PHẬT GIÁO (BUDDHASASANA)
Phật giáo là lời giáo huấn của Đức Phật, từ khi chứng đắc thành
Đức Phật Chánh Đẳng Giác vào ngày rằm tháng tư (âm lịch) tại Đại cội Bồ đề,
suốt 45 năm cho đến khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn, cũng vào ngày rằm tháng tư
(âm lịch) tại khu rừng Kusinārā.
Phật giáo có 3 phần chính:
Pháp học Phật giáo (Pariyattisāsana)
Pháp hành Phật giáo (Paṭipattisāsana)
Pháp thành Phật giáo (Paṭivedhasāsana)
Pháp học Phật giáo đúng đắn làm nền tảng căn bản cho pháp hành Phật
giáo được phát triển đúng. Khi pháp hành Phật giáo phát triển
đúng đắn dẫn đến kết quả là pháp thành Phật giáo đó là 4 Thánh Đạo - 4
Thánh Quả và Niết Bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.
Pháp học Phật giáo là gì?
Trong chú giải Chi Bộ Kinh định nghĩa:
Pariyatti ti tepiṭakam Buddhavacanaṃ sāṭṭhakathā Pāḷi
Pháp học Phật giáo là Phật ngôn Tam Tạng cùng Chú giải Pāḷi.
Tiếng Pāḷi là ngôn ngữ chung của Chư Phật trong quá khứ, Đức Phật hiện
tại và Chư Phật vị lai.
Pháp học Phật giáo gồm những lời giáo huấn, những điều răn dạy của
Đức Phật trong suốt 45 năm kể từ khi chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác
cho đến khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn, được ghi chép trong Tam Tạng,
mà trong đó gồm có lời của các hàng đệ tử, chư thiên, phạm thiên,... được Đức
Phật nhắc lại hoặc xác nhận cũng xem như Phật ngôn, và Chú giải là
lời giải thích của Đức Phật rải rác trong Tam Tạng gọi là Pakiṇṇa-kadesanā
thuyết giảng giải thích những điều thắc mắc của các hàng đệ tử, cùng với lời
giải thích của chư Thánh Arahán, gọi chung là Chú giải.
Pháp học là nền tảng căn bản của Phật giáo, nếu không có pháp học
Phật giáo, thì chắc chắn sẽ không có pháp hành Phật giáo và pháp
thành Phật giáo, không thể giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam
giới.
Nếu có pháp học Phật giáo đúng, thì có pháp hành Phật giáo
đúng, nếu có pháp hành Phật giáo đúng, thì
có pháp thành Phật giáo đó là 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết
Bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam giới.
1- PHÁP VỊ GIẢI THOÁT (VIMUTTIRASA)
Phật giáo có một vị duy nhất là vị giải thoát khổ như Đức Phật đã dạy:
“Seyathāpi Pahārāda, mahāsamuddo ekaraso loṇaraso. Evamevaṃ kho Pahārāda, ayaṃ
dhammavinayo ekaraso vimuttiraso; Ayampi Pahārāda, ayaṃ dhammavinayo ekaraso
vimuttiraso...”
Này Pahārāda, như đại dương chỉ có một vị duy nhất “vị mặn”. Cũng
như vậy, này Pahārāda, pháp và luật này chỉ có một vị duy nhất “vị giải
thoát khổ”.
Này Pahārāda, pháp và luật này chỉ có một vị duy nhất “vị giải thoát khổ”.
Phân loại toàn giáo pháp của Đức Phật
2- PHẬT NGÔN (BUDDHAVACANA)
Toàn giáo pháp của Đức Phật, Phật ngôn chia ra làm 3 thời kỳ:
Phật ngôn đầu tiên (Paṭhama buddhavacana).
Phật ngôn thời kỳ giữa (Majihima buddhavacana).
Phật ngôn cuối cùng (Pacchima buddhavacana).
Phật ngôn đầu tiên là gì?
Đức Bồ Tát Siddhattha chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, tại Đại
cội Bồ đề vào ngày rằm tháng tư (âm lịch), Ngài đang an hưởng vị giải
thoát suốt 7 tuần lễ gồm 49 ngày.
Khi ấy, Đức Thế Tôn tự thuyết 2 bài kệ ở trong tâm rằng:
“Anekajātisamsāram
Sandhāvissam anibbisam
Gahakāraṃgavesanto
Dukkhājāti punappunam.
Gahakāraka! dittho’si
Puna geham na kāhasi
Sabbā te phāsukā bhaggā
Gahakūtam visaṅkhatam
Visaṅkhāram gatam cittam
Tanhānam khayamajjhagā” .
153- Này người thợ “tham ái” xây nhà “thân”
Như Lai cố tìm ngươi mà chưa gặp,
Nên tử sinh luân hồi vô số kiếp
Tái sinh mãi trong tam giới là khổ,
154- Này tham ái, người thợ xây nhà “thân”!
Bây giờ Như Lai đã gặp ngươi rồi !
Tất cả sườn nhà, “phiền não” của ngươi,
Như Lai đã hủy hoại sạch cả rồi
Đỉnh nhà “vô minh”, cũng bị tiêu diệt,
Nay ngươi không còn xây nhà Như Lai
Tâm Như Lai đã chứng ngộ Niết Bàn
Diệt đoạn tuyệt tất cả mọi tham ái, Như Lai đã chứng đắc
A-ra-hán.
Hai bài kệ này mà Đức Phật tự thuyết ở trong tâm, đó là Phật ngôn thời kỳ đầu
tiên của Đức Phật.
Phật ngôn cuối cùng là gì?
Đức Phật du hành thuyết pháp tế độ cho chúng sinh có duyên lành nên tế độ, khắp
mọi nơi, từ cõi người đến cõi trời dục giới, cõi trời sắc giới (không có cõi
trời vô sắc giới, bởi vì phạm thiên cõi này không có sắc uẩn (không có lỗ tai
để lắng nghe Chánh Pháp) suốt 45 năm ròng rã ngày đêm. Đến ngày rằm
tháng tư (âm lịch) Đức Phật ngự đến khu rừng Kusinārā để tịch
diệt Niết Bàn. Trước giờ tịch diệt Niết Bàn, vào canh chót, Đức Phật nhắc nhở
khuyên dạy các hàng đệ tử đứng đầu là Tỳ-khưu rằng:
“Handa dāni bhikkhave āmantayāmi vo
Vayadhammā saṅkhārā
Appamādena sampādetha”
Này chư Tỳ-khưu, bây giờ Như Lai nhắc nhở khuyên dạy các con lần cuối cùng. Tất
cả các pháp hữu vi có trạng thái diệt là thường, các con hãy nên cố gắng tinh
tấn hoàn thành mọi phận sự Tứ Thánh Đế, bằng pháp không dể duôi, tiến hành Tứ
Niệm Xứ.
Đó là Phật ngôn cuối cùng của Đức Phật.
Thật vậy, Đức Phật chấm dứt câu chót:
“Appamādena sampādetha”
Từ đó, không còn dạy một lời nào nữa. Đức Phật nhập các bậc thiền hữu sắc, các
bậc thiền vô sắc và cuối cùng tịch diệt Niết Bàn, gọi là Ngũ Uẩn Niết Bàn
(khandhaparinibbāna) diệt ngũ uẩn rồi, không có ngũ uẩn nào khác tái
sinh nữa, hoàn toàn giải thoát khổ sinh là giải thoát mọi cảnh
khổ tử sinh luân hồi trong tam giới.
Phật ngôn thời kỳ giữa là gì?
Ngoại trừ hai câu kệ tự thuyết đầu tiên và Phật ngôn thời kỳ cuối cùng ra, còn
lại tất cả những lời giáo huấn, điều răn dạy của Đức Phật trong suốt 45 năm.
Đó là Phật ngôn thời kỳ giữa của Đức Phật.
3- PHÁP VÀ LUẬT (DHAMMA VINAYA)
Toàn giáo pháp của Đức Phật phân ra làm hai loại:
- Pháp (Dhamma) gồm có Tạng Kinh và Tạng Vi Diệu Pháp.
- Luật (Vinaya) là Tạng Luật.
Trong kinh Đại Niết Bàn (Mahāparinibbānasutta), trước khi tịch diệt Niết
Bàn. Đức Phật dạy Đại đức Ānanda rằng:
“Yo vo Ānanda, mayā dhammo ca vinayo ca desito paññato, so vo mamaccayena satthā”
2 .
- Này Ānanda, Pháp mà Như Lai đã thuyết, Luật mà Như Lai đã chế định, sau khi Như
Lai đã tịch diệt Niết Bàn rồi, Pháp và Luật ấy là Tôn sư của các con.
Theo Chú giải kinh Đại Niết Bàn, giải thích:
Danh từ Dhamma: Pháp có nghĩa là Tạng Kinh và Tạng Vi
Diệu Pháp.
Danh từ Vinaya: Luật có nghĩa là Tạng Luật.
Tiṇi piṭakāni pañca nikāyā navaṅgāni caturasītidhammakkhandhasahassāni.
Tất cả Pháp và Luật phân chia thành Tam Tạng, Ngũ bộ, Cửu chi, 84.000 Pháp môn.
- Tạng Luật: Gồm có 21.000 Pháp môn.
- Tạng Kinh: Gồm có 21.000 Pháp môn.
- Tạng Vi Diệu Pháp: Gồm có 42.000 Pháp môn.
Đức Phật còn giảng giải rằng:
“Iti imāni caturāsitidhammakkhandhasahassāni tiṭṭhanti, ahaṃ ekova parinibbāyāmi.
Ahañca kho dāni ekova ovadāmi anusāsāmi, mayi parinibbute imāni
caturāsitidhammakkhandhasahassāni tumhe ovadissanti amusāsissanti” .
Như vậy, 84.000 Pháp môn này tồn tại, chỉ có một mình Như Lai tịch diệt Niết Bàn.
Thật vậy, bây giờ chỉ có một mình Như Lai giáo huấn các con, theo dạy dỗ các
con. Sau khi Như Lai tịch diệt Niết Bàn rồi, thì có 84.000 Pháp môn ấy là
“Tôn sư” sẽ giáo huấn các con, theo dạy dỗ các con.
Trên đây là đoạn Chú giải mà Đức Phật đã giải thích, giảng dạy cho các hàng đệ
tử nên hiểu biết rõ rằng:
Sau khi Đức Phật đã tịch diệt Niết Bàn rồi, không phải không còn vị Tôn sư, mà
khi ấy, 84.000 pháp môn chính là Tôn sư sẽ giáo huấn, sẽ theo dạy dỗ các hàng
đệ tử.
4- TAM TẠNG (TIPIṬAKA)
Toàn giáo pháp của Đức Phật, nếu phân chia theo tạng thì có 3 tạng:
Tạng Luật (Vinayapiṭakapāḷi).
Tạng Kinh (Suttantapiṭakapāḷi).
Tạng Vi Diệu Pháp (Abhidhammapiṭakkapāḷi)
a) Tạng Luật (Vinayapiṭakapāḷi)
Tạng Luật gồm những lời răn dạy của Đức Phật. Đức Phật đã ban hành những điều
giới Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni, những phép hành tăng sự, những điều cho phép và những
điều không cho phép, những việc nên làm và những việc không nên làm v.v...
Tạng Luật có 5 bộ
* Bộ Pārājikapāḷi gồm có những điều giới:
4 điều giới Pārājika
13 điều giới Saṃghādisesa
2 điều giới Aniyata
30 điều giới Nissaggiya pācittiya.
* Bộ Pācittiyapāḷi gồm có những điều giới:
92 điều giới Suddha pācittiya
4 điều giới Pāṭīdesanīya
75 điều giới Sekhiya.
7 điều Adhikaraṇasamatha
Những điều giới của Tỳ-khưu ni.
* Bộ Mahāvagga (Tạng Luật)
Bộ luật Mahāvagga này, Đức Phật thuyết giảng về chuyện chứng đắc thành
Đức Phật Chánh Đẳng Giác, chuyện thuyết pháp Chuyển Pháp Luân đầu tiên tế độ
nhóm 5 Tỳ-khưu, Đức Phật ban hành phép xuất gia thọ Sadi,
Tỳ-khưu v.v...
* Bộ Cūḷavagga
Bộ luật Cūḷavagga này, Đức Phật ban hành nhiều phép hành tăng sự đến chư
Tỳ-khưu. Trong bộ này, lần đầu tiên Đức Phật cho phép bà Mahāpajāpatigotamī
xuất gia trở thành Tỳ-khưu ni trong giáo pháp của Đức Phật, cùng với 500 cận sự
nữ dòng Sakya cùng xuất gia thọ Tỳ-khưu ni v.v...
* Bộ Parivāra
Bộ luật Parivāra này, Đức Phật ban hành nhiều điều liên quan đến giới và
nhiều vấn đề khác...
Đó là 5 bộ trong Tạng Luật mà Đức Phật là Bậc duy nhất chế định và ban hành đến
chư Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni; còn các hàng Thánh Thanh Văn đệ tử không thể chế định
ra điều giới và các phép hành tăng sự ...
Tạng Luật có 3 đặc tính đặc biệt:
- Đức Phật thuyết giảng bằng pháp lệnh (aṇādesanā).
- Đức Phật giáo huấn tùy theo lỗi (yathāparādhasāsana)
- Đức Phật răn dạy Tỳ-khưu giữ gìn thu thúc thân và khẩu (saṃvarāsaṃvarakāthā).
* Đức Phật thuyết giảng bằng pháp lệnh như thế nào?
Đức Phật đã chế định ra điều giới, các phép hành tăng sự, điều cho phép và không
cho phép, việc nên làm và không nên làm... đến chư
Tỳ-khưu, chư Tỳ-khưu ni. Chư
Tỳ-khưu, chư Tỳ-khưu ni phải nghiêm chỉnh hành theo những điều mà Đức Phật đã
chế định, không được thêm vào hoặc bớt ra. Nếu vị nào cố ý sai phạm, vị ấy phải
chịu tội nặng hay nhẹ, tùy theo mỗi điều giới, không ngoại trừ một ai.
Đức Phật là Bậc độc nhất chế định và ban hành Tạng Luật, còn các hàng Thánh
Thanh Văn đệ tử không có quyền chế định một điều nào cả.
* Đức Phật giáo huấn tùy theo lỗi như thế nào ?
Khi nào Tỳ-khưu hoặc Tỳ-khưu ni bị phạm lỗi lần đầu tiên, bị người đời hoặc chư
thiên chê trách, làm tổn thương đến uy tín của chư Tăng. Khi ấy, Đức Phật mới
chế định điều giới, ban hành đến chư Tỳ-khưu,
Tỳ-khưu ni, để đem lại 10 điều
lợi ích như sau:
1- Saṃghasuṭṭhutāya: Để đem lại sự tốt lành cho
Tỳ-khưu Tăng, Tỳ-khưu ni
Tăng.
2- Saṃghaphāsutāya: Để đem lại sự an lành cho
Tỳ-khưu Tăng, Tỳ-khưu ni
Tăng.
3- Dummaṅkūnaṃ puggalānaṃ niggahāya: Để khiển trách
Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni
phá giới, khó dạy không biết hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi.
4- Pesalānaṃ bhikkhūnaṃ phāsuviharāya: Để đem lại sự an lành đến những
Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni biết kính yêu giới.
5- Diṭṭhadhammikānaṃ āsavānaṃ saṃvarāya: Để ngăn ngừa những tai họa xảy
ra trong kiếp hiện tại.
6- Samparāyikānaṃ āsavānaṃ paṭighātāya: Để diệt trừ những tai họa 4 cõi
ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh) trong kiếp vị lai.
7- Appasannānaṃ pasādāya: Để làm cho phát sinh đức tin đến những người
chưa có đức tin nơi Tam Bảo.
8- Pasannānaṃ bhiyyo bhavāya: Để làm tăng trưởng thêm đức tin cho những
người đã có đức tin nơi Tam Bảo.
9- Saddhammaṭṭhitiyā: Để làm cho Chánh Pháp “pháp học, pháp hành, pháp
thành” được trường tồn lâu dài.
10- Vinayānuggahāya: Để giữ gìn hộ trì giới luật được nghiêm minh.
Đức Phật chế định giới điều, sau khi có Tỳ-khưu hoặc
Tỳ-khưu ni phạm lỗi đầu
tiên. Cho nên, những Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni nào phạm lỗi đầu tiên;
Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni ấy không phạm giới ấy. Đức Phật chế định điều giới nặng hoặc nhẹ, tùy
theo lỗi nặng hoặc nhẹ. Sau khi Đức Phật chế định giới điều nào rồi, ban hành
đến Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni; nếu Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni nào cố ý phạm giới ấy, thì
Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni ấy gọi là đã phạm giới ấy.
* Đức Phật răn dạy Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni giữ gìn thu thúc thân và khẩu như thế nào?
Đức Phật ban hành giới điều đến Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni, cốt để răn dạy
Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni biết giữ gìn thu thúc thân và khẩu, tránh xa mọi hành ác do thân và
khẩu. Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni giữ gìn điều giới được trong sạch, có thể diệt được
phiền não loại thô (vitikkamakilesa), để làm nền tảng cho pháp hành
thiền định, pháp hành thiền tuệ được phát triển.
Đó là những đặc tính đặc biệt của Tạng Luật.
Tỳ-khưu giới
Đức Phật chế định, ban hành điều giới của Tỳ-khưu trong Bhikkhupātimokkhasīla
có 227 điều giới như sau:
1) Điều giới Pārājika có 4 điều giới bất cộng trụ.
2) Điều giới Saṃghādisesa có 13 điều giới.
3) Điều giới Aniyata có 2 điều giới bất định.
4) Điều giới Nissaggiya pācittiya có 30 điều giới ưng xả đối trị, trước
phải xả bỏ vật bị phạm giới, sau mới xin sám hối (pācittiya āpatti).
5) Điều giới Suddha pācittiya có 92 điều giới ưng đối trị.
6) Điều giới Pāṭidesamāya có 4 điều giới sám hối riêng rẽ.
7) Điều giới Sekhiya có 75 điều học tập.
8) Điều Adhikaraṇasamatha có 7 pháp giảng hòa.
Trong giới bổn bhikkhupātimokkhasīla gồm có 227 điều giới, nếu tính theo
Tạng Luật, thì điều giới của Tỳ-khưu tổng cộng 91.805.036.000 điều giới. Như
trong bộ Visuddhimagga dạy:
“Navakoṭisahassāni,
Asitisatakoṭiyo.
Paññāsasatasahassāni,
Chattiṃsa ca punāpare.
Ete saṃvaravinayā,
Sambuddhena pakāsitā
Peyyālamukhena niddiṭṭhā,
Sikkhā vinayasaṃvare.”
Đức Phật đã chế định những điều giới trong Tạng Luật bằng cách hiểu rộng gồm có
91.805.036.000 điều giới, để giữ gìn thu thúc thân và khẩu tránh xa mọi hành
ác.
Tỳ-khưu ni giới
Đức Phật chế định ban hành điều giới của Tỳ-khưu ni Bhikkhunipātimokkhasīla
gồm có 311 điều giới như sau:
1) Điều giới Pārājika có 8 điều giới.
2) Điều giới Saṃghādisesa có 17 điều giới.
3) Điều giới Nissaggiya pācittiya có 30 điều giới.
4) Điều giới Suddha pācittiya có 166 điều giới.
5) Điều giới Pāṭidesamāya có 8 điều giới.
6) Điều giới Sekhiya có 75 điều giới.
7) Điều Adhikaraṇasamatha có 7 pháp.
Tên điều giới
|
Tỳ-khưu giới
|
Điều giới Pārājika
|
4 điều giới
|
Điều giới Saṃghādisesa
|
13 điều giới
|
Điều giới Aniyata
|
2 điều giới
|
Điều giới Nissaggiya pācittiya
|
30 điều giới
|
Điều giới Suddha pācittiya
|
92 điều giới
|
Điều giới Pāṭidesamāya.
|
4 điều giới
|
Điều giới Sekhiya
|
75 điều giới
|
Điều giới Adhikaraṇasamatha
|
7 điều giới
|
|
----------------------
|
|
227 điều giới
|
Tên điều giới
|
Tỳ-khưu ni giới
|
Điều giới Pārājika
|
8 điều giới
|
Điều giới Saṃghādisesa
|
17 điều giới
|
Điều giới Nissaggiya pācittiya
|
30 điều giới
|
Điều giới Suddha pācittiya
|
166 điều giới
|
Điều giới Pāṭidesamāya
|
8 điều giới
|
Điều giới Sekhiya
|
75 điều giới
|
Điều giới Adhikaraṇasamatha
|
7 điều giới
|
|
----------------------
|
|
311 điều giới
|
Phạm giới āpatti
Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni phạm giới āpatti có 7 loại
1) Pārājika āpatti: Phạm giới bất cộng trụ, mất phạm hạnh
Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni.
2) Saṃghādisesa āpatti: Phạm giới rồi phải xin chư Tăng hình phạt.
3) Thullaccaya āpatti: Phạm giới nặng kém thua hai giới trên.
4) Pācittiya āpatti: Phạm giới ưng đối trị.
5) Pāṭidesanīya āpatti: Phạm giới xin sám hối riêng rẽ.
6) Dukkaṭa āpatti: Phạm giới tác ác.
7) Dubbhāsita āpatti: Phạm giới ác khẩu.
Phạm giới āpatti có 7 loại chia làm 2 loại chính
1- Phạm giới āpatti nặng có 2 loại
Pārājika āpatti: Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni nào phạm một trong những điều giới
này; Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni ấy bị mất phạm hạnh
Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni, họ phải hoàn
tục trở lại người tại gia (hoặc xuống trở thành Sadi).
Saṃghādisesa āpatti: Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni nào phạm một trong những điều
giới này; Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni ấy tuy còn phạm hạnh
Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni, nhưng
vị ấy phải biết xin chịu hành phạt theo luật của Đức Phật ban hành, hành Parivāsakamma,
hành Mānattakamma và hành Abbhānakamma, để cho giới của mình được
trở lại trong sạch.
2- Phạm giới āpatti nhẹ có 5 loại
Thullaccaya āpatti, Pācittiya āpatti, Pāṭidesanīya āpatti, Dukkaṭa āpatti,
Dubbhāsita āpatti. Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni nào phạm một trong 5 loại này,
Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni ấy có thể xin sám hối với một vị
Tỳ-khưu khác, để cho giới
của mình được trở lại trong sạch.
Quả báu của sự giữ gìn giới
Trong Tạng Luật bộ Parivāra, Đức Phật thuyết dạy quả báu của sự giữ gìn
giới trong sạch đem lại sự lợi ích theo nhân quả tuần tự như sau:
1) Giữ gìn giới trong sạch đem lại sự lợi ích là có thu thúc lục căn thanh tịnh.
2) Có thu thúc, đem lại sự lợi ích là tâm không nóng nảy, tâm mát mẻ.
3) Tâm không nóng nảy, đem lại sự lợi ích là có tâm thỏa thích an vui.
4) Tâm thỏa thích an vui, đem lại sự lợi ích là có tâm hoan hỷ.
5) Tâm hoan hỷ, đem lại sự lợi ích là tâm vắng lặng thanh tịnh.
6) Tâm vắng lặng thanh tịnh, đem lại sự lợi ích là tâm an lạc.
7) Tâm an lạc, đem lại sự lợi ích cho thiền định.
8) Tâm thiền định, đem lại sự lợi ích có tri kiến thấy đúng theo thực tánh của
các pháp.
9) Tri kiến thấy đúng theo thực tánh của các pháp, đem lại sự lợi ích cho tri
kiến thiền tuệ, nhàm chán ngũ uẩn.
10) Tri kiến thiền tuệ nhàm chán ngũ uẩn, đem lại sự lợi ích diệt đoạn tuyệt được
tham ái bằng Thánh Đạo Tuệ.
11) Diệt đoạn tuyệt được tham ái, đem lại sự lợi ích, giải thoát khổ bằng Thánh
Quả Tuệ.
12) Giải thoát khổ bằng Thánh Quả Tuệ rồi, đem lại sự lợi ích cho trí tuệ quán
xét biết rõ rằng giải thoát khổ rồi.
13) Trí tuệ quán xét biết rõ giải thoát khổ rồi, đem lại sự lợi ích chứng ngộ
Niết Bàn, giải thoát khổ không còn chấp thủ.
Hành giả giữ gìn giới được trong sạch và đầy đủ, làm nền tảng đem lại nhiều sự
lợi ích cho mọi thiện pháp, cho pháp hành thiền định, pháp hành thiền tuệ, cho
đến lợi ích cao thượng là chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn, giải
thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam giới.
Quả báu của việc học Tạng Luật
Trong Tạng Luật bộ Pavivāra, Ngài Đại đức Upāli bạch hỏi Đức Thế
Tôn về quả báu của việc học Tạng Luật.
Đức Phật dạy rằng:
Này Upāli, Tỳ-khưu học Tạng Luật có được 5 quả báu là:
1) Chính mình biết giữ gìn giới luật được trong sạch.
2) Mình là nơi nương nhờ của những người khác, họ đến học hỏi để hiểu rõ giới
luật.
3) Là người có thiện tâm dũng cảm trong các hội chúng.
4) Là người thắng kẻ thù bên trong là phiền não và kẻ thù bên ngoài bằng Chánh
Pháp.
5) Là người hành theo Chánh Pháp, để duy trì Chánh Pháp được trường tồn.
Đó là 5 quả báu của việc học rành rẽ Tạng Luật.
b) Tạng Kinh (Suttantapiṭaka)
Tạng Kinh là tạng gồm có nhiều bài kinh, bài kệ do Đức Phật thuyết
giảng, cũng có một số bài kinh, bài kệ do chư Thánh Arahán, chư thiên, chư phạm
thiên, Đức vua, Samôn, Bàlamôn. Những bài kinh, bài kệ ấy được Đức Phật nhắc
lại hoặc xác nhận thì xem như lời thiện ngôn.
Tạng Kinh gồm có 5 bộ lớn
Trường Bộ Kinh: Gồm có những bài kinh dài.
Trung Bộ Kinh: Gồm có những bài kinh trung bình.
Đồng Loại Bộ Kinh: Gồm những bài kinh có điểm đồng nhau ghép thành nhóm.
Chi Bộ Kinh: Gồm những bài kinh có chi pháp rõ ràng.
Tiểu Bộ Kinh: Gồm những bài kinh, bài kệ không có trong 4 bộ trên, được
gom vào Tiểu Bộ Kinh này.
Tạng Kinh có 3 đặc tính đặc biệt
- Đức Phật thuyết pháp dùng ngôn ngữ thích hợp (vohāradesanā).
- Đức Phật giáo huấn tùy theo căn duyên chúng sinh (yathālomasāsana).
- Đức Phật thuyết dạy chúng sinh diệt được tà kiến (diṭṭhiviniveṭhanakathā).
* Đức Phật thuyết pháp dùng ngôn ngữ thích hợp như thế nào?
Đức Phật thuyết pháp bằng cách dùng ngôn ngữ thích hợp đối với mỗi chúng sinh.
Cho nên, Đức Phật thuyết pháp tế độ chúng sinh gồm có nhiều hạng khác nhau như
Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni, cận sự nam, cận sự nữ, Vua chúa, Bàlamôn, dân chúng, cho
đến chư thiên, chư phạm thiên v.v... Mỗi khi chúng sinh lắng nghe Đức Phật
thuyết pháp, họ đều hiểu rõ ràng các chánh pháp bởi do ngôn ngữ thích hợp theo
trình độ riêng của mỗi chúng sinh. Do đó, có số chứng đắc thành bậc Thánh Nhập
Lưu, có số chứng đắc thành bậc Thánh Nhất Lai, có số chứng đắc thành bậc Thánh
Bất Lai, có số chứng đắc thành bậc Thánh Arahán tùy theo khả năng pháp hạnh
ba-la-mật của mỗi chúng sinh đã tạo. Cũng có số tạo duyên lành, bồi bổ pháp
hạnh ba-la-mật để chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả trong thời vị lai kiếp này,
hoặc kiếp sau.
* Đức Phật giáo huấn tùy theo căn duyên chúng sinh như thế nào?
Đức Phật có hai trí tuệ đặc biệt là:
- Indriyaparopariyattañāṇa: Trí tuệ biết rõ 5 pháp chủ già dặn hoặc non
nớt của mỗi chúng sinh.
- Āsayānusayañāṇa: Trí tuệ biết rõ phiền não ngấm ngầm của mỗi chúng
sinh.
Do đó, Đức Phật biết rõ được chúng sinh có duyên lành chứng đắc Thánh Đạo -
Thánh Quả và Niết Bàn, hoặc không chứng đắc. Cho nên, Đức Phật thuyết pháp tế
độ phù hợp với căn cơ, duyên lành của chúng sinh ấy. Khi chúng sinh ấy lắng
nghe chánh pháp của Đức Phật dễ dàng chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết
Bàn, diệt đoạn tuyệt được phiền não, tham ái. Ví như một vị thầy thuốc có tài
đức, chẩn bệnh chính xác, biết rõ căn bệnh của bệnh nhân, liền cho thuốc tốt,
nên bệnh nhân mau lành bệnh.
* Đức Phật thuyết dạy chúng sinh diệt tà kiến như thế nào?
Đức Phật biết rõ mỗi chúng sinh có tà kiến khác nhau (có 62 loại tà kiến),
Đức Phật thuyết dạy chúng sinh ấy phát sinh chánh kiến, nên diệt được tà kiến
theo chấp ngã, các loại tà kiến khác cũng bị diệt cùng một lúc, chứng đắc Thánh
Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn một cách dễ dàng.
Đó là 3 đặc tính đặc biệt của Tạng Kinh.
c) Tạng Vi Diệu Pháp (Abhidhamma)
TạngVi Diệu Pháp gồm những Chân nghĩa pháp (Paramatthadhamma)
cao siêu vi diệu, là những pháp có thực tánh như: Pháp thiện, pháp bất thiện,
pháp không phải thiện, không phải bất thiện... Những pháp ấy là ngũ uẩn, 12 xứ,
18 giới... không phải ta, không phải người, không phải đàn ông, đàn bà, chúng
sinh....
Tạng Vi Diệu Pháp được Đức Phật thuyết tại cung trời Tam Thập Tam Thiên vào mùa
hạ thứ 7 của Đức Phật, để tế độ Phật mẫu, nay kiếp hiện tại là thiên nam Santussita
ở cõi trời Đẩu Suất Đà Thiên. Vị thiên nam Santussita hiện xuống cõi
trời Tam Thập Tam Thiên lắng nghe Đức Phật thuyết Tạng Vi Diệu Pháp này suốt 3
tháng hạ. Vị thiên nam Santussita chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu
cùng với 80 tỷ chư thiên, chư phạm thiên cũng chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả
cao thấp tùy theo năng lực ba-la-mật của mỗi vị.
Tạng Vi Diệu Pháp gồm có 7 bộ:
1- Bộ Dhammassaṅganīpāḷi: Bộ Pháp Tụ Hội gồm tất cả các chân nghĩa
pháp thành nhóm Mātikā pháp đầu đề, có tất cả 132 mātikā chia làm
hai loại:
Tika mātikā: Pháp đầu đề có ba chi pháp gồm có 32 mātikā.
Duka mātikā: Pháp đầu đề có hai chi pháp gồm có 100 mātikā...
2- Bộ Vibhaṅgapāḷi: Bộ Pháp Phân Tích gồm các pháp phân tích thành
18 loại, uẩn (khandha), xứ (āyatana), giới (dhātu) v.v...
3- Bộ Dhātukathāpāḷi: Bộ Phân Loai gồm các pháp phân loại thành
ngũ uẩn, 12 xứ, 18 giới, Tứ Đế (sacca).
4- Bộ Pugalapaññattipāḷi: Bộ Nhân Chế Định phân biệt các hạng
người khác nhau.
5- Bộ Kathāvatthupāḷi: Bộ Luận Đề đặt vấn đề phá tan mọi tà
thuyết, trở lại Chánh Pháp.
6- Bộ Yamakapāḷi: Bộ Song Đối gồm các câu hỏi, câu trả lời
đi đôi với nhau từng cặp.
7- Bộ Paṭṭhānapāḷi: Bộ Duyên Hệ giải về 24 duyên có quan hệ
với nhau. Bộ Duyên Hệ này là bộ lớn và rộng nhất, sâu sắc và vi diệu nhất trong
Phật giáo.
Tạng Vi Diệu Pháp có 3 đặc tính đặc biệt
- Đức Phật thuyết giảng về Chân nghĩa pháp (Paramatthadesanā).
- Đức Phật thuyết pháp giáo huấn chúng sinh tùy theo căn duyên để phá chấp ngã
(yathādhammasāsana).
- Đức Phật thuyết giảng phân tích danh pháp, sắc pháp (nāmarāpaparicchedakathā).
* Đức Phật thuyết giảng về chân nghĩa pháp như thế nào?
Đức Phật tự mình chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh
Quả và Niết Bàn trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, độc nhất vô nhị thông suốt
tất cả các chân nghĩa pháp (paramatthadhamma) đó là tâm (citta),
tâm sở (cetasika), sắc pháp (rūpa) và Niết Bàn
(Nibbāna). Đức Phật Chánh Đẳng Giác đặc biệt có đầy đủ 5 pháp Ñeyyadhamma,
nên Ngài có khả năng chế định ra ngôn ngữ chân nghĩa pháp, để thuyết dạy Tạng
Vi Diệu Pháp này. Ngoài ra, không có một vị nào có khả năng thuyết giảng chân
nghĩa pháp này, bởi vì họ không phải là Đức Phật Chánh Đẳng Giác.
* Đức Phật thuyết pháp giáo huấn chúng sinh tùy theo căn duyên để phá chấp ngã
như thế nào?
Đức Phật biết rõ tà kiến theo chấp ngã của chúng sinh khác nhau.
- Số chúng sinh có tà kiến theo chấp danh pháp cho là ta (ngã) nặng hơn là chấp
sắc pháp cho là ta (ngã). Để tế độ nhóm chúng sinh ấy, Đức Phật thuyết
pháp ngũ uẩn (khandha) là vô ngã. Bởi vì, trong ngũ uẩn có 4
danh uẩn: thọ, tưởng, hành, thức thuộc về danh pháp là vô ngã,
còn một sắc uẩn thuộc về sắc pháp cũng là vô ngã.
- Số chúng sinh có tà kiến theo chấp sắc pháp cho là ta (ngã) nặng hơn là
chấp danh pháp cho là ta (ngã). Để tế độ nhóm chúng sinh này, Đức Phật
thuyết pháp 12 xứ (āyatana) là vô ngã. Bởi vì, trong 12
xứ, có 10 xứ: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và sắc, thanh, hương, vị, xúc
thuộc về sắc pháp là vô ngã. Còn lại ý xứ thuộc về danh pháp và
một phần pháp xứ thuộc về danh pháp và sắc pháp là vô ngã.
- Số chúng sinh có tà kiến theo chấp danh pháp và sắc pháp tương đương cho là ta
(ngã). Để tế độ nhóm chúng sinh ấy, Đức Phật thuyết pháp 18 giới (dhātu)
là vô ngã. Bởi vì, trong 18 giới, có 10 giới: nhãn, nhĩ, tỷ,
thiệt, thân, và sắc, thanh, hương, vị, xúc thuộc về sắc pháp là vô ngã.
Còn lại 7 giới khác: nhãn thức giới, nhĩ thức giới, tỷ thức giới, thiệt thức
giới, thân thức giới, ý giới, ý thức giới thuộc về danh pháp là vô
ngã, riêng pháp xứ thuộc danh pháp và sắc pháp là vô ngã v.v...
Đức Phật thuyết pháp giáo huấn chúng sinh thấy rõ, biết rõ tất cả các pháp là
vô ngã, không phải ta, không phải đàn ông, không phải đàn bà, không phải chúng
sinh ..., để phá chấp ngã.
* Đức Phật thuyết giảng phân tích danh pháp, sắc pháp như thế nào?
Đức Phật thuyết giảng phân tích cho chúng sinh thấy rõ, biết rõ danh pháp, sắc
pháp, mỗi danh pháp, mỗi sắc pháp có thực tánh pháp, có trạng thái riêng, có 3
trạng thái chung: trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã,
để diệt tâm tà kiến thấy sai chấp lầm từ danh pháp, từ sắc pháp cho là
tự ngã của ta; diệt tâm tham ái nơi danh pháp, sắc pháp cho là của ta,
diệt tâm ngã mạn xem ta hơn người, bằng người, kém thua người...
Đó là đặc tính đặc biệt của Tạng Vi Diệu Pháp.
Quả báu của sự học Tam Tạng
- Người theo học và hành nghiêm chỉnh đúng đắn theo Tạng Luật, giữ
gìn giới đức trong sạch và đầy đủ, do nhờ giới trong sạch làm nền tảng, nương
nhờ giới tiến hành thiền định, tiến hành thiền tuệ, dẫn đến sự chứng đắc thành bậc
Thánh Arahán cùng với Tam Minh, do năng lực quả báu của sự học
Tạng Luật.
- Người học thông thuộc Tạng Kinh có giới thanh tịnh làm nền tảng,
để tiến hành thiền định dẫn đến chứng đắc bát thiền, dùng bậc thiền làm nền
tảng, nương nhờ bậc thiền làm đối tượng, tiến hành thiền tuệ, dẫn đến sự chứng
đắc thành bậc Thánh Arahán cùng với Lục Thông, do năng lực quả
báu của sự học Tạng Kinh.
- Người học thông thuộc Tạng Vi Diệu Pháp có giới định làm nền
tảng, tiến hành thiền tuệ dẫn đến sự chứng đắc thành bậc Thánh Arahán cùng với Tứ
Tuệ Phân Tích, do năng lực của sự học Tạng Vi Diệu Pháp.
NGŨ BỘ (PAÑCANIKĀYA)
Toàn giáo pháp của Đức Phật nếu phân chia theo bộ (nikāya), thì có 5 bộ
gồm có 40 quyển căn cứ theo kỳ kết tập Tam Tạng lần thứ 6 tại động Kaba Aye,
Yangon xứ
Myanmar
.
Trường Bộ Kinh (Dīghanikāyapāḷi)
Trung Bộ Kinh (Majjhimanikāyapāḷi)
Đồng Loại Bộ Kinh (Samyuttanikāyapāḷi)
Chi Bộ Kinh (Aṅguttaranikāyapāḷi)
Tiểu Bộ Kinh (Khuddakanikāyapāḷi)
1- Trường Bộ Kinh là gì?
Trường Bộ Kinh gồm có 34 bài kinh dài chia làm 3 quyển:
Sīlakkhandhavaggapāḷi gồm có 13 bài kinh dài.
Mahāvaggapāḷi gồm có 10 bài kinh dài.
Pāthikavaggapāḷi gồm có 11 bài kinh dài.
2- Trung Bộ Kinh là gì?
Trung Bộ Kinh gồm có 152 bài kinh trung bình chia làm 3 quyển:
Mūlapaṇṇāsapāḷi: Có 5 chương, mỗi chương có 10 bài kinh trung
bình. Gồm có 50 bài kinh trung bình.
Majjhimapaṇṇāsapāḷi: Có 5 chương, mỗi chương có 10 bài kinh trung bình.
Gồm có 50 bài kinh trung bình.
Uparipaṇṇāsapāḷi: Có 5 chương, chương 1, 2, 3 và 5 mỗi chương có 10 bài
kinh trung bình; còn chương 4 có 12 bài kinh trung bình. Gồm có 52 bài kinh
trung bình.
3- Đồng Loại Bộ Kinh là gì?
Đồng Loại Bộ Kinh có 7.762 bài kinh dài, ngắn khác nhau. Đặc biệt bộ này những
bài kinh có điểm đồng loại nhau, được ghép chung lại với nhau thành một chương
riêng biệt.
Ví dụ: Những bài kinh liên quan đến chư thiên ghép chung lại với nhau thành nhóm
gọi là devatasamyutta; những bài kinh liên quan đến Đức vua xứ Kosala
ghép chung lại thành chương gọi là Kosalasamyutta v.v...
Bộ Đồng Loại Bộ Kinh này có 5 quyển:
Sagāthavaggasamyuttapāḷi gồm có 11 chương.
Nidānavaggasamyuttapāḷi gồm có 10 chương.
Khandhavaggasamyuttapāḷi gồm có 13 chương.
Sāḷāyatanasamyuttapāḷi gồm có 10 chương.
Mahāvaggasamyuttapāḷi gồm có 12 chương.
Như vậy, tổng cộng tất cả 56 chương gồm có 7.762 bài kinh.
4- Chi Bộ Kinh là gì?
Chi Bộ Kinh gồm có những bài kinh có chi pháp. Những bài kinh có một chi pháp,
những bài kinh có hai chi pháp v.v... Cho đến những bài kinh có 11 chi pháp.
Những bài kinh có một chi pháp gọi là: ekakanipāta.
Những bài kinh có hai chi pháp gọi là: “dukanipāta v.v...”
Những bài kinh có mười một chi pháp gọi là: “ekadassakanipāta.”
Chi Bộ Kinh này có 3 quyển có 11 nipāta, gồm tất cả có 9.557 bài kinh
ngắn dài khác nhau.
5- Tiểu Bộ Kinh là gì?
Tiểu Bộ Kinh, danh từ tiểu (khuddaka) không có nghĩa là nhỏ, mà
tất cả những bài kinh nào, quyển nào không có trong bốn bộ kinh trên; những bài
kinh ấy, những quyển ấy được gom vào trong Tiểu Bộ Kinh này. Cho nên, Tạng Luật
và Tạng Vi Diệu Pháp thuộc về Tiểu Bộ Kinh này.
Như vậy, Tiểu Bộ Kinh gồm có:
Vinayapiṭakapāḷi (Tạng Luật).
Abhidhammapiṭakapāḷi (Tạng Vi Diệu Pháp).
Khuddakapāṭhapāḷi
Dhammapadagāthāpāḷi
Udānapāḷi
Itivuttakapāḷi
Suttanipātapāḷi
Vimānavatthupāḷi
Petavatthupāḷi
Theragāthāpāḷi
Therīgāthāpāḷi
Jātakapāḷi
Niddesapāḷi (Mahāniddesa-Cūlaniddesa)
Paṭisambhidāmaggapāḷi.
Apādānapāḷi
Buddhavaṃsapāḷi
Cariyāpiṭakapāḷi
Nettipāḷi
Petakopādesapāḷi
Milindapañhāpāḷi
Tiểu Bộ Kinh gồm có 2 tạng (Tạng Luật và Tạng Vi Diệu Pháp) và 18 quyển (bộ
nhỏ). Bộ này rất rộng lớn.
CỬU CHI (NAVAṄGA)
Toàn giáo pháp của Đức Phật, nếu phân chia theo chi (aṅga), thì có 9 chi
như sau:
1- Sutta (kinh): Gồm những bài kinh văn xuôi lẫn kệ, như kinh Maṅgalasutta,
Ratanasutta... và Tạng Luật cũng được ghép vào chi sutta này.
2- Geyya (kệ): Gồm những bài kinh hoàn toàn bằng những câu
kệ (không có đoạn văn xuôi) như những bài kệ trong phần Sagāthavaggasamyutta...
3- Veyyākaraṇa (kinh): Gồm những bài kinh hoàn toàn văn xuôi (không
có kệ xen vào) như Dhammacakkappavattanasutta, Mahāsatipaṭṭhānasutta...
và Tạng Vi Diệu Pháp cũng được ghép vào trong chi Veyyākaraṇa này.
4- Gāthā (kệ): Gồm những bài kệ không có tên bài kinh như Dhammapadagāthā,
Theragāthā, Therīgāthā...
5- Udāna (bài tự thuyết): Gồm có 82 bài tự thuyết của Đức Phật do
tâm hoan hỷ phát sinh.
6- Itivuttaka: Gồm có 110 bài kinh, thường bắt đầu có câu: Vuttam hetaṃ
bhagavatā... Điều này đúng như lời Đức Thế Tôn dạy...
7- Jātaka (tiền kiếp): Những câu kệ liên quan đến 547 tích
tiền kiếp của Đức Phật, bắt đầu tích Apannakajātaka và cuối cùng tích Vessantarajātaka.
8- Abbhūtadhamma: Gồm những bài kinh có pháp phi thường chưa từng có từ
trước (acchariyabhūtadhamma), thường khởi đầu bằng câu: Này chư
Tỳ-khưu,
những pháp phi thường chưa từng có từ trước... như bài kinh Pahāradasutta...
9- Vedalla: Gồm những bài kinh vấn đáp bằng trí tuệ hợp với hỷ như Cūlavedallasutta,
Mahāvedallasutta, Sakkapānhāsutta...
84.000 PHÁP MÔN (DHAMMAKKHANDHA)
Toàn giáo pháp của Đức Phật, nếu phân chia thành pháp môn (Dhammakkhandha)
thì có 84.000 pháp môn, trong bộ Tam Tạng như sau:
Tạng Luật gồm có 21.000 pháp môn.
Tạng Kinh gồm có 21.000 pháp môn.
Tạng Vi Diệu Phápgồm có 42. 000 pháp môn.
Phương pháp đếm pháp môn trong Tam Tạng
- Trong Tạng Luật: Mỗi chuyện làm nguyên nhân đầu tiên để
Đức Phật chế định điều giới, ban hành giới đến chư
Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni là một
pháp môn. Mỗi nguồn gốc phát sinh, mỗi cách phạm giới, mỗi cách không phạm giới
v.v... mỗi điều là một pháp môn v.v...
Như vậy, trong Tạng Luật gồm có 21.000 pháp môn.
- Trong Tạng Kinh: Mỗi bài kinh có ý nghĩa pháp liên tục là
một pháp môn. Trong bài kinh có nhiều đoạn, mỗi đoạn có ý nghĩa pháp riêng rẽ
là một pháp môn, mỗi câu hỏi, mỗi câu trả lời là một pháp môn v.v...
Như vậy, trong Tạng Kinh có 21.000 pháp môn.
- Trong Tạng Vi Diệu Pháp: Pháp phân chia mỗi tika,
mỗi duka là một pháp môn, phân loại tâm và tâm sở đồng sinh là một pháp
môn v.v...
Như vậy, trong Tạng Vi Diệu Pháp gồm có 42.000 pháp môn.
Trong 84.000 pháp môn này, Đức Phật trực tiếp thuyết dạy có 82.000 pháp môn, còn
2.000 pháp môn do chư bậc Thánh Arahán thuyết dạy.
Như Ngài Đại đức Ānanda, bậc Thủ kho Tàng Pháp Bảo dạy rằng:
“Dvāsiti Buddhato gaṇhiṃ
Dve sahassāni bhikkhuto
Caturāsitisahassāni
Ye me dhammā pavattino” .
Tôi là Ānanda
Đã học từ Kim ngôn Đức Phật
Được tám mươi hai ngàn pháp môn,
Học từ chư Thánh A-ra-hán
Góp nhặt được hai ngàn pháp môn,
Tôi là Thủ kho Tàng pháp Bảo
Trọn tám mươi bốn ngàn pháp môn.
DUY TRÌ PHÁP HỌC PHẬT GIÁO
Pháp học Phật giáo là nguồn cội, là căn bản của Phật giáo. Khi pháp học
còn tồn tại, thì pháp hành mới mong phát triển. Khi pháp hành
phát triển tốt, thì pháp thành mới có thể phát
sinh. Nếu pháp học bị tiêu hoại, thì pháp hành và pháp thành chắc chắn sẽ không
còn nữa. Như vậy, các hàng Phật tử tại gia và bậc xuất gia cần phải có bổn phận
theo học pháp học Phật giáo bằng tiếng Pāḷi, lời giáo huấn chính thức
của Đức Phật tùy theo khả năng của mình, để giữ gìn duy trì Phật giáo được
trường tồn trên thế gian tròn đủ 5.000 năm. Để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa,
sự an lạc cho tất cả chúng sinh nhất là chư thiên và nhân loại.
KẾT TẬP TAM TẠNG PĀḶI
Để giữ gìn duy trì pháp học Phật giáo cho được đầy đủ, không để rời rạc, không
cho thất lạc; cho nên, chư Đại Trưởng Lão kết tập Tam Tạng và Chú giải bằng
tiếng Pāḷi.
KẾT TẬP TAM TẠNG PĀḶI LẦN THỨ NHẤT
Ngài Đại Trưởng Lão Mahākassapa tổ chức kỳ kết tập Tam Tạng và Chú
giải Pāḷi lần thứ nhất, sau khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn được 3 tháng
4 ngày (nhằm vào ngày mùng 4 tháng 7 âm lịch, trong mùa an cư nhập hạ)
tại động Sattapaṇṇi gần thành Rājagaha xứ Māgaddha.
Kỳ kết tập Tam Tạng và Chú giải này gồm có 500 vị Thánh Arahán có đầy đủ trí tuệ
phân tích, lục thông... đặc biệt thông thuộc Tam Tạng và Chú giải Pāḷi,
Ngài Đại Trưởng Lão Mahākassapa chủ trì Đại hội, chất vấn Ngài Đại
đức Upāli về Tạng Luật và chất vấn Ngài Đại đức Ānanda về Tạng
Kinh và Tạng Vi Diệu Pháp. Kỳ kết tập Tam Tạng và Chú giải được thực hiện suốt
7 tháng mới hoàn thành xong trọn bộ Tam Tạng và Chú giải.
Kỳ kết tập Tam Tạng và Chú giải Pāḷi lần này bằng cách truyền khẩu
(mukhapāṭha) chưa ghi chép bằng chữ viết.
Đức vua Ajātasattu xứ Māgaddha là người hộ độ chư Thánh Arahán
trong kỳ kết tập Tam Tạng và Chú giải Pāḷi này.
Phân chia phận sự duy trì Tam Tạng, Ngũ Bộ
Sau khi kết tập Tam Tạng và Chú giải xong, chư Thánh Arahán phân công mỗi vị có
bổn phận giữ gìn duy trì Tam Tạng và Chú giải như sau:
Về Tạng Luật (Vinayapiṭakapāḷi) thuộc về phận sự của Ngài
Đại đức Upāli. Ngài có trách nhiệm dạy Tạng Luật và Chú giải đến nhóm đệ
tử, giữ gìn duy trì Tạng Luật này.
Khi Đức Phật còn tại thế, Đức Phật đã từng tuyên dương Ngài Đại đức Upāli
là bậc Thánh Thanh Văn xuất sắc nhất về trì luật trong các hàng Thanh Văn đệ
tử.
Về Trường Bộ Kinh (Dīghanikāyapāḷi) thuộc về phận sự của
Ngài Đại đức Ānanda. Ngài có trách nhiệm dạy Trường Bộ Kinh đến nhóm đệ
tử, giữ gìn duy trì Trường Bộ Kinh này.
Về Trung Bộ Kinh (Majjhimanikāyapāḷi) thuộc về phận
sự của nhóm đệ tử của Ngài Đại đức Sāriputta, các vị này có trách nhiệm
dạy Trung Bộ Kinh đến nhóm đệ tử, giữ gìn duy trì Trung Bộ Kinh này.
Về Đồng Loại Bộ Kinh (Samyuttanikāyapāḷi) thuộc về phận sự
của Ngài Đại Trưởng Lão Mahākassapa. Ngài có trách nhiệm dạy Đồng Loại
Bộ Kinh đến nhóm đệ tử, giữ gìn duy trì Đồng Loại Bộ Kinh này.
Về Tiểu Bộ Kinh (Khuddakanikāyapāḷi), thuộc về phận sự
chung của 500 chư Thánh Arahán. Quý Ngài có trách nhiệm dạy Tiểu Bộ Kinh đến
các nhóm đệ tử, giữ gìn duy trì Tiểu Bộ Kinh này.
Về Tạng Vi Diệu Pháp (Abhidhammapiṭakapāḷi), gồm có 7 bộ
lớn thuộc phận sự chung của 500 chư Thánh Arahán. Quý Ngài có trách nhiệm dạy
Tạng Vi Diệu Pháp đến các nhóm đệ tử, giữ gìn duy trì Tạng Vi Diệu Pháp này.
KẾT TẬP TAM TẠNG PĀḶI LẦN THỨ NHÌ
Giáo pháp của Đức Phật được giữ gìn duy trì đúng
theo Chánh Pháp trải qua được 100 năm, thì có nhóm
Tỳ-khưu Vajjīputta xứ Vesāli đặt ra 10 điều
không hợp với pháp luật của Đức Phật là:
1- Kappati siṅgiloṇakappo: Tỳ-khưu cất giữ muối trong ống bằng sừng với
tác ý rằng: để làm đồ gia vị thức ăn ngày hôm sau, cũng được.
2- Kappati dvaṅgulakappo:
Tỳ-khưu thọ thực quá ngọ, mặt trời ngả
qua hai lóng tay, cũng được.
3- Kappati gāmantarakappo:
Tỳ-khưu đã ngăn cản vật thực rồi tự nghĩ
rằng: bây giờ ta đi vào xóm để dùng vật thực nữa, mà không cần làm đúng theo
Luật, cũng được.
4- Kappati āvasakappa: Trong cùng Mahāsīmā, có nhiều nhóm riêng rẽ hành
uposathakamma, cũng được.
5- Kappati anumatikappa:
Chư Tăng trong nhóm hành tăng sự nghĩ rằng: Sẽ cho
phép Tỳ-khưu đến sau, cũng được.
6- Kappati ācinnakappa: Tỳ-khưu hành theo pháp mà Thầy Tổ của mình thường
thực hành, cũng được.
7- Kappati amathitakappa: Tỳ-khưu đã ngăn cản vật thực rồi, dùng sữa tươi
đã biến chất, chưa biến thành sữa chua, cũng được.
8- Kappati jaḷogiṃ pātuṃ:
Tỳ-khưu uống rượu nhẹ chưa thành chất
say, cũng được.
9- Kappati adasakaṃ nisīdanaṃ:
Tỳ-khưu dùng tọa cụ không có đường
lai, cũng được.
10- Kappati jātarūparajataṃ:
Tỳ-khưu thọ nhận vàng bạc, cũng được.
Đó là 10 điều do nhóm Tỳ-khưu Vajjīputta đề xướng không đúng theo Chánh
Pháp của Đức Phật.
Đại Trưởng Lão Yassa Kākaṇḍakaputta (Mahā yassa),
nghe tin nhóm Tỳ-khưu Vajji xứ Vesāli đặt ra 10 điều như vậy, Ngài liền
đến tận nơi hội họp chư Tỳ-khưu Tăng giải thích để cho họ hiểu rõ, đó là 10
điều sai trái, không hợp với luật pháp của Đức Phật.
Đây cũng là nguyên nhân khiến Đại Trưởng Lão Yassa Kākaṇḍakaputta triệu
tập kỳ kết tập Tam Tạng lần thứ nhì tại ngôi chùa Vālikārama,
gần thành Vesāli khoảng 100 năm sau khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn.
Kỳ kết tập Tam Tạng lần thứ nhì này gồm có 700 bậc Thánh Arahán có đầy đủ Tứ Tuệ
Phân Tích, Lục thông, thông thuộc Tam Tạng, Chú giải... do Ngài Đại Trưởng Lão Yassa
Kākaṇḍakaputta làm chủ trì, Ngài Đại Trưởng Lão Revata vấn, Ngài
Đại Trưởng Lão Sabbakāmi giải đáp... Công cuộc kết tập được thực hiện
trong suốt thời gian 8 tháng mới hoàn thành xong trọn bô Tam Tạng và Chú giải,
hoàn toàn y theo bổn chánh của kỳ kết tập Tam Tạng lần thứ nhất.
Kỳ kết tập Tam Tạng lần này cũng bằng khẩu truyền (mukhapātha, chưa ghi chép bằng
chữ viết).
Đức vua Kālāsoka xứ Vesāli hộ độ kỳ kết tập Tam Tạng và Chú giải
lần này.
Giáo pháp của Đức Phật một lần nữa được giữ gìn duy trì đúng theo chánh pháp.
Tất cả chư Tỳ-khưu thực hành nghiêm chỉnh giới luật, làm cho những người chưa
có đức tin nơi Tam Bảo, lại phát sinh đức tin, những người nào đã có đức tin
trong sạch nơi Tam Bảo rồi, đức tin càng tăng trưởng.
KẾT TẬP TAM TẠNG PĀḶI LẦN THỨ BA
Sau kỳ kết tập Tam Tạng lần thứ nhì, Phật giáo càng ngày càng phát triển, chư
Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni càng đông, cận sự nam, cận sự nữ có đức tin trong sạch nơi Tam
Bảo càng nhiều, họ làm phước hộ độ cúng dường 4 thứ vật dụng đến chư
Tỳ-khưu
rất đầy đủ, nhất là vào thời kỳ Đức vua Dhammāsoka (Asoka). Đức
vua là Bậc Minh Quân, trị vì toàn cõi Nam Thiện Bộ Châu, có đức tin trong sạch
trong Phật giáo, hộ độ cúng dường 4 thứ vật dụng đến chư
Tỳ-khưu rất đầy đủ,
sung túc. Ngược lại, các nhóm tu sĩ ngoại đạo thì đời sống thiếu thốn khổ cực.
Do đó, một số tu sĩ ngoại đạo xâm nhập vào sống chung với chư
Tỳ-khưu, về mặt
hình thức thì giống Tỳ-khưu, nhưng về mặt nội tâm vẫn giữ nguyên tà kiến cố hữu
của mình không hề thay đổi.
Vì vậy, Tỳ-khưu thật chánh kiến và Tỳ-khưu giả tà kiến sống chung không thể hành
tăng sự được, tình trạng này kéo dài suốt 7 năm. Chư
Tỳ-khưu trình sự việc này
lên Đức vua Dhammāsoka (Asoka) và nhờ uy quyền của Đức vua để
thanh lọc Tỳ-khưu giả ngoại đạo tà kiến.
Đức vua Asoka là Đấng Minh Quân và cũng là một cận sự nam có đức tin
trong sạch hộ trì Tam Bảo, Đức vua học giáo pháp của Đức Phật với Ngài Đại Trưởng
Lão Moggaliputtatissa, nên hiểu rõ chánh
kiến trong Phật giáo và các tà kiến của ngoại đạo. Đức vua thỉnh chư
Tỳ-khưu
xét hỏi từng vị một, qua cuộc xét hỏi này đã loại bỏ ra được 60.000
Tỳ-khưu giả
có tà kiến ngoại đạo, Đức vua ban cho mỗi người một bộ đồ trắng, bắt buộc hoàn
tục, trở thành người cư sĩ; còn lại tất cả
Tỳ-khưu thật có chánh kiến trong
Phật giáo đoàn kết cùng nhau hành tăng sự trở lại.
Nhân dịp này, Ngài Đại Trưởng Lão Moggaliputtatissa đã
đứng ra triệu tập kỳ kết tập Tam Tạng Pāḷi lần thứ ba.
Kỳ kết tập Tam Tạng lần thứ ba này được tổ chức tại chùa Asokārāma
xứ Pāṭaliputta, khoảng thời gian 235 năm, sau khi Đức Phật tịch diệt
Niết Bàn.
Kỳ tập Tam Tạng lần thứ ba này, gồm có 1.000 bậc Thánh Arahán đắc Tứ Tuệ Phân
Tích, Lục thông, thông thuộc Tam Tạng, Chú giải... do Ngài Đại Trưởng Lão
Moggali-puttatissa làm chủ trì, công cuộc kết tập được thực hiện trong
suốt thời gian 9 tháng mới hoàn thành trọn bộ Tam Tạng và Chú giải hoàn toàn
giống như bổn chánh của hai kỳ kết tập trước.
Kỳ kết tập Tam Tạng lần này cũng bằng khẩu truyền (Mukhapātha, chưa ghi chép bằng
chữ viết).
Đức vua Asoka xứ Pāṭaliputta hộ độ kỳ kết tập Tam Tạng và Chú giải
lần này.
KẾT TẬP TAM TẠNG PĀḶI LẦN THỨ TƯ
Đức vua Asoka không những hộ trì Phật giáo được phát triển trong nước, mà
còn gửi các phái đoàn chư Tăng sang các nước láng giềng khác, để truyền bá Phật
giáo, như phái đoàn chư Tăng do Đại đức Mahinda dẫn đầu sang
truyền bá Phật giáo ở đảo quốc Srilankā.
Trên đất nước Srilankā Phật giáo được thịnh hành và phát triển tốt, từ
Đức vua cho đến quan quân và dân chúng đều có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo,
đã xuất gia trở thành Tỳ-khưu và Tỳ-khưu ni rất đông.
Một thời đất nước Srilankā gặp phải cuộc phiến loạn, dân chúng gặp cảnh
thiếu thốn, nên đời sống của chư Tỳ-khưu cũng chịu ảnh hưởng. Có số
Tỳ-khưu sức
khỏe yếu kém, nên phận sự ôn lại Tam Tạng và Chú giải thuộc lòng rất vất vả.
Khi cuộc phiến loạn đã dẹp xong, chư Đại đức suy xét về sau này, trí nhớ và trí
tuệ con người càng ngày càng kém dần. Cho nên, chư
Tỳ-khưu học thuộc lòng Tam
Tạng và Chú giải, để giữ gìn duy trì cho được đầy đủ không phải là việc dễ
dàng.
Một hôm, Đức vua Vaṭṭagāmanī ngự đến chùa Mahāvihāra; nhân dịp ấy,
chư Đại Trưởng Lão thưa với Đức vua rằng:
- Thưa Đại vương, từ xưa đến nay, chư Đại đức Tăng có phận sự học thuộc lòng Tam
Tạng và Chú giải, để giữ gìn duy trì giáo pháp của Đức Phật. Trong tương lai,
đàn hậu sinh là những Đại đức khó mà học thuộc lòng Tam Tạng và Chú giải một
cách đầy đủ được. Như vậy, giáo pháp của Đức Thế Tôn sẽ bị mai một mau chóng
theo thời gian.
Thưa Đại vương, muốn giữ gìn duy trì Tam Tạng, Chú giải được đầy đủ, vậy nên tổ
chức kỳ kết tập Tam Tạng, Chú giải ghi chép bằng chữ viết trên lá buông, để lưu
lại cho đời sau.
Đức vua Vaṭṭagāmanī hoan hỷ với lời của chư Đại Trưởng Lão.
Kỳ kết tập Tam Tạng lần thứ tư này được tổ chức tại động Ālokalena
vùng Matula-janapada xứ Srilankā, khoảng thời gian
450 năm sau khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn.
Kỳ kết tâp Tam Tạng lần này gồm 1.000 bậc Thánh Arahán đắc Tứ Tuệ Phân Tích, do Ngài
Đại Trưởng Lão Mahādhammarakkhita làm chủ trì,
công cuộc kết tập được thực hiện suốt một năm mới hoàn tất việc ghi chép trọn
bộ Tam Tạng, Chú giải bằng chữ viết trên lá buông. Sau đó, chư bậc Thánh Arahán
kết tập Tam Tạng bằng cách khẩu truyền một lần nữa, hoàn toàn y theo bản chánh
của ba kỳ kết tập Tam Tạng lần trước.
Kỳ kết tập Tam Tạng lần này là lần đầu tiên ghi chép bằng chữ viết trên lá buông
đầy đủ bộ Tam Tạng và Chú giải, gọi là: “Potthakaropanasaṅgiti”.
Đức vua Vaṭṭagāmanī Abhaya xứ Srilankā hộ độ kỳ kết tập Tam Tạng
và Chú giải lần này.
KẾT TẬP TAM TẠNG PĀḶI LẦN THỨ NĂM
Dưới thời vua Asoka có gửi phái đoàn chư Tăng do Ngài Đại Trưởng Lão
Soṇa và Ngài Đại Trưởng Uttara sang vùng Suvaṇṇa bhūmi gồm
các nước: Indonesia, Myanmar, Thái Lan, Campuchia, Lào...
để truyền bá Phật giáo. Phật giáo ở các nước trong vùng này trải qua bao cuộc
thăng trầm, tùy theo vận mệnh của mỗi nước.
Đất nước Myanmar vào thời đại Vua Mindon đóng đô tại kinh thành Mandalay,
Đức vua là người có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, nhiệt tâm hộ trì Tam Bảo,
nghĩ rằng: “Phât giáo thường liên quan đến sự tồn vong của quốc gia, mỗi khi đất
nước bị xâm lăng, kẻ thù thường đốt kinh sách Phật giáo”.
Đức vua muốn bảo tồn giáo pháp của Đức Phật, nên Người thỉnh chư Đại Trưởng Lão
tổ chức cuộc kết tập Tam Tạng, khắc chữ trên những tấm bia đá, để giữ gìn duy
trì Tam Tạng Pháp Bảo được lâu dài.
Chư Đại Trưởng Lão vô cùng hoan hỷ chấp thuận theo lời thỉnh cầu của Đức vua, tổ
chức kỳ kết tập Tam Tạng lần thứ năm tại kinh thành
Mandalay
xứ
Myanmar
Phật lịch 2.404.
Kỳ kết tập Tam Tạng lần này gồm 2.400 vị Đại đức là những bậc uyên bác Tam Tạng
và Chú giải, do Ngài Đại Trưởng Lão Bhaddanta Jāgara làm chủ trì;
ngoài ra còn có những vị Đại đức rất xuất sắc như Ngài Bhaddanta
Narindabhidhaja,... bắt đầu khởi công khắc Tam Tạng trên bia đá
vào Phật lịch năm 2.404 cho đến Phật lịch 2.415, trải qua suốt 11 năm ròng rã,
mới hoàn thành xong bộ Tam Tạng trên 729 tấm bia đá:
Tạng Luật gồm có 111 tấm.
Tạng Kinh gồm có 410 tấm.
Tạng Vi Diệu Pháp gồm có 208 tấm.
Sau khi khắc bộ Tam Tạng bằng chữ trên những tấm bia đá xong, chư Đại Trưởng Lão
tổ chức cuộc kết tập Tam Tạng bằng khẩu truyền suốt 6 tháng mới hoàn thành xong
bộ Tam Tạng y theo bổn chánh của bốn kỳ kết tập Tam Tạng trước. Gọi là: “Selakkharāropanasaṅgīti”.
Kỳ kết tập Tam Tạng này do Đức vua Mindon xứ
Myanmar
hộ độ.
Lần đầu tiên toàn bộ Tam Tạng được ghi khắc trên bia đá, những tấm bia đá này
hiên nay vẫn còn nguyên vẹn ở kinh thành cổ
Mandalay
xứ
Myanmar
. Các nhà in kinh sách Phật giáo đều y cứ vào những tấm bia đá này
làm nền tảng căn bản.
Về sau có Đạo sĩ Khanti đứng ra tổ chức khắc toàn bộ Chú giải trên
những tấm bia đá, hiện nay vẫn còn nguyên vẹn tại
Mandalay
.
KẾT TẬP TAM TẠNG PĀḶI LẦN THỨ SÁU
Phật giáo đã trải qua thời gian khá lâu, Tam Tạng, Chú giải, Ṭīkā... đã
in ra thành sách, việc sao đi chép lại, in đi in lại nhiều lần, khó mà tránh
khỏi sự sai sót. Do đó, các bộ Tam Tạng, Chú giải... của mỗi nước có chỗ sai
chữ dẫn đến sai nghĩa, làm cho pháp học Phật giáo không hoàn toàn giống y
nguyên bổn chánh.
Chính phủ
Myanmar
thành lập hội Phật giáo có tên “Buddhasāsanasamiti” vào năm Phật lịch
2.497 để lo tổ chức kỳ kết tập Tam Tạng lần thứ sáu, tại động
nhân tạo Lokasāma (Kaba Aye) thủ đô
Yangon
,
Myanmar.
