ÂN ĐỨC TĂNG (SAṂGHĀGUNA)
Ân đức Tăng được đầy đủ trọn vẹn trong chư Thánh Tăng là những bậc Thánh Thanh
Văn đệ tử của Đức Thế Tôn. Ân đức Tăng vô cùng vi tế, sâu sắc, rộng lớn vô
lượng vô biên mà chư Thánh Thanh Văn mới có đầy đủ trọn vẹn, còn chư phàm Tăng
chỉ có được một phần nào, tùy theo khả năng của mỗi Ngài.
Trong kinh Dhajaggasutta , Đức Phật dạy niệm 9 Ân đức Tăng như sau:
“Suppaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho.
Ujuppaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho.
Ñāyappaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho.
Sāmīcippaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho.
Yadidaṃ cattāri purisayugāni aṭṭhapurisapuggalā esa
Bhagavato sāvakasaṃgho. Āhuneyyo, Pāhuneyyo, Dakkhiṇeyyo,
Añjalikaraṇīyo, Anuttaraṃ puññak-khettaṃ
lokassa”.
Ý NGHĨA 9 ÂN ĐỨC TĂNG
1) Suppaṭipanno: Chư Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức
Thế Tôn là những bậc đã hành nghiêm chỉnh đúng theo lời giáo huấn của Đức Phật.
2) Ujuppaṭipanno: Chư Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức
Thế Tôn là những bậc đã hành trung thực đúng theo pháp hành Trung Đạo, không
quanh co lầm lạc.
3) Ñāyappaṭipanno: Chư Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Thế Tôn là
những bậc đã hành theo pháp hành Bát Chánh Đạo chứng ngộ Niết Bàn, giải thoát
khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.
4) Sāmīcippaṭipanno: Chư Thánh Thanh Văn đệ tử của
Đức Thế Tôn là những bậc đã hành giới-định-tuệ đúng đắn xứng đáng để chúng sinh
tôn kính lễ bái cúng dường.
Cattāri purisayugāni atthapurisapuggalā: Chư Thánh Thanh Văn đệ tử
của Đức Thế Tôn có 4 đôi thành 8 bậc Thánh (tính theo tâm Siêu tam giới).
Chư Thánh Thanh Văn có 4 đôi:
Nhập Lưu Thánh Đạo --> Nhập Lưu Thánh Quả
Nhất Lai Thánh Đạo --> Nhất Lai Thánh Quả
Bất Lai Thánh Đạo --> Bất Lai Thánh Quả
Arahán Thánh Đạo --> Arahán Thánh Quả
Chư Thánh Thanh Văn có 8 bậc Thánh:
4 Thánh Đạo + 4 Thánh Quả
Nhập Lưu Thánh Đạo
Nhất Lai Thánh Đạo
Bất Lai Thánh Đạo
Arahán Thánh Đạo
Nhập Lưu Thánh Quả
Nhất Lai Thánh Quả
Bất Lai Thánh Quả
Arahán Thánh Quả
5) Āhuneyyo: Chư Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Thế Tôn là những bậc
xứng đáng thọ nhận những thứ vật dụng mà thí chủ từ phương xa đem đến cúng
dường quý Ngài, để mong được quả báu lớn.
6) Pāhuneyyo: Chư Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Thế Tôn là những
bậc xứng đáng thọ nhận những thứ vật dụng mà thí chủ dành cho những vị khách
quý như quý Ngài.
7) Dakkhiṇeyyo: Chư Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Thế Tôn là
những bậc xứng đáng thọ nhận những thứ vật dụng mà thí chủ có đức tin trong
sạch nơi Tam Bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, đem dâng cúng đến quý Ngài, để
mong được quả báu tốt lành cho mình và những người thân quyến.
8) Añjalikaraṇīyo: Chư Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức
Thế Tôn là những bậc xứng đáng cho chúng sinh chắp tay cung kính lễ bái cúng
dường.
9) Anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassa: Chư
Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Thế Tôn là phước điền cao thượng của chúng sinh
không đâu sánh được.
* 9 Ân đức Tăng này chia ra làm 2 phần:
- Ân đức Tăng thứ nhất Suppaṭipanno cho đến Ân đức Tăng thứ
tư Sāmīcippaṭipanno gồm có 4 Ân đức Tăng này thuộc về Ân đức
nhân đã hành đúng theo Thánh Đạo (ariyamagga) hợp đủ 8
chánh, trở thành bậc Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Thế Tôn có 4 đôi thành 8 bậc
thánh.
- Ân đức Tăng thứ năm Āhuneyyo cho đến Ân đức Tăng thứ chín Anuttaraṃ
puññak-khettaṃ lokassa gồm có 5 Ân đức Tăng này thuộc về Ân
đức quả của 4 Ân đức nhân.
9 Ân đức Tăng này chỉ có chư Thánh Tăng mới có đầy đủ mà thôi, còn chư phàm Tăng
là những bậc đang thực hành giới-định-tuệ, nên quý Ngài chưa có đủ 9 Ân đức
này.
GIẢNG GIẢI VỀ 9 ÂN ĐỨC TĂNG
1- Ân đức Tăng thứ nhất: Suppaṭipanno
Suppaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho.
(Cách đọc: Xúp-pá-tí păn-nô phá-gá-vóa-tô xa-vóa-cá-xăng-khô)
Suppaṭipanno: Chư Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Thế
Tôn là những bậc đã hành nghiêm chỉnh đúng theo lời giáo huấn của Đức Phật.
Chư Thánh Tăng là bậc Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Thế Tôn đã thực hành nghiêm
chỉnh, đúng đắn hoàn toàn theo lời giáo huấn của Đức Thế Tôn, thực hành không
tự làm khổ mình, không làm khổ người, không tự làm khổ mình lẫn người; thực
hành đúng theo pháp hành giới - định - tuệ.
Hành giới: Chư Thánh Thanh Văn có đức tin hoàn toàn trong sạch nơi Tam
Bảo, tôn trọng các điều giới, các pháp hành Tăng sự mà Đức Phật đã chế định ban
hành, nên quý Ngài nghiêm chỉnh thực hành đúng đắn hoàn toàn theo lời giáo huấn
của Đức Phật. Dù thấy lỗi rất nhỏ, quý Ngài cũng xem như lỗi rất lớn mà tránh
xa, thà phải chịu hy sinh sinh mạng, chứ không để phạm giới.
Như tích chuyện một vị Tỳ-khưu trong bộ Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga),
được tóm lược như sau:
Một bọn cướp gặp một vị Tỳ-khưu ở ven rừng, chúng nghĩ rằng đã gặp điều xui xẻo,
nên bọn cướp bắt vị Tỳ-khưu ấy trói bằng một sợi dây rừng, rồi để nằm tại đó.
Chẳng may, một đám lửa rừng cháy lan đến, nếu Ngài vùng dậy để tránh ngọn lửa,
thì làm đứt sợi dây rừng còn tươi. Như vậy, Ngài sẽ bị phạm giới Pācittiya,
mà Đức Phật đã chế định ban hành đến chư Tỳ-khưu.
Ngài nghĩ rằng: “Sự chết là điều chắc chắn, nếu ta thoát chết hôm nay, thì sau
này cũng phải chết, nhưng giới không trong sạch. Chẳng thà ta chịu chết với
giới trong sạch, chứ không để phạm giới”.
Do nhờ giới trong sạch, Ngài tiến hành thiền tuệ dẫn đến chứng đắc Arahán Thánh
Đạo - Arahán Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán. Khi ấy, ngọn
lửa rừng lan đến thiêu cháy Ngài. Ngài tịch diệt Niết Bàn tại nơi ấy.
Nếu trường hợp vị Tỳ-khưu nào phạm giới nhẹ, thì nên tìm đến một vị Tỳ-khưu khác
xin sám hối Āpatti. Đó là cách làm cho giới của mình trở lại trong sạch,
để làm nền tảng tiến hành thiền định, tiến hành thiền tuệ.
Hành định: Đó là tiến hành thiền định, chư Thanh Văn đã tiến hành thiền
định để chứng đắc các bậc thiền hữu sắc, các bậc thiền vô sắc, để làm nền tảng
cho pháp hành thiền tuệ, hoặc để nhập các bậc thiền hưởng sự an lạc.
Hành tuệ: Đó là tiến hành thiền tuệ, chư Thanh Văn đã tiến hành thiền tuệ
dẫn đến chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn trở thành bậc Thánh Thanh
Văn đệ tử của Đức Phật, gọi là chư Thánh Tăng.
Nếu hàng Thanh Văn đang thực hành đúng theo lời giáo huấn của Đức Phật, mà chưa
chứng đắc Thánh Đạo- Thánh Quả và Niết Bàn, thì còn là hạng phàm Thanh Văn, gọi
là chư phàm Tăng.
Do đó, Ân đức Tăng này gọi là Supaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho.
2- Ân đức Tăng thứ nhì: Ujuppaṭipanno
Ujuppaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho.
(Cách đọc: Ú-chúp pá-tí-păn-nô phá-gá-vóa-tô xa-vóa-cá-xăng-khô)
Ujuppaṭipanno: Chư Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Thế
Tôn là những bậc đã hành trung thực đúng theo pháp hành Trung Đạo, không quanh
co lầm lạc.
Chư Thánh Tăng là bậc Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Thế Tôn, đã hành trung thực
nghĩa là mình đã phạm lỗi, thì không dấu lỗi của mình; không hành lừa dối
nghĩa là mình không có đức, không có tài, thì không làm ra vẻ như người có đức,
có tài, v.v... mà hành theo pháp hành Trung Đạo nghĩa
là không hành tham đắm trong ngũ trần, cũng không hành tự ép xác, hành khổ
hạnh.
Pháp hành Trung Đạo đó là pháp hành Bát Chánh Đạo, dẫn đến chứng
ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn, giải
thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam giới.
Nếu đã chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả rồi, thì trở thành bốn bậc Thánh
Thanh Văn đệ tử của Đức Phật, gọi là chư Thánh Tăng.
Nếu chưa chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả nào, thì vẫn còn là hàng phàm Thanh
Văn, gọi là chư phàm Tăng.
Do đó, Ân đức Tăng này gọi là Ujuppaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho.
3- Ân đức Tăng thứ ba: Ñāyappaṭipanno
Ñāyappaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho.
(Cách đọc: Nha-giáp-pá-tí-păn-nô phá-gá-vóa-tô xa-vóa-cá-xăng-khô)
Ñāyappaṭipanno: Chư Thánh Thanh Văn đệ tử của
Đức Thế Tôn là những bậc đã hành theo pháp hành Bát Chánh Đạo chứng ngộ Niết
Bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.
Chư Thánh Tăng là bậc Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Thế Tôn, đã nhận thức biết
rõ rằng: Tam giới “dục giới, sắc giới và vô sắc giới” là ba hầm lửa ngùn
ngụt cháy đỏ không ngừng thiêu đốt tất cả chúng sinh. Trong tam giới này không
có một nơi nào thực sự được mát mẻ an lạc. Tất cả chúng sinh phải chịu cảnh
nóng nảy do 11 thứ lửa: “Lửa tham dục, lửa sân hận, lửa si mê, lửa sinh, lửa
già, lửa chết, lửa sầu não, lửa khóc than, lửa khổ thân, lửa khổ tâm, lửa thống
khổ cùng cực”, cùng với 1.500 loại phiền não. Chỉ có Niết Bàn
là pháp dập tắt được mọi thứ lửa, làm vắng lặng mọi phiền não, giải thoát mọi
cảnh khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.
Pháp hành dẫn đến chứng ngộ Niết Bàn đó là pháp hành Bát Chánh Đạo.
Hành giả tiến hành pháp hành Bát Chánh Đạo hợp đủ 8 chánh, đó là lúc chứng ngộ
Niết Bàn, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả, diệt đoạn tuyệt được mọi phiền
não, đồng thời dập tắt mọi thứ lửa. Cho nên, chư Thánh Thanh Văn đã coi trọng
phận sự chứng ngộ Niết Bàn lên ưu tiên hàng đầu. Dù lửa cháy trên đầu cũng xem
thường, không quan tâm, vì họ nghĩ rằng: “Lửa cháy trên đầu chỉ thiêu đốt một
kiếp hiện tại, còn các thứ lửa tham dục, lửa sân hận, lửa si mê,... không chỉ
thiêu đốt, làm nóng nảy trong một kiếp hiện tại, mà còn thiêu đốt làm nóng nảy
nhiều kiếp trong vị lai vô cùng, vô tận”. Cho nên, chư Thánh Tăng đã
đặt ưu tiên hàng đầu tiến hành pháp hành Bát Chánh Đạo dẫn đến chứng ngộ Niết
Bàn là trước hết.
Do đó, Ân đức Tăng này gọi là Ñāyappaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho.
4- Ân đức Tăng thứ tư: Sāmīcippaṭipanno
Sāmīcippaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho.
(Cách đọc: Xa-mi-chíp-pá-tí-păn-nô phá-gá-vóa-tô xa-vóa-cá-xăng-khô)
Sāmīcippaṭipanno: Chư Thánh Thanh Văn đệ tử
của Đức Thế Tôn là những bậc đã hành giới-định-tuệ đúng đắn xứng đáng để chúng
sinh tôn kính lễ bái cúng dường.
Cattāri purisayugāni atthapurisapuggalā: Chư Thánh Thanh Văn đệ tử
của Đức Thế Tôn có 4 đôi thành 8 bậc Thánh (tính theo tâm Siêu tam giới).
Chư Thánh Thanh Văn có 4 đôi:
Nhập Lưu Thánh Đạo --> Nhập Lưu Thánh Quả
Nhất Lai Thánh Đạo --> Nhất Lai Thánh Quả
Bất Lai Thánh Đạo --> Bất Lai Thánh Quả
Arahán Thánh Đạo --> Arahán Thánh Quả
Chư Thánh Thanh Văn có 8 bậc Thánh:
4 Thánh Đạo + 4 Thánh Quả
Nhập Lưu Thánh Đạo
Nhất Lai Thánh Đạo
Bất Lai Thánh Đạo
Arahán Thánh Đạo
Nhập Lưu Thánh Quả
Nhất Lai Thánh Quả
Bất Lai Thánh Quả
Arahán Thánh Quả
Chư Thánh Tăng là bậc Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Thế Tôn, đã hành pháp hành
Bát Chánh Đạo, dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4
Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt mọi phiền não, tham ái, ác pháp, trở
thành bậc Thánh Arahán, là bậc xứng đáng được chúng sinh lễ bái cúng dường.
Những thí chủ có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, cung kính lễ bái cúng dường bốn
thứ vật dụng đến chư Thánh Tăng, để cầu mong được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự
an lạc lâu dài. Để đáp ứng lại lòng mong ước của thí chủ cho được thành tựu như
ý. Chư Tăng phải là bậc Thánh Tăng có giới đức hoàn toàn trong sạch, có định
đức hoàn toàn, có tuệ đức hoàn toàn….
