Ma Không Đầu
Ở tại Phong Trần huyện, Nam Bình thôn,
có anh học trò nghèo họ Trương tên Tam, học giỏi mà lận đận lao đao về đường
khoa cử.
Trương sinh có người bạn đồng khoa
thương yêu nhau như ruột thịt. Người ấy họ Lý tên Tứ, học không giỏi nhưng gặp
thời. Niên hiệu Minh Mạng thứ ba, nhờ tài chạy chọt khôn khéo nên Lý đã được
thăng tri phủ trấn nhậm Nghệ An, còn Trương thì vẫn cái điều ta đây là:
“Tay trắng vẫn cứ nòi quân tử
Khăn điều nào đáng mặt phong lưu!
Mọi người khuyên Trương nên bỏ kinh sử
để theo đường doanh nghiệp thì Trương cười to mà đáp rằng:
- Cổ nhân có biết bao kẻ vác lều vác
chõng mấy chục năm ròng rã mà chưa qua khỏi cái tam trường? Có biết bao nhiêu
kẻ “thập niên đăng hỏa” mà biết chắc là sẽ đắc chí công hầu khanh tướng? Do
lai, tất cả đều không vì chữ thời và chữ mệnh đó ru? Trương mỗ này, xuân thu
mới bốn chục, còn hơn cái lão Bạch Lý Hề kia, thì lo gì bước hoạn đồ không ngựa
xe áo mão, đem sức tài mà thi thố Hàn, Lương? (Hàn Tín, Trương Lương)
Thấy Trương tuy ngông nghênh nhưng văn
hay chữ tốt, lại có chí lớn nên mọi người không lấy đó làm chuyện tiếu đàm.
Cha mẹ Trương mất sớm, anh em không
có, chàng lại không nghĩ đến chuyện thê tử nên đời sống cũng tương đối thảnh
thơi. Ngoài những khi phải hái rau kiếm củi độ nhật, chàng thường được tự do
mai Tần, tối Sở; cũng biết hát khúc Nghê, thả cần câu sông Vị (Khương Tử Nha
câu cá ở sông Vị để đợi thời), thỉnh thoảng cũng biết ôm trăng mà ca bài “Tương
tiếu tửu” với họ Lý, ngâm vịnh với chàng Tô, thả neo Tây Hồ với họ Phạm... Nói
vậy chứ trừ những khi có sự trợ cấp tiền bạc của họ Lý kia, đa phần họ Trương
phải tự lực hoăc dựa lưng nằm dài nơi “Cô hồn am” để nhờ miếng cơm manh áo của
ông thủ từ già họ Phùng tốt bụng.
Tuy thế, Trương sinh cũng biết dành
dụm, nhất là trước ngày lều chõng. Cánh hạc kia tuy sông hồ quanh năm suốt
tháng, vong cội quên nguồn, nhưng nó cũng biết lúc nào nên đậu lại! Mà nơi đậu
lại chính là ở “Cô hồn am” - một cái am lạnh lẽo điêu tàn về phía tây Nam Bình
thôn, một nơi nổi tiếng là “ma gào quỷ thét”, nổi tiếng là có những “oan hồn
uổng tử” thường lãng vãng, ẩn ẩn, hiện hiện, kêu khóc nỉ non. Ai hỏi Trương tại
sao lại không sợ, Trương đáp:
- Ma quỷ cũng là người nhưng họ sống ở
thế giới khác đó thôi. Phùng ở được sao Trương mỗ lại không ở được? Phùng hương
khói hoa quả sớm hôm là lo phần “xác” cho họ. Còn Trương mỗ đọc kinh, đọc sử,
dẫn những bài học của cổ nhân, những lời dạy của thánh hiền là lo phần “hồn”
cho họ. Ma quỷ chắc phải cám ơn không hết, có đâu lại làm cho Trương mỗ sợ hãi
phải bỏ đi!
Nhiều người mỉm cười khi nghe Trương
nói thế, tưởng là lý luận của anh đồ gàn, nhưng sự thật hầu như chứng minh điều
đó. Những người đi làm gỗ, làm mây, làm củi từ phía tây thôn, khuya sớm có dịp
băng qua nghĩa địa đến Cô hồn am, thì chỉ thấy đèn chong rạng và giọng ngâm thơ
bình phú hoặc đọc kinh đọc sử sang sảng của họ Trương, chẳng thấy ma quỷ kêu
gào ở đâu hết.
Từ đó, Cô hồn am không còn là nơi đáng
sợ cho dân Nam Bình thôn nữa.
Niên hiệu Minh Mạng thứ năm, từ miệt
Thanh Hóa trở vô cho đến Thừa Thiên, hạn hán, mất mùa, đói kém, cướp làng, cướp
chợ, cướp đường nổi lên khắp nơi. Tri phủ họ Lý bị giặc chặt đầu phanh thây,
nghe nói là vì cai trị hà khắc và bòn rút của dân. Phong Trần huyện lại bị thêm
cái lụt vào cuối mùa thu nên tình cảnh màn trời chiếu đất, tang tóc thê lương
kể sao cho xiết? Ở Nam Bình thôn, người ta tranh giành cướp giật nhau cả từng
nắm cỏ xanh. Ông thủ từ già họ Phùng không chịu nổi cơ hàn đã run lẩy bẩy, sùi
bọt mép từ giã cõi đời vào một đêm mưa gió. Trương sinh bây giờ chỉ còn cô
quạnh một mình nơi Cô hồn am với cái xác xanh xao, chống gậy lom khom vào ra,
lê tấm thân tàn đợi tử thần đến gõ cửa. Manh chiếu cũ còn lại, Trương sinh bó
xác người thủ từ già không đủ kín, vẫn còn thừa hai cái chân trắng bệch thò ra
bên ngoài. “Bát cơm phiếu mẫu”(Tích Hàn Tín nhớ ơn người cho bát cơm lúc hàn
vi.), “tình nghĩa Lưu Dương”(Tích Lưu Bình, Dương Lễ.), Trương sinh cũng biết
lắm, nhưng vốn nhấc chân lên đã run rẩy thì làm sao đào được một cái lỗ để vùi
lấp đi bộ xương còm?
Đã một ngày và một đêm rồi mà Trương
sinh còn nằm đó. Mấy củ chuối cuối cùng sau góc am cũng đã chia hết cho nhau từ
tuần nay. Trương sinh nhớ là mình đã không có gì ăn từ lâu lắm. Khi đưa tay sờ
lưng thì đụng bụng, khi đưa tay sờ bụng thì đụng lưng! Râu, tóc, lông tay, lông
chân rã ra từng đám, từng nắm! Trời trở lạnh đến đóng băng, mưa gió lại lợi
dụng cái cảnh thê lương này để gào thét ghê rợn. Trương sinh nằm mơ mơ màng
màng mà không biết mình đang ở cõi nào, sống hay chết; nhịp đập của tim và hơi
thở bấy giờ hầu như là của ai khác, Trương nghe mong manh và xa lạ quá đỗi.
- Ào...ào... ào... rắc... răn...
rắc...
Cô hồn am như muốn bị cơn gió trốc đi,
ngửa nghiêng như chiếc tiểu thuyền giữa cơn đại lãng. Mưa ào ào như trút, mấy
tấm tranh ở nóc bị bắn thốc đi, nước tràn vào lai láng.
Khoảng canh hai, trời lạnh. Trương
sinh tự dưng chống tay lồm cồm bò dậy, người ướt như chuột lột. Ngọn đèn dầu
lạc nơi góc am, được đậy bằng vỏ chai vỡ không biết phép lực kỳ dị nào mà không
chịu tắt, lập lòe ánh sáng xanh lè. Đôi chân của tử thi thò ra khỏi chiếc chiếu
hình như dài hơn và xanh hơn, dường như có gợn lân tinh và nhúc nhích nữa!
Trương sinh nổi da gà toàn thân và một luồng khí lạnh từ đâu chạy dọc suốt
xương sống.
- Sống khôn thác thiêng, xin vong hồn
tiên sinh chứng giám cho. Trương sinh lâm râm khấn thầm trong miệng - Trương mỗ
vì đói quá nên chưa lo được nhang khói mộ phần cho tiên sinh đó thôi, chứ không
phải Trương mỗ là kẻ bạc tình bạc nghĩa đâu. Đừng nhát sợ Trương mỗ nữa.
Đôi chân của Phùng lão hình như đã nằm
yên lặng như cũ. Trương sinh yên trí lò dò dựa vào mép bàn lần tay bưng ngọn
đèn dầu lạc khơi tim lên. Khi quay lại thì trước mặt mình có một người cụt đầu
đứng đó tự bao giờ!
- Đừng sợ. Đừng sợ. Trương huynh đừng
sợ. Mạng Trương huynh lớn lắm, “vía” này không làm gì được Trương huynh đâu. Đệ
là Lý tri phủ đây! Âm dương dẫu cách nhưng tình chiếu văn, nghĩa kim bằng không
vì vậy mà xa nhau.
Trương sinh gượng đứng dậy, mắt thì
chăm chăm nhìn người cụt đầu, chân thì lần lần xê vào xó vách. Chẳng biết giọng
nói phát xuất từ đâu nhưng vang vang lạnh lẽo như tự dưới mồ sâu.
- Hà, hà! Nhớ ngày nào ta bình văn
luận phú, tri âm tuy không dám ví với Tử, Bá (Bá Nha, Tử Ky) nhưng biết nhau
nào há thẹn với Di, Tề (Bá Di, Thúc Tề.)? Lần đệ đi trấn nhậm Nghệ An, Trương
huynh trở về Nam Bình thôn, đệ cũng đã cả gan xuống ngựa, uống một chén rượu mà
ngâm bài “Tống biệt” của họ Vương:
“Hạ
mã ẩm quân tửu
Vấn
quân hà sở chi
Quân
ngôn bất đắc ý
Quy
ngọa Nam sơn thùy
Đản
khứ, mạc phục vấn
Bạch
vân vô tận thì...”
Trương huynh ơi, Trương huynh! Tuy
Trương huynh không “bất đắc ý” nhưng cũng “quy ngọa Nam Bình thùy” và “tình ta
như mây trắng, còn mãi đến muôn đời”. Trương huynh ơi! Trương huynh còn nhớ
không chứ?
Nghe nhắc đến chuyện cũ, Trương sinh
mới biết chắc đây là Lý tri phủ, người bạn cố tri đã giúp đỡ chàng qua rất
nhiều cơn túng bấn, và cũng nhờ y mà Trương có được những ngày tháng phong lưu
để chèo thuyền thăm Tây Tử, lên núi viếng Vu Nghi. Cảm động quá, Trương chạy
đến, nhưng bỗng sựng lại sững sờ vì kia là cái xác không đầu, một cái bụng to
lớn phình ra phía trước, tay chân gầy ốm tong teo như bốn que tăm găm vào một
củ khoai lang!
Lâu lắm, khi đã định thần, Trương lắp
bắp hỏi:
- Lý... Lý tri phủ đó ư?
Chợt có tiếng cười vô cùng lạnh lẽo
rồi đáp:
- Lý tri phủ hay Lý âm phủ cũng một Lý
đó thôi! Lý âm Lý dương hình thù dẫu khác nhưng cũng cùng chung một mệnh phận
đoạn trường bi ai thống khổ như nhau. Trương huynh ơi! Đệ đau khổ lắm, Trương
huynh ơi!
Tiếng nói chợt như bị cái gì chặn lại,
rồi như nức nở. Và cái xác không đầu trước mặt Trương sinh chợt run lên bần
bật; cái bụng thóp vô thóp ra liên hồi, hai tay không ngớt thọc vào bụng, vào
lưng, vào ngực...
- Lý... Lý đệ làm gì thế? Lý tri phủ
sao lại tự hành hạ mình như thế?
Ma không đầu sau một hồi lăn xuống đất
ôm bụng rên la, đã đứng lên, kéo ghế chững chạc ngồi. Trương sinh cũng đã hết
sợ, mạnh dạn ngồi vào ghế bên kia.
-“Vay trả, trả vay, nhân quả báo ứng”,
ấy là luật trời chứ ai nào hại được ai? “Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu”
(Lưới trời lồng lộng, thưa mà chẳng lọt). Quả vậy, không thể nào lọt được! Quay
đầu là thấy bến. Thế mà... thế mà..
Trương sinh lắp bắp:
- Lý tri phủ không có... không có...
cái đầu thì làm sao... quay? Quay làm sao?
Tiếng cười lại âm u lạnh lẽo:
- Trương huynh giờ mà còn khôi hài với
đệ đấy ư? Rồi Trương huynh cũng thế, cả cái trần gian này nữa, coi chừng đều bị
làm ma không đầu hết cả đấy; rồi chẳng còn cái đầu nào mà quay về nữa đâu!
Trương sinh cho đến bây giờ cũng còn
chưa để ý đến nội dung ý tứ câu chuyện, mà cứ tò mò quan sát không biết cái mũi
ở đâu, cái miệng ở đâu? Khi ma nói, Trương thấy cái bụng có nhúc nhích, khi mà
cười thì cái bụng có giật giật. Quả là quái dị! Biết bao câu hỏi cử lẩn quẩn
trong đầu Trương.
Bây giờ thì Trương đã hết đói, hết
lạnh và hết sợ.
- Cái mũi, cái miệng của Lý tri phủ ở
đâu?
- Ở trong này - Ma vỗ bụng đáp - cả
cái đầu nữa, cũng ở trong này tuốt. Nhân gieo thì quả trổ. Quả thành thì nhân
hoại. Đấy là thường lý mà Trương huynh không biết ư?
Trương sinh ngẩn ngơ đáp:
- Chứ không phải Lý tri phủ bị...?
- Bọn cướp chặt đầu? Phải mà không!
Không mà phải! Ma lắc đầu - chặt đầu là một chuyện, mất đầu hay không đầu lại
là chuyện khác. Chặt đầu thì có hạn, nhưng ma không đầu thì... hà... hà có hằng
muôn ức triệu trên thế gian. Trương huynh coi đây...
Chợt nhiên ma đứng dậy cất tiếng hú
rợn người, tiếng hú quả là quỷ khốc thần sầu. Chưa đầy nháy mắt, bên ngoài như
có hằng thiên binh vạn mã chạy rầm rập, tiếng tru tréo đến dựng tóc gáy. Rồi
thì ma không đầu đứng dày đặc cả một nghĩa địa, lố nhố đến tận chân trời.
Trương sinh mắt mở trừng, cơ thể như
một tảng đá lạnh. Ma không đầu lại mất tăm sau một cái nháy mắt.
- Đệ là chủ súy của bọn chúng. Vì tuy
cũng là ma không đầu nhưng đệ còn có một chút lương tri, biết phân biệt điều
phải và điều không phải. Còn bọn kia thì hoàn toàn mất hẳn lương tri, suốt đời,
chúng chỉ sống bằng bụng thôi!
Trương sinh có vẻ chưa hiểu nên ma
giải thích tiếp:
- Làm vua cũng lo cho cái bụng, làm
quan cũng lo cho cái bụng, làm lính cũng lo cho cái bụng, làm dân cũng lo cho
cái bụng; đọc kinh, đọc truyện, đọc sử, thập niên đăng hỏa cũng lo cho cái
bụng; bóp óc nặn trán, lên non xuống núi rồi cũng lo cho cái bụng... Cái bụng!
Cái bụng! Cái bụng trở thành mục đích cho kẻ tang bồng hồ thỉ; mục đích cho bọn
hồng quần khăn lược; mục đích cho sa-môn, đạo sĩ; mục đích cho ý chí, ước mơ và
tham vọng... Thế đó, Trương huynh ơi! Thế thì làm sao cái đầu nó không tiêu
hoại cho được khi mọi cứu cánh của con người đều đổ xô về cái bụng? Cái đầu
nghiên cứu, học hành, nghĩ suy, mưu kế, mưu lược... là “nhân”, cái bụng thành
là “quả”. Quả thành thì nhân hoại. Mầm thành cây thì hạt không còn. Cho nên,
làm ma không đầu là một kết quả tất nhiên vậy.
Bất giác, Trương đưa tay sờ lên đầu
mình. May mắn sao, đầu của Trương sinh vẫn còn! Chàng sợ mình mất đầu là phải,
vì mấy chục năm nay, dẫu chàng có bảo mình quân tử, phong lưu, học hạnh thánh
hiền chăng nữa, thì chàng cũng chưa nhìn xa hơn cái bụng, nếu như không muốn
nói, hầu như mọi nỗ lực của chàng đều đổ xô về đó: cái bụng!
Trương đưa tay xoa bụng thì chàng cảm
thấy an tâm. Sờ bụng thì chàng đụng lưng! Ở nơi cái bụng của chàng chưa có cái
gì cả nên cái đầu chưa thể tiêu hoại được. Trương nghe mình thở phào khoan
khoái.
Bỗng nhiên trời lại nổi gió. Gió rít
lên từng hồi ghê rợn ngoài rừng thông, rừng liễu, ào ào chạy qua nghĩa địa, va
đập vào liếp cửa những tiếng động kinh hồn. Ma không đầu chợt ôm bụng lăn xuống
đất, quằn quại rên la, giọng nói của y lại dồn dập, áo não:
- Mau đi! Hãy bỏ tất cả đi. Cả thế
gian này. Đừng dùng cái đầu mà lo cho cái bụng nữa. Trương huynh ơi! Hãy bỏ đi,
bỏ gấp đi! Khổ lắm, khổ không chịu nổi đâu!