Chính phủ thỉnh tất cả mọi bộ Tam Tạng, Chú giải hiện có trên các nước Phật
giáo, để làm tài liệu đối chiếu từng chữ, từng câu của mỗi bổn.
Kỳ kết tập Tam Tạng lần thứ sáu này gồm 2.500 vị Đại đức thông hiểu Tam Tạng,
Chú giải... rành rẽ về ngữ pháp Pāḷi, chia thành nhiều ban đối chiếu sửa
chữa lại cho đúng. Công việc được thực hiện bắt đầu từ ngày rằm tháng tư Phật
lịch năm 2.498 cho đến ngày rằm tháng tư Phật lịch năm 2.500,
ròng rã suốt 2 năm mới hoàn thành xong bộ Tam Tạng, Chú giải, Ṭīkā....
Sau đó, chính phủ Myanmar thỉnh chư Đại đức kết tập Tam Tạng bằng khẩu, do Đại
Trưởng Lão Revata chủ trì, Đại Trưởng Lão Sobhana
vấn, Đại Trưởng Lão Vicittasā-rābhivaṃsa thông thuộc Tam
Tạng trả lời theo Tam Tạng, Chú giải.
Trong buổi lễ này Chính phủ Myanmar, đứng đầu là Thủ tướng U Nu, tổ chức
khánh thành kết tập Tam Tạng rất long trọng, có mời nguyên thủ Quốc gia của các
nước Phật giáo cùng phái đoàn chư Tăng, cân sự nam, cận sự nữ gồm có 25 nước
trên thế giới đến tham dự, để đánh dấu lịch sử Phật giáo đã trải qua một nửa
tuổi thọ 2.500 năm, dưới sự bảo trợ hộ độ của Chính phủ Myanmar cùng Phật tử
trong nước và các nước khác trên thế giới.
Bộ Tam Tạng, Chú giải được kết tập lần thứ sáu này được xem là mẫu
mực cho các nước Phật giáo hệ phái Theravāda.
Để Phật giáo được trường tồn lâu dài trên thế gian này chừng nào, thì chúng sinh
được hưởng sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc chừng ấy. Cho nên, chư Đại Trưởng
Lão tiền bối đã dày công gìn giữ và duy trì pháp học Phật giáo từ thời kỳ Đức
Phật còn tại thế, và sau khi Đức Phật đã tịch diệt Niết Bàn. Tất cả quý Ngài có
phận sự bảo tồn trọn vẹn pháp học Phật giáo, nên đã tổ chức qua 6 kỳ kết tập
Tam Tạng và Chú giải Pāḷi, không để cho rời rạc, thất lạc.
Chư
Đại Trưởng Lão đã cố gắng giữ gìn duy trì từ trước cho đến nay.
Công việc học Tam Tạng và Chú giải Pāḷi để bảo tồn trọn vẹn pháp học Phật
giáo là bổn phận của mọi người Phật tử, là bậc xuất gia cũng như các hàng tại
gia cư sĩ. Chữ Pāḷi là ngôn ngữ của Chư Phật, đối với chúng ta học Tam
Tạng và Chú giải Pāḷi cần phải hiểu rõ ý nghĩa trực tiếp hoặc gián tiếp
qua ngôn ngữ riêng của mình.
Tại nước
Myanmar
, công việc học Tam Tạng và Chú giải Pāḷi được phổ cập đến
chư Sadi, chư Tỳ-khưu. Hằng năm, bộ Tôn giáo Myanmar có tổ chức kỳ thi đọc
thuộc lòng Tam Tạng bằng tiếng Pāḷi, và thi viết trả lời những câu hỏi
về Tam Tạng và Chú giải Pāḷi.
Thi thuộc lòng Tam Tạng
Phật lịch năm 2.492 (Dương lịch năm 1948), bộ Tôn giáo
Myanmar
bắt đầu tổ chức kỳ thi đọc thuộc lòng Tam Tạng Pāḷi lần thứ nhất. Từ đó
về sau, hằng năm, có tổ chức kỳ thi đọc thuộc lòng Tam Tạng Pāḷi. Khi
Đại đức thí sinh thi đậu phần học thuộc lòng xong, tiếp tục thi phần viết trả
lời những câu hỏi về Tam Tạng và Chú giải Pāḷi. Đến nay, Phật lịch năm
2.547 (Dương lịch năm 2003) đã trải qua 55 kỳ thi.
Căn cứ theo số liệu tổng kết chư Đại đức thí sinh đã thi đậu qua 55 kỳ thi như
sau:
a. Những vị Đại đức đậu đọc thuộc lòng và thi viết
Tam Tạng trọn bộ: 9 vị
Nhị Tạng rưỡi: 4 vị
Nhị Tạng: 5 vị
Nhất Tạng: 101 vị
Nhất Tạng và một phần Tạng Kinh: 1 vị
Nhất Tạng, Đồng Loại và Trung Bộ Kinh: 1 vị
Nhất Tạng và Trung Bộ Kinh: 2 vị
Đồng Loại Bộ Kinh và Chi Bộ Kinh: 1 vị
Chi Bộ Kinh: 3 vị
Đồng Loại Bộ Kinh: 2 vị
Trung Bộ Kinh: 3 vị
Tạng Luật phần đầu: 234 vị
b. Những vị Đại đức đậu đọc thuộc lòng
Tam Tạng trọn bộ: 3 vị
Nhị Tạng rưỡi: 8 vị
Nhị Tạng: 38 vị
Nhất Tạng: 301 vị
Nhất Tạng và Trung Bộ Kinh: 1 vị
Trung Bộ Kinh: 1 vị
Đồng Loại Bộ Kinh: 1 vị
Chi Bộ Kinh: 1 vị
Tạng Luật phần đầu: 298 vị
Chư Đại Trưởng Lão thông thuộc Tam Tạng
- Ngài Đại Trưởng Lão Bhaddanta Vicittasārābhivaṃsa Visiṭṭhapiṭakadhara
đậu kỳ thi thứ 6, Phật lịch 2.497 (DL.1953) lúc Ngài 42 tuổi.
- Ngài Đại Trưởng Lão Bhaddanta Neminda Visiṭṭhapiṭakadhara
đậu kỳ thi thứ 12, Phật lịch 2.503 (DL.1959) lúc Ngài 32 tuổi.
- Ngài Đại Trưởng Lão Bhaddanta Kosalla Tipiṭakadhara đậu
kỳ thi thứ 16, Phật lịch 2.507 (DL.1963) lúc Ngài 36 tuổi.
- Ngài Đại Trưởng Lão Bhaddanta Sumaṅgālaṅkāra Tipiṭakadhara
đậu kỳ thi thứ 26, Phật lịch 2.517 (DL.1973) lúc Ngài 27 tuổi.
- Ngài Đại Trưởng Lão Bhaddanta Sirindābhivaṃsa Tipiṭakadhara
đậu kỳ thi thứ 37, Phật lịch 2.528 (DL.1984) lúc Ngài 37 tuổi.
- Ngài Đại Trưởng Lão Bhaddanta Vāyāmindābhivaṃsa Tipiṭakadhara
đậu kỳ thi thứ 48, Phật lịch 2.539 (DL.1995) lúc Ngài 39 tuổi.
- Ngài Đại Trưởng Lão Bhaddanta Koṇḍañña Tipiṭakadhara đậu
kỳ thi thứ 50 Phật lịch 2.541 (DL.1997) lúc Ngài 55 tuổi.
- Ngài Đại Trưởng Lão Bhaddanta Sīlakkhandhābhivaṃsa Tipiṭakadhara
đậu kỳ thi thứ 52, Phật lịch 2.543 (DL.1999) lúc Ngài 34 tuổi.
- Ngài Đại Trưởng Lão Bhaddanta Vaṃsapālālaṅkāra Tipiṭakadhara
đậu kỳ thi thứ 52, Phật lịch 2.543 (DL.1999) lúc Ngài 34 tuổi.
- Ngài Đại Trưởng Lão Bhaddanta Gandhamālālaṅkāra Tipiṭakadhara
đậu kỳ thi thứ 53 Phật lịch 2.544 (DL.2000) lúc Ngài 33 tuổi.
- Ngài Đại Trưởng Lão Bhaddanta Sundara Tipiṭakadhara đậu kỳ thi
thứ 53 Phật lịch 2.544 (DL.2000) lúc Ngài 45 tuổi.
- Ngài Đại Trưởng Lão Bhaddanta Indapāla Tipiṭakadhara đậu
kỳ thi thứ 53, Phật lịch 2.544 (DL. 2000) lúc Ngài 40 tuổi.
Trên đây là danh sách những vị Đại Trưởng Lão thi đậu Tipiṭakadhara: thông
thuộc đầy đủ bộ Tam Tạng: “Tạng Luật, Tạng Kinh, Tạng Vi Diệu Pháp” gồm
có 84.000 pháp môn mà Đức Phật đã thuyết giảng, chế định suốt 45 năm ròng rã,
kể từ khi thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác cho đến phút cuối cùng tịch diệt Niết
Bàn. Những vị Đại Trưởng Lão này không chỉ thông thuộc Tam Tạng (Tipiṭakadhara)
gồm có 40 quyển, mà còn thông suốt đầy đủ các bộ Aṭṭhakathā (Chú giải)
gồm có 52 quyển, các bộ Ṭīkapāḷi, các bộ Anuṭīkāpāḷi gồm có 26
quyển.
Ngoài 12 vị Đại Trưởng Lão Tipiṭakadhara thông thuộc đầy đủ bộ Tam Tạng
ra, còn có mấy chục vị Đại đức thi đậu Nhị Tạng, hơn mấy trăm vị
Đại đức thi đậu Nhất Tạng, và còn rất nhiều vị Đại đức thi đậu
Trường Bộ Kinh, Trung Bộ Kinh, v.v...
Như vậy, gọi là phận sự học pháp học Chánh Pháp để giữ gìn duy trì
giáo pháp của Đức Phật được lưu truyền lâu dài trên thế gian này, để đem lại sự
lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài cho chúng sinh, nhất là nhân loại, chư
thiên, phạm thiên...
Qua các thời kỳ học thuộc lòng Tam Tạng
* Thời kỳ đầu: Kể từ khi Đức Phật còn tại thế cho đến trước
Phật lịch năm 450, trong khoảng thời gian này, trọn bộ Tam Tạng và các bộ Chú
giải chưa ghi thành chữ viết; cho nên, việc học Tam Tạng bằng cách khẩu truyền
tâm thọ: vị Thầy đọc, các học trò lặp theo ghi nhớ nằm lòng.
Như vậy, vị Thầy thông thuộc chừng nào, các học trò cũng thông thuộc chừng ấy;
nếu vị thầy không thuộc bộ nào, thì vị Thầy gửi các học trò của mình đến vị Đại
Trưởng Lão khác xin học bộ ấy. Cho nên, việc học trọn bộ Tam Tạng và các bộ Chú
giải trong thời kỳ này rất vất vả khó khăn.
* Thời kỳ sau: Kể từ sau thời kỳ kết tập Tam Tạng và các bộ
Chú giải lần thứ tư, khoảng thời gian 450 năm, sau khi Đức Phật tịch diệt Niết
Bàn, kỳ kết tập Tam Tạng và các bộ Chú giải này được ghi bằng chữ viết trên lá
buông. Cho nên, việc học Tam Tạng trọn bộ và các bộ Chú giải tương đối ít vất
vả khó khăn hơn thời kỳ trước, song có phần hạn chế, vì số bổn Tam Tạng và Pāḷi
được ghi trên lá buông không nhiều.
* Thời hiện tại này, hầu hết các nước Phật giáo lớn như: nước
Myanmar, nước Thái Lan, nước Srilankā, nước
Lào, nước Campuchia, v.v... đều có trọn bộ Tam Tạng và các bộ Chú
giải được in ra thành sách bằng mẫu tự của xứ mình. Cho nên, việc học trọn bộ
Tam Tạng và các bộ Chú giải có nhiều điều kiện thuận lợi hơn. Nhưng việc dạy
Tam Tạng và việc học Tam Tạng trong mỗi số nước phổ biến chưa được rộng đến
toàn thể Phật tử. Hiện nay, phần đông được biết đến xứ
Myanmar
có chư Đại Trưởng Lão dạy Tam Tạng và Chú giải, và có chư
Tỳ-khưu theo học Tam
Tạng và Chú giải. Hằng năm, Chính phủ Myanmar, bộ Tôn giáo tổ
chức kỳ thi Tam Tạng, kết quả đã có 12 vị Đại Trưởng Lão thi đậu trọn bộ Tam
Tạng và thông suốt Chú giải; ngoài ra, còn có những vị Đại đức khác thi đậu Nhị
Tạng, Nhất Tạng, một Nikāya, hai Nikāya, v.v...
giúp giữ gìn duy trì pháp học Phật giáo được trường tồn. Đó là điều đáng cho
tất cả mọi người Phật tử vô cùng hoan hỷ.
Thời kỳ Đức Phật còn tại thế, việc thông thuộc Tam Tạng không những chỉ có chư
vị Đại Trưởng Lão, Đại đức, mà còn có nhiều vị cận sự nam, cận sự nữ nữa. Bởi
vì, việc bảo tồn Phật giáo là phận sự chung của các hàng Phật tử, gồm cả bậc
xuất gia lẫn các hàng tại gia cư sĩ.
Để bảo tồn Phật giáo, chỉ có một phương pháp duy nhất là mỗi người Phật tử: Bậc
xuất gia Tỳ-khưu, Sadi, cận sự nam, cận sự nữ cần phải học thuộc lòng
Tam Tạng Pāḷi, Chú giải Pāḷi, Ṭīkāanuṭīkāpāḷi, theo khả
năng của mình, nên hiểu rõ ý nghĩa đúng theo lời giáo huấn của Đức Phật. Khi đã
thông thuộc pháp học Phật giáo, thì hành giả mới có thể thực hành đúng theo
Chánh pháp được. Hoặc khi giảng dạy đến người khác đúng theo Chánh pháp. Cho
nên, học pháp học Phật giáo sẽ đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc cho
mình và cho người khác. Đặc biệt còn giữ gìn và duy trì pháp học Phật giáo được
trường tồn trên thế gian, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài
cho tất cả chúng sinh.
TIPIṬAKA - AṬṬHAKATHĀ - ṬĪKĀ - ANUṬĪKĀ
Pháp học Phật giáo gồm có Tipiṭaka (Tam Tạng), Aṭṭhakathā (Chú
giải), Ṭīkā (Phụ Chú giải), Anuṭīkā (Phụ theo Chú giải).
Căn cứ theo kỳ kết tập Tam tạng lần thứ sáu Phật lịch 2.500 năm tại động Kaba Aye,
thủ đô Yangon, nước Myanmar như sau:
- Tipiṭakapāḷi gồm có 40 quyển.
- Aṭṭhakathāpāḷi gồm có 51 quyển.
- Ṭīkā-Anuṭīkāpāḷigồm có 26 quyển.
TIPIṬAKAPĀḶI (TAM TẠNG)
Tipiṭakapāḷi (Tam Tạng) gồm có 40 quyển được phân quyển theo mỗi Tạng như
sau:
1. Vinayapiṭakapāḷi (Tạng Luật) gồm có 5 quyển:
- Pārājikapāḷi do Đức Phật, trong thời kỳ Đức Phật.
- Pācittiyapāḷi do Đức Phật, trong thời kỳ Đức Phật.
- Mahāvaggapāḷi do Đức Phật, trong thời kỳ Đức Phật.
- Cūḷavaggapāḷi do Đức Phật, trong thời kỳ Đức Phật.
- Parivārapāḷi do Đức Phật, trong thời kỳ Đức Phật.
2. Suttantapiṭakapāḷi (Tạng Kinh) gồm có 23 quyển phân chia
theo 5 Nikāya (Bộ) như sau:
* Dīghanikāya (Trường Bộ Kinh) có 3 quyển:
- Sīlakkhandhavaggapāḷi do Đức Phật, trong thời kỳ Đức Phật.
- Mahāvaggapāḷi do Đức Phật, trong thời kỳ Đức Phật.
- Pāthikavaggapāḷi do Đức Phật, trong thời kỳ Đức Phật.
* Majjhimanikāya (Trung Bộ Kinh) có 3 quyển:
- Mūlapaṇṇāsapāḷi do Đức Phật, trong thời kỳ Đức Phật.
- Majjhimapaṇṇāsapāḷi do Đức Phật, trong thời kỳ Đức Phật.
- Uparipaṇṇāsapāḷi do Đức Phật, trong thời kỳ Đức Phật.
* Saṃyuttanikāya (Đồng Loại Bộ Kinh) có 5 phần gom vào 3
quyển:
- Sagāthāvagga và Nidānavaggasaṃyuttapāḷi do Đức Phật, trong thời
kỳ Đức Phật.
- Khandhavagga và Saḷāyatanavaggasaṃyuttapāḷi do Đức Phật, trong
thời kỳ Đức Phật.
