Trung Tâm Hộ Tông - Trang Chủ
Ý Nghĩa Rằm Tháng Tư Soạn giả: Hộ Pháp |
Mỗi
ngày đêm, Đức Phật luôn tinh tấn không
ngừng hành 5 phận sự gọi là Buddhakicca(1):
Phận sự của Đức Phật.
5
Phận Sự Của Đức Phật:
*
Phận sự buổi sáng trước khi độ ngọ
(purebhatta-kicca).
*
Phận sự sau khi độ ngọ
(pacchābhattakicca).
*
Phận sự canh đầu đêm
(paṭhamayāma).
*
Phận sự canh giữa đêm
(majjhimayāma).
*
Phận sự canh chót đêm
(pacchimayāma).
1-
Phận sự buổi sáng trước khi độ ngọ như thế nào?
Mỗi
buổi sáng đến giờ đi khất thực, có khi Đức Phật
ngự đi khất thực một mình để tế độ chúng sinh nào đó, có khi Đức
Phật ngự cùng với chư Tỳ khưu Tăng đi vào xóm,
vào kinh thành để khất thực. Khi Đức
Phật thọ thực xong, có số dân chúng thỉnh Đức
Phật thuyết pháp, có số xin thọ phép quy y Tam Bảo
thọ trì ngũ giới…, có số xin Đức Phật
cho phép xuất gia, xong rồi Đức Phật ngự trở về chùa.
2-
Phận sự sau khi độ ngọ như thế nào?
Khi
Đức Phật ngự trở về chùa, rửa chân xong, đứng
trên bục giảng, Ngài khuyên dạy chư Tỳ khưu:
“Bhikkhave
appamādena sampādetha,
Dullabho
Buddhuppādo lokasmiṃ,
Dullabho
manussattapaṭilābho,
Dullabhā
khaṇasampatti,
Dullabhā
pabbajjā,
Dullabhaṃ
saddhammassavanaṃ”(2)
“Này
chư Tỳ khưu, các con hãy nên cố gắng hoàn
thành mọi phận sự Tứ Thánh Đế, bằng pháp không dể duôi, thực hành Tứ niệm xứ.
-
Đức Phật xuất hiện trên thế gian là một điều khó.
-
Được sinh làm người là một điều khó.
-
Có được cơ hội hành phạm hạnh cao thượng là một điều khó.
-
Được xuất gia trở thành Tỳ khưu là một điều khó.
-
Được nghe chánh pháp là một điều khó”
Đó
là những điều khó có được. Do đó, Đức Phật
hằng ngày thường khuyên dạy chư Tỳ khưu chớ
nên dễ duôi.
Sau
đó, Đức Phật ngự vào cốc Gandhakuṭi,
còn
chư Tỳ khưu mỗi vị ở một nơi để thực hành thiền
định, hoặc thực hành thiền tuệ.
3-
Phận sự canh đầu đêm như thế nào?
-
Canh đầu:
Đức Phật giáo huấn chư Tỳ khưu, có
số Tỳ khưu hỏi về pháp, về luật; có số Tỳ khưu xin thọ pháp hành thiền định,
pháp hành thiền tuệ; có số Tỳ khưu nghe pháp. Qua hết canh đầu, chư Tỳ khưu
đảnh lễ Đức Phật trở về chỗ ở của mình.
4-
Phận sự canh giữa đêm như thế nào?
-
Canh giữa:
Đức Phật cho phép
Chư
Thiên,
Phạm
Thiên
trong 10.000 thế giới đến hầu Ngài, đảnh lễ xong
đứng một nơi hợp lẽ, bạch hỏi pháp. Đức Phật giảng giải những câu
hỏi của
Chư
Thiên,
Phạm
Thiên
xong, hết canh giữa,
Chư
Thiên,
Phạm
Thiên
đảnh lễ Đức Phật trở về cảnh giới của mình.
5-
Phận sự canh chót đêm như thế nào?
Đức
Phật phân chia canh chót làm ba
thời:
-
Thời đầu:
Đức Phật đi kinh hành.
-
Thời giữa:
Đức Phật ngự vào cốc Gandhakuṭi
nghỉ ngơi, nằm nghiêng bên phải, có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác, định giờ
tỉnh dậy.
-
Thời chót:
Đức Phật nhập thiền đại bi, khi xả
thiền, quán xét chúng sinh trong 10.000 thế
giới bằng Phật Nhãn Tuệ, xem xét
chúng sinh nào đã có gieo duyên lành với Ngài, hoặc đã từng tạo
ba-la-mật từ Chư Phật quá khứ đến kiếp hiện tại này, có khả năng chứng ngộ chân
lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh
Quả và Niết Bàn, Ngài ngự đến để tế độ chúng sinh ấy, dầu ở gần hay
xa, trong thế giới này hay thế giới khác.
Có
khi Đức Phật ngự một mình tìm đến chúng sinh ấy như:
*
Đức Phật một mình ngự đến khu rừng nơi ẩn náu
của kẻ cướp sát nhân có biệt danh Aṅgulimāla
(giết người cắt ngón tay làm vòng đeo cổ), để tế độ Ngài
Aṅgulimāla xuất gia trở thành bậc Thánh A-ra-hán.
*
Đức Phật một mình ngự đến lâu đài của Dạ xoa
Āḷavaka
trong xứ Āḷavī, Dạ xoa Āḷavaka có phép mầu phi thường, rất tàn nhẫn hung
bạo, dũng mãnh hơn Ác Ma Thiên. Đức Phật đã tế
độ Dạ xoa Āḷavaka trở thành bậc Thánh Nhập Lưu.
*
Đức Phật một mình ngự lên cõi trời Phạm Thiên
để tế độ Phạm
Thiên
Baka
có tà kiến mê lầm, trở
thành Phạm
Thiên
có chánh kiến, v.v…
Có
khi Đức Phật ngự cùng với chư Tỳ khưu du hành khắp mọi nơi để tế độ chúng sinh
có duyên lành nên tế độ.
Mỗi
ngày, mỗi đêm Đức Phật hành đầy đủ 5
phận sự ròng rã suốt 45 năm cho đến phút giây
cuối cùng tịch diệt Niết Bàn.
Đến
ngày rằm tháng tư, Đức Phật cùng chư Tỳ khưu
ngự đến khu rừng Sālā xứ Kusinārā của Hoàng tộc Malla, để tế độ vị
Đạo sĩ Subhadda, bậc Thanh Văn đệ tử
cuối cùng của Đức Phật, bởi vì ngoài Ngài ra, không có một vị nào có
khả năng tế độ vị Đạo sĩ Subhadda được.