Trương nắm chặt mép bàn cố giữ cho
người khỏi ngã, trong lúc Lý có vẻ thống khổ lắm, y lồ cồm bò dậy rồi chuệnh
choạng chạy ra ngoài khung cửa.
- Vĩnh biệt Trương huynh! Chớ quên.
Chớ quên. Chỉ có ai giữ cho “cái đầu bằng cái bụng, cái bụng bằng cái đầu” thì
Diêm Vương mới phê cho ba chữ “khả vi nhân” (Có thể làm người.). Bụng bằng đầu,
đầu bằng bụng là “khả vi nhân”. Nhớ lấy. Nhớ lấy. Khổ lắm. Khổ không chịu nổi
đâu...!
Tiếng nói càng lúc càng não nùng thê
lương, càng lúc càng chân tình, chí thiết. Và khi ấy, hình bóng ma không đầu
cũng xa dần... mờ dần trong bóng đêm của nghĩa địa.
Bên ngoài mưa gió vẫn cứ rít gào như
cả hàng trăm ngàn ma không đầu vẫn cứ rít gào muôn đời giữa cõi hư vô lồng
lộng.
Từ đấy, nơi Cô hồn am, Nam Bình thôn,
người ta không còn thấy bóng dáng chàng thư sinh họ Trương nữa. Chàng đi đâu
không hề ai hay biết.
Mùa xuân niên hiệu Minh Mạng thứ sáu,
một nhà sư du phương đi qua Cô hồn am chợt phát giác một tử thi đã mục rữa và
tập ký tự Trương Tam, ghi lại chuyện trên và phía dưới đề bốn chữ: “Lưu hậu ích
thế”.
Chiếc áo cũ
Câu chuyện được kể lại từ thời Phật
giáo Thiền tông hưng thịnh, tức là thời đại Kiếm Thương (Kamukara), trong
khoảng thế kỷ XII và XIII ở Nhật Bản.
Khi Ô-chu từ giã tông phái Nhật Liên
của Nhật Liên thượng nhân (Nichiren Shonin), thì mái tóc đã điểm hoa râm, chàng
quay lưng ngọn núi Phú Sĩ bạc đầu, xuyên qua mấy rừng hoa anh đào để đi vào
miền xuôi.
Vai với bọc hành lý đơn giản, đầu
chiếc nón rộng vành che kín khuôn mặt, từng bước một chậm rãi như chúa lạc đà,
chàng đi mấy ngày đêm ròng rã, chỉ dành đôi chút nghỉ ngơi.
- Kia rồi!
Chàng ngước mặt lên khẽ thốt. Chiếc
cổng trúc vàng và hai bụi thục quỳ nổi hoa tím đã hiện ra. Đằng sau lối sỏi
trắng điểm hoa cỏ li ti có bóng người gầy cao chống trượng đứng.
Chàng quỳ gộp hai đầu gối xuống trong
tư thế của một môn sinh thiền gia:
- Bạch Thầy, giọng chàng xoắn xít, nôn
nao biểu lộ một cảm xúc tuôn trào - thầy vẫn còn mạnh.
Người gầy cao chống trượng đứng, không
quay lại. Một đám mây bạc ửng màu lưu hoàng trôi qua đầu cây tuyết tùng. Buổi
sáng có những tia nắng ấm và có mưa nhẹ lay bay...
- Anh lại bỏ áo? Anh đến chào tôi rồi
hẳn làm một cuộc ra đi mới hả Ô-chu?
Giọng người gầy cao chống trượng đứng,
nói trầm ấm và không biểu lộ một tình cảm nào.
- Đã bỏ áo? Dạ bạch thầy, không, con
không bỏ áo. Không bao giờ.
Người gầy cao chống trượng đứng, đột
ngột quay lại, cúi xuống hom hem nhìn chàng. Ký ức của lão thiền sư trở về...
Người gầy cao chính là thiền sư Đạo
Nguyên (Dogen) năm đó đã 83 tuổi. Và kia là vị đệ tử trưởng của lão thiền sư,
pháp danh Ô-chu (Oju Shonin) cách ba mươi năm về trước. Ngài còn nhớ rõ như in,
người thanh niên với chiếc cằm vuông vức, trán phẳng và cao, đôi mắt xanh to
nhưng sâu thẳm ẩn dưới hàng chân mày sắc mạnh như một vệt dao. Người học trò
này thông minh, tuyệt vời thông minh, nhưng nóng nảy. Trong các buổi giảng tập
kinh điển, luận bàn giáo lý, đôi mắt y sáng rực rực, giọng hăm hở, dồn dập, náo
nức; ngôn ngữ, chữ nghĩa trôi chảy cuồn cuộn như sông dài; lý lẽ minh chứng xác
thực, sắc bén như lưỡi kiếm xuyên nước. Ba trăm môn sinh không ai tranh luận
nổi với chàng dẫu là một điểm nhỏ về giáo lý. Nơi thiền phòng bao giờ chàng
cũng là người đến trước mà ra sau. Học Pháp không biết mỏi mệt. Hành thiền
không biết mỏi mệt. Tuy thế, lão thiền sư Đạo Nguyên bao giờ cũng lắc đầu: “ba
mươi năm nữa, ba mươi năm nữa”. Vì sao vậy? Lão thiền sư Đạo Nguyên lại nghĩ
tiếp, y khó mà thấy được cái bình thường tâm. Y không bao giờ an tâm mà làm các
công việc nhỏ nhặt như bổ củi, gánh nước, tưới rau, quét sân, nhổ cỏ... Y là
con người của đại sự kia, kẻ gánh vác những công việc lớn lao trong trời đất;
sứ mệnh của y phải là cái gì tương tự như tát cạn bể đông, quảy càn khôn trong
cái đãy ta bà. Mỗi lần thượng tọa quản chúng hay Thượng tọa tri sự giao cho y
những công việc chân tay thì khuôn mặt của y mới thiểu não làm sao. Y thường
nói: ”gánh một núi sách lên Hy-mã-lạp-sơn còn dễ chịu hơn cái việc lượm lá,
quét sân”. Sự khát khao về chân lý đạo bừng bừng bốc lửa trong ý chí của y. Thế
nên, y không chịu được đời sống một môn sinh tầm thường. Vì vậy y khoác áo du
tăng hành cước đi từ núi cao đến rừng thấp. Cuộc từ giã hôm ấy là một buổi sáng
mờ sương, lão thiền sư đã ân cần trao cho chàng một chiếc áo cũ: “Thầy không có
gì để kỷ niệm trước lúc con ra đi. Đây là chiếc áo cũ năm xưa thầy cho, con bỏ
đi, nay thầy đã khâu vá lại. Con đừng quên nó nhé”. Đã lâu lắm rồi, lão thiền
sư nghe y bỏ áo rồi xin nhập một tu viện. Lại bỏ áo. Lại lên đường đến một
thung lũng của các đạo sĩ Yogi nghe đâu ở tận miền Bắc hải đạo. Một ngày mùa
đông, tuyết ngập khe suối, các hoang đạo những vũng nước đóng băng, chàng dẫm
qua mười hai ngọn núi, mười bảy làng sơn cước, đêm khuya trở về gõ cửa. Lão
thiền sư tiếp chàng ngay nơi tẩm phòng, đốt lên một lò sưởi, hâm lại ấm trà,
lấy ra một gói kẹo thảo mộc. Câu chuyện âm thầm giữa thầy cũ và trò xưa chẳng
ai biết, chẳng ai hay. Mờ sáng hôm sau, người lữ khách không biết mỏi mệt ấy
lại ra đi, lại lên đường, con đường nhiêu khê vô định, vai vẫn với bọc hành lý
đơn giản dạo nào: “Bạch thầy ạ, con chưa thể dừng chân được. Sinh tử là định
mệnh hối thúc không rời. Tri thức con phóng vọt tới đằng trước như một con ngựa
bất kham. Nó không cần biết vực thẳm hay thảo nguyên, quê xưa hay đất trích.
Bạch thầy ạ, tuy thế con còn có chiếc áo cũ của thầy, giáo huấn, nhắc nhở con
mỗi khi lầm lỡ. Nó vẫn còn đây. Nó vẫn còn đây”. Chàng mỉm cười xa xôi, diệu
vợi, vỗ vào bọc hành lý bạc màu rồi cúi đầu bước qua khung cửa thấp, đội tuyết
lâm hành.
Mùa hoa anh đào cách đây đâu đã hai
mươi năm, lão thiền sư nghe tin chàng đang thọ giáo với một pháp sư người Trung
Hoa tại miền cực nam đảo Trường Kỳ. Không lâu sau lại tham học với một thiền sư
người Đại Hàn tại Ko-chi. Và cứ thế, nào là giảng sư Tích Lan, hòa thượng tiến
sĩ người Miến Điện... Sở học sau
đó, không biết chàng đã tiến bước đến chân trời nào - hay là không còn chân
trời thì cũng vậy - mà chàng lại phất áo ra đi, từ bỏ con đường vi vút chông
chênh của duy lý để đắm mình trong khí hậu của chơn ngôn Mật giáo tại Đông Tự
(Toji) phía nam Kyoto. Lửa ngàn đời lại âm ỉ thiêu đốt, đẩy chàng từ kinh đô
lên núi non vùng tây bắc Akita, ăn rễ trái cây, sống đời khổ hạnh.Từ giả núi
khổ hạnh, chàng về Đông Kinh đăng đàn thuyết pháp. Chàng rống tiếng sư tử trước
mười ngàn thính chúng cử tọa gồm tăng lữ và môn sinh các tu viện, thiền viện,
Phật học viện... Người ta bàng hoàng, bủn rủn, tê dại trước ngôn ngữ sấm chẻ và
đôi mắt thu hút ma quái của chàng. Buổi giảng pháp đầu tiên đã vang đến cung
đình. Thủ lãnh các tông phái, các pháp sư, luận sư tìm đến, dưới sự chủ tọa của
thái tử Khải Nguyên (Koen), chàng lần lượt đánh bại Tịnh Độ tông mà đại biểu là
Thân Loan thượng nhân (Shiren Shonin) sau đó là Nhất Biến thượng nhân (Ippen
Shonin), một nhà sư lang thang tiếng tăm lừng lẫy không hẳn Chân tông không hẳn
Tịnh Độ. Rồi lần lượt những cao sĩ của Phật giáo quý tộc, Thiên Thai, Pháp
Tướng, Luật, Tam Luận, Hoa Nghiêm, Thành Thật... đều bị rớt đài. Chàng giương
cao ngọn cờ hưng khởi của Thiền tông, mà chàng gọi là Thiền tông tịch mặc.
Trong lúc thái tử Khải Nguyên muốn dành mọi vinh quang cho vị pháp sư siêu việt
thì chàng đã mất tích. Nghe nói Nhật Liên thượng nhân đã mất (1282), và mong
chàng là người kế vị giáo chủ. Và bây giờ ....
- Anh hãy nói đi! Vị lão sư quay lưng
ngồi lên chiếc giả đôn bằng đá trắng, nói dịu dàng - không phải là nói cái kinh
qua mà nói cái còn lại, cái đọng lại!
Ô-chu ngước đầu lên, tròng mắt phản
chiếu nước mặt hồ xanh trong lặng lẽ. Y cởi bọc hành lý đặt dưới chân đức thầy
già nua rồi lấy ra chiếc áo cũ, chiếc áo chàm nâu đã bạc mầu còn nguyên nếp
gấp, những tấm vá vụng về đã long những sợi chỉ vàng. Y nhìn thật lâu vào đấy
đầy xúc động.
- Bạch thầy ạ, đây là chiếc áo cũ năm
xưa, bây giờ còn muốn mặc lại, xin thầy cho phép.
Giọng chàng như lạc hẳn đi.
Đôi mắt lão thiền sư rớm lệ. Có lẽ là
những hạt nước mắt đầu tiên và cũng là những hạt nước mắt cuối cùng.
- Con có nói gì nữa không, Ô-chu? Tóc
con đã bắt đầu điểm muối sương rồi.
-
Dạ!
Im lặng.
- Con không nói gì ư?
-
Dạ!
Lại im lặng.
Một con chim vành khuyên mỏ đỏ hót một
tiếng hót lảnh lót xao động không gian. Một cơn gió nhẹ nhặt mấy cành hoa anh
đào ném tung thành vài con bướm lượn. Một cánh rơi nằm trên manh áo cũ. Lão
thiền sư mỉm cười cúi xuống bắt bỏ lên lòng bàn tay:
- Ba mươi mùa hoa anh đào đã qua đi
rồi, thuở còn từ giã nơi này. Thời gian qua đi nhưng hoa nở hoa tàn thì vẫn
vậy.
Lão thiền sư ngước nhìn trời. Đám mây
bay qua đầu cây tuyết tùng giờ lại long lanh màu hổ phách. Ngài chống gậy chậm
rãi bước đi. Nhìn theo dáng hạc gầy guộc của thầy, Ô-chu liên tưởng đến một
đỉnh núi đá cô liêu. Và chàng là con sông dài cuồn cuộn chảy về khơi. Ai ngờ
con sông trở lại.
Trai đường rộng mênh mông, mấy trăm
môn sinh ngồi tỉnh tọa giây lát trước khi vào bữa ăn sáng bằng cháo ngũ cốc. Họ
đã tụng Phật hiệu xong - Namo Sak-ya-mu-ni Bud-dha - tiếp theo là lời quán
tưởng. Giọng tụng thoát khung cửa lớn ùn ùn tỏa ra chao động cả khoảng không
gian còn đọng hơi sương. Lão thiền sư lọc cọc đầu gậy trúc đột ngột đi vào với
một trung niên tóc đã điểm hoa râm.
- Các con thân mến! Rồi lão thiền sư
vỗ nhẹ lên vai Ô-chu - Hôm nay thầy giới thiệu với các con một môn sinh mới xin
nhập viện. Thầy đã cho y thọ trì Tam quy và Bát quan trai giới. Pháp danh là
Ô-chu. Các con hãy sống thuận thảo tương ái tương kính lẫn nhau, lấy Lục hòa,
Tứ nhiếp làm trọng.
Mấy trăm đôi mắt tò mò, thú vị hoặc
lãnh đạm nhìn người đàn ông lớn tuổi, lớn tuổi hơn cả những vị thượng tọa cao
hạ ở đây. Nhưng người y sao rừng rú thế? Ở nơi cái thân thể lực điền, mày thô
mắt cứng không tìm thấy một nét văn nhược thì học hành cái gì! Cuốc đất thôi! Y
lại khoác lên người chiếc áo thô cũ, quá cũ, vá đùm, vá chụp trông chẳng được
mắt chút nào.
- Thượng tọa Quản chúng, Thượng tọa
Tri luật, Thượng tọa tri sự, Thượng tọa Giáo thọ đâu? Tiếng lão thiền sư yếu,
thanh nhưng sắc mạnh.
Cuối trai phòng, bốn vị Thượng tọa
đồng đứng dậy, chấp tay ngang ngực.
- Các thầy đã biết bổn phận nhất định
của mình là phải làm gì đối với một tân môn sinh.
- Dạ.
Lão thiền sư lẳng lặng nhìn quanh một
vòng rồi từ từ bước ra cửa. Chiếc bóng cao lênh khênh, màu áo khói hương như
tan lẫn trong sương, chỉ còn vọng lại đều đặn tiêng gậy trên lối sỏi.
- Lại đây, lại đây, người bạn đạo.
- Lối này, lối này.
- Chiếu này, chỗ này!
- Chỗ anh là chỗ cuối cùng kia, người
em út!
- Mới vào chùa mà ra vẻ sư cụ nhỉ?
- Một trăm gánh nước, ha ha, bài học
nhập môn hạng bét cơ đấy!
- Quét một ngàn giỏ lá hoa anh đào,
ông bạn già. Mòn vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp cái chổi, phải biết!
- “Cù” thế!
Tiếng tiếp tiếng, câu tiếp câu chen
lẫn xen lộn ồn ào. Một tiếng bảng mộc vang lên.
- Chư đệ, chư đệ, hãy im lặng.
- Chư đệ, chư đệ, chớ quên mình, chớ
phóng dật!
Trai đường im lặng trở lại.
Người ta rất ngạc nhiên về vị môn sinh
mới. Suốt ngày y rất ít nói, lặng lẽ như chiếc bóng của mình. Y không tỏ vẻ cố
gắng lắm nhưng hoàn tất dễ dàng các công việc được giao phó. Y làm không chậm,
không nhanh, đôi khi rất chậm, đôi khi rất nhanh, bao giờ cũng toát ra cái vẻ
thanh thoát, nhẹ nhàng, êm ả, dẫu cho cái thân thể to lớn nặng nề. Người ta
không thấy y trầm tư, thiền định, không mơ mộng và buồn phiền. Đôi khi y ngâm
khe khẽ một vài câu thơ cổ, một vài câu kệ với âm thanh phát ra ư ử trong cổ
họng, không ai nghe được. Đặc biệt, cái trầm tĩnh của y đến độ làm cho người ta
lạnh mình. Chuyện kể rằng, lão thiền sư cho phép y làm cái cốc rạ phía sau hốc
núi, cách chỗ của thiền sư một con suối nhân tạo và một hòn giả sơn. Hôm kia,
cốc phát hỏa do một môn sinh nướng khoai sơ ý gây nên. Về đến nơi thì chỉ còn
một đống tro. Vị môn sinh kia áy náy bối rối đến tội nghiệp. Ô-chu mỉm cười mà
rằng: “Vậy chớ sau đó thầy có ăn khoai được không, hay là nó đen thui?” Người
ta chơi nghịch đốt giải áo của chàng trong lúc chàng nghỉ trưa. Chàng ngồi dậy
thì đám lưng đã cháy một mảng. Chàng bị bỏng nặng mà không hề than một tiếng.
