Kết quả Tìm Kiếm: Có 504 câu hỏi có nội dung liên quan đến 'Hỏi & Đáp về Phật giáo'.
Thông báo:
Trong một thời gian dài, mục Hỏi Đáp Phật Pháp của trang web đã nhận được rất nhiều câu hỏi của Phật tử từ khắp nơi gởi đến. Thầy Viên Minh đã trả lời tất cả các câu hỏi liên quan đến vấn đề học Pháp, hành Pháp. Hiện tại mục Hỏi đáp đã có khoảng hơn hai mươi ngàn câu hỏi đáp, trong đó Thầy đã chỉ ra cốt lõi của việc hành đạo, sống Thiền. Do vậy Thầy đã quyết định tạm ngưng mục Hỏi đáp trong một thời gian để có thể chuyên tâm làm các Phật sự cần thiết khác.
Vậy, nếu có nhu cầu, Quý vị có thể sử dụng mục Tìm kiếm bên dưới (gõ từ khoá) hoặc bấm vào các tag đã được gắn theo từng chủ đề để tham khảo các câu Hỏi - Đáp về vấn đề của mình hoặc tương tự.
Sadhu sadhu lành thay!
Danh mục Hỏi Đáp Phật Pháp
Câu hỏi:
Kính thưa Thầy. Xin Thầy cho con hỏi: Con thấy Quý Ngài Tăng Thống Tích Lan đến thăm các chùa Nguyên thủy Việt Nam sao lại thuộc hệ phái... Xin Thầy giải thích rõ cho con Tích Lan có bao nhiêu hệ phái và những hệ phái đó Quý Ngài tu như thế nào (chuẩn). Con cám ơn Thầy. Chúc Thầy nhiều sức khỏe.
Xem Câu Trả Lời »
Trả lời:
Từ hệ phái này không có nghĩa là Nam Tông, Bắc Tông, Khất Sĩ v.v... như ở Việt Nam. Thực ra dùng từ hệ phái không đúng vì tất cả các nước theo Phật Giáo Theravada đều cùng chung một hệ phái Nam Tông hay Nguyên Thủy, đều lấy Tam Tạng Pali làm gốc, gần như nội dung không có gì khác nhau. Chỉ khác nhau về hệ thống tổ chức và sở trường pháp hành, nên mỗi phái có Tăng Thống riêng. Có lẽ dùng từ hệ thống hoặc trường phái thì đúng hơn, vì lý do sau đây:
1) Do xuất xứ của tổ chức, ví dụ như một số vị Tăng Tích Lan đi du học Thái Lan, Miến Điện... khi về nước tổ chức chùa chiền, đệ tử, sinh hoạt theo truyền thống Phật Giáo Nam Tông Thái Lan, Miến Điện. Những vị học trong nước thì giữ truyền thống Tích Lan. Do vậy ở Tích Lan có ba truyền thống tổ chức Phật Giáo Nam Tông riêng nhưng không khác nhau gì mấy, họ vẫn sinh hoạt chung, tu học chung, hành lễ chung với nhau không có gì trở ngại v.v... và tuyệt đối không có mâu thuẫn đối kháng.
2) Do pháp hành sở trường của mỗi vị thầy mà biệt truyền thành trường phái riêng. Ví dụ vị thầy thiện xảo về thiền định hay thiền tuệ thì phát triển chùa chiền và đệ tử thành một trường phái chuyên về thiền định hay thiền tuệ. Điều này giống như các Tông môn ở Việt Nam, tuy riêng biệt theo truyền thống pháp môn tổ khai sơn của mình nhưng vẫn cùng hệ phái Bắc Tông. Tông môn ở Việt Nam còn có nhiều chỗ khác nhau, còn trường phái của Tích Lan thì chỉ sở trường về pháp hành thôi nên có thể học hỏi trao đổi lẫn nhau và sinh hoạt chung không có gì trở ngại.
Câu hỏi:
Kính thưa Sư, nhân dịp đầu năm, con xin kính chúc Sư luôn được dồi dào sức khỏe, vạn sự cát tường. Thưa Sư, quả vị Tu-đà-hườn có dễ chứng không ạ, khi vị đó chứng đắc thì dấu hiệu là như thế nào và vị ấy có biết không? Con xin tri ân Sư.
