thức tâm, thuộc thiện quả vô nhân tâm ngửi hương trần các mùi thơm đáng hài lòng.

4. Thiệt thức tâm, thuộc thiện quả vô nhân tâm nếm vị trần các vị ngon đáng hài lòng.

5. Thân thức tâm, thuộc thiện quả vô nhân tâm xúc giác xúc trần tốt đáng hài lòng.

6. Tiếp nhận tâm, thuộc thiện quả vô nhân tâm tiếp nhận 5 đối tượng: Sắc trần, thanh trần, hương trần, vị trần, xúc trần tốt đáng hài lòng.

7. Suy xét tâm hợp với thọ hỷ, thuộc thiện quả vô nhân tâm suy xét 5 đối tượng: Sắc trần, thanh trần, hương trần, vị trần, xúc trần tốt đáng hài lòng.

8. Suy xét tâm hợp với thọ xả, thuộc thiện quả vô nhân tâm suy xét 5 đối tượng: Sắc trần, thanh trần, hương trần, vị trần, xúc trần tốt đáng hài lòng

Mỗi quả tâm trong 8 thiện quả vô nhân tâm này, phát sinh do hội đủ nhân duyên của nó. 8 thiện quả vô nhân tâm này có thể phát sinh trong 11 cõi dục giới và một số cõi sắc giới, không có cõi sắc giới Vô Tưởng Thiên.

* Tóm lược, nghiệp và quả của nghiệp của 2 loại nghiệp: Nghiệp upapajjavedanīyakamma nghiệp aparāpariya-vedanīyakamma

* Bất thiện nghiệp và quả của bất thiện nghiệp

Một người đã tạo bất thiện nghiệp (ác nghiệp) nặng, chắc chắn phải trải qua vô số lộ trình tâm phát sinh đầy đủ sinh rồi diệt liên tục trải qua 7 sát-na dục giới tác hành tâm (kāmajavanacitta) tạo bất thiện nghiệp (ác nghiệp) ấy, cho nên bất thiện nghiệp (ác nghiệp) ấy cũng có vô số. Sau khi người ấy chết, nếu bất thiện nghiệp (ác nghiệp) ấy có cơ hội cho quả, thì cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp kế tiếp (kiếp thứ 2) trong cõi địa ngục, do bởi ác nghiệp nặng upapajja-vedanīyakamma. Đến khi mãn quả của bất thiện nghiệp (ác nghiệp) ấy, được thoát ra khỏi cõi địa ngục ấy, rồi lại tái sinh trong cõi địa ngục khác hoặc tái sinh làm loài ngạ quỷ, hoặc tái sinh làm loài súc sinh,... do bởi ác nghiệp aparāpariya-vedanīyakamma. Ác nghiệp aparāpariyavedanīyakamma này có khả năng cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp sau kể từ kiếp thứ 3 và cho quả trong thời kỳ sau khi đã tái sinh, kiếp hiện hữu nhiều đời, nhiều kiếp, nếu ác nghiệp ấy có cơ hội cho quả của nó.

- Trong Chú giải ví dụ trường hợp:

Một người đã tạo ác nghiệp sát sinh giết một con heo để ăn thịt. Sau khi người ấy chết, ác nghiệp sát sinh giết heo ấy cho quả tái sinh kiếp sau trong cõi địa ngục (do bởi ác nghiệp upapajjavedanīyakamma). Đến khi mãn quả của ác nghiệp ấy, được thoát ra khỏi cõi địa ngục. Khi thì bất thiện nghiệp (ác nghiệp) ấy cho quả tái sinh kiếp sau làm loài súc sinh; khi thì thiện nghiệp cho quả tái sinh kiếp sau làm người... kiếp nào cũng bị giết chết như vậy, số kiếp bị giết bằng số lông của con heo mà người ấy đã giết trong kiếp quá khứ. Do năng lực quả của ác nghiệp sát sinh giết heo, đó là ác nghiệp aparāpariyavedanīyakamma cho quả trong thời kỳ sau khi đã tái sinh, kiếp hiện hữu (pavattikāla), nếu ác nghiệp ấy có cơ hội cho quả của nó.

* Thiện nghiệp và quả của thiện nghiệp

Một người đã từng tạo thiện nghiệp bố thí, giữ giới trong sạch... chắc chắn trải qua vô số lộ trình tâm phát sinh đầy đủ sinh rồi diệt liên tục qua 7 sát-na dục giới tác hành tâm (kāmajavanacitta) tạo thiện nghiệp ấy, cho nên thiện nghiệp ấy cũng có vô số. Sau khi người ấy chết, thiện nghiệp ấy có cơ hội cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp kế tiếp (kiếp thứ 2) trong cõi trời dục giới, do bởi thiện nghiệp upapajja-vedanīyakamma. Đến khi mãn quả của thiện nghiệp ấy, rồi lại tái sinh kiếp sau trong cõi trời dục giới cao hơn, hoặc thấp hơn, hoặc tái sinh kiếp sau trở lại làm người trong gia đình phú hộ... (do bởi thiện nghiệp aparāpariyavedanīyakamma). Thiện nghiệp aparāpariyavedanīyakamma này có khả năng cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp sau kể từ kiếp thứ 3 và cho quả trong thời kỳ sau khi đã tái sinh, kiếp hiện hữu (pavattikāla) nhiều đời, nhiều kiếp, nếu thiện nghiệp ấy có cơ hội cho quả của nó.