Chàng đã không biết giận ai mà lại hay cười. Chàng mỉm cười với mọi sự. Mỉm
cười với tất cả “lính cũ bắt nạt lính mới”. Mỉm cười với mọi công việc nặng nề,
hôi hám mà người ta đùn cho chàng. Ở đâu mà không thế. Chàng rất ít nghỉ ngơi,
ai hỏi lý do, chàng nói: “Ngay chính nơi công việc, ta luôn luôn tìm được sự
nghỉ ngơi”. Những công việc tay chân và thiên nhiên là sự nghỉ ngơi của chàng,
sự nghỉ ngơi thiêng liêng nhất mà không phải tuổi nào cũng thấy được, người nào
cũng hiểu được. Do vậy, trong công việc, chàng làm với tất cả lòng đam mê và sự
sáng tạo. Trong thiên nhiên, sự hiện hữu của muôn loài, muôn vật, chàng nhìn
ngắm với sự mới lạ trong từng giây từng khắc, với trọn tâm hồn của mình.
Sáu tháng sau, Thượng tọa Giáo thọ kêu
chàng lên:
- Chú chấp tác mọi công việc đều tốt,
rất tốt. Thượng tọa tri sự yêu cầu tôi bắt đầu dạy giáo lý cơ bản cho chú.
Nhưng trước khi vào chương trình, tôi phải biết sơ về trình độ, hầu dọn cho chú
một chương trình giáo lý riêng biệt thích hợp. Muốn vậy, chú phải trả lời những
câu hỏi của tôi. Chú đi tu đã lớn tuổi, chú đến với Phật giáo quá muộn màng.
Chú biết đấy. Vậy thì chú biết gì về Phật không? Nghĩa là tôi muốn hỏi, chú đã
biết Phật là gì chưa?
“Lão tân môn sinh” lúng túng ra mặt,
khẽ nhìn vị “Thượng tọa bác học” rồi lại cúi đầu xuống.
Đọc được tia mắt ấy, Thượng tọa Giáo
thọ cố gắng diễn giải:
- Chú chỉ cần nói ra cái ý niệm.
Không, chả cần, chữ “ý niệm” rắc rối khó hiểu - Thượng tọa nhăn mày - Hay là
thế này vậy, chữ “Phật” gợi cho chú hình ảnh nào; phải, hình ảnh, cái hình ảnh
thiêng liêng hoặc gần gũi mà chú đã bắt gặp được trong đời sống của mình. Phải
rồi, chú nói đi, Phật là gì nào?
Quả thật,
chàng lạ lùng, ngạc nhiên trước câu hỏi này. Phật là gì nhỉ? Ở nơi cái
ngôn ngữ tối tăm và u ám của con người, có chỗ nào diễn tả chân xác nhất? Đầu
óc Ô-chu làm việc thật nhanh, như chiếc đèn cực sáng quét qua một lượt mấy cánh
rừng ngôn ngữ. Qua gần năm cổ ngữ và mười ngoại ngữ khác nhau, chàng không tìm
ra từ thích hợp. Những chữ, những chữ hiện tuần tự thứ lớp như cuốn phim tốc
quay và chàng chụp bắt với đôi mắt của loài cú. Thế nhưng, Phật là gì? Ồ! Phật
là gì nhỉ?
Và thế là Ô-chu thiểu não lắc đầu.
- Chú không biết! Thượng tọa Giáo thọ
thở dài. Phật mà chú không biết là gì, thì xin lỗi... đi tu vậy là cuồng tín
mất thôi. Ôi, tín mà không có trí là hỏng rồi!
Ô-chu cũng thở dài. Biết sao được.Thầy
Giáo thọ quở phiền chàng là phải lắm. Ôi, rõ ràng là không thể nói Phật là gì.
Nói ra là hỏng mất thôi.
- Pháp là gì? Thượng tọa Giáo thọ đưa
mắt thương hại hỏi tiếp - dẫu chú không biết Phật là gì, nhưng tôi vẫn hy vọng
là chú biết Pháp, biết được cái chân lý mà từ đó, chú đoạn bỏ đời sống cư sĩ áo
trắng tục lụy và tối tăm để về với ánh sáng đạo. Pháp là gì? Tôi đã cố gắng tìm
kiếm nơi chú một hiểu biết tối thiểu, như gạn cát tìm vàng. Pháp là gì? Bạn
thân mến, Pháp là gì nào?
Pháp là gì? Ô-chu chợt mỉm cười. Chàng
biết rõ cái đó trong tâm. Chàng đã cùng hít thở, đi đứng với nó. Nhưng biết nói
làm sao nhỉ? Ôi, sao ngôn ngữ loài người nó nghèo nàn đến thế?
Trong lúc cố gắng tìm kiếm, cân nhắc,
bất chợt chàng thấy một cánh thảo lan thò nụ hoa vàng từ sau gộp đá nâu.
- Kìa, Thượng tọa - Chàng rối rít đưa
tay chỉ - Một nụ thảo lan, có phải không? Là một nụ thảo lan! Ôi! Đẹp làm sao!
- Cái gì? Vị Giáo thọ sư quắt mắt -
Chú nói cái gì? Chú nói kìa một nụ hoa vàng, một nụ thảo lan, là quái gì?
Thượng tọa giáo thọ bốc giận - Đấy là ngôn ngữ thiền sư “rởm” chú ạ! Ai cũng có
thể nói được một nụ hoa vàng, đẹp lắm, xưa quá rồi. Thôi đi, “nởm” ạ!
Thượng tọa Giáo thọ đứng bật dậy, thu
vội sách vở trên bàn.
- Chú hãy trở về trình diện lại với
Thượng tọa tri sự, kiếp này chú không tu huệ được đâu, chỉ tu phước thôi. Hãy
cố gắng tích lũy công đức trong lao tác, trong đời sống phục vụ Tam Bảo. Công
đức kia sẽ hộ trì, dắt díu chú. Con đường này tuy chậm, nhưng chắc chắn và vững
vàng, hợp với khả năng của chú. Tôi cầu nguyện Phật lực gia hộ cho chú...
Ra đến cửa rồi, Thượng tọa Giáo thọ
quay lại nhìn chàng một hồi lâu:
- Chiếc áo vải thô của chú đã cũ quá
rồi. Chú không có cha mẹ, bà con, họ hàng thân thích gì cả sao?
- Dạ không ạ!
- Vậy thì để tôi đề nghị lên Thượng
tọa Quản chúng, Đại đức Thủ quỷ may cho chú một vài bộ áo quần cho tiện việc
chấp tác. Chiếc áo kia cũ quá rồi đấy!
Ô-chu mỉm cười:
- Thôi Thượng tọa ạ! Chiếc áo này cũ
nhưng còn chắc chắn hơn cả bao gai. Nếu biết vá víu cho khéo thì cũng có thể
dùng được lâu. Chỉ có cái là bàn tay của đệ tử thô tháo, vụng về thôi.
Thượng tọa Giáo thọ nhìn hai bàn tay
chai sạn, u nần, kệch cỡm của Ô-chu, cười thành tiếng:
- Phải rồi, chú sinh ra không phải là
để học, để ngồi trên những chiếc ghế vàng son lộng lẫy của pháp sư, giảng sư...
Ba hồi chuông trống bát-nhã rộn ràng
vang lên đánh thức sự tịch mịch của đêm sương. Đèn đuốc bất chợt được đốt sáng
khắp đó đây.
- Thầy đã tịch rồi!
Tin truyền rất nhanh. Tất cả môn sinh
đã tụ về lố nhố đứng cung kính, ủ rủ trước cốc của lão thiền sư Đạo Nguyên.
Không một tiếng động. Lát sau tiếng niệm Phật hiệu thầm thì rồi lan ra, lan ra
mãi. Các vị Thượng tọa cao hạ và chức sắc quỳ thành vòng tròn xung quanh thiền
sàng, chấp tay lên ngực, có đôi vị rưng rưng như cố kìm giữ tiếng nấc.
Lão thiền sư Đạo Nguyên không bệnh,
không báo trước mà lặng lẽ ra đi. Ngài ngồi kia, trong thế kiết già phu tọa,
khuôn mặt tỏa sáng niềm an lạc, nhưng thần thức giờ đã tiêu diêu ở cõi đầy hào
quang và ánh sáng nào.
Phần ngài thế là xong. Nhưng còn người
nối hậu? Y pháp chưởng giáo ngài đã truyền lại cho ai chưa? Đấy là câu hỏi lởn
vởn trong đầu óc của mọi người.
Không ai tìm ra di chúc, một lời giáo
huấn tối hậu nào. Thật là khó xử đây. Thượng tọa Quản chúng một đời hỷ xả, niên
trưởng và đạo hạnh. Thượng tọa Tri sự một đời phục vụ, hạ lạp cao và vô vàn
công đức. Thượng tọa Tri luật, niên cao lạp lớn, gương mẫu cho chúng, nghiêm
minh và thanh tịnh. Thượng tọa Giáo thọ dẫu hạ lạp ít hơn chút đỉnh, trẻ tuổi
nhưng một đời ít ngủ, ít ăn, chăm lo hàng trăm lớp giảng huấn, hàng chục trình
độ khác nhau; lại nữa, là người suốt thông Tam Tạng, là linh hồn tri thức, kiến
thức cho viện.
Sau lễ nhập tháp ba ngày, một buổi họp
giới hạn được tổ chức, nơi đây chỉ gồm các Tỷ-kheo chức sắc hoặc từ năm hạ trở
lên. Bốn nhóm thân hữu, đệ tử hoặc cảm tình với bốn vị thượng tọa tranh luận
cho phe phái của mình. Ai cũng có thể đưa ra những dẫn chứng chính đáng và cụ
thể nhất.
Ban đầu thì ngôn ngữ khiêm cung, nhã
nhặn, đến lúc chẳng ai chịu thua ai, tranh luận biến thành tranh cãi rồi trở
nên sôi nổi, gay cấn, ồn ào. Một vài cánh tay giận dữ đưa lên cao. Một vài đôi
mắt đã gườm gườm bốc khói. Những tiếng bảng mộc không ngớt vang lên.
- Chư đệ, chư đệ, im lặng nào!
- Chư đệ, chư đệ, chớ phóng dật, chớ
quên mình!
Nhưng vô ích. Ở đây đã có rất nhiều
loại ngựa non háu đá, gà tơ mới mọc cựa...
Trong lúc ở thiền đường xảy ra cuộc
tranh luận thì ở sau hốc núi có một bóng đen lặng lẽ luồn qua các vòm cây đến
ngôi tháp mới. Bóng đen quỳ trước cửa tháp từ canh gà đầu tiên đến lúc sao Mai
vừa mọc. Y đứng dậy giũ sương trên áo rồi lảo đảo thắp ba nén nhang. Sương mù
đầy đục cả trời, gió hiu hiu buốt lạnh. Quày qua lối cũ, đến cổng trúc vàng,
bụi thục quỳ, y dừng lại. Ánh trăng hạ tuần nhợt nhạt trong màn sương trắng.
Tiếng một con cú rúc lẻ loi. Y đưa mắt một vòng. Lát sau y quảy đãy ta bà lần
theo lối sỏi khuất dưới chân đồi.
Đấy là Ô-chu, chàng lặng lẽ từ giã
thiền viện, nhẹ nhàng, âm thầm và cô liêu hơn cả kẻ từ giã cuộc đời. Chàng đến
một động đá, trịnh trọng khoác chiếc áo cũ lên người rồi an nhiên kiết già tịch
diệt, trên môi còn nở nụ cười bất diệt. Qua ánh sáng mờ từ cửa động hắt vào,
người ta đọc được từ lưng chiếc áo cũ mấy dòng chữ chân phương, đôn hậu, bút
tích không thể lầm lẫn của lão thiền sư quá cố:
“Y
Pháp Bất Y Nhân
Y Nhân Bất Y Pháp
Nhân Pháp Liễu Mật Thâm
Mạc Cầu, Phi Thủ Trước”
Tạm
dịch nghĩa:
Nương
theo pháp, chẳng nương theo người
Nương
theo người, chẳng nương theo Pháp
Người,
pháp rõ nguồn căn
Chẳng
cầu chẳng ôm giữ.
(Thiền
tông đời thứ hai, Kiếm Thương hưng khởi, Đạo Nguyên Tỷ-kheo; phụng truyền đệ tử
trưởng đắc pháp đời thứ ba là Ô-chu).
Thế là Pháp, Nhân đã cùng tịch diệt
với nhau trong động đá. Cho nên hiện nay, phái này đã không còn truyền thừa.
Chuyện kể rằng một trăm tám mươi năm sau, di tích này vẫn còn. Một thiền sư
nghệ sĩ vô danh trong khi sơn thủy hành cước ghé qua đây, biết chuyện của người
xưa, xúc cảm làm một bài thơ nét chữ long phượng, dường như còn mãi đời đời nơi
vách đá:
“Thầy
là đỉnh núi cô liêu ngàn đời tịch mặc,
Trò là con sông dài cuồn cuộn bỏ núi ra khơi
Còn đây áo cũ ngậm ngùi
Còn đây biển núi nụ cười an nhiên.”
Bức Tranh Cuối Cùng
Chàng họa sĩ giang hồ trở lại ngôi
biệt thự ấy vào đầu mùa xuân.
Ngôi biệt thự nằm trên một khu đất
hình vuông, diện tích áng chừng hai mẫu Tây, bốn mặt tường dựng đứng cách biệt
với thế giới bên ngoài. Chàng còn nhớ rõ như in, mặt tiền ngôi biệt thự ngăn
bởi một con đường tráng nhựa rộng rãi, là bãi biển với hàng dừa xanh tắp mọc
lên trên bãi cát trắng phau kéo dài đến tận chân núi phía đông nam. Sóng và gió
từ biển đông ì ầm và vi vút suốt ngày đêm tạo nên một khúc hòa âm triền miên
bất tuyệt. Bãi biển là nơi mà chàng thường hay đi dạo, vốc cát qua kẽ hở năm
ngón tay, nhìn dấu chân hôm qua của mình đã mất, lượm những vỏ sò, vỏ hến lấp
lánh như kim cương, gối đầu trên cánh tay nằm dài nghe sóng vỗ, chạy đuổi những
con còng, bắt rồi thả ra bằng nụ cười hồn nhiên vui sướng. Lớn lên theo ngày
tháng, những bước chân chậm rãi tư duy, nhìn vẻ đẹp lồng lộng và chan hòa của
đất trời; đôi khi chàng lên tận cả những mỏm đá vắng người, thấy mình cô đơn
giữa mọi vật, giữa biển, núi và mây trời; cô đơn hơn cả những mỏm đá chơ vơ,
đón gió lộng từ trùng dương, ngước mắt nhìn trăng sao mà sương xuống trên đầu
đêm đêm âm thầm hứng lấy những hạt lệ! Đôi khi chàng xúc động thái quá, sững sờ
thái quá khi chàng nhận ra được vẻ đẹp cuồng nộ của biển, nhất là về mùa đông.
Vẻ đẹp mang sức sống vỡ bờ, lạnh lẽo, ướt át, và ào ào của một tuổi trẻ niên
tráng, lại như toát ra cả sự bạo tàn và hủy diệt nữa. Về mùa xuân hoặc mùa hạ,
biển trầm lặng và dịu dàng hơn, nhưng nó cũng ẩn dấu vẻ đẹp của sự dậy thì, sự
thôi thúc hoặc gọi kêu của dục vọng; đồng thời, như là một cái gì mơn trớn, vỗ
về, ủi an của tình mẹ!
Năm mười sáu tuổi, trước khung vải đã
căng ra không biết bao nhiêu ngày, chàng chợt thấy mình bối rối, bất tài khi
muốn ghi nhận lên đấy những tư tưởng vừa khởi sinh mà hình ảnh, màu sắc sẽ là
phương tiện phô diễn.
Phía nam biệt thự là một Nữ tu viện
thuộc dòng Thánh Francois d’Assise. Vì luyến lưu một đôi mắt, bị ám ảnh bởi một
đôi mắt mà chàng đã bỏ công không biết bao nhiêu ngày để tìm cho ra ý nghĩa
Francois d’ Assise! Vốn không biết tiếng Pháp nên chàng đã ghi tên lên một mảnh
giấy nhỏ rồi lục lọi lung tung. Sau nhờ một người bạn học ở trường Dòng cho
biết, chàng mới hổ thẹn làm sao! Cũng nhờ vậy, nhờ tự ái mà chàng đã tìm hiểu
giáo lý của tôn giáo này cùng với cuộc đời của Thánh. Càng biết cuộc đời của
Thánh, cuộc đời của một người lên đường với đức tin triệt để, khổ hạnh triệt
để, chàng lại càng mê mẩn đôi mắt ấy hơn. Hình như cả suốt thời niên trẻ đôi
mắt ấy ám ảnh chàng không rời. Đôi mắt mà chàng thường không biết định nghĩa
làm sao, ghi lên khung vải thế nào - vì nó vừa thánh thiện, siêu việt cuộc đời
mà cũng vừa cuộc đời quá đỗi. Khi mùa xuân đến, chàng thấy trong đôi mắt của
người nữ tu những chồi non của lá và những nụ nõn của hoa. Mùa hạ đến, chàng
thấy hai hàng phượng đỏ rực, tiếng ve kêu, bầu trời trong, xanh, cao cùng sức
sống rạt rào của cây cỏ. Mùa thu đến thì chàng thấy cả khung mây bàng bạc, cành
liễu buông mềm dưới trăng lạnh cùng những vì sao ấp lánh giữa thiên hà bao la.