Thật
vậy, vào canh chót đêm ấy, vị Đạo sĩ
Subhadda
đến hầu Đức Phật, bạch hỏi Ngài những vấn đề
thắc mắc mà không có một vị Sa-môn, Bà-la-môn
nào có thể giải đáp, làm cho vị Đạo sĩ Subhadda hài
lòng, thỏa mãn. Vị Đạo sĩ Subhadda đã bạch hỏi
Đức Phật, nhưng Ngài không trực tiếp giải đáp những câu hỏi ấy, mà
Ngài chỉ thuyết dạy Bát Chánh Đạo trong giáo
pháp của Ngài. Vị Đạo sĩ Subhadda phát sinh thiện tâm trong sạch, vô
cùng hoan hỷ với lời giáo huấn của Đức Phật,
kính xin Đức Phật cho phép xuất gia
trong giáo pháp của Ngài. Sau khi được xuất
gia trở thành Tỳ khưu không lâu, Ngài Subhadda thực
hành thiền tuệ dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4
Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt mọi phiền
não, mọi tham ái, trở thành bậc Thánh A-ra-hán trước lúc Đức Phật
tịch diệt Niết Bàn. Ngài Đại đức Subhadda là vị Thánh Thanh Văn đệ tử cuối cùng
của Đức Phật Gotama.
Canh chót, Đức Phật gọi Đại đức Ānanda khuyên dạy rằng: -
Này Ānanda, trong số các con, nếu có người nào
nghĩ rằng:
“Đức Thế Tôn tịch diệt Niết Bàn rồi,
chúng ta không còn Đức Tôn Sư
(natthi no satthā)”,
thì các con chớ có nên nghĩ như vậy.
Đức
Phật dạy rằng:
“Yo
vo Ānanda, mayā dhammo ca vinayo ca
desito paññatto, so vo mamaccayena satthā...”(3).
“Này
Ānanda, chánh pháp nào mà Như Lai đã thuyết, luật nào mà Như Lai đã chế định;
khi Như Lai tịch diệt Niết Bàn rồi, chánh pháp ấy, luật ấy là Tôn Sư của các
con”.
Trong
Chú giải bài kinh Mahāparinibhānasutta
giải thích rằng:
*
Dhammo:
Chánh pháp gồm có toàn bộ Tạng Kinh
và toàn bộ Tạng Vi Diệu Pháp.
*
Vinayo:
Luật là toàn bộ Tạng Luật.
Giáo
pháp của Đức Phật đã thuyết giảng suốt 45
năm, kể từ khi chứng đắc thành Bậc Chánh Đẳng
Giác cho đến khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn, được
kết tập lại thành Tam Tạng là: Tạng Luật,
Tạng Kinh, Tạng Vi Diệu
Pháp gồm có 84.000 pháp môn được phân chia như sau:
-
Tạng Luật gồm có 21.000 pháp môn.
-
Tạng Kinh gồm có 21.000 pháp môn.
-
Tạng Vi Diệu Pháp có 42.000 pháp môn.
Đức
Phật giải thích rằng:
“Iti
imāni caturāsitidhammakkhandhasahassāni
tiṭṭhanti, ahaṃ ekova parinibbayāmi. Ahañca kho dāni
ekakova ovadāmi anusāsāmi; mayi parinibbute
imāni caturāsitidhammakkhandhasahassāni tumhe ovadissanti anusāsissanti...”
“Như
vậy, 84.000 pháp môn này tồn tại, chỉ có một mình Như Lai tịch diệt Niết Bàn.
Thật ra, bây giờ chỉ có một mình Như Lai giáo
huấn các con, dạy dỗ các con; khi Như Lai tịch diệt Niết Bàn rồi,
thì còn có 84.000 pháp môn ấy là “Đức Tôn Sư”
sẽ giáo huấn các con, sẽ dạy dỗ các con”.
Qua
đoạn Chú giải mà chính Đức Phật giải thích
cho các hàng Thanh Văn đệ tử hiểu rõ rằng: Như vậy sau khi Đức Phật tịch diệt
Niết Bàn rồi, không phải chúng ta không còn có Tôn Sư; thật ra, còn có
84.000 pháp môn là Tôn Sư
của chúng ta, mỗi pháp môn
là một vị Tôn Sư có khả năng dẫn dắt, dạy
bảo chúng ta đạt đến sự chứng ngộ chân lý Tứ Thánh
Đế, chứng đắc Thánh Đạo, Thánh Quả và Niết Bàn,
giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.
Cuối
cùng canh chót, Đức Thế Tôn một lần nữa
nhắc nhở khuyên bảo các
hàng Thanh Văn đệ tử lần cuối cùng rằng:
“Handa
dāni bhikkhave āmantayāmi vo,
Vayadhammā
saṅkhārā, appamādena
sampādetha”
“Này
chư Tỳ khưu, Tỳ khưu ni, cận sự nam, cận sự nữ, bây giờ Như Lai nhắc
nhở, khuyên bảo các con lần cuối cùng rằng:
Các
pháp hữu vi (ngũ uẩn) có sự diệt là thường,
các con nên cố gắng tinh tấn hoàn thành xong mọi phận sự Tứ Thánh Đế, bằng pháp
không dể duôi, thực hành Tứ niệm xứ.”
Đức
Thế Tôn vừa chấm dứt câu: “Appamādena
sampādetha”
từ đó không còn dạy thêm một câu
nào khác nữa.
Do
đó, câu: “Handa dāni bhikkhave...
appamādena
sampādetha”,
gọi là Pacchimabuddhavacana: Câu
Phật ngôn cuối cùng.
Sau
khi chấm dứt lời giáo huấn cuối cùng bằng câu: “Appamādena sampādetha”.
-
Đức Phật nhập đệ nhất thiền, rồi xả đệ nhất thiền.
-
Nhập đệ nhị thiền, rồi xả đệ nhị thiền.
-
Nhập đệ tam thiền, rồi xả đệ tam thiền.
-
Nhập đệ tứ thiền, rồi xả đệ tứ thiền.
-
Nhập không vô biên xứ thiền, rồi xả không vô biên xứ thiền.
-
Nhập thức vô biên xứ thiền, rồi xả thức vô biên xứ thiền.
-
Nhập vô sở hữu xứ thiền, rồi xả vô sở hữu xứ thiền.
-
Nhập phi tưởng phi phi tưởng xứ thiền, rồi xả phi tưởng phi phi tưởng xứ thiền.
-
Nhập diệt thọ tưởng.
Khi
ấy, Ngài Đại đức Ānanda hỏi Ngài Đại đức Anuruddha rằng:
-
Thưa pháp huynh Anuruddha, Đức Thế Tôn tịch
diệt Niết Bàn rồi có phải không?
-
Này pháp đệ Ānanda, Đức Thế Tôn chưa tịch diệt
Niết Bàn, Ngài đang nhập diệt thọ tưởng.
-
Đức Thế Tôn xả diệt thọ tưởng.
-
Nhập phi tưởng phi phi tưởng xứ thiền, rồi xả phi tưởng phi phi tưởng xứ thiền.
-
Nhập vô sở hữu xứ thiền, rồi xả vô sở hữu xứ thiền.
-
Nhập thức vô biên xứ thiền, rồi xả thức vô biên xứ thiền.
-
Nhập không vô biên xứ thiền, rồi xả không vô biên xứ thiền.
-
Nhập đệ tứ thiền, rồi xả đệ tứ thiền.
-
Nhập đệ tam thiền, rồi xả đệ tam thiền.
-
Nhập đệ nhị thiền, rồi xả đệ nhị thiền.
-
Nhập đệ nhất thiền, rồi xả đệ nhất thiền.
-
Nhập đệ nhị thiền, rồi xả đệ nhị thiền.