* Như tích Ngài Đại đức Ayyamitta hành đạo trong động Kassaka gần
một xóm nhà. Hằng ngày, Ngài đi khất thực trong xóm nhà ấy, có một gia đình
nghèo khổ, chỉ có hai mẹ con có đức tin trong sạch. Hai mẹ con hằng ngày hộ độ
để bát cúng dường đến Ngài và xem Ngài như là người thân trong gia đình.
Một hôm, người mẹ vào rừng, đi làm sớm, trước khi đi bà căn dặn con gái rằng:
- Này con gái yêu quý! Gạo ngon, sữa bò, bơ, đường thốt nốt,... mẹ để ở kia. Khi
sư huynh con đến khất thực, con hãy lấy những thứ đó nấu để bát cho sư huynh,
phần còn lại, con ăn nhé!
Người con gái hỏi:
- Thưa mẹ! Còn mẹ ăn gì?
Bà mẹ trả lời:
- Con à! Mẹ đã ăn cơm nguội ngày hôm qua còn lại với nước canh chua rồi.
Người con gái hỏi tiếp:
- Thưa mẹ! Còn buổi trưa mẹ ăn gì?
Bà mẹ bảo đứa con gái:
- Buổi trưa, con nấu cháo hạt tấm trộn với rau, để mẹ về ăn nghe!
Trong khi hai mẹ con bà thí chủ đang nói chuyện với nhau, khi ấy, Ngài Đại đức Ayyamitta
đi khất thực đứng nghe được câu chuyện giữa hai mẹ con.
Ngài tự dạy mình rằng:
“Này Ayyamitta, hãy lắng nghe đây! Bà thí chủ ăn cơm nguội còn lại với nước canh
chua; trưa nay, bà ăn cháo hạt tấm với rau; còn những thứ gạo ngon, sữa bò,
đường thốt nốt,... bà lại để giành nấu để bát cúng dường cho ngươi. Làm như
vậy, không phải bà mong được những thứ của cải gì nơi ngươi, mà thật ra, bà
mong thành tựu được quả báu an lạc nơi cõi người, cõi trời và Niết Bàn. Những
quả báu mà bà mong ước, ngươi có thể đáp ứng được hay không? Vậy, nếu ngươi
chưa diệt đoạn tuyệt được phiền não trầm luân, thì người không xứng đáng thọ
nhận vật thực của bà thí chủ ấy!”
Sau khi tự dạy mình xong, Ngài không đi khất thực, mà trở về động cất bát, ngồi
phát nguyện rằng:
“Arahattam apāpuṇitvā na nikkhamissāmi”
“Chưa chứng đắc đến Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả và Niết Bàn, ta sẽ không
ra khỏi nơi này.”
Do nhờ giới đức trong sạch làm nền tảng, Ngài tiến hành thiền tuệ, một thời gian
không lâu đã chứng đắc đến Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả và Niết Bàn,
diệt đoạn tuyệt mọi phiền não trầm luân, mọi tham ái, mọi ác pháp trở thành bậc
Thánh Arahán cao thượng.
Sau khi chứng đắc xong, thời gian vẫn còn sớm, nên Ngài đi khất thực. Ngài mặc
y, mang bát vào xóm khất thực, đứa em gái chờ để bát cúng dường đến Ngài, nhìn
thấy gương mặt của Ngài trong sáng thật đáng tôn kính lễ bái cúng dường.
Khi mẹ cô gái vừa về đến nhà, cô gái liền chạy ra đón mẹ và khoe rằng:
- Thưa mẹ! Hôm nay sư huynh có gương mặt khác thường hơn mọi ngày, gương mặt thật
trong sáng lạ thường, thật xứng đáng tôn kính lễ bái cúng dường. Mẹ à!
Nghe vậy, bà thí chủ cảm thấy vô cùng sung sướng, hoan hỷ bảo rằng:
- Hôm nay, vị Đại đức, con trai quý báu của ta chắc đã hoàn thành xong phận sự
của Tỳ-khưu rồi thì phải!
Qua tích này, khiến phải suy tư rằng:
Thật ra, hàng phàm nhân không thể nào biết được tâm của bậc Thánh Nhân,
song về thân của bậc Thánh Nhân được biểu hiện trên gương mặt
trong sáng lạ thường, hành vi cử chỉ đi, đứng, nằm, ngồi, nói năng,... trang
nghiêm khác thường. Do đó, phàm nhân có trí tuệ nhận thức tinh tế cũng có thể
biết được đó là những bậc đáng được tôn kính.
Tương tự như trường hợp Ngài Đại đức Sāriputta. Khi còn là vị Đạo sĩ Upatissa,
đệ tử của vị Đạo sư Sañcaya. Nhìn thấy Ngài Đại đức Assaji đang
đi vào kinh thành Rājagaha để khất thực, với dáng đi từng bước nghiêm
trang, đôi mắt nhìn xuống, vị Đạo sĩ Upatissa phát sinh đức tin trong
sạch nơi Ngài Đại đức Assaji, bèn thầm nghĩ rằng: Vị Tỳ-khưu này chắc là
bậc Thánh Arahán trong đời này. Ta nên gần gũi thân cận với Ngài, rồi thỉnh
Ngài thuyết pháp tế độ ta.
Sau khi Ngài Đại đức Assaji độ vật thực xong, đạo sĩ Upatissa đến
hầu đảnh lễ Ngài Đại đức, kính xin Ngài thuyết pháp. Ngài Đại đức Assaji
thuyết một bài kệ gồm có 4 câu. Vị Đạo sĩ Upatissa vừa mới nghe 2 câu
đầu liền chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu.
Như vậy, chư Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Thế Tôn, là những bậc xứng đáng cho
chúng sinh tôn kính lễ bái cúng dường.
Do đó, Ân đức Tăng này gọi là Sāmīcippaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho.
5- Ân đức Tăng thứ năm: Āhuneyyo
Āhuneyyo Bhagavato sāvakasaṃgho
(Cách đọc: A-hú-nây-dô phá-gá-vóa-tô xa-vóa-cá-xăng-khô)
Āhuneyyo: Chư Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Thế Tôn là những
bậc xứng đáng thọ nhận những thứ vật dụng mà thí chủ từ phương xa đem đến cúng
dường quý Ngài, để mong được quả báu lớn.
Chư Thánh Tăng là bậc Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Thế Tôn, xứng đáng thọ nhận
những vật dụng mà thí chủ từ phương xa đem đến cúng dường quý Ngài, để mong
được những quả báu sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lớn lao và lâu dài.
* Như tích chuyện thiên nam trong cõi Tam Thập Tam Thiên:
Trong cõi người, những người Phật tử đã tạo mọi thiện pháp trong thời kỳ Phật
giáo, sau khi mãn kiếp, do thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh lên các cõi trời
dục giới. Những thiên nam, thiên nữ có nhiều oai lực hơn các chư thiên đã tạo
thiện pháp ngoài Phật giáo.
Như vị thiên nam Indaka sinh trong cõi trời Tam Thập Tam Thiên. Tiền kiếp
vị thiên nam Indaka này sinh trong cõi người, trong thời kỳ Phật giáo,
đã từng tạo nhiều thiện pháp như giữ giới, bố thí cúng dường đến Đức Phật, Đức
Pháp, Đức Tăng Tam Bảo,... Sau khi mãn kiếp người, do thiện nghiệp ấy cho quả
tái sinh lên cõi trời Tam Thập Tam Thiên, có nhiều oai lực hơn chư thiên khác.
Mỗi khi đến chầu Đức vua Sakka, vị thiên nam Indaka phát ra hào
quang sáng chói, lấn áp bao trùm hào quang của các chư thiên khác, kể cả Đức
vua trời Sakka. Cho nên, Đức vua cảm thấy tủi phận, vì mình là Đức vua
mà hào quang lại thua kém chư thiên đã tạo phước thiện trong Phật giáo.
* Tích Đức vua trời Sakka
Một hôm, Đức vua trời Sakka dùng thiên nhãn thấy Ngài Đại đức Mahākassapa
nhập diệt thọ tưởng suốt 7 ngày, đến ngày thứ 7 mới xả, Đức vua
trời biết Ngài có tâm bi tế độ những người nghèo khổ nên chờ ngày Ngài xả diệt
thọ tưởng; Đức vua trời Sakka truyền gọi bà Hoàng hậu Sujātā, cả
hai cùng hiện xuống cõi người, hóa thành người già nghèo khổ, sống trong một
cái chòi lá bên ven đường, đồ ăn đã sửa soạn sẵn. Đức vua trời hóa thành một cụ
già đáng thương, đứng trông chờ Ngài Đại đức Mahākassapa đi khất thực tế
độ chúng sinh nghèo khổ.
Vừa thấy Ngài Đại đức Mahākassapa từ xa đi đến, Đức vua trời bèn gọi
Hoàng hậu Sujātā đã cải trang thành một bà già:
- Bà ơi! Ngài Đại đức đang đến trước cổng chòi mình, bà có gì đem ra để bát cúng
dường đến Ngài không?
Bà Hoàng hậu bèn tâu lại với Đức vua rằng:
- Ông à! Ông kính thỉnh Ngài dừng lại để tế độ chúng ta.
Ngài đứng lại. Cả hai cung kính để bát cúng dường Ngài. Vật thực mà Ngài vừa thọ
nhận phảng phất hương vị lạ thường. Ngài quán xét biết hai vợ chồng già này
chính là Đức vua trời Sakka và Hoàng hậu Sujātā liền quở trách
rằng:
- Lão Tăng tế độ người nghèo khổ, tại sao Đức vua và Hoàng hậu biến hóa làm người
già giành của người nghèo như vậy?
Đức vua Sakka thưa rằng:
- Kính bạch Ngài Đại đức, kính xin Ngài có tâm bi tế độ chúng con. Tiền kiếp của
chúng con làm mọi phước thiện, trong thời kỳ không có Đức Phật, Đức Pháp, Đức
Tăng xuất hiện trên thế gian. Chúng con cảm thấy tủi phận nghèo nàn, vì quả
báu, oai lực không sánh được với chư thiên, mà tiền kiếp đã từng làm phước cúng
dường đến Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng.
Đức vua Sakka vô cùng hoan hỷ tự thốt lên rằng:
“Aho! Dānaṃ paramadānaṃ Kassape suppatiṭṭhitaṃ”
“Ô! Được làm phước thiện bố thí đến Ngài Đại đức Mahākassapa, thật là
phước thiện bố thí vô cùng cao thượng!”.
Chư Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Thế Tôn là những bậc có giới đức, có định đức,
có tuệ đức, có giải thoát đức, có giải thoát tri kiến đức đầy đủ, xứng đáng thọ
nhận những vật dụng mà thí chủ có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, từ phương xa
đem đến làm phước thiện bố thí. Sự bố thí cúng dường đó, dù ít dù nhiều, song
quả báu của phước thiện lớn lao vô lượng không sao kể xiết.
Do đó, Ân đức Tăng này gọi là Āhuneyyo Bhagavato sāvakasaṃgho.
6- Ân đức Tăng thứ sáu: Pāhuneyyo
Pāhuneyyo Bhagavato sāvakasaṃgho.
(Cách đọc: Pa-hú-nây-giô phá-gá-vóa-tô xa-vóa-cá-xăng-khô)
Pāhuneyyo: Chư Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Thế Tôn là những bậc
xứng đáng thọ nhận những thứ vật dụng mà thí chủ dành cho những vị khách quý
như quý Ngài.
Chư Thánh Tăng là bậc Thanh Văn đệ tử của Đức Thế Tôn, xứng đáng thọ nhận những
thứ vật dụng mà thí chủ dành cho những vị khách quý.
Khách quý có hai hạng:
- Khách quý hạng thường đó là bà con thân quyến, bạn bè, những người ân nhân,...
của mình trong mỗi kiếp.
- Khách quý hạng đặc biệt đó là chư Thánh Tăng, chư phàm Tăng thật hiếm có trong
thế gian, bởi vì Đức Phật Chánh Đẳng Giác xuất hiện trên thế gian là một điều
khó được, khi nào có Đức Phật Chánh Đẳng Giác trên thế gian, thì khi ấy mới có
chư Thánh Tăng, chư phàm Tăng. Thật vậy, có khi 1 a-tăng-kỳ kiếp trái đất trải
qua 4 thời kỳ thành-trụ-hoại-không, mà không có một Đức Phật nào xuất hiện trên
thế gian, thì cũng không có chư Thánh Tăng hay phàm Tăng.
Sự làm phước đến khách hạng thường sẽ được quả báu trong kiếp hiện tại và trong
kiếp vị lai có giới hạn.
Sự làm phước đến khách hạng đặc biệt như chư Thánh Tăng, chư phàm Tăng sẽ được
quả báu lớn lao trong kiếp hiện tại và trong vô lượng kiếp vị lai, không có
giới hạn, lại còn làm duyên lành cho sự giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong
tam giới; bởi vì, chư Thánh Tăng là phước điền cao thượng của chúng sinh. Vì
vậy, chư Thánh Tăng là hạng khách quý nhất. Người thí chủ có đức tin trong sạch
nơi Tam Bảo, nên tôn kính đón rước, lễ bái cúng dường đến chư Thánh Tăng, chư
phàm Tăng sẽ được nhiều quả báu quý giá, đáng hài lòng hoan hỷ.
* Trong bài kinh Kusalasutta Đức Phật dạy:
Chư Tỳ-khưu Tăng có giới đến gia đình, thì những người trong gia đình sẽ được 5
quả báu lớn lao như:
- Tỳ-khưu có giới đến gia đình, những người trong gia đình nhìn thấy và phát sinh
thiện tâm trong sạch, những người trong gia đình ấy, hành thiện pháp để được
tái sinh lên cõi trời dục giới.
- Khi đón tiếp cung kính lễ bái, thỉnh ngồi trên những chỗ cao quý; những người
trong gia đình ấy hành thiện pháp, để tái sinh vào trong gia đình thuộc dòng
dõi cao quý.
- Ngồi chỗ cao quý, tiếp đãi mọi thứ cần thiết như dâng cơm nước, thuốc trị
bệnh,...với thiện tâm trong sạch, hoan hỷ, không có tâm keo kiệt bỏn xẻn,...
những người trong gia đình ấy hành thiện pháp để có được quả báu quyền cao chức
trọng.
- Khi làm phước bố thí tùy theo khả năng của mình, những người trong gia đình ấy
hành thiện pháp, để có được nhiều của cải tài sản, giàu sang phú quý.
- Khi được lắng nghe chánh pháp, vấn đạo,... những người trong gia đình ấy hành
thiện pháp, để được phát triển trí tuệ, thấy rõ, biết rõ thực tánh của các
pháp...
Này chư Tỳ-khưu, khi Tỳ-khưu có giới đến gia đình, thì những người trong gia đình
sẽ được phát triển và tăng trưởng 5 chi pháp hành thiện này.