Mùa đông đến, chàng thấy cả trăng sao đều ướt át, những cánh chim non run rẩy
cùng sự hiu quạnh, tịch mịch của hoàng hôn, của đêm, của trời, của đất... Đôi
mắt ấy là cả cuộc đời, là trọn vẹn cuộc đời, là toàn thể vũ trụ đại hóa. Chàng
đã say mê, điên đảo. Nhưng cũng đã không biết bao nhiêu lần, chàng chỉ đứng
lặng xa để chiêm ngưỡng hoặc vòng tay vừa khiêm tốn, vừa thành kính - như đứa
trẻ ngoan đạo với Thánh nữ Maria- khi dáng liễu dịu dàng, trầm mặc và xa vắng
ấy đi qua! Khung vải vẫn hoàn là khung vải. Vẻ đẹp ấy quả là vẻ đẹp ngàn đời,
không có khuôn khổ và kích thước. Bao giờ cũng vẫn như gần, như xa, vừa trầm
luân vừa thánh thiện, trong cuộc đời mà ngoài cuộc đời, hữu hạn mà vô cùng...
Chàng định bỏ bút ngay thời kỳ ấy, nhưng chợt nghĩ, biết đâu thiên tài trong
chàng chưa đến hồi khai hiện!?
Nhưng quả là chàng đã nghi ngờ thiên
tài của mình lắm rồi! Vì chàng cũng đã thẩn thờ bất lực khi tiếp xúc với thế
giới phía tây ngôi biệt thự. Đấy là cô nhi viện của một hội từ thiện, nuôi và
cho ăn học các trẻ con bơ vơ vì chiến tranh loạn lạc. Thế giới ấy cũng đa dạng
và phức tạp dường bao! Mỗi đứa là mỗi nét mặt, mỗi dáng đi. Mỗi đứa là mỗi cuộc
đời riêng lẻ, riêng lẻ cho đến nỗi, hình như nó không liên hệ với bất cứ cái gì
khác. Mà giống nhau thì giống nhau y như hai giọt nước. Rồi thì sự yên tĩnh của
những trưa hè, những đêm khuya khoắc, những ngày đông lạnh; sự ồn ào của những
lúc ra chơi, tập họp; sự lao xao của những bữa ăn; tiếng nói cười, la hét, nô
đùa, chạy nhảy... Thỉnh thoảng chàng đã lặng người, đông cứng lại khi thấy vài
tia mắt cô đơn, những tiếng khóc thầm rưng rức ở một góc vắng. Những bà phước,
bà dì... bác ái và nghiêm nghị, sắc sảo và dịu dàng. Những bà lớn áo quần lộng
lẫy và sặc sỡ, xe cộ bóng lộn; những tướng tá, những giám đốc, những nghị viên,
những hội từ thiện! Những món quà cho đi, máy quay phim, máy ảnh chớp lia lịa!
Những nụ cười ngây thơ lẫn những nụ cười no đầy thỏa mãn. Những cánh tay vẫy
gầy ốm lẫn những cánh tay lấp lánh hột xoàn, nhẫn, kim cương. Một cái gì đó ở
trong chàng không có tên gọi, cứ âm ỉ thúc hối chàng căng khung vải ra... Diễn
tả cái màu vàng trong ngọn lá xanh? Cái bóng tối mù mịt trong ánh sáng chói
chang? Sự náo nhiệt trẻ trung lẫn sự cô đơn kinh khiếp của tuổi thơ? Ôi! Những
điếu thuốc nối nhau, những đêm thức trắng, những ngày đi vơ vẩn, lang thang chỉ
nói lên cái bi đát, cái nghèo nàn và sự thiếu tài của chàng mà thôi! Những ngọn
bút, cây cọ và hộp màu vẫn nằm khiêu khích, hí lộng chàng bên giá vẽ, chưa có
một bức nào thành hình!
Còn thế giơi phía bắc nữa, cái ngôi
chùa nằm im ỉm lạnh lùng ít khi chàng thấy thập phương lui tới. Nó tịch mịch
cho đến độ mà mỗi lần đi qua đấy, chàng thấy lòng mình lắng xuống thật sâu, như
không còn liên hệ gì với văn minh, thị thành, sự đổi thay của thời đại, xã hội;
những đợt thủy triều xuống lên của chính trị và kinh tế. Nếu ví von được, thì
đấy phải là chỗ “ngàn dặm dưới đáy biển” hoặc là cái động thẳm sâu nào đó trong
hang núi - chẳng may may dao động dù sóng dữ hay bão to! Hòa thượng trụ trì là
một lão trượng quắc thước, gầy và khô như thân hạc, chống cây gậy trúc cũng gầy
và khô như cẳng hạc. Chàng chưa thấy hòa thượng cười bao giờ, mặc dầu chàng đã
nhiều lần qua đấy chơi với chú Ích và chú Sanh - đệ tử của ngài. Ít khi chàng
dám đến gần hòa thượng. Chỉ cái nhìn của hòa thượng thôi là chàng thấy lưng
mình ớn lạnh mất ba ngày! Khi hòa thượng chống gậy đứng một mình trước tam quan
thì giống như Trương Phi chống cây xà mâu một mình nơi cầu Trường Bản làm vỡ
mật hai mươi vạn quân Tào. Cái loại “ma quỷ” hoặc ngoai đạo như chàng thì thật
không dám héo lánh đến, vừa thấy đã chạy dài! Khi hòa thượng chống gậy đứng
quay mặt vào chánh điện thì cả thế giới sau lưng ngài đều như lùi xuống thấp
hoặc vô nghĩa. Và rõ ràng những cái mà chùa khác cần như điện to Phật lớn, đệ
tử và tín đồ đông đúc thì hòa thượng chẳng cần tí nào. Những điều mà các tôn
giáo khác thấy cần thiết, quan trọng như giáo hội, tổ chức, cơ sở từ thiện, cơ
sở kinh tế, hoằng hóa, phát triển, độ sinh... thì hòa thượng chẳng mảy may để ý
đến. Cái mà mọi người quy lụy, cầu cạnh như tiền bạc, giàu sang, danh vọng, địa
vị, quyền hành, chức tước... thì hòa thượng chẳng coi ra gì cả. Chính cái đời
sống giản dị, trầm lặng, không vồn vã tiếp đón thập phương, không mở cửa mời
quan lớn; và ngôi chùa nghèo nàn, hư bên này, sụp bên kia, lẫn các con đường
đều phủ dày rêu xanh đã cho chàng thấy biết như vậy. Hai người đệ tử cũng có
một đời sống thầm lặng như thầy, kiến thức thật uyên bác, văn thơ hay, viết chữ
đẹp - thì không lý gì ngài hòa thượng chỉ là ông thầy tụng nhà quê! Mà theo chú
Sanh cho biết, sở học của thầy họ, đáng bậc thầy của những vị thầy có danh
tiếng thời ấy nữa. Cũng chú Sanh kể lại, hòa thượng có hai quyển tự điển dày -
đấy là đúc kết lại những chữ Hán khó trong vòng năm mươi năm người ta đến hỏi
ngài. Hòa thượng lại ít nói, rất ít nói. Có một lần, chỉ một lần duy nhất thôi,
khi chàng hỏi chú Ích, tại sao chùa không có tín đồ, quanh năm suốt tháng lạnh
tanh như thế này, sao không sửa sang xây dựng lại, không thuyết pháp, giảng
kinh, đem đạo Phật “đi vào cuộc đời”? Chú Ích ngần ngừ rồi lấm lét đưa mắt nhìn
hòa thượng - khi ấy Ngài đang đọc sách nơi án thư gần đó.
- “Đi ra ngoài kia mà nói chuyện!”
Đấy. Đấy là câu nói duy nhất mà chàng
nghe được trong vòng năm năm lui tới quen biết với chú Ích và chú Sanh! Rõ ràng
đó là câu la rầy, nhưng không to quá, không nhỏ quá, trầm mà nghiêm. Cũng có ý
nghĩa là, các chuyện đại loại như chàng hỏi, phải đi ra “ngoài kia” tất cả!
“Ngoài kia” là ngoài cái cuộc đời ô trọc kia, ngoài cái cõi luận tranh, nghị
bàn ỏm tỏi; ngoài cái thế giới tham sân, đổi lợi mua danh... Kể từ lúc ấy,
chàng tránh luôn, tránh hòa thượng và tránh cả ngôi chùa nữa. Một phần ngán cái
“đỉnh núi đá lạnh lùng” cô liêu và trầm mặc ấy; một phần sợ rêu xanh trên bờ
đá, tường thành, sân và đường sẽ mọc lan hoặc xâm lăng tâm hồn chàng; sợ trầm
hương ở đó sẽ tỏa ra, rồi đọng lại làm cho đen kịt cái bầu trời trong xanh của
tuổi xuân chàng đi; lại sợ luôn tiếng chuông u minh trầm trầm lặng lặng giữa
đêm khuya thanh vắng nữa! Ôi! Tiếng chuông sao mà buồn, mà não nùng đến thế! Nó
u u, vù vù... hù hù mãi, như xoáy sâu vào tâm can phế phủ người ta!
“- Chỉ có quệt một lớp sơn màu đen mà
thôi vậy!”
Thuở đó chàng thầm nghĩ như thế, khi
muốn vẽ lại những ý nghĩ của chàng về ngôi chùa và vị hòa thượng. Rõ ràng là
chàng không thăm dò gì được cả, kể cả cái bí mật rêu xanh vây trọn cả ngôi chùa
cũng đã khiêu khích, phỉ báng lên “thiên tài chàng”. Tất cả đều lạnh toát, lạnh
như băng giá. Có thể vẽ một cục nước đá chăng? Bí mật, lạnh lùng, kỳ dị và khó
hiểu quá!
Bao năm rồi? Chàng họa sĩ không còn
nhớ rõ nữa. Sau đó, chàng đi giang hồ. Chàng bỏ đi, từ biệt ngôi biệt thự. Từ
biệt bờ biển phía đông, từ biệt nữ tu viện và đôi mắt phía nam, phía tây là cô
nhi, phía bắc là ngôi chùa và vị hòa thượng. Bỏ đi, ra đi là đớn đau và chua
xót. Nhưng đồng thời ra đi là tiếng gọi kêu giục giã của định mệnh! Chàng cắn
răng vứt những hộp màu và xé toạt khung vải, lòng thầm đợi sự trưởng thành
trong mai hậu - nhờ khổ đau, lớn khôn, bụi cát, cô đơn, hy vọng và tuyệt vọng;
chàng sẽ trở về chốn cũ, tiếp tục cái khung vải ngày xưa đang để một khoảng
trống lớn trong tâm hồn chàng.
Chàng họa sĩ trở lại ngôi biệt thự ấy
khi tóc đã có vài sợi bạc. Quả thật, y bây giờ không còn là hình ảnh của gã thư
sinh mặt trắng nữa.
Mười lăm năm qua chàng đã sống quá
nhiều, dạt trôi đã quá nhiều, hoan lạc và khổ đau quá nhiều, suy tư và sáng tạo
cũng đã quá nhiều! Nhưng than ôi! Cái đỉnh cao của nghệ thuật - cái Chí Mỹ -
thì vẫn còn ở cuối chân trời mù mịt. Có một cái gì bãng lãng, bồng bềnh, sâu
thẳm mà không bao giờ cây cọ của chàng chụp bắt được mặc dầu nó vẫn ở đó, bất
cứ đâu trong mọi sinh hoạt, mọi hiện tượng của đất trời: trong một ngọn cỏ, một
ánh nắng hoặc một giọt sương mai! Nhưng dẫu sao, cái nhìn của chàng bây giờ đã
có kích thước chiều rộng và chiều sâu hơn. Hơn thế nữa, lại có cái gì như “thấu
thị”, nhìn xuyên qua hiện tượng, vẽ ra được cái gì ẩn giấu sau bề mặt. Niềm tin
rằng mình sẽ là thiên tài không hề lung lay trong chàng. Phải biết nuôi dưỡng
và hoài thai thêm nữa, với số tuổi
bây giờ chỉ mới nửa đoạn đường. Chàng biết là chàng đã bước qua mấy cấp độ trên
đường nghệ thuật để vươn lên cái chí mỹ, nhờ chàng không ngừng đọc sách, lên
đường, suy tư và tìm kiếm. Cái thuở bình minh của tâm thức trẻ thơ, người ta
chỉ biết ghi nhận hiện tượng bằng những màu sắc nguyên thủy. Khá hơn, người ta
chụp bắt ngoại giới trong sự biến dịch đổi thay, tạp đa và muôn sắc. Khá hơn
thế nữa, người ta chọc thủng hiện tượng, bức phá hữu hạn bằng cái nhìn đầy sắc
bén, góc cạnh của kiến thức và trí năng. Cao hơn thế nhiều, người ta vượt bỏ
kiến thức và trí năng hữu hạn để nhảy vào chiều sâu uyên áo của tâm năng và
trực giác. Cái tâm năng và trực giác này, chàng “mường tượng” đã bắt gặp ở
Thiền tông hoặc những danh họa đượm màu sắc và tính chất Lão Trang. Nhưng than
ôi! Mấy chục bức họa “thiên cổ” của chàng đã thất bại vô cùng đớn đau trong lần
triển lãm cuối cùng. Con người, đầu óc chúng, còn lông lá nguyên thủy, ngây thơ
hoặc duy lý làm sao. Họ không thể hiểu được, cảm nhận được, sao trong đôi mắt
thiếu phụ lại có bầu trời mùa thu? Họ không thể hiểu được, tri nhận được, tại
sao lá vàng lại nằm trên cây và lá xanh lại rụng dưới đất? Họ đã đưa tay chỉ
trỏ và cười cợt khi biển ở trên cao và núi nằm dưới thấp. Cái đó, trời ơi! Nó
mới thâm viễn và kỳ diệu làm sao! Cuộc đời đấy! Sự thật điên đảo đấy! Sự mâu
thuẫn, diệt sinh, tương xung, tương nghịch của vũ trụ thế giới hiện tượng đó
mà! Xã hội, lịch sử và tư tưởng nữa! Ấn tượng và lập thể là cái gì! Tượng trưng
và siêu thực là cái gì! Đối với chàng, chúng chỉ là những “mode” thời trang đã
phế thải hoặc được cất giữ ở bảo tàng viện! Chính những cái thuộc tư tưởng và
tâm linh như của chàng mới là những sáng tạo đời đời. Ha ha ha... “thời đại và
kỷ nguyên nằm sau lưng ta như chiếc ga và con tàu ở cuối chân trời xa...”
Nuôi dưỡng, hoài thai và sáng tạo nữa.
Chàng thầm nghĩ. Thiên tài phải biết chấp nhận khổ đau, vượt qua sỉ nhục, coi
thường dư luận, mỉm cười trước thất bại, đắng cay cùng đói rách. Cái tuổi thơ
xa xăm kia chàng đã không thực hiện được, một quãng đời giang hồ chưa thành tựu
được thì lứa tuổi phong sương này phải thực hiện cho bằng được!
Ông cậu của chàng, một luật sư lão
niên, kiến thức uyên bác, hiểu biết và độ lượng; sau khi trao tất cả giấy tờ sổ
sách, chìa khóa phòng ốc ở ngôi biệt thự, đã nói với chàng như sau:
- Cái ngôi biệt thự ấy, người quá cố
đã “trao truyền tâm ấn” cho anh - người nghệ sĩ thiên tài! Về đó mà nuôi dưỡng
những danh họa thuộc bậc thầy của thế kỷ! Về đó mà hoài thai sức lửa lớn để
chuẩn bị cho cuộc cháy bùng trên đỉnh cao sáng tạo.
Khi nói, cậu chàng đã nhích nhích hàm
râu muối tiêu cùng nụ cười nửa miệng. Chàng ớn bộ râu và nụ cười ấy quá - cũng
có thể chàng ớn bởi cuộc đời đạo đức, cần mẫn, khiêm nhu và trong sạch của ông
nữa. Chàng trả lời nhũn nhặn như con “chi chi”.
- Thôi mà cậu. “Đốt” cháu chi, tội
nghiệp! Lúc này, cháu đâu còn bốc đồng, ồn ào như xưa nữa. Cháu già rồi. Tóc
bạc rồi. Đã biết im lặng rồi. Ngay như hội họa - nó còn khó nói hơn là tư tưởng
- mà cháu cũng đã bắt đầu trở về trong chiều hướng “Kumorai” của Zen đó cậu!
Lão luật sư nhìn chàng bằng nửa con
mắt rồi quay lưng đi:
- Tôi sợ anh Kumorai ở nơi mấy phòng
trà thì được! Kumorai theo cái kiểu ăn hót đấu láo với những tay giang hồ hiệp
sĩ, với các ngài thiền sư bụi đời, các ngài đạo sĩ chán non xanh, các ngài đại
trí thức ở chợ búa, thì được; chứ Kumorai với một đời sống tịch mịch, không
rượu, không bóng hồng, không quán, không đường phố, không cao lâu thì...