-
Nhập đệ tam thiền, rồi xả đệ tam thiền.
-
Nhập đệ tứ thiền, xả đệ tứ thiền rồi Đức Phật tịch
diệt Niết Bàn gọi là Khandhaparinibbāna: Ngũ uẩn Niết
Bàn, nghĩa là diệt ngũ uẩn rồi không còn nhân duyên nào để tái sinh ngũ
uẩn khác; chấm dứt khổ tử sinh luân hồi trong
tam giới. Ngay khi ấy, trái đất rùng mình chuyển động.
Đó
là một trong tám hiện tượng thường xảy ra đối với Chư Phật.
Đức
Phật có danh hiệu Đức Phật Gotama là
Bậc Cao Cả nhất, Bậc Vĩ Đại nhất, Bậc Tối
Thượng nhất trong toàn cõi thế giới chúng sinh, đã tịch diệt Niết
Bàn.
Tất
cả chúng sinh hễ có sinh, thì ắt phải có tử, không ngoại trừ một ai cả. Đức
Phật và chư Thánh A-ra-hán
không gọi là tử (chết) mà gọi là tịch diệt Niết Bàn,
chấm dứt tử sinh luân hồi trong ba giới bốn
loài; bởi vì, Đức Phật và chư Thánh A-ra-hán đã diệt đoạn tuyệt mọi
tham ái
không
còn dư sót, cho nên, không có
tham ái dẫn dắt nghiệp cho quả tái sinh kiếp sau nữa. Còn các
chúng sinh khác, dù là bậc Thánh Nhập Lưu, bậc
Thánh Nhất Lai, bậc Thánh Bất Lai, vẫn còn tham ái là nhân sinh khổ,
dẫn dắt tái sinh kiếp sau, tiếp tục tử sinh luân hồi trong tam giới.
Tuy
Đức Phật đã tịch diệt Niết Bàn cách đây
2.550 năm rồi, song giáo pháp của Ngài là vị Tôn
Sư vẫn còn được tồn tại đầy đủ trọn vẹn 84.000 pháp môn cho đến ngày
nay.
Muốn
được gần gũi thân cận với Đức Phật, mỗi
người chúng ta cố gắng tinh tấn học pháp học Phật
giáo
và hành pháp hành Phật giáo;
tùy theo khả năng của mỗi người, để
cho Phật giáo được duy trì ở trong tâm
của mỗi người Phật tử. Những người nào có Phật
giáo ở trong tâm, những người ấy được nương
nhờ nơi Đức Phật, nương nhờ nơi Đức Pháp, nương nhờ nơi Đức Tăng,
được nương nhờ nơi Tam Bảo cao thượng, để cho họ có thể trở nên con người cao
thượng và để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an
lạc lâu dài cho chính họ trong kiếp hiện tại lẫn những
kiếp vị lai; đặc biệt còn làm duyên lành trên con đường dẫn đến sự
giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới
bốn loài. Đồng thời giữ gìn duy trì Phật giáo được trường tồn trên
thế gian, đến hết tuổi thọ Phật giáo 5.000
năm, nhằm đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài đến tất
cả chúng sinh, nhất là chư thiên và nhân loại.
Mỗi
Đức Phật Chánh Đẳng Giác xuất hiện trên thế
gian, có khả năng tế độ một số lượng khoảng 24 a-tăng-kỳ(4)
600 triệu và 100 ngàn chúng sinh được giải
thoát khỏi biển khổ tử sinh luân hồi trong tam giới.
Đức
Phật Gotama có tuổi thọ 80 năm, thuyết pháp
tế độ chúng sinh suốt 45 năm, chưa đủ số lượng 24 a-tăng-kỳ
600 triệu và 100 ngàn chúng sinh. Cho nên,
khi Đức Phật Gotama đã tịch diệt Niết Bàn rồi,
giáo pháp được lưu truyền lại cho
đến 5.000 năm trên cõi người, để
tiếp tục tế độ chúng sinh cho đủ số lượng ấy.
Tuổi
thọ Phật giáo 5.000 năm trải qua 5 thời kỳ.
Theo Chú giải Chi Bộ Kinh, bài kinh Gotamisutta giải thích như sau:
*
1.000 năm đầu:
Các hàng Thanh Văn thực hành
thiền tuệ có khả năng chứng đắc thành bậc Thánh A-ra-hán cùng với Tứ tuệ
phân tích, Lục thông.
*
1.000 năm thứ nhì:
Các hàng Thanh Văn thực
hành thiền tuệ có khả năng chứng đắc thành bậc Thánh
A-ra-hán,
đoạn tuyệt mọi phiền não (Sukkhavipassaka) (không có các bậc
thiền).
*
1.000 năm thứ ba:
Các hàng Thanh Văn thực hành
thiền tuệ có khả năng chứng đắc thành bậc Thánh
Bất Lai.
*
1.000 năm thứ tư:
Các hàng Thanh Văn thực hành
thiền tuệ có khả năng chứng đắc thành bậc Thánh Nhất Lai.
*
1.000 năm thứ năm:
Các hàng Thanh Văn thực hành thiền tuệ có khả năng chứng đắc thành bậc Thánh
Nhập Lưu.
Rồi
sau đó, các hành giả thực hành thiền tuệ không
có khả năng chứng đắc thành bậc Thánh Nhân nữa, mà chỉ có thể bồi bổ pháp hạnh
ba-la-mật để có thể chứng đắc trong kiếp vị lai.
Căn
cứ vào Chú giải trên, năm nay Phật lịch
2.550, những người Phật tử chúng ta đang ở vào
thời kỳ 1.000 năm thứ ba, tuổi thọ
Phật giáo còn lại 2.450 năm nữa. Trong thời kỳ này, chúng ta nên có
niềm tin hy vọng nơi giáo pháp của Đức Phật
Gotama, còn có thể cứu vớt mỗi người trong chúng ta giải thoát khỏi
biển khổ tử sinh luân hồi trong tam giới, mà con
đường giải thoát khổ đó là pháp hành thiền tuệ đúng
theo pháp hành Trung đạo.
Pháp
hành Trung đạo
có 2 giai đoạn:
-
Giai đoạn đầu:
Thực hành Tứ niệm xứ: Niệm
thân, niệm thọ, niệm tâm, niệm pháp,
đó là pháp
hành Trung đạo phần đầu,
cũng gọi là chánh niệm
trong Bát chánh đạo. Chánh niệm có 4 đối tượng là
thân, thọ, tâm, pháp cũng
gọi là sắc pháp, danh pháp,
mà sắc pháp, danh pháp là đối tượng của thiền
tuệ. Do đó, thực hành Tứ niệm xứ hoặc thực hành
thiền tuệ có đối tượng giống
nhau, chỉ khác nhau danh từ.
-
Giai đoạn cuối:
Thực hành Tứ niệm xứ hoặc
thực hành thiền tuệ dẫn đến sự chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc
4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt được mọi phiền
não, mọi tham ái không còn dư sót. Thánh Đạo Tâm
và Thánh Quả Tâm có hợp đủ Bát
chánh đạo (chánh kiến, chánh
tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh
niệm và chánh định). Đó là pháp hành
Trung đạo phần cuối, hoàn thành xong phận sự Tứ
Thánh Đế.