Xem Câu Trả Lời »
Trả lời:
Không phải chỉ Đạo Quả Tu-đà-hoàn mà cả 4 bậc Thánh cũng đều có dễ có khó. Đối với người hội đủ nhân duyên thì dễ, người không hội đủ nhân duyên thì khó, chứ bản thân các quả chứng đều không khó cũng không dễ. Vị đã loại bỏ được 3 kiết sử: 1) Không còn tà kiến xem thân tâm là bản ngã, nên không còn tâm tham tương ưng với tà kiến. 2) Không còn phân vân nghi hoặc đối với thực tánh pháp nên không còn tâm si tương ưng với nghi. 3) Không còn câu nệ hình thức nghi lễ hay giới cấm nên giới tánh rất trong sạch nhưng không chấp giới tướng và các nghi lễ chế định. Vị Tu-đà-hoàn còn được gọi là "Tịnh tín bất động nơi Tam Bảo" nên Tam quy và Ngũ giới hoàn toàn trong sạch. Vị ấy thấy rõ những thực tánh pháp trên nhưng có thể không biết đó là Tu-đà-hoàn, vì đó chỉ là tên gọi mà đức Phật chế định để xác nhận trình độ chứng ngộ của hành giả chứ không phải là thực tánh pháp mà vị ấy chứng ngộ.
Câu hỏi:
Kính thưa Thầy, con đã có duyên may được đến nghe Thầy giảng Thiền (Khóa thứ 5 tại Tổ đình Bửu Long) vừa qua, con vô cùng cảm ơn Thầy đã khai thị cho con một số không ít những vấn đề về Phật pháp. Nay con có một thắc mắc này, xin Thầy vui lòng chỉ bảo, giải thích giúp con:
Thưa Thầy, đọc qua một số kinh sách Bắc Tông, con thấy các vị Bồ-tát thường có hạnh nguyện: "Khi nào chúng sinh chưa được độ tận thì ta chưa thành Phật", hoặc khi đã thành Phật thì nguyện rằng: "Khi nào chúng sinh còn khổ thì ta còn trở lại thế giới Sa-bà này để độ chúng sinh qua bến giác". Thưa Thầy, theo con hiểu thì khi những hạnh lành (Bồ-tát) hay tánh biết (Tánh Giác, Phật) nơi ta khai mở thì ta sẽ có từ bi, trí tuệ... tương ứng, và vấn đề hạnh nguyện chỉ là một cách diễn dịch của người đời bằng khái niệm hình tượng, ngôn từ mà thôi. Hoặc những người còn mê muội như chúng con, trên con đường học Phật, cần nói như vậy để khuyến khích phát triển hạnh nguyện hầu tiến dần đến khai mở tánh biết và hạnh lành. Còn nếu nhìn bằng nhãn quan nhị nguyên hoặc xét từ góc độ của quy luật âm dương thái cực, thì chẳng lẽ Phật và Bồ-tát cũng vẫn còn luân hồi sinh tử, vì mọi sự vật hiện tượng khi đã đạt mức cực dương thì sẽ chuyển sang âm: giống như khi ta đã đạt được quả vị Phật rồi thì lại trở xuống làm chúng sinh. Nói cách khác, khi nào còn "Ma" thì còn "Phật" (mà cuộc sống thì chẳng bao giờ hết "Ma" nên nếu hiểu thế giới theo kiểu nhị nguyên đối đãi: luôn có sai có đúng, có Ma có Phật, có yêu có ghét...), và chỉ khi nào không còn bản ngã tham sân si thì mới thấy thế giới như thực tánh, không còn thấy Ma thấy Phật nữa mà thôi.
Con xin tóm lại, điều con muốn hỏi là phải chăng từ Phật trong quan niệm này là chỉ cho tánh giác và Bồ-tát là ám chỉ cho hạnh từ bi, trí tuệ... Khi khai mở được tánh biết(Phật) và các hạnh làmh (Bồ-tát) đến tột độ thì chỉ thấy từ bi, trí tuệ... không còn thấy ma thấy Phật, thấy sinh thấy tử nữa. Chứ Phật và Bồ tát nếu còn thị hiện một cách hữu vi như chúng sinh thì vẫn luân hồi sinh tử như thường, có phải không ạ?
Thành kính cảm ơn Thầy.