Chư Thánh Tăng là chư khách quý đặc biệt nhất. Trong vòng tử sinh luân hồi, mỗi
chúng sinh có cơ hội tốt được chiêm ngưỡng, gần gũi, thân cận với chư thánh
tăng không phải là điều dễ dàng! Thật ra những người đã từng gieo nhiều phước
thiện được tích luỹ từ nhiều đời nhiều kiếp trong quá khứ; nay kiếp hiện tại
này mới có được cơ hội tốt, có duyên lành gặp được chư thánh Tăng là chư khách
quý đặc biệt cao thượng; những người ấy có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo đón
tiếp, tôn kính, lễ bái cúng dường dù ít hay nhiều, chắc chắn sẽ có được quả báu
lớn lao, đáng hài lòng cả trong kiếp hiện tại lẫn vô lượng kiếp vị lai, và còn
tạo được duyên lành để giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.
Do đó, Ân đức Tăng này gọi là Pāhuneyyo Bhagavato sāvakasaṃgho.
7- Ân đức Tăng thứ bảy: Dakkhiṇeyyo
Dakkhiṇeyyo Bhagavato sāvakasaṃgho.
(Cách đọc: Đắc-khí-nây-giô phá-gá-vóa-tô xa-vóa-cá-xăng-khô)
Dakkhiṇeyyo: Chư Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Thế Tôn là
những bậc xứng đáng thọ nhận những thứ vật dụng mà thí chủ có đức tin trong
sạch nơi Tam Bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, đem dâng cúng đến quý Ngài, để
mong được quả báu tốt lành cho mình và những người thân quyến.
Chư Thánh Tăng là bậc Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Thế Tôn, xứng đáng thọ nhận
những thứ vật dụng mà thí chủ có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, tin nơi thiện
nghiệp và quả của thiện nghiệp, họ tin chắc rằng:
Khi làm phước thiện bố thí cúng dường đến chư Tăng, họ sẽ được quả báu tốt lành,
lớn lao đến cho mình trong kiếp hiện tại và vô lượng kiếp vị lai; hơn nữa, họ
còn có thể hồi hướng phần phước thiện ấy đến cho ông bà, cha mẹ, bà con quyến
thuộc hay những ân nhân đã quá vãng của mình. Khi những chúng sinh ấy hay biết
mà “sādhu” hoan hỷ phần phước thiện hồi hướng ấy. Nếu chúng sinh ấy đang
ở trong cảnh khổ, thì chắc chắn được thoát khỏi cảnh khổ, liền tái sinh trong
cõi thiện giới, cõi người hoặc cõi trời dục giới. Nếu chúng sinh đang ở trong
cảnh an lạc, thì sự an lạc càng tăng trưởng gấp bội lần. Và họ còn có thể kính
biếu phần phước thiện đó đến cho ông bà, cha mẹ, bà con thân quyến còn sống
trên đời, những người ấy “sādhu” hoan hỷ phần phước thiện ấy cũng được
phước hoan hỷ (pattānumodanā) và quả báu của phước thiện hoan hỷ này
cũng không kém phần quan trọng.
Muốn thành tựu được những quả báu như vậy, thì thí chủ làm phước thiện bố thí
cúng dường hướng đến chư Thánh Tăng; bởi vì, chư Thánh Tăng có Ân đức Dakkhiṇeyyo.
* Như tích Bố thí cơm cháy.
Trong bộ Vimānavatthu, tích Ācāmadāyikāvimāna được tóm lược như
sau:
Một bà già nghèo khổ ăn mày, sống nhờ đằng sau hiên nhà người khác, người ta
nhìn thấy bà đáng thương, nên thường cho cơm, cháo, miếng cơm cháy… để bà ăn
sống qua ngày.
Một hôm, Ngài Đại đức Mahākassapa vừa xả diệt thọ tưởng, rồi quán xét nên
đi khất thực để tế độ người nào. Bằng tuệ nhãn, Ngài nhìn thấy một bà già nghèo
khổ, gần chết; nếu bà chết, thì có thể đọa địa ngục. Với tâm bi tế độ bà tránh
khỏi cõi địa ngục, do nhờ phước thiện bố thí miếng cơm cháy, bà sẽ tái sinh lên
cõi trời Hóa Lạc Thiên.
Quán xét thấy như vậy, buổi sáng hôm ấy, Ngài mặc y mang bát đi đến chỗ ở của
bà. Trong khi đó, Vua trời Sakka biến hóa thành người già đem vật thực
đến để bát dâng cho Ngài, Ngài biết người già đó là vua trời Sakka, nên
bảo rằng:
- Này Đức vua trời, ông không nên giành phước báu của người nghèo khổ.
Ngài không chịu mở nắp bát, vẫn đứng yên trước bà già nghèo khổ kia. Bà nghĩ
rằng: “Ngài Đại đức là bậc có giới đức lớn, được phần đông tôn kính, phận ta
nghèo khổ không có gì quý giá để làm phước thiện bố thí đến Ngài, ta chỉ có
nước cơm và miếng cơm cháy không ngon lành gì cả. Vả lại, còn đựng trong một đồ
dùng không sạch sẽ, ta nào dám làm phước bố thí để bát đến Ngài được” Nên
bà bạch rằng:
- Kính thỉnh Ngài đi nơi khác, bạch Ngài.
Ngài vẫn đứng yên không đi nơi khác, những người khác đem vật thực đến để bát
dâng cúng, Ngài vẫn không mở nắp bát để nhận. Bà già nghĩ rằng: “Chắc chắn Ngài
Đại đức đứng đây để tế độ ta”. Bà phát sinh đức tin trong sạch muốn làm
phước thiện bố thí. Bà đem miếng cơm cháy đến, Ngài liền mở nắp bát, bà để vào
trong bát cúng dường Ngài một cách tôn kính.
Ngài Đại đức tỏ vẻ muốn thọ thực, để cho bà thấy, càng phát sinh đức tin trong
sạch, hoan hỷ trong việc phước thiện bố thí của bà. Mọi người hiểu ý, trải chỗ
ngồi, Ngài ngồi thọ thực miếng cơm cháy ấy. Uống nước xong, Ngài thuyết pháp,
làm cho bà già hoan hỷ trong phước thiện bố thí của mình, và cho bà biết được
rằng: Bà đã từng là thân mẫu của Ngài trong tiền kiếp. Bà càng có đức
tin trong sạch nơi Ngài Đại đức, và vô cùng hoan hỷ phước thiện bố thí đã làm.
Về sau, bà chết, do năng lực phước thiện bố thí cho quả, được tái sinh làm
thiên nam cõi Hóa Lạc Thiên (cõi thứ 5 trong 6 cõi trời dục giới) có
nhiều oai lực, hưởng mọi sự an lạc trong cõi trời ấy.
* Tích Sāriputtattheramātupeta Ngạ quỷ thân mẫu của Ngài Đại đức Sāriputta
được tóm lược như sau:
Nữ ngạ quỷ tiền kiếp đã từng là thân mẫu của Ngài Đại đức Sāriputta kiếp thứ 5
trong quá khứ, kể từ kiếp hiện tại.
Tiền kiếp của nữ ngạ quỷ là vợ của ông Bàlamôn giàu có nhiều của cải. Ông
Bàlamôn có đức tin trong sạch, có tác ý thiện tâm, thường làm phước thiện bố
thí cúng dường vật thực, đồ uống, y phục… đến Samôn, Bàlamôn; bố thí, phân phát
đến những người nghèo khổ, người qua đường…
Một hôm, ông Bàlamôn có công việc phải đi nơi khác, ông dạy bảo vợ ở nhà thay
ông gìn giữ phong tục tập quán, lo công việc làm phước thiện bố thí cúng dường
đến Samôn, Bàlamôn, phân phát vật thực, đồ dùng đến những người nghèo khổ đói
khát…. Người vợ ở nhà không làm theo sự dạy bảo của chồng. Hễ có ai đến nương
nhờ, bà ta buông lời mắng nhiếc, ăn phẩn, uống nước tiểu, liếm máu mủ, nước
miếng…
Sau khi bà ta chết, do ác nghiệp ấy cho quả tái sinh vào hàng ngạ quỷ đói khát,
ăn uống đồ dơ bẩn, ăn phẩn, uống nước tiểu, mủ, nước miếng… chịu bao nỗi khổ
cực đói khát, lạnh lẽo do quả của ác nghiệp của mình đã tạo. Nữ ngạ quỷ nhớ lại
tiền kiếp đã từng là thân mẫu của Ngài Đại đức Sāriputta, muốn đến nương nhờ
Ngài, chư thiên giữ cổng ngăn cản không cho nữ ngạ quỷ vào. Nữ ngạ quỷ thưa với
vị chư thiên rằng:
- Thưa chư thiên, tiền kiếp tôi đã từng là thân mẫu của Ngài Đại đức Sāriputta,
xin chư thiên cho tôi được vào thăm Ngài.
Nữ ngạ quỷ được vào đứng khép nép, Ngài Đại đức Sāriputta nhìn thấy nữ
ngạ quỷ, với tâm bi mẫn bèn hỏi:
- Này ngạ quỷ! Thân trần truồng, hình dáng đáng thương hại, ốm yếu da bọc xương,
thân mình run rẩy. Ngươi là ai, lão Tăng tế độ ngươi thế nào?
Nghe Ngài hỏi, nữ ngạ quỷ thưa rằng:
- Kính bạch Ngài Đại đức, tiền kiếp của con đã từng là thân mẫu của Ngài, do
nghiệp ác cho quả tái sinh làm ngạ quỷ chịu cảnh đói khát, đành phải ăn uống
những đồ dơ như nước miếng, nước mũi, đàm người ta nhổ bỏ, uống nước vàng chảy
ra từ xác chết, ăn uống đồ dơ của đàn bà, uống máu mủ của đàn ông bị chặt tay
chân, uống máu mủ các loài động vật, sống không có nơi nương tựa, trong các
nghĩa địa, bãi tha ma.
Kính bạch Ngài, xin Ngài làm phước thiện bố thí, rồi hồi hướng phần phước thiện
ấy đến cho con. Nhờ phước thiện ấy, may ra con mới thoát khỏi cảnh khổ ngạ quỷ
như thế này.
Ngài Đại đức Sāriputta lắng nghe lời nữ ngạ quỷ đã từng là thân mẫu trong tiền
kiếp, phát sinh tâm bi mẫn, tìm cách cứu khổ nữ ngạ quỷ, Ngài bàn tính với Ngài
Đại đức Mahāmoggallāna, Ngài Đại đức Anuruddha và Ngài Đại đức Mahākappina.
Ngài Đại đức Mahāmoggallāna đi khất thực vào cung điện gặp Đức vua Bimbisāra.
Đức vua thỉnh mời, yêu cầu Ngài cần những thứ vật dụng nào để Đức vua dâng
cúng. Nhân dịp ấy, Ngài Đại đức Mahāmoggallāna thưa cho Đức vua biết chuyện nữ
ngạ quỷ đã từng là thân mẫu của Ngài Đại đức Sāriputta, sống trong cảnh đói khổ
không có nơi nương nhờ.
Nghe vậy, Đức vua truyền lệnh xây cất 4 cái cốc chỗ ở của chư Tỳ-khưu Tăng. Khi
xây cất xong, Đức vua làm lễ dâng đặc biệt đến Ngài Đại đức Sāriputta 4 cái cốc
ấy.
Một lần nữa, Ngài Đại đức Sāriputta làm lễ dâng những cốc này đến chư Tỳ
khưu Tăng từ bốn phương, có Đức Phật chủ trì, xin hồi hướng phần phước thiện
này đến cho nữ ngạ quỷ đã từng là thân mẫu trong tiền kiếp. Nữ ngạ quỷ hoan hỷ
phần phước thiện bố thí mà Ngài Đại đức Sāriputta hồi hướng. Ngay sau
khi hoan hỷ phần phước thiện bố thí ấy, liền thoát khỏi kiếp ngạ quỷ, tái sinh
lên làm thiên nữ có hào quang sáng ngời, có thân hình xinh đẹp, y phục lộng
lẫy, có lâu đài nguy nga tráng lệ, có đầy đủ của cải của chư thiên, hưởng sự an
lạc cao quý trong cõi trời.
Hôm sau, vị thiên nữ ấy hiện xuống đảnh lễ Ngài Đại đức Mahāmoggallāna,
Ngài hỏi thiên nữ rằng:
- Này thiên nữ, ngươi có sắc đẹp tuyệt trần, có hào quang sáng chói khắp mọi nơi,
như vầng trăng sáng. Do phước thiện gì mà ngươi được sanh trong lâu đài nguy
nga tráng lệ, có đầy đủ mọi thứ trong cõi trời, đáng hài lòng như vậy?
Này thiên nữ, ngươi có nhiều oai lực đặc biệt, ngươi tạo phước thiện gì, mà nay
có được những quả báu đáng hài lòng như vậy?
Vị thiên nữ bạch với Ngài Đại đức Mahāmoggallāna rằng:
- Kính bạch Ngài Đại đức Mahāmoggallāna, trong tiền kiếp con từng là thân mẫu của
Ngài Đại đức Sāriputta, do ác nghiệp cho quả tái sinh làm nữ ngạ quỷ chịu cảnh
khổ đói khát đành phải ăn uống đồ dơ như máu, mủ…. Vừa qua, con đã đến hầu Ngài
Đại đức Sāriputta, cầu xin Ngài có lòng bi mẫn cứu khổ con, Ngài đã làm phước
thiện bố thí, xong hồi hướng đến cho con; con đã hoan hỷ phần phước thiện ấy,
nên con thoát khỏi kiếp ngạ quỷ, được tái sinh làm thiên nữ có được tất cả như
Ngài đã thấy.
Kính bạch Ngài Đại đức, con hiện xuống đây để đảnh lễ dưới chân Ngài và Ngài Đại
đức Sāriputta là bậc Thánh thiện trí, có tâm bi mẫn cứu khổ chúng sinh
trong đời.
Những tích như trên có rất nhiều trong Kinh Tạng và trong bộ Peṭavatthu, bộ
Vimānavatthu.
Như vậy, chính mình không có cơ hội làm phước thiện, nhưng tâm hoan hỷ với phần
phước của người khác, thì cũng được quả báu không kém, như tích Vihāravimāna
được tóm lược như sau:
* Tích Vihāravimāna:
Ngài Đại đức Anuruddha ngự lên cung trời Tam Thập Tam Thiên nhìn thấy một
thiên nữ xinh đẹp có hào quang sáng ngời chiếu tỏa khắp mọi hướng, có một lâu
đài nguy nga tráng lệ... Ngài muốn biết do thiện nghiệp nào mà vị thiên nữ này
có được quả báu đáng hài lòng như vậy.
Vị thiên nữ bạch cho Ngài biết, tiền kiếp của cô là người bạn thân của bà đại
thí chủ Visākhā trong kinh thành Sāvatthi. Bà Visākhā cho
người xây cất một ngôi chùa Pubbārama, sau đó, làm lễ kính dâng ngôi
chùa ấy đến chư Tỳ-khưu tăng có Đức Phật chủ trì. Cô đã tham dự buổi lễ đó, và
rất hoan hỷ phước thiện đó của bạn mình, do tâm hoan hỷ phần phước thiện bố thí
cúng dường ấy, mà sau khi cô chết, do phước thiện hoan hỷ ấy cho quả tái sinh
lên cõi trời Tam Thập Tam Thiên, trở thành một thiên nữ có những quả báu như
vậy.
Chư Thánh Tăng là phước điền cao thượng của chúng sinh. Quý Ngài xứng đáng thọ
nhận những thứ vật dụng của thí chủ có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, tin nơi
thiện nghiệp và quả của thiện nghiệp, mong được quả báu tốt lành đến cho mình
và những người thân quyến của mình.
Do đó, Ân đức Tăng này được gọi là Dakkhiṇeyyo Bhagavato sāvakasaṃgho.
8- Ân đức Tăng thứ tám: Añjalikaraṇīyo
Añjalikaraṇīyo Bhagavato sāvakasaṃgho.
(Cách đọc: Ánh-chá-lí-cá-rá-ni-giô phá-gá-vóa-tô xa-vóa-cá-xăng-khô)
Añjalikaraṇiyo: Chư Thánh Thanh Văn đệ tử của
Đức Thế Tôn là những bậc xứng đáng cho chúng sinh chắp tay cung kính lễ bái
cúng dường.
Chư Thánh Tăng là bậc Thanh Văn đệ tử của Đức Thế Tôn, xứng đáng cho chúng sinh
chắp tay lễ bái cúng dường, để cầu mong được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc
lâu dài trong kiếp hiện tại và vô lượng kiếp vị lai.
Chư Thánh Tăng là những bậc có giới đức hoàn toàn trong sạch, có định đức, tuệ
đức, giải thoát đức, giải thoát tri kiến đức đầy đủ hoàn toàn, đã diệt đoạn
tuyệt được mọi phiền não; nên thân, khẩu, ý của quý Ngài hoàn toàn trong sạch,
không còn bị ô nhiễm bởi phiền não. Cho nên, chư Thánh Tăng xứng đáng cho tất
cả chúng sinh: nhân loại, chư thiên, phạm thiên tôn kính, chắp tay lễ
bái cúng dường.
* Tích Vua trời Sakka (Đế Thích) đảnh lễ chư Tăng
trong kinh Saṃghavandanāsutta , được tóm lược như sau:
- Này chư Tỳ-khưu, khi Đức vua trời Sakka cõi Tam Thập Tam Thiên ngự xuống từ lâu
đài Vejayanta, đảnh lễ chư Tỳ-khưu Tăng.
Này chư Tỳ-khưu, khi ấy Thiên tử Mātali, người đánh xe của Đức vua Sakka tâu rằng:
- Muôn tâu Đức Thiên Vương, loài người sinh từ nơi ô trược, có sắc thân ô trược,
thường đói khát nghèo hèn, đáng lẽ nên cung kính Đức Thiên Vương. Vậy, vì sao
Ngài lại đảnh lễ chư Tỳ-khưu ấy. Xin Ngài giảng giải cho hạ thần hiểu rõ phạm
hạnh của chư Tỳ-khưu Tăng ấy như thế nào?
Đức vua trời Sakka giảng giải cho Mātali hiểu rõ rằng:
- Này Mātali, Trẫm thành kính đảnh lễ chư Tỳ-khưu Tăng ấy, bởi vì, quý Ngài sống
trong rừng, không có nhà, không cất giữ lúa gạo trong kho. Quý Ngài sống bằng
hạnh đi khất thực, thọ dụng những vật thực đã chín và độ trước giờ ngọ, quý
Ngài là bậc thiện trí, thuyết pháp chân thật đem lại sự lợi ích cho chúng sinh,
quý Ngài sống nơi thanh tịnh với đời sống phạm hạnh cao thượng.
Này Mātali, nhóm chư thiên có oan trái với nhóm thiên Asura, và ngược lại nhóm
thiên Asura cũng có oan trái với nhóm chư thiên, nhân loại có oan trái lẫn
nhau; còn chư Tỳ-khưu Tăng sống không oan trái, không thù hận. Chư thiên, nhân
loại còn chấp thủ, riêng chư Thánh Tăng không còn chấp thủ.
Này Mātali, vì vậy, Trẫm cung kính đảnh lễ chư Tỳ-khưu Tăng ấy.
Khi Mātali nghe xong lời giảng giải của Đức vua Sakka bèn tâu
rằng:
- Muôn tâu Đức Thiên Vương, Ngài cung kính lễ bái đến chư Tỳ-khưu Tăng nào, thì
kẻ hạ thần cũng cung kính lễ bái đến chư Tỳ-khưu Tăng ấy.
Đức vua trời Sakka cao cả nhất trong cõi Tam Thập Tam Thiên giảng dạy
xong, cung kính đảnh lễ chư Tỳ-khưu Tăng rồi lên xe ngự đi.
Chư Thánh Tăng là những bậc xứng đáng cho chư thiên, phạm thiên, nhân loại cung
kính lễ bái cúng dường, và chư phàm Tăng là những bậc đang thực hành
giới-định-tuệ, duy trì chánh pháp của Đức Thế Tôn cũng xứng đáng được cung kính
lễ bái cúng dường.
Những chúng sinh có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, thường lễ bái cúng dường đến
bậc có giới đức thanh tịnh sẽ được 4 pháp lành: sống lâu, sắc đẹp, an lạc, khỏe
mạnh.
Như Đức Phật dạy:
“Abhivādānasīlissa,
Niccaṃ vuḍḍhāpacāyino.
Cattāro dhammā vaḍḍhanti,
Āyu vaṇṇo sukhaṃ balaṃ”
Đối với người thường lễ bái cúng dường,
Tỏ lòng tôn kính đến bậc Trưởng Lão,
Người ấy thường tăng trưởng bốn pháp lành,
Sống lâu, sắc đẹp, an lạc, khỏe mạnh.
Hoặc chúng sinh có đức tin nơi Tam Bảo, hết lòng thành kính lễ bái cúng dường
đến Tam Bảo: Đức Phật Bảo, Đức Pháp Bảo, Đức Tăng Bảo, thì sẽ được 5 quả
báu tốt lành là:
Āyu: Sống lâu trường thọ.
Vaṇṇa: Có sắc đẹp khả ái.
Sukha: Thân tâm thường được an lạc.
Bala: Thân tâm thường khỏe mạnh.
Paṭibhāṇa: Có trí tuệ sắc bén, nhanh trí.
Do đó, Ân đức Tăng này gọi là Añjalikaraṇīyo Bhagavato sāvakasaṃgho.
9- Ân đức Tăng thứ chín: Anuttaraṃ puññakkhettaṃ
Anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassa Bhagavato sāvakasaṃgho.
(Cách đọc: Á-nút-tá-răng pun-nhắc-khết-tăng lô-cắt-xá phá-gá-vóa-tô
xa-vóa-cá-xăng-khô)
Anuttaraṃ puññakkhettaṃ: Chư Thánh
Thanh Văn đệ tử của Đức Thế Tôn là phước điền cao thượng của chúng sinh không
đâu sánh được.
Chư Thánh Tăng là bậc Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Thế Tôn, có giới đức (sila),
định đức (samādhi), tuệ đức (paññā), giải thoát đức
(vimutti), giải thoát tri kiến đức (vimuttiñāṇadassana)
đầy đủ… là phước điền cao thượng của chúng sinh không nơi nào sánh được. Thật
vậy, khi gieo giống phước thiện dù ít dù nhiều, cũng sẽ được quả báu vô lượng
trong kiếp hiện tại và cả nhiều kiếp vị lai.
Một ví dụ để so sánh:
Chư Thánh Tăng ví như thửa ruộng màu mỡ.
Thí chủ có trí tuệ ví như người nông dân tài giỏi.
Tác ý thiện tâm bố thí ví như hạt giống tốt.
Người nông dân tài giỏi biết rõ thời vụ mùa màng, gieo hạt giống tốt trên thửa
ruộng màu mỡ, chắc chắn khi thu hoạch sẽ được nhiều gấp bội. Cũng như vậy, thí
chủ có trí tuệ, biết gieo giống phước thiện dù ít dù nhiều nơi chư Thánh Tăng,
hoặc chư phàm Tăng phước điền cao thượng của chúng sinh, không nơi nào sánh
được, họ chắc chắn sẽ được quả báu vô lượng ngay cả trong kiếp hiện tại lẫn vô
lượng kiếp vị lai. Hơn thế nữa, gieo duyên lành sẽ hưởng được Thánh Đạo - Thánh
Quả và Niết Bàn Siêu tam giới.
* Tích thiên nữ Lajādevadhitā
Tích thiên nữ Lajādevadhitā được tóm lược như sau:
Trong thời kỳ Đức Phật còn tại thế, một cô bé nghèo được thuê giữ ruộng, cô mang
theo một gói bắp rang để ăn trong ngày. Sáng hôm ấy, Ngài Đại Trưởng Lão Mahākassapa
xả diệt thọ tưởng (nirodhasamāpatti) xong, quán xét thấy nên tế
độ cô bé nghèo, Ngài đã mặc y mang bát đi thẳng đến chỗ cô bé để khất thực.
Nhìn thấy Ngài từ xa đến, cô bé vô cùng hoan hỷ liền ra đón và đảnh lễ Ngài
xong, cô đem phần bắp rang để ăn trong ngày, xin làm phước bố thí để bát cúng
dường Ngài. Trong khi đang hoan hỷ với phước thiện bố thí cúng dường đến Ngài
Đại Trưởng Lão, lúc quay lại chỗ ở, cô bị một con rắn độc cắn chết. Do nhờ
phước thiện cúng dường ấy cho quả tái sinh, làm thiên nữ có tên là Lajādevadhitā
trong cõi trời Tam Thập Tam Thiên.
Sau đó, khi nhớ lại tiền kiếp của mình, thiên nữ Lajādevadhitā vô cùng
biết ơn Ngài Đại Trưỡng Lão, cô hiện xuống chỗ ở của Ngài quét dọn, đem nước
dùng..., cho Ngài, Ngài Đại Trưởng Lão không cho phép cô làm những công việc
ấy, cô buồn tủi khóc. Đức Thế Tôn thấy vậy, liền hiện đến thuyết pháp tế độ
thiên nữ. Sau khi nghe pháp, thiên nữ Lajādevadhitā chứng đắc thành bậc Thánh
Nhập Lưu. Cô vô cùng hoan hỷ đảnh lễ Đức Thế Tôn và xin phép trở về cõi
trời.
Ngay cả Đức vua Sakka cùng Hoàng hậu Sujātā ở cõi trời Tam Thập
Tam Thiên hiện xuống làm phước bố thí cúng dường các vật thực đến Ngài Đại
Trưởng Lão Mahākassapa để được phước thiện đặc biệt.
* Tích ông Puṇṇa
Tích ông Puṇṇa, người làm thuê của ông phú hộ Sumana
được tóm lược như sau:
Trong thời kỳ Đức Phật Gotama còn tại thế, có gia đình ông Puṇṇa nghèo
khó, làm ruộng thuê của ông phú hộ Sumana, mọi người trong gia đình đều
có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo.
Một buổi sáng ông đi cày ruộng, cũng vào buổi sáng hôm ấy, Ngài Đại đức Sāriputta
xả diệt thọ tưởng (sau 7 ngày đêm), đi khất thực để tế độ gia đình ông Puṇṇa,
nên Ngài đi thẳng về hướng ông Puṇṇa đang cày ruộng. Nhìn
thấy Ngài Đại đức Sāriputta từ xa đến, ông Puṇṇa liền
bỏ cày, đến hầu đảnh lễ Ngài, dâng cúng cây tăm xỉa răng và nước dùng, nước
uống. Ngài Đại đức Sāriputta thọ nhận xong, đi theo đường hướng về nhà
ông Puṇṇa, gặp vợ ông Puṇṇa đang đem
cơm cho chồng. Bà đảnh lễ Ngài Đại đức Sāriputta xong, bạch rằng:
- Kính bạch Ngài Đại đức, kính xin Ngài từ bi thọ nhận phần vật thực phận nghèo
khó của gia đình chúng con.
Ngài Đại đức Sāriputta từ bi tế độ thọ nhận tất cả phần vật thực, bà vô
cùng hoan hỷ phát nguyện:
- Do nhờ phước thiện bố thí này của chúng con, cầu mong cho gia đình chúng con
được một phần pháp mà Ngài đã chứng đắc.
Ngài Đại đức Sāriputta chúc phúc rằng:
- Mong cho gia đình các con được toại nguyện.
Bà vô cùng hoan hỷ đi trở về nhà, nấu lại phần cơm khác đem cho chồng, vội vàng
mang cơm ra đồng ruộng, với tâm hoan hỷ phước thiện bố thí đến Ngài Đại đức Sāriputta,
làm cho thân tâm của bà nhẹ nhàng, nhu nhuyến không sao giấu được.
Còn phần ông Puṇṇa, trễ giờ đói bụng, thả bò đi ăn cỏ, ông
lên bờ ngồi dưới bóng mát cây, chờ đợi vợ, dầu đói bụng, nhưng tâm vẫn hoan hỷ,
niệm tưởng lại việc làm phước thiện bố thí tăm xỉa răng và nước đến Ngài Đại
đức Sāriputta. Nhìn từ xa, ông thấy vợ mình đang đi đến trễ hơn mọi
ngày, nhưng bà có vẻ khác thường, chắc chắn bà đang hoan hỷ một điều gì đó. Bà
vừa đến nơi liền thưa với chồng rằng:
- Hôm nay, xin anh hoan hỷ thật nhiều! Sáng nay, em đem cơm cho anh, giữa đường
gặp Ngài Đại đức Sāriputta đang đi khất thực, em phát sinh đức tin trong sạch,
đem phần cơm của anh để bát cúng dường đến Ngài Đại đức Sāriputta, Ngài không
chê vật thực nghèo khó của chúng ta. Ngài Đại đức có tâm từ bi tế độ thọ nhận
tất cả vật thực phần của anh, xin anh nên hoan hỷ phần phước thiện bố thí này!
Ông Puṇṇa vừa lắng nghe từng tiếng, từng câu làm cho ông
phát sinh tâm thiện hỷ lạc đến cực độ, nên không thể theo dõi liên tục trọn vẹn
lời nói của vợ ông. Sực tỉnh lại, ông muốn biết chắc chắn chính mình nghe đúng
sự thật là như vậy không, nên ông bảo với vợ rằng:
- Này em, em hãy nói lại cho anh nghe một lần nữa!
Bà vợ thưa lại rõ ràng một lần nữa, lần này ông nghe rõ biết chắc chắn đúng sự
thật như vậy rồi, ông vô cùng hoan hỷ phước thiện bố thí của vợ, đã đem phần
cơm của mình cúng dường đến Ngài Đại đức Sāriputta; tiếp theo ông nói
cho vợ biết ông cũng vừa làm phước thiện bố thí cúng dường cây tăm xỉa răng và
nước đến Ngài Đại đức Sāriputta. Nghe xong, bà cũng vô cùng hoan hỷ việc
phước thiện bố thí của chồng.
Hai vợ chồng cùng nhau hoan hỷ việc phước thí cúng dường đến Ngài Đại đức Sāriputta.
Dùng cơm xong, ông nằm niệm tưởng đến việc phước thiện bố thí vừa mới làm, mới
thiu thiu giấc ngủ, ông bừng tỉnh lại, ngồi nhìn thấy phần đất ruộng vừa cày
buổi sáng, đã hóa thành những thỏi vàng y (vàng ròng) làm cho ông hoa cả
mắt; và vợ của ông cũng cảm thấy như ông vậy. Ông lấy lại bình tỉnh đi xuống
ruộng, lấy lên một thỏi, đúng thật là thỏi vàng ròng; ông đem đến khoe và nói
với vợ rằng:
- Này em, vợ chồng chúng ta đã làm phước thiện bố thí cúng dường đến Ngài Đại đức
Sāriputta, do phước thiện bố thí ấy, liền cho quả báu đến vợ chồng chúng ta
ngày hôm nay, chúng ta không thể nào giấu một số vàng lớn như thế này được!
Ông Puṇṇa lấy một số thỏi vàng bỏ vào khay, đem trình lên
Đức vua và tâu rằng:
- Tâu Đức vua, sáng nay tiện dân đi cày ruộng, tất cả đất cày đều hóa thành những
thỏi vàng ròng. Kính xin Đức vua truyền lệnh cho binh lính đem xe đến chở số
vàng ấy về cất trong kho báu của Đức vua.
- Nhà người là ai? Đức vua hỏi.
Ông Puṇṇa tâu: - Tâu Đức vua, tiện dân là Puṇṇa,
một nông dân nghèo khó làm thuê.
- Sáng nay, nhà ngươi đã làm được việc gì đặc biệt?
- Tâu Đức vua, tiện dân làm phước cúng dường cây tăm xỉa răng và nước dùng, nước
uống đến Ngài Đại đức Sāriputta; còn phần vợ tiện dân làm phước cúng dường phần
cơm của tiện dân đến Ngài Đại đức.
Đức vua truyền rằng:
- Này Puṇṇa, vợ chồng ngươi đã làm phước thiện bố thí cúng dường
đến Ngài Đại đức Sāriputta, cho nên, quả báu phát sinh ngay trong ngày hôm nay.
Vậy, ngươi muốn Trẫm làm gì?
Ông Puṇṇa tâu: - Tâu Đức vua, tiện dân xin Đức vua truyền
lệnh đem ngàn chiếc xe đến thửa ruộng kia, để khuân tất cả số vàng ấy về cung
điện.
Đức vua truyền lệnh đem hàng ngàn chiếc xe đến chở vàng ròng, quân lính trong
triều nghĩ và nói rằng: “Vàng của Đức vua”, tức thì những thỏi
vàng trở lại thành đất như cũ. Quân lính trong triều trở về tâu lên Đức vua sự
việc xảy ra như vậy. Đức vua sáng suốt bèn truyền rằng:
- Các ngươi nghĩ như thế nào, khi nhặt lấy những thỏi vàng ấy?
- Tâu Bệ hạ, chúng hạ thần nghĩ và nói rằng: “Vàng của Đức vua”.
- Số vàng ròng kia không phải của Trẫm. Các người nên trở lại nghĩ và nói rằng:
“Vàng của ông bà Puṇṇa” rồi khuân số
vàng ấy về đây. – Đức vua phán.
Họ vâng lệnh Đức vua trở lại nơi ấy.
Thật đúng vậy, lần này họ khuân toàn bộ số vàng ấy đem về, chất giữa sân rồng
thành một đống vàng cao 80 hắc tay.
Ông Puṇṇa trở thành đại phú hộ
Đức vua cho truyền dân chúng trong thành hội họp tại sân rồng, bèn hỏi rằng:
- Trong kinh thành này, có người nào khác có số vàng lớn như thế này không?
Toàn thể dân chúng trong thành tâu:
- Tâu bệ hạ, không có người nào khác cả.
- Trẫm nên tấn phong ông Puṇṇa như thế nào mới xứng đáng? –
Đức vua hỏi tiếp.
- Xin Hoàng Thượng tấn phong ông Puṇṇa địa vị đại phú hộ.
Đức vua phán rằng:
- Này Puṇṇa, từ nay ngươi là đại phú hộ, có tên Bahudhanaseṭṭhi:
Phú hộ nhiều của cải.
Sau khi trở thành đại phú hộ Puṇṇa, gia đình ông càng có
đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, làm phước thiện bố thí cúng dường đến chư Tỳ
khưu Tăng có Đức Phật chủ trì suốt 7 ngày. Đến ngày thứ 7 Đức Phật thuyết pháp
tế độ gia đình ông Puṇṇa, toàn gia đình ông đại phú hộ Puṇṇa,
hai vợ chồng và đứa con gái tên Uttarā đều chứng đắc thành bậc Thánh Nhập
Lưu.
Vợ chồng ông Puṇṇa làm phước thiện bố thí cúng dường đến
Ngài Đại đức Sāriputta, sau khi xả diệt thọ tưởng, do năng lực phước
thiện bố thí trong sạch và hội đủ nhân duyên ấy, liền cho quả báu trong ngày
hôm ấy, trở thành đại phú hộ nhiều của cải thế gian và đặc biệt hơn nữa, toàn
gia đình chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo - Nhập Lưu Thánh Quả, trở thành bậc Thánh
Nhập Lưu, thuộc pháp Siêu tam giới.
Những trường hợp trên, có không ít trong Phật giáo.
Chư Thánh Tăng là phước điền cao thượng của tất cả chúng sinh: Nhân loại, chư
thiên, phạm thiên,... làm phước thiện cúng dường đến chư Thánh Tăng với
thiện tâm trong sạch, sẽ được thành tựu quả báu trong cõi người (manussasampatti),
thành tựu quả báu cõi trời (devasampatti) và đặc biệt thành tựu
quả báu chứng ngộ Niết Bàn (Nibbānasampatti).
Thí chủ có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, dù làm
phước bố thí cúng dường đến chư phàm Tăng vẫn được thành tựu quả báu không kém.
Thật vậy, Đức Phật dạy Ngài Đại đức Ānanda rằng:
- Này, Ānanda, trong thời vị lai sẽ có hạng người mang tên “Bhikkhu: Tỳ-khưu”,
chỉ còn mảnh y quấn cổ (hoặc cột ở cổ tay), là người phạm giới, hành ác pháp.
Song những thí chủ có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, có tác ý thiện tâm làm
phước thiện bố thí hướng đến cúng dường chư Tỳ-khưu Tăng, dầu trong số Tỳ-khưu
phạm giới ấy.
Này Ānanda làm phước thiện bố thí cúng dường đến chư Tỳ-khưu Tăng trong thời vị
lai ấy, Như Lai dạy rằng: Thí chủ vẫn có phước thiện vô lượng và quả báu vô
lượng không sao kể xiết được. Như lai không hề dạy trực tiếp hoặc gián tiếp
rằng: Thí chủ làm phước thiện bố thí cúng dường đến cá nhân thọ thí, sẽ có
phước thiện nhiều hơn và có quả báu nhiều hơn làm phước thiện bố thí cúng dường
đến chư Tỳ-khưu Tăng thọ thí.
Do đó, Ân đức Tăng này được gọi là Anuttaraṃ puññakkhettaṃ
lokassa Bhagavato sāvakasaṃgho.
ĐỀ MỤC NIỆM ÂN ĐỨC TĂNG (SAṂGHĀNUSSATI)
Ân đức Tăng là đối tượng của đề mục niệm Ân đức Tăng. Đề mục niệm Ân đức
Tăng là 1 trong 10 đề mục niệm (ānussati) cũng là 1 trong 40 đề mục
thiền định.
Muốn tiến hành đề mục niệm Ân đức Tăng, trước tiên hành giả cần phải học hỏi,
nghiên cứu cho hiểu rõ ý nghĩa 9 Ân đức Tăng kỹ càng, từng các chi pháp cho
thật rành rẽ phần pháp học.
Về phần pháp hành, trước khi tiến hành đề mục niệm Ân đức Tăng, hành giả có đức
tin nơi Tam Bảo:
Nếu là người cận sự nam, cận sự nữ, thì nên xin thọ phép quy y Tam Bảo và ngũ
giới hoặc bát giới, cửu giới...
Nếu là Sadi, thì nên xin thọ phép quy y Tam Bảo và Sadi thập giới với vị Thầy tế
độ hoặc với một vị Đại đức.
Nếu là vị Tỳ-khưu, thì nên xin sám hối āpatti với một vị Tỳ-khưu khác.
Như vậy, là thuộc về phần pháp hành giới.
Khi hành giả đã có giới trong sạch trọn vẹn, sẽ làm nền tảng cho pháp hành thiền
định đề mục niệm Ân đức Tăng.
Phương pháp niệm Ân đức Tăng
9 Ân đức Tăng này chỉ có hiện hữu đầy đủ trong chư Thánh Tăng mà thôi; chư Thánh
Tăng là những bậc Thánh Thanh văn đệ tử của Đức Thế Tôn, có 4 đôi thành 8 bậc
Thánh tính theo tâm Siêu tam giới. Nếu kể Thánh Nhân, thì có 4 bậc Thánh.
Bậc Thánh Nhập Lưu.
Bậc Thánh Nhất Lai.
Bậc Thánh Bất Lai.
Bậc Thánh Arahán.
Muốn tiến hành đề mục niệm Ân đức Tăng, hành giả cần phải học hỏi hiểu rõ rành
rẽ 9 Ân đức Tăng. Sau khi hiểu rõ 9 Ân đức Tăng xong rồi, hành giả nên tìm một
nơi thanh vắng để thuận lợi tiến hành đề mục niệm Ân đức Tăng này.
Niệm Ân đức Tăng có nhiều cách.
Cách thứ nhất (phổ thông): Niệm 9 Ân đức Tăng.
Hành giả tiến hành niệm 9 Ân đức Tăng như sau:
“Suppaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho.
Ujuppaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho.
Ñāyappaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho.
Sāmīcippaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho.
Yadidaṃ cattāri purisayugāni aṭṭhapurisapuggalā, esa
Bhagavato sāvaka-saṃgho Āhuneyyo, Pāhuneyyo, Dakkhiṇeyyo,
Añjalikaraṇīyo, Anuttaraṃ puññakkhettaṃ
lokassa...” làm đối tượng thiền định.
Hành giả tâm niệm đến Ân đức Tăng nào, nên hiểu rõ ý nghĩa và chi pháp của Ân
đức Tăng ấy, định tâm theo dõi mỗi Ân đức Tăng như vậy, hằng trăm lần, hằng
ngàn lần... trong suốt thời gian tiến hành niệm 9 Ân đức Tăng, để làm tăng
trưởng đức tin trong sạch nơi Đức Tăng Bảo.
Cách thứ nhì (đặc biệt): Niệm một Ân đức Tăng.
Hành giả có thể chọn một Ân đức Tăng trong 9 Ân đức Tăng làm đối tượng, để tiến
hành niệm Ân đức Tăng, nên hiểu rõ ý nghĩa và chi pháp của Ân đức Tăng ấy, luôn
luôn định tâm nơi Ân đức Tăng ấy.
Ví dụ: Niệm Ân đức Tăng thứ nhất: Suppaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho...,
Suppaṭipanno Bhaga- vato sāvakasaṃgho... làm
đối tượng thiền định.
Hoặc: Niệm Ân đức Tăng thứ chín: Anuttaraṃ puññakkhettaṃ
lokassa..., Anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassa...
làm đối tượng thiền định.
Hành giả tâm niệm câu Ân đức Tăng ấy, đồng thời hiểu rõ ý nghĩa và chi pháp của
Ân đức Tăng ấy, định tâm theo dõi Ân đức Tăng ấy hằng trăm lần, hằng ngàn lần…
trong suốt thời gian tiến hành niệm Ân đức Tăng, để làm tăng trưởng đức tin
trong sạch nơi Đức Tăng Bảo.
Đề mục niệm Ân đức Tăng là một đề mục dễ làm cho phát sinh đức tin
nơi Tam Bảo, mà đức tin là nền tảng mọi thiện pháp từ dục giới thiện pháp, sắc
giới thiện pháp, vô sắc giới thiện pháp cho đến Siêu tam giới thiện pháp.
Như vậy, đề mục niệm Ân đức Tăng không chỉ là đề mục thiền định,
có khả năng dẫn đến chứng đạt cận định, mà còn là đối tượng làm
nền tảng để tiến hành thiền tuệ, dẫn đến sự nhàm chán trong ngũ uẩn, diệt tận
tham ái, phiền não, chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh
Quả và Niết Bàn được. Như Đức Phật dạy:
– Này chư Tỳ-khưu, có một pháp hành mà hành giả đã tiến hành, đã hành thuần
thục, chắc chắn dẫn đến phát sinh sự nhàm chán trong ngũ uẩn, danh pháp - sắc
pháp, để diệt tận tham ái, sân hận, si mê, để làm vắng lặng mọi phiền não, để
phát sinh trí tuệ thiền tuệ, thấy rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ,
trạng thái vô ngã, để chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4
Thánh Quả và Niết Bàn.
Pháp hành ấy là gì?
Pháp hành ấy chính là Saṃghānussati: pháp hành niệm Ân đức
Tăng.
Này chư Tỳ-khưu, pháp hành niệm Ân đức Tăng, mà hành giả đã tiến hành, đã hành
thuần thục, chắc chắn dẫn đến phát sinh sự nhàm chán trong ngũ uẩn, danh pháp,
sắc pháp, để diệt tận tham ái, sân hận, si mê, để làm vắng lặng mọi phiền não,
để phát sinh trí tuệ thiền tuệ, thấy rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ,
trạng thái vô ngã, để chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4
Thánh Quả và Niết Bàn.
Qua lời giáo huấn của Đức Phật trên, thì đề mục niệm Ân đức Tăng không chỉ là đề
mục thiền định, mà còn làm nền tảng để tiến hành thiền tuệ nữa.
Đề mục niệm Ân đức Tăng có hai giai đoạn:
Giai đoạn đầu: Đề mục niệm Ân đức Tăng thuộc thiền định,
hành giả tiến hành niệm Ân đức Tăng có khả năng dẫn đến sự chứng đạt cận định.
(phương pháp đã trình bày ở phần trước).
Giai đoạn sau: Sau khi tiến hành đề mục niệm Ân đức Tăng chứng đạt
đến cận định, hành giả cần phải thoát ra khỏi đề mục niệm Ân đức
Tăng, dùng tâm cận định của đề mục niệm Ân đức Tăng làm nền tảng
để tiến hành thiền tuệ.
Pháp hành thiền tuệ
Hành giả tiến hành thiền tuệ cần phải có danh pháp, sắc pháp hoặc thân,
thọ, tâm, pháp thuộc Chân nghĩa pháp (Paramatthadhamma)
làm đối tượng thiền tuệ.
* Đề mục niệm Ân đức Tăng làm nền tảng, làm đối tượng để tiến hành thiền tuệ như
thế nào?
Đúng theo thực tánh của các pháp, thì không có người niệm Ân đức Tăng, mà chỉ có tâm
đại thiện hợp với trí tuệ làm phận sự niệm Ân đức Tăng mà thôi.
Hành giả tiến hành thiền định với đề mục niệm Ân đức Tăng đạt đến cận định
được phân tích theo danh pháp sắc pháp như sau:
- Tâm cận định này là tâm đại thiện hợp với trí tuệ thuộc về danh
pháp (thuộc về phần niệm tâm trong Tứ Niệm Xứ).
- Tâm cận định này nương nhờ nơi sắc ý căn (hadayavatthu)
thuộc về sắc pháp.
Như vậy, danh pháp liên quan với sắc pháp này làm
đối tượng của pháp hành thiền tuệ.
Hay một cách khác:
- Tâm cận định này là tâm đại thiện hợp với trí tuệ, thuộc về thức
uẩn.
- Thọ tâm sở đồng sinh với tâm đại thiện ấy, thuộc về thọ uẩn.
- Tưởng tâm sở đồng sinh với tâm đại thiện ấy, thuộc về tưởng uẩn.
- Các tâm sở còn lại đồng sinh với tâm đại thiện ấy, thuộc về hành
uẩn.
- Sắc ý căn (hadayavatthu) là nơi nương nhờ để phát sinh tâm cận
định (tâm đại thiện ấy), thuộc sắc uẩn.
(Ngũ uẩn này, thuộc về phần niệm pháp trong Tứ Niệm Xứ)
Như vậy, ngũ uẩn này là đối tượng của pháp hành thiền tuệ.
Hành giả tiến hành thiền tuệ, có chánh niệm, có trí tuệ thiền tuệ, thấy rõ, biết
rõ danh pháp, sắc pháp hoặc ngũ uẩn có sự sinh, sự
diệt; trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ,
trạng thái vô ngã của danh pháp, sắc pháp hoặc của ngũ uẩn dẫn
đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết
Bàn, diệt đoạn tuyệt mọi phiền não, mọi tham ái, mọi ác pháp, trở thành bậc
Thánh Arahán.
Như vậy, gọi là đề mục niệm Ân đức Tăng làm nền tảng để tiến hành thiền tuệ.
Như Đức Phật dạy:
“Này chư Tỳ-khưu, pháp hành niệm Ân đức Tăng mà hành giả đã tiến hành, đã hành
thuần thục, chắc chắn dẫn đến phát sinh sự nhàm chán trong ngũ uẩn, danh pháp,
sắc pháp này, để diệt tận tham ái, sân hận, si mê, để làm vắng lặng mọi phiền
não, để phát sinh trí tuệ thiền tuệ, thấy rõ, biết rõ trạng thái vô thường,
trạng thái khổ, trạng thái vô ngã, để chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc
4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn”.
Quả báu đặc biệt niệm Ân đức Tăng
Hành giả tiến hành niệm Ân đức Tăng, trong kiếp hiện tại chưa chứng đắc 4 Thánh
Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn, hành giả sẽ được hưởng những quả báu đặc biệt
ngay trong kiếp hiện tại và nhiều kiếp vị lai như sau:
- Được phần đông chúng sinh kính trọng.
- Thiện tâm trong sạch thanh tịnh.
- Khi sắp chết, tâm bình tĩnh sáng suốt, không mê muội.
- Sau khi chết, do thiện nghiệp này cho quả tái sinh làm người cao quý hoặc chư
thiên cao quý.
- Tái sinh kiếp nào cũng thuộc hàng chúng sinh cao quý.
- Có sắc thân xinh đẹp đáng ngưỡng mộ.
- Các bộ phận trong thân thể đều xinh đẹp đáng quý.
- Thân có mùi thơm tỏa ra.
- Miệng có mùi thơm tỏa ra.
- Có trí tuệ nhiều.
- Có trí tuệ sâu sắc.
- Có trí tuệ sắc bén.
- Có trí tuệ nhanh nhẹn.
- Có trí tuệ phong phú.
- Trí tuệ phi thường.
- Nói lời hay có lợi ích…
- Kiếp vị lai có duyên lành gặp Đức Phật, lắng nghe chánh pháp dễ dàng chứng ngộ
chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo – Thánh Quả và Niết Bàn...
Đó là những quả báu phát sinh từ niệm Ân đức Tăng.
ĐỀ MỤC NIỆM ÂN ĐỨC TAM BẢO
9 Ân đức Phật, 6 Ân đức Pháp, 9 Ân đức Tăng, mỗi Ân đức là đề mục của thiền
định; hành giả tiến hành đề mục niệm 9 Ân đức Phật, niệm 6 Ân đức Pháp, niệm 9
Ân đức Tăng dễ làm tăng trưởng đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, mà đức tin là
rất quan trọng, làm căn bản cho mọi thiện pháp (Dục giới thiện pháp, sắc giới
thiện pháp, vô sắc giới thiện pháp và Siêu tam giới thiện pháp) phát
sinh và tăng trưởng.
Hành giả tiến hành đề mục thiền định niệm 9 Ân đức Phật, niệm 6 Ân đức Pháp,
niệm 9 Ân đức Tăng, mỗi đề mục chỉ có khả năng dẫn đến chứng đạt upacārasamādhi
(cận định). Từ đó, hành giả dùng tâm cận định của đề mục thiền định này
làm nền tảng, làm đối tượng để tiến hành thiền tuệ, cũng có thể dẫn đến chứng
ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn.
Oai lực niệm Ân đức Tam Bảo
Tích Đại đức Mahākappina, khi Ngài còn là một Đức vua trị vì kinh thành
Kukkutavatī. Một hôm, Đức vua cùng 1.000 vị quan cận thần cưỡi ngựa du lãm
ngoài thành, gặp nhóm người lái buôn từ kinh thành Sāvatthi đi vào thành, Đức
vua bèn hỏi:
- Này các ngươi, ở kinh thành Sāvatthicó tin lành gì hay không?
- Tâu Đức vua: Buddho uppanno!: Đức Phật đã xuất hiện trên thế gian!
Đức vua vừa nghe đến danh hiệu “Buddho”, thì liền
phát sinh hỷ lạc chưa từng có. Đức vua hỏi lại đến lần thứ ba, những người lái
buôn đều tâu như lần trước, lần nào cũng phát sinh hỷ lạc như vậy. Đức vua hỏi
tiếp:
- Còn tin lành nào khác nữa?
- Tâu Đức vua: Dhammo uppanno! : Đức Pháp đã xuất hiện trên
thế gian!
Đức vua vừa nghe đến “Dhammo”, cũng như lần trước,
liền phát sinh hỷ lạc chưa từng có, nên hỏi đến lần thứ ba, nghe tâu đến lần
thứ ba, lần nào cũng phát sinh hỷ lạc như vậy. Đức vua hỏi tiếp:
- Còn tin lành nào khác nữa?
- Tâu Đức vua: Samgho uppanno! : Đức Tăng đã xuất hiện trên
thế gian!
Đức vua vừa nghe đến “Samgho”, cũng như hai lần
trước, liền phát sinh hỷ lạc chưa từng có, nên hỏi đến lần thứ ba, nghe tâu đến
lần thứ ba, lần nào cũng phát sinh hỷ lạc như vậy.
Đức vua lấy tấm biển vàng ghi 3.000 đồng tiền vàng làm tiền thưởng, rồi trao cho
nhóm người lái buôn, truyền lệnh đem đến trình Hoàng hậu Anojā để lãnh thưởng.
Trong biển vàng, Đức vua ghi rõ, xin trao ngai vàng lại cho Hoàng hậu lên ngôi
trị vì đất nước.
Không chịu hồi cung, từ đó Đức vua cùng 1.000 vị quan cận thần ngự đến hầu Đức
Phật. Trên đường đi gặp con sông Aparacchā sâu và rộng lớn, nơi đây không
thuyền bè, với tâm mong muốn sớm hầu Đức Phật, nên Đức vua niệm Ân đức Phật:
“Itipi so Bhagavā Arahaṃ, Sammāsambuddho, Vijjācaraṇasampanno, Sugato,
Lokavidū, Anuttaro purisadammasārathi, Satthādevamanussānaṃ, Buddho, Bhagavā”.
Do oai lực của Ân đức Phật, Đức vua cùng 1.000 vị quan cưỡi ngựa băng qua sông
ấy một cách dễ dàng.
Tiếp đến gặp con sông Nīlavāhinī, cũng sâu và rộng lớn, nơi đây
không thuyền bè, như lần trước, Đức vua niệm Ân đức Pháp: “Svākkhāto
Bhagavatā Dhammo, Sandiṭṭhiko, Akāliko, Ehipassiko, Opaneyyiko, Paccattaṃ
veditabbo viññūhi”. Do oai lực của Ân đức Pháp, Đức vua cùng các quan cưỡi ngựa
băng ngang qua sông ấy một cách dễ dàng, như lần trước.
Tiếp đến lại gặp con sông Candabhāgā, cũng sâu và rộng lớn, nơi đây không thuyền
bè, như hai lần trước, Đức vua niệm Ân đức Tăng: “Suppaṭipanno Bhagavato
sāvaka-saṃgho, Ujuppaṭipanno Bhagavato Sāvakasaṃgho, Nāyappaṭipanno Bhagavato
sāvakasaṃgho, Sāmīcippaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho, yadidaṃ cattārī
purisayugāni aṭṭhapurisapuggalā, esa Bhagavato sāvakasaṃgho Ahuneyyo,
Pāhuneyyo, Dakkhiṇeyyo, Anjalikaraṇīyo, Anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassa” . Do
oai lực của Ân đức Tăng, Đức vua cùng các quan cưỡi ngựa băng ngang con sông ấy
dễ dàng, như hai lần trước.
Đức Thế Tôn biết Đức vua cùng 1.000 vị quan sắp đến , Ngài phóng hào quang 6 màu
sáng ngời làm hiệu cho Đức vua cùng 1.000 vị quan biết. Tất cả đều đến hầu đảnh
lễ Đức Thế Tôn xong, rồi ngồi nghe Ngài thuyết pháp. Nghe xong, Đức vua cùng
1.000 vị quan đều chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo –
Nhập Lưu Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu, rồi đảnh lễ Đức Phật xin xuất
gia trở thành Tỳ-khưu. Đức Phật quán xét thấy rõ tất cả đều có phước thiện có
thể phát sinh 8 thứ vật dụng của Samôn, nên Ngài đưa bàn tay phải chỉ bằng ngón
trỏ mà truyền dạy:
“Etha bhikkhavo! caratha brahmacariyaṃ sammā dukkhassa
antakiriyāya”.
“Các con hãy đến với Như Lai! Các con trở thành Tỳ-khưu theo ý nguyện! Chánh pháp
mà Như Lai đã thuyết giảng, hoàn hảo ở phần đầu, phần giữa, phần cuối. Các con
hãy nên cố gắng tinh tấn thực hành phạm hạnh cao thượng, để chứng đắc Arahán
Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả, để chấm dứt sự khổ tử sinh luân hồi”.
Khi Đức Phật truyền dạy vừa dứt lời, ngay tức thì, Đức vua cùng 1.000 vị quan
trở thành Tỳ-khưu có đầy đủ 8 thứ vật dụng của Samôn, được phát sinh do phước
thiện. Chư Tỳ-khưu ấy có tăng tướng trang nghiêm, lục căn thanh tịnh, như vị Tỳ
khưu 60 hạ.
Về phần những người lái buôn, khi họ nhận được biển vàng do Đức vua ban thưởng,
đi thẳng vào cung điện xin yết kiến Hoàng hậu Anojā, trình biển vàng để xin
lãnh thưởng 3.000 đồng vàng. Hoàng hậu thấy vậy bèn hỏi:
- Các ngươi làm việc gì mà Đức vua ban thưởng số tiền lớn như vậy?
- Tâu Hoàng hậu, chúng tiện dân không làm công việc gì, chỉ có báo tin lành mà
thôi.
- Các ngươi có thể nói cho ta nghe được không?
- Tâu Hoàng hậu! Có thể được: Buddho uppanno! :
Đức Phật đã xuất hiện trên thế gian!
Hoàng hậu vừa nghe đến danh hiệu “Buddho” thì liền
phát sinh hỷ lạc chưa từng có, bà hỏi lại đến lần thứ ba, các người lái buôn
tâu lại như lần trước, lần nào cũng phát sinh hỷ lạc. Bà truyền bảo:
- Còn tin lành nào khác nữa?
- Tâu Hoàng hậu: Dhammo uppanno! : Đức Pháp đã xuất hiện
trên thế gian!
Hoàng hậu vừa nghe đến “Dhammo”, cũng như lần trước
liền phát sinh hỷ lạc chưa từng có, nên hỏi lại lần thứ ba, nghe tâu lần nào
cũng phát sinh hỷ lạc như vậy. Bà truyền tiếp:
- Còn tin lành nào khác nữa?
- Tâu Hoàng hậu: Samgho uppanno! : Đức Tăng đã xuất hiện
trên thế gian!
Hoàng hậu vừa nghe đến “Samgho”, cũng như hai lần
trước, liền phát sinh hỷ lạc chưa từng có, nên hỏi lại lần thứ ba, nghe tâu lần
nào cũng phát sinh hỷ lạc như vậy.
Hoàng hậu truyền dạy:
- Ba tin lành lớn lao đến dường ấy! Đức vua ban thưởng cho các người có 300 ngàn.
Còn ta, mỗi tin lành, ta ban thưởng cho các ngươi 300 ngàn, các ngươi được lãnh
thưởng 900 ngàn đồng tiền vàng”.
Như vậy, các lái buôn chỉ báo tin lành Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng đã xuất
hiện, mà được lãnh thưởng 1.200 ngàn đồng tiền vàng.
Hoàng hậu hỏi tiếp:
- Đức vua cùng 1.000 quan cận thần đi đâu?
Các lái buôn tâu:
- Tâu Hoàng hậu, Đức vua cùng 1.000 quan cận thần đi đến hầu Đức Phật và sẽ xuất
gia.
Nghe tâu như vậy, Hoàng hậu truyền gọi phu nhân của 1.000 vị quan đến báo tin:
- Hoàng thượng của chúng ta cùng 1.000 quan cận thần hay tin lành Đức Phật, Đức
Pháp, Đức Tăng đã xuất hiện trên thế gian, Người đã từ bỏ ngai vàng để lại cho
ta, như nhổ bỏ bãi nước miếng, rồi cùng với 1.000 quan cận thần ngự đến hầu Đức
Phật, sẽ xuất gia để giải thoát khổ.
Chẳng lẽ ta không có khổ hay sao? Đức vua từ bỏ ngai vàng như nhổ bỏ bãi nước
miếng, chẳng lẽ ta lại quỳ gối liếm bãi nước miếng ấy hay sao?
Ta cũng sẽ đi đến hầu Đức Phật, sẽ xuất gia để giải thoát khổ? Còn các ngươi
nghĩ thế nào?
Nhóm 1.000 phu nhân đồng tâm nhất trí xin đi theo Hoàng hậu đến hầu Đức Phật.
Hoàng hậu truyền sửa soạn ngựa quý, cùng 1.000 phu nhân mỗi người một ngựa theo
sau đến hầu Đức Phật và đi theo con đường mà Đức vua cùng các quan đã ngự đi.
Hoàng hậu cùng các phu nhân đi đến con sông Aparacchā, Hoàng hậu niệm Ân đức
Phật: “Itipi so Bhagavā Araham...”. Do oai lực Ân đức Phật, mọi người
cùng băng qua con sông ấy một cách dễ dàng.
Tiếp đến con sông Nīlavāhinī, Hoàng hậu niệm Ân đức Pháp: “Svākkhāto
Bhagavatā Dhammo...”. Do oai lực Ân đức Pháp, mọi người cùng băng
qua con sông ấy một cách dễ dàng, như lần trước.
Tiếp đến con sông Candabhāgā, Hoàng hậu niệm Ân đức Tăng: “Suppaṭipanno
Bhagavato sāvakasaṃgho...” Do oai lực Ân đức Tăng, mọi
người cũng đều băng qua con sông ấy một cách dễ dàng, như hai lần trước. Thế
rồi, Hoàng hậu cùng các vị phu nhân ngự đến hầu Đức Phật.
Đức Thế Tôn biết Hoàng hậu Anojā cùng 1.000 vị phu nhân sắp đến, Ngài phóng hào
quang 6 màu sáng ngời làm hiệu cho Hoàng hậu cùng các vị phu nhân biết. Tất cả
đều đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn xong bạch:
- Kính bạch Đức Thế Tôn, Đức vua Mahākappina cùng 1.000 vị quan có đến đây
không? Bạch Ngài.
Đức Phật hóa thần thông che khuất không để Hoàng hậu cùng 1.000 phu nhân nhìn
thấy Tỳ-khưu Mahākappina cùng 1.000 vị Tỳ-khưu khác. Đức Thế Tôn dạy rằng:
- Các con hãy ngồi nghe Như Lai thuyết pháp, rồi tại nơi đây các con sẽ nhìn thấy
Mahākappina cùng các quan.
Hoàng hậu cùng 1.000 vị phu nhân an tâm ngồi nghe Đức Phật thuyết pháp. Khi nghe
pháp xong, Hoàng hậu cùng 1.000 vị phu nhân đều chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế,
chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo - Nhập Lưu Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Nhập
Lưu; đồng thời ngay khi ấy, Tỳ-khưu Mahākappina cùng 1.000 vị Tỳ-khưu khác đều
chứng đắc từ Nhất Lai Thánh Đạo - Nhất Lai Thánh Quả, Bất Lai Thánh Đạo - Bất
Lai Thánh Quả đến Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả trở thành bậc Thánh
Arahán cùng với Tứ Tuệ Phân Tích.
Khi ấy, Đức Phật thâu phép thần thông, Hoàng hậu cùng các phu nhân nhìn thấy Đức
vua Mahākappina cùng 1.000 vị quan, bây giờ ở trong tướng mạo một Tỳ-khưu trang
nghiêm, như vị Đại đức 60 hạ. Hoàng hậu cùng các vị phu nhân phát sinh đức tin
trong sạch, kính xin Đức Thế Tôn xuất gia trở thành Tỳ-khưu ni.
Đức Thế Tôn chỉ dạy Hoàng hậu cùng 1.000 phu nhân đến tìm gặp Đại đức Tỳ-khưu ni
Uppalavannā chỉ dẫn cách xuất gia trở thành Tỳ-khưu ni.
Hoàng hậu cùng 1.000 vị phu nhân, sau khi trở thành Tỳ-khưu ni trong thời gian
không lâu, tất cả đều chứng đắc đến Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả trở
thành bậc Thánh Arahán cao thượng trong giáo pháp của Đức Phật.
Oai lực niệm Ân đức Phật, niệm Ân đức Pháp, niệm Ân đức Tăng thật phi
thường!
Đức Phật xuất hiện trên thế gian thật là điều rất hiếm có; kiếp tử sinh luân hồi
của mỗi chúng sinh gặp được Đức Phật hoặc chư Thánh Thanh Văn đệ tử của Ngài
cũng là một điều hy hữu.
Thật vậy, trong lịch sử tiền kiếp của Đức Phật Gotama, từ thời kỳ Đức
Phật Dīpaṅkara cho đến Đức Phật Koṇḍañña,
trải qua khoảng thời gian lâu dài 1 a-tăng-kỳ kiếp trái đất
thành-trụ-hoại-không, mà không có một Đức Phật Chánh Đẳng Giác nào xuất hiện
trên thế gian gọi là Suññakappa: kiếp trái đất không có Đức Phật.
Thật diễm phúc thay! Kiếp trái đất hiện tại mà chúng ta đang sống gọi là Bhaddakappa
có năm Đức Phật tuần tự xuất hiện cũng trong kiếp trái đất này. Trong thời kỳ
quá khứ đã có ba Đức Phật: Đức Phật Kakusandha, Đức Phật Koṇāgamana
và Đức Phật Kassapa. Trong thời hiện tại: Đức Phật Gotama
đã xuất hiện trên thế gian, rồi Ngài đã tịch diệt Niết Bàn cách đây 2.548 năm,
giáo pháp của Ngài còn lưu truyền lại trên thế gian cho đến 5.000 năm, rồi cũng
sẽ bị mai một hoàn toàn. Trong thời vị lai sẽ có Đức Phật Metteyya
xuất hiện trên thế gian trong cùng kiếp trái đất Bhaddakappa này.
Tuy rằng, trong kiếp trái đất có năm Đức Phật tuần tự xuất hiện trên thế gian,
nhưng khoảng cách thời gian từ Đức Phật này đến Đức Phật khác vô số-vô số không
thể tính được.
Đối với những bậc đã có đầy đủ pháp hạnh ba-la-mật, kiếp này là kiếp chót, như
trường hợp của Đức vua Mahākappina và của Hoàng hậu Anojā, khi
nghe đến danh hiệu Buddho: Đức Phật, Dhammo: Đức Pháp,
Saṃgho: Đức Tăng, liền phát sinh đức tin trong sạch
nơi Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng; mặc dù họ chưa đến hầu Đức Phật, chưa được
lắng nghe chánh pháp của Ngài, nhưng khi gặp phải trở ngại, họ có khả năng đặc
biệt niệm tưởng đến 9 Ân đức Phật, 6 Ân đức Pháp, 9 Ân đức Tăng; bởi vì, những
Ân đức Tam Bảo này đã được tích lũy trong tâm của họ từ nhiều đời nhiều kiếp,
từ Chư Phật quá khứ và đã tạo được đầy đủ 10 pháp hạnh ba-la-mật xong rồi. Nay
kiếp hiện tại này, khi đến hầu đảnh lễ Đức Phật, lắng nghe chánh pháp, họ dễ
dàng chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết
Bàn, diệt đoạn tuyệt mọi phiền não, mọi tham ái, mọi ác pháp, trở thành bậc
Thánh Arahán.
Quả báu đặc biệt niệm Ân đức Tam Bảo
Hành giả tiến hành niệm Ân đức Tam Bảo, trong kiếp hiện tại chưa chứng đắc Thánh
Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn, hành giả sẽ được hưởng những quả báu đặc biệt ngay
trong kiếp hiện tại và nhiều kiếp vị lai như sau:
- Được phần đông chúng sinh kính trọng.
- Thiện tâm trong sạch thanh tịnh.
- Khi sắp chết, tâm bình tĩnh sáng suốt, không mê muội.
- Sau khi chết, do thiện nghiệp này cho quả tái sinh làm người cao quý hoặc chư
thiên cao quý.
- Tái sinh kiếp nào cũng thuộc hàng chúng sinh cao quý.
- Có sắc thân xinh đẹp đáng ngưỡng mộ.
- Các bộ phận trong thân thể đều xinh đẹp đáng quý.
- Thân có mùi thơm tỏa ra.
- Miệng có mùi thơm tỏa ra.
- Có trí tuệ nhiều.
- Có trí tuệ sâu sắc.
- Có trí tuệ sắc bén.
- Có trí tuệ nhanh nhẹn.
- Trí tuệ phi thường…
- Nói lời hay có lợi ích…
- Kiếp vị lai có duyên lành gặp Đức Phật, lắng nghe chánh pháp dễ dàng chứng ngộ
chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn...
Đó là những quả báu phát sinh từ niệm Ân đức Tam Bảo.
* Tích Ngài Đại đức Sugandhatthera
Trong bộ Apadāna, Ngài Đại đức Sugandha thuật lại tiền kiếp của
Ngài được tóm lược như sau:
Trong thời kỳ Đức Phật Kassapa, Bậc độc nhất vô nhị xuất hiện trên thế
gian, là Bậc cao thượng nhất trong tất cả chúng sinh muôn loài trong tam giới.
Ngài có 32 tướng tốt chính và 80 tướng tốt phụ, có hào quang sáng ngời tỏa ra
từ kim thân, trong sáng huyền diệu như mặt trăng, ánh sáng hào quang cũng chói
lọi như mặt trời, làm cho tất cả chúng sinh muôn loài cùng cảnh vật mát mẻ như
được tắm qua một cơn mưa, giúp cho tất cả chúng sinh có duyên lành phát triển
mọi thiện pháp.
Đức Phật có giới đức hoàn toàn trong sạch thanh tịnh, làm nền tảng như mặt đất;
có định đức không hề lay chuyển như dãy núi Hymalaya; có tuệ đức
sáng suốt, mênh mông như hư không.
Đức Phật là Bậc không còn dính mắc, không còn ràng buộc, như gió thổi.
Đức Phật có tâm đại bi rải khắp đến tất cả chúng sinh muôn loài. Ngài thuyết
pháp giáo huấn, tế độ những chúng sinh có duyên lành nên tế độ, dù ở trong cõi
người hoặc ở các cõi khác.
Vào thời kỳ Đức Phật Kassapa ấy, tôi là con trai của nhà phú hộ danh
tiếng giàu sang phú quý, trong kinh thành Bāraṇāsi. Một
hôm, đang đi dạo chơi trong rừng, tôi nhìn thấy Đức Phật Kassapa đang
thuyết pháp chỉ dạy chúng sinh con đường bất tử Niết Bàn.
Đức Phật là một vị thiên nam cao thượng hơn tất cả chư thiên; là một bậc phạm
thiên cao thượng hơn tất cả mọi phạm thiên. Giáo pháp của Ngài toàn hảo ở phần
đầu, phần giữa, phần cuối, đầy đủ ý nghĩa, văn chương trong sáng, phạm âm của
Ngài vô cùng thanh tao huyền diệu, khi lắng nghe làm cho tâm an tịnh lạ thường,
làm vắng lặng mọi phiền não.
Khi được lắng nghe giáo pháp của Đức Phật Kassapa, tôi liền phát sinh đức
tin trong sạch, quyết định từ bỏ nhà cửa, tài sản. Kính xin Đức Phật Kassapa
cho phép xuất gia trở thành Tỳ-khưu trong giáo pháp của Ngài. Sau khi trở thành
Tỳ-khưu, tôi đã học nhiều hiểu rộng, là vị Tỳ-khưu đa văn túc trí, là
một Pháp sư có tài đối đáp, lỗi lạc trong mọi trường hợp, tôi thường tán dương
Ân đức Tam Bảo: Ân đức Phật, Ân đức Pháp, Ân đức Tăng giữa các hàng Phật
tử.
Quả báu tán dương Ân đức Tam Bảo
Khi mãn kiếp Tỳ-khưu, sau khi chết, do thiện nghiệp tán dương Ân đức Tam Bảo,
tôi được tái sinh làm một thiên nam trong cõi Đẩu Suất Đà Thiên (Tusita),
an hưởng mọi sự an lạc trong cõi trời ấy. Đến khi mãn kiếp thiên nam, sau khi
chết, cũng do thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm người đàn ông, có những mùi
thơm lạ thường:
Hơi thở có mùi thơm tỏa ra.
Miệng có mùi thơm tỏa ra.
Toàn thân đều có mùi thơm tỏa ra suốt ngày đêm...
Những mùi thơm này, thơm ngát hơn cả mùi thơm của hoa sen, hoa lài, các loài hoa
thơm khác, hơn tất cả mùi thơm của các loại trầm... mùi thơm tho huyền diệu này
chính là quả của sự tán dương Ân đức Phật, Ân đức Pháp, Ân đức Tăng, Ân đức Tam
Bảo cao thượng trong tiền kiếp của tôi.
Nay, kiếp hiện tại này, do duyên lành tôi đã đến hầu Đức Phật Gotama,
kính xin Ngài cho phép tôi được xuất gia trở thành Tỳ-khưu trong giáo pháp của
Ngài. Tôi cũng thường tán dương Ân đức Phật, Ân đức Pháp, Ân đức Tăng cao
thượng. Những chúng sinh lắng nghe tôi tán dương Ân đức Tam Bảo cao thượng,
cũng làm cho họ lắng dịu được phiền não.
Do năng lực tán dương Ân đức Tam Bảo cao thượng, tôi tiến hành đề mục niệm Ân
đức Tam Bảo làm nền tảng để tiến hành thiền tuệ, dẫn đến chứng đắc thành bậc
Thánh Arahán, đã diệt đoạn tuyệt mọi phiền não trầm luân, ngấm ngầm trong tâm,
đã nhổ tận gốc vô minh, tham ái, không còn tái sinh kiếp sau nữa.
Tôi có duyên lành được xuất gia trở thành Tỳ-khưu trong giáo pháp của Đức Phật Gotama,
đó là điều tốt lành nhất. Tôi đã chứng đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả
và Niết Bàn trở thành bậc Thánh Arahán cùng với Tam minh, Tứ Tuệ Phân Tích, Lục
thông v.v… Tôi đã hoàn thành xong phận sự của bậc Samôn, đã thực hành đúng theo
lời giáo huấn của Đức Phật Gotama cao thượng.
Người nào có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, thường tán dương Ân đức Tam Bảo cao
thượng, chắc chắn người ấy sẽ được những quả báu tốt đẹp. Ngược lại, nếu người
nào chê trách, xúc phạm, nói xấu đến ngôi Tam Bảo: Phật Bảo, Pháp Bảo, Tăng
Bảo, thì người ấy sẽ có hậu quả không tốt. Nhưng nếu sau đó, người ấy biết
thành tâm ăn năn sám hối tội lỗi của mình, thì cũng có thể tránh được những
điều tai hại.