Nếu
hành giả có đầy đủ ba-la-mật thực hành thiền
tuệ đúng theo pháp hành Trung đạo có thể dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế,
chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh
Nhân, thì thật là điều hạnh phúc cao thượng biết dường nào!
Nếu
hành giả thực hành thiền tuệ, mà chưa chứng
đắc Thánh Đạo - Thánh Quả nào, thì cũng là một
cơ hội tốt, duyên lành bồi bổ thêm
pháp hạnh ba-la-mật, để mong chứng
đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn
trong thời vị lai. Đó cũng là điều hạnh phúc cao thượng biết bao!
Thật
ra, điều chắc chắn là chúng ta không có một
ai có khả năng biết được mình có đầy đủ
ba-la-mật hay chưa.
Nếu như mình có đủ ba-la-mật mà không thực hành
thiền tuệ thì cũng không thể chứng đắc Thánh
Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn. Như vậy, mình
đã làm mất đi một cơ hội tốt, trong kiếp có duyên lành
gặp được Phật giáo, thật đáng tiếc biết dường nào!
Chúng
ta nên tâm niệm lời giáo huấn cuối cùng của Đức Phật, câu chót:
“Appamādena
sampādetha”.
“Các
con nên cố gắng tinh tấn hoàn thành xong
mọi phận sự Tứ Thánh Đế bằng pháp không dể duôi, thực hành Tứ niệm
xứ”.
Trong
Tứ Thánh Đế, mỗi Đế có một phận sự
riêng biệt:
-
Khổ Thánh Đế:
Đó là chấp thủ ngũ uẩn; hoặc
sắc pháp, danh pháp trong tam giới là pháp mà hành giả có phận sự nên
biết, thì đã biết xong.
-
Nhân Sanh Khổ Thánh Đế
(Tập Thánh Đế):
Đó
là tham ái là pháp mà hành giả có phận sự nên diệt, thì đã diệt xong.
-
Diệt Khổ Thánh Đế
(Diệt Thánh Đế):
Đó là Niết
Bàn
là pháp mà hành giả có phận sự nên chứng ngộ, thì đã chứng ngộ xong.
-
Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế
(Đạo Thánh Đế):
Đó là pháp hành Bát chánh đạo là pháp mà
hành
giả có phận sự nên thực hành, thì đã thực hành xong.
Như
vậy gọi là hoàn thành xong mọi phận sự
Tứ Thánh Đế.
Mọi
phận sự Tứ Thánh Đế này được hoàn thành
bằng pháp không dể duôi, luôn luôn có chánh niệm và trí tuệ tỉnh giác.
Đó chính là pháp hành Tứ niệm xứ hoặc pháp hành thiền tuệ đúng
theo pháp hành Trung đạo, bởi vì chỉ có pháp hành này mới có khả năng
dẫn đến hoàn thành mọi phận sự Tứ Thánh Đế mà thôi.
Pháp
không dể duôi là như thế nào?
Để
hiểu rõ pháp không dể duôi (appamāda), thì
nên hiểu rõ pháp dể duôi (pamāda) trước.
*
Pháp dể duôi
(pamāda) đó là pháp thất niệm, quên
mình, không có trí nhớ, không có trí tuệ biết mình.
*
Pháp không dể duôi
(appamāda) đó là chánh
niệm:
Niệm thân, niệm thọ, niệm tâm, niệm pháp và
trí tuệ tỉnh giác thấy rõ, biết rõ thực tánh của các
pháp, dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế,
chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn,
diệt đoạn tuyệt mọi phiền não, mọi tham ái không còn
dư sót, hoàn thành xong mọi phận sự Tứ Thánh Đế.
Đức
Phật dạy về pháp không dể duôi và pháp dể
duôi rằng:
Appamādo
amatapadaṃ,
Pamādo
maccuno padaṃ.
Appamattā
na mīyanti,
Ye
pamattā yathà matā.(5)
Ýnghĩa:
Pháp
không dể duôi, thường có chánh niệm,
Là
con đường đến Niết Bàn bất tử.
Và
pháp dể duôi, thường hay thất niệm,
Là
con đường vòng, tử sinh luân hồi.
Những
chúng sinh nào tính không dể duôi,
Chúng
sinh ấy chết cũng như không chết.
Những
chúng sinh nào có tính dể duôi,
Chúng
sinh ấy sống cũng như chết rồi!
Pūjā:
Cúng Dường
Trong
Chi Bộ Kinh, Đức Phật dạy có hai cách cúng dường:
1-
Āmisapūjā:
Cúng dường bằng các thứ phẩm vật.
2-
Dhammapūjā:
Cúng dường bằng pháp hành các
thiện pháp.
Trong
2 cách cúng dường này, Đức Phật dạy,
cúng dường bằng thực hành pháp hành giới
-
định
-
tuệ
là cao thượng nhất.
Trong
những ngày tháng cuối Đức Phật sắp tịch
diệt Niết Bàn, Ngài lại đề cao sự cúng dường
bằng các pháp hành, nhất là pháp
hành thiền tuệ. Ngài dạy sự cúng dường bằng các thứ phẩm vật không gọi
là cúng dường cao thượng đến Ngài, mà chỉ có cúng
dường bằng thực hành pháp hành thiền tuệ mới thật là sự cúng dường
cao thượng đến Ngài.
Khi
nghe Đức Phật truyền dạy Ngài sắp tịch
diệt Niết Bàn, có số chư Tỳ khưu còn là phàm nhân
vô cùng cảm động không ngăn được nước mắt, còn
chư bậc Thánh A-ra-hán phát sinh động tâm
(saṃvega):
Ngũ uẩn là vô thường sinh rồi diệt, không trừ một
ai. Cho nên, chư Tỳ khưu thường đến
hầu Đức Phật, lắng nghe lời giáo huấn của Ngài.
Trường
hợp Ngài Đại đức Attadattha nghĩ
rằng:
“Đức Phật sắp đến ngày tịch diệt Niết Bàn mà
ta vẫn còn tham ái chưa diệt đoạn tuyệt được, vậy ta nên cố gắng tinh tấn thực
hành thiền tuệ để chứng đắc thành bậc Thánh
A-ra-hán, khi Đức Phật hiện đang còn trên thế gian”.
Nghĩ
xong, Ngài ở một mình một nơi thanh vắng
thực hành thiền tuệ, không tiếp xúc với các vị Tỳ khưu khác. Dù có vị Tỳ khưu
đến gặp Ngài, động viên khuyến khích Ngài đến hầu Đức Phật, Ngài
vẫn không nói chuyện. Các vị Tỳ khưu ấy không biết được ý nghĩ của
Ngài nên cho rằng Ngài không có lòng kính yêu Đức Phật.
Các
vị Tỳ khưu đến đảnh lễ Đức Phật, bạch rằng:
-
Tỳ khưu Attadattha không có lòng kính yêu đến Đức Thế Tôn.
Đức
Phật cho truyền gọi Tỳ khưu Attadattha đến
hầu Ngài. Đức Phật bèn hỏi Tỳ khưu Attadattha rằng:
-
Này Attadattha, con nghĩ thế nào mà làm như vậy?