Ngọc Thu
Xem Câu Trả Lời »
Trả lời:
Giáo lý nguyên thủy của đức Phật hầu như không đề cập đến những vấn đề Phật và Bồ-tát thị hiện cứu độ chúng sanh theo kiểu đó. Quan niệm này mãi đến 600 năm sau đức Phật nhập diệt mới phát sinh trong các Hệ Phái Phật Giáo phát triển. Đến hơn 1.100 năm sau đức Phật Niết-bàn, Thiền Tông Đông Độ ra đời, vị Tổ thứ 6 là Ngài Huệ Năng đã xác định lại "độ chúng sanh" là vượt qua vô số phiền não phát sinh trong tâm (Tự tánh chúng sanh vô biên thệ nguyện độ). Bởi vì một số Luận Phái phát triển đã biến Phật Pháp thành triết học và tín ngưỡng để đáp ứng yêu cầu sở tri và sở đắc của con người, hơn là chú tâm vào việc hóa giải những khổ đau bức thiết trong hiện tại, như tinh thần giác ngộ giải thoát ban đầu của đức Phật.
Bồ-tát theo nghĩa nguyên thủy là người biết sử dụng tánh giác để giác ngộ và giải thoát khỏi cái ta ảo tưởng. Chính cái ta ảo tưởng này tạo ra "vô số chúng sanh phiền não đau khổ trong tâm" mà chủ yếu là phát xuất từ vô minh ái dục, cụ thể như tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến v.v. Chính những "chúng sanh" này là hiện thân của đau khổ và tạo ra đau khổ cho mỗi người, vì vậy đối với bất cứ ai khi chưa "độ tận" chúng sanh (vượt qua phiền não) trong tâm mình thì có muốn thành Phật cũng không được, nên muốn giải thoát thì phải phát hạnh nguyện độ thoát phiền não (bản ngã chúng sanh) chứ đâu còn cách nào khác! Đối với chúng sanh bên ngoài thì người giác ngộ có thể chỉ đường cho họ để họ tự đi chứ không ai độ ai được.
Còn nói Phật thị hiện theo kiểu "Khi nào chúng sanh còn khổ thì ta còn trở lại thế giới ta-bà để độ chúng sanh qua bến giác" thực ra chỉ có nghĩa là khi nào còn xem thân ngũ uẩn này là bản ngã thì còn "chúng sanh phiền não khổ đau" nên gọi cái ta ngũ uẩn là thế giới sa-bà. Lúc đó chỉ còn trông cậy nơi tánh giác quay trở lại (chánh niệm) soi sáng mới mong phá trừ mọi vọng niệm (tỉnh giác) của cái ta ngũ uẩn đó để cứu thoát thực tại thân tâm (thân, thọ, tâm, pháp) ra khỏi cái ta ảo tưởng tạo tác khổ đau sinh tử mà thôi. Vì vậy câu nói trên có thể hiểu như sau: "Khi nào còn phiền não khổ đau (chúng sanh khổ), thì tánh biết phải nguyện quay lại nơi thân ngũ uẩn này (thế giới sa-bà) để hóa giải cái ta ảo tưởng trở về với thực tánh pháp"
Câu hỏi:
Thưa Thầy, con nghe nói thời kỳ Chánh Pháp là 500 năm, tượng pháp là 1000 năm, và mạc pháp là 10.000.000 năm. Thời kỳ Chánh Pháp và tượng pháp thì còn có thể tu hành chứng quả, còn thời kỳ mạc pháp thì khó có thể chứng đắc và có thầy còn nói thời này là thời mạc pháp chỉ có thể niệm Phật cầu vãng sanh Tịnh Độ mới chắc chắn thoát khỏi sanh tử luân hồi. Con rất là phân vân, xin Thấy từ bi gỡ rối cho con. Con thành thật tri ân thầy.
Xem Câu Trả Lời »
Trả lời:
Thời kỳ Chánh Pháp là thời gian còn giữ nguyên vẹn Giáo Pháp uyên nguyên của Đức Phật. Tuy 200 năm sau đức Phật Niêt-bàn đã có manh nha một vài kiến giải thay đổi nhưng không đáng kể. Mãi đến 600 năm sau Phật lịch thì mới có sự biến đổi lớn. Trong thời kỳ này nhiều bộ Kinh và Luận ra đời, chủ yếu là biểu hiện tư tưởng triết học và tín ngưỡng của các Luận sư hay Tổ sư. Sự phát triền này đã hình thành nhiều học thuyết và pháp môn phương tiện khác nhau cho phù hợp với căn cơ trình độ dị biệt của con người. Nội dung chính vẫn đúng với Pháp Phật nhưng phương pháp và cách lý giải có sai khác phần nào nên giai đoạn này được gọi là Tượng Pháp. Tượng nghĩa là tương tự như Chánh Pháp nên nếu hiểu đúng thì vẫn là Chánh Pháp, nhưng nếu hiểu sai thì liền rơi vào tà đạo. Nên chính các Tổ cũng cảnh báo là "Ly KInh nhất tự tức đồng ma thuyết". Từ Tượng Pháp giúp người sau lưu ý rằng vận dụng sáng tạo là tốt nhưng đừng để xa rời Chánh Pháp. Ứng theo lịch sử Phật Giáo thì đúng là thời kỳ Tượng Pháp kéo dài khoảng 1.000 năm, chấm dứt vào khoảng cuối thời kỳ Thiền Tông phân thành 5 phái.