- Trong Chú giải ví dụ trường hợp:

Một người đã tạo thiện nghiệp bố thí cúng dường đến chư Tỳ khưu Tăng một lần. Sau khi người ấy chết, thiện nghiệp ấy có cơ hội cho quả tái sinh kiếp sau trong cõi trời dục giới (do bởi thiện nghiệp upapajjavedanīya kamma). Đến khi mãn quả của thiện nghiệp ấy rồi, khi thì thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh kiếp sau làm người; khi thì cũng thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh kiếp sau làm chư thiên trong cõi trời dục giới. Trong vòng tử sinh luân hồi, dù tái sinh làm chư thiên hoặc làm người, kiếp nào cũng là người cao quý. Đó là do năng lực quả của thiện nghiệp aparāpariyavedanīyakamma ấy có cơ hội cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp sau kể từ kiếp thứ 3 và cho quả trong thời kỳ sau khi đã tái sinh, kiếp hiện hữu, nếu thiện nghiệp ấy có cơ hội cho quả của nó.

Đến kiếp chót, được tái sinh làm người gặp thời kỳ Đức Phật xuất hiện trên thế gian, hoặc thời kỳ Phật giáo hiện đang tồn tại trên thế gian, người ấy phát sinh đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, xin phép xuất gia trở thành Tỳ khưu. Vị Tỳ khưu ấy thực hành pháp hành thiền tuệ dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn trở thành bậc Thánh Arahán. Khi bậc Thánh Arahán tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sinh luân hồi trong tam giới, thì đồng thời tất cả mọi thiện nghiệp, tất cả mọi bất thiện nghiệp (ác nghiệp) đã được tích lũy từ vô số kiếp trong quá khứ cho đến kiếp hiện tại trước khi trở thành bậc Thánh Arahán đều trở thành nghiệp vô hiệu quả (ahosikamma).

4. Ahosikamma: Nghiệp vô hiệu quả

Thế nào gọi là nghiệp vô hiệu quả?

“Ahosi ca taṃ kammañcāti: Ahosi kammaṃ”.

(Nghiệp nào đã tạo xong mà không có quả của nghiệp, nghiệp ấy gọi là nghiệp vô hiệu quả).

Ahosi kammaṃ nāhosi kammavipāko.

Ahosi kammaṃ natthi kammavipāko.

Ahosi kammaṃ na bhavissati kammavipāko”.

Nghĩa:

Nghiệp đã tạo, nhưng đã không có quả của nghiệp (quá khứ)

Nghiệp đã tạo, nhưng đang không có quả của nghiệp (hiện tại)

Nghiệp đã tạo, nhưng sẽ không có quả của nghiệp (tương lai)

Trong lộ trình tâm phát sinh đầy đủ trải qua 7 sát-na dục giới tác hành tâm (kāmajavanacitta) tạo nghiệp, nếu nghiệp nào không có cơ hội sinh quả thì nghiệp ấy gọi là nghiệp vô hiệu quả (ahosikamma).

Nghiệp vô hiệu quả có trong những trường hợp như sau:

- Tác ý tâm sở đồng sinh trong sát-na dục giới tác hành tâm thứ nhất gọi là nghiệp cho quả ngay trong kiếp hiện tại (kiếp thứ nhất), nếu nghiệp này không có cơ hội cho quả ngay trong kiếp hiện tại, thì nghiệp ấy trở thành nghiệp vô hiệu quả (ahosikamma).

- Tác ý tâm sở đồng sinh trong sát-na dục giới tác hành tâm thứ 7 gọi là nghiệp cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp kế tiếp (kiếp thứ 2), nếu nghiệp này không có cơ hội cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp kế tiếp, thì nghiệp ấy trở thành nghiệp vô hiệu quả (ahosikamma). Và nếu không có cơ hội cho quả trong thời kỳ sau khi đã tái sinh, kiếp hiện hữu, thì nghiệp ấy cũng trở thành nghiệp vô hiệu quả (ahosikamma).

- Tác ý tâm sở đồng sinh trong sát-na dục giới tác hành tâm thứ 2 cho đến sát-na dục giới tác hành tâm thứ 6 gọi là nghiệp cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp sau, kể từ kiếp thứ 3 cho đến kiếp chót của bậc Thánh Arahán trước khi tịch diệt Niết Bàn v.v…; nếu nghiệp này không có cơ hội cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp sau, kể từ kiếp thứ 3 v.v… trở về sau, thì nghiệp này trở thành nghiệp vô hiệu quả (ahosikamma). Và nếu không có cơ hội cho quả trong thời kỳ sau khi đã tái sinh, kiếp hiện hữu, thì nghiệp ấy cũng trở thành nghiệp vô hiệu quả (ahosikamma).

* Vậy tác ý tâm sở nào gọi là nghiệp ahosikamma: Nghiệp vô hiệu quả?

Khi nào tác ý tâm sở trong 7 tác hành tâm đã thành nghiệp nào rồi, mà không có cơ hội cho quả của nghiệp ấy. Khi ấy, tác ý tâm sở trong 7 tác hành tâm ấy trở thành nghiệp ahosikamma: Nghiệp vô hiệu quả.

Thật vậy, trong Chú giải Sammohavinodānī aṭṭhakathā, phần Ñāṇavibhaṅga giải thích rằng:

Diṭṭhidhammavedanīyādīsu pana bahūsu pi āyūhitesu ekaṃ diṭṭhadhamma vedanīyaṃ vipākaṃ deti, sesāni avipākāni..., ... Idaṃ sandhāya nāhosi kamma vipāko’ti vuttaṃ”.

Ý nghĩa:

Trong nhiều loại nghiệp đã tạo, đã tích lũy như nghiệp diṭṭhadhamma vedanīyakamma v.v...