Đức tin trong sạch nơi ngôi cao cả
Đức tin là pháp dẫn đầu trong mọi thiện pháp; từ dục giới thiện pháp, sắc giới
thiện pháp, vô sắc giới thiện pháp cho đến Siêu tam giới thiện pháp. Người có
đức tin trong sạch nơi ngôi cao cả, người ấy có được phước thiện cao cả và có
được quả báu của phước thiện cũng cao cả.
Đức Phật dạy trong bài kinh Aggappasādasutta ý nghĩa như sau:
- Này chư Tỳ-khưu, đức tin trong sạch trong bốn ngôi cao cả.
* Bốn ngôi cao cả ấy như thế nào?
1) Tất cả mọi loài chúng sinh: Chúng sinh không có chân (rắn, cá...);
chúng sinh có hai chân (con người, gà, vịt...); chúng sinh có bốn chân (voi,
trâu, bò...); chúng sinh có nhiều chân (con rít, con cuốn chiếu...);
chúng sinh có sắc uẩn (cõi sắc giới vô tưởng); chúng sinh không có sắc
uẩn (4 cõi vô sắc giới); chúng sinh có tưởng (tâm) (cõi dục giới,
cõi sắc giới, cõi vô sắc giới); chúng sinh không có tưởng (cõi sắc giới
vô tưởng); chúng sinh không phải có tưởng, cũng không phải không có
tưởng (cõi vô sắc giới phi tưởng phi phi tưởng xứ thiên). Trong số chúng
sinh có bao nhiêu loài đi nữa, Như Lai, Đức Phật Chánh Đẳng Giác mà chư thiện
trí dạy rằng: “Đức Phật Chánh Đẳng Giác là Bậc cao cả nhất, trong toàn thể mọi
loài chúng sinh ấy”.
Những chúng sinh nào có đức tin trong sạch nơi Đức Phật Chánh Đẳng Giác, những
chúng sinh ấy được gọi là người có đức tin trong sạch nơi Đức Phật ngôi cao cả
nhất, có đức tin trong sạch nơi Đức Phật ngôi cao cả ấy, chắc chắn được quả báu
cao cả.
2) Những thiện pháp là pháp được cấu tạo; trong đó có bao nhiêu thiện pháp đi
nữa, Thánh Đạo hợp đủ 8 chánh, mà chư thiện trí dạy rằng: Thánh Đạo hợp đủ 8
chánh là thiện pháp cao cả nhất trong tất cả mọi thiện pháp.
Những chúng sinh nào có đức tin trong sạch, trong Thánh Đạo hợp đủ 8 chánh,
những chúng sinh ấy được gọi là người có đức tin trong sạch nơi Đức Pháp ngôi
cao cả nhất,có đức tin trong sạch trong Đức Pháp ngôi cao cả ấy, chắc chắn được
quả báu cao cả.
3) Tất cả các pháp cả pháp hữu vi lẫn pháp vô vi; trong đó có bao nhiêu pháp đi
nữa, Niết Bàn pháp ly ái (virāga), mà chư thiện trí dạy rằng: Niết Bàn
pháp ly ái, là pháp cao cả nhất, trong tất cả các pháp.
* Niết Bàn pháp ly ái: Là pháp như thế nào?
Là pháp làm cho không còn say mê trong ngũ trần.
Là pháp diệt tâm tham khao khát trong ngũ trần.
Là pháp nhổ tận gốc rễ tham ái dính mắc.
Là pháp cắt đứt tử sinh luân hồi trong tam giới.
Là pháp đoạn tuyệt tâm tham ái.
Là pháp dứt bỏ tâm tham dục.
Là pháp diệt mọi cảnh khổ, đó là Niết Bàn.
Những chúng sinh nào có đức tin trong sạch trong Niết Bàn pháp ly ái, những
chúng sinh ấy được gọi là người có đức tin trong sạch nơi Niết Bàn pháp ly ái
ngôi cao cả nhất, có đức tin trong sạch trong Niết Bàn pháp ly ái ngôi cao cả
ấy, chắc chắn được quả báu cao cả.
4) Trong tất cả các nhóm, các đoàn thể, chư Tăng là Bậc Thanh Văn đệ tử của Như
Lai, mà chư thiện trí dạy rằng: Chư Tăng là bậc Thánh Thanh Văn đệ tử của Như Lai
là Bậc Thánh cao cả nhất, trong các nhóm, các đoàn thể ấy.
Chư Thánh Thanh Văn đệ tử của Như Lai có 4 đôi, thành 8 bậc Thánh là những Bậc
xứng đáng thọ nhận những thứ vật dụng cúng dường; là những Bậc xứng đáng được
đón tiếp như vị khách quý; là những Bậc xứng đáng cho chúng sinh cúng dường, là
những Bậc xứng đáng lễ bái; chư Thánh Tăng là phước điền của chúng sinh không
nơi nào sánh được.
Những chúng sinh nào có đức tin trong sạch nơi chư Thánh Tăng, những chúng sinh
ấy được gọi là người có đức tin trong sạch nơi Đức Tăng ngôi cao cả nhất, có
đức tin trong sạch nơi Đức Tăng ngôi cao cả ấy, chắc chắn được quả báu cao cả.
- Này chư Tỳ-khưu, đức tin trong sạch trong bốn ngôi cao cả như vậy
Đức Phật thuyết bài kệ rằng:
Đức tin trong sạch nơi ngôi cao cả,
Trí tuệ hiểu biết nơi ngôi cao cả.
Đức tin trong sạch Đức Phật cao cả,
Là Bậc Vô Thượng xứng đáng cúng dường.
Đức tin trong sạch Đức Pháp cao cả,
Là pháp ly ái tịch tịnh an lạc.
Đức tin trong sạch Đức Tăng cao cả,
Là phước điền cao thượng của chúng sinh.
Người cúng dường đến chư Tăng cao cả,
Phước thiện cao cả được tăng trưởng nhiều,
Được quả báu cao cả là sống lâu,
Sắc đẹp, danh vọng, tiếng tăm, an lạc,
Và sức mạnh thể xác lẫn tinh thần.
Bậc thiện trí cúng dường vật cao cả,
Có định tâm vững trong pháp cao cả,
Bậc ấy sẽ là chư thiên, nhân loại,
Đạt đến nơi cao cả, tâm hoan hỷ.
Đức tin nơi Tam Bảo và quả báu
Đức tin nơi Tam Bảo đó là đức tin nơi Đức Phật Bảo, đức tin nơi Đức Pháp Bảo,
đức tin nơi Đức Tăng Bảo. Để hiểu rõ đức tin nơi Tam Bảo như thế nào? và quả
báu của nó ra sao? Điều này được Công chúa Cundī bạch hỏi Đức Thế Tôn;
và Ngài giảng dạy trong bài kinh Cundīsutta ý nghĩa như sau:
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngự tại ngôi chùa Veluvana, gần kinh thành Rājagaha.
Khi ấy, Công chúa Cundī cùng với 500 cỗ xe chở 500 công nương đến hầu
đảnh lễ Đức Thế Tôn xong, ngồi một nơi hợp lẽ, bèn bạch với Đức Thế Tôn rằng:
- Kính bạch Đức Thế Tôn, hoàng huynh của con là Cunda dạy con rằng:
“Người cận sự nam, cận sự nữ có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, đến quy y nương
nhờ nơi Đức Phật Bảo, quy y nương nhờ nơi Đức Pháp Bảo, quy y nương nhờ nơi Đức
Tăng Bảo; và có tác ý thiện tâm tránh xa sự sát sanh, tránh xa sự trộm cắp,
tránh xa sự tà dâm, tránh xa sự nói dối, tránh xa sự uống rượu và các chất say
là nhân sinh sự dể duôi. Người ấy, sau khi chết, do thiện nghiệp ấy cho quả tái
sinh trong cõi thiện giới mà thôi, không tái sinh trong cõi ác giới”.
- Kính bạch Đức Thế Tôn, con xin phép hỏi rằng:
Người có đức tin nơi Đức Phật Bảo như thế nào, sau khi chết, chỉ tái sinh trong
cõi thiện giới mà thôi, không tái sinh trong cõi ác giới?
Người có đức tin nơi Đức Pháp Bảo như thế nào, sau khi chết, chỉ tái sinh trong
cõi thiện giới mà thôi, không tái sinh trong cõi ác giới?
Người có đức tin nơi Đức Tăng Bảo như thế nào, sau khi chết, chỉ tái sinh trong
cõi thiện giới mà thôi, không tái sinh trong cõi ác giới?
Người giữ gìn giới đầy đủ trọn vẹn như thế nào, sau khi chết, chỉ tái sinh trong
cõi thiện giới mà thôi, không tái sinh trong cõi ác giới?
Đức Thế Tôn truyền dạy rằng:
- Này Cundī, tất cả các loài chúng sinh: Chúng sinh không chân, chúng sinh
có hai chân, chúng sinh có bốn chân, chúng sinh có nhiều chân, chúng sinh có
sắc uẩn, chúng sinh không có sắc uẩn, chúng sinh có tưởng, chúng sinh không có
tưởng, chúng sinh không phải có tưởng, cũng không phải không có tưởng... Trong
số chúng sinh có bao nhiêu đi nữa, Như Lai, Đức Phật Chánh Đẳng Giác mà chư
thiện trí dạy rằng: Như Lai, Đức Phật Chánh Đẳng Giác là Bậc cao thượng nhất
trong các loài chúng sinh ấy.
Những người nào có đức tin trong sạch nơi Đức Phật, những người ấy được gọi là
người có đức tin trong sạch nơi Đức Phật cao thượng, và có được quả báu cao
thượng.
Này Cundī, các pháp hữu vi do nhân duyên cấu tạo, và các pháp vô vi không do nhân
duyên cấu tạo, trong các pháp ấy có bao nhiêu đi nữa, Niết Bàn pháp ly ái
(virāya) là pháp không còn say mê, diệt tâm tham khao khát, nhổ tận gốc tham ái
dính mắc, cắt dứt tử sinh luân hồi, đó là Niết Bàn, mà chư thiện trí dạy rằng:
Niết Bàn pháp ly ái là pháp cao thượng nhất trong các pháp.
Những người nào có đức tin trong sạch nơi Niết Bàn pháp ly ái, những người ấy
được gọi là người có đức tin trong sạch nơi Đức Pháp cao thượng, và có được quả
báu cao thượng.
Này Cundī, trong tất cả các nhóm, các đoàn thể, chư Thánh Tăng Thanh Văn đệ tử
của Như Lai có 4 đôi thành 8 bậc Thánh là Bậc xứng đáng thọ nhận các thứ vật
dụng cúng dường; là những Bậc xứng đáng được đón tiếp như vị khách quý; là
những Bậc xứng đáng cho chúng sinh cúng dường; là những Bậc xứng đáng lễ bái,
chư Thánh Tăng là phước điền cao thượng của chúng sinh không nơi nào sánh được,
mà chư thiện trí dạy rằng: Chư Thánh Tăng ấy là Bậc cao thượng nhất trong các
nhóm, các đoàn thể.
Những người nào có đức tin trong sạch nơi chư Thánh Tăng, những người ấy được gọi
là người có đức tin trong sạch nơi Đức Tăng cao thượng; và có được quả báu cao
thượng.
Này Cundī, trong các loại giới có bao nhiêu đi nữa, giới mà chư Thánh Nhân kính
yêu đó là giới không bị đứt, giới không bị thủng, giới không bị
đốm, giới không bị đứt lan, tự chủ, mà chư bậc thiện trí tán
dương ca tụng, tà kiến và tham ái không thể nương nhờ giới ấy. Nhờ giới trong
sạch và trọn vẹn làm nền tảng cho pháp hành thiền định, pháp hành thiền tuệ.
Cho nên chư thiện trí dạy rằng: Giới của các bậc Thánh là giới cao
thượng nhất trong các loại giới.
Những người nào có đức tin trong sạch trong giới của bậc Thánh Nhân, những người
ấy được gọi là người có đức tin trong sạch trong giới cao thượng; và được quả
báu cao thượng.
Đức Phật thuyết dạy bài kệ rằng:
Đức tin trong sạch nơi ngôi cao cả,
Trí tuệ hiểu biết nơi ngôi cao cả.
Đức tin trong sạch Đức Phật cao cả
Là Bậc Vô Thượng xứng đáng cúng dường,
Đức tin trong sạch Đức Pháp cao cả,
Là pháp ly ái tịch tịnh an lạc.
Đức tin trong sạch Đức Tăng cao cả
Là phước điền cao thượng của chúng sinh.
Người cúng dường đến chư Tăng cao cả,
Phước thiện cao cả được tăng trưởng nhiều,
Được quả báu cao cả là sống lâu,
Sắc đẹp, danh vọng, tiếng tăm, an lạc,
Và sức mạnh thể xác lẫn tinh thần.
Bậc thiện trí cúng dường vật cao cả,
Có định tâm vững trong pháp cao cả,
Bậc ấy sẽ là chư thiên, nhân loại
Đạt đến nơi cao cả, tâm hoan hỷ.
Đức tin là pháp dẫn đầu trong các thiện pháp từ tam giới thiện pháp cho đến Siêu
tam giới thiện pháp.
Đối với các bậc Thánh Nhân, chắc chắn luôn luôn có đức tin hoàn toàn trong sạch
nơi Tam Bảo, một cách vững chắc, không có sự việc gì có thể làm cho bậc Thánh
Nhân giảm đức tin nơi Tam Bảo; bởi vì các bậc Thánh Nhân đã diệt bằng cách đoạn
tuyệt được phiền não hoài nghi.
Đối với các các hàng cận sự nam, cận sự nữ còn phàm nhân, có đức tin luôn luôn
trong sạch nơi Tam Bảo không phải điều dễ dàng; bởi vì các hàng phàm nhân còn
có nhiều phiền não chi phối, nhất là phiền não hoài nghi nơi Tam
Bảo, nghiệp và quả của nghiệp.
Như vậy, để dễ dàng phát sinh đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, cần phải có đối
tượng cao cả và rõ ràng. Như Đức Phật dạy trong kinh Cundīsutta:
- Đức tin trong sạch nơi Đức Phật Bảo đó là đức tin nơi Đức Phật Chánh Đẳng Giác
là Bậc cao cả nhất trong tất cả các loài chúng sinh trong tam giới.
- Đức tin trong sạch nơi Đức Pháp Bảo đó là đức tin nơi Niết Bàn pháp ly ái là
pháp giải thoát mọi cảnh khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.
- Đức tin trong sạch nơi Đức Tăng Bảo đó là đức tin nơi chư Thánh Tăng có 4 đôi
thành 8 bậc Thánh, là phước điền cao thượng của chúng sinh không nơi nào sánh
được.
Khi có đối tượng Tam Bảo cao cả và rõ ràng, thì người cận sự nam, cận sự nữ mới
dễ dàng phát sinh đức tin trong sạch nơi Tam Bảo và giữ gìn duy trì được đức
tin ấy, chắc chắn sẽ có được quả báu cao cả nhất trong các quả báu trong đời.
* (Chương III Ân đức Tam Bảo đã trình
bày xong) *
Tiếp theo