Trung Tâm Hộ Tông  Trang Chủ


Thanh Gươm Ba-La-Mật

Tác giả: Minh Đức Triều Tâm Ảnh



Con ngỗng trời vàng

Thuở xưa, tại khu rừng Daliko bên bờ sông Đại Hằng, có cây bồ-đề đại thọ, ngàn năm tuổi, vươn lên cao, xòe tán rộng, che phủ cả một vùng. Đây là ngôi làng, là cố hương, là tổ ấm cho muôn chim đủ loại, đủ sắc màu làm nơi tụ hội, hát ca, reo vui, hoặc ái ân tình tự...

Chủ nhân của cây đại thọ là vị thần có râu trắng, hỷ xả, nhiều từ tâm. Ngài đón nhận muôn chim như cháu ngoại, như con cưng hoặc như bằng hữu.

Lâu lâu, vị Thọ Thần lại xuất hiện, như tiên ông trong truyện cổ tích, cầm chiếc gậy mây và nở nụ cười, nói chuyện vui với chúng hoặc vài lời dạy bảo khôn ngoan của bậc già cả.

Lâu lâu, vị Thọ Thần râu trắng lại rướm nước mắt vì bùi ngùi thương tiếc: con chim hoàng oanh kia bị sa lưới mất rồi, con sáo sậu nọ bị lú bùa mê nên chúng bắt. Chứng kiến sự chết chóc do tai nạn, do bị ăn thịt, do bị nhốt trong chốn ngục tù vàng son thường đau xót hơn là chết do bệnh tật hay già yếu. Sau mỗi lần như thế, vị Thọ Thần lại khuyên muôn chim nên sống đời yểm ly đô thị, làng mạc, nơi có loài người. Ôi! Cái loài người kia tâm địa thật khó lường! Sự độc ác, gian xảo và quỷ quyệt của chúng còn ngàn lần ghê gớm hơn cọp beo hay chồn cáo.

Tuy thế, chỉ chừng mực nào thôi. Đã nhiều lần, vị Thọ Thần đành phải xuôi tay bất lực, trơ mắt nhìn định luật nhân quả nghiệp báo lạnh lùng!

Đã ngàn năm rồi, vị Thọ Thần cùng cây đại thọ chứng kiến sự thịnh suy, còn mất, thời gian, sự tàn lụi, tử vong, đến rồi đi, đi rồi đến... Cảm thán, vị Thọ Thần bước lên đầu cây, thốt lên một bài ca chưa từng được nghe:

“Ôi! Vĩ đại thay là sự vô thường của ngươi!

Ôi! Kinh khiếp thay là sự rỗng không của ngươi!

Ôi! Khó kham nhẫn thay là trò ảo hóa, ma mị, lá vàng, lá xanh cùng tử vong bên trong mầm sự sống!

Ta đưa cao ngọn cờ munja! Ta sẽ chiến thắng ngươi với trò chơi yểm ly trần thế.

Đời sống của ta: không thỏa hiệp

Vinh quang của ta: trăng gió giữa bầu khuya!

Niềm vui của ta là sự tĩnh an, ngơi nghỉ của linh hồn!

Niềm yêu thương của ta là sự sống đang trôi chảy đến muôn cùng!

Ta không biết nhận về, chỉ biết cho đi!

Thịnh suy, còn mất ta chưa hề sợ hãi!

Chỉ xót xa sinh chúng nhỏ nhoi này!

Chỉ xót xa mật ngọt thấm đầy môi!”

Hôm kia, vào mùa xuân, một con Ngỗng Trời Vàng xuất hiện. Chưa bao giờ vị Thọ Thần thấy được một con chim đẹp như thế! Những chiếc lông vàng óng ả như được dát bằng một loại vàng ròng tinh chất, lại lóng lánh phản chiếu những giọt sương mai, túa ra những tia tía hồng rực rỡ.

Vị Thọ Thần chiêm ngưỡng một hồi rồi bước ra với chiếc gậy mây, nụ cười hỷ xả làm rung rinh hàm râu tuyết bạch:

- Chào bạn  Ngỗng Trời Vàng thân mến! Ta là Thọ Thần tại vương quốc này. Bạn xuất hiện như phép lạ. Chiếc y vàng nơi thân bạn thật là rực rỡ và tuyệt diệu xiết bao! Chẳng hay bạn từ quê hương nào mà đến đây?

Con Ngỗng Trời Vàng vươn cao chiếc cổ tua vàng vương giả, thò cái mỏ dát son lấm tấm những hạt ngọc nâu tươi, cất giọng như pha lê reo giữa trời mưa:

- Kính chào vị tiên ông Thọ Thần khả kính! Tôi từ dãy Tuyết Sơn hùng vĩ giáng lâm, sau ngôi rừng của những ẩn giả bện tóc hiền thiện. Chẳng hay ngài có điều gì cần dạy bảo chăng?

- Không dám! Ta chỉ hiếu kỳ, ngạc nhiên và thích thú thôi. Thấy được bộ lông vàng óng trên thân bạn, ta hoan hỷ vô cùng. Bộ lông vàng óng hy hữu kia, không phải không có nhân duyên, chắc hẳn nó phải được sinh ra từ lòng phước báu nào trong quá khứ? Bạn có nhớ là do nhân gì, duyên gì mà bạn được hưởng phước tướng mỹ miều, sang cả như vậy không?

Ngỗng Trời Vàng hốt nhiên như trầm tư, như nhập định, như cúi nhìn vào vùng mịt mù, dày sâu của ký ức tiền kiếp:

- Thưa ngài, thưa tiên sinh! Ngỗng Trời Vàng mở choáng mắt ra - May mắn làm sao là tôi còn nhớ, còn biết! Ngỗng Trời Vàng sửa sang lại dáng đứng để bắt đầu cuộc nói chuyện lâu - Trước đây, một kiếp tức thì thôi, như mới ngày hôm qua, như vừa một cái chớp mắt, tôi sinh ra trong một gia đình tiện dân nghèo khổ. Đến tuổi trưởng thành, tôi lấy vợ rồi sinh được ba con. Chúng đều là gái. Khi có vợ, có con, tôi tần tảo làm ăn, mong cho chúng có được manh áo lành, bữa cơm no bụng. Nhưng mà khổ thay! Suốt đời chúng tôi cứ mãi ăn gạo có trấu, ăn tấm có mùi chua. Và áo quần thì vá đùm, vá chụp, chẳng có cái nào lành lặn. Vì sự đòi hỏi cấp thiết của đời sống nên đôi khi tôi phải bán rẻ một chút linh hồn. Tôi sinh ra nhỏ mọn, giật giành. Bị chi phối bởi sân nhuế và xan tham, tôi đã làm một vài việc bất thiện. Tuy vậy, tự sâu xa tâm hồn, tôi vẫn là con người hiền lương, vô hại. Cái đó lên án tôi, và bắt tôi quay về với lẽ phải, với đạo đức chung chung giữa người đời với nhau...

Ngỗng Trời Vàng ngước nhìn vị Thọ Thần với tia mắt như thoáng có bóng tối:

- Thưa Ngài, đời tôi như vậy đó, chẳng có công đức nào, chẳng có phước sự gì. Tâm trí ù lì, đần độn mãi bởi cái ăn, cái mặc, ít khi mà cõi lòng được nhẹ nhàng, khoảng khoát như mây trắng, như không rộng trời cao! Tâm trí tôi cho đến lúc lâm chung là cái trì trệ, nặng nề, tối đen, hôn ám... Ngỗng Trời Vàng lại lắc đầu - có sáng sủa nào đâu, có an lạc nào đâu? Thế là si mê kéo tôi đi, sinh ra cái thân súc vật chẳng tốt đẹp gì!

Ngỗng Trời Vàng nói xong, thở ra, đôi mắt lờ mờ như sương ướt. Vị Thọ Thần thông cảm hoàn cảnh của Ngỗng Trời Vàng, yên lặng, một lát sau mới gật đầu:

- Nhân quả là vậy, bạn ạ! Ta không thể trách ai được. Phải thấy rõ nhân quả để sống được an lạc, hạnh phúc hơn. Nhân quả là ngọn đèn soi sáng, là chỗ nương tựa cho đời mình. Nhưng trong cái nghiệp chung vẫn có cái nghiệp riêng. Cũng là thân chim, nhưng thân chim như bạn cũng thảnh thơi và an lạc như kiếp Thọ Thần, như tôi, chẳng khác mấy. Cái quả ấy là do nhờ bạn đã chu toàn nghĩa vụ gia đình, lo cho vợ, cho con, hy sinh bản thân mình vì ấm no của kẻ khác. Bạn có thấy cái riêng đó không? Ngoài ra, bạn lại có cái riêng khác nữa, cái riêng trỗi vượt. Cái riêng này chắc hẳn phải do một việc làm hy hữu, một công đức hy hữu tạo thành. Chiếc y vàng vương giả, diễm lệ nơi thân bạn không phải là không có nhân duyên vậy.

Ngỗng Trời Vàng sực nhớ lại:

- Cái đó thì có, tôi nhớ rồi. Ngày kia, tôi lên rừng kiếm củi độ nhật. Trên đường về, qua suối, tôi gặp một người. Ôi, sao trên đời lại có kẻ khổ sở đến thế? Tôi đã khổ, đã ốm o gầy mòn, da trơ xương mà kẻ kia còn khổ hơn! Tôi còn được chiếc áo rách, vị kia lại mặc bằng lá, bằng vỏ cây. Tôi bèn dừng lại và hỏi: “Này người ơi! Sao người khổ đến thế? Đừng nói đến cơm trấu và tấm chua, ngay đến nước vo gạo để uống cầm hơi, có lẽ người cũng chẳng có? Đừng nói đến chuyện áo rách, áo lành, cái lá cây, vỏ cây kia cũng đã tơi tả! Người chẳng có họ hàng, bà con quyến thuộc gì cả hay sao?” Khi nghe tôi nói thế, vị kia ngước lên nhìn tôi với đôi mắt hiền từ và đầy thương hại. Vị ấy nói: “Này người tiều phu tốt bụng! Nghèo đói cơ hàn là bạn của bậc ẩn sĩ. Chiếc áo vỏ cây là áo giáp thiện hạnh ngăn che sự xâm phạm độc hại của ác uế ngũ trần. Bà con quyến thuộc của ta là vô tham, vô sân, tàm, quý và từ bi hỷ xả. Như vậy, đời sống của ta đã quá đủ đầy, đã quá an lạc. Sao ngươi với gánh củi trên vai, với gánh vợ con trên lưng, lại thương xót ta là người đã buông hết mọi gánh nặng, là người đang sống đời hạnh phúc của các bậc đại tiên?

Ngỗng Trời Vàng nghĩ lấy hơi rồi tiếp:

- Lời nói của vị kia chắc hẳn là hay lắm, nhưng tôi không hiểu hết ý nghĩa. Trên đường về nhà, nghe có gió lạnh, biết rằng mùa đông đã đến, nếu không có tấm vải nào, vị kia làm sao chống nổi với rét buốt giữa rừng già? Nghĩ vậy, động mối từ tâm, dấu vợ, dấu con, tôi mở rương lấy một tấm vải vàng. Đây là tấm vải bó tử thi mà tôi lượm được nơi nghĩa địa, đã giặt giũ sạch sẽ. Tấm vải không quý với ai, nhưng quý với tôi. Thế là tôi chạy lên rừng, tìm kiếm người đói rách, thân tặng tấm vải đến con người đó với tất cả tấm lòng thương xót của mình. Sau này, nghe người ta nói, vị ấy là một nhà tu khổ hạnh, một Sa-môn hay một vị Độc Giác Phật gì đó!

Vị Thọ Thần gật đầu:

- Đúng vậy, chính đó là nhân, là duyên cho bộ lông hoàng kim nơi thân bạn. Cái quả trổ sanh của nó còn vạn lần vi diệu hơn nữa kia. Rồi bạn sẽ được nương tựa dài lâu. Ta thành thật chúc mừng cho bạn vậy.

Vị Thọ Thần chợt nhìn Ngỗng Trời Vàng rồi với giọng thiết tha:

- Như là bổn phận của một lão niên, như là kinh nghiệm của người đã sống quá nhiều, quá lâu, đã chứng kiến không biết cơ man nào là chuyện trong đời sống bất trắc và bấp bênh này, ta có một vài lời khuyên, hỡi bạn Ngỗng Trời Vàng thân mến!

- Ngài cứ nói - Ngỗng Trời Vàng cúi đầu tỏ vẻ trân trọng, tín nhận - chắc hẳn đấy là những lời dạy bảo đầy khôn ngoan và sáng suốt.

- Không dám đâu! Ta chỉ muốn nói lên sự thực thôi. Là bộ lông hoàng kim của bạn, nó đẹp quá, nó quý quá nên dễ đưa đến tai họa. Vậy thì bắt đầu từ ngày hôm nay, bạn chớ có khinh suất mà đi đến đô thị, làng mạc, ruộng đồng, nghĩa là nơi có loài người. Thấy được bộ lông hoàng kim của bạn, họ sẽ phát tâm tham muốn. Họ sẽ bắt, sẽ bắn, sẽ đặt bẫy. Dẫu bạn có biết trước, có khôn ngoan cách mấy cũng không qua được sự ma mảnh, quỷ quyệt của loài người. Và như thế, tính mạng của bạn sẽ bị đe dọa thường xuyên, nguy cơ bị rình rập ở mọi nơi, mọi chỗ. Bạn hãy suy nghiệm kỹ về điều đó.

Ngỗng Trời Vàng thở dài.

- Chí lý và chân tình thay là những lời khuyên tốt. Nhưng biết làm thế nào bây giờ? Ở chốn loài người, tôi còn vợ và ba con. Có tôi, chúng sẽ đỡ khổ một phần. Không có tôi, từ lâu chắc chúng phải đi ở thuê, ở mướn, làm việc cực nhọc với nước mắt và đòn vọt. Biết là hiểm họa sẽ đến, nhưng tôi không thể từ bỏ ý định về thăm chúng được.

Vị Thọ Thần thương hại nói:

- Thương vợ, thương con là những tình cảm tốt đẹp. Nhưng ái niệm thái quá lại sinh thêm phiền não, đau khổ cho mình. Bạn đã trút bỏ hết bổn phận nơi cõi người cùng với thân xác và hơi thở của bạn rồi. Bây giờ là nghiệp khác, đời sống khác, bổn phận khác. Hãy nghe lời khuyên của ta mà ở đây hoặc trở lại rừng sâu, nơi chỗ của những ẩn sĩ bện tóc hiền thiện tại Tuyết Sơn. Như thế, bạn sẽ được an lành như trong ngôi nhà của mẹ.

Ngỗng Trời Vàng vẫn lắc đầu:

- Biết là lời khuyên chí tình, chí thiết nhưng tôi vẫn không thể nghe theo. Tôi an tâm mà sống đời ẩn sĩ sao được, khi vợ con tôi đang nai lưng làm trâu ngựa cho người, sống đời tối tăm, cơ cực. Tôi phải về làng để tìm cách giúp đỡ họ thôi.

Vị Thọ Thần với tâm của mình biết tâm của chúng sanh, biết nghiệp sẽ đến như thế nào cho con Ngỗng Trời Vàng này. Nhưng mọi lời khuyên đã như sương trượt đầu lông. Ngài chợt đứng cao mười tầm thốt nốt giữa hư không, cất lời ca hòa lẫn với mây ngàn cùng với gió núi:

“- Hỡi đàn chim bay về phương nam! Ngươi đã biết phương kia trời nắng ấm!

Hỡi đàn chim bay về phương bắc! Ngươi biết rằng nơi ấy tuyết lạnh đã tan đi!

Thế nhưng vẫn có kẻ ra đi trong tăm tối, chẳng biết hướng đến là đâu, chẳng biết chuyện gì sẽ xảy ra!

Trái chín phải đợi tiết, hoa nở phải đợi thời.