* Trong tất cả mọi nghiệp diṭṭhadhamma vedanīyakamma, một nghiệp diṭṭhadhamma vedanīya kamma nào có cơ hội cho quả ngay trong kiếp hiện tại (kiếp thứ nhất); các nghiệp diṭṭha-dhammavedanīya kamma còn lại không có cơ hội cho quả của chúng, đều trở thành nghiệp vô hiệu quả (ahosikamma).

* Trong tất cả mọi nghiệp upapajjavedanīya kamma, một nghiệp upapajjavedanīyakamma nào có cơ hội cho quả ngay trong thời kỳ tái sinh kiếp kế tiếp (kiếp thứ 2); các nghiệp upapajjavedanīyakamma còn lại không có cơ hội cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp kế tiếp, và đều trở thành nghiệp vô hiệu quả (ahosikamma). Nhưng các nghiệp upapajja-vedanīyakamma còn lại có thể có cơ hội cho quả trong thời kỳ sau khi đã tái sinh, kiếp hiện hữu ấy (kiếp thứ 2). Nếu các nghiệp upapajjavedanīyakamma này không có cơ hội cho quả trong thời kỳ sau khi đã tái sinh, kiếp hiện hữu ấy, thì các nghiệp upapajjavedanīya kamma này mới trở thành nghiệp vô hiệu quả (ahosikamma).

- Nếu người nào đã tạo tất cả 5 ác nghiệp vô gián trọng tội, sau khi người ấy chết, thì chỉ có ác nghiệp vô gián trọng tội chia rẽ chư Tỳ khưu Tăng ác nghiệp nặng nhất có quyền ưu tiên, có cơ hội ưu tiên cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp kế tiếp (kiếp thứ 2) trong cõi đại địa ngục Avīci. 4 ác nghiệp vô gián trọng tội còn lại không có cơ hội cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp kế tiếp, nên 4 ác nghiệp vô gián trọng tội còn lại trở thành nghiệp vô hiệu quả (ahosi-kamma). Nhưng 4 ác nghiệp vô gián này lại trở thành ác nghiệp hỗ trợ trong thời kỳ sau khi đã tái sinh, kiếp hiện hữu ấy, cho nên, chúng sinh trong cõi đại địa ngục Avīci phải chịu quả khổ càng nặng thêm, khổ càng tăng thêm.

- Hành giả thực hành thiền định có khả năng chứng đắc 5 bậc thiền hữu sắc và 4 bậc thiền vô sắc. Sau khi chết, chắc chắn chỉ có bậc thiền vô sắc tột đỉnh đó là bậc thiền phi tưởng phi phi tưởng xứ thiền, thiện nghiệp vô sắc tột đỉnh có quyền ưu tiên, có cơ hội ưu tiên cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp kế tiếp (kiếp thứ 2) trong cõi Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Thiên, có tuổi thọ lâu nhất là 84.000 đại kiếp trái đất. 3 bậc thiền vô sắc5 bậc thiền hữu sắc còn lại không còn có cơ hội cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp sau và cũng không còn có cơ hội cho quả trong thời kỳ sau khi đã tái sinh, kiếp hiện hữu. Cho nên, các bậc thiền còn lại đều trở thành nghiệp vô hiệu quả (ahosikamma).

Thật ra, tác ý tâm sở đồng sinh trong 7 tác hành tâm trải qua vô số lộ trình tâm, đã tạo vô số thiện nghiệp hoặc đã tạo vô số bất thiện nghiệp (ác nghiệp). Trong vô số nghiệp ấy, rất nhiều nghiệp không có cơ hội cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp sau, và không có cơ hội cho quả trong thời kỳ sau khi đã tái sinh, kiếp hiện hữu, đều trở thành nghiệp vô hiệu quả (ahosikamma).

Tác ý tâm sở bình thường đồng sinh trong 7 tác hành tâm không đủ chi pháp để tạo thành nghiệp, hoặc trường hợp một người làm ác, hoặc một người làm thiện một cách hời hợt, phóng tâm, chỉ làm cho có lệ mà thôi v.v... Những bất thiện nghiệp (ác nghiệp) hoặc thiện nghiệp ấy sẽ không có năng lực, không có khả năng cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp sau, thường trở thành nghiệp vô hiệu quả (ahosikamma). Tuy các nghiệp ấy cũng có thể có cơ hội cho quả trong thời kỳ sau khi đã tái sinh, kiếp hiện hữu, nhưng quả của nghiệp ấy cũng không có năng lực nhiều, phần nhiều không có cơ hội cho quả, thì các nghiệp ấy cũng trở thành nghiệp vô hiệu quả (ahosikamma).

* Tạo thiện nghiệp như thế nào mà trở thành nghiệp vô hiệu quả (ahosikamma)? Và làm cách nào để không trở thành nghiệp vô hiệu quả?

a) Thiện nghiệp trở thành nghiệp vô hiệu quả (ahosikamma)

Trong đời, có số người là người không có đức tin nơi Tam Bảo, không tin nghiệp và quả của nghiệp; là những người giàu có, có địa vị trong xã hội. Một hôm, có hội từ thiện đến nhà của những người ấy, xin họ cứu giúp những đồng bào bị nạn bão lụt. Thật ra, số người ấy vốn không tin nghiệp và quả của nghiệp, nhưng với tâm tham ái muốn cho nhiều người biết đến mình, với tâm ngã mạn muốn mình hơn người, với tâm tà kiến chấp ngã, nên số người ấy mới dám bỏ ra một số tiền lớn để ủng hộ cứu giúp đồng bào bị nạn bão lụt.