- Mahāvaggasaṃyuttapāḷi do Đức Phật, trong thời kỳ Đức Phật.
* Aṅguttaranikāya (Chi Bộ Kinh) có 11 chi gom vào 3
quyển:
- Ekaka-duka-tika-catukkanipātapāḷi do Đức Phật, trong thời kỳ Đức Phật.
- Pañcaka-chakka-sattakanipāta do Đức Phật, trong thời kỳ Đức Phật.
- Aṭṭhaka-navaka-dasaka-ekādasakanipāta do Đức Phật, trong thời kỳ Đức
Phật.
* Khuddakanikāya (Tiểu Bộ Kinh) gồm có 19 bộ gom vào 11
quyển:
- Khuddkapāṭha-dhammapada-udāna-itivuttka-suttanipātatapāḷi do Đức Phật,
trong thời kỳ Đức Phật.
- Vimānavatthu-petavatthu-theragāthā-therīgāthāpāḷi do Đức Phật và chư
Thánh Arahán, trong thời kỳ Đức Phật.
- Apadānapāḷi (paṭhama).
- Apadānapāḷi (dutiya) và Buddhavaṃsa, Cariyāpiṭakapāḷi do
Đức Phật và chư Thánh Arahán, trong thời kỳ Đức Phật.
- Jātakapāḷi (paṭhama) do Đức Phật, trong thời kỳ Đức Phật.
- Jātakapāḷi (dutiya) do Đức Phật, trong thời kỳ Đức Phật.
- Mahāniddesapāḷi do Ngài Đại đức Sāriputta, trong thời kỳ Đức
Phật.
- Cūḷiniddespāḷi do Ngài Đại đức Sāriputta, trong thời kỳ Đức
Phật.
- Paṭisambhidāmaggapāḷi do Ngài Đại đức Sāriputta, trong thời kỳ
Đức Phật.
- Netti-peṭakopadesapāḷi do Ngài Đại đức Mahākaccayana, trong
thời kỳ Đức Phật.
- Milindapañhāpāḷi do Ngài Đại đức Nāgasena, Phật lịch 500.
3. Abhidhammapiṭaka (Tạng Vi Diệu Pháp) có 7 bộ lớn
phân chia thành 12 quyển:
- Dhammasaṅganipāḷi do Đức Phật, trong thời kỳ Đức Phật.
- Vibhaṅgapāḷi do Đức Phật, trong thời kỳ Đức Phật.
- Dhātukathà và Puggalapaññattipāḷi do Đức Phật, trong thời kỳ
Đức Phật.
- Kathāvatthupāḷi do Đức Phật (sau có Ngài Đại đức Moggaputtatissa,
Phật lịch 235).
- Yamakapāḷi (pathama) do Đức Phật, trong thời kỳ Đức Phật.
- Yamakapāḷi (dutiya) do Đức Phật, trong thời kỳ Đức Phật.
- Yamakapāḷi (tatiya) do Đức Phật, trong thời kỳ Đức Phật.
- Paṭṭhānapāḷi (paṭhama) do Đức Phật, trong thời kỳ Đức Phật.
- Paṭṭhānapāḷi (dutiya) do Đức Phật, trong thời kỳ Đức Phật.
- Paṭṭhānapāḷi (tatiya) do Đức Phật, trong thời kỳ Đức Phật.
- Paṭṭhānapāḷi (catuttha) do Đức Phật, trong thời kỳ Đức Phật.
- Paṭṭhānapāḷi (pañcama) do Đức Phật, trong thời kỳ Đức Phật.
Tam Tạng gồm có 40 quyển được phân chia theo mỗi tạng như sau:
- Tạng Luật (Vinayapiṭakapāḷi) có 5 quyển.
- Tạng Kinh (Suttantapiṭakapāḷi) có 23 quyển.
- Tạng Vi Diệu Pháp (Abhidhammapiṭaka) có 12 quyển.
AṬṬHAKATHĀPĀḶI (CHÚ GIẢI)
Chú giải (Aṭṭhakathāpāḷi) gồm có 51 quyển, Chú giải này được phân chia
thành mỗi Tạng như sau:
1- Chú giải Tạng Luật: Gồm có 6 quyển
- Pārājikakaṇḍa aṭṭhakathāpāḷi (pathama-dutiya 2 quyển) gọi Samantapāsādika
aṭṭhakathà, do Ngài Đại đức Mahābuddhaghosa, Phật lịch 976.
- Pācityādi aṭṭhakathāpāḷi gọi Samantapāsādika aṭṭhakathà, do Ngài
Đại đức Mahābuddhaghosa, Phật lịch 976.
- Cūḷavaggādi aṭṭhakathāpāḷi gọi Samantapāsādika aṭṭhakathà, do
Ngài Đại đức Mahābuddhaghosa, Phật lịch 976.
- Vinayasaṅgaha aṭṭhakathāpāḷi, do Ngài Đại đức Sāriputta, Phật
lịch 976.
- Kaṅkhāvitaraṇī aṭṭhakathāpāḷi, do Ngài Đại đức Mahābuddhaghosa,
Phật lịch 976 - 1.000.
2- Chú giải Tạng Kinh: Gồm có 42 quyển được phân chia theo mỗi bộ (nikāya)
như sau:
* Chú giải Trường Bộ Kinh: Gồm có 3 quyển
- Sīlakkhandhavagga aṭṭhakathāpāḷi, gọi Sumaṅgalavilāsinī aṭṭhakathāpāḷi,
do Ngài Đại đức Mahābuddhaghosa, Phật lịch 977 - 1.000.
- Mahāvagga aṭṭhakathāpāḷi, gọi Sumaṅgalavilāsinī aṭṭhakathāpāḷi, do
Ngài Đại đức Mahābuddhaghosa, Phật lịch 977 - 1.000.
- Pāthikavagga aṭṭhakathāpāḷi, gọi Sumaṅgalavilāsinī aṭṭhakathāpāḷi,
do Ngài Đại đức Mahābuddhaghosa, Phật lịch 977 - 1.000.
* Chú giải Trung Bộ Kinh: Gồm có 4 quyển:
- Mūlapaṇṇāsa aṭṭhakathāpāḷi (pathamadutiya 2 quyển), gọi Papañcasūdanī
aṭṭhakathāpāḷi, do Ngài Đại đức Mahābuddhaghosa, Phật lịch 977 -
1.000.
- Majjhimapaṇṇāsa aṭṭhakathāpāḷi gọi Papañcasūdanī aṭṭhakathāpāḷi,
do Ngài Đại đức Mahābuddhaghosa, Phật lịch 977 - 1.000.
- Uparipaṇṇāsa aṭṭhakathāpāḷi gọi Papañcasūdanī aṭṭhakathāpāḷi, do
Ngài Đại đức Mahābuddhaghosa, Phật lịch 977 - 1.000.
* Chú giải Đồng Loại Bộ Kinh: Gồm có 3 quyển
- Sagāthavaggasamyutta aṭṭhakathāpāḷi gọi Sāratthapakāsanī aṭṭhakathāpāḷi,
do Ngài Đại đức Mahābuddhaghosa, Phật lịch 976.
- Nidānavagga và Khandhavaggasamyutta aṭṭhakathāpāḷi gọi Sāratthapakāsanī
aṭṭhakathāpāḷi, do Ngài Đại đức Mahābuddhaghosa, Phật lịch 977 -
1.000.
- Sāḷāyatanavagga-Mahāvaggasamyutta aṭṭhakathāpāḷi gọi Sāratthapakāsanī
aṭṭhakathāpāḷi, do Ngài Đại đức Mahābuddhaghosa, Phật lịch 977 -
1.000.
* Chú giải Chi Bộ Kinh: Gồm có 3 quyển:
- Aṅguttara aṭṭhakathāpāḷi (pathama-dutiya-tatiya 3 quyển) gọi Manorathapūraṇī
aṭṭhakathāpāḷi, do Ngài Đại đức Mahābuddhaghosa, Phật lịch 977 -
1.000.
* Chú giải Tiểu Bộ Kinh: Gồm có 29 quyển
- Visuddhimagga aṭṭhakathāpāḷi (paṭhama-dutiya 2 quyển), do Ngài
Đại đức Mahābuddhaghosa, Phật lịch 972.
- Khuddakapāṭha aṭṭhakathāpāḷi gọi Paramatthajotikā aṭṭhakathāpāḷi,
do Ngài Đại đức Mahābuddhaghosa, Phật lịch 977 - 1.000.
- Dhammapada aṭṭhakathāpāḷi (paṭhama-dutiya 2 quyển), do Ngài Đại
đức Mahābuddhaghosa, Phật lịch 977 - 1.000.
- Suttanīpāta aṭṭhakathāpāḷi (paṭhama-dutiya 2 quyển) gọi Paramatthajotikā
aṭṭhakathāpāḷi, do Ngài Đại đức Mahābuddhaghosa, Phật lịch 977 -
1.000.
- Jātaka aṭṭhakathāpāḷi (paṭhama-dutiya-tatiya-catuttha-pañcama-chaṭṭha-sattama
7 quyển), do Ngài Đại đức Mahābuddhaghosa, Phật lịch 977 - 1.000.
- Udāna aṭṭhakathāpāḷi gọi Paramatthadīpanī aṭṭhakathāpāḷi, do
Ngài Đại đức Dhammapāla, Phật lịch 1.100 - 1.200.
- Itivuttaka aṭṭhakathāpāḷi gọi Paramatthadīpanī aṭṭhakathāpāḷi,
do Ngài Đại đức Dhammapāla.
- Vimānavatthu aṭṭhakathāpāḷi gọi Paramatthadīpanī aṭṭhakathāpāḷi,
do Ngài Đại đức Dhammapāla, Phật lịch 1.100 - 1.200.
- Petavatthu aṭṭhakathāpāḷi gọi Paramatthadīpanī aṭṭhakathāpāḷi,
do Ngài Đại đức Dhammapāla, Phật lịch 1.100 - 1.200.
- Theregāthā aṭṭhakathāpāḷi (paṭhama-dutiya 2 quyển) gọi Paramatthadīpanī
aṭṭhakathāpāḷi, do Ngài Đại đức Dhammapāla, Phật lịch 1.100 -
1.200.
- Therīgathā aṭṭhakathāpāḷi gọi Paramatthadīpanī aṭṭhakathāpāḷi,
do Ngài Đại đức Dhammapāla, Phật lịch 1.100 - 1.200.
- Cariyāpiṭaka aṭṭhakathāpāḷi gọi Paratthadīpanī aṭṭhakathāpāḷi, do
Ngài Đại đức Dhammapāla, Phật lịch 1.100 - 1.200.
- Cūḷaniddesa-netti aṭṭhakathāpāḷi gọi Saddhammajotikà aṭṭhakathāpāḷi,
do Ngài Đại đức Upasena.
- Mahàniddesa-netti aṭṭhakathāpāḷi gọi Sad-dhammajotikā aṭṭhakathāpāḷi,
do Ngài Đại đức Upasena.
- Buddhavaṃsa aṭṭhakathāpāḷi gọi Madhurattha-vilāsinī aṭṭhakathāpāḷi,
do Ngài Đại đức Buddhadatta, Phật lịch hơn 900.
- Paṭisambhidāmagga aṭṭhakathāpāḷi (paṭhama-dutiya 2 quyển) gọi Saddham-mapakāsanī
aṭṭhakathāpāḷi, do Ngài Đại đức Mahānāma, Phật lịch 1.061.
- Apadāna aṭṭhakathāpāḷi (paṭhama-dutiya 2 quyển) gọi
Visuddhajanavilāsinī, do Ngài Đại đức Poraṇācariya.
3. Chú giải Tạng Vi Diệu Pháp: Gồm có 3 quyển
- Dhammasaṅganī aṭṭhakathāpāḷi gọi Aṭṭhasālinī aṭṭhakathāpāḷi, do
Ngài Đại đức Mahābuddha-ghosa, Phật lịch 977 - 1.000.
- Vibhaṅga aṭṭhakathāpāḷi gọi Sammohavinodanī aṭṭhakathāpāḷi do
Ngài Đại đức Mahābuddhaghosa, Phật lịch 977 - 1.000.
- Pañcapakaraṇa aṭṭhakathāpāḷi do Ngài Đại đức Mahābuddhaghosa,
Phật lịch 977 - 1.000.
Chú giải gồm có 51 quyển được phân chia thành Chú giải mỗi Tạng:
- Chú giải Tạng Luật có 6 quyển.
- Chú giải Tạng Kinh có 42 quyển.
- Chú giải Tạng Vi Diệu Pháp có 3 quyển.
ṬĪKĀPĀḶI - ANUṬĪKĀPĀḶI
(PHỤ CHÚ GIẢI - PHỤ THEO CHÚ GIẢI)
Phụ chú giải (Ṭīkapāḷi) và Phụ theo Chú giải (Anuṭīkāpāḷi) gồm có
26 quyển được phân chia Phụ chú giải theo mỗi Tạng như sau:
1- Phụ chú giải Tạng Luật: Gồm có 7 quyển
- Sāratthadīpanīṭīkā (paṭhama-dutiya-tatiya 3 quyển), do Ngài Đại
đức Sāriputta, Phật lịch 1.707 - 1.725.
- Vimativinodanīṭīkā (paṭhama-dutiya 2 quyển), do Ngài Đại đức Coḷiyakassapa.
- Vājirabuddhiṭīkā, do Ngài Đại đức Vajirabuddhi.
- Kaṅkhāvitaraṇīpuraṇābhinavaṭīkā gọi Vinayatthamañjūsāṭīkā, do
Ngài Đại đức Buddhanāga.
Ngoài ra, còn các Phụ chú giải về Tạng Luật như:
- Vinayālaṅkāraṭīkā (paṭhama-dutiya 2 quyển).
- Vinayavinicchayaṭīkā (paṭhama-dutiya 2 quyển) gọi Vinayatthasārasandīpanī.
- Khuddasikkhā, Mūlasikkhāṭīkā v.v...
2- Phụ chú giải Tạng Kinh: Gồm có 16 quyển phân chia theo mỗi bộ (nikāya)
như sau
* Phụ chú giải Trường Bộ Kinh: Gồm có 5 quyển
- Sīlakkhandhavaggaṭīkā gọi Līnatthapakāsanāṭīkā, do Ngài Đại đức Dhammapāla,
Phật lịch 1.100 - 1.200.
- Sīlakkhandhavaggābhinavaṭīkā (paṭhama-dutiya 2 quyển) gọi Sādhujana-vilāsinīṭīkā,
do Ngài Đại đức Ñāṇābhivaṃsadhammasenāpati.
- Mahāvaggaṭīkā gọi Līnatthapakāsanāṭīkā, do Ngài Đại đức Dhammapāla,
Phật lịch 1.100 - 1.200.
- Pāthikavaggaṭīkā gọi Līnatthapakāsanāṭīkā, do Ngài Đại đức Dhammapāla,
Phật lịch 1.100 - 1.200.
* Phụ chú giải Trung Bộ Kinh: Gồm có 3 quyển
- Mūlapaṇṇāsaṭīkā gọi (paṭhama-dutiya 2 quyển) Līnatthapakāsanāṭīkā,
do Ngài Đại đức Dhammapāla, Phật lịch 1.100 - 1.200.
- Majjhima-Uparipaṇṇāsaṭīkā gọi Līnatthapakāsanāṭīkā, do Ngài Đại
đức Dhammapāla, Phật lịch 1.100 - 1.200.
* Phụ chú giải Đồng Loại Bộ Kinh: Gồm có 2 quyển
- Saṃyuttaṭīkā gọi (paṭhama-dutiya 2 quyển) Līnatthapakāsanāṭīkā,
do Ngài Đại đức Dhammapāla, Phật lịch 1.100 - 1.200.
* Phụ chú giải Chi Bộ Kinh: Gồm có 3 quyển
2.11- Anguttaraṭīkā (paṭhama-dutiya-tatiya 3 quyển) gọi Sāratthamañjūsāṭīkā
do Ngài Đại đức Sāriputta, Phật lịch 1.707 - 1.725.
* Phụ chú giải Tiểu Bộ Kinh: Gồm có 3 quyển
- Visuddhimaggamahāṭīkā (pathama-dutiya 2 quyển) gọi Paramattha-mañjūsāṭīkā,
do Ngài Đại đức Dhammapāla, Phật lịch 1.100 - 1.200.
- Nettiṭīkā và Nettivibhāvinīṭīkā, do Ngài Đại đức Saddhammapāla,
Phật lịch 1986.
3- Phụ chú giải - Phụ theo chú giải về Tạng Vi Diệu Pháp: Gồm có 3 quyển
- Dhammasaṅgaṇīmūlaṭīkā do Ngài Đại đức Ānanda và phần Anuṭīkapāḷi
do Ngài Đại đức Dhammapāla.
- Vibhaṅgamūlaṭīkā do Ngài Đại đức Ānanda và phần Anuṭīkā do
Ngài Đại đức Dhammapāla.
- Pañcapakaraṇamūlaṭīkā do Ngài Đại đức Ānanda và phần Anuṭīkāpāḷi
do Ngài Đại đức Dhammapāla.