Nói đến ngang đó, cậu chàng nhún vai
rồi đi thẳng. Chàng nói với theo:
- Thôi cậu! Đừng chửi cháu nữa. Để
coi, rồi cháu sẽ tu tỉnh, tư duy và sáng tạo cho cậu coi.
Để coi. Để coi. Nhưng chàng họa sĩ trở
lại ngôi biệt thự chưa được ba ngày đã vội vã ra đi! Ông cậu của chàng có lẽ
đoán trước được điều ấy nên đã điện thoại gọi chàng khi chàng về đô thị vừa
được một tuần.
Ông tiếp chàng trong căn phòng nhỏ,
mỗi bề chừng bốn năm thước, bài trí thanh lịch và u nhã. Sàn gỗ trải tấm nệm
màu nước biển; giữa phòng duy nhất một án thư, một bình hoa, một bộ trà độc ẩm
và hai cái chung. Tường gỗ màu nâu nhạt sáng sủa, treo mấy bức tranh Thiền
tông. Một bức, hình ngài Huệ Năng đẵn tre, tranh của Lương Khải, nét bút sắc,
mạnh và linh động. Góc tường phía đông là hai bức tranh của Keishoki, một họa
sĩ lớn của Nhật bản thế kỷ XIV hoặc XV; một bức người ta gọi là “Thiền sư và
tục khách”, bức thứ hai ghi lại giai thoại một nhà thơ đời Đường làm thái thú
đến vấn đạo Điểu Sào thiền sư.
Cả ba bức này, chàng họa sĩ đã từng
nghiên cứu qua. Chàng không học được gì ở đó vì chẳng có gì đặc sắc, ngoại trừ
ý nghĩa của nó. Điều ngạc nhiên là ông cậu của chàng lại hấp thụ sâu xa cái
thẩm mỹ Thiền tông đến thế. Một ông cậu mà chàng chỉ biết “kính nhi viễn chi”
bởi đời sống quy củ, mực thước; một người cha khả kính trong gia đình; một luật
sư lão thành uy tín, cần mẫn, đầy đủ lương năng xã hội - chàng không ngờ cũng
có riêng một thế giới thầm lặng u nhã và thanh thoát đến như vậy.
- Con ạ! Hôm nay cậu cháu mình sẽ nói
chuyện, tâm tình trong căn phòng mà hai mươi năm nay chỉ tiếp một người: Hòa
thượng Không Như. Và bây giờ là con vậy.
Cái vẻ thân tình, dịu dàng và trang
trọng của ông cậu làm chàng bối rối không ít. Hòa thượng Không Như - chàng đã
biết rõ, chính là vị hòa thượng tịch mịch, cô liêu, thẳm sâu, băng giá, uy
nghiêm trong kỷ niệm chàng. Và như vậy, bằng vào tính chất đặc biệt ấy, thì câu
chuyện hôm nay không phải tầm thường; nó mang một trọng lượng ghê gớm nào đó mà
chàng phải chất lên đôi vai, trí não; hoặc trái lại, phải vứt bỏ tất cả mọi
trọng lượng về kiến thức, tư duy; tước trần trọn vẹn mọi sở đắc của bản ngã mới
dám ngồi nơi đây, đối diện với bức tường nhàn thoát trong căn phòng u nhã thanh
tịnh này.
Bây giờ thì chàng mới để ý là ông cậu
chàng đã thay đổi y phục thường ngày để khoác lên người một chiếc choàng rộng
màu vàng khói. Và do đó, mọi nét thế tục trên người cậu hầu như đã biến mất.
Trong khung cảnh này, không khí này - rõ ràng là chàng thấy mình đang đối diện
với một thiền sư lỗi lạc - và tất cả kiến thức, tư tưởng, triết lý, thẩm mỹ học
của chàng, sợ rằng sẽ trở nên vô duyên như thanh kiếm rỉ nằm chơ vơ dưới thạch
bàn của vị thiền sư trong bức tranh kia.
Chung trà thơm ngon đầu tiên cho chàng
cái khí vị yên tĩnh và đầm ấm.
- Bây giờ thì con hãy nói đi. Tư duy
lẫn sáng tạo, quan niệm về thẩm mỹ học - hay cái gì đại loại như vậy - đại loại
như đời sống riêng tư trầm lặng, cá biệt tính, ý hướng tính; và nhất là sự
phóng sâu nhãn quan vào vạn giới cũng như tâm nội... Ở đấy, ở đấy - mà cậu nghĩ
là con sung túc lắm, tràn trề và viên mãn nữa! Nó có thể ngộp chết một người
hay xô đẩy y vào cơn điên thầm lặng. Cuộc đời đã dạy cho con nhiều, phong sương
hình như không còn dám bám lên mái tóc tư duy của con nữa! Con trở về trong bầu
trời sương khói, mờ ảo mà lạy Phật, cậu đã nhìn thấy được. Con bỏ biệt thự về
đây, không hẳn là sự bỏ cuộc cuối cùng - mà gọi là sự bỏ cuộc cuối cùng cũng
đúng nữa, có phải vậy không? Cậu hy vọng xem một họa phẩm cuối cùng của con
thôi - ngay chính trong căn phòng này - là đúc kết trọn vẹn một cuộc đời lên
đường, tư duy và sáng tạo của con. Bây giờ thì con nói đi!
Qua hai tuần trà rồi mà chàng họa sĩ
còn trầm ngâm. Ông cậu của chàng cũng không nóng nảy, khuôn mặt khoan hòa, mát
mẻ. Trong thời gian ấy, biết bao nhiêu hình ảnh, tư duy ồ ạt đến với chàng -
như một con thác đổ - mà dòng sông tâm thức chàng không đủ sức chứa. Đầu tiên,
chàng trình bày tóm tắt nhưng đầy đủ những quan niệm, hiểu biết cùng tư duy của
một tuổi trẻ xa xăm. Dự định chụp bắt cái bề sâu của hiện tượng, nét đẹp của
tất cả những cái gì nghịch lý trong thiên nhiên; hoặc là sự hàm chứa tư tưởng
mà hiện tượng muốn nói lên theo chủ quan của người nhìn ngắm. Chàng cũng không
quên diễn tả đầy đủ cái vẻ đẹp sống động của biển, vẻ đẹp lãng mạn vô bờ của
nó; đôi mắt của người nữ tu, cô nhi viện lẫn ngôi chùa phía bắc. Bao năm tháng
qua đi, những bức tranh triển lãm sau này chỉ làm cho hệ thống lại, hoặc tiếp
nối cái tư duy ngày trước. Chàng đã thất bại như thế nào, con người đã không
thể lãnh hội được cái thông điệp mà chàng muốn trao gởi cho thế gian như thế
nào. Quả là chàng vẫn còn sức lửa ở bên trong, nên đã làm cháy bùng được đôi
mắt lặng lờ nguôi lãng của ông cậu: một ánh lửa lóe lên ở đó.
Chàng lại im lặng. Ông cậu cũng im
lặng.
- Mọi sự đều đổi thay, thưa cậu. Chàng
nói tiếp - Mọi sự đều khác đi khi cháu trở về. Chàng có vẻ trầm tư - Bãi biển
thơ mộng trước mặt ngôi biệt thự, bây giờ người ta dựng lên đấy những nhà cửa
và quán sá dày san sát. Cháu tưởng tượng là biển không còn chỗ để thở nữa. Con
người đã thật sự xâm lăng thiên nhiên. Sóng và gió cũng chợt hiu quạnh và thê
lương quá đỗi. Nữ tu viện ngày xưa, con đường mùa thu rợp lá me bay, cháu cũng
không còn tìm thấy nữa, bây giờ là trụ điện, bảng quảng cáo cùng các bảng hiệu
giao thông. Còn đôi mắt của người nữ tu... đôi mắt...
- Đôi mắt? Không, con cứ nói. Đôi mắt,
tình yêu, nó đẹp lắm chứ. Đấy là cái thẩm mỹ học ngàn đời. Ngay cả nhục thể mà
một quan niệm Zen Nhật Bản cũng nói là có thể dựng dậy một tình yêu thanh cao
nếu được hướng dẫn đúng đắn. Con yêu một đôi mắt thì có sao đâu. Cứ nói.
- Đôi mắt của người nữ tu ngày xưa
cháu đã từng say mê điên đảo - thưa cậu, nàng vẫn còn đấy - nhưng hình như
không còn ẩn giấu ngập ngừng dưới làn mi cong nữa. Bây giờ thì đôi mắt ấy mở
sáng quá, mở lớn quá, lại như là nhìn thẳng xuyên thấu hoặc thách thức người
đối diện. Mùa xuân và lá hoa không còn tìm thấy. Những đám mây mùa thu bàng bạc
trong bầu trời xanh lơ, vẫn không tìm thấy. Hồi xưa, cháu chiêm ngưỡng nàng mà
phải đứng đằng xa, vòng tay hoặc cúi đầu thầm lặng; bây giờ nàng tiếp cháu
trong phòng khách - căn phòng rộng và cao, vôi tường trắng toát, quạt máy quay
vù vù. Cháu nhắm mắt để tưởng tượng lại căn phòng thấp ở đây, ngọn đèn dầu lù
mù những đêm cháu đi chơi về muộn; qua tàng cây phủ thấp, dáng nàng đứng lặng
lẽ dịu dàng của một cành liễu mơ màng đứng buông rũ dưới trăng - mà phải trăng
không sáng quá. (Giá mà có thêm một bờ hồ có gió hiu hiu thổi, văng vẳng xa đưa
tiết điệu trúc ti?).
Cậu ơi! Cháu nghệ sĩ và lãng mạn quá
không? Không. Nghệ sĩ thì có nhưng không lãng mạn chút nào. Vì đấy là thẩm mỹ
ngàn đời như cậu đã từng nói. Cháu mơ mộng quá chăng? Không. Vì đó chính là
thẩm mỹ ngàn đời - thẩm mỹ quan này là phần thưởng tôn vinh cho những ai đã đạt
được cái huyền đồng với chí mỹ! Nhưng cháu chưa nói điều đó ra ở đây, điều cháu
muốn nói là, ánh sáng điện, sự nghèo nàn của tâm hồn, sự nguy nga của vật thể
đã đuổi mất thiên đường tuổi thơ của cháu. Thiên đường tuổi thơ đã hãi sợ quả
đất, bèn chấp cánh bay cao!
Đôi mắt của người họa sĩ lại thẩn thờ,
xa vắng.
Cái cô nhi viện phía tây thì ít kỷ
niệm, có bâng khuâng nhưng chưa thật sự gọi kêu trong cháu một tình-cảm-động
nào cả, chỉ là tình-cảm-tịnh mà thôi. Bây giờ thì người ta đã làm kho chứa
phân!
Ông cậu gật đầu:
- Phải rồi! Đấy là sự bức xúc của một
thời!
Người họa sĩ mỉm cười ý nhị rồi tiếp:
- Ngôi chùa phía bắc thì hòa thượng
Không Như đã tịch rồi. Người kế vị là một thượng tọa tốt tướng, to lớn, đẫy đà,
nước da hồng hào, thiện nam tín nữ và đệ tử đông đúc. Chùa được kiến thiết và
sửa sang thật lộng lẫy.
- Điều đó ta biết.
Trong giọng nói của ông cậu hình như
có tiếng thở dài.
- Nhưng cậu cũng cho cháu nói hết,
nhất là kỷ niệm và ý nghĩ của cháu về nó chứ! Người họa sĩ nhắp thêm một ngụm
nước trà như lấy hơi - Hồi xưa cậu ạ! Cháu ngán hòa thượng xiết bao, nhưng sau
này cháu kỉnh mộ làm sao cái vóc hạc cô đơn ấy. Nó mang một vẻ đẹp kỳ lạ. Vẻ
đẹp của một cội thông già, của tùng bách ngàn năm, của đá núi dựng đứng rêu phủ
- nghĩa là của tất cả những gì như trải qua những lịch nghiệm trong đời, phong
sương và tuế nguyệt, cái bất động trầm mặc, lạnh lùng thản nhiên trong lúc sự
sống, cuộc đời đang run rẩy đổi thay, huyên náo ở xung quanh.
Bất chợt chàng họa sĩ ngâm lên nho
nhỏ:
Bốn mùa ví thử xuân đi cả
Góc núi ai hay gốc lão tùng.
Ôi! Một cội tùng già, một gốc mai già,
một cẳng hạc gầy guộc ngàn năm. Đẹp biết mấy!
Chàng họa sĩ yên lặng một chốc.
- Hồi xưa cháu không dám ở đó lâu, vì
thấy tất cả sân, đường đi lót gạch, bờ tường, cổng tam quan - đâu đâu cũng dày
bịt những rêu. Cháu sợ ở đấy rồi tâm hồn mình cũng bị đóng rêu luôn cậu ạ.
Nhưng mấy ai tâm hồn được mọc rêu cậu nhỉ? Những đám rêu vô danh, lặng lẽ,
xanh, khiêm nhường, tịch mịch, yên nghỉ? Hồi xưa, cháu ngán tiếng chuông u minh
thì giờ đây, cháu thèm nó xiết bao! Cũng là ngôi chùa ấy nhưng tiếng chuông bây
giờ sao có vẻ dồn dập, vội vã; tiếng kêu không còn lặng, không còn trầm mà như
muốn gọi kêu sự hiện hữu, muốn vỗ ngực, nhón gót lên cho mọi người đều thấy
mình, biết mình. Đấy, đấy là điều mà cháu gọi là sự “huy hoàng của thời mạt
pháp”. Ồ! Không! Nên nói là bị “vật thể hóa” thì đúng hơn - dùng theo thuật ngữ
của Heidegger! Nhưng nhờ “vật thể hóa” nên nó bề thế, lộng lẫy, chói chang và
sặc sỡ... Cậu ơi! Cái ấy nó đã bỉ báng lên tâm hồn cháu biết bao nhiêu! Cháu
cũng thầm thương cho mình rồi chảy vài giọt lệ. Chú Ích, chú Sanh, những tâm
hồn thi nhân cỡ lớn của cháu đã không còn ở đấy nữa. Các chú sợ bị vật thể xâm
lăng nên đã chạy trốn lên núi cao; một gùi, một gậy, một túi thơ với trời mây,
chim muông và cây cỏ...
Người họa sĩ im lặng ngang đây, đôi
mắt vẩn vơ nhìn lên bức tranh “thiền sư và tục khách”, lại nói tiếp:
- Cây kiếm của tục khách đành bỏ lại -
chàng chỉ lên bức tranh - thì cây cọ của cháu cũng đành bỏ lại, chẳng vẽ được
gì, không vẽ được gì; trước cũng như sau, khi cháu ở, đi hoặc trở về lại ngôi
biệt thự ấy. Sự sống, cuộc đời bao la quá. Vẻ đẹp cũng bao la và thiên hình vạn
trạng quá.
Ông cậu vẫn ngồi im, không xen lẫn một
lời nào, sợ tư duy của người họa sĩ không được liên tục.
- Đấy là chuyện ngoài ngôi biệt thự.
Còn trong ngôi biệt thự thì cháu thấy gì? Cậu ơi! Khi bước chân vào cánh cửa
sắt hoen rỉ, cháu thầm ngạc nhiên tại sao ký ức nơi cháu về “bên trong” ngôi
biệt thự lại ít ỏi và nghèo nàn đến thế! Phải chăng tuổi trẻ là cái “sống
ngoài”, như một thời thơ ấu của cháu? Trong ngôi biệt thự nơi cháu sống, ăn, ở,
học hành với các anh chị, với dì và dượng, với cả người làm vườn già nua nữa;
nơi cháu thở, nơi mà cháu trưởng thành từng giọt máu, từng tế bào; để rồi, đến
nỗi những điều mà cháu sắp nói ra đây, mọi tư liệu đều do người làm vườn già
nua kỳ lạ ấy cung cấp tất cả...
- Người làm vườn ấy ư? Ồ! Ta biết rõ y
lắm. Y cũng là một nghệ sĩ giang hồ. Cuộc đời y thật kỳ lạ. Y đã từng là tay
đại ca “đứng bến”, khí phách, hảo hán. Lại còn một khoảng thời gian là tu sĩ;
cũng là một nhà văn chuyên viết phóng sự và chuyện đường rừng... Sau này, phước
duyên đâu đó lại được gặp hòa thượng Không Như!
- Phải rồi! Có thế chứ! Người họa sĩ
vỗ tay lên đùi mình - Thưa cậu, hồi xưa cháu chỉ biết mang máng; và cháu không
để ý gì đến lão lắm. Sau này, khi trở về, cháu mới chợt nhận ra đấy là một hòn
núi Thái Sơn. Cũng kỳ lạ xiết bao, những hòn núi Thái Sơn đều ở ngay nơi cái
chỗ mình bỏ để ra đi, không thấy!
Khi nói, chàng liên tưởng đến hòa
thượng Không Như, lão làm vườn già nua và cả ông cậu của chàng nữa. Chàng chợt
thấy mình nhỏ bé lại, khiêm nhường hơn tí nữa.
- Cậu ơi! Chàng tiếp sau một hồi trầm
tư - Ngôi biệt thự đã thay đổi ngoài sức tưởng tượng của cháu. Khoảng vườn phía
trước vẫn còn râm mát, vẫn còn dày bịt những tàn cây, con đường lót sỏi trắng
từ ngoài cổng vào thì rõ ràng từ lâu không có người lui tới hoặc kẻ quét dọn
chăm sóc. Lá vàng, lá mục chất đầy xen lẫn cứt chim, cứt chuột, trái cây vụn
bẩn, nhầy nhụa do dơi đã ăn thừa vung vãi ra. Sao hoang vắng và tịch liêu quá
cậu ạ. Lòng cháu chợt đọng lại một cách đột ngột, có lẽ do trạng thái quá đầy
của thị thành, rồi bây giờ rơi hẫng vào không gian tịch mịch này chăng? Cháu
chưa phân tích vội, nhưng quả thật, ở đâu cũng toát ra cái mùi vị điêu tàn.
Những gốc cây hình như cũng sần sùi và hiện ra những hình thù ma quỷ quái đản.
Những cành cây thì khẳng khiu hoặc chơ vơ như những cánh tay tuyệt vọng của ai
muôn đời khôn với tới trời cao! Sự nhộn nhịp của đô thị cho cháu cái váng vất
say khướt đến mệt mỏi và bệnh hoạn; nhưng cũng hàm tàng sinh lực, là cuộc đời,
là sự sống trẻ trung; thì ở đây là sự cô liêu của nghĩa địa; một cái gì đã hoàn
toàn buông tay, đã chấm dứt hơi thở. Nghĩa là sự già lụn và tử vong!
Cậu ơi! Cháu mang ấn tượng rờn rợn,
ngây ngấy trên da thịt - không biết là tại sao - khi đi thăm mọi tàn tích, kỷ
niệm. Cháu mong sẽ tìm ra được một vẻ đẹp nào đó ở nơi đây. Vẻ đẹp của sự điêu
tàn chẳng hạn. Nhưng cháu chỉ gặp sự cô liêu. “Vẻ đẹp của cô liêu” ư? Đấy là
điều bất khả. Đấy là sản phẩm của những tư tưởng tiêu cực, những tâm hồn bệnh
hoạn, những đầu óc đầy đặc đen tối và vàng úa! Cậu cho cháu được nói thế. Phải
rồi, cháu chỉ bắt gặp sự cô liêu; mà chết nỗi, cháu không nắm bắt được, hoàn
toàn không nắm bắt được sự cô liêu ấy nó ở đâu. Mà hình như ở đâu cũng có nó
cả. Có thể ở nơi cái bề thế khang trang và vĩ đại của ngôi biệt thự trong ký ức
của cháu chăng? Cũng có thể ở nơi mái nhà ngói đỏ vươn lên, và lẻ loi quá giữa
bầu trời xanh thẳm của mùa xuân miền biển? Cũng có thể ở nơi hai dãy nhà ngang
gồm phòng đọc sách, phòng khách, thư viện, nhà để xe, phòng chưng hoa... bây
giờ đã đóng cửa im ỉm với những mặt kiếng rạn nứt hoặc lờ mờ bám đầy bụi. Cũng
có thể ở nơi cái sân thể thao nhỏ trán xi-măng mà bây giờ rêu và cỏ mọc dày chi
chít, chen lẫn những cành hoa dại vươn lên - vươn lên với màu sắc tươi thắm
nhưng yếu đuối và mảnh mai quá. Cũng có thể ở nơi mấy chiếc ghế đá nằm lăn lóc
cạnh hồ tắm mà lâu quá không có hơi người hoăc mưa nắng đã làm cho phai nhạt
lớp men ngoài?
Cậu ơi! Cháu nhìn ngắm tận tường đủ
mọi thứ - và thú thật, thẩm mỹ quan trong cháu đã bắt đầu chuyển hướng. Một cái
gì gượng gạo và không thật bấy lâu, bây giờ vỡ bùng ra - để lộ nguyên trạng cái
sơ thủy, cái bổn lai của cảnh vật, của thực tại. Cháu sẽ diễn tả điều này rõ
ràng hơn. Ví dụ như cháu thấy cái hồ tắm xinh xắn thở xưa, bây giờ đã khô cạn,
cây cỏ mọc um tùm; phía dưới một vũng nước dành cho ễnh ương, cóc nhái bơi lội
bì bõm bên đám lục bình cao nghễu nghện, nỗi lềnh bềnh xen lẫn bao ni-lông,
giấy vụn và rác rưởi... Đối với cháu, đó là toàn thể cuộc đời, là thực tại toàn
bộ, nguyên thủy chưa hề có bàn tay khối óc hoặc tình cảm con người tham dự. Ý
cháu muốn nói gì? Quan niệm thẩm mỹ nhân bản vốn từ chối thực tại nguyên thủy
trên; nó không cho phép người ta tùy ý trét tô lên cảnh vật những màu sắc hoặc
những hình thù quái dị, những đường nét thừa thải đứng xen nhau trong toàn thể.
Vậy thì sự cô liêu, điêu tàn của khung cảnh này có mang sắc thái thẩm mỹ nhân
bản không? Không. Chắc chắn rằng không. Nó phi nhân bản. Phi nhân bản cũng đồng
nghĩa với thực tại toàn bộ, vô luân và tuyệt đối!
Ông cậu chợt góp một câu:
- Tư tưởng của cháu thật là quái gở!
Nó kỳ dị chứ không phải là tối nghĩa.
Chàng họa sĩ cười nhẹ:
- Thế là cậu đã nắm bắt được ý cháu.
Ồ, kỳ dị lắm! Cho cháu tiếp... Thực tại toàn bộ ấy, như vậy nó đồng nghĩa với
cô liêu. Mà cô liêu thì nó làm héo lòng người chứ không đem lại một sức mạnh,
một trạng thái êm đềm hoặc một lạc phúc nào cả. Có thể người ta sẽ học được một
bài học nào đó, nhưng chắc hẳn chỉ để dành cho thiểu số người, kẻ có sẵn trình
độ lớn. Cháu muốn đi xa hơn chút nữa. Thực tại vốn đẹp hay xấu? Điều đó khó nói
quá. Tách rời từng sự vật ra thì sự
vật vẫn chỉ là sự vật; hình tướng, tính chất có từ, có sẵn ở nơi nó chứ không
phải ở nơi người nhìn ngắm. Thực tại toàn bộ cũng vậy, nó không có giá trị và ý
nghĩa gì. Nó ở ngoài thẩm mỹ quan nhân bản của chúng ta. Nó như vậy. Ngàn đời
nó như vậy. Một con thằn lằn yên lặng lờ đờ nhìn muỗi mòng ruồi nhặng mà không
buồn há miệng ra - nó đẹp hay xấu? Khó nói. Người mang tâm thức như tờ giấy
trắng, khi nhìn nó, thì nó chỉ là nó thôi. Nhưng người mang đầy đặc kỷ niệm, ký
ức, quá khứ, tư duy, ý tưởng, tình cảm, quan niệm... thì y sẽ nhìn ra cái khác,
cái khác này có ở nơi y! Dùng theo thuật ngữ Phật giáo thì nó chính là mẹ sinh
ra phiền não; là “tư hoặc, kiến hoặc” vậy. Cậu có đồng ý thế chăng?
Thanh niên họa sĩ cười cười trong ánh
mắt nhìn lão luật sư. Ông cậu chàng gật đầu nhẹ, im lặng. Chàng họa sĩ nói tiếp
một hơi, hình như ngại tư tưởng ấy nó loãng đi.
- Tiếng một con nhái quẫy mạnh từ cái
chậu nuôi cá, nhảy hẫng lên rồi bám chặt nơi cành phong lan chỉ còn trơ những
cọng vàng - khêu gợi chàng nghệ sĩ hay người tư tưởng nhìn ngắm, tư duy, liên
tưởng, mơ mộng hoặc suy chiếu với quá khứ, với hiện tại hoặc tương lai - để rồi
phát sinh ra... phát sinh ra... cái trần gian ảo vọng... cái tam giới duy
tâm... Ôi! Con nhái là con nhái thôi. Chẳng có gì cả. Chẳng có ý nghĩa, giá trị
gì cả. Và đấy là “thực tại y như là thực tại”, thưa cậu.
Lão luật sư có vẻ chăm chú lắng nghe
những điều này lắm. Chàng họa sĩ giang hồ chợt nói lớn, giọng như vỡ ra, bùng
lên:
- Hãy đốt đi thẩm mỹ học; thẩm mỹ nhân
bản và cả phi nhân bản; tương đối và tuyệt đối! Cái gì thế? Căn nhà thì nói là
căn nhà, có thẩm mỹ gì đâu? Sự sống vận hành đâu cần một tiêu chuẩn thẩm mỹ
nào? Thẩm mỹ học là nơi phân biệt ý nghĩa, giá trị, tiêu chuẩn chủ quan hay phổ
quát. Cậu ơi! Nó là nguyên động lực tạo thêm sự nghịch năng, đau khổ và hỗn
loạn cho cuộc đời; xung đột bên ngoài, xung đột bên trong, đánh mất sự quân
bình hài hòa tâm nội. Cậu có đồng ý với cháu điểm này không?
Ông cậu lặng lẽ rung đùi nói:
- Khi cậu và con ngồi đây, mùa xuân
đang đến, đang ở và đang đi; nó “không đẹp hơn” cũng “không xấu hơn”. Bên ngoài
cửa sổ, những cành mai đong đưa theo gió; cái thì nở, cái thì búp, cái thì
rụng. Cái cánh to, cánh nhỏ, cánh dài, cánh ngắn. Thảy đều tự nhiên.
- Đấy! Đấy là điều mà cháu muốn nói.
Trời ơi! Suốt cuộc đời tìm kiếm, sở dĩ không bao giờ cháu với tới được thực
tại; sở dĩ cây cọ của cháu bất lực là vì cháu không bao giờ vẽ “thực tại” mà
cháu chỉ vẻ tâm niệm, tư và tưởng của chính cháu thôi.
Lại im lặng. Ông cậu cất tiếng:
- Có một triết gia nào đó nói là “giải
thoát tri kiến”; có một triết gia nào đó nói là ”sự đảo hoán tận căn mọi kiến
tưởng”! Nói đúng cả, nhưng đó đâu phải là cái để sống? Đấy mới chỉ là cái để
nhận thức! Hai điều này cũng dường như khác nhau lắm chứ? Con nghĩ thế nào? Vì
cuối cùng vẫn có cái đẹp và cái xấu chớ? Vẫn có thẩm mỹ quan nhân bản và phi
nhân bản chớ? Nghĩa là, vẫn có cái thiện và cái ác đó mà!
Ông cậu nhìn chàng họa sĩ, mỉm cười
lặng lẽ, rồi đứng dậy bước ra trước hiên, cắt một cành mai đem vào. Người họa
sĩ vừng trán nhăn lại. Có lẽ điều này vượt ngoài hiểu biết của chàng chăng?
- Con là họa sĩ, nhà thẩm mỹ! Con cắm
nhành mai này thế nào?
Ông cậu trao cho chàng một cành đầy
lá, năm bảy hoa nở và rất nhiều hoa búp.
- Phải tỉa bớt lá xen lẫn giữa hoa. Lá
nó nhiều quá. Quá nhiều màu xanh mà ít màu vàng; sợ rằng cái “chính” nó thành
cái “phụ” chăng?
Người họa sĩ nhìn rồi nói ngay, có lẽ
là theo thói quen cân đối thẩm mỹ. Ông cậu vẫn lặng lẽ mỉm cười để cho người
họa sĩ tự do cắt tỉa.
Khi đã cắm xong, lão luật sư gật gù:
- Đẹp lắm, thẩm mỹ lắm! Ông ngừng giây
lâu - A! té ra con phá bỏ thẩm mỹ quan nhân bản mà con vẫn còn bị phạm trù và
quy định của nó ư? Lẽ đâu có thế! Lẽ đâu có thế!
Người họa sĩ há hốc, đứng trân.
- Vẫn có cái đẹp và cái xấu chứ con?
Ông cậu ôn tồn nói - Cái đẹp chung chung giữa cậu và con đó mà!
Người họa sĩ tần ngần tắc lưỡi:
- Cậu để cho cháu “thong thả” về điểm
này!
Lão luật sư để chàng ngồi đó trong thế
giới tư duy trầm mặc, khi trở lại thì thấy chàng đang săm soi ngắm bức tranh
nhà thơ đời đường và Điểu Sào thiền sư. Ông cậu hỏi:
- Con còn nhớ quan Thái thú hỏi Đạo
thiền sư Điểu Sào câu hỏi gì không, nơi bức tranh ấy?
- Dạ có. Chàng đáp - Ông ta hỏi Điểu
Sào: “Đại ý Phật Pháp là gì?” Điểu Sào đáp: “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng
hành, tự tịnh kỳ ý, thị chư Phật giáo.” Quan Thái thú nói: “Điều ấy thì trẻ nít
lên ba cũng biết.” Điểu Sào đáp: “Trẻ nít lên ba cũng thuộc nhưng ông lão tám
mươi làm không được.”
- Con thấy gì? Ông cậu hất đầu hỏi.
- Chấp nhận tương đối, hữu hạn nhân
quả chăng?
Ông cậu lặng lẽ ngồi xuống. Im lặng
một lúc nữa, thấy ông định nói, nhưng không nói nữa; có lẽ ông ngần ngại một
điều gì. Ông nhìn người họa sĩ rồi đưa mắt qua bức tranh “Lục Tổ đẵn tre”.
- Thôi! Cuối cùng mọi việc sẽ đâu vào
đấy cả. Chân lý luôn luôn diễn bày trước mắt. Ta hy vọng con không chóng thì
chầy cũng thấy được, cũng uống được ngụm nước đầu nguồn. Trong, sạch, không
biết - nhưng nó đầu nguồn. Bây giờ thì con hãy kể tiếp đi. Mọi nhân mọi duyên
đều cần thiết cho con cả.
Chàng họa sĩ trở lại án thư, ngồi theo
thế bán già:
- Dạ phải - và chàng nói - Trước khi
tiếp tục vào chuyện, cho cháu được nói sơ qua về lão làm vườn, mà có lẽ cậu còn
biết lão hơn cháu nữa. Lão cũng đóng một vai trò nào đó trong cái tâm thức vỡ
òa của cháu.
Thưa cậu, lão dẫn cháu đi thăm các
nơi, dọn phòng cho cháu ở, nấu cơm cho cháu ăn. Nhưng bao giờ cháu cũng có cảm
tưởng rằng, lão nhìn cháu bằng cái nhìn của “bề trên”! Cái nhìn này là cái nhìn
đầy kiến thức, phong trần, sắc bén, dày dạn, trầm lặng - mà cũng bao dung, hiền
từ và độ lượng nữa. Xin lỗi cậu, cháu phải mất khá nhiều tính từ mới khả dĩ
dựng đứng lão nơi đây để cùng cậu và cháu nói chuyện tay ba. Ồ! Vui biết mấy!
Ông cậu cảm thấy người họa sĩ giang hồ
trước mặt vẫn có cái giọng ngây thơ độ nào. Ồ! Cái ngây thơ cũng không mất đi
mà! Ông thầm nghĩ.
- Cậu ạ - sau một tiếng cười, người
họa sĩ tiếp - Nếu không thế thì làm sao diễn tả được con người muôn mặt của lão
ta? Cậu xem, vết xăm chó sói nơi ngực lão là chứng tích một thời làm đại ca;
vết dao lớn nơi vai là chứng tích một thời đâm chém, hảo hán giang hồ; rồi ba
chấm nhang trên đầu lão là dư huệ một khoảng đời làm tu sĩ. Có một cái gì tương
phản giữa mấy chứng tích bất khả đồng hiện hữu này. Lão còn là nhà văn, nhà thơ
nữa chứ. Quả là trong lão có cả thiên thần lẫn ác quỷ; nai tơ và chó sói! Cậu
có tin không? Con nai tơ nằm sau lưng lão đấy! Khi cháu thoáng thấy, muốn phanh
áo xem thì lão hét: “Đừng tò mò, công tử! Nhìn nhau thì nên nhìn bằng đôi mắt
chó sói thôi!” Câu nói trọng lượng quá chứ cậu. Lại gọi cháu bằng “công tử” nữa
chứ. Lão ta đã “sỉ nhục” cháu đến thế là cùng. Hóa ra hơn mười lăm năm giang hồ
của cháu chẳng có nghĩa lý gì đối với lão cả. Khi ấy cháu cố nuốt nước bọt sâu
trong cổ rồi hỏi dịu dàng: “Thế con nai tơ có ý nghĩa gì?” Ông lão mỉm cười
hiền lành: “Cậu ăn cơm kẻo đói”. Cứ làm như là lão thiền sư không bằng. “Đại ý
Tổ sư tây lai là gì?”. “Con ăn cháo chưa?”. “Dạ rồi”. “Thế thì hãy rửa chén
đi!” Đấy, đấy! Nó thời thượng quá chứ! Nhưng mà không, tại cháu xiêng xẹo, chứ
ý của lão là thế này: đừng đóng vai trò nai tơ ngoan hiền với cuộc đời mà sau
lưng lại dấu cái mõm chó sói. Thà rằng bên ngoài dữ tợn như chó sói mà tấm lòng
bên trong lại dịu dàng như con nai tơ! Cậu ơi! Cái lão già làm vườn kia mà cũng
dạy cho “thiên tài” này nhiều bài học quá sá. Nhưng “vỏ quýt dày có móng tay
nhọn”, Tôn Ngộ Không thần thông mãn biến mà cũng không nhảy qua được bàn tay
của Phật tổ Như Lai. Cái lão đại giang hồ ấy chẳng biết nhân duyên nào mà lại
chịu khuất phục bởi hòa thượng Không Như! Chuyện ấy cậu biết rõ, cậu kể cho
cháu nghe.