Khi làm được việc ấy, số người này được báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình... hết lời tán dương ca tụng, đưa tin họ là những người hảo tâm đã làm việc từ thiện cứu trợ giúp những đồng bào bị gặp nạn bão lụt. Số người ấy nhìn thấy tên của mình được đăng trên báo, nghe tên của mình được phát trên đài, v.v... họ cảm thấy vô cùng hoan hỷ, vì đã đạt được mục đích mong muốn của mình.

Xét về hình thức, đó là việc làm từ thiện, một nghĩa cử cao đẹp, đúng lúc, hợp thời đáng được mọi người tán dương ca tụng.

Xét về nghiệp, đó là thiện nghiệp không trong sạch, không thanh tịnh, do bởi tâm tham ái, tâm ngã mạn, tâm tà kiến làm ô nhiễm. Cho nên, thiện nghiệp này không có đủ năng lực, để có cơ hội cho quả trong thời kỳ tái sinh những kiếp sau, thì thiện nghiệp này trở thành nghiệp vô hiệu quả (ahosikamma), thật đáng tiếc.

b) Thiện nghiệp không trở thành nghiệp vô hiệu quả (ahosikamma)

Trong đời, có số người là người có đức tin nơi Tam Bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp; là những người giàu có, có địa vị trong xã hội. Khi nghe tin những đồng bào bị nạn bão lụt tàn phá, lâm vào cảnh khổ. Số người ấy phát sinh tâm bi, muốn cứu giúp đồng bào giảm bớt cảnh khổ, họ tự xuất ra một số tiền, để mua các thứ nhu cầu cần thiết của cuộc sống; rồi tự mình đem đến phân phát cho những đồng bào bị nạn, cứu giúp họ giảm bớt cảnh khổ trong hoàn cảnh ấy.

Số người này, trước khi tạo thiện nghiệp bố thí, họ phát sinh thiện tâm hoan hỷ; đang khi tạo thiện nghiệp bố thí phân phát đến những đồng bào bị nạn bão lụt, họ cũng có thiện tâm hoan hỷ; sau khi đã tạo thiện nghiệp bố thí xong rồi, họ cũng phát sinh thiện tâm hoan hỷ.

Đó là thiện nghiệp rất trong sạch, thanh tịnh, bởi vì không bị ô nhiễm do phiền não tham ái, ngã mạn, tà kiến... cho nên, thiện nghiệp này có nhiều năng lực, có khả năng cho quả trong kiếp hiện tại; có cơ hội cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp sau và cho quả trong thời kỳ sau khi đã tái sinh, kiếp hiện hữu, trải qua nhiều đời, nhiều kiếp vị lai không giới hạn.

Thiện nghiệp này chỉ trở thành nghiệp vô hiệu quả (ahosikamma) khi quá hạn thời gian cho quả của mỗi thiện nghiệp mà thôi.

* Bất thiện nghiệp (ác nghiệp) trở thành nghiệp vô hiệu quả (ahosikamma) bằng cách nào?

Trong mọi bất thiện nghiệp (ác nghiệp) thì ác nghiệp tà kiến cố địnhác nghiệp vô gián là cực kỳ trọng tội, vô phương cứu chữa.

* Ác nghiệp tà kiến cố định (niyatamicchādiṭṭhi kamma) là ác nghiệp hoàn toàn không tin nghiệp và quả của nghiệp, cho nên khi người ấy tạo ác nghiệp xong rồi, hoàn toàn không có tâm hổ thẹn tội lỗi, không có tâm ghê sợ tội lỗi của mình đã tạo, không biết ăn năn hối lỗi, không từ bỏ tội ác. Sau khi người ấy chết, chắc chắn ác nghiệp tà kiến cố định ấy cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp kế tiếp trong cõi đại địa ngục Avīci, chịu khổ thiêu đốt trong cõi đại địa ngục này, khó có thời hạn thoát ra khỏi địa ngục.

Đó là ác nghiệp tà kiến cố định vô phương cứu chữa.

* 5 ác nghiệp vô gián trọng tội (pañcānantariya kamma)giết cha, giết mẹ, giết bậc Thánh Arahán, làm bầm máu bàn chân của Đức Phật chia rẽ Tỳ khưu Tăng. Người nào phạm phải 1 trong 5 tội này gọi là tạo ác nghiệp vô gián trọng tội. Sau khi người ấy chết, chắc chắn ác nghiệp vô gián trọng tội cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp kế tiếp trong cõi đại địa ngục Avīci, chịu quả khổ thiêu đốt suốt thời gian lâu dài, có thời hạn. Đến khi mãn quả của ác nghiệp ấy mới thoát ra khỏi cõi địa ngục ấy.

Trường hợp người nào đã phạm lỗi lầm tạo ác nghiệp vô gián trọng tội, sau đó người ấy biết ăn năn hối lỗi, thành tâm sám hối tội lỗi, có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, xin thọ phép quy y Tam Bảo, thọ trì ngũ giới, rồi giữ gìn giới trong sạch, cố gắng tạo mọi dục giới đại thiện nghiệp, nhưng chắc chắn không thể tạo được sắc giới thiện nghiệp, hoặc vô sắc giới thiện nghiệp, hoặc Siêu tam giới thiện nghiệp, bởi vì, do ác nghiệp vô gián trọng tội ngăn cản. Đến khi người ấy chết, ác nghiệp vô gián trọng tội có quyền ưu tiên, có cơ hội ưu tiên cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp kế tiếp, đáng lẽ trong cõi đại địa ngục Avīci, chịu quả khổ lâu dài trải qua nhiều đại kiếp trái đất, nhưng nhờ thiện nghiệp quy y Tam Bảo, giữ gìn ngũ giới các dục giới đại thiện nghiệp khác làm suy giảm tiềm năng cho quả của ác nghiệp vô gián trọng tội, chỉ cho quả tái sinh trong cõi địa ngục nhỏ phụ thuộc cõi đại địa ngục Avīci, chịu quả khổ suốt thời gian ngắn hơn cõi đại địa ngục Avīci.