Tỳ
khưu Attadattha đảnh lễ Đức Thế Tôn bèn bạch ý nghĩ của mình rằng:
-
Kính bạch Đức Thế Tôn, con nghe Đức Thế Tôn
sắp đến ngày tịch diệt Niết Bàn, nên con cố gắng thực hành thiền tuệ để chứng
đắc thành bậc Thánh A-ra-hán, khi Đức Thế Tôn
hiện đang còn trên thế gian. Bạch Ngài.
Đức
Phật tán dương ca tụng: “Sādhu!” “Lành thay!”,
rồi truyền dạy chư Tỳ khưu rằng:
“Bhikkhave
yassa mayi sineho atthi, tena Attha-datthena
viya bhavituṃ vaṭṭati. Na hi gandhādīhi pujentā
maṃ pūjenti, dhammānudhammapaṭipattiyā
pana maṃ pūjenti. Tasmā aññenapi Attadattha-sadiseneva bhavitabbaṃ”(6)
“Này
chư Tỳ khưu, Thanh Văn đệ tử nào có lòng
kính yêu Như Lai, Thanh Văn đệ tử ấy nên noi
gương
theo Attadattha. Thật vậy, những người cúng dường
bằng những phẩm vật như vật thơm, tràng hoa v.v… không phải là cúng
dường đến Như Lai; các Thanh Văn đệ tử cúng dường bằng thực hành pháp hành
thiền tuệ dẫn đến chứng đắc 9 pháp Siêu tam giới, mới thật là cúng dường đến
Như Lai một cách cao thượng. Vì vậy, các Thanh Văn đệ tử khác nên noi gương
theo Attadattha”.
Đức
Phật thuyết dạy câu kệ rằng:
Attadatthaṃ
paratthena,
Bahunāpi
na hāpaye.
Attadatthamabhiññāya,
Sadatthapasuto
siyā(7).
(Lợi
ích của người khác dù được nhiều,
Không
làm lợi ích của mình bị suy giảm.
Trí
tuệ biết rõ lợi ích của mình,
Nên
tinh tấn đạt đến lợi ích ấy.)
Chú
giải: Attadattha: Lợi ích của mình
mà Đức Phật dạy không phải những lợi ích về của cải trong tam giới, mà là lợi
ích về 9 pháp Siêu tam giới đó là 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn.
Lắng
nghe bài kệ xong, Ngài Đại đức Attadattha
liền chứng đắc thành bậc Thánh A-ra-hán, còn các vị Tỳ khưu khác cũng được lợi
ích tùy theo khả năng ba-la-mật của mình.
Trường
hợp tương tự như tích trên, Ngài Đại đức
Tissa
nghe
Đức Phật sắp tịch diệt Niết Bàn, Ngài nghĩ rằng: “Đức
Phật sắp tịch diệt Niết Bàn, ta vẫn còn tham ái chưa diệt đoạn tuyệt được. Vậy
ta nên cố gắng tinh tấn thực hành thiền tuệ để chứng đắc thành bậc
Thánh A-ra-hán, khi Đức Phật hiện đang còn trên thế gian”.
Nghĩ
xong, Ngài ở một mình một nơi thanh vắng,
thực hành 4 oai nghi đi, đứng, ngồi, nằm. Dù
các Tỳ khưu đến gặp Ngài, động viên khuyến khích Ngài đến hầu Đức
Phật, Ngài vẫn im lặng không nói lời nào với các vị Tỳ khưu ấy.
Các
vị Tỳ khưu đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, bèn bạch rằng:
“Bhante,
tumhesu Tissattherassa sineho natthi”
-
Kính bạch Đức Thế Tôn, Đại đức Tissa không
có lòng kính yêu đối với Đức Thế Tôn.
Đức
Thế Tôn cho truyền gọi Đại đức Tissa đến hầu
Ngài. Đức Thế Tôn bèn hỏi Tỳ khưu Tissa rằng:
“Kasmā
Tissa evaṃ akāsi?”
-
Này Tissa, tại sao con mà làm như vậy?
Ngài
Đại đức Tissa bạch với Đức Thế Tôn đúng
theo ý nghĩ của mình.
Đức
Thế Tôn tán dương ca tụng: “Sādhu!” “Lành
thay!”,
rồi truyền dạy chư Tỳ khưu rằng:
“Bhikkhave,
mayi sineho Tissasadisova hotu,
gandhamālādīhi pūjaṃ karontāpi ṅeva maṃ
pūjenti, dhammānudhammaṃ
paṭipajjamānāyeva pana maṃ pūjenti”(8)
“Này
chư Tỳ khưu, các con có lòng kính yêu nơi
Như Lai, nên noi gương theo như Tissa. Những
người cúng dường bằng hương thơm,
tràng hoa v.v… không phải là cúng dường đến Như Lai, chỉ có các
Thanh Văn đệ tử đang thực hành thiền tuệ dẫn đến chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh
Quả và Niết Bàn, mới thật là cúng dường đến
Như Lai một cách cao thượng nhất mà thôi”.
Trường
hợp tương tự như tích trên, Ngài Đại đức Dhammārāma
nghe Đức Phật sắp tịch diệt Niết Bàn.
Ngài nghĩ rằng: “Đức
Phật sắp tịch diệt Niết Bàn,
ta vẫn còn tham ái chưa diệt đoạn tuyệt được. Vậy
ta nên cố gắng tinh tấn thực hành thiền tuệ để chứng
đắc thành bậc Thánh A-ra-hán, khi Đức Phật hiện đang còn trên thế
gian”.
Ngài
Đại đức Dhammārāma ở một mình nơi thanh
vắng tư duy về lời giáo huấn của Đức Phật, rồi
thực hành thiền tuệ; Ngài không
tiếp xúc, không nói chuyện với các vị Tỳ khưu khác. Chư Tỳ khưu ấy
đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn bèn bạch rằng:
“Bhante,
Dhammārāmassa
tumhesu sineha-mattampi
natthi”.
-
Kính bạch Đức Thế Tôn, Tỳ khưu Dhammārāma
chẳng
có một chút lòng kính yêu Đức Thế Tôn.
Đức
Thế Tôn cho truyền gọi Đại đức Dhammā-rāma
đến hầu Ngài. Đức Thế Tôn bèn hỏi Tỳ khưu Dhammārāma rằng:
“Saccaṃ
kira tvaṃ evaṃ karosi?”
-
Này Dhammārāma, có thật con đã đối xử với các
Tỳ khưu như vậy phải không?
Ngài
Đại đức Dhammārāma bạch với Đức Thế Tôn rằng:
“Saccaṃ,
Bhante”.
-
Kính bạch Đức Thế Tôn, sự thật đúng như vậy. Bạch Ngài.
-
Này Dhammārāma, con nghĩ thế nào mà đối xử
như vậy?
-
Kính bạch Đức Thế Tôn, con nghe Đức Thế Tôn
sắp tịch diệt Niết Bàn, con vẫn còn tham ái
chưa diệt đoạn tuyệt được, nên con
cố gắng tinh tấn thực hành thiền tuệ
để chứng đắc thành bậc Thánh A-ra-hán, khi Đức Thế Tôn hiện đang còn
trên thế gian.
Đức
Thế Tôn tán dương ca tụng: “Sādhu!” “Lành
thay!”,
rồi truyền dạy chư Tỳ khưu rằng:
“Bhikkhave,
aññenāpi mayi sinehavantena
Bhikkhunā nāma, Dhammārāmasadiseneva bhavi-tabbaṃ.
Na hi mayhaṃ mālāgandhādīhi pūjaṃ karontā mama pūjaṃ karonti nāma,
dhammānudhammaṃ paṭipajjantāyeva pana maṃ pūjenti nāma”(9)
“Này
chư Tỳ khưu, Tỳ khưu nào có lòng kính yêu
nơi Như Lai, thì Tỳ khưu
ấy nên noi gương theo Dhammārāma.
Những người làm lễ cúng dường đến Như
Lai bằng vật thơm, tràng hoa v.v… không phải là cúng dường đến Như
Lai. Các Thanh Văn đệ tử đang thực hành pháp
hành thiền tuệ dẫn đến chứng đắc 9
pháp Siêu tam giới, mới thật gọi là cúng dường đến Như Lai”.
Sau
đó, Đức Thế Tôn dạy câu kệ rằng:
Dhammārāmo
dhammarato,
Dhammaṃ
anucicintayaṃ,
Dhammaṃ
anussaraṃ bhikkhu
Saddhammaṃ
na parihāyati(10).
Tỳ
khưu nào ham pháp hành thiền tuệ,
Mải
miết thực hành pháp hành thiền tuệ
Tư
duy, suy xét sâu sắc các pháp,
Chánh
niệm theo dõi đến các pháp hành,
Tỳ
khưu ấy không làm hoại chánh pháp
Duy
trì các chánh pháp được trường tồn.
Saddhamma:
Chánh pháp mà Đức Phật thuyết dạy trong bài kệ này là 37 pháp phát sinh 4 Thánh
Đạo, 4 Thánh Quả, và 9 pháp Siêu tam giới.
*
37 pháp
phát sinh 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn là:
-
4 pháp niệm xứ
(satipaṭṭhāna)
-
4 pháp chánh tinh tấn
(sammappadhāna)
-
4 pháp thành tựu
(iddhipāda)
-
5 pháp chủ
(indriya)
-
5 pháp lực
(bala)
-
7 pháp giác chi
(bojjhaṅga)
-
8 pháp chánh đạo
(magga)
*
9 pháp Siêu tam giới
(nava
Lokuttaradhamma) đó là:
-
4 Thánh Đạo
(Ariyamagga)
-
4 Thánh Quả
(Ariyaphala)
-
1 Niết Bàn
(Nibbāna)
Sau
khi lắng nghe bài kệ xong, Ngài Đại đức
Dhammārāma chứng đắc thành bậc Thánh A-ra-hán, còn chư Tỳ khưu cũng được nhiều
lợi ích tùy theo khả năng
ba-la-mật của mình.
Cúng
Dường Đức Thế Tôn
Vào
buổi chiều ngày rằm tháng tư (âm lịch) Đức
Thế Tôn ngự đến khu rừng Sālā xứ Kusinārā, nơi
nghỉ ngơi của Hoàng tộc Malla, Ngài truyền bảo Đại đức Ānanda rằng:
-
Này Ānanda, con nên đặt chiếc giường quay đầu
về hướng Bắc, giữa hai cây Sālā (song long thọ).
Khi
ấy, Đức Thế Tôn nằm nghiêng bên phải, đầu
quay về hướng Bắc, hai chân duỗi so le, chân phải
duỗi thẳng, chân trái đầu gối hơi co, hai chân không
bằng nhau (tư thế tịch diệt Niết Bàn). Đức Thế Tôn có chánh niệm trí
tuệ tỉnh giác mà không định giờ xả.
Hai
cây Sālā trổ hoa trái mùa, những đóa hoa
rơi xuống kim thân của Đức Thế Tôn, để cúng
dường Ngài. Các cây hoa trong khu
rừng đều nở rộ, những đóa hoa trời, vật thơm trời, hương trời, … từ
các cõi trời rơi xuống như mưa, để cúng dường Đức
Thế Tôn. Những tiếng nhạc trời từ các cõi trời cũng trỗi lên, để
cúng dường Đức Thế Tôn. Khi ấy, Đức Thế Tôn truyền dạy Đại đức Ānanda rằng:
“…Na
kho Ānanda, ettāvatā Tathāgato sakkato vā hoti garukato vā mānito vā pūjito vā
apacito vā. Yo kho Ānanda, Bhikkhu vā Bhikkhunī vā upāsako
vā upāsikā vā dhammānudhammapaṭipanno viharati sāmicippaṭipanno
anudhammacārī, so Tathāgataṃ sakkaroti garuṃ
karoti māneti pūjeti apaciyati paramāya pūjāya.
Tasmātihānanda,
dhammānudhammapaṭipannā
viharissāma sāmīcippaṭipannā
anudhammacārinoti. Evañhi vo Ānanda sikkhitabbaṃ”(11).
“…Này
Ānanda, cúng dường Như Lai bằng phẩm
vật nhiều đến như thế, không phải là cung
kính, tôn trọng, lễ bái, cúng dường, tôn kính Như Lai.
Này
Ānanda, hàng Thanh Văn đệ tử nào là Tỳ
khưu, hoặc Tỳ khưu ni, hoặc cận sự nam, hoặc cận
sự nữ thực hành pháp hành thiền tuệ dẫn đến chứng
đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn, thực hành
pháp hành Bát chánh đạo, thực hành đúng theo chánh
pháp; Thanh Văn đệ tử ấy gọi là người hết lòng cung
kính, tôn trọng, lễ bái, cúng dường, tôn kính Như Lai một cách cao
thượng nhất.
Này
Ānanda, như vậy, các con nên luôn luôn tâm
niệm rằng: Chúng ta là hành giả thực hành thiền tuệ dẫn đến chứng đắc Thánh Đạo
- Thánh Quả và Niết Bàn, thực hành pháp hành
Bát chánh đạo, thực hành đúng theo chánh pháp”.
Những
ngày tháng cuối cùng của Đức Phật, thậm
chí trong thời gian ngắn ngủi trước khi tịch
diệt
Niết Bàn, Đức Phật không nhận sự cúng dường bằng
những thứ vật phẩm quý giá, dầu từ các cõi trời;
Đức Phật đề cao sự cúng dường đến Ngài bằng thực
hành pháp thiền tuệ dẫn đến chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn, đó là
sự cúng dường cao thượng nhất (paramāya
pūjāya).
Sở
dĩ Đức Phật không nhận sự cúng dường bằng
những thứ vật phẩm quý giá ấy, là vì sự cúng
dường này thuộc về phước thiện
trong cõi dục giới cho quả an lạc tạm thời trong cõi dục giới, vẫn
còn khổ tử
sinh luân hồi. Và Đức Phật đề cao sự cúng dường bằng
pháp hành thiền tuệ, vì chỉ có pháp hành thiền
tuệ mới có khả năng dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ
Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn, giải thoát
khỏi khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn
loài; đồng thời có thể giữ gìn duy trì chánh
pháp của Đức Phật được trường tồn lâu dài trên thế gian, đến hết
tuổi thọ của Phật giáo 5.000 năm.