Vậy này bạn vàng yêu quý! Hãy thôi đi sự cứu độ vô vọng! Cát bụi quá nhiều làm sao thấy được tấm lòng tốt đẹp của nhau? Đêm đen quá sâu, làm sao chỉ lối dò đường bằng ngọn đèn quá mọn? Đôi tay của chút ít phước báu chẳng thể ngăn nổi dòng sông nghiệp lực? Cõi loài người gian ác và phản trắc kia sẽ vặt trụi lông cánh của bạn mất thôi!”

Ngỗng Trời Vàng cúi đầu lắng tai nghe với nước mắt, nhưng tâm ái luyến vợ con quá nặng, đành phải lắc đầu từ chối.

Vị Thọ Thần bùi ngùi nói lời cuối cùng:

- Nơi khu rừng Daliko bên bờ sông Đại Hằng yên tĩnh, nơi vương quốc hòa bình này, có ta, luôn mong ngóng sự trở về của bạn. Không những bạn trở về với lông cánh trần trụi, cho chí nhưng vết thương đau cả thể xác lẫn tâm hồn, gốc đại thọ bồ-đề này muôn đời vẫn là tổ ấm của chúng ta.

Ngỗng Trời Vàng cúi đầu như tri ân vị Thọ Thần rồi từ giã. Vị Thọ Thần nhìn theo bóng chim mất hút cuối phương trời xa, nhòa lệ ...

Ngỗng Trời Vàng sau khi chia tay với vị Thọ Thần, đêm đi, ngày nghỉ. Với đôi cánh vàng rực rỡ lướt qua hư không, sợ sự dòm ngó của loài người, nên chim bay rất chậm vào ban đêm, ngày thì ẩn trong những lùm cây rậm rạp. Lâu ngày chầy tháng cũng về đến ngoại ô thành Ba-la-nại.

Đúng như dự đoán của Ngỗng Trời Vàng, sau khi nó mất, vợ và ba con phải đi ở thuê cho một hào phú cay nghiệt, ăn cơm với gạo tấm chua, mặc áo quần thô ráp như da vỏ cây; lại còn phải chịu sự chửi mắng, đánh đập thường xuyên nữa. Dẫu có thương vợ, thương con cũng chỉ còn biết sa nước mắt. Chim ẩn mình kín đáo trong lùm cây đại thọ đầu làng, tìm cơ hội để giúp đỡ họ.

Trong sương mờ đầu xuân, trên quan lộ, dưới tầm mắt của chim chợt xuất hiện những chiếc xe ngựa sang trọng. Con trai, con gái trang sức những chiếc lông trên áo, trên mũ, điểm xuyết là những đóa hoa thắm tươi.

Ngỗng Trời Vàng nghĩ thầm:

“- Ôi! Những vật trang sức xấu xí kia thì có gì đáng để hãnh diện? Nếu như chúng mà có được những chiếc lông hoàng kim của ta thì chúng sẽ còn đẹp hơn, trẻ trung hơn, sang trọng hơn. Sao ta không giúp vợ con ta mỗi ngày một chiếc lông để chúng bán cho người ta làm vật trang sức tối thượng?”.

Trời cũng dễ chìu lòng người, chỉ lát sau là vợ và con nó xuất hiện với cày, với cuốc trên vai. Đợi họ đến gần, Ngỗng Trời Vàng bèn nói vào tai họ bằng âm thanh của vị thần khuất mặt:

- Hỡi những kẻ cùng khổ đáng thương! Ta không nỡ thấy các ngươi sống đời nô lệ bần hàn. Vậy mỗi buổi sáng, hãy đến đây, đứng xa dưới cội cây, ta sẽ ban cho các ngươi bổng lộc của cõi trời.

Người nữ tiện dân già cùng ba con nghe tiếng chứ không thấy người, bỏ cuốc, bỏ cày, chấp tay hướng đến gốc cây vái lia lịa:

- Vị Thọ Thần, ngài ở đâu? Đây là lời hứa chắc thật cho những kẻ tội nghiệp chúng con?

Không có ai đáp lại. Bỗng, một vật vàng sáng vọt ra từ lùm cây, rơi xuống trước mặt họ. Cả bốn người đồng sửng sốt. Đấy là một chiếc lông to bằng vàng mười láng mịn đang lóng lánh dưới mặt trời. Chẳng phải là giấc mơ, chẳng phải mắt họ quáng mờ, sự thực đang nằm ở tầm tay họ đây!

Các cô con gái đồng xôn xao:

- Không biết nặng bao nhiêu ma-sa-ka?

- Có lẽ hơn trăm ma-sa-ka?

Người nữ tiện dân già nói với ba con rằng:

- Nếu bán làm vật trang sức cho hạng dân dã thì nó chỉ là chiếc lông đẹp, không hơn không kém. Nếu bán tại tiệm kim hoàn thì giá trị chỉ đo đếm bằng phân, bằng lạng. Muốn được giá cao nhất, hãy bán cho các vị tiểu thư, các bà công nương, mệnh phụ. Khi mà chiếc lông vàng đã tôn sắc đẹp của họ lên, và chắc hẳn như vậy, họ sẽ quẳng cho ta cả nắm vàng không thương tiếc. Tiền bạc đối với kẻ giàu sang, quý phái, ăn không ở rỗi ấy thì có nghĩa lý gì!

Thế là bỏ cày, bỏ cuốc, với chiếc lông vàng, họ đi vào thành phố, quay lưng với Thọ Thần không một lời cảm ơn. Ngỗng Trời Vàng hân hoan nhìn theo họ, nghĩ tốt rằng: “Vì vui mừng quá, khi đi, họ quên chào, cũng là sự thường!”.

Ngày hôm sau, tiếng con Ngỗng Trời Vàng lại vẳng đến tai họ:

- Các ngươi đã khôn ngoan nên bán được giá mà không bị các ông chủ tiệm vàng lường gạt, không bị bọn trọc phú dè bỉu, ỉ ôi! Bây giờ hãy nhận thêm một chiếc lông nữa, bán cho bà công chúa giàu sang với chiếc xe bốn ngựa lộng lẫy sắp đi qua đây. Cộng với số tiền hôm qua, các ngươi hãy mua cho mình những bộ quần áo lành lặn, và ăn những bữa cơm trắng có thịt, có rau.

Thế rồi, một chiếc lông vàng chóe nữa vọt ra. Chốc sau, quả nhiên có chiếc xe bốn ngựa với bà công chúa sang trọng đi qua. Sau khi ngắm kỹ chiếc lông vàng trân quý, bà công chúa sai thị nữ quẳng cho họ một nắm tiền vàng, lại còn ân cần dặn rằng:

- Đây là vật trang sức chỉ để dành riêng cho người hoàng gia, chính bọn giai cấp quý tộc cũng không xứng đáng dùng. Hỡi bọn tiện dân nghèo khổ kia! Ta là công chúa con vua nước Ma-kiệt-đà, ta không tiếc tiền đâu. Có bao nhiêu chiếc lông vàng như thế này, hãy mang đến cung điện bán hết cho ta!

Cả gia đình, vợ và con Ngỗng Trời Vàng thế là thoát kiếp bần cùng, cơ cực. Từ ăn no, mặc ấm, họ đã ăn ngon, mặc đẹp. Từ màn trời chiếu đất, họ đã có một ngôi nhà, một mảnh vườn. Tuy thế, người nữ tiện dân già vẫn chưa bằng lòng. Bà ước mơ một đời sống sang trọng hơn, quý phái hơn, với tôi trai, tớ gái, với thóc đụn đầy kho, với lên xe xuống ngựa, với lầu vàng cửa bạc... Người nữ tiện dân già đã mấy lần theo dõi, để ý, hôm kia phát hiện là chẳng có vị Thọ Thần nào cả, đấy chỉ là một con Ngỗng Trời Vàng đã tự ý nhổ từng chiếc lông của mình mà cho họ. Bà tự nghĩ: “Giá mà có được cả bộ lông vàng ấy nhỉ?”

Sau khi cho chiếc lông thứ mười tám, Ngỗng Trời Vàng xuất hiện, nói chuyện với bốn người:

- Này vợ, này con! Ta là chồng và cha của các người đây. Vì kiếp vừa rồi ta sống đần độn, tối tăm, không tạo được chút công đức gì nên phải trả quả mang thân súc vật. May nhờ ta có tặng một tấm vải vàng đến vị ẩn sĩ thanh tịnh, ta mới có được bộ lông hoàng kim quý giá, đẹp đẽ hôm nay. Nhân quả thật rành rành. Vì tình thương vợ, thương con nên ta phải trở lại chốn loài người để tìm cách giúp đỡ các người. Nay các người đã no ấm, đã có đủ vốn liếng để tự mưu sinh, ta từ giã các người, về rừng là đúng thời và phải lẽ. Vậy hãy sống đời hiền lành, làm các công đức hầu được hạnh phúc trong mai hậu.

Người nữ tiện dân đã sớm bàn với các con rằng: “Phàm sống ở đời là phải ơn đền oán trả. Ân nhân của ta đã giúp chúng ta thoát kiếp tôi đòi, nô lệ; đã cho ta những tấm lụa Kāsi mịn màng, tươi đẹp; đã cho ta những bữa cơm ngon với thịt và cá. Vậy chúng ta phải tìm cách mời thỉnh ân nhân về nhà để cung phụng, hầu hạ như đối với một vị Phạm thiên”. Nay nghe Ngỗng Trời Vàng tiết lộ nó là chồng, là cha của họ, một phần vì xúc động, một phần vì sợ Ngỗng Trời Vàng bỏ đi, người nữ tiện dân già khóc lóc nức nở mà rằng:

- Này ông ơi! Thế ra là tình xưa nghĩa cũ. Ông đã có tâm nghĩ đến vợ con như thế thì trời đất này cũng có lẽ thủy chung. Cái lòng của tôi đối với ông, há lại không được như mảnh trăng tròn vành vạnh hay sao?

Rồi bà chỉ ba con mà kể lể:

- Nay chúng đã nở da nở thịt, lại được phấn son trang điểm, trắng da, dài tóc, nhàn hạ, thảnh thơi. Thấy chúng được như vậy chắc ông cũng hởi lòng, hởi dạ. Cõi người, cõi chim dẫu hai ngả, nhưng tấm lòng nào dễ rẽ phân? Vậy sao ông không trở lại với gia đình, đoàn viên sum họp, cùng chung ấm lạnh ngọt bùi cho bõ tháng ngày xa cách vì sinh ly, tử biệt?

Ngỗng Trời Vàng nhìn vợ, nhìn con, tâm tình xúc động. Đã bao tháng, bao ngày xa cõi người, Ngỗng cũng thấy nhớ nhung ngôi nhà và bếp lửa.

- Cha ơi cha! Cha nỡ nào lìa bỏ chúng con? Ba cô con gái đồng khóc lâm ly bi thiết - Khi cha còn sống, chúng con còn thơ dại. Bây giờ dẫu đã thác rồi, thân chim vàng ấy lại chính là thân cha. Sao cha không cho chúng con được đáp trả một phần nào chữ hiếu? Chúng con nào đã có tội tình gì?

Không cầm lòng được nữa, Ngỗng Trời Vàng bay theo họ về nhà. Người nữ tiện dân già dọn một chỗ cao ráo, trang trọng nhất ở tầng thượng, có nhiều cửa sổ, có thảm nhung cho  Ngỗng ở; và hàng ngày lo cái ăn, cái uống thật tươm tất, chu đáo. Ba cô con gái lúc này có tiền, có bạc nên xênh xang xe ngựa, điểm trang diêm dúa; rong chơi thị tứ, đô phường; hội hè, đình đám nên vắng nhà luôn. Dẫu thế, họ chưa đến nỗi quên bẵng người cha tội nghiệp.

Ngỗng Trời Vàng cứ theo lệ thường, mỗi buổi sáng, khi mặt trời lên, niệm Ba-la-mật với tâm bố thí, bắn ra một chiếc lông vàng. Nhìn vợ, nhìn con có được cuộc sống sung sướng,  Ngỗng thấy lòng được an ủi rất nhiều. Tuy thế, đây không phải là nơi ăn đời, ở kiếp. Ngỗng còn có đồng loại và bằng hữu ở rừng sâu, nên trước sau gì cũng phải từ giã.

Nhưng người nữ tiện dân già đã có manh tâm. Chẳng nghĩ đến ân nhân, chẳng nghĩ đến tình xưa nghĩa cũ bởi lòng tham đã làm cho bà quáng mắt, tối ám lương tri. Hôm nọ, vào lúc bất ngờ nhất, bà rình chụp Ngỗng bằng cả hai tay ham hố của mình, rồi vặt trụi cả bộ lông vàng óng ả!

Khi Ngỗng biết ra thì đã muộn mất rồi. Từng chiếc lông bị bứt lìa khỏi thân là những cơn đau xe trời hòa lẫn với máu và nước mắt. Ngỗng không còn đủ sức để rên la nữa, mà chỉ cảm nghe như bị tước, bị xé ra từng mảnh, rồi ngất lịm đi. Ngỗng chỉ còn trần trụi cái thân đỏ hỏn, máu đọng thành vũng.

Ngỗng tỉnh lại trong thùng rác tối đen và hôi hám. Nó thử xòe đôi cánh máu ra, nhưng chỉ còn sự run rẩy lẫn với cơn đau ngất trời. Nó lại gục xuống trong đống máu bầy nhầy, tanh tưởi. Kiến bắt đầu tìm tới, bò lên những vết thương lở loét mà cắn, mà rứt không thương tiếc. Ruồi nhặng nghe mùi, bám đầy như đám đỗ đen. Ngỗng đau đớn và khó chịu thái quá, nhưng ngàn lần đau đớn hơn là vết thương ở bên trong tâm hồn. Vết thương nơi thân, dầu kinh khiếp, nhưng thời gian sẽ hàn gắn lại, còn vết thương tinh thần thì không bao giờ lành được. Vĩnh viễn, vĩnh viễn vết thương lòng này sẽ mưng độc và lở loét suốt cả cuộc đời còn lại.

“- Ôi vợ, ôi con, ôi nhân tình thế thái!”

Ngỗng rên than âm thầm, nức nở nhưng ai nào có nghe cho!

Về phần người nữ tiện dân già, sau khi vặt trụi lông Ngỗng, chuyện gì xảy ra? Người đàn bà độc ác, tham lam và phản trắc ấy ngạc nhiên quá! Ôi! Còn đâu là những chiếc lông hoàng kim óng ả bằng bằng vàng ròng tinh chất túa ra ánh sáng? Chúng đã nhạt màu và hiện nguyên hình là những chiếc lông  Ngỗng tầm thường. Người đàn bà ngu si đâu biết rằng, những chiếc lông sở dĩ biến thành vàng mười láng mịn là nhờ vào phước báu riêng, vào nguyện lực và sự tự nguyện “cho đi” của Ngỗng Trời Vàng. Nếu dùng sức mạnh ngoài ý muốn của  Ngỗng thì phép lạ kia sẽ không bao giờ xảy ra. Than ôi! Ai có thể hiểu được tham sân chính là lửa; độc ác, phản trắc chính là lửa. Chúng sẽ thiêu rụi, đốt cháy tức khắc những đóa hoa diễm lệ, thanh tân vốn được sanh ra từ lòng phước báu, từ khí hậu mát mẻ, thanh lương của tình thương và niềm hoan hỷ.

Người nữ tiện dân già với tất cả tâm sân hận và bực bội, quẳng Ngỗng Trời Vàng vào một thùng rác rồi bỏ đi. Bà vô cùng sầu muộn và tiếc rẻ.

Những người con gái đi chơi trở về, thấy cha chúng như vậy, không nỡ bỏ phế. Họ bồng Ngỗng ra, phủi kiến ruồi, săn sóc, băng bó vết thương rồi đóng một cái cũi riêng cho Ngỗng ở, cho ăn uống tử tế. Chúng biết nguyên nhân tại sao, nhưng không hỏi, không nói gì cả, cũng không rơi một giọt nước mắt. Chút tình nghĩa cuối cùng này, nếu có, than ôi! cũng đã hóa đá mất rồi!

Ngỗng Trời Vàng nằm yên lặng, chấp nhận hoàn cảnh bi đát, nước mắt rỉ máu. Cho đến lúc này, Ngỗng mới thấy thấm thía lời khuyên bảo khôn ngoan của vị Thọ Thần nơi khu rừng Daliko.

“- Này bạn vàng yêu quý! Hãy thôi đi sự cứu độ vô vọng! Cát bụi quá nhiều làm sao thấy được tấm lòng tốt đẹp của nhau? Đêm đen quá sâu, làm sao chỉ lối dò đường bằng ngọn đèn quá mọn? Đôi tay của chút ít phước báu làm sao ngăn nổi dòng sông nghiệp lực? Cõi loài người gian ác và phản trắc kia sẽ vặt trụi lông cánh của bạn mất thôi!”.

Và đây chính là nguồn an ủi của Ngỗng Trời Vàng:

“- Không những bạn trở về với lông cánh trần trụi, cho chí những vết thương đau cả thể xác lẫn tâm hồn; gốc đại thọ bồ-đề này muôn đời vẫn là tổ ấm của chúng ta”.

Thời gian sau, nhờ tâm xả, các vết thương của Ngỗng đều lành. Rồi lú nhú những lông khác bắt đầu mọc ra. Người nữ tiện dân già lòng mừng khấp khởi, sai người đóng một cái thùng khác đẹp hơn, rộng rãi, thoáng mát hơn để cho  Ngỗng có chỗ ở sạch sẽ, thoải mái. Bà tính thầm:

“- Lần này ta không dại gì ham hố nữa. Mỗi ngày mỗi chiếc lông, tích thiểu thành đa, nước rơi lâu ngày cũng thành hồ, thành sông. Vả, các bậc khôn ngoan từ ngàn xưa cũng đã từng dạy rằng: ăn ít dễ tiêu, ăn nhiều tức bụng. Cái lý nó vậy mà sao ta không hiểu kìa?”.

Thế là người nữ tiện dân già dành nhiều thì giờ cho việc chăm sóc, tẩm bổ Ngỗng. Bà không tiếc tiền mua những thức ngon vật lạ, với hy vọng  Ngỗng nở da, nở thịt thì lông cũng sẽ mau dài. Và quả đúng như thế thực, những chiếc lông dài rất nhanh. Bà đếm tới đếm lui và theo dõi hằng ngày.

Nhưng than ôi! Hy vọng quá nhiều thành ra thất vọng quá lớn! Lông của Ngỗng không còn là màu hoàng kim nữa, mà là màu trắng bạc: màu trắng bạc như vôi! Cái lông mà cũng muốn chế giễu nhân tình thế thái đó chăng?

Khi lông cánh đã đủ đầy, nghĩ rằng mình đã đủ sức bay đi, Ngỗng bắt đầu tìm cách thoát thân. Lợi dụng lúc mọi người vắng nhà, Ngỗng sổ lồng, nhắm hướng Hy Mã Lạp Sơn trực chỉ. Bây giờ thì Ngỗng không còn sợ hiểm họa bởi bộ lông hoàng kim nữa nên nó tung cánh suốt ngày đêm.

Không bao lâu, rừng cũ hiện ra, lòng Ngỗng bồi hồi, mừng mừng, tủi tủi. Đến gốc bồ-đề đại thọ, Ngỗng bay quanh ba vòng, nhớ lại câu nói hôm xưa của vị Thọ Thần: “Nơi đây, muôn đời vẫn là tổ ấm của chúng ta”.

Ngỗng rơi nước mắt. Nó đã trở về Cố Quận!

 



Chàng sa-môn họa sĩ


Thuở Đức Phật Ca Diếp còn tại thế, có hai huynh đệ đồng tu. Anh là bậc trưởng lão thanh tịnh, đắc ngũ thông. Em là một nhà hội họa, tâm hướng như gió núi mây ngàn, suốt đời không an trụ.

Hôm kia, bậc trưởng lão gọi em đến dạy rằng:

- Ta suốt ba mươi năm cần cù khổ hạnh, nghiêm cẩn và chí thú với đạo Trí tuệ, vậy mà chưa thấy được pháp giải thoát. Còn em, suốt ngày say mê đuổi bắt những ảo ảnh vô thường. Sáng rong chơi ở bể đông để ngắm mặt trời mọc, chiều leo lên núi tây để xem mặt trời lặn. Bút lông thú thay cho trượng bố ma. Túi vải màu thay cho bình bát xin ăn. Sự thoáng hiện và biến đổi sắc màu của trời mây, non nước là trò chơi kiều diễm nhưng ma mị của thần huyễn hóa. Vui gì, đẹp gì mà mải mê cho uổng kiếp phù sinh?

Người em cúi đầu lắp bắp:

- Dạ phải, dạ phải!

Bậc trưởng lão thương hại nhìn em:

- Hãy tu thôi chứ em? Hãy quẳng bỏ túi màu và bút lông thú. Hãy ngồi dựng đứng như gốc cây, ăn vừa đủ, ngủ vừa đủ. Tuyệt đối chăm chú vào đề mục thiền định. Đêm ba canh, ngày bốn khắc, hãy chăm giữ cái tâm như chăm giữ một con ngựa hoang, như chăm giữ một con khỉ núi. Nếu không được thế thì cởi y, bỏ bát mà về đi thôi!

Người em cúi mặt thẹn thùng:

- Dạ phải, dạ phải!

Từ hôm được lời giáo huấn chí tình, chí lý và nghiêm khắc của anh, người Sa-môn họa sĩ lưng dựa vào gốc cây, tinh tấn thiền định.

Tháng thứ nhất qua đi, người em tới trình pháp:

- Thưa anh, tâm em đã an trú. Con ngựa hoang kia không còn bứt dây, phá xiềng để bay chạy đồi cao hay lũng thấp nữa! Con khỉ núi nọ không còn nhảy nhót, leo chuyền suốt đời phóng dật nữa. Chúng ở im. Tuy thế, những ảo ảnh như khói, như sương lại hiện đến lôi cuốn như ma mị. Trong vài giây khắc, em chụp túi màu và bút lông thú, nhưng vội tỉnh ngộ ngay. Nguy hiểm, thậm nguy hiểm!

Bậc trưởng lão mỉm cười rộng lượng:

- Gắng lên, gắng lên nữa!

Tháng thứ hai, chàng Sa-môn họa sĩ lại tới trình pháp:

- Thưa anh, tâm em hoàn toàn đã an trú thanh tịnh rồi. Vậy thưa huynh trưởng khả kính, đâu là con đường phải đi nữa? Đâu là pháp giải thoát cần phải hướng tâm?

Chăm chú nhìn em giây lâu, ở đấy, khí an tĩnh và trầm ổn tỏa ra từ khuôn mặt trẻ trung mang nét đẹp phiêu bồng của đám bạch vân ngự yên trên đầu núi; bậc trưởng lão đứng dậy:

- Em lãng du rong chơi cũng đã nhiều, có thấy nơi nào có chiếc hồ xinh đẹp, hoa súng nhiều màu tươi thắm, thơm ngát? Và dưới hồ trong xanh như mắt pha lê, có đàn cá đỏ vàng bơi lội nhởn nhơ trên những viên cuộn trắng tinh?

Người em ngạc nhiên:

- Có chứ! Ở phía tây Hy Mã, trong thung lũng của dãy Huyền Sơn, em đã thấy một chiếc hồ cực kỳ mỹ lệ như thế. Nếu là đêm thanh trong, có trăng ... thì ôi! Là cả một bức tranh trăng nước, sơn thủy hữu tình! Giả dụ có túi màu và bút lông thú ...

Chàng Sa-môn họa sĩ biết mình lỡ lời nên nín lặng. Bậc trưởng lão khoát tay mỉm cười:

- Không sao, bây giờ em hãy cùng ta đi đến đó.

- A, chẳng hay ...?

- Không, ta không ngoạn cảnh đâu! Cảnh trên trần gian này đều là cảnh biến ảo, vô thường, có gì chắc thật đâu mà ngoạn!

- Thế thì chúng ta đến đó làm gì?

- Rồi em sẽ biết.

- Nhưng xa lắm.

Bậc trưởng lão cất giọng xa xôi:

- Ta ba mươi năm cần cù khổ hạnh, trì chí kiên gan theo lời dạy của Đức Thế Tôn. Tuy thế, vì căn cơ chậm lụt, “lõi cây” dẫu chưa tìm được, ta cũng vớ được cái “vỏ ngoài”. Em yên trí, với cái “vỏ ngoài” đó, từ đây mà đến dãy Huyền Sơn xa tít tắp kia, chỉ cần thời gian một cái nhấc tay!

Nói xong, bậc trưởng lão bảo em nhắm mắt lại. Lạ lùng thay, khi mở mắt ra, họ đã đứng cạnh chiếc hồ xinh xắn, mỹ lệ.

Bậc trưởng lão ân cần nắm tay em đi dạo một hồi. Lát sau, họ cùng ngồi trên tảng đá, nhìn đàn cá vàng đỏ tung tăng bơi lội dưới hồ.

- Hãy nhìn xuống đáy hồ kia! Bậc trưởng lão nói.

- Dạ! Người em đáp.

- Em thấy gì trong đó?

Người em chăm chú quan sát rồi nói:

- Sóng lặng, nước trong nên không những em trông thấy cá bơi lội, từng viên sỏi nhỏ, mà còn trông thấy cả những cọng rong rêu bé li li như sợi tơ trời đan kết lại.

- Đúng thế, nhưng anh đố em, tại sao có lúc ta có thể nhìn thông suốt đáy hồ, mà tại sao có lúc ta không nhìn thấy gì hết?

Vốn thông minh sẵn, người em mỉm cười:

- Cảm ơn anh đã tận tình và khổ công chỉ dạy rõ ràng, cụ thể. Em đã biết rõ con đường để đi. “Giới năng sinh định, định năng sinh tuệ”. Có phải anh muốn khai mở cho em thấy rằng, tâm ta mà yên lặng và trong suốt như hồ kia thì ta có thể thấy được vi tế phiền não. Định là ở đó, mà Tuệ giải thoát cũng từ đó mà phát sanh?

Bậc trưởng lão nhũn nhặn, khiêm tốn:

- Đấy là giáo giới của bậc Đại Tôn Sư!

Thế rồi, tháng thứ ba, người em đi sâu vào thiền định và an trú kiên cố nơi trạng thái vắng lặng an lạc của nhị thiền, nhưng Tuệ không thấy phát sinh.

Tháng thứ tư, người em lại càng đi sâu thêm nữa. Thân giờ như cây khô, tâm giờ như tro nguội, thất tình lục dục đã chìm mất xa xôi như ở một kiếp nào. Chàng đã lần lượt bước vào tam thiền và tứ thiền, tìm được trạng thái hoàn toàn buông xả, trong lặng, nhưng Tuệ cũng không thấy phát sinh.

Sau bốn ngày nhập định, người em xả thiền đi đến bậc trưởng lão để trình pháp:

- Không còn thấy tăm bóng ngựa hoang và khỉ núi nào nữa cả. Chiếc hồ kia lặng yên và trong suốt lắm rồi, những sắc màu long lanh của vảy cá, những cọng rong li ti đều trông thấy rất rõ ràng. Nhưng Tuệ giải thoát là ở đâu? Tuệ thấy rõ Niết bàn ở chỗ nào?

Bậc trưởng lão trầm ngâm:

- Ta chỉ biết có thế thôi, không hơn em mà cũng không thua em - trên phương diện thiền định. Tuy thế, không phát sanh được Tuệ giác thì ta hướng tâm đến các khả năng thần thông phép lạ. Phần thưởng này cũng lạc thú vô cùng, không uổng cái kiếp phù sinh chứ em?

Người Sa-môn họa sĩ bây giờ lại cất lên tiếng rống của con mãnh sư:

- Thôi đi, ngài đại trưởng lão thanh tịnh! Cái mà Ngài gọi là lạc thú kia, chắc gì đã lạc thú bằng chàng họa sĩ với túi màu và bút lông thú của y? Thần thông và phép lạ của ngài chắc gì hơn được sự biến đổi sắc màu của trời mây, non nước? Thần như cây khô, tâm như tro nguội thì quý báu gì cho lắm mà toan đánh đổi lấy kiếp phù sinh?

Thôi, em xin trân trọng trả lại “chiếc hồ xanh trong suốt như pha lê” cho anh; trả lại “sự thanh tịnh bất động ngàn đời của định núi đá hoang vu” cho anh. Trả hết! Em đi thôi! Em trở về với biển cả sinh động ngàn đời của em! Em trở về với kiếp phiêu bồng mây ngàn và gió núi của em!

Chàng Sa-môn họa sĩ vừa quay lưng định bỏ đi thì sừng sững trước mặt, một vị Đại Sa-môn to lớn, uy nghi, đầu trần, chân đất, chiếc y vàng rực cả một khoảnh trời. Y sửng sốt, há miệng ra, quỳ xuống! Suốt đời, chàng Sa-môn họa sĩ chưa bao giờ gặp được một con người toát ra những uy lực nhiếp phục người khác đến như vậy.

“-Này tỷ-kheo! Đức Thế Tôn Ca Diếp cất tiếng thanh tao, trầm bổng như tiếng chim Ca-lăng-tần-già trên đỉnh Tuyết sơn - Tâm không loạn, ấy là định. Pháp không lầm lẫn, thấy rõ như thực, ấy là tuệ. Tâm không dính mắc dù pháp thô hay tế, bên trong hay bên ngoài, ấy là Tuệ giải thoát. Này tỷ-kheo, pháp của Như Lai không từng thêm, không từng bớt. Pháp ấy cụ thể, hiện tiền, vượt không gian, thời gian... Pháp ấy không phải là để chứng đạt, nắm bắt mà chỉ để dành cho kẻ có trí tự mình liễu tri, giác hiểu...”.

Ý nghĩa lời pháp như ánh mặt trời vàng chói lọi xuyên thủng qua hàng triệu đêm trường tăm tối, đốt cháy hư vô và hốt nhiên bừng nở trong tâm chàng họa sĩ Sa-môn một đóa kỳ hoa. Bờ kia hiển hiện ngay chính bờ này, chẳng đến, chẳng đi, dung thông tự tại.

Bậc trưởng lão được khai thông tuệ nhãn, rút sâu vào rừng để viên mãn công hạnh, sau này, làm nơi y chỉ cho tứ chúng.

Còn chàng Sa-môn họa sĩ thì tùy duyên hóa độ từ xứ này sang phương khác; thỉnh thoảng chàng lại hành trang lên đường với túi màu và bút lông thú ... Sáng rong chơi ở biển đông để xem mặt trời mọc ... Chiều leo lên núi tây để ngắm mặt trời lặn ...!




Bài thơ kỳ diệu

Dòng họ Xu-đa-xá một thuở xa xưa kia trị vì kinh thành Ba-la-nại. Nhà vua chẳng chăm lo đến đời sống của dân mà chỉ ham mê thú săn bắn, bỏ bê triều chính cho lũ hoạn quan cùng bọn gian thần xu nịnh.

Trong một cuộc săn, vì mải miết đuổi theo đàn nai tơ nên đức vua lạc vào rừng sâu. Đến khi dừng lại, mệt quá, vua ngủ thiếp đi. Một con sư tử cái lông vàng óng ả đến nằm xuống một bên dụi đầu liếm chân, liếm tay đức vua ra chiều luyến ái! Nửa mê, nửa tỉnh, đức vua mơ màng vuốt ve nó một cách thân mật như quen biết nhau từ thuở nào...

Tỉnh dậy, đức vua bàng hoàng, “mỹ nhân” đi rồi nhưng hương tình ái như còn thoảng đâu đây?

Câu chuyện đó, tuy thế cũng dần dà theo thời gian mà cũng xóa mờ đi. Rồi hôm kia, một chuyện lạ lùng khác lại đến. Cả kinh thành xôn xao vì sự xuất hiện của một con sư tử lông vàng, trên lưng cõng đứa bé mới sinh, đi thẳng vào cung điện. Hình ảnh này khêu gợi sự tò mò hơn là sự sợ hãi; người ta đi xa xa sau lưng nó với sự ngạc nhiên kỳ thú.