Ví dụ:

Trường hợp Đức vua Ajātasattu nghe lời khuyên bảo của Tỳ khưu Devadatta, giết Phụ vương là Thái thượng hoàng Bimbisāra. Về sau, biết ăn năn hối lỗi, Đức vua Ajātasattu ngự đến hầu đảnh lễ và thành tâm sám hối với Đức Phật. Đức Thế Tôn thuyết pháp tế độ Đức vua Ajātasattu, sau khi lắng nghe pháp, Đức vua phát sinh đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, kính xin thọ phép quy y Tam Bảo. Kính xin Đức Thế Tôn công nhận Đức vua là người cận sự nam đã quy y Tam Bảo kể từ đó cho đến trọn đời, trọn kiếp. Từ đó, Đức vua là người có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, thường ngự đến cúng dường những thứ vật dụng đến chư Tỳ khưu Tăng có Đức Phật chủ trì.

Sau khi, Đức Phật tịch diệt Niết Bàn, Đức vua Ajātasattu là người thí chủ hộ độ 500 vị Thánh Arahán đứng đầu là Ngài Đại Trưởng Lão Mahākassapa trong kỳ kết tập Tam Tạng lần thứ nhất, thời gian sau khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn được 3 tháng 4 ngày, tại động Sattapaṇṇi gần kinh thành Rājagaha xứ Magadha, suốt thời gian 7 tháng mới hoàn thành xong trọn bộ Tam Tạng và Chú giải.

Sau khi Đức vua Ajātasattu băng hà, ác nghiệp vô gián trọng tội giết Phụ vương đáng lẽ có quyền ưu tiên, có cơ hội ưu tiên cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp kế tiếp trong cõi đại địa ngục Avīci, chịu quả khổ thiêu đốt lâu dài hằng nhiều đại kiếp trái đất. Nhưng nhờ thiện nghiệp quy y Tam Bảo, thiện nghiệp hộ độ 500 vị Thánh Arahán trong kỳ kết tập Tam Tạng lần thứ nhất suốt 7 tháng... chính nhờ thiện nghiệp ấy làm giảm tiềm năng của ác nghiệp vô gián trọng tội giết Phụ vương, chỉ cho quả tái sinh kiếp kế tiếp trong cõi địa ngục tên “Lohakumbī: Địa ngục nước đồng sôi”, chịu quả khổ suốt thời gian 60.000 (sáu mươi ngàn) năm mà thôi.

Như vậy, thiện nghiệp có khả năng làm giảm tiềm năng cho quả của bất thiện nghiệpc nghiệp) được (không phải xóa bỏ được bất thiện nghiệp (ác nghiệp)).

Sự khác biệt giữa ác nghiệp tà kiến với ác nghiệp vô gián như thế nào?

Xét về tính chất của 2 loại ác nghiệp này, dĩ nhiên ác nghiệp tà kiến cố định là nặng hơn ác nghiệp vô gián trọng tội.

Xét về tính chất ưu tiên cho quả của 2 loại nghiệp này, nếu người nào có ác nghiệp tà kiến cố định vẫn chấp thủ tà thuyết của mình cho đến lúc lâm chung, sau khi người ấy chết, thì chắc chắn chỉ có ác nghiệp tà kiến cố định có quyền ưu tiên, có cơ hội ưu tiên cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp kế tiếp trong cõi đại địa ngục Avīci, chắc chắn không có nghiệp nào có khả năng ngăn cản được, bởi vì ác nghiệp tà kiến cố định này nặng nhất.

Nhưng nếu người nào có ác nghiệp tà kiến chưa đến mức độ cố định, khi người ấy có duyên lành gặp được chư bậc thiện trí, chịu lắng nghe lời giáo huấn của bậc thiện trí, rồi thực hành theo lời dạy của bậc thiện trí, chịu từ bỏ tà kiến thấy sai chấp lầm đã có từ trước; người ấy có tâm biết hổ thẹn tội lỗi, có tâm biết ghê sợ tội lỗi, trở thành người có đức tin nơi Tam Bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, biết giữ gìn giới của mình được trong sạch và trọn vẹn, biết thực hành pháp hành thiền định có khả năng chứng đắc các bậc thiền hữu sắc…, biết thực hành pháp hành thiền tuệ có khả năng chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn trở thành bậc Thánh Nhân, thì ác nghiệp tà kiến ấy trở thành nghiệp vô hiệu quả (ahosikamma), không còn có khả năng cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp sau nữa. Do đó sau khi chết, người ấy chắc chắn tránh khỏi tái sinh kiếp kế tiếp trong cõi đại địa ngục Avīci.

Như vậy, nếu ác nghiệp tà kiến chưa đến mức cố định, thì nhờ đến sự giúp đỡ của bậc thiện trí cũng có thể hóa giải được, cứu chữa được.

Như trường hợp vị tỉnh trưởng Pāyāsi tỉnh Setabyā, ông tỉnh trưởng ấy có tà kiến thấy sai chấp lầm rằng:

Itipi natthi paro loko, natthi sattā opapātikā, natthi sukatadukkaṭānaṃ kammaṃ vipāko”.

(Đúng như vậy, không có cõi thế giới khác, không có chúng sinh hóa sinh ‘như chư thiên, Phạm thiên, chúng sinh cõi địa ngục, chúng sinh loài atula, chúng sinh loài ngạ quỷ’; không có quả của thiện nghiệp, quả của ác nghiệp).