- Rồi hẳn hay. Con kể tiếp đi.
- Dạ. Bây giờ cháu đi vào chuyện căn
phòng. Chính tại nơi căn phòng này mà những hồi ức của cháu về đời sống của gia
đình dượng và dì - lẫn giọng kể hài hước hoặc thâm trầm ý vị của lão làm vườn -
nó kích động sâu xa đến tâm não cháu, len tận cả vào chiều sâu vô thức của cháu
nữa. Ôi! Biết nói làm sao... là những hoàn cảnh, những... những con người...
những cuộc đời... Rõ ràng mọi thẩm mỹ quan của cháu đều tuyệt vọng, ngơ ngác,
bối rối trước cái vô biên của “định mệnh” đã trải ra để vây chụp hoàn vũ, mọi
thể phận, tánh phận của con người! Cậu cho phép cháu dùng chữ “định mệnh” như
hàm chỉ cái gì “tất yếu” nhé?
Người họa sĩ cười ý nhị. Lão luật sư
cũng cười.
- Khéo bày vẽ. Con nói chuyện với ta
mà tưởng như nói chuyện với một tu sĩ Phật giáo “chính thống” không bằng. Đâu
có, đâu có tương tranh, nghịch lý nào giữa định mệnh thuyết của Khổng Nho với
lý nghiệp báo nhân quả tất định của Phật Mâu-ni. Dùng chữ “định mệnh” để hàm
chỉ cái gì ràng buộc con người trong hữu hạn; cái nghiệp quả mà y phải gánh
nặng trên vai thì đúng lắm chứ. Ta đồng ý với con như vậy.
- Định mệnh buộc chặt thì tự do vùng
vẫy. Tự do vùng vẫy không ra ngoài định mệnh; vì định mệnh quá sâu dày, hay
nghiệp báo quá sâu dày, vô minh quá sâu dày thì cũng giống nhau phải không thưa
cậu? Và như vậy thì tự do phải tìm đường thoát. Không thoát ra ngoài bầu trời
cao rộng như cánh chim thì ngồi trong lồng mà “tưởng tượng” rằng: “Cái lồng là
bầu trời”. Lối thoát này có cái thanh, có cái trược; có cái thiện, có cái ác;
có cái động, có cái tịnh; có cái đạo đức, có cái phi đạo đức; có cái hận thù và
có cái từ bi... vân vân và... vân vân...
Người họa sĩ nhìn lão luật sư mà cười
trong đôi mắt, nói chậm rãi, rõ ràng:
- Ông Phật cũng là cái ông vùng vẫy
không ra khỏi định mệnh nên tìm lối thoát đại từ đại bi, cứu khổ cứu nạn đó
thôi!
Ông cậu cười sảng khoái:
- A! ta đâu phải là “cục kê” cho Phật
giáo mà con gác chân gác tay nặng thế? Được, không sao! Lý luận và tư duy vốn
tự do, “tự do trong định mệnh” - ông cậu lặp lại câu đó rồi cười hề hề - mà con
bảo ngài đại từ đại bi thì ngài đâu có thèm chấp nhất chi trẻ nít!
Người họa sĩ cười dịu dàng:
- Thỉnh thoảng cháu cũng tung thử vài
chiêu để coi nội lực của cậu có thâm hậu không, đã “lô hỏa thuần thanh” chưa,
hay cậu chỉ là em của Cừu Thiên Nhận giả tung “thiết sa chưởng” để lóa mắt cao
thủ giang hồ là cháu đây!
Chàng vỗ ngực, cười ha hả rồi nhắp
thêm vài chung nước trà.
- Cậu ơi - Giọng chàng trầm xuống - Rõ
ràng là mỗi người vùng vẫy mỗi cách. Có kẻ thì vùng vẫy hào sảng trên đỉnh cao
ngàn trượng, cất tiếng cười lạnh giá cả trăng sao! Có kẻ vùng vẫy khí phách
liệt oanh như chú ngựa Hồ tung vó ngoài quan ải! Trái lại, cũng có kẻ vẫy vùng
trong đống bùn tanh hôi hạ liệt chỉ dành cho dòi bọ, muỗi mòng! Nếu nói rộng
thêm nữa, có người vùng vẫy cười sằng sặc trong máu me và thịt xương đồng loại.
Có người vùng vẫy với ngựa xe áo mão, no nê với giấc mộng công, hầu, khanh
tướng. Có người vùng vẫy lê lết kiếm ăn nơi quán chợ góc đình. Có người vùng
vẫy trong thư phòng khói đọng, ngọn đèn leo lét, hoặc truyện hoặc thơ hoặc kinh
hoặc sử. Có người vùng vẫy trong chén rượu, cuộc cờ qua ngày qua tháng. Có
người vùng vẫy giữa động vắng non cao, với chim muông, dã thú, trăng sao và hoa
cỏ. Có người vùng vẫy với thúng mủng lật lường mua ba chém bảy... Mỗi... mỗi...
đều vùng vẫy để kiếm tìm hạnh phúc hoặc tự do trong cõi phù sinh bọt bèo bày.
Vậy là cậu ơi, sự vùng vẫy ấy nói lên cái gì? Nói lên sự bất lực trước tuyệt
đối, vô biên? Chối từ tuyệt đối, vô
biên? Hay kiếm tìm tuyệt đối, vô biên? Bất khả! Mà cũng có thể cả hai, cả ba?
Mà cũng không hẳn cả hai, cả ba? Khó nói!
Người họa sĩ dừng lại, nhìn cậu.
- Ngôn ngữ cháu sử dụng có hiện sinh
quá không? Thời thượng quá không? Hoặc là, có mờ mịt không hả cậu?
- Dễ hiểu lắm! Con cứ nói. Ta uống
từng giọt. Và người cũng váng vất khướt say như nhắp một ly rượu mạnh.
Người họa sĩ chợt vỗ tay cười:
- Hay quá! Ít khi mà cháu có được cuộc
nói chuyện sảng khoái như thế này. Nói có người nghe, đã khó. Nghe mà “hiểu”
lại càng khó hơn. Hiểu mà “thông” lại càng khó hơn nữa. Thông mà “biến” mà
“cửu” thì lại càng hy hữu! Nhất là cháu lại là tên lãng tử phiêu bạt kỳ hồ, ma
vương ác quỷ - còn cậu là bậc quân tử chính hiệu Khổng Nho! Quả thật, cháu là
trưởng lão Ma giáo Khúc Dương, còn cậu là Lưu Chính Phong bạch đạo! Ha... ha...
Hai ta hãy gãy một khúc “Tiếu ngạo giang hồ” cậu nhé!
Người họa sĩ để cho tiếng cười của
mình lắng dịu đi, rồi tiếp với giọng chậm rãi, xa vắng hơn.
- Sở dĩ mà cháu nói gà nói vịt, mang
tính chất hí lộng như thế là để làm cho nhẹ bớt cái trọng lượng đang đè nặng
trong cháu khi nhắc đến câu chuyện gia đình dượng và dì! Cậu ạ! Dượng và dì
cháu cũng vùng vẫy. Dượng cháu vũng vẫy trên chính trường. Dì cháu thì vùng vẫy
trên thương trường. Vùng vẫy được hay không được, cuối cùng đều bi thảm cả.
Chắc cậu cũng biết rõ câu chuyện, nhưng cứ để cháu nói, bằng vào cái nhìn của
cháu.
Dượng cháu thì vùng vẫy để rồi thành
công trong cơn điên thầm lặng. Căn phòng cháu ở hôm ấy chính là căn phòng mà
dượng cháu sống “vinh quang” trong những ngày cuối cùng của cuộc đời. Cái gì
cũng gợi lên hình ảnh của con người bất đắc chí đó cả. Ông lão làm vườn chắc
chắn là nhân chứng nên lão kể với đầy đủ chi tiết, bóng bẩy có, văn hoa có,
khôi hài, sâu sắc và ý nhị có... Bây giờ cháu kể lại cho cậu nghe.
Đến đây thì chàng họa sĩ trầm ngâm.
Thời gian qua đi chừng nửa khắc, y cất
giọng đều đều.
- Cậu ạ! Ông quả là một nhà chính
khách lỗi lạc và ái quốc chính hiệu. Sau khi “trở về”, ông cho sửa sang lại tất
cả phòng ốc. Có nơi để làm việc, nơi tiếp sứ thần ngoại giao, nơi diễn thuyết,
nơi nghỉ ngơi. Buổi sáng ông điểm tâm bằng một ly rượu mạnh, nhấc điện thoại
gọi qua bộ quốc phòng hỏi về chương trình “nguyên tử” và ngân sách dự bị chiến
tranh; nhấc điện thoại gọi qua bộ xã hội hỏi số ngoại trợ cho thương binh và cô
nhi... Sau đó, ông đóng veston xám, thắt caravate, mũ dạ, tay xách cặp, tay
chống gậy nạm vàng bước qua diễn thuyết ở hội trường quốc gia. Ông lên bục cao
nói lưu loát bằng tiếng Anh, trước khi ngả mũ ra, đầu cúi thấp chào thính giả,
thái độ như một “gentleman” chính cống. Ông nhã nhặn xin lỗi cử tọa là đến trễ
mấy phút vì mãi bận kiểm tra và phân phối các công tác hành chánh. Nụ cười lịch
sự nở ra sau bộ râu cá trê muối tiêu. Ông nhướng nhướng cặp mắt rồi xoa xoa hai
tay vào nhau như cái điều “rất tiếc, rất tiếc”, như cái điều lỗi lầm mà không
ai có thể tránh được; và vì nhờ quý ngài đều là những người “trí thức” và “độ
lượng” cả. Ông cố ý kéo dài chữ “và” - như thể “trí thứ” và “độ lượng” vốn là
hai cái gì khác nhau! Và thế là bắt đầu cuộc diễn thuyết tràng giang đại hải,
nói về sự tranh chấp thế giới, các thế lực chính trị đang khuynh loát toàn cầu;
sự bế tắc kinh tế của các nước nhược tiểu, do nhân mãn, ngu dốt và kiêu căng;
sự tranh đấu về quyền tự quyết của các nước Á - Phi; những “hiệp hội” quốc tế
đang hình thành không cứu vãn nổi thế cờ chính trị đang đi về các tay chủ nghĩa
đế quốc trục lợi... Và thế là... và do đó... chỉ có giá trị “nhân chủ” là tối
thắng, ưu việt, (sở dĩ ông nói giá trị “nhân chủ” là tối thắng, ưu việt, có lẽ
do một tiến trình suy tư lâu dài - mà bởi quý ngài đều là bậc trí thức nên điều
đó quý ngài cứ suy luận là khắc hiểu, tôi không dám làm mất thì giờ của quý
ngài - có lẽ ông nghĩ thế chăng?) Thế rồi, ông nói tiếp - và quả không nằm
trong một mạch lạc nào cả - một quốc gia chỉ đứng vững và đứng mạnh khi quốc
gia ấy biết tự chủ, tự lực và tự cường - ông đưa tay làm dấu cái kiềng ba chân,
mỗi chân là một chữ “tự” - trong mối tương quan ngoại giao “phải lẽ” không vong
thân mà cũng không cô lập kiêu ngạo để tự diệt. Đường lối này - hai tay ông nắm
chặt vào nhau như rõ ràng là “nó ở đây rồi”, “tôi nắm chặt ở đây rồi”, rồi nhấn
mạnh từng chữ từng câu - chúng tôi xin tuyên bố với quốc dân khả kính. Và chúng
tôi dám xác tín rằng, nó được hình thành do một khối óc siêu việt, khôn ngoan
và thông minh nhất loài người. “Đường lối ấy”... “Đường lối ấy”... Đại khái là
bao giờ ông cũng diễn thuyết những điều tương tự, nhưng quy mô hơn, rộng lớn
hơn, văn hoa và suôn sẻ hơn. Nhưng khi đến chỗ cuối cùng, “Đường lối ấy...
Đường lối ấy...” là dường như ông bắt đầu sùi bọt mép, hai tay rã rời sau cái
nắm chặt, thân thể chúi tới phía trước rồi gục xuống mê man. Người cháu gái của
ông, hoặc tôi (lời của ông lão làm vườn) đã theo thói quen là cứ để ông nói gì
đó thì nói, nhưng đoán chừng thời giờ rồi vểnh tai nghe... Và cứ mười lần như
chục, đến ba chữ “đường lối ấy... đường lối ấy” từ to đến nhỏ lần, là chuẩn bị
vào phòng là vừa. Vào phòng thì đúng lúc tiếng “đường lối ấy” còn mấp máy trên
môi ông trước khi “bất tỉnh nhân sự” không còn biết gì nữa. Thế là cứ việc vực
ông vào phòng, nhúng một chiếc khăn lạnh đắp lên trán. Chiếc phòng này - ông
lão làm vườn đưa tay chỉ - nhưng thuở trước còn tấm nệm và bọc tấm drap xanh
kia. Nhưng như vậy đã hết đâu, vì ông là một nhà ái quốc, đâu có thì giờ rảnh
rỗi, chí trong giấc ngủ mà ông vẫn còn làm việc thay! Thế là vừa tỉnh dậy, theo
thói quen nghề nghiệp siêng năng và cần mẫn, ông đưa tay lên đầu nhấc điện
thoại. Thật ra, do cái điệu bộ mà ta đoán thế chứ bà dì đã cho cất mọi thứ ấy
rồi. Ông nhấc điện thoại rồi hỏi han lung tung mọi vấn để có vẻ chuyên nghiệp
và chuyên biệt ở các bộ. Thỉnh thoảng ông cũng phùng mang trợn mắt lên, có lẽ
là do một vài ông lớn nào đó tắc trách trong nhiệm vụ chăng? Phùng mang trợn
mắt hoặc là la hét to tiếng... ông giận dữ thật là ghê gớm. Xong công việc đó,
ông sửa sang lại y phục, đến tấm kiếng lớn nơi tủ quần áo - tủ áo quần vẫn còn
khi chàng họa sĩ đến đây - tém tém lại bộ râu, quay lưng lại sửa nếp nhăn sau
áo, mang nón gậy... rồi chững chạc và bệ vệ bước qua phòng tiếp các sứ thần
ngoại giao... (mà có lẽ người ta chờ đợi tiếp kiến đã lâu lắm!)
Đấy là phòng khách tương đối lớn có
hai bộ salon nhung màu đỏ thẫm, một ít tạp chí ngoại quốc, vài bức tranh sơn
dầu của một họa sĩ vô danh, hai bình hoa - thường là cắm đầy hoa ni lông. Thỉnh
thoảng, đứa cháu gái theo lệnh bà dì đem thay vào đấy ít hoa cúc Nhật màu vàng
nhụy đen (ôi, cái màu vàng nhụy đen. Phải chăng sự bất hạnh thường đã do “thiên
nhiên” hoặc “ngẫu nhiên” báo triệu?) Ông không làm tổng thống, thủ tướng được
suốt cả một đời bôn ba quốc nội lẫn quốc ngoại; vào tù ra khám vì bị nghi ngờ
là thuộc nhóm chính trị đối lập, phản động - thì cũng làm tổng thống và thủ
tướng được, ít ra là trong biệt thự này, trong căn phòng này - trong “cơn điên
thời đại” của ông. Tất cả mọi người đã quá quen thuộc chương trình hoặc giờ
giấc bất thường của nhà “đại chính khách” nên cũng không lấy đó làm điều, đôi
khi có vẻ vui mừng là khác nữa! Ông không hề phá phách hoặc đụng chạm đến việc
của ai. Thỉnh thoảng - thỉnh thoảng thôi - khi nghe tiếng cười giỡn thái quá
của cháu con, ông lắng tai nghe rồi chống gậy bước ra, nghiêm nét mặt lại nói:
“Một người có “văn hóa” không bao giờ bước chân đi nặng nề, dậm thình thịch,
nói to tiếng dẫu là trong phòng một mình - huống chi các người lại nô giỡn như
vỡ chợ thế? Các người không sợ bị mất thể diện của một quốc gia “bốn ngàn năm
văn hiến” sao? Ít ra đây cũng là chỗ tai mắt, là nơi mà các sứ thần ngoại giao
hay lui tới. Ở đây là đại diện, là tiêu biểu cho văn hóa, văn minh của một nước
mà!” Nói thế xong là ông bị xúc động - hình như thế thì phải - nên ông lấy khăn
tay lên “xịt” mũi. Có lẽ là con cháu ông đã thiếu văn hóa nên ông cảm thấy mình
bị xúc phạm chăng? Một lần, cũng là một lần duy nhất thôi, tôi - lời ông lão
làm vườn - phá một ít cây vô dụng đã cỗi để thay thế vào đấy một ít cây ăn
trái. Ông dừng lại, trong một cuộc đi dạo bất thường, gọi tôi đến rồi ôn tồn
bảo: “Đã đành là quốc gia mình nghèo, nhưng đừng cho tụi ngoại quốc nó thấy cái
nghèo của mình. Cái cây nó cỗi, nó vô dụng; nhưng cái hay của nó, cái dụng của
nó là ở nơi cái “cỗi”, cái “vô dụng” ấy. Chưa nói đến vẻ đẹp già cỗi của những
gốc cổ thụ này mà mình chỉ chứng tỏ là đất đai mình còn rộng rãi và phì nhiêu!