Bà - mẹ - chốn - rừng - xanh không làm gì, cẩn thận đặt đứa bé dưới chân đức vua rồi lặng lẽ trở lại rừng sâu.

Đức vua không nhớ chuyện cũ, lại không có con nên nhận đứa bé làm con mình và đặt tên Kama. Trẻ Kama lớn lên rất nhanh và được đức vua cho đi học ở Tắt-ká-xi-la. Tại đây, Kama làm quen với một trăm vị Hoàng tử từ khắp các tiểu quốc đến theo học. Thầy họ là một Bà-la-môn lỗi lạc, có khả năng đào tạo nên những kẻ lãnh đạo tài ba, những nhà chính trị, quân sự, thiên văn, địa lý... và cả những bậc hiền đức. Ngôi sao sáng ở trong lớp về mọi lãnh vực là Hoàng tử Xu-ta-ma và kẻ tệ hại nhất là Hoàng tử Kama.

 Hôm kia, sau cuộc bế giảng khóa học, Thầy Bà-la-môn trứ danh nhìn một trăm lẻ một vị Hoàng tử, tương lai là một trăm lẻ một đức vua của thiên hạ mà nói rằng:

- Cho đến kẻ tệ nhất của lớp học này cũng đã thành tài. Sau này, tuy còn một vài thử thách của Thượng đế và hiểm họa sẽ đến từ một kẻ thất đức trong chư vị; nhưng kẻ trí đức nhất trong lớp học sẽ đem lại hòa bình và an lạc cho một trăm lẻ một tiểu quốc.

Người ta tò mò đưa mắt nhìn trộm Kama, rồi lại nhìn trộm Hoàng tử Xu-ta-ma - người anh cả của lớp học - rồi bâng khuâng về lời tiên tri kín đáo và kỳ lạ của vị thầy.

Kama trở về quốc độ thì vua cha mất, chàng lên ngôi vua, kế tục dòng họ Xu-đa-xá. Cũng như các vua trước, chàng duy trì tôn miếu, xã tắc, lại sáng suốt hơn cha trong việc loại bỏ các nịnh thần, dùng người thực tài, thực học vào các chức vụ. Vua lại không ham mê săn bắn, không đắm say tửu sắc, chỉ thích đấu võ và ăn thịt. Đấy là hai sở tài vô địch của đức vua. Mười viên hổ tướng cùng hợp lực không đỡ nổi thanh đao của ngài. Đức vua có thể túm chân một con voi con bằng hai con bò mộng quăng đi xa hơn trượng. Còn thịt thì vua ăn rất nhiều. Ngài chỉ cần thịt làm món ăn chính và mỗi bữa tối thiểu cũng phải có cho đức vua chừng hai mươi cân. Đây có lẽ là do bản tính di truyền mà đức vua thừa hưởng của sư tử mẹ.

Vua quan ngự trù biết tính vua nên luôn luôn chuẩn bị các loại thịt rất chu đáo. Món ăn nào dọn ra cũng thịt và thịt; lại kho nướng chiên xào tẩm gia vị ngon lành thơm tho. Cho đến một hôm kia, trước bữa ăn, vì sơ ý, các món thịt bị bọn chó săn trong cung của vua trước, lang thang tìm đến và chén sạch hết. Hôm ấy là ngày lễ tôn giáo của đạo Bà-la-môn nên các cửa hàng đều đóng cửa chẳng tìm đâu ra thịt có sẵn. Và trong cung cũng không thể kiếm thịt cho vua dùng. Tình thế thật là nguy cấp. Vợ viên quan ngự trù chợt sáng dạ, chị ta lén xẻo những bắp thịt đùi của người tử tù vừa bị xử trảm đem vào cho kịp bữa ăn. Vừa ngồi vào bàn, đức vua đã đánh hơi được mùi vị khác thường. Vua ăn một miếng, nhai từ từ từng chút một, thấm sâu vào cổ, vào ruột rồi dường như tan nhanh ra các tế bào. Vua ngất ngây. Rồi miếng thứ hai, thứ ba... Đức vua say sưa tận hưởng món ăn tuyệt vời. Bữa ăn đã xong, bụng đã no nhưng miệng còn thèm, nhà vua hỏi quan ngự trù về món thịt kỳ lạ này. Viên ngự trù ban đầu vì sợ hãi nên nói quanh, nhưng làm sao dấu được ông vua vốn rất thiện xảo về nghề nếm thịt? Cuối cùng y phải nói thật. Y hồi hộp và nín thở chờ đợi sự trừng phạt nghiêm khắc của đức vua mà y đoán chắc không thoát nổi tội chém đầu. Nhưng, hắn ngạc nhiên xiết bao, đức vua mỉm cười khen ngợi hắn. Rồi nhà vua kín đáo ban thưởng, lại dặn dò kỹ lưỡng rằng:

- Từ nay về sau, trẫm chỉ thích duy nhất một món thịt ấy mà thôi!

Ở miền khí hậu nóng của xứ Ấn Độ khó mà giữ được thịt tươi đến sáng ngày hôm sau, nên mỗi ngày phải tìm cho ra thịt mới. Thế là mỗi ngày phải hạ thịt một người. Những tên tù lần lượt bị đem ra chém rồi được bí mật mang về lấy thịt dọn cho đức vua. Nhưng rồi đến một ngày kia nhà tù hết người. Viên ngự trù lo lắng không ngủ được. Vợ y lại góp ý bảo rằng, ở kinh đô biết bao tên bợm rượu say sưa khuya về nằm gục trên các khoảng đường vắng, kéo y vào nghĩa địa, thịt xong rồi dấu xác thì đố ai mà biết được? Viên ngự trù mừng rỡ. Và bắt đầu từ đó y làm nghề săn thịt người.

Nhưng rồi không phải lúc nào cũng có người say, viên ngự trù giờ đây lại rình trong bụi chờ những kẻ đi chơi một mình về khuya, những trẻ lang thang không nhà cửa, hoặc những khách lỡ đường nằm ngủ góc đình, xó miếu. Thế là thời gian sau kinh thành lên tiếng báo động vì đã có quá nhiều người mất tích. Một không khí đe dọa, khủng bố bao phủ mọi nơi, mọi chỗ. Nhà nhà đóng cửa sớm và đường sá, phố phường đêm xuống là trở nên lạnh tanh. Tuy thế, nạn mất tích, bị bắt cóc vẫn còn tiếp diễn. Cơ quan hữu trách bắt đầu làm việc vì bà con họ hàng họ cũng đã có kẻ là nạn nhân. Nhiều toán như những bóng ma được phân bố túc trực các ngả đường, các hóc tối.

Mãi cho đến một hôm người ta bắt được tên sát nhân núp trong lùm cây, đao đang còn vấy máu cùng với đứa trẻ bị xẻo hết thịt chưa kịp chôn xác đi. Tên đó chẳng phải ai xa lạ mà chính là viên quan ngự trù của đức vua.

Người ta dẫn hắn ra pháp đình với cả xâu thịt đỏ tươi đeo ở cổ. Hắn nhận tất cả tội lỗi bấy nay và cung khai chỉ là kẻ thừa hành mệnh lệnh, thủ phạm chính là đức vua chí tôn. Pháp đình và dân chúng xôn xao. Nhưng rồi họ chợt liên tưởng đến dòng máu sư tử, sức mạnh hùm beo cùng bản tính ưa ăn thịt và ăn khỏe một cách lạ lùng của đức vua... Họ không còn nghi ngờ gì nữa. Mọi người chợt đâm ra phân vân bất quyết. Đây là vụ án cổ kim chỉ có một. Dẫu là đức vua nhưng pháp luật đâu có biệt lệ. Tuy thế, họ đắn đo vô ích, kinh thành đã nổi loạn rồi. Với giáo, mác, gậy họ đã ùn ùn kéo đến cung điện để đòi nợ cha, con và chồng. Lẽ phải tùy thuộc ở đám đông. Binh mã lính tráng rần rần rộ rộ kéo đi. Sự phẫn nộ và giận dữ của bá tánh bốc lên một cách khủng khiếp. Ông vua ăn thịt người bị bao vây bốn phía tám phương với sát khí đằng đằng.

Quả là dòng giống sư tử chính thống, Kama lao ra, vung một đường đao ác liệt, mở một đường máu, cứu thoát viên ngự trù; rồi như một cơn lốc uy mãnh, nó biến dạng vào rừng sâu...

Trong khi ở Ba-la-nại xảy ra những biến cố kinh hoàng như vậy thì vùng lân bang kế cận, kinh thành In-đờ-ra, không khí sinh hoạt lại khác hẳn. Thái tử Xu-ta-ma, ngôi sao sáng ở lớp học Tắt-ká-xi-la thuở nào, thuộc dòng vua Kuru, là bậc hiền đức. Dân chúng sống yên ổn thanh bình. Người ta đọc lên rất nhiều bài thơ ca ngợi hạnh phúc, ca ngợi non sông gấm vóc, cây cỏ, mùa màng, tình yêu cùng đức hạnh vô song của Thái tử Xu-ta-ma.

Mặc dầu chưa lên ngôi trị vì, Thái tử giúp vua cha mở các lớp học về đạo đức và văn học, các bậc đại hiền đều được triều đình dùng lễ quốc sư mời về làm cố vấn hoặc giữ chứ vụ trọng yếu. Hàng trăm thầy Bà-la-môn uy tín lão thành được mời về ở những biệt điện cao sang; và họ sẽ là người giúp sức cho Thái tử đào tạo anh tài lương đống cho tổ quốc. Về văn học, đặc biệt Thái tử đã trao nhiều giải thưởng quý giá cho những tác phẩm văn thơ lỗi lạc. Đã nhiều lần, Thái tử ban thưởng hàng chục ngàn đồng tiền vàng cho những thi phẩm tuyệt tác đến nỗi vua cha phải tìm cách khuyên can. Nhưng Thái tử một mực xin vua cha cho được như nguyện. Vì theo ý ngài thì không có kho của cải nào trên đời này quý giá bằng những ý tưởng cao đẹp thoát lên từ những lời thơ hay! Thái tử nói:

- Thưa Phụ vương! Tư tưởng dẫn đầu mọi sinh hoạt, tư tưởng dẫn đầu thế giới, làm nên thế giới! Tư tưởng thanh cao, siêu phàm, có thể hướng dẫn cho lòng người đến chỗ thanh cao, siêu phàm. Vật chất cơm áo không thể quyết định đạo đức, lương tri, mà chính tư tưởng thanh cao siêu phàm quyết định nhân nghĩa, hạnh phúc, hướng dẫn hạnh phúc và hoàn thiện hạnh phúc. Vậy thì con thiết tưởng, những phần thưởng vật chất kia dành cho những lời thơ cao đẹp, sợ chưa xứng đáng cho công đức mà nó đã ban phát, mà nó đã thấm nhuần vào những mọi ngõ ngách của tâm hồn và cuộc sống. Phụ vương hãy khuyến khích con hơn nữa thì mới phải.

Vua cha hoàn toàn bị thuyết phục; rồi chợt mỉm cười khi nghĩ rằng, tổ tiên dòng dõi Kuru mấy ngàn năm nay cai trị quốc độ bằng võ lực, pháp lý và binh quyền, đến đây chắc phải cáo chung để nhường cho ông vua trẻ, thời đại mới, bằng “văn thơ mà trị vì thiên hạ”!

Một buổi sáng đầu năm, lúc Thái tử đi dự hội hoa xuân thì ngài gặp một người khách lạ. Đấy là lão Bà-la-môn tóc bạc như tuyết, người gầy khô như hạc, chống cậy gậy trúc đứng chờ bên đường.

Lão Bà-la-môn khẽ nghiêng mình:

- Phải chăng ngài là Thái tử Xu-ta-ma đức hạnh?

Thái tử thấy cốt cách tiêu sái, khác phàm của lão Bà-la-môn, đáp lễ rồi hỏi:

- Vậy thầy là ai?

- Là kẻ quê mùa dân dã ở xứ núi tuyết xa xôi - Lão Bà-la-môn nói - đến chốn đế kinh chỉ mong đọc cho Thái tử nghe bốn câu thơ.

Thái tử sáng mắt lên. Khách lạ say sưa nói:

- Lão suốt đời coi thơ như mạng sống của mình. Nghe nơi nào có thơ hay cũng phải lặn lội đến nơi cho kỳ được. Tuy thế, như đáy bể mò châu, dễ gì kiếm được một vài ý thơ hay giữa đống thơ, núi sách của thiên hạ. Lâu lắm lão cũng gặp được một vài câu thơ tuyệt diệu của những kẻ vô danh. Những khi như vậy, lão như gặp được bạn tri âm, niềm hoan lạc có thể kéo dài suốt tuần lễ! Thưa Thái tử! Gần đây tâm hồn con người đã quá khô khan, cằn cỗi, sa mạc hoang hóa, những bài thơ thanh cao siêu phàm không còn có môi trường thích hợp để nảy nở. Thảng hoặc, thế gian là vùng đất quá trù phú cho những thú vui ngũ dục tầm thường, nên lão đã lánh mình lên núi cao, sống đời giải thoát như hư không. Bốn câu thơ mà lão sắp đọc cho Thái tử nghe đây là bốn chuỗi ngọc trinh tuyền của ý tưởng được đúc kết lại; là thành quả mười năm thai nghén trên tuyết sơn...

Thái tử cúi đầu chăm chú lắng nghe, niềm náo nức rộn ràng như muốn nhảy bung cả lồng ngực.

Lão Bà-la-môn làn tóc phất phới, đôi mắt sáng ngời tiếp:

- Chỉ vỏn vẹn bốn câu thơ là quá đủ cho giá trị cũng như thành quả tìm kiếm của một đời người. Của báu, lâu đài, vương tước, mỹ nhân thiên hạ chợt như bó giẻ rách tầm thường trước bốn câu thơ bất hủ vô song này. Thưa Thái tử, lão không nói quá lời. Trước Thái tử là nhà bác học văn chương, bậc đức hạnh mà lão khiêm nhường thì lại trở nên lố bịch! Thưa Thái tử! Mấy ngàn bậc hiền triết, đại thi hào xưa và nay; nếu nghe được bốn câu thơ này, họ sẽ tự động thiêu hủy hết tác phẩm của họ; và sẵn sàng ngửa cổ chịu chết, hy sinh danh dự và tánh mạng miễn là nghe được vài lời, vài chữ...

Thưa Thái tử! Vậy thì ai là kẻ xứng đáng đầu tiên được nghe ngoài bậc hiền đức kinh đô Indra. Không có ai! Lão tìm đến đây, sau khi đọc thơ, đừng tưởng là lão sẽ mong một phần thưởng xứng đáng như mọi người tâm phàm xác tục. Đừng! Đừng đánh giá lão thấp thỏi đến như vậy. Chúng ta đừng nên xúc phạm đến những lời thơ với ý tình cao cả!

Thái tử Xu-ta-ma đáp:

- Nhất định! Nhất định ta sẽ thăng hoa tư cách để không làm cho lão thi nhân phải thất vọng.

Lão Bà-la-môn chợt mỉm cười:

- Nhất định! Nhất định Thái tử sẽ có tư cách ấy, “kiếm báu trao tay người hiệp sĩ, thơ hay hiến tặng bậc thanh cao”. Lão đã tìm đúng người. Vậy thì bây giờ xin Thái tử lựa chọn cho một không gian yên tĩnh và thanh khiết, có cỏ cây sơn thủy hữu tình, có một lò trầm kỳ nam thoang thoảng đưa hương. Khi ấy, lão sẽ đọc cho Thái tử nghe những ý thơ được chắt lọc tinh túy từ vạn vẻ đẹp, từ vạn chân lý của cuộc đời...

Mặc dầu Thái tử nôn nóng muốn nghe lắm nhưng nhìn cuộc hội xuân đã bắt đầu khai mạc, người ta đang chờ đợi ngài; nên hẹn lão Bà-la-môn, hôm sau, vào buổi chiều; Thái tử cũng không quên dặn người nhà mời lão Bà-la-môn về nghỉ ngơi tại tòa lâu đài và tiếp đãi cung phụng cho thật chu đáo.