Một thuở nọ, Ngài Đại đức Kumārakassapa cùng với 500 chư Tỳ khưu đến trú tại rừng Siṃsapā, tỉnh Setabyā xứ Kosala. Danh tiếng của Ngài lan truyền khắp mọi nơi, cho nên dân chúng trong thành Setabyā từng đoàn lũ lượt kéo nhau đến khu rừng Siṃsapā để nghe Ngài thuyết pháp. Ông tỉnh trưởng Pāyāsi cũng đến khu rừng Siṃsapā gặp Ngài Đại đức Kumārakassapa, ông tỉnh trưởng ngồi một nơi hợp lẽ xong, rồi bạch với Ngài Đại đức Kumārakassapa rằng:

- Kính thưa Ngài Đại đức Kumārakassapa, tôi có quan niệm rằng: “Đúng như vậy, không có cõi thế giới khác, không có chúng sinh hóa sinh ‘như chư thiên, Phạm thiên, chúng sinh cõi địa ngục, chúng sinh loài atula, chúng sinh loài ngạ quỷ’, không có quả của thiện nghiệp, quả của ác nghiệp”.

Ngài Đại đức Kumārakassapa là bậc Thánh Arahán có tài thuyết pháp rất hay, bằng nhiều cách đã làm cho vị tỉnh trưởng Pāyāsi chịu thuần phục, mà từ bỏ tà kiến, trở thành vị tỉnh trưởng có chánh kiến, có đức tin nơi Tam Bảo, rồi xin thọ phép quy y Tam Bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp. Sau khi vị tỉnh trưởng Pāyāsi chết, thiện nghiệp cho quả tái sinh làm thiên nam có tên là Pāyāsidevaputta: Thiện nam Pāyāsi trong cõi trời Tứ Đại Thiên Vương có tuổi thọ 500 tuổi trời ấy, so sánh với thời gian ở cõi người bằng 9.000.000 năm, bởi vì 1 ngày 1 đêm trên cõi trời Tứ Đại Thiên Vương bằng 50 năm ở cõi người.

Như vậy, ác nghiệp tà kiến chưa đến mức cố định, thì nhờ đến bậc thiện trí giúp đỡ có thể hóa giải được, cứu chữa được.

Ác nghiệp vô gián trọng tội tuy là ác nghiệp không nặng hơn ác nghiệp tà kiến cố định, nhưng vô phương cứu chữa, bời vì ác nghiệp này là ác nghiệp vô gián trọng tội (anantariyakamma) chắc chắn cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp kế tiếp (sau khi chết) trong cõi đại địa ngục Avīci, mà không có nghiệp nào có khả năng ngăn cản ác nghiệp này cho quả tái sinh được. Do đó, ác nghiệp này gọi là ác nghiệp vô gián trọng tội.

Đó là sự khác biệt giữa ác nghiệp tà kiến cố định với ác nghiệp vô gián trọng tội.

* Siêu tam giới thiện nghiệp có khả năng làm cho ác nghiệp upapajjavedanīyakamma trở thành nghiệp vô hiệu quả như thế nào?

Người nào đã tạo những bất thiện nghiệp (ác nghiệp) bình thường, ngoại trừ ác nghiệp tà kiến cố địnhác nghiệp vô gián trọng tội ra; sau đó, người ấy biết ăn năn hối lỗi, biết hổ thẹn tội lỗi, biết ghê sợ tội lỗi nên đã tránh xa mọi tội lỗi, trở thành người có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, kính xin thọ phép quy y Tam Bảo, giữ gìn giới của mình được trong sạch và trọn vẹn, cố gắng tạo mọi thiện nghiệp, nhất là thiện nghiệp thực hành thiền tuệ dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo, Nhập Lưu Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu trong Phật giáo. Tuy bậc Thánh Nhập Lưu vẫn còn tử sinh luân hồi trong cõi thiện dục giới nhiều nhất 7 kiếp nữa, nhưng chắc chắn bậc Thánh Nhập Lưu vĩnh viễn không còn tái sinh kiếp sau trong 4 cõi ác giới.

Như vậy, tất cả mọi bất thiện nghiệp (ác nghiệp) nào mà bậc Thánh Nhập Lưu đã từng tạo trước khi chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu, tất cả mọi bất thiện nghiệp (ác nghiệp) ấy chắc chắn vĩnh viễn không còn có cơ hội sinh quả tái sinh kiếp sau trong cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh) được nữa, bởi vì Nhập Lưu Thánh Đạo chỉ có thiện nghiệp sinh quả tái sinh kiếp sau trong cõi thiện dục giới nhiều nhất 7 kiếp nữa mà thôi. Do đó, mọi ác nghiệp upapajjavedanīya-kamma đều trở thành nghiệp vô hiệu quả (ahosikamma).

Ví dụ:

* Trường hợp ông đao phủ tên Tambadāṭhika ở trong kinh thành Rājagaha, suốt 55 năm ông làm nghề giết kẻ phạm tội trộm cướp theo lệnh của Đức vua.

Khi ông tuổi đã cao, không còn đủ sức để chặt đầu bọn trộm cướp, Đức vua cho ông về nghỉ hưu, dưỡng già.

Một hôm Ngài Đại Trưởng Lão Sāriputta vừa mới xả thiền rồi mang bát đi vào trong kinh thành để khất thực, Ngài đứng trước cổng nhà ông Tambadāṭhika. Ông nhìn thấy Ngài liền phát sinh đức tin trong sạch nơi Ngài, ông nghĩ rằng: “Suốt 55 năm ta đã giết nhiều kẻ trộm cắp theo lệnh của Đức vua. Hôm nay có Ngài Đại Trưởng Lão đến đứng trước cổng nhà, ta nên kính thỉnh Ngài vào nhà để làm phước thiện bố thí đến cho Ngài”.