Vesākhapūjā
Vesākha
hoặc Vesākhamāsa là tên tháng tư (âm
lịch). Vào ngày rằm tháng tư này có 3 sự kiện
lịch sử trọng đại xuất hiện trong
Phật giáo, tuy thời gian cách xa nhau, song cũng trùng vào ngày rằm
tháng tư này, đó là:
*
Ngày rằm tháng tư là
ngày đản sanh của Đức Bồ Tát
Siddhattha tại khu rừng Lumbinī.
*
Đêm rằm tháng tư là đêm Đức Bồ Tát Siddhattha
chứng
đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác có danh hiệu là
Đức Phật Gotama, tại Đại cội
Bồ Đề, lúc Ngài tròn 35 tuổi.
*
Cho
nên, hằng năm, các hàng Thanh Văn đệ tử của
Đức Phật Gotama làm lễ kỷ niệm ngày rằm tháng tư gọi chung danh từ:
“Vesākhapūjā”.
Năm
2006, Phật lịch 2550, vào ngày rằm tháng
tư âm lịch, tất cả các hàng Thanh Văn đệ tử
của Đức Phật Gotama trên toàn thế
giới, mỗi nơi đều tổ chức long trọng lễ cúng dường Đức Phật.
*
Kỷ niệm 2550 năm, Đức Phật Gotama đã tịch diệt
Niết Bàn tại khu rừng Sālā xứ Kusinārā (xứ Ấn
Độ).
*
Kỷ niệm 2595 năm, Đức Bồ Tát Siddhattha đã chứng
đắc thành Đức Phật Gotama tại Đại cội Bồ Đề (nay Bodh Gaya xứ Ấn
Độ).
*
Kỷ niệm 2.630 năm, Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha
đản sanh kiếp chót tại khu rừng Sālā Lumbinī (nay thuộc xứ Nepal).
Để
tỏ lòng tôn kính Đức Phật, mỗi người Phật tử
đều có mỗi cách cúng dường, ai cũng muốn mình
là người cúng dường một cách cao thượng đến Đức Phật.
Các
nước Phật giáo tổ chức rất long trọng ngày lễ
rằm tháng tư âm lịch với nhiều hình thức khác nhau:
Tại
nước Myanmar, chư Đại Trưởng Lão, Đại đức,
Tỳ khưu, Sadi, cùng các cận sự nam, cận sự nữ
cùng nhau tụ hội tại Đại cội Bồ Đề;
chư Đại đức Tăng tụng 2 bài kệ Phật ngôn đầu tiên của Đức Phật.
“Anekajāti
saṃsāraṃ…”(12)
tiếp
theo tán dương Ân đức Phật, Ân đức Pháp, Ân đức Tăng, v.v…
Tại
nước Thái Lan, buổi tối, chư Đại Trưởng Lão
Đại đức, Tỳ khưu, Sadi, cùng các cận sự nam, cận sự nữ tổ chức nghi lễ cúng
dường Đức Phật tại nơi công cộng xong, vị Đại Trưởng Lão chấp tay cầm đèn hoa
dẫn đầu, các hàng phật tử chắp tay cầm đèn hoa theo sau đi vòng quanh kim thân
Đức Phật theo chiều từ trái sang phải (chiều
quay của kim đồng hồ) 3 vòng với tâm niệm 9 Ân đức Phật, 6 Ân đức
Pháp, 9 Ân đức Tăng.
Tại
mỗi ngôi chùa chư Đại đức, Tỳ khưu, Sadi, cùng
cận sự nam, cận sự nữ làm lễ cúng dường Đức Phật tại chánh điện
xong, vị Đại đức chấp tay cầm đèn hoa dẫn đầu,
các hàng Phật tử chấp tay cầm đèn hoa
theo sau đi vòng quanh chánh điện theo chiều từ
trái sang phải 3 vòng với tâm niệm Ân đức Tam Bảo.
Thậm
chí Đức vua Thái cùng Hoàng gia, các
quan chức, v.v… cũng làm lễ cúng dường Đức
Phật tại ngôi chùa Đức Phật Ngọc, vị Đại Trưởng Lão chắp tay cầm đèn
hoa dẫn đầu chư Tăng, Đức vua Thái cùng Hoàng
gia, các quan chức… chắp tay cầm đèn
hoa theo sau đi vòng quanh chánh điện ngôi chùa Đức Phật Ngọc 3 vòng
với tâm niệm Ân đức Tam Bảo, v.v…
Tại
nước Việt
Trong
suốt đêm rằm tháng tư, chư Đại đức Pháp
sư luân phiên thuyết pháp, chư Tỳ khưu, Sadi, các
cận sự nam, cận sự nữ nghe pháp, đàm đạo pháp,
hoặc thực hành thiền định niệm 9 Ân đức Phật, hoặc thực hành thiền
tuệ.
Đó
là cách thức cúng dường cao thượng nhất đến Đức Phật.
Pháp
hạnh đầu đà nghĩa là gì?
Danh
từ đầu
đà âm từ chữ Pāḷi: “Dhutaṅga”
nghĩa là dẹp được những phiền não, loại trừ được những phiền não.
Hành
giả thọ pháp hạnh đầu đà là người ít tham muốn,
biết tri túc, hoan hỷ ở nơi thanh vắng, không sống chung đụng với
nhiều người, cố gắng tinh tấn tạo mọi thiện pháp, giữ gìn giới trong sạch và
trọn vẹn, thực hành thiền định để chứng đắc
các bậc thiền hữu sắc; thực hành thiền tuệ để chứng ngộ chân lý
Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn
tuyệt phiền não, tham ái.
Pháp
hạnh đầu đà có 13 pháp; pháp hạnh ngăn oai nghi nằm là 1 trong 13 pháp hạnh đầu
đà ấy.
Pháp
hạnh đầu đà ngăn oai nghi nằm có có 3 bậc:
1-
Bậc thượng:
Hành giả ngồi ngay thẳng, không dựa lưng, đầu vào một nơi nào cả.
2-
Bậc trung:
Hành giả có thể ngồi dựa lưng, đầu vào tường…
3-
Bậc hạ:
Hành giả có thể ngồi trên giường, trên ghế dựa…
Hành
giả sau khi thọ trì pháp hạnh đầu đà này rồi, suốt đêm:
Canh đầu, canh giữa, canh cuối chỉ sử dụng 3 oai nghi:
Oai nghi ngồi là chính và oai nghi
đi, oai nghi đứng là phụ tuyệt đối không sử
dụng oai nghi nằm, cho đến rạng sáng ngày hôm sau.
Nếu
hành giả muốn ngủ để thân tâm được nghỉ ngơi, thì hành giả có thể ngủ trong oai
nghi ngồi.
Như
vậy, hành giả đã thành tựu kết quả pháp
hạnh đầu đà này.
Hành
giả đã thọ pháp hành đầu đà này rồi, ban đêm
có 3 canh: Canh đầu, canh giữa, canh cuối,
nếu hành giả đặt lưng và đầu xuống
mặt phẳng nằm nghỉ ngơi vào canh
nào, thì pháp hành đầu đà này bị đứt. Tuy pháp hành đầu đà này bị
đứt nhưng không có tội, chỉ không được phước
mà thôi. Hành giả có thể nguyện thọ pháp hạnh đầu đà này trở lại.