Buổi lễ khai diễn, người ta chào đón Thái tử bằng những điệu múa tươi vui trẻ trung của muôn ngàn đóa hoa xuân nở rộ; nơi những ca khúc trong lành, tinh khiết của nắng ngọc và sương sớm giao hòa... Bỗng một tiếng gầm lớn! Cuộc vui dừng lại. Ca nhi và vũ nữ hoảng hốt chạy tán loạn. Một kẻ lạ mặt cực kỳ to lớn, thân hình đầy lông lá trông vô cùng man rợ đang bươn bả về phía Thái tử Xu-ta-ma. Nhưng đoàn lính hầu cận Thái tử đã sẵn sàng gươm giáo, hàng rào thép để bảo vệ ngài chống với kẻ lạ mặt. Nhận ra Kama, bạn học cũ ở Tắt-ká-xi-la thuở nào, bình tĩnh hơn bao giờ, Ngài khoát tay bảo thủ hạ dạt ra. Kama rống lên như một con thú rừng rồi nhảy xổ tới, trông khỏe như voi núi và nhanh như gió bão. Thái tử không tỏ ý chống cự. Hắn cõng Thái tử lên vai, rồi hú một tiếng, biến đi như làn chớp.

Kama đã làm gì, đã sống như thế nào trong rừng sâu kể từ khi rời bỏ ngôi vua chí tôn kinh đô Ba-la-nại? Thật khó mà kể hết những hành vi tàn bạo ghê rợn của hắn. Kama đã biến thành dã man và rừng rú kể cả bên ngoài lẫn bên trong tâm hồn. Râu tóc hắn mọc dài ra không còn nhận được khuôn mặt người. Áo quần hắn rách bươm bê bết máu đã khô cứng lại. Móng tay, móng chân dài và nhọn hoắc như móng thú. Những sợi gân máu đỏ trong tròng mắt bao giờ cũng long lên dữ dằn. Chỉ cái hình thù khủng khiếp ấy thôi đã đủ làm người ta ngất xỉu mỗi khi trông thấy hắn. Thế là hắn chỉ việc thò tay nhấc con mồi về, sai tên đầu bếp xẻo thịt, nướng quay và ăn một bụng no. Mỗi mạng cả hai thầy trò làm được một ngày.

Hôm kia, hắn săn suốt khắp mấy khu rừng mà không tìm được một kẻ vô phúc nào. Trở về dưới gốc cây to - dùng làm nhà che mưa đỡ nắng bấy nay, thì trời đã hoàng hôn, Kama đói cào ruột. Hắn bỗng thấy một bóng người. Khỏi cần đao và kiếm, hắn thò tay ra và nhảy vồ tới. Móng tay sắt nhọn nắm đúng yết hầu nạn nhân, xớt gọn và nhanh như cánh chim cắt. Những sợi gân cổ đứt lìa, máu tuôn có vòi, hắn quăng xác chết xuống đất chẳng cần biết đàn ông hay đàn bà. Hắn cất tiếng gọi viên quan ngự trù - bây giờ đã trở thành tên đầu bếp chuyên làm thịt người - nhưng gọi hoài cũng chẳng nghe ai thưa, ai hỏi. Hắn gọi đã khan cả cổ. Tức giận hắn định đi tìm thì bỗng nhận ra xác người nằm dưới chân. Đấy rõ ràng là tên đầy tớ trung kiên của hắn, nào phải ai xa lạ đâu. Nhưng không một chút cảm động, hắn tự tay quay thịt tên đầu bếp bất hạnh ngay tại chỗ mà trước đây tên kia đã thịt rất nhiều người. Thế là từ hôm ấy, hắn phải đích thân làm đầu bếp cho mình.

Khu rừng Kama ở, từ đấy người ta gọi là Sát Nhân Lâm. Cái tên gọi thật là khủng bố và kinh hoàng. Trong vòng mười dặm chẳng có ai dám vãng lai. Kỷ thuật giết người của Kama càng lúc càng tỏ ra man rợ và tinh xảo. Hắn có thể xuất hiện từ một chạng cây, một gộp đá, một bờ đất, kẻ bộ hành thoáng nghe động chưa kịp quay lại đã nghe cổ mình bị siết chặt rồi một thanh đao đã xuyên ngọt qua cổ, qua tim, qua bụng từ bao giờ. Chưa có ai chống cự được một phút giây nào.

Càng lúc Kama càng đi làm ăn xa. Mùa nắng thịt không để được lâu nên hai ngày hắn phải kiếm cho ra một người, quay chín rồi ăn dần. Mùa đông và đầu xuân, hắn có thể kiếm một lúc năm bảy người rồi chôn sâu dưới tuyết, nếu chưa chết, hắn cũng có thể cột con mồi ở gốc cây rồi mỗi ngày thịt mỗi mạng.

Hôm kia, nhìn lên tàn cây đa to lớn đã nương náu bấy lâu, hắn khởi lên ý nghĩ là làm một cuộc lễ to lớn. Để tỏ ra xứng đáng, hắn nguyện sẽ bắt sống một trăm vị Hoàng tử, lấy huyết để tế thần cây (một tà thuyết phổ thông thời bấy giờ). Thế là chỉ trong vòng một tháng, hắn đã đi và về chín mươi chín quốc độ - sức hắn còn đi nhanh hơn thần mã - bắt đúng chín mươi chín vị Hoàng tử, đều là bạn học của hắn thời nhỏ ở Tắt-ká-xi-la.

Và Thái tử Xu-ta-ma nữa là người thứ 100.

Vứt Thái tử Xu-ta-ma xuống đất, với phong độ của người thắng trận, Kama cất tiếng cười ngạo nghễ:

- Này hỡi một trăm vị Hoàng tử cao sang tột bực của châu Diêm-phù-đề! Các bạn làm vua thiên hạ, đâu có ngờ hôm nay bại dưới gót chân ta? Các bạn đâu có ngờ được rằng chữ nghĩa, học thức lại trở thành vô nghĩa lý trước sức mạnh của ta? Hà, hà...

Chín mươi chín vị Hoàng tử, đều bị trói và cho ăn uống cầm hơi, riêng Thái tử Xa-ta-ma, con người văn nhược ấy, là ngôi sao sáng của lớp học thời Tắt-ká-xi-la, hắn lại đối xử khác. Nếu Xu-ta-ma chạy trốn mười dặm đường, hắn vẫn tự tin là hắn còn đuổi kịp.

Hắn thân mến trao cho Thái tử một miếng thịt đùi:

- Ăn đi! Ông bạn hiền lành! Đây là phần thịt ngon nhất mà thượng đế dành sẵn cho chúng ta! Hãy cảm tạ ân sủng thiêng liêng ấy!

Thái tử nhìn tình cảnh đã tiên đoán ra mọi sự. Tuy thế, ngài không mất bình tĩnh, từ chối miếng thịt của Kama rồi nói:

- Người thì làm sao mà có thể ăn thịt người hở Kama? Chỉ có người chối từ nhân tính và đồng loại như ngươi thôi, Kama ạ! Đã là người thì từ trong chỗ sâu xa nhất của tâm hồn, phải có cái gì là thanh cao và tinh khiết nhất!

Nói đến ngang đây, Thái tử chợt xúc động và rơm rớm nước mắt khi nghĩ đến bài thơ tuyệt tác của lão Bà-la-môn mà Thái tử chưa được nghe! Thái tử muốn nói đến cái thanh cao và tinh khiết ấy, nhưng Kama thì làm sao mà hiểu được?

Thấy khóe mắt của Xu-ta-ma rơm rớm ướt, Kama chế nhạo:

- Bạn lại sợ hãi cái chết rồi phải không, Thái tử Xu-ta-ma quý mến? Hay là bạn đang liên tưởng ngai vàng cùng thú vui ca xang, chăn chiếu với mấy ngàn cung phi mỹ nữ?

Phải, trong đầu của Kama chỉ có chừng ấy.

Xu-ta-ma tự nghĩ:

- Một trăm cái đầu tạm bợ này rơi đi cũng chẳng có gì phải ân hận cả. Ta chỉ ân hận là lời hứa với lão Bà-la-môn mà chưa thực hiện được. Ôi! Nếu ta là kẻ thất tín, dẫu cho vì hoàn cảnh nào thì lão Bà-la-môn đáng quý trọng kia sẽ thất vọng và buồn khổ biết bao nhiêu? Với giọng tha thiết, Thái tử bèn trình bày câu chuyện lại cho Kama nghe, rồi kết luận:

- Hãy cho ta trở về thực hiện lời hứa, và sau khi nghe thơ xong, ta trở lại đây chịu chết tức khắc.

Kama không tin là trên đời này có kẻ dám thủ tín với cái chết của mình nên y khăng khăng không thuận. Nhưng kìa! Xu-ta-ma đột nhiên đứng dậy, chỉ vào gươm mình và cất cao lời thề danh dự của người Kuru. Chưa ai đã không thể không tin vào lời thề thiêng liêng của người Kuru, kể cả kẻ đã mất hẳn nhân tính này, nên hắn đã chấp thuận cho Xu-ta-ma trở lại kinh đô để thực hiện lời hứa.

Kể sao cho xiết sự đón mừng của mọi người khi thấy Thái tử an toàn trở lại. Nhưng việc đầu tiên của ngài là đến gặp lão Bà-la-môn; và cũng để cho Kama khỏi phải chờ đợi lâu, Thái tử cho lập ngay một khoảng không gian yên tĩnh ở thượng lâu, ở đấy có cây cảnh và núi non u nhã, đốt một lò trầm hương, rồi chuẩn bị trai lòng đón nghe bốn câu thơ bất hủ. Mọi việc đã xong, lão Bà-la-môn gật đầu hài lòng. Chợt lão lim dim đôi mắt lại, trọn cả thân và tâm dường như đã thu liễm sẵn sàng. Tinh anh của vạn chân lý, của vạn vẻ đẹp sẽ được thoát ra từ óc não, trái tim của bậc vĩ nhân vô tiền khoáng hậu này.

Thế rồi... bốn câu thơ đã đọc xong!

Cả vũ trụ im lặng kỳ dị!

Không gian và thời gian không còn nữa!

Chỉ có hào quang, sự sáng, yên tĩnh, hòa bình và thanh khiết là tồn tại. Nó lại còn có một mãnh lực phi thường là kích động tâm can những đức tính cao đẹp nhất của con người. Nó xuất thế hóa, thanh cao hóa những tâm hồn bẩn chật, tối tăm và ô nhiễm. Thái tử hỷ lạc đến từng chân tơ kẻ tóc, tâm trí như lọt vào một thế giới rực rỡ hào quang cao vời ở đâu thuộc thượng tầng thanh khí. Từng lời, từng chữ, từng âm, Thái tử như uống cả vào lòng.

Lâu lắm. Lâu lắm. Thái tử thành khẩn nói:

- Một kiếp người, vạn kiếp người sẽ vô ích nếu không được nghe bốn câu thơ kỳ diệu kia. Này hỡi lão thi nhân siêu việt! Thầy hãy vui lòng cho ta được đáp tạ trong muôn một. Vì ta là kẻ đã nhận được quá nhiều. Quá nhiều.

Lão Bà-la-môn gật đầu, cười hào sảng:

- Được, lão có thể từ chối vật chất nhưng không có thể từ chối tấm lòng.

Thái tử sung sướng sai người mang ra mười viên bảo ngọc, một trăm tấm lụa trắng xứ Kāsi, hai triệu đồng tiền vàng. Tất cả đều được bỏ trên những chiếc mâm bằng pha lê trong suốt.

Lão Bà-la-môn thành kính thọ nhận tất cả. Nhưng sau đó lão chỉ bỏ vào túi một trăm đồng tiền vàng rồi nói:

- Phần lão chỉ bấy nhiêu là quá dư thừa cho một kiếp thi nhân phiêu bồng lãng đãng. Số còn lại xin Thái tử tùy nghi sử dụng vào những việc ích quốc lợi dân, những kẻ nghèo đói, khốn khổ và tật nguyền. Ôi! Ai là kẻ biết cho thì y luôn luôn là kẻ được nhận!

Lão Bà-la-môn khẽ nghiêng chào từ giã trước đôi mắt khâm phục của Thái tử. Thái tử Xu-ta-ma chép miệng:

- Bậc thiện trí thức đến với ta trong đời này dẫu không nhiều nhưng đã tác động đến ta thật mãnh liệt. Ôi! Dễ gì mà sống một kiếp làm người cho xứng đáng!

Lão Bà-la-môn vừa đi khỏi là Thái tử đến từ biệt vua cha và Hoàng hậu. Mặc dầu trước những giọt nước mắt máu mủ buộc ràng, cản ngăn, Thái tử cương quyết dứt áo ra đi và trở lại Sát Nhân Lâm một mình.

Xu-ta-ma về đúng hẹn làm cho Kama phải kinh ngạc. Sự coi thường cái chết của ngài làm cho hắn kinh ngạc hơn nữa. Kinh ngạc lẫn thán phục, Kama tự nghĩ:

- Trên đời này sao lại có chuyện kỳ quái đến như vậy? Bốn câu thơ kia không lẽ giá trị hơn những miếng thịt đùi của ta? Ôi! Những miếng thịt đùi béo ngậy, ngon ngọt, thơm lựng mới quý giá làm sao. Nó lại còn bổ dưỡng cơ thể, tăng sức khỏe, tăng tuổi thọ nữa chứ. Còn những lời thơ bất quá như gió thoảng ngoài tai! Sao thế gian lại có kẻ ngu si, điên rồ dám đánh đổi bốn câu thơ bằng tính mạng của mình? Vì nghĩ như vậy nên Kama chợt đâm ra tò mò. Hắn cũng có học thức nên muốn biết bốn câu thơ kia hay ho tuyệt diệu đến ngần nào. Bây giờ đến lượt hắn, hắn muốn nghe bốn câu thơ quái lạ. Hắn tỏ ý ấy với Thái tử. Nhưng Xu-ta-ma từ chối, ngài nói:

- Lời thơ hay không xứng đáng để lọt vào tai kẻ phàm phu tục tử; nhất là nhà ngươi, Kama ạ! Kẻ chỉ biết giá trị tôn quý trên đời này ngang bằng những miếng thịt đùi!

Kama chột dạ. Nhưng sự tò mò lại lớn mạnh hơn. Thế là hắn cố nén giận dữ để năn nỉ cho bằng được với những lời và cử chỉ từ tốn nhất, khiêm hạ nhất. Tuy thế, Thái tử Xu-ta-ma vẫn từ chối:

- Một bài thơ dẫu vỏín vẹn có bốn câu, nhưng lão thi nhân kia phải bỏ ra mười năm trường thai nghén trên núi cao. Một bài thơ mà ta còn coi trọng hơn cả tính mạng của mình; rồi sau khi nghe xong, ta lại còn năn nỉ người để hậu tạ bằng mười viên bảo châu, một trăm tấm lụa xứ Kāsi, hai triệu đồng tiền vàng bỏ trên những mâm bằng pha lê. Bài thơ như vậy mà có thể để cho ngươi - một con người đã biến thành thú tính, ăn và uống máu thịt đồng loại - nghe được sao hở Kama? Hãy biết rõ cái cuồng vọng và ngu si của chính mình. Ôi! Hãy chặt đầu ta và ăn gan ta, ăn tim ta đi thôi!

Kama lông tóc dựng đứng, khuôn mặt xanh lè đến ghê rợn, hắn gầm lên một tiếng to chấn động cả ngôi rừng. Nhưng quả là hắn đã có sự trấn tĩnh phi thường hay duyên lành đã hỗ trợ hắn, nên hắn đã phủ phục dưới chân Thái tử:

-Cho nghe! Cho nghe! Hỡi Thái tử Xu-ta-ma quý trọng! Kama này cũng dám đánh đổi mạng sống, hy sinh những miếng thịt đùi để nghe bốn câu thơ kỳ diệu kia cho kỳ được!

Tâm cơ máy động, Thái tử biết nhân duyên đã hội đủ, bèn nghiêm trang nói:

- Kama hỡi! Với lòng chí thành ấy, ta sẽ đọc cho ngươi nghe, nhưng ngươi phải chuẩn hứa với ta vài điều!

Kama giật đầu:

-Vài điều, trăm điều, vạn điều... cũng làm được tất cả nếu trong vòng khả năng của ta.

Rồi hắn chỉ vào gươm mình - bao giờ trên người hắn cũng rất nhiều vũ khí - rồi dõng dạc:

- Kama này cũng biết đến lời thề của người Kuru các ngươi!

Thái tử mỉm cười hài lòng, dẫn Kama đến một tảng đá cao. Ngài ngồi xếp bằng ở trên và bắt Kama quỳ ở dưới. Rồi với tất cả sự nồng nhiệt và bừng bừng từ trái tim, Thái tử đọc to lên; âm thanh bàng bạc như quyện khắp cả núi rừng, cây cỏ; tứ và lời sâu thẳm, bao la, bát ngát... tuôn ra...

Bài thơ có tác dụng kỳ diệu, nó khơi dậy các điều tinh khiết, thanh cao ngủ quên quá lâu xa trong tiềm thức của kẻ đã biến hẳn tính người. Nghe xong, Kama bất động như tượng đá. Hắn nghe tiếng gọi đâu đó từ xa xăm, đưa hắn trở về bầu trời quang đãng, bình yên mà hắn đã đánh mất. Hắn khóc. Những giọt nước mắt cứ tuôn ra, rồi rỏ xuống từ hai khóe mắt yên lặng.

Tiếng Thái tử Xu-ta-ma thoảng bên tai như lời gió thì thào nhắn nhủ:

- Kama! Người bạn hiền! Bây giờ tất cả đã đổi mới. Thay vì vài điều chuẩn hứa thì đây chỉ là vài điều ước nguyện cho bạn thôi.

Thứ nhất ta cầu nguyện cho bạn sức khỏe, hạnh phúc, trường thọ để cùng chín mươi chín vị Hoàng tử kia sống với nhau trong tình nghĩa đệ huynh!

Thứ hai, ta cầu nguyện cho bạn sớm từ bỏ cuộc sống này, trở về lên ngôi vương đế lấy chính pháp trị dân!

Ôi! Chỉ hai lời cầu nguyện mà hàm chứa tất cả. Vô lẽ Kama lại không thích người ta cầu nguyện cho mình? Và như vậy thì Kama phải thực hiện mấy điều ẩn tàng trong lời cầu nguyện: thả chín mươi chín vị Hoàng tử, từ bỏ cuộc đời man dã, sống đời hiền lương.

Kama tự nghĩ:

- Y chẳng xin cho y sống, không hận thù ta mà lại còn cầu nguyện sự hạnh phúc và trường thọ cho ta nữa? Ôi! Tâm hồn y cao cả dường ấy? Mọi điều có thể vì kính nể y mà ta làm được. Nhưng từ bỏ đời sống này! Nghĩa là vĩnh viễn không còn những đùi thịt người?

Trong tâm của Kama lúc bấy giờ đang xảy ra một cuộc tranh chấp dữ dội. Y chẳng thiết gì đến ngôi báu, điện ngọc, lầu vàng, mỹ nữ - chỉ để đánh đổi những bữa ăn thịt người khoái khẩu mà bây giờ đành phải đoạn tuyệt ư?

Một chiến trường khốc liệt cũng không dữ dội bằng sự đấu tranh thầm lặng này. Y đã mấy lần cắn răng, đã mấy lần nuốt nước miếng vào sâu trong cổ họng; đã mấy lần thay đổi sắc mặt từ đỏ, xanh sang trắng... Cuối cùng, y hét to lên một tiếng rồi búng người lên cao, rơi xuống... Y vùng đứng dậy:

- Ta đã thắng! Ta đã thắng! Nghĩa là lương tri đã thắng! Thái tử Xu-ta-ma ơi! Hãy cứu ta!

Nói xong, Kama nghiêng ngả dường như đứng không vững. Thái tử Xu-ta-ma bước xuống nắm tay Kama run run cảm động. Ngay khi ấy trời đất và vạn vật thảy đều rung chuyển vì sự thắng lợi huy hoàng của bốn câu thơ kỳ diệu, của Thái tử Xu-ta-ma; và nhất là sự trở về của một con người!

Cả hai yên lặng bên nhau rất lâu. Niềm cảm thông bao la đã làm mát rượi những cõi lòng và cả cây cỏ. Lát sau, chín mươi chín vị Hoàng tử đều được cởi trói. Kama hổ thẹn và ăn năn đến tội nghiệp.

Bây giờ việc khó khăn khác cần phải giải quyết: Làm sao đưa Kama trở về kinh thành Ba-la-nại? Niềm thù hận của những người mất chồng, con, cha đâu dễ phút giây mà xóa mờ được? Tội ác của tên đầu bếp, hắn đã nhận lấy cái hậu quả ở trong bụng của chủ nó rồi. Còn tất cả tội lỗi của Kama ở kinh thành cũng như sau này ở Sát Nhân Lâm thì ai sẽ gánh chịu? Có thể Kama sẽ chuộc lại một phần nào bằng tất cả việc lành sau này của mình, nếu văn võ bá quan cũng như trăm họ đồng ý như vậy, nhưng ai là người đảm bảo cho sự hoàn thiện của Kama? Giải quyết những khó khăn này người ta chỉ trông cậy vào Thái tử Xu-ta-ma, bậc đức hạnh mà uy tín của ngài đã vượt khỏi mọi biên giới.

Thái tử Xu-ta-ma cùng chín mươi chín vị Hoàng tử đưa Kama về thành. Trước triều đình và dân chúng, Thái tử trình bày câu chuyện và hết lời phân giải. Tin vào ngài, người ta bằng lòng tiếp đón Kama.

Ngày hôm sau, kinh thành mở hội. Trước bá quan văn võ, các hàng trưởng lão đại diện bách tính, Kama hứa cải ác tùng thiện, ra sức làm các công đức hữu ích đến mọi người để chuộc lại lỗi lầm xưa. Họ tin vào một điều: kẻ đại ác có thể trở thành bậc đại hiền nếu biết quy hướng trở về với đạo đức - nên họ bằng lòng suy cử Kama lên làm vua. Hôm ấy quốc độ mở tiệc ăn mừng rất lớn. Họ tin tưởng vào một kỷ nguyên mới an lạc và hạnh phúc sẽ phục hưng trên xứ sở họ.

Và quả thật như vậy, sau khi từ bỏ được máu tham thịt người, Kama không còn một đam mê nào khác, đức vua say sưa vì lợi ích của phần đông, lấy chánh pháp trị dân và giữ yên trăm họ.

Không ai không tri cảm ơn đức Thái tử Xu-ta-ma. Và bài thơ kỳ diệu kia được viết, khắc, chạm rồi sơn son thếp vàng, mạ kền, mạ bạc treo tại những nơi trang trọng nhất trong khắp quốc độ.

Sự an cư lạc nghiệp ở nơi này kéo dài được tám ngàn năm...


 

Đại triệu phú
chiếc bánh chiên

Người triệu phú chầu vua từ hoàng cung trở về, thấy người thôn dân đang ăn một loại bánh chiên bằng bột chua. Y thèm quá, định thò tay vào túi lấy ra một vài xu lẻ. Nhưng rồi y tự nghĩ: “Mua ăn như thế này thì hoang phí quá, hãy cố gắng nhịn đói cho đến nhà”.

Sự thèm muốn thúc bách làm cho bụng y đói cồn cào, nước dãi chảy ra; tuy thế, bước chân lên bục cửa, ý nghĩ khác lại nảy sinh: nếu ta nói ta muốn ăn bánh chiên thì có nhiều người cùng muốn ăn, sẽ tốn kém xiết bao về gạo, thục tô, đường..?

Thế là vị đại triệu phú không dám nói ra với ai. Y cố dằn ép sự thèm muốn, nhưng miếng bánh chiên trong chảo cứ hiện ra ám ảnh y. Vị đại triệu phú đi đi lại lại, sắc da mỗi lúc một vàng bệch, mạch máu nổi lên có vồng, tim đập liên hồi, mồ hôi tay rịn ra. Cuối cùng không chịu được, y bước vào phòng, nằm co ro trên giường. Miếng bánh chiên lại hiện ra, bây giờ lại nhảy múa với sắc vàng lóng lánh mỡ.

Vợ người triệu phú thấy chồng sắc da từ thẫm hồng sang vàng, từ vàng sang tái xanh, mồ hôi tươm ra từng giọt, nước dãi theo nhau nhểu thành dòng; bèn đến bên xoa lưng, quạt mát rồi ân cần hỏi:

- Đi đường xa nắng mệt, chắc ông bị cảm mạo rồi đây?

Đại triệu phú lắc đầu:

- Cảm mạo không làm gì nổi ta, bà biết đấy!

Người vợ cảm thấy yên tâm, hỏi tiếp:

- Thấy ông không được thoải mái. Hay đức vua đã nói một điều gì làm ông chẳng hài lòng?

- Không, không phải thế. Đức vua không có liên hệ gì ở đây!

Người vợ cứ chất vấn:

- Con trai, con gái có đứa nào ngỗ nghịch khó dạy đã làm ông phiền lòng hả?

- Chúng khó dạy thì đánh, thì mắng, thì đuổi cổ nó ra đường cho đỡ tốn cơm, tốn áo. Vị triệu phú cố nói một hơi - chúng là cái thá gì mà làm phiền tôi được?

- Nô tỳ, kẻ làm công, có ai không chu toàn công việc?

Đại triệu phú đã cảm thấy tưng tức:

- Chúng thì như là đôi dép cũ, chiếc áo rách, xài không được thì quẳng đi thôi!

- Vậy thì tôi chắc? Tôi đã có gì không phải với ông rồi?

- Không! Không phải thế - Vị triệu phú phân trần - Bà là một người biết lẽ xướng tùy phu phụ, chưa có khi nào, một điều gì mà tôi trách bà được.

Người vợ ngạc nhiên, nhăn mày suy nghĩ hồi lâu; chợt bà hỏi chỉ vừa đủ nghe:

- Hay ông có một sở thích, một ham muốn, một khát ái nào chưa thỏa mãn chăng?

Miếng bánh chiên trong chảo bằng bột chua lại hiện ra, nhảy múa như khiêu khích. Vị triệu phú nuốt một cái ực. Nhưng sợ tốn kém, ông vẫn im lặng.

Người vợ lại xoa lưng, quạt mát, giọng hờn trách:

- Vợ chồng là bạn đường dài vui khổ có nhau, tối lửa tắt đèn hộ trì nâng đỡ nhau. Là kẻ cùng nói cho nhau nghe những điều khó nói. Nay ông có chuyện kín trong lòng mà không chịu nói ra, thì ông đã coi tôi như kẻ xa lạ mất rồi!

Thấy vợ hờn mát, vị triệu phú chống tay ngồi dậy, cố gắng nuốt một hơi rồi nói như làn gió phất qua ngọn lá:

- Ta sẽ nói. Ta sẽ nói bà ạ! Nó như thế này: có một thèm muốn đang thúc bách ta. Ôi! Ta thèm làm sao một chiếc bánh chiên bằng bột chua mà người thôn dân kia ăn trên đường khi ta từ cung vua trở về.

Đại triệu phú kể chuyện lại. Người vợ “ồ” lên một tiếng, muốn cười mà không dám cười.

- Chỉ có thế mà không chịu nói. Ông là đại triệu phú tiền rừng bạc bể. Nay tôi sẽ làm loại bánh chiên ngọt kia, và dọn cho cả toàn thể mọi người trong thị trấn Sakkhàra cùng ăn nhé?

Đại triệu phú nhíu mày:

- Bà nói cái gì ghê gớm vậy? Cho cả thị trấn Sakkhàra? Chúng cần phải làm mới có ăn.

- Tôi sẽ dọn đầy đủ cho mọi người trong cùng một đường phố vậy. Người vợ nói.

Đại triệu phú bĩu môi, nói mỉa:

- Tài sản của bà còn hơn tài sản của một ông vua giàu sang nhỉ?

- Thế thì tôi sẽ làm cho mọi người trong nhà cùng ăn.

Đại triêu phú xua tay:

- Thôi. Thôi. Thế là hoang phí hết sức.

- Vậy thì ta hãy làm vừa đủ cho con cái nó ăn.

Đại triệu phú lại gắt:

- Sao bà lại đem chúng vào đây?

Người vợ đấu dịu:

- Thế thì cho tôi và ông cũng được.

- Sao bà lại có ở trong đó nữa?

Vợ triệu phú ngoan ngoãn gật đầu:

- Phải rồi. Tôi sẽ làm cho một mình ông ăn thôi.

Đại triệu phú mỉm cười hài lòng. Lại nhỏ giọng:

- Nhưng mà bà này, làm ở tại đây không được đâu. Những ông Sa-môn, đạo sĩ, con cái, nô tỳ, người làm công dòm ngó. Chúng sẽ chờ đợi để xin ăn. Ta sẽ làm nơi kín đáo.

Người vợ gật đầu bước đi, triệu phú còn kêu lại dặn dò:

- Bà hãy đến nơi chỗ gạo thừa, để ra những hạt nguyên, chỉ lấy những hạt gạo vụn rồi đem xay. Xong rồi đừng khua động, lấy lò và chảo, một ít sữa, thục tô, đường cục.. nhớ là thứ đường để dành cho ngựa ăn - rồi chúng ta sẽ cùng lên tầng lầu thứ bảy, chiên tại đấy. Chiên xong, thế là hết phần việc của bà. Hãy để phần việc còn lại cho ta!

Người vợ làm y lời.

Đại triệu phú bước lên tầng lầu thứ nhất khóa cửa bằng chốt sắt kiên cố; leo lên lầu hai, khóa cửa bằng chốt sắt kiên cố. Bảy tầng lầu đều khóa bảy lớp như thế.

Người vợ đốt lửa trong lò, đặt chảo lên. Với đầy đủ bột, sữa, thục tô, đường, mật.. bắt đầu làm bánh chiên...

Bậc Đạo Sư vào buổi sáng, với thiên nhãn siêu nhân thuần tịnh, thấy rõ tất cả mọi việc xảy ra ở gia đình vị triệu phú, bảo trưởng lão Mục Kiền Liên:

- Cách Vương Xá thành khoảng vài do tuần về phía bắc, có thị trấn Sakkhàra - này đại Mục Kiền Liên! Ở đấy có người triệu phú hà tiện. Y thèm muốn một chiếc bánh bằng bột chua. Sợ tốn kém, sợ hao hụt tài sản, sợ người khác cùng ăn nên bảo vợ chiên bánh nơi tầng lầu thứ bảy, lối lên bằng bảy lần cửa khóa kiên cố. Này Đại Mục Kiền Liên, ngươi hãy đến đó, nhiếp phục và hóa độ người triệu phú ấy. Rồi dùng thần lực đem cả hai vợ chồng cùng với tất cả bánh, sữa, thục tô, mật, đường cục... về đây. Hôm nay, Như Lai cùng đại chúng tỷ-kheo năm trăm vị, ngồi tại Kỳ Viên, sẽ ngọ trai bằng những chiếc bánh chiên ngọt ấy.

Cúi đầu đảnh lễ đức Đạo sư, Đại Mục Kiền Liên vận thần thông lực, trong nháy mắt đã đến Sakkhàra. Trước cửa sổ căn lầu thứ bảy của triệu phú hà tiện, ngài Mục Kiền Liên hiện ra sừng sững giữa hư không, với đại y trang nghiêm như một bức tượng vàng chói lọi.

Vị đại triệu phú giật thót mình, quả tim xúc động mạnh, mồ hôi rỏ long tong, tự nghĩ: Ta sợ như vậy nên đã lánh lên đến đây. Nhưng y cũng theo ta, đòi xin những chiếc bánh chiên - Y nói:

- Này ông Sa-môn có thần thông! Đứng giữa hư không như vậy có được gì đâu? Dẫu cho ông có đi kinh hành qua lại, ông cũng không được gì.

Ngài Mục Kiền Liên thay đổi oai nghi, vạch một đường bằng bạch ngọc giữa không gian rồi đi kinh hành qua lại.

- Đi kinh hành như vậy mà làm gì, vô ích thôi - đại triệu phú lắc đầu nói - dẫu ông có ngồi kiết già như Phạm Thiên, ông cũng không được gì.

Đường bạch ngọc lóe lên rồi tắt, ngài Mục Kiền Liên an nhiên ngồi kiết già, quanh thân tỏa hào quang như mảnh trăng rằm chiếu sáng dịu dàng.

Vị triệu phú đã thấy ớn trong người nhưng vẫn nói cứng:

- Kiết già giữa hư không kia ư? Cũng vậy thôi! Dẫu ông có đứng lọt trong cái lỗ thông hơi, ông cũng không được gì.

Bức tượng kiết già châu báu giữa hư không biến mất, trên thành lỗ thông hơi nhỏ bằng con chim có thể bay lọt, Đại Mục Kiền Liên ôm bát đứng uy nghi, trong lúc lỗ hổng kia không lớn ra mà ngài Mục Kiền Liên cũng không nhỏ lại.

Vị triệu phú đã sợ hãi, giọng nói đã mất bình tĩnh:

- Tài... đấy! Giỏi.. giỏi... đấy! Ông Sa-môn à, nhưng nếu ông có phun khói, ông cũng không được gì!

Câu nói vừa dứt, khói từ lỗ hổng tràn vào cuồn cuộn. Lát sau, cả tòa lâu đài như ngập trong biển khói...

Đôi mắt vị đại triệu phú cay xè, buốt đau, nước mắt, nước mũi tuôn ra; y không còn dám nói: dẫu cho có đốt lửa, ông cũng không được gì! Tự nghĩ: không có gì mà ông Sa-môn này làm không được, dẫu bắt mặt trời bỏ trong lòng bàn tay. Ông ta quả thật là gan lỳ. Nếu không cho thì hắn sẽ không bao giờ đi!

Đợi cho khói tan loãng, ông quay qua bảo vợ:

- Này bà, hãy chiên cho ông Sa-môn gan lỳ kia một cái bánh nhỏ, thật nhỏ, rồi tống y đi.

Người vợ lấy một tí bột bỏ vào chảo. Chiếc bánh chợt phồng lên làm đầy miêng chảo. Vị triệu phú nghĩ rằng vợ mình đã bỏ nhiều bột, tức giận nhìn vợ rồi khẽ nhấc đầu chiếc muỗng, khoắng một tí bột. Lạ lùng thay, bánh lại phồng lên, to gấp đôi chiếc bánh trước.

Vị triệu phú hừ một tiếng, cho bột dính một xíu ở đầu chiếc que, búng vào trong chảo. Lạ chưa? Chiếc bánh uốn mình lên, nhúc nhích phồng ra mãi, to gấp ba lần chiếc bánh thứ nhất. Lộn ruột, sôi gan, vị triệu phú kêu ùng ục trong cổ họng, hằn học làm chiếc bánh khác. Cho đến khi bột chỉ còn bằng hạt mè, bằng một tí bụi có thể dính được trên đầu ngọn cỏ... thế mà chiếc bánh vẫn cứ ngang ngạnh phình ra, to lớn hơn mãi.

Thoát hạn dầm dề, vị triệu phú quay lại rơi phịch trên ghế, nản chí:

- Này thôi bà ơi! Lấy cho y một cái. Cái nào đó cũng được.

Rồi đại triệu phú than dài:

- Ôi! Cái ông Sa-môn thi gan với ta mà chiếc bánh cũng muốn thi gan với ta nữa!

Vợ đại triệu phú lấy một chiếc bánh từ giỏ. Kỳ lạ chưa! Tất cả bánh đã dính liền với nhau. Bà đã cố tách ra, nhưng không được. Vị đại triệu phú thấy vậy bước tới. Cả hai người cùng dùng hết sức lực kéo bánh. Nhưng vô ích, bánh đã dính làm một!

Mồ hôi toát ra ướt dầm cả áo. Bao nhiêu thèm muốn biến mất, vị triệu phú thở hổn hển, giọng lạc hẳn đi:

- Ta không còn muốn ăn nữa. Này bà, hãy thí hết, hãy thí tất cả bánh trong giỏ cho y! Ôi! Cái lũ bánh trời đánh!

Người vợ làm theo, đem cả giỏ bánh bố thí. Đại trưởng lão sau khi thọ nhận, rải tâm từ bi như chiếc bánh lớn hơn bao trùm cả không gian to rộng khiến cho tâm tư hai vợ chồng triệu phú lắng dịu, mát mẻ, khinh an. Rồi cất giọng Phạm Thiên, ngài thuyết một thời pháp nói về công đức ba ngôi báu, kết quả rạng ngời như nhật nguyêt của sự bố thí... Do túc duyên nhiều đời kiếp, vị triệu phú nghe xong, khởi tâm tịnh tín:

- Thưa tôn giả, ngài hãy đến đây, ngồi trên chiếc gường bằng bạc này mà độ thực.

Đại Mục Kiền Liên nói:

- Này đại triệu phú, ta chưa thể ăn. Hiện giờ đây, Đức Chánh Đẳng Giác với đại chúng năm trăm vị tỳ khưu đang ngồi tại tịnh xá. Triệu phú và vợ có thể hoan hỷ không, khi tự mình với bánh, bột, sữa, thục tô, đường, mật... đi đến bên chân đạo sư?

Vị triệu phú nghiêng mình cung kính:

- Thưa tôn giả, bậc đại thần thông, Đức Tôn Sư hiện giờ ở đâu?

- Tại Kỳ Viên tịnh xá, cách đây bốn trăm do tuần (1 do tuần bằng 16 km)

- Ôi, xa quá là xa. Thưa tôn giả, làm sao chúng ta đi đến đó mà không mất nhiều thì giờ?

Đại Mục Kiền Liên mỉm cười như sự hé nụ của đóa hoa vô ưu:

- Nếu các ngươi hoan hỷ, thì từ đây đến đó chỉ trong thời gian mấy cái bước chân mà thôi.

Vị triệu phú và vợ ngơ ngác.

- Với oai lực thần thông - Đại Mục Kiền Liên nói - Ta sẽ làm cho đầu cầu thang vẫn nằm ở đây nhưng chân thang sẽ ở Kỳ Viên!

Triệu phú và vợ hoan hỷ bằng lòng.

Ngạc nhiên xiết bao, khi họ vừa bước chân xuống cầu thang thì cửa tịnh xá đã ở ngay trước mắt.

Đức Thế Tôn, tại trai đường lúc ấy đang ngồi trên bửu tọa với đại chúng đoanh vây. Đại triệu phú cung kính đến đổ nước rửa tay cho Đức Phật và Tăng Chúng rồi cúng dường tất cả bánh, sữa, thục tô, bột, đường cục...

Khi Đức Thế Tôn và năm trăm vị tỳ khưu dùng xong, triệu phú và vợ ăn cho đến thỏa thích nhưng bánh cũng không hết. Mấy trăm kẻ tàn thực ăn cho đến căng da bụng nhưng bánh vẫn còn thừa. Thấy chuyện kỳ lạ, một số vị tỳ khưu đến tâu với Đức Thế Tôn, ngài dạy:

- Bánh kia là bánh của công đức. Ai không có nhân duyên với công đức này, không thể nào dùng chúng. Vậy này hỡi các tỳ khưu, số bánh còn lại sẽ đổ xuống nơi cái hố hay một cái hang. (Nay bên cạnh cửa lớn chùa Kỳ Viên còn dấu tích cái hang, tên gọi là “Cái hang bánh chiên trong chảo”)

Đức Thế Tôn dạy thế xong, nói lời tùy hỷ với vợ chồng triệu phú. Cuối lời tùy hỷ, cả hai vợ chồng đều chứng quả dự lưu.

Từ đấy về sau, hai vợ chồng đại triệu phú tinh tấn trong giáo pháp này, như chiếc thuyền nhẹ qua bờ, và an trú vững chắc vào đích đến, họ cúng dường đến Tam Bảo những tám ức tài sản.

 


Dũng sĩ ngàn vàng


Triều đình đức vua xứ Bá-nhĩ-nam trang hoàng lộng lẫy đẹp đẽ như thiên cung. Hôm nay, đức vua thết đãi các trang dũng sĩ chiến thắng vô địch từ bốn phương tại triều nội.

Giữa buổi tiệc, chợt một trang dũng sĩ to lớn hiên ngang từ cổng chính đi vào. Quân hộ vệ ùa ra chận lại.

Nhà vua nghe tả hữu báo cáo:

- Mười người không chận y lại được!

Vua cả kinh thất sắc.

Lại nghe báo cáo:

- Năm mươi quân cận vệ cũng không chận y lại được!

Vua sửng sốt đứng bật dậy:

- Sao vậy? Các trang dũng sĩ của ta đâu?

Những tiếng rầm rập đồng thanh vang lên. Một ngàn trang dũng sĩ gươm đao nai nịt sáng lòa cùng đứng lên một lượt, khí thế bốc cao chín tầng mây xanh, thần oai lẫm lẫm.

Vua vuốt chòm râu bạc nhìn quanh, vừa dạ, khẽ gật đầu:

-Tốt lắm! Chư khanh hãy bình thân!

Đức vua xứ Bá-nhĩ-nam phất tay rồng rồi mỉm cười nói:

- Chừng này trang dũng sĩ thiên hạ chẳng lẽ lại không hộ vệ được trẫm sao? Vậy thì cứ để cho tên kia vào đây!

Không cần đợi lâu, trang dũng sĩ lạ mặt kia đã hiên ngang đứng trước mặt rồng.

Vua phán hỏi:

- Tên kia! Ngươi là ai? Từ đâu đến?

Dũng sĩ lạ mặt nghiêng thân đáp:

- Tâu đại vương! Hạ thần là dũng sĩ vô địch rừng xanh!

- Ngươi làm nghề gì? Vua phán hỏi tiếp.

- Hạ thần trước đây làm nghề bắt voi, đuổi sư tử, bắn chim đại bàng ...Bây giờ thì đã giải nghệ.

Vua chăm chú nhìn dũng sĩ lạ mặt, da ngăm màu đồng trụ, người cao hơn trượng, bèn hỏi:

- Vậy thì tài nghệ như thế nào?

Dũng sĩ lạ mặt ngẩng cao đầu đáp:

-Muôn tâu! Bàn tay của hạ thần đấm vỡ một lúc mấy tảng đá chồng lên nhau. Mũi tên của hạ thần xuyên thủng qua một quả núi nhỏ...

Cả triều thần và một ngàn dũng sĩ thiên hạ cất tiếng cười ồ ra vẻ chê nhạo. Dũng sĩ lạ mặt vẫn đứng nghiêm trang, khuôn mặt không hề đổi sắc.

Đức vua ngạc nhiên hỏi tiếp:

- Ngươi còn có tài về môn gì nữa?

Giọng dũng sĩ lạ mặt cất lên trầm vang như chuông ngân:

- Muôn tâu! Hạ thần có thể nhảy lên hư không, thò tay bắt gọn lỏn một con chim đang bay! Có thể nhón chân túm con tuấn mã đang phi nước đại. Sông rộng mười trượng, hạ thần bơi qua chưa quá ba sải tay...

Đến đây dũng sĩ lạ mặt lại mỉm cười tiếp:

- Hiện giờ thì hạ thần có học thêm hạnh bố thí, đức kiên nhẫn, chí hy sinh, lòng từ bi và cả sự trung thành nữa!

Đức Vua xứ Bá-nhĩ-nam nhìn ngắm dũng sĩ lạ mặt, nghi ngờ khôn xiết. Một hồi, bèn hỏi:

- Ngươi đến đây có việc gì?

Dũng sĩ lạ mặt nghiêng mình khiêm tốn:

- Muôn tâu, chỉ xin một chân hộ vệ!

Vua xứ Bá-nhĩ-nam cười ha hả:

- Được lắm. Vậy thì trẫm trả cho ngươi một trăm lượng bạc nhé?

Dũng sĩ lạ mặt lắc đầu:

- Quá ít, tâu đại vương!

- Một ngàn lượng bạc nhé?

- Quá ít, tâu đại vương!

Vua lại lên giá nữa:

- Mười lượng vàng nhé!

Mọi người đồng la lên xiết bao kinh ngạc. Mười lượng vàng cho một chân hậu vệ tầm thường quả là thù lao quá hậu hĩ.

Ngờ đâu, dũng sĩ lạ mặt cũng lắc đầu:

- Vẫn ít quá, tâu đại vương!

Đức vua cười to lên:

- Vậy thì ngươi định giá bao nhiêu?

Dũng sĩ lạ mặt chợt cao giọng:

- Mười lượng vàng chỉ xứng đáng công lao của một dũng sĩ bậc trung. Một trăm lượng vàng chỉ mới xứng đáng công lao của một dũng sĩ bậc thượng. Còn đối với hạ thần... thì... một ngàn lượng vàng không thừa, không thiếu!

Vua vỗ bàn, đứng bật dậy:

- Vậy ngươi là dũng sĩ bậc gì?

- Là dũng sĩ vô địch! Muôn tâu!

Cả triều nội chợt im phăng phắc, một con ruồi bay qua cũng nghe được âm thanh. Một ngàn trang dũng sĩ đang dự yến khinh thị nhìn người lạ mặt. Một ngàn lượng vàng cho một chân hộ vệ, trong lúc số vàng ấy có thể làm chi phí cho một muôn binh mã! Như thế y có xấc xược? Có tự đánh giá mình quá cao? Có bất kính và phạm thượng chăng?

Một trang dũng sĩ to lớn uy nghi từ buổi tiệc đứng dậy báo danh, như cố ý thách thức dũng sĩ lạ mặt:

- Đức thánh thượng vạn tuế, vạn vạn tuế! Hạ thần là dũng sĩ vô địch phương bắc!

Cùng lúc ấy, như ‘’đồng thanh tương ứng’’, tại ba hướng khác nhau, có những giọng sang sảng nổi lên:

- Muôn tâu! Hạ thần là dũng sĩ vô địch phương đông.

- Muôn tâu bệ hạ! Ngu thần là dũng sĩ vô địch phương tây.

- Tâu hoàng thượng! Kẻ bầy tôi là dũng sĩ vô địch phương nam.

Đức Vua Bá-nhĩ-nam hài lòng nhìn bốn trang dũng sĩ bốn phương, nhỏ giọng hỏi:

- Này chư khanh thân yêu của trẫm! Các khanh có ước nguyện gì?

Cả bốn dũng sĩ đồng thanh đáp:

- Muôn tâu! Muốn thử tài với dũng sĩ vô địch rừng xanh! Kẻ tự xưng giá của mình là Thiên Kim dũng sĩ (Dũng sĩ ngàn vàng).

Đức Vua xứ Bá-nhĩ-nam phất tay rồng chuẩn lời.

Thiên Kim dũng sĩ nói:

- Chẳng cần thế! Tâu đại vương!

Đức vua cười ha hả:

- Ngươi sợ bốn tay đại dũng sĩ của trẫm rồi sao?

Thiên Kim dũng sĩ ngang nhiên đáp:

- Muôn tâu! Sự sợ hãi không bao giờ có trong tâm một dũng sĩ vô địch, dẫu chỉ là thoáng qua. Chẳng cần thế! Nghĩa là chẳng cần bốn vị, mà hãy cùng ra đây một lúc cả ngàn trang dũng sĩ của đức vua. Nếu hạ thần muốn, thì dẫu có sự tấn công các phía của hàng ngàn đao kích cùng ám tiễn, hạ thần vẫn không thối lui nửa bước!

Sau đó cuộc đấu đã xảy ra.