Kính thỉnh Ngài Đại Trưởng Lão Sāriputta vào nhà, ông Tambadāṭhika đảnh lễ Ngài rồi cúng dường vật thực đến Ngài. Khi ấy, Ngài Đại Trưởng Lão thuyết pháp tế độ ông Tambadāṭhika. Sau khi lắng nghe Ngài thuyết pháp xong, ông liền chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo - Nhập Lưu Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu ngay tại nơi ấy.

Ngài Đại Trưởng Lão Sāriputta từ giã trở về chùa, ông Tambadāṭhika theo tiễn đưa Ngài. Khi trở về nhà, trên đường đi, một nữ dạ xoa đã hóa thành con bò húc vào ngực ông, làm ông chết ngay tại chỗ. Sau khi ông chết, thiện nghiệp có quyền ưu tiên, có cơ hội ưu tiên cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp kế tiếp (kiếp thứ 2) trong cõi trời Tusita (Đấu Xuất Đà Thiên) có tuổi thọ trời 4.000 (bốn ngàn) năm (bằng 576 triệu năm cõi người, bởi vì 1 ngày 1 đêm ở cõi trời này bằng 400 năm cõi người) an hưởng mọi sự an lạc trong cõi trời ấy.

Ác nghiệp sát sinh mà ông đã tạo suốt 55 năm không có cơ hội cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp kế tiếp, cho nên tất cả mọi ác nghiệp upapajjavedanīyakamma ấy trở thành nghiệp vô hiệu quả (ahosikamma).

* Trường hợp Ngài Đại đức Aṅgulimāla, trước khi Ngài chưa xuất gia trở thành Tỳ khưu, Ngài là một tên cướp sát nhân ẩn trú trong khu rừng, đã từng giết chết hơn 1.000 người, rồi cắt lấy đầu ngón tay xâu thành vòng đeo ở cổ. Do đó, Ngài có biệt danh là Aṅgulimāla.

Khi Đức Thế Tôn ngự đến khu rừng để tế độ Ngài. Ngài tỉnh ngộ, rồi ném gươm giáo, từ bỏ sự sát hại chúng sinh. Ngài đã xin Đức Thế Tôn cho phép xuất gia trở thành Tỳ khưu. Đức Thế Tôn cho phép Ngài xuất gia theo cách “Ehi Bhikkhu!”. Sau khi trở thành Tỳ khưu không lâu, Ngài thực hành thiền tuệ dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn trở thành bậc Thánh Arahán cao thượng trong Phật giáo.

Những ác nghiệp sát sinh mà Ngài đã tạo chỉ có khả năng cho quả trong kiếp hiện tại mà thôi. Đến lúc Ngài tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài, thì tất cả bất thiện nghiệp (ác nghiệp), thiện nghiệp đã tích lũy từ vô thủy trải qua vô lượng kiếp trong quá khứ cho đến kiếp hiện tại trước khi thành bậc Thánh Arahán đều trở thành nghiệp vô hiệu quả (ahosikamma).

Tóm lại: 4 loại nghiệp theo thời gian cho quả, trong mỗi lộ trình tâm phát sinh đầy đủ trải qua 7 sát-na tác hành tâm (javanacitta) tạo nghiệp:

Tác ý tâm sở đồng sinh trong sát-na dục giới tác hành tâm thứ nhất gọi là nghiệp diṭṭhadhammavedanīya kamma chỉ có khả năng cho quả ngay trong kiếp hiện tại (kiếp thứ nhất) mà thôi.

1. Tác ý tâm sở đồng sinh trong sát-na dục giới tác hành tâm thứ 7 gọi là nghiệp upapajjavedanīyakamma chỉ có khả năng cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp kế tiếp (kiếp thứ 2) mà thôi; và có khả năng cho quả trong thời kỳ sau khi đã tái sinh, kiếp hiện hữu, nếu có cơ hội cho quả.

2. Tác ý tâm sở đồng sinh trong sát-na dục giới tác hành tâm thứ 2 cho đến tác hành tâm thứ 6 gọi là nghiệp aparā-pariyavedanīyakamma có khả năng cho quả trong thời kỳ tái sinh những kiếp sau kể từ kiếp thứ 3 cho đến kiếp chót trở thành bậc Thánh Arahán trước khi tịch diệt Niết Bàn; và có khả năng cho quả trong thời kỳ sau khi đã tái sinh, kiếp hiện hữu, không giới hạn, nếu có cơ hội cho quả.

3. Nghiệp ahosikamma có trong những trường hợp sau:

Tác ý tâm sở đồng sinh trong sát-na dục giới tác hành tâm thứ nhất gọi là nghiệp diṭṭhadhammavedanīya-kamma nếu không có cơ hội cho quả trong kiếp hiện tại (kiếp thứ nhất), thì nghiệp ấy trở thành nghiệp ahosi-kamma (nghiệp vô hiệu quả).

Tác ý tâm sở đồng sinh trong sát-na dục giới tác hành tâm thứ 7 gọi là nghiệp upapajjavedanīyakamma nếu không có cơ hội cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp kế tiếp (kiếp thứ 2), thì nghiệp ấy trở thành nghiệp ahosi-kamma (nghiệp vô hiệu quả).