Đừng cho kinh tế xâm lăng vào đất đai của các cơ quan văn hóa. Văn hóa là nên
làm chuyện “hóa văn” mà thôi. Nghe rõ không?” Dĩ nhiên là tôi nghe rõ chứ, quá
rõ chứ, phải không thưa công tử? Lời ông lão - Lợi, Mỹ; Mỹ, Lợi - hai cái đó
đừng cho chúng xâm lăng nhau, mỗi cái một sứ mạng. Quả là ông già điên mà có
văn hóa hơn cả những nhà đại diện hoặc nhân danh văn hóa!
Người họa sĩ ngưng nói, nhắp nhắp
miệng liên hồi. Hình như có cái gì bên trong chàng đang “khát” quá chăng? Một
lúc, y lần tay cởi hạt nút áo trên cổ, kéo lỏng caravate một tí. Rõ ràng là y
không những “khát” mà còn “nóng” nữa! Y lắc cổ một hồi, chống hai tay lên bàn
rồi nói tiếp - trong lúc lão luật sư vẫn trong tư thế kiết già bất động, mắt
lim dim như đang “cúi nhìn vào trong cái vĩnh cửu nào đó” của ông!
- Cậu ạ! Cháu sẽ cố gắng diễn tả mọi
thứ, kể cả những chi tiết hầu như thừa thải và vô nghĩa nữa. Té ra, cậu ơi! Cái
thừa thải và vô nghĩa nó tác động cháu không cùng. Trong một bức tranh - dĩ
nhiên thuở trước cháu làm sao hiểu nổi - cái làm nên bức tranh không phải là
màu sắc, cũng không phải là hình ảnh, mà chính là khoảng trống. Nhờ khoảng
trống, bức tranh nó mới có “đời sống” - đang sống trong không gian bao la và
thời gian vô tận. Đây là cái đặc thù của các họa phái tâm linh Đông phương,
những bức tranh thủy mặc và một số loại tranh thiền. Rồi trong cái khoảng trống
đó, chỉ một nét chấm thôi là bức tranh đã hoàn thành tam tài: thiên, địa, nhân;
nghĩa là hình thành càn khôn và nhật nguyệt!
“Càn khôn tận thị mao đầu thượng
Nhật nguyệt bao hàm giới tử trung.”
Chàng họa sĩ ngâm lên khe khẽ rồi nói
- “trên đầu sợi lông là không gian; trong hạt cải là thời gian thì...”
Chàng họa sĩ ngưng nói một lúc.
- Thì... cái “một” cũng ở trong cái
“nhiều” mà cái “nhiều” cũng ở trong cái “một” ... Cậu ạ - chàng họa sĩ chợt
đứng dậy đi tới đi lui trong phòng - trở lại vấn đề có mạch lạc một chút. Cháu
hình như suốt đời là chạy đuổi cái to lớn, những cái có kích thước và tầm vóc
vũ trụ. Muốn đem cả vũ trụ vô hạn nhét vào trong khung vải hữu hạn của mình.
Đấy là việc làm của trẻ thơ, nói nặng hơn là của người ngu không thấy được cái
hữu hạn của mình. Cậu ơi! Một cành lau phất phơ giữa khoảng trống mêng mông đã
là vô hạn rồi. Một nét chấm, một nét phẩy mường tượng hình dáng con chim, hay
không cần cả hình dáng con chim là đã vô hạn rồi. Con chim ư? Ồ! Nếu quả đấy là
con chim, thì là một con chim cô đơn, không quê nhà, không tổ ấm, bay mà không
biết bay về đâu, hình như bay từ vô thỉ đến vô chung! Bay mà bất động giữa
khoảng trống bao la, có thể là giữa trăng, giữa hư vô, giữa mây, giữa mù sương
hoặc giữa đồng không mông quạnh. Đấy là định mệnh? Là thân phận? Là tự do? Ý
nghĩa ư? Cậu ơi, làm sao nói hết! Một hạt cát nằm trên bãi cát thôi - giữa vô
lượng hằng sa hạt cát - cũng đã nói lên vô lượng nghĩa rồi! Mà con thì, ơi
trời, muốn tìm hết ý nghĩa của tất cả mọi hiện hữu! Cậu nghĩ thử coi, có điên
rồ không chứ? Con điên rồ hơn dượng con hay dượng con điên rồ hơn con? Suy ra,
việc làm của lý trí, lý luận, kiến thức, khoa học... trên trần gian này? Ý
nghĩa! Ý nghĩa!... Thôi! Trời ơi!...
Nói ngang đây, chợt dưng người họa sĩ
bật khóc. Y quỳ xuống và chấp tay lạy. Y cứ cúi đầu và lạy lia lịa, vừa lạy
vừa khóc nức nở. Những hạt nước mắt đầm đìa trên mặt mũi rơi xuống tấm
thảm xanh. Lão luật sư vẫn ngồi im lặng.
Khóc một hồi, chàng họa sĩ chợt ngửng
phắt đầu dậy, đi về phía các bức tranh, la lớn:
- Phải rồi! Nhất định là phải rồi! Cái
vô hạn, cái vĩnh cửu là ở đây và bây giờ. Cái chí mỹ, cái đẹp tuyệt vời ở chính
ngay nơi đời sống tầm thường này: gánh nước, bửa củi, đẵn tre. “Huệ Năng! Ngươi
làm gì vậy?” “Ta đẵn tre”. Có Đạo gì, ở đâu? Mà tại sao không phải là Đạo? Ở
đâu? Tại sao? Ý nghĩa gì? “Cục phân!”
Y thở hào hển, trán rướm đầy mồ hôi.
- Bạch Lạc Thiên! - Chàng chỉ tay vào
bức tranh có quan thái thú là Bạch Lạc Thiên, nhà thơ đời Đường với người hầu
đứng dưới đất, còn Điểu Sào thiền sư ngồi chênh vênh trên cây, rồi hét lên -
Chính cái chỗ của ngươi mới nguy hiểm, chỗ thủy hỏa tương giao, chỗ thức tri
không ngừng chạy nhảy, nô rượt tìm bắt hữu hạn, vô hạn, đạo và phi đạo... Chính
cái đó... là... là nhà Phật gọi là cái gì hở cậu?
Chàng quay lại, nét mặt đã dịu hơn.
Ông cậu bây giờ mới mở mắt ra:
- Không cần biết, con ạ! Không cần
biết nó là cái gì. “Cục phân”!
- Ha ha... Chàng họa sĩ cười to - cháu
đã điên mà té ra cậu cũng điên luôn. Điên nói chuyện với điên mới hy hữu chứ!
Nói xong, y chỉ vào bình hoa:
- Cái gì đây?
Rồi tự trả lời:
- Ha ha... cục phân!
- Sai rồi. Là cái bình hoa!
Lão luật sư “chỉnh ngay”, rồi đưa tay
chỉ vào đầu người họa sĩ:
- Nếu cưỡng danh mà gọi thì “cục phân”
ở trong đó, trong cái đầu của con, là nơi thức tri không ngớt nô rượt, chạy
nhảy kiếm tìm vô hạn, hữu hạn, đạo và phi đạo... Còn ngoài này, bình hoa thì cứ
nói là bình hoa. “Huệ Năng! Ngài làm gì vậy?” “Ta đẵn tre!”. “Chú tiểu đi đâu
đó?”. “Con đi chợ”. “Con ăn cơm chưa?”. “Dạ rồi”. “Rửa chén đi!”
Người họa sĩ lặng người.
- Cảm ơn cậu. Cháu hiểu. Cháu hiểu.
Cháu hiểu.
Lại im lặng nữa.
Người họa sĩ vẫn thấy có một cái gì
không ổn ở trong lòng, cứ thay đổi thế ngồi luôn. Chàng đưa tay gõ một con ruồi
trên bàn.
- Cậu ơi! Có điều người ta cứ bảo là
dượng cháu điên. Điên sao được con người trí thức chân chánh ấy. Điên sao được,
một người không bao giờ nói giỡn với ai, nói chuyện hàng xóm, nói chuyện chợ
búa, nói chuyện đào hát, xi-nê... Có phải vì ông ấy “tỉnh” quá, tỉnh quá và
trong sạch quá giữa cuộc đời bùn nhơ ô trọc này nên ông mang tâm sự của Khuất
Nguyên:
“Thế nhân giai trọc, ngã độc thanh!
Chúng nhân giai túy, ngã độc tỉnh!”
Bèn trầm mình dưới sông Mịch La?
Ông thao thức về hạnh phúc và tự do
cho con người đến nỗi ông bỏ quên hoàn toàn con người ông, đẩy cái tự ngã của
mình mất tăm vào đại ngã, đẩy cái ý thức với những giao tiếp thường nhiệm lùi
sâu vào vô thức, để chỉ hoàn toàn còn lại “con người nhân loại” của ông thôi.
Phải chăng, vì vậy mà “con người nhân loại” ấy có thể giúp ông đứng dậy bất cứ
lúc nào, ngay giữa đêm khuya, gọi điện thoại qua cục an ninh cho xe lên phi
trường để ông đáp máy bay đi thăm các anh em chiến sĩ ở tiền phương; hoặc lên
sân thượng đi dạo mát rồi “thù thì thủ thỉ” với trời đất trăng sao - về những
tranh chấp vô ích, vô bổ và ngu dại của con người. Thôi thì nhờ Thượng đế hãy
ban cho ông sức mạnh tinh thần để ông hiên ngang lên đường và chiến thắng...
Ông thường cầu nguyện như thế đó. Nhưng người ta thường nói là “trời cao có
mắt” chứ không ai nói “trời cao có tai”! Vì Thượng đế không có tai nên không
nghe được ông nói những gì. Và cũng vì “tai vách mạch rừng” nên những điều ông
tuyên bố trong phòng kín mà cả thảy “quốc dân” đều biết cả: “Tôi đã tự ý tuyên
bố rút lui khỏi chính trường - giọng nói ông xúc động thái quá - kính thưa quốc
dân khả kính và đồng bào mến yêu! Tôi đã không làm gì được cho nhân loại và tổ
quốc này, khói lửa vẫn còn đó và đau thương vẫn còn kia... Đau thương do đói
khát, bệnh tật, dốt nát và ly tán...” Cậu ơi! Chính cái giây phút đó, cái giây
phút thương tâm cùng độ ấy, ông từ giã cõi đời. Ông xúc động thái quá vì tiếng
hoan hô hoặc lời tán dương nồng nhiệt của quốc dân đồng bào chăng? “Tôi đã là
kẻ đánh mất niềm tin của quốc dân và đồng bào; nhưng tôi không mất danh dự,
không mất khối óc và trái tim, không hề bị sỉ nhục... mà nếu nói được, thì tôi
chỉ là kẻ bệnh-hoạn-thời-cuộc hoặc bất-lực-thời-cuộc mà thôi. Xin vĩnh biệt tổ
quốc và đồng bào mến yêu!” Và câu nói ấy, thế là đã đi vào lịch sử; câu nói
cuối cùng và vĩnh viễn của một nhà đại chính khách bất đắc chí! Khối óc và trái
tim ấy không mất nhưng nó đã khô máu...
Chàng họa sĩ thở dài não ruột. Y đưa
mắt nhìn bất động lên cao.
- Điều ấy chứng tỏ gì? Chứng tỏ sự bất
lực trước định mệnh, trước cái đại toàn!
Người họa sĩ lại im sững, vừng trán
dường như giãn ra. Lão luật sư bây giờ mới từ từ chế thêm một bình trà mới,
trao cho người họa sĩ ly trà đầu tiên.
- Đủ chưa con?
Chàng họa sĩ nhắp từng ngụm nhỏ nóng
ấm, hương trà thơm tỏa dịu dàng. Trong giọng nói hầu như không còn hăm hở và
dồn dập như trước. Y gục gặc đầu mấy cái.
- Đáng lý ra cháu còn nói thêm nữa, vì
trong cái bối cảnh lớn mà đôi mắt thẩm mỹ cháu ghi nhận còn có hình ảnh bà dì
cháu, những đứa con trai, con gái trong gia đình ấy nữa.
Lão luật sư cũng gật đầu.
- Những người kia cũng không có gì đặc
biệt lắm. Ở đâu cũng thấy, ở đâu cũng gặp những con người tương tự. Một gia
đình giàu có rồi bị phá sản do con cái phá phách, do bệnh hoạn, do tai bay vạ
gió... con cái hư hỏng, tù tội, trà đình tửu điếm... Ồ! Cái đó... cái đó...
Ông cậu lắc đầu mà không nói tiếp.
- Nhưng còn ni cô - còn gái út? Chàng
họa sĩ đôi mắt chợt sáng quắc, hăm hở trở lại - Ít nhất đó cũng là màu xanh dịu
dàng giữa cái đổ nát, một nét liễu cong mềm giữa những hình kỷ hà học, một niềm
an ủi ngọt ngào, hiền từ và mát mẻ xiết bao giữa cuộc đời khô cháy và mệt mỏi
này!
- Phải. Và như thế nghĩa là...
Lão luật sư bỏ lững câu nói, đưa mắt
chăm chú nhìn chàng họa sĩ, trong mắt ông có cái gì ngời sáng và long lanh.
- Phải rồi. Cháu đã hiểu.
Chàng họa sĩ trả lời mà tâm trí như mơ
màng ở tận đâu đâu.
- Về cái đẹp, cái xấu? Cái thiện, cái
ác?
Ông luật sư dồn dập hỏi.
- Dạ!
Hai người lại im lặng.
Chàng họa sĩ miên man nói:
- Bên ngọn lá xanh có ngọn lá vàng chứ
cần gì vẽ màu vàng trong ngọn lá xanh? Không cần vẽ sự điên đảo của biển và
núi, vì chẳng có gì mà không hàm nghĩa điên đảo. Cậu ơi! Cháu ngạc nhiên cái sự
vươn lên lẻ loi phô thắm của một cành hoa dại bên đám
cỏ mọc lan tràn vô trật tự; sao cháu không nghĩ thêm rằng, trong đổ nát
cũng hàm chứa sự sống hay là một phần của sự sống? Mà sự sống nào lại không
mang trong chính nó sự thiện mỹ? Thiện mỹ nó ở nơi toàn thể nhưng không cá thể,
toàn thể không hiện hữu. Và như thế, tuyệt đối cũng ở nơi cành mai đẹp tương
đối này, nơi cái “chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành” này. Nó vừa là nhân
vừa là quả. Nó đầy đủ ba đời. Đầy đủ cho chính nó.
Nói ngang đây, chàng họa sĩ quay qua
luật sư già:
- Hòa thượng Không Như điểm đạo cho
lão làm vườn như thế nào hả cậu?
Chàng họa sĩ chợt nhiên hỏi lạc qua ý
khác, lão luật sư cũng trả lời xa xôi:
- Cây cọ của con bất lực trước cái vô
hạn thì cây kiếm của tục khách kia cũng trở thành vô dụng trước thiền gia. Lão
làm vườn dĩ nhiên là “giác ngộ cái sự đời” thâm hậu hơn con chứ?
Nói xong, ông luật sư già cười cười
trong mắt. Chàng họa sĩ cất tiếng “ồ” rồi im lặng.
- Bây giờ cây cọ của con đâu?
- Cháu bỏ rồi cậu ạ!
Trả lời xong, người họa sĩ cười, tiếp:
- Có lẽ cháu phải bỏ một thời gian.
Lão luật sư cất tiếng hỏi hờ hững:
- Con có ý định vẽ lại không?
- Dạ, có! Có thể! Vẽ cũng được chứ
không sao cả.
Y đưa mắt nhìn thoáng mấy bức tranh.
Lão luật sư hỏi:
- Nhãn quan, trường phái và quan niệm?
- Không. Hoàn toàn không nhãn quan,
không trường phái, không quan niệm.
- Vậy thì sao nhỉ? Có một thẩm mỹ quan
vượt thoát ra ngoài tất cả mọi thẩm mỹ quan sao?
Lão luật sư chăm chú nhìn người họa
sĩ.
Y gật đầu một cách mạnh mẽ:
- Dạ. Có chứ! Ưa nhành mai thì cháu vẽ
nhành mai, đúng hình dáng, góc cạnh, sắc độ trong không-thời-gian mà “nó là”,
rồi đề dưới là “nhành mai”. Ưa bụi trúc thì cháu vẽ bụi trúc, đúng hình dáng và
sắc độ trong không-thời-gian mà “nó là”, rồi đề dưới “bụi trúc”. Thế thôi. Đấy
là thẩm mỹ quan của cháu, không nói “trong”, không nói “ngoài”, không nói
“tại”, không nói “xuất”.
- Đơn giản nhỉ!
- Dạ! Đơn giản!
Cả hai cùng cười xòa. Ông luật sư già
định đưa tay chỉ mảnh trăng sơ huyền đang treo lơ lửng giữa bầu trời rồi nói:
“Con thấy đó. Trăng thì có khi tròn, khi khuyết; trời thì có khi nắng, khi mưa;
xã hội thì có khi suy, khi thịnh... Tất cả đều diễn tiến một cách sinh động như
nó “đang là”, luôn luôn trọn vẹn với chính nó...” Nhưng rồi chợt nghĩ, nếu nói
vậy thì thừa thải, nhạt nhẽo và vô duyên quá, lại thôi. Vô tình khi ấy, chàng
họa sĩ cũng đưa mắt nhìn mảnh trăng sơ huyền, y mới chợt nhớ ra là trời đã tối,
bèn đứng dậy...