Pháp
hạnh đầu đà ngăn oai nghi nằm này, chỉ thọ trì
oai nghi ngồi là chính và oai nghi đi, hành giả được thành tựu các
quả báu như sau:
-
Cắt đứt tâm ham nằm ngủ ngon giấc.
-
Thuận lợi thực hành mọi pháp hành thiền định, pháp hành thiền tuệ.
-
Giữ gìn các oai nghi đáng kính, dễ phát sinh đức
tin trong sạch.
-
Tinh tấn thực hành thiền định, hoặc thực hành thiền tuệ liên tục.
-
Hỗ trợ cho các pháp hành giới
-
định
-
tuệ…
được
phát triển và tăng trưởng tốt.
Trong
bộ Chú giải Mahāvagga thuộc Chú giải
Trường Bộ
Kinh,
kinh Sakkapañhasuttavaṇṇanā có
đề cập đến chư Thánh A-ra-hán thọ trì pháp hạnh đầu
đà ngăn oai nghi nằm đó là:
-
Nhị vị Tối Thượng Thanh Văn đệ tử: Ngài
Đại Trưởng Lão Sāriputta và Ngài Đại Trưởng Lão
Mahāmoggallāna không nằm suốt 30 năm.
-
Ngài Đại Trưởng Lão Mahākassapa không nằm
suốt cuộc đời xuất gia (Ngài thọ 120 tuổi).
-
Ngài Trưởng Lão Anuruddha không nằm suốt 50 năm.
-
Ngài Trưởng Lão Bhaddiya không nằm suốt 30 năm.
-
Ngài Trưởng Lão Soṇa không nằm suốt 18 năm.
-
Ngài Trưởng Lão Raṭṭhapāla không nằm suốt
12 năm.
-
Ngài Trưởng Lão Ānanda không nằm suốt 15 năm.
-
Ngài Trưởng Lão Rāhula không nằm suốt 12 năm.
-
Ngài Trưởng Lão Bākula không nằm suốt 80 năm
(Ngài thọ 160 tuổi).
-
Ngài Trưởng Lão Nāḷaka không nằm cho đến khi
tịch diệt Niết Bàn.
Tuy
quý Ngài là bậc Thánh A-ra-hán đã diệt đoạn
tuyệt mọi phiền não, mọi tham ái không còn dư
sót, nhưng quý Ngài thọ pháp hạnh
đầu đà ngăn oai nghi nằm, chỉ thọ trì oai nghi ngồi là chính và oai
nghi đi, oai nghi đứng là cốt để làm gương tốt
cho lớp hậu sinh noi theo.
Các
pháp hạnh đầu đà đều có khả năng ngăn
được phiền não, nghĩa là diệt tâm ác, để tâm thiện
sinh, làm cho các thiện pháp phát sinh như dục giới
thiện pháp, sắc giới thiện pháp, vô sắc giới thiện pháp cho đến Siêu tam giới
thiện pháp phát sinh.
Nghi
Thức Thọ Pháp Hạnh Đầu Đà
Trước
khi thọ pháp hạnh đầu đà:
-
Nếu hành giả là Tỳ khưu, thì nên sám hối āpatti
xong.
-
Nếu hành giả là Sadi, thì nên xin thọ lại phép quy y Tam Bảo và Sadi thập giới.
-
Nếu hành giả là cận sự nam, cận sự nữ, thì nên xin thọ phép quy y Tam Bảo và
ngũ giới, hoặc bát giới.
Mỗi
hành giả sau khi đã có giới rồi, phát sinh
thiện tâm trong sạch, cung kính thọ pháp hạnh
đầu đà.
Pháp
hạnh đầu đà ngăn oai nghi nằm,
thọ trì
oai nghi ngồi là chính và oai nghi đi, oai nghi
đứng tuần tự như sau:
1-
Kính Lễ Đức Phật Gotama:
Namo
Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa.
Con
đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, Đức A-ra-hán, Đức Chánh Đẳng Giác
ấy.
2-
Thọ Trì Pháp Hạnh Đầu Đà:
Seyyaṃ
paṭikkhipāmi,
Nesajjikaṅgaṃ
samādiyāmi.
Con
nguyện xin ngăn oai nghi nằm.
Con
xin thọ trì oai nghi ngồi là chính và oai nghi
đi, đứng.
3-
Cúng Dường Tam Bảo:
Imāya
dhammānudhammapaṭipattiyā Buddhaṃ
pūjemi.
Con
đem hết lòng thành kính cúng dường Đức
Phật Bảo bằng thực hành pháp hạnh đầu đà này.
Imāya
dhammānudhammapaṭipattiyā Dhammaṃ
pūjemi.
Con
đem hết lòng thành kính cúng dường Đức Pháp
Bảo bằng thực hành pháp hạnh đầu đà này.
Imāya
dhammānudhammapaṭipattiyā Saṃghaṃ
pūjemi.
Con
đem hết lòng thành kính cúng dường Đức Tăng
Bảo bằng thực hành pháp hạnh đầu đà này.
4-
Lời Nguyện Cầu:
Addhā
imāya paṭipattiyā jāti jarā maraṇamhā parimuccissāmi.
Chắc
chắn, con sẽ giải thoát khỏi sinh, già, chết
do nhờ duyên lành thực hành pháp hạnh đầu
đà này.
Ciraṃ
tiṭṭhatu saddhammo lokasmiṃ.
Ciraṃ
tiṭṭhatu saddhammo Vietnamraṭṭhasmiṃ
Nguyện
cầu chánh pháp được trường tồn trên thế gian.
Nguyện
cầu chánh pháp được trường tồn trên Tổ quốc Việt
Tổ
đình Bửu Long P.l: 2550
1
Chú giải Aṅguttaranikāya, phần Ekakanipātaṭṭhakathā.
2
Chú giải
Aṅguttaranikāya, phần Ekakanipātaṭṭhakathā.
3
Dìghanikàya,
Mahàvagga,
kinh
Mahàparinibhànasutta.
4
A-tăng-kỳ (asaṅkheyya) tính theo số lượng số 1 đứng trước 140 số không (0) viết
tắt 10140.
5
Dhammapadagàthà
thứ 21.
6
Dhammapadaṭṭhakathā
tích
Ngài Đại Đức
Aṭṭadattha.
7
Dhammapadaṭṭhakathā
tích
Ngài Đại Đức
Aṭṭadattha
8 Dhammapadaṭṭhakathā tích Ngài Tissattheravatthu. 9
Dhammapadaṭṭhakathā tích Ngài Dhammārāmattheravatthu.
10 Dhammapadagāthā số 364. 11
Dī.
Mahāvagga, kinh Mahāparinibbānasutta.
12
Xem bài kệ đầy đủ trang 49-50.
13
Pháp hạnh đầu đà ngăn oai nghi nằm, không phải không ngủ,
hành giả có thể ngủ trong oai nghi ngồi được.
|
[Ðầu trang][Trở về trang Mục Lục][Trở về trang Thư Viện]