Tác ý tâm sở đồng sinh trong sát-na dục giới tác hành tâm thứ 2 cho đến dục giới tác hành tâm thứ 6 gọi là nghiệp aparāpariyavedanīyakamma nếu không có cơ hội cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp sau kể từ kiếp thứ 3 cho đến kiếp chót của bậc Thánh Arahán trước khi tịch diệt Niết Bàn, thì nghiệp ấy trở thành nghiệp ahosikamma (nghiệp vô hiệu quả).

Như vậy tác ý tâm sở đồng sinh trong 7 sát-na dục giới tác hành tâm đã tạo nghiệp rồi mà không có cơ hội cho quả của chúng thì đều trở thành nghiệp ahosikamma (nghiệp vô hiệu quả), không còn có hiệu lực cho quả của chúng được nữa.

* Sắc giới thiện nghiệp, vô sắc giới thiện nghiệp, Siêu tam giới thiện nghiệp được ghép vào loại nghiệp nào trong 4 loại nghiệp theo thời gian cho quả?

Hành giả là hạng phàm nhân thực hành thiền định có khả năng chứng đắc 5 bậc thiền hữu sắc là 5 sắc giới thiện nghiệp. Và tiếp tục có khả năng chứng đắc 4 bậc thiền vô sắc là 4 vô sắc giới thiện nghiệp. Hành giả có khả năng giữ gìn duy trì 9 bậc thiền thiện nghiệp bậc cao (mahaggata-kusalakamma) (sắc giới thiện nghiệp và vô sắc giới thiện nghiệp) này cho đến lúc chết. Sau khi hành giả chết, chắc chắn thiện nghiệp vô sắc tột đỉnhphi tưởng phi phi tưởng xứ thiền thiện nghiệp có quyền ưu tiên, có cơ hội ưu tiên cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp kế tiếp (kiếp thứ 2) trong cõi trời vô sắc tột đỉnh, cõi Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xư Thiên có tuổi thọ 84.000 (tám mươi bốn ngàn) đại kiếp trái đất lâu nhất; còn lại 5 sắc giới thiện nghiệp và 3 vô sắc giới thiện nghiệp đều trở thành nghiệp vô hiệu quả (ahosikamma).

Như vậy, sắc giới thiện nghiệp và vô sắc giới thiện nghiệp tương đương với thiện nghiệp upapajjavedanīya-kamma (thiện nghiệp cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp kế tiếp) (kiếp thứ 2).

Hành giả thực hành thiền tuệ có khả năng dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo - Nhập Lưu Thánh Quả, chứng đắc Nhất Lai Thánh Đạo - Nhất Lai Thánh Quả, chứng đắc Bất Lai Thánh Đạo - Bất Lai Thánh Quả, chứng đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả.

4 Siêu tam giới thiện nghiệp trong 4 Thánh Đạo Tâm, mà 4 Thánh Đạo Tâm liền cho quả 4 Thánh Quả Tâm tương ứng với nhau cùng trong lộ trình Thánh Đạo Tâm (Magga-vīthicitta). Thánh Đạo Tâm nào sinh rồi diệt tiếp theo Thánh Quả Tâm ấy tương ứng sinh rồi diệt liên tục 2 sát-na hoặc 3 sát-na Thánh Quả Tâm ấy, rồi diệt chấm dứt lộ trình Thánh Đạo Tâm.

4 Thánh Đạo Tâm cho quả tương ứng 4 Thánh Quả Tâm không có thời gian ngăn cách, nghĩa là sau khi chứng đắc Thánh Đạo nào liền cho Thánh Quả ấy sau một sát-na tâm sinh rồi diệt.

Như vậy, 4 Siêu tam giới thiện nghiệp cho quả tương ứng 4 Thánh Quả ngay kiếp hiện tại không có thời gian ngăn cách, tương đương với thiện nghiệp diṭṭhadhamma-vedanīyakamma (thiện nghiệp cho quả ngay trong kiếp hiện tại) (kiếp thứ nhất).

* Tại sao nghiệp ahosikamma (nghiệp vô hiệu quả) ở trong phần nghiệp theo thời gian cho quả?

Bởi vì tất cả mọi nghiệp không phải lúc nào cũng có cơ hội cho quả của chúng cả thảy. Cho nên, nghiệp nào theo thời gian cho quả mà không có cơ hội cho quả của nó, thì nghiệp ấy trở thành nghiệp ahosikamma (nghiệp vô hiệu quả) như sau:

1. Nghiệp diṭṭhadhammavedanīyakamma chỉ có cơ hội cho quả ngay trong kiếp hiện tại (kiếp thứ nhất) mà thôi. Nếu nghiệp này không có cơ hội cho quả trong kiếp hiện tại (kiếp thứ nhất), thì nghiệp ấy trở thành nghiệp ahosikamma.

2. Nghiệp upapajjavedanīyakamma chỉ có cơ hội cho quả trong kiếp kế tiếp (kiếp thứ 2) mà thôi. Nếu nghiệp này không có cơ hội cho quả trong kiếp kế tiếp (kiếp thứ 2), thì nghiệp ấy trở thành nghiệp ahosikamma.

3. Nghiệp aparāpariyavedanīyakamma có cơ hội cho quả từ kiếp thứ 3 cho đến kiếp của thành bậc Thánh Arahán tịch diệt Niết Bàn. Nếu nghiệp này không có cơ hội cho quả trong khoảng thời gian lâu dài ấy, thì nghiệp ấy trở thành nghiệp ahosikamma.

Vì vậy, cho nên nghiệp ahosikamma (nghiệp vô hiệu quả) ở trong phần nghiệp theo thời gian cho quả.

Tiếp theo


[Ðầu trang][Trở về trang Mục lục][Trở về trang Thư Viện]

updated: 2008