Thiên Kim dũng sĩ đưa cánh tay lên là mấy chục thanh đại đao rơi đổ loảng xoảng. Thiên Kim dũng sĩ huơ tay một cái là nắm trọn mấy trăm mũi tên từ bốn phía bắn ra đồng loạt. Thiên Kim dũng sĩ hét lên một tiếng là cả ngàn người bất tỉnh và mấy tòa cung điện ngói gạch thi nhau rơi đổ. Thiên Kim dũng sĩ dậm chân một cái là mặt đất rung rinh chuyển động như địa chấn!

Một ngàn trang dũng sĩ vất đao, cởi giáp quỳ xuống xin hàng phục.

Mấy ngàn quan quân tại triều nội quăng cả gươm giáo, mũ nón lên trời tung hô rần rần như sấm dội:

- Dũng sĩ vô địch hoan hô! Hoan hô dũng sĩ vô địch!

- Thiên Kim dũng sĩ! Hoan hô!

Đức vua xứ Bá-nhĩ-nam hồ hởi, đẹp dạ, sai chuẩn bị một ngàn lượng vàng rồi cho Thiên Kim dũng sĩ làm chân hộ vệ thân tín đứng canh gác tại tẩm cung (phòng ngủ).

Từ đây đức vua cảm thấy mình được an toàn không còn sợ bất cứ một nguy hiểm nào từ bên ngoài giữa đêm hôm khuya khoắt...

Thời gian trải qua đã lâu, đức vua vì công việc không còn nhớ đến Thiên Kim dũng sĩ nữa.

Đêm kia trời mưa gió bão bùng, lạnh đến đóng băng, đức vua không ngủ được, đi tới đi lui trong tẩm phòng. Qua màn kính lờ mờ, đức vua nhìn loáng thoáng thấy một người đứng bất động uy nghi như tượng đồng, giáo chống thẳng nơi bức tường phía nam. Đến canh hai trời trở rét hơn, đức vua thức dậy nhìn ra bên ngoài, người kia giáo vẫn chống thẳng chẳng đổi oai nghi. Rồi canh ba, rồi đến khi trời sáng, khi tất cả lính hộ vệ trong cung đã lục tục trở dậy, thay phiên chống giáo đứng gác đầy đặc khắp các nơi, người kia mới trở mình, cúi đầu hướng đức vua tung hô vạn tuế; rồi cắp giáo, nhảy ra bức tường phía đông đi mất.

Hôm sau, những hôm sau nữa. Cứ khi đêm vừa buông xuống là có mặt người ấy, dẫu khí trời băng giá thế nào, y vẫn một mực giữ một oai nghi đứng canh đầu đêm cho đến sáng. Đức vua hỏi vọng xuống:

- Tên kia! Ngươi có bổn phận gì mà dám đứng gác cung điện của ta?

- Muôn tâu! Hạ thần là Dũng Sĩ vô địch của đại vương, được đại vương ban cho là Thiên Kim dũng sĩ. Suốt bao nhiêu năm nay hạ thần đã chu toàn nhiệm vụ không dám xao lãng.

Ngay khi ấy, đức vua nghe một tiếng nói từ rừng sâu vọng lại:

- Thiên Kim dũng sĩ! Ngươi có dám ra đây không?

Vua ngạc nhiên hỏi rằng:

- Ngươi có nghe tiếng nói ấy chứ? Của ai vậy?

- Muôn tâu! Đã lâu lắm rồi, cứ vào quãng cuối canh hai là hạ thần đều nghe rõ tiếng nói ấy, nhưng vì hạ thần bổn phận phải canh gác nghiêm ngặt nên chẳng dám rời chân. Nếu đại vương hạ lệnh, hạ thần tức khắc bắt hắn đem về đây ngay.

- Hãy đi! Đức vua phán - Và hãy tìm cho ra lý do rồi về tâu lại cho trẫm hay.

Thiên Kim dũng sĩ lập tức cắp giáo nhảy ra khỏi tường, lao đi vun vút như vệt khói.

Chẳng kể lạnh lẽo, nhà vua hóa trang che kín mặt rồi tức tốc ra khỏi cổng thành, hướng theo bóng người dũng sĩ.

Đến góc rừng, nhà vua thấy tên dũng sĩ đang đứng chống giáo, và nơi gốc cây là một con quỷ La Sát nhe nanh nhọn hoắt. Thiên Kim dũng sĩ trầm giọng nói:

- Thưa ngài! Đã bao lâu nay, cứ đêm đêm là ngài cất tiếng gọi tên ta, chẳng hay có việc gì vậy!

Quỷ La Sát chợt vươn người cao ba trượng, cất giọng như sấm sét:

- Thiên Kim dũng sĩ! Ngươi canh gác cho đức vua đến khi nào thì mãn nhiệm kỳ!

- Đời đời, mãn kiếp - Dũng sĩ đáp - Nếu đức vua nhân đức còn tín nhiệm ta.

Quỷ La Sát chợt cất giọng than dài:

- Chao ôi! Vậy là mối huyết hải thâm cừu của ta làm sao trả được?

- Ngài có mối thù với đức vua ư? Dũng sĩ hỏi.

- Phải - Quỷ La Sát nói - Một mối thù truyền kiếp. Đức vua đã từng giết ta, vợ ta và con ta, đã từng làm cho ta tán gia bại sản, lênh đênh cơ khổ. Đã mấy kiếp rồi, khi làm ma, khi làm quỷ, ta thường đi theo y hầu tìm cơ hội báo cừu. Nhưng trước đây, trong nhiều kiếp quá khứ, nhờ y có tu nhơn tích đức, xung quanh bao giờ cũng có thiên thần bảo trợ, cho nên ta đành ôm mối hận mà thôi. Mấy năm nay, y xâm lăng các nước, giết người vô số nên đức xưa giờ đã tổn giảm, các thiên thần lần lượt bỏ đi. Nhân cơ hội này ta tìm đến...

Nghiệp của ta chỉ xuất hiện ban đêm. Nhưng hỡi ôi! Hằng đêm... hằng đêm... đêm nào cũng như đêm nấy... mấy trăm đêm... mấy ngàn đêm, ngươi canh gác nghiêm ngặt quá, chẳng có hình bóng nào lọt ra khỏi đôi mắt “cú vọ” của ngươi, suốt trong cả mấy dãy nội thành. Hơn nữa, ngươi là một trang dũng sĩ vô địch, dẫu có tài thiên biến vạn hóa ta cũng không đánh thắng nổi ngươi thì biết làm thế nào?

Nói đến ngang đây, quỷ La Sát đôi hàng nước mắt tuôn rơi lả chả:

- Đành nuốt hận mà thôi sao? Đành nuốt hận mà thôi sao?

Quỷ La Sát hét lên một tiếng xé trời, phun lửa tung tóe:

- Thiên Kim dũng sĩ! Ngươi không phải là mình đồng da sắt, thế tất có lúc ngươi bệnh, ngươi đau chứ? Chắc cũng có khi canh gác mà ngươi lơ là một vài chớp mắt chứ?

Dũng sĩ gật đầu:

- Chắc cũng có lúc như vậy!

Quỷ La Sát cười hô hố:

- Vậy thì những khi ấy... những khi ấy, ta sẽ lao vào như luồng gió, rồi uống máu, an gan, ăn tim và cắt đầu nhà vua.

Nói xong, khoái chí, quỷ La Sát tung bổng lên cao, lao đi. Nhưng một chiếc bóng nháng lên, dũng sĩ đã chận lại:

- Oán thù nên giải không nên kết. Ngài có thể nào bỏ qua mối thù hận ấy không?

- Chẳng thể - Quỷ La Sát hét to - chẳng thể quên được mối thù sâu tựa bể này!

Quỷ như giận dỗi, căm hờn:

- Thiên Kim dũng sĩ! Nếu có kẻ giết vợ con ngươi thì ngươi có tha thứ cho y được không?

Dũng sĩ gật đầu mạnh mẽ:

- Tha thứ được!

Quỷ La Sát gầm to rồi cất tiếng cười rùng rợn:

- Vậy thì hãy đi! Này Thiên Kim dũng sĩ! Ngươi hãy đem vợ và con ngươi đến đây cho ta ăn thịt, thì ta sẽ giải hóa mối thù với đức vua.

Dũng sĩ đáp:

- Được lắm! Ta đi ngay! Ta tin lời hứa của ngài.

Nói xong, Thiên Kim dũng sĩ về nhà - mà không biết đức vua cũng đang hối hả theo sau - chàng đánh thức vợ con dậy:

- Này vợ hiền yêu quý! Này con trai thân thương! Vị thánh thượng nhân đức của chúng ta có thể nguy hiểm tính mạng bất cứ lúc nào. Nhưng nếu nàng và con đồng ý hiến dâng tính mạng cho quỷ La Sát ăn thịt, thì sẽ giúp thánh thượng giải tan được mối hiểm họa chết người.

Người vợ hiền cùng chàng trai phúc hậu bèn đáp:

- Phải rồi! Đức vua là vị vua nhân đức. Ngài còn sống ngày nào thì muôn dân được sống an vui hạnh phúc ngày ấy. Ngài mất đi, lỡ kẻ kế vị tàn ác, bất nhơn, thì bao người sẽ điêu linh, đồ thán. Hy sinh vài sinh mạng bé nhỏ như vợ, như con vì hạnh phúc cho muôn dân thì nên làm lắm chứ!

Dũng sĩ gạt nước mắt dẫn vợ và con đến bên chân quỷ La Sát, nói:

- Đây là người vợ hiền đôn hậu và đây là người con trai hiếu thảo của ta. Ngài hãy ăn thịt đi, rồi giữ lời hứa hóa giải mối oán thù với đức vua. Cầu nguyện cho tuổi thọ của đức vua trường tồn. Cầu nguyện cho muôn dân được thái bình an lạc. Cầu nguyện cho ngài được hạnh phúc lâu dài về sau.

Quỷ La Sát nghe trái tim mình rung động mạnh. Đã lâu quá rồi chưa bao giờ trái tim quỷ lại rung động như vậy. Quỷ đưa mắt chăm chú nhìn chàng trai nhân đức, tuấn tú, lại đưa mắt nhìn người đàn bà mỹ miều, đức hạnh... Rất lâu. Rất lâu. Chợt y quát to một tiếng, bắn mình lên cao, thò những móng vuốt nhọn hoắt như gươm, nghiêng đầu chộp xuống thật nhanh như luồng sao xẹt...

Dũng sĩ đứng im bất động.

Nhà vua đứng sau gốc cây bưng mặt lại. Một tiếng động kinh khủng nổi lên. Cát đá bay rào rào. Người đàn bà và chàng trai vẫn bình yên vô sự. Trong lúc đó, mười ngón tay của quỷ La Sát đâm ngập xuống đất thành mười cái hố sâu. Quỷ La Sát thở hào hển, rút tay lên, khóc rống rồi quỳ xuống bên chân dũng sĩ:

- Này người dũng sĩ cao cả! Ngươi đã cảm hóa được ta. Cầu nguyện cho ngươi được hạnh phúc!

Quỷ La Sát đứng dậy, thò tay nhấc mấy gốc cổ thụ quăng lên giữa hư không.

- Ta mà còn thù oán với ai, thì đời đời, vĩnh kiếp sẽ như gốc cây này!

Nói xong, quỷ băng băng phóng vào rừng sâu, để lại giữa hư không tràng cười ghê rợn.

Đức vua thấy tận mắt tất cả mọi việc, vội vã về cung, bước lên lâu phòng đứng tựa cửa sổ như không có chuyện gì xảy ra.

Người dũng sĩ đưa vợ con về nhà, trở lại cung điện cúi mình chào vua và tung hô vạn tuế.

Vua hỏi:

- Ngươi đã về rồi ư? Vậy thì đấy là tiếng nói của ai? Hãy kể lại tỉ mỉ cho trẫm nghe.

Thiên Kim dũng sĩ cung kính đáp:

- Muôn tâu! Đấy là một âm oán cũ đến đòi nợ, nhờ ân đức của hoàng thượng, thù xưa đã hóa giải xong. Và giờ y đã đi xa rồi.

“Y trả lời thật là thông minh và khôn khéo” - Nhà vua tự nghĩ; rồi bất chợt lạnh toát cả người: “Y, vợ y, con y đã làm một việc cao cả trong bóng tối, thi ân cho ta, bố đức cho thiên hạ, lại bảo nhờ ơn đức của ta! Vậy ta phải biết làm người nhân đức”.

Xúc động quá, nhà vua bèn nói:

- Hỡi người dũng sĩ ngàn vàng! Hãy nghe lời trẫm đây! Khi ngươi vừa đi khỏi, ta theo sau bén gót. Và ta đã thấy rõ mọi hành động cao cả của ngươi và vợ con ngươi. Đạo đức, trí và tài ấy mà một ngàn lượng vàng để trả công lao thì đâu có đủ được? Ngươi phải là kẻ đứng đầu muôn dân bách tính mới xứng đáng cho.

Thiên Kim dũng sĩ vẫn cúi đầu nghiêm cẩn.

Như nhớ lại chuyện gì, vua lại hỏi:

- Thiên Kim dũng sĩ! Trẫm hơi tò mò. Trẫm đã thấy rõ ngươi sống trong một gia đình nghèo nàn. Một ngàn lượng vàng đâu có phải là nhỏ. Vậy ngươi chi phí vào việc gì?

Thiên Kim dũng sĩ đáp:

- Muôn tâu! Đại vương đã hỏi thì hạ thần xin thưa: hạ thần không hề dùng vào việc gia đình những thù lao nhân đức của hoàng thượng.

Vua ngạc nhiên hỏi:

- Tại sao thế? Vậy ngươi chi dùng vào việc gì?

- Muôn tâu! Thù lao nhân đức thì chi dùng vào việc nhân đức.

- Trẫm không hiểu!

- Muôn tâu! Năm trăm lượng để cúng dường cho thập phương Sa-môn, đạo sĩ; hai trăm lượng cho kẻ nghèo đói khắp kinh thành; ba trăm lượng để thuốc men vải vóc cho các cơ sở từ thiện.

Đức vua Bá-nhĩ-nam nghe thân mình nổi gai ốc, giây lâu bèn hỏi:

- Vậy thì sự sống của gia đình ngươi, ngươi phải làm sao?

- Muôn tâu! Bằng mồ hôi, sức lực và bằng nghề nghiệp chơn chánh của vợ và con của hạ thần.

Đức vua hỷ lạc dâng lên đầy khắp cả người. Suốt đêm, đức vua nằm ngủ ngon lành rồi ngợp chìm trong một giấc mộng rực rỡ huy hoàng.

Sáng ngày, đức vua cho họp triều thần, kể lại tất cả câu chuyện về chàng dũng sĩ rồi tuyên bố:

- Nãy hỡi các quan đại thần cùng chư khanh mến yêu! Trẫm muốn báo một tin mừng. Hôm nay trẫm sẽ truyền ngôi cho người dũng sĩ vô địch có tâm hồn cao cả này, để tỏ lòng kỉnh mộ và tri ân.

Nói thế xong, đức vua quay qua Thiên Kim dũng sĩ:

- Này khanh yêu quý! Đây là lầu ngọc! Đây là ngai vàng! Đây là các quan đại thần chính trực liêm khiết! Kia là cung phi mỹ nữ hai muôn người đẹp đẽ, đôn hậu! Nọ là giang sơn gấm vóc cùng mấy muôn triệu lương dân ruột thịt mến yêu. Tất cả đó bây giờ là của khanh. Khanh hãy làm cho chúng quang vinh hơn. Khanh hãy làm cho muôn phương đều được tấn hóa trên con đường đạo đức.

Những tiếng vỗ tay và những lời hoan hô reo mừng từ bốn phương như từng đợt hải triều âm rì rào bất tận lan xa đến mấy do tuần.

Thế là, một triều đại chánh pháp huy hoàng như mảnh trăng dịu dàng vừa xuất hiện ở chân trời...

Tiếp theo


[Ðầu trang][Trở về trang Mục Lục][Trở về trang Thư Viện]

updated: 2007