Ngoài ra, còn các Phụ chú giải về Tạng Vi Diệu Pháp như:
- Abhidhammavatāraṭīkā (2 quyển).
- Maṇisārāmañjūsāṭīkā (2 quyển).
- Abhidhammavibhāvanīṭīkā.
- Abhidhammatthasaṅgaha v.v...
Ví dụ như quyển Abhidhammattha Saṅgaha tuy là một quyển sách nhỏ,
song nó có một tầm quan trọng rất lớn, đối với các hàng Phật tử, quyển sách này
được xem như một “chiếc chìa khóa vạn năng” để khám phá kho tàng
Tam Tạng Pháp Bảo v.v...
Phụ chú giải (Ṭikapāḷi) và Phụ theo chú giải (Anuṭīkāpāḷi) trực
tiếp riêng theo mỗi Tạng gồm có 26 quyển được phân chia như sau:
- Tạng Luật có 7 quyển.
- Tạng Kinh có 16 quyển.
- Tạng Vi Diệu Pháp có 3 quyển.
Pháp học Phật giáo (Pariyattisāsana)
Pháp học Phật giáo đó là Tam Tạng và Chú giải, đã có từ thời kỳ Đức Phật. Sau
khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn, trải qua thời gian lâu, các hàng hậu sinh theo
học Tam Tạng và các Chú giải, không phải vị nào cũng có khả năng hiểu rõ đúng
đắn theo chánh pháp. Do đó, quý Ngài Đại Trưởng Lão thông thuộc Tam Tạng, thông
hiểu các Chú giải, biên soạn những bộ Phụ chú giải (Ṭīkāpāḷi) và bộ Phụ
theo chú giải (Anuṭīkāpāḷi) để giải thích những điều khó hiểu trong Tam
Tạng và Chú giải.
Tam Tạng (Tipiṭaka) là gì?
Tam Tạng đó là Tạng Luật, Tạng Kinh, Tạng Vi Diệu Pháp mà Đức Phật đã chế định,
đã thuyết giảng kể từ khi chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, cho đến
trước khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn.
Trong Tam Tạng này, tuy có những lời dạy của chư Thánh Arahán, chư thiên, phạm
thiên, cận sự nam, cận sự nữ v.v... Nhưng những lời này được Đức Phật nhắc lại,
hoặc xác nhận, nên cũng được xem như lời dạy của Đức Phật.
Chú giải (Aṭṭhakathā) là gì?
Chú giải đó là những lời giải thích, giảng giải những điều nào khó hiểu từ trong
Tam Tạng, để giúp hiểu rõ đúng đắn theo chánh pháp. Có khi chính Đức Phật giải
thích, giảng giải những điều ấy gọi là Pakiṇṇakadesanà (thuyết giảng rải
rác); có khi chư Thánh Arahán giải thích, giảng giải.
Qua các thời kỳ kết tập Tam Tạng đều có các Chú giải, các Chú giải này được gom
lại thành các bộ Đại Chú giải.
Vào thời kỳ Phật lịch khoảng 972 năm (sau khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn), Ngài
Đại đức Mahābuddhaghosa là Bậc có trí tuệ sáng suốt, thông thuộc Tam
Tạng và thông suốt các Chú giải, Ngài từ xứ Ấn Độ đi sang đảo quốc Srilankà.
Lần đầu tiên Ngài biên soạn bộ Visuddhimagga (Thanh Tịnh Đạo),
Phật lịch 972.
Sau đó, Ngài xin chư Đại Trưởng Lão cho phép Ngài dịch toàn bộ Aṭṭhakathāpāḷi
(Chú giải) bằng tiếng Sihali (tiếng Srilankà) ra tiếng Pāḷi. Ngài
có trí tuệ sáng suốt, có khả năng đặc biệt phân loại các Chú giải thành từng
mỗi Tạng riêng biệt. Trong Chú giải của mỗi Tạng, Ngài phân chia ra thành mỗi
phần, mỗi đoạn, mỗi điều giới, mỗi bài kinh, bài kệ, đặc biệt mỗi chữ khó hiểu
trong mỗi đoạn, mỗi câu v.v...
Tất cả là một công trình vĩ đại, để lại cho các đàn hậu sinh được dễ dàng thuận
lợi để theo học pháp học Phật giáo và hành pháp hành Phật giáo.
Phụ chú giải (Ṭīkāpāḷi) và Phụ theo chú giải (Anuṭīkāpāḷi) là gì?
Những bộ Phụ chú giải (Ṭīkapāḷi) và Phụ theo chú giải (Anuṭīkāpāḷi)
là những lời giải thích, giảng giải những điều khó hiểu từ trong Chú giải.
Những bộ sách này được biên soạn sau khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn trải qua
nhiều năm sau.
Trí tuệ của các thế hệ hậu sinh mỗi ngày một kém dần; cho nên, việc theo học Tam
Tạng và Chú giải để hiểu biết đúng đắn theo chánh pháp không phải là việc dễ
dàng. Do đó, quý Ngài Đại Trưởng Lão dày công biên soạn những bộ Phụ chú giải
(Ṭīkapāḷi), bộ Phụ theo chú giải (Anuṭīkāpāḷi) thêm để
giúp cho thế hệ hậu sinh theo học pháp học Phật giáo được thuận lợi, giúp cho
hiểu rõ đúng đắn chánh pháp.
Pháp học Phật giáo là nền tảng căn bản của pháp hành Phật giáo. Cho nên, hành
giả cần phải học và hiểu rõ đúng đắn theo pháp học, đó là điều tối ư quan
trọng; bởi vì, khi hiểu đúng pháp học Phật giáo, rồi mới có thể hành
đúng theo pháp hành Phật giáo. Khi hành đúng theo pháp hành Phật giáo,
thì mới dẫn đến kết quả chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo -
4 Thánh Quả và Niết Bàn, đó là pháp thành Phật giáo, pháp giải thoát khổ
tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.
Nếu hành giả học hiểu sai về pháp học Phật giáo, thì chắc chắn hành sai pháp
hành Phật giáo. Nếu hành sai pháp hành Phật giáo, thì chắc chắn không thể dẫn
đến chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn, vẫn tiếp tục khổ tử sinh luân
hồi trong ba giới bốn loài.
Vì vậy, người nào muốn hiểu biết đúng đắn theo Tam Tạng (Tipiṭakapāḷi)
lời giáo huấn của Đức Phật, thì người ấy cần phải học hỏi, tra cứu thêm Chú
giải (Aṭṭhakathā-pāḷi) để giúp cho hiểu rõ đúng đắn. Nếu chưa hiểu rõ về
pháp ấy, thì người ấy cần phải học hỏi, tra cứu thêm Phụ chú giải (Ṭīkāpāḷi),
Phụ theo chú giải (Anuṭīkāpāḷi) để giúp cho hiểu rõ đúng đắn về pháp ấy.
Đối với các hàng Phật tử là Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni, cận sự nam, cận sự nữ theo học
pháp học Phật giáo là một phận sự quan trọng, giữ gìn và duy trì chánh pháp, để
đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc cho chính mình và truyền dạy đến
những người khác, để cùng nhau bảo tồn Phật giáo được trường tồn trên thế gian
đúng 5.000 năm, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc cho tất cả chúng
sinh, nhất là chư thiên và nhân loại.
Học thuộc lòng Tam tạng, Chú giải theo khả năng trí nhớ, trí tuệ của mình, đó là
cách ưu việt nhất, để bảo tồn pháp học Phật giáo được nguyên vẹn.
Pháp hành Phật giáo (Paṭipattīsāsana)
Pháp hành Phật giáo là pháp tiếp theo sau pháp học Phật giáo.
Giai đoạn đầu, hành giả cần phải học pháp học Phật giáo cho hiểu rõ kỹ càng lời
giáo huấn của Đức Phật, rồi bước sang giai đoạn giữa hành pháp hành Phật giáo.
Pháp hành Phật giáo là gì?
Pháp hành Phật giáo có nhiều pháp, song có 3 pháp chính là:
- Pháp hành giới.
- Pháp hành định.
- Pháp hành tuệ.
* Pháp hành giới là gì?
Pháp hành giới đó là tác ý thiện tâm, giữ gìn thân và khẩu tránh xa mọi ác
nghiệp tội lỗi. Giữ gìn giới của mình được trong sạch thanh tịnh, để
làm nền tảng cho pháp hành thiền định, pháp hành thiền tuệ.
Mỗi hạng người có giới khác nhau:
- Đối với hạng tại gia cư sĩ là cận sự nam, cận sự nữ có ngũ giới là
thường giới, còn có bát giới, cửu giới, thập giới... tùy theo khả năng.
- Đối với bậc xuất gia là Sadi, Tỳ-khưu:
* Sadi có 10 Sadi giới, 10 giới hoại phẩm hạnh Sadi, 10 giới hành phạt, 75 điều
giới hành...
* Vị Tỳ-khưu có tứ thanh tịnh giới. Trong bhikkhupātimokkasīla có 227 điều
giới, nếu tính đầy đủ trong Tạng Luật, thì có 91.805.036.000 điều giới.
Muốn giữ gìn giới được trong sạch, thanh tịnh điều trước tiên cần phải học, hiểu
rõ kỹ càng tất cả mọi điều giới của mình, rồi mới có thể hành giới được đầy đủ
trọn vẹn và trong sạch thanh tịnh. Giới có thể diệt được phiền não loại thô ở
thân và khẩu (vitikkamakilesa), để làm nền tảng cho pháp
hành thiền định, pháp hành thiền tuệ được phát triển.
* Pháp hành định là gì?
Pháp hành định đó là pháp hành thiền định. Hành giả muốn
tiến hành thiền định, điều trước tiên, cần phải học cho hiểu rõ kỹ càng 40 đề
mục thiền định; rồi chọn một đề mục thiền hữu sắc nào thích hợp với bản tánh
riêng của mình. Hành giả học hỏi kỹ càng phương pháp tiến hành của đề mục thiền
định ấy. Khi hành giả tiến hành thiền định, sử dụng đề mục thiền định ấy làm
đối tượng tiến hành thiền định. Hành giả chỉ có định tâm an trú duy nhất trong
đề mục thiền định ấy mà thôi; cho đến khi chứng đắc 5 hoặc 4 bậc thiền hữu sắc.
Sau khi đã chứng đắc các bậc thiền hữu sắc xong, nếu hành giả tiếp tục tiến
hành thiền định để chứng đắc các bậc thiền vô sắc, thì hành giả cần phải thay
đổi đối tượng thiền vô sắc. Đối tượng thiền vô sắc có 4 đối tượng theo tuần tự
từ bậc thiền thấp đến bậc thiền cao. Mỗi đối tượng thiền vô sắc có khả năng dẫn
dắt chứng đắc một bậc thiền vô sắc, có 4 bậc thiền vô sắc. Các bậc thiền có thể
đè nén chế ngự được phiền não loại trung (pariyuṭṭhānakilasa)
không phát sinh ở trong tâm. Hành giả có thể an hưởng sự an lạc của các bậc
thiền, và có thể luyện pháp thần thông.
Các bậc thiền hữu sắc cho quả tái sinh cõi trời sắc giới phạm thiên. Các bậc
thiền vô sắc cho quả tái sinh cõi trời vô sắc giới. Các bậc thiền còn có thể
làm nền tảng, làm đối tượng cho pháp hành thiền tuệ.
* Pháp hành tuệ là gì?
Pháp hành tuệ đó là pháp hành thiền tuệ. Hành giả muốn tiến
hành thiền tuệ, điều đầu tiên, cần phải học hiểu rõ kỹ càng tất cả các đối
tượng thiền tuệ là thân, thọ, tâm, pháp hay danh
pháp, sắc pháp. Khi hành giả tiến hành thiền tuệ có đối tượng
thiền tuệ, để phát sinh trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh,
sự diệt của danh pháp, sắc pháp; trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ trạng
thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã của danh pháp, sắc
pháp, dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4
Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt mọi phiền não loại vi tế
(anusayakilesa), mọi tham ái, trở thành bậc Thánh Arahán, sẽ tịch diệt
Niết Bàn, chấm dứt tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.
Pháp thành Phật giáo (Paṭivedhasāsana)
Pháp thành Phật giáo là gì?
Pháp thành Phật giáo là kết quả của pháp hành Phật giáo
trực tiếp là pháp hành thiền tuệ. Pháp thành Phật giáo đó là 4 Thánh Đạo - 4
Thánh Quả và Niết Bàn là 9 pháp Siêu tam giới.
4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả liên quan nhân quả tương xứng với nhau, Thánh Đạo nào
sinh liền cho quả Thánh Quả ấy từng đôi, từng cặp như sau:
4 Thánh Đạo
|
→
|
4 Thánh Quả
|
- Nhập Lưu Thánh Đạo
|
→
|
Nhập Lưu Thánh Quả
|
- Nhất Lai Thánh Đạo
|
→
|
Nhất Lai Thánh Quả
|
- Bất Lai Thánh Đạo
|
→
|
Bất Lai Thánh Quả
|
- Arahán Thánh Đạo
|
→
|
Arahán Thánh Quả
|
Niết Bàn chỉ là đối tượng của 4 Thánh Đạo Tâm và 4 Thánh Quả Tâm
mà thôi.
4 Thánh Đạo Tâm - 4 Thánh Quả Tâm và Niết Bàn là 9 pháp Siêu tam giới.
Sự liên quan giữa pháp học, pháp hành, pháp thành
Pháp học là nhân - Pháp hành là quả.
Pháp hành là nhân - Pháp thành là quả.
Sự liên quan giữa pháp học Phật giáo, pháp hành Phật giáo, pháp thành Phật giáo
là sự liên quan theo định luật nhân - quả. Cho nên, khi pháp này tăng trưởng,
thì pháp kia cũng tăng trưởng, hoặc do pháp kia tăng trưởng, nên pháp này cũng
tăng trưởng. Ngược lại, khi pháp này suy đồi, khiến pháp kia cũng suy đồi, hoặc
do pháp kia suy đồi, nên pháp này cũng suy đồi.
PHẬT GIÁO SUY ĐỒI (SÀSANA ANTARADHÀNA)
Phật giáo đó là lời giáo huấn của Đức Phật vô cùng cao siêu, vô cùng vi tế. Cho
nên, các hàng Phật tử là bậc xuất gia cũng như hàng tại gia cư sĩ giữ gìn, duy
trì cho được trọn vẹn không phải là điều dễ dàng. Bởi vì, Phật giáo được giữ
gìn duy trì bằng trí tuệ ba-la-mật, không phải bằng cách nào khác; mà trí tuệ
ba-la-mật càng ngày càng bị giảm dần, giảm dần theo thời gian.
Do đó, Phật giáo cũng bị mai một, bị giảm dần, giảm dần theo thời gian theo
tuổi thọ 5.000 năm của Phật giáo.
Phật giáo phát triển theo thời gian, rồi lại bị mai một cũng theo thời gian; bởi
vì, các hàng Phật tử không đủ khả năng trí tuệ ba-la-mật, để giữ gìn duy trì
Phật giáo vô cùng cao siêu, vô cùng vi tế. Đó là nguyên nhân chính làm cho Phật
giáo bị mai một dần theo thời gian.
Trong Chú giải Chi Bộ Kinh
phần ekakanipāta, giải thích về Phật giáo suy đồi như sau:
- Pháp thành Phật giáo suy đồi (Adhigama antaradhāna).
- Pháp hành Phật giáo suy đồi (Paṭipatti antaradhāna).
- Pháp học Phật giáo suy đồi (Pariyatti antaradhāna).
Pháp thành Phật giáo, pháp hành Phật giáo, pháp học Phật giáo cả 3 loại
Phật giáo này thuộc về danh pháp, không phải sắc pháp; nên Phật
giáo suy đồi không phải do lửa thiêu hủy, cũng không phải nước lũ cuốn trôi,
cũng không phải do bão tàn phá, mà Phật giáo suy đồi do bởi các hàng Phật tử là
các bậc xuất gia, các hàng tại gia càng ngày càng kém pháp hạnh ba-la-mật, nhất
là trí tuệ ba-la-mật, nên ngày càng kém đức tin, kém trí nhớ, kém trí tuệ. Đó
là nguyên nhân làm cho pháp thành Phật giáo ngày càng suy đồi, pháp hành
Phật giáo ngày càng suy đồi, pháp học Phật giáo ngày càng suy
đồi. Cả ba loại Phật giáo này có sự liên quan trực tiếp định luật nhân-quả với
nhau.
Sở dĩ pháp thành Phật giáo càng ngày càng suy đồi, là do pháp hành Phật
giáo càng ngày càng suy đồi. Pháp hành Phật giáo càng ngày càng
suy đồi, là do pháp học Phật giáo càng ngày càng suy đồi.
Phật giáo dần dần bị suy đồi theo thời gian tuổi thọ 5.000 năm của Phật giáo.
Pháp thành Phật giáo suy đồi như thế nào?
Theo Chú giải Chi Bộ Kinh phần ekakanipāta trình bày Pháp
thành Phật giáo bị suy đồi tuần tự theo thời gian 5.000 năm như
sau:
- Một ngàn năm thứ nhất: Hành giả tiến hành thiền tuệ có khả năng chứng
đắc đến bậc Thánh Arahán cùng với Tứ Tuệ Phân Tích (Catupaṭisambhidā).
- Một ngàn năm thứ nhì: Hành giả tiến hành thiền tuệ có khả năng chứng đắc
đến bậc Thánh Arahán cùng với Lục thông (Chaḷābhiññā).
- Một ngàn năm thứ ba: Hành giả tiến hành thiền tuệ có khả năng chứng đắc
đến bậc Thánh Arahán cùng với Tam Minh (Tevijja).
- Một ngàn năm thứ tư: Hành giả tiến hành thiền tuệ có khả năng chứng đắc
đến bậc Thánh Arahán chỉ diệt đoạn tuyệt mọi phiền não (sukkhavipassaka)
mà thôi.
- Một ngàn năm thứ năm: Hành giả tiến hành thiền tuệ có khả năng chứng đắc
đến bậc Thánh Bất Lai, bậc Thánh Nhất Lai, bậc Thánh Nhập Lưu và cuối cùng
không còn ai có khả năng chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu trên cõi người này
nữa. Tuy vậy, những bậc Thánh Nhân còn có sinh mạng trong cõi người này, thì
pháp thành Phật giáo vẫn chưa hoàn toàn bị tiêu hoại. Cho đến khi nào những bậc
Thánh Nhân mãn kiếp, hết tuổi thọ, do thiện nghiệp cho quả tái sinh làm chư
thiên trong cõi trời. Khi ấy, trong cõi người hoàn toàn không còn bậc Thánh
Nhân nào.
Đó là lúc pháp thành Phật giáo suy đồi hoàn toàn không còn trong cõi người
này nữa.
Trong Chú giải bài kinh Gotamīsuttavaṇṇanācó đoạn giải thích pháp thành
Phật giáo suy đồi tuần tự theo thời gian 5.000 năm như sau:
- Một ngàn năm thứ nhất: Hành giả tiến hành thiền tuệ có khả năng chứng
đắc đến bậc Thánh Arahán cùng với Tứ Tuệ Phân Tích, Lục thông, Tam Minh.
- Một ngàn năm thứ nhì: Hành giả tiến hành thiền tuệ có khả năng chứng đắc
đến bậc Thánh Arahán chỉ diệt đoạn tuyệt được mọi phiền não mà thôi.
- Một ngàn năm thứ ba: Hành giả tiến hành thiền tuệ có khả năng chứng đắc
đến bậc Thánh Bất Lai.
- Một ngàn năm thứ tư: Hành giả tiến hành thiền tuệ có khả năng chứng đắc
đến bậc Thánh Nhất Lai.
- Một ngàn năm thứ năm: Hành giả tiến hành thiền tuệ có khả năng chứng đắc
đến bậc Thánh Nhập Lưu, và cuối cùng không còn bậc Thánh Nhân nào trong cõi
người này nữa.
Đó là lúc pháp thành Phật giáo bị suy đồi hoàn toàn.
Pháp hành Phật giáo suy đồi như thế nào?
* Pháp hành thiền tuệ suy đồi: Thời gian đầu Phật giáo,
hành giả tiến hành thiền tuệ có khả năng chứng đắc các bậc Thánh, càng ngày
càng tăng trưởng. Sau khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn, hành giả tiến hành thiền
tuệ còn có khả năng chứng đắc đến bậc Thánh Arahán. Về sau trải qua thời
gian theo tuần tự, hành giả tiến hành thiền tuệ có khả năng chứng đắc các bậc
Thánh bậc thấp dần, theo tuần tự thời gian từ bậc Thánh Bất Lai, bậc Thánh Nhất
Lai, bậc Thánh Nhập Lưu; đến thời kỳ gần mãn tuổi thọ của Phật giáo, hành giả
tiến hành thiền tuệ không đúng theo pháp hành Trung Đạo và cuối
cùng không còn hành giả tiến hành thiền tuệ nữa.
Đó là thời kỳ pháp hành thiền tuệ bị suy đồi trong cõi người.
* Pháp hành thiền định suy đồi: Cũng như pháp hành thiền
tuệ, thời kỳ đầu Phật giáo, hành giả tiến hành thiền định có khả năng chứng đắc
các bậc thiền hữu sắc, bậc thiền vô sắc, ngày càng tăng trưởng. Sau khi Đức
Phật tịch diệt Niết Bàn, hành giả tiến hành thiền định có khả năng chứng đắc
giảm dần từ các bậc thiền vô sắc đến các bậc thiền hữu sắc. Về sau, trải qua
thời gian theo tuần tự, hành giả tiến hành thiền định có khả năng chứng đắc các
bậc thiền bị giảm xuống theo tuần tự từ bậc thiền cao xuống dần bậc thiền thấp,
cho đến thời kỳ hành giả tiến hành thiền định không đúng theo phương pháp và
cuối cùng không còn hành giả tiến hành thiền định nữa.
Đó là thời kỳ pháp hành thiền định bị suy đồi trong cõi người.
* Pháp hành giới suy đồi: Cũng như pháp hành thiền tuệ và
pháp hành thiền định, thời kỳ đầu Phật giáo, hành giả giữ gìn giới trong sạch
và trọn vẹn hoàn toàn. Sau khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn, chư
Tỳ-khưu có đức
tin trong sạch nơi Tam Bảo, nên hết lòng tôn kính tất cả mọi điều giới mà Đức
Phật đã chế định, ban hành cho Tỳ-khưu,
Tỳ-khưu ni. Chư Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni
nghiêm chỉnh giữ gìn mọi điều giới của mình được trong sạch trọn vẹn, để làm
nền tảng cho pháp hành thiền định, pháp hành thiền tuệ. Về sau, trải qua thời
gian theo tuần tự, chư Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni càng ngày càng giảm dần đức tin, xem
thường những điều giới nhẹ, nên phạm giới dubbhāsita āpati (ác
khẩu), phạm giới dukkaṭa āpati (tác ác), và dần
dần tiếp theo phạm giới pācittiya āpati (ưng đối trị), phạm giới
thullaccaya āpati (giới trọng) các loại giới này còn thuộc về
loại giới nhẹ. Từ đó về sau, thời gian theo tuần tự
Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni phạm
giới nặng, như phạm giới Saṃghādisesa āpati (Tăng tàn) song
vẫn còn giữ phạm hạnh Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni; cho đến khi
Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni nào
phạm giới pārājika āpati (bất cộng trụ). Khi ấy,
Tỳ-khưu, Tỳ-khưu
ni ấy không còn phạm hạnh Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni nữa.
Thời gian khoảng 500 năm sau khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn,
Tỳ-khưu ni không
còn nữa, chỉ còn có Tỳ-khưu, theo tuần tự thời gian đến khi gần mãn tuổi thọ
Phật giáo 5.000 năm; Tỳ-khưu càng ngày càng kém đức tin, nên giữ gìn giới hạnh
của mình không còn trong sạch, cho đến khi không còn hành giới nữa.
Đó là thời kỳ pháp hành giới bị suy đồi và cũng là thời kỳ pháp hành Phật giáo
bị suy đồi trong cõi người.
Pháp học Phật giáo suy đồi như thế nào?
Pháp học Phật giáo đó là học thuộc lòng Tam Tạng và Chú giải Pāḷi,
lời giáo huấn của Đức Phật.
Pháp học Phật giáo là nhân, pháp hành Phật giáo là quả, nhân và quả đi đôi với
nhau. Sở dĩ, pháp hành Phật giáo bị suy đồi tuần tự theo thời gian 5.000 năm
tuổi thọ của Phật giáo, là vì pháp học Phật giáo bị mai một, bị suy đồi theo
thời gian ấy.
Ban đầu, chư Đại Trưởng Lão giữ gìn duy trì Tam Tạng và Chú giải Pāḷi,
pháp học Phật giáo đầy đủ y theo bổn chánh qua các kỳ kết tập Tam Tạng và Chú
giải Pāḷi. Về sau, tuần tự theo thời gian chư Đại đức càng ngày càng kém
đức tin, kém pháp hạnh ba-la-mật, kém trí nhớ, trí tuệ, nên không đủ khả năng
thông thuộc Tam Tạng và Chú giải Pāḷi. Đó là nguyên nhân làm cho pháp
học Phật giáo bị mai một, bị suy đồi tuần tự theo thời gian như sau:
Trước tiên, Tạng Vi Diệu Pháp (Abhidhammapiṭakapāḷi) bị mai
một, bị suy đồi.
Tạng Vi Diệu Pháp gồm có 7 bộ lớn:
- Dhammasaṅganīpāḷi (bộ Pháp Tụ Hội)
- Vibhaṅgapāḷi (bộ Pháp Phân Tích)
- Dhātukathāpāḷi (bộ Pháp Phân Loại)
- Puggalapaññattipāḷi (bộ Nhân Chế Định)
- Kathāvatthupāḷi (bộ Pháp Luận Đề)
- Yamakapāḷi (bộ Pháp Song Đối)
- Paṭṭhānapāḷi (bộ Pháp Duyên Hệ)
Trong 7 bộ này, đầu tiên bộ Paṭṭhānapāḷi (bộ Pháp Duyên Hệ), là bộ
lớn nhất, vi tế sâu sắc nhất bị mai một trước, tiếp theo bộ Yamakapāḷi (bộ
Pháp Song Đối), tuần tự bộ Kathāvatthupāḷi (bộ Pháp Luận Đề),
bộ Puggalapaññattipāḷi (bộ Nhân Chế Định), bộ Dhātukathāpāḷi
(bộ Pháp Phân Loại), bộ Vibhaṅgapāḷi (bộ Pháp Phân Tích),
cuối cùng bộ Dhammasaṅganīpāḷi (bộ Pháp Tụ Hội).
Tạng Vi Diệu Pháp bị mai một, bị suy đồi hoàn toàn còn Tạng Kinh và Tạng Luật là
pháp học Phật giáo vẫn còn tồn tại.
Tiếp theo Tạng Kinh (Suttantapiṭakapāḷi) bị mai một, bị suy
đồi.
Tạng Kinh có 5 bộ lớn:
- Dīghanikāyapāḷi (Trường Bộ Kinh)
- Majjhimanikāyapāḷi (Trung Bộ Kinh)
- Samyuttanikāyapāḷi (Đồng Loại Bộ Kinh)
- Aṅguttaranikāyapāḷi (Chi Bộ Kinh)
- Khuddakanikāyapāḷi (Tiểu Bộ Kinh)
Trong 5 bộ này, đầu tiên Aṅguttaranikāyapāḷi (Chi Bộ Kinh)
bị mai một trước. Chi Bộ Kinh gồm có 11 phần, gồm những bài kinh (bài pháp) 1
chi, 2 chi v.v... cho đến những bài kinh có 11 chi. Đầu tiên, những bài kinh có
11 chi bị mai một trước, tiếp theo những bài kinh có 10 chi và tuần tự những
bài kinh có 9 chi, có 8 chi, có 7 chi, có 6 chi, có 5 chi, có 4 chi, có 3 chi,
có 2 chi, cuối cùng những bài pháp 1 chi bị mai một hoàn toàn.
Chi Bộ Kinh bị mai một, bị suy đồi hoàn toàn.
Tiếp theo Saṃyuttanikāyapāḷi (Đồng Loại Bộ Kinh)
bị mai một, bị suy đồi.
Đồng loại Bộ Kinh có 5 phần:
- Sagāthavaggasamyuttapāḷi
- Nidānavaggasamyuttapāḷi
- Khaṇdhavaggasamyuttapāḷi
- Sāḷāyatanasamyuttapāḷi
- Mahāvaggasamyuttapāḷi
Trong 5 phần này, đầu tiên phần Mahāvaggasamyuttapāḷi bị mai một
trước, tiếp theo phần Sāḷāyatanasamyuttapāḷi, tuần tự phần
Khaṇdhavaggasamyuttapāḷi, phần Nidānavaggasamyuttapāḷi, và cuối
cùng phần Sagāthavaggasamyuttapāḷi, bị mai một hoàn toàn.
Đồng Loại Bộ Kinh bị suy đồi, bị mai một hoàn toàn.
Tiếp theo Majjhimanikāyapāḷi (Trung Bộ Kinh) bị mai một, bị suy
đồi.
Trung Bộ Kinh có 3 phần:
- Mūlapaṇṇāsapāḷi
- Majjhimapaṇṇāsapāḷi
- Uparipaṇṇāsapāḷi
Trong 3 phần này, đầu tiên phần Uparipaṇṇāsapāḷi bị mai một trước, tiếp
theo phần Majjhimapaṇṇāsapāḷi và cuối cùng phần Mūlapaṇṇāsapāḷi bị
mai một hoàn toàn.
Trung Bộ Kinh bị mai một, bị suy đồi hoàn toàn.
Tiếp theo Dīghanikāyapāḷi (Trường Bộ Kinh) bị mai một, bị suy đồi.
Trường Bộ Kinh có 3 phần:
- Sīlakkhandhavaggapāḷi
- Mahāvaggapāḷi
- Pāthikavaggapāḷi
Trong 3 phần này, đầu tiên phần Pāthikavaggapāḷi. bị mai một, bị
suy đồi, tiếp đến phần Mahāvaggapāḷi và cuối cùng phần Sīlakkhandhavaggapāḷi
bị mai một hoàn toàn.
Trường Bộ Kinh bị mai một, bị suy đồi hoàn toàn.
Tiếp theo Khuddakanikāyapāḷi (Tiểu Bộ Kinh) bị mai một, bị suy đồi
hoàn toàn.
Cuối cùng Tạng Kinh bị mai một, bị suy đồi hoàn toàn, còn Tạng Luật là pháp học
Phật giáo vẫn tồn tại.
Tạng Luật (Vinayapitākapāḷi) bị mai một, bị suy đồi.
Tạng Luật có 5 bộ:
- Bộ Pārājikapāḷi
- Bộ Pācittiyapāḷi
- Bộ Mahāvaggapāḷi
- Bộ Cūḷavaggapāḷi
- Bộ Parivārapāḷi
Trong Tạng Luật có 5 bộ, đầu tiên bộ Parivārapāḷi bị mai một trước, tiếp
theo bộ Cūḷavaggapāḷi tuần tự đến bộ Mahāvaggapāḷi, bộ
Pācittiyapāḷi và cuối cùng bộ Pārājikapāḷi bị mai một, song
chỉ còn Uposathakkhan-dhaka là pháp học Phật giáo vẫn chưa bị mai một.
Về sau, Uposathakkhandhaka bị mai một, cuối cùng không còn một ai
thuộc lòng được bài kệ gồm có 4 câu. Khi ấy, pháp học Phật giáo bị
mai một, bị suy đồi hoàn toàn.
Tóm lại, pháp học Phật giáo, pháp hành Phật giáo, pháp thành Phật giáo trong
3 loại Phật giáo này, pháp học Phật giáo là nguồn gốc, là nền tảng căn bản của
pháp hành và pháp thành Phật giáo.
Thật vậy, nếu học pháp học hiểu biết đúng đắn, kỹ càng, thì khi hành pháp
hành mới đúng đắn được; nếu hành pháp hành đúng, thì pháp thành
mới phát sinh, dẫn đến sự giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn
loài. Ngược lại, nếu học pháp học mà hiểu sai, thì khi hành pháp hành
sai, nếu hành pháp hành sai, thì pháp thành không phát sinh,
không thể giải thoát khổ sinh, mà vẫn tiếp tục chịu khổ tử sinh luân hồi trong
ba giới bốn loài.
Pháp học Phật giáo gồm có Tam Tạng và Chú giải Pāḷi lời
giáo huấn của Đức Phật. Tam Tạng: Tạng Luật, Tạng Kinh, Tạng Vi Diệu Pháp;
trong 3 tạng ấy Tạng Luật là nền tảng căn bản của Phật giáo, cũng là tuổi thọ
của Phật giáo.
Thật vậy, dù Tạng Vi Diệu Pháp và Tạng Kinh bị mai một hoàn toàn,
chỉ còn có Tạng Luật, Phật giáo vẫn còn tồn tại. Trong Tạng Luật phần Uposathakkhandhaka
liên quan đến hành Tăng sự, Uposatha tụng đọc, Bhikkhupāṭīmokkha
tụng điều giới của Tỳ-khưu... là quan trọng. Chư
Tỳ-khưu còn hành tăng sự, còn
tụng đọc Bhikkhupāṭimokkhisīla hằng tháng vào ngày rằm và ngày cuối
tháng, là Phật giáo vẫn còn tồn tại trên cõi người này.
Trong kỳ kết tập Tam Tạng và Chú giải Pāḷi lần thứ nhất, phần đầu Nidāna
dạy rằng:
Vinayo nāma Buddhasāsanassa āyu
Vinaye ṭhite, sāsanaṃ ṭhitaṃ hotu.
Tạng Luật là tuổi thọ Phật giáo
Khi Tạng Luật còn được trường tồn
Thì Phật giáo còn được trường tồn.
Tiếp theo