Như vậy, đúng là khoảng 1.500 năm sau Phật Lịch thì Phật Giáo rơi vào thời kỳ Mạt Pháp. Mạt ở đây có nghĩa là nhánh ngọn. Nên trong thời kỳ này các Tông Phái chính phát xuất từ thời Tượng Pháp lại một lần nữa phân chia ra nhiều chi nhánh nhỏ, và mỗi trường phái này tự vận dụng ra phương pháp tu tập riêng theo vị đạo sư của mình. Chính vì sự phân chia nhánh ngọn này mà gọi là thời kỳ Mạt Pháp. Trong thời kỳ này, phần lớn không được học hỏi Chánh Pháp mà chỉ biết tu theo phương tiện của trường phái mình nên khó mà đạt được các bậc Thánh. Tuy nhiên trong thời kỳ này vẫn có những vị Tu-đà-hoàn sinh lại 7 lần, hoặc các vị Bồ-tát đang tu tập chơn chánh (chứ không hiểu theo nghĩa Bồ-tát cứu độ) duy trì Chánh Pháp của Phật, nên những người hữu duyên vẫn có thể tu học đúng Chánh Pháp, có hiệu quả rất cao, chứ không nên quá bi quan như vậy.
Tất nhiên những người căn cơ còn non yếu thì tu theo Mạt Pháp vẫn tốt, vì mạt chứ không phải là mạc theo nghĩa tàn tạ, hư đốn, nên nhánh ngọn mà tu cho đúng thì vẫn là thành phần của đại thọ Phật giáo. Phật giáo được ví như một cây cổ thụ. Gốc và thân gọi là Chánh Pháp, những cành lớn tương tự như thân cây chính nên gọi là Tượng Pháp, còn nhánh ngọn sum sê tươi tốt gọi là Mạt Pháp, chứ đừng hiểu thành Mạc Pháp là cây đã héo tàn mà bi quan yếm thế!
Câu hỏi:
Xin quý ban Biên tập và Chư Tăng Ni hoan hỉ cho con được biết Lễ dâng y là gì? Tại sao và diễn ra vào thời gian nào ạ?
Nam-mô A-di-đà Phật.
Xem Câu Trả Lời »
Trả lời:
Xin vui lòng vào đây:
Lễ Dâng Y Kathina để đọc sẽ hiểu rõ về Lễ Dâng Y. Chúc an vui.
Câu hỏi:
1. Thưa sư, con muốn hiểu sâu hơn về Phật giáo Nam tông và Bắc tông.
2. Trong thời mạt pháp, con nghe nói pháp môn niệm Phật là pháp môn thù thắng nhất trong tám vạn bốn ngàn pháp môn (vì đây là pháp môn dễ thực hiện nhất đối với tất cả mọi người già, trẻ) phải không sư?
Xem Câu Trả Lời »
Trả lời:
1) Con nên vào xem lại phần đầu của cuốn Thưc Tại Hiện Tiền, hoặc cuốn Thiền Phật Giáo: Nguyên Thủy và Phát Triển, trong đó thầy đã trình bày rõ về câu hỏi của con.
2) Nói Pháp Môn Niệm Phật dễ dàng nhất cho mọi căn cơ trình độ thì đúng, nhưng nói thù thắng nhất trong 84000 Pháp môn thì không đúng. Pháp môn nào phù hợp với căn cơ nào đó, giúp căn cơ ấy giác ngộ giải thoát thì pháp môn ấy là thù thắng đối với căn cơ trình độ ấy, nói như vậy có lẽ đúng hơn. Theo tinh thần Kinh Kalama đức Phật dạy thì: Đừng vội tin những điều người khác phán đoán mà phải tự mình xem điều đó khi đem ra thực hành có giúp con giác ngộ giải thoát không. Nếu điều nào đưa đến mê tín và lệ thuộc thì có nghĩa là đi ngược lại với mục đích giác ngộ giải thoát.
Câu hỏi:
Thưa sư, có phải người giàu, kẻ nghèo, người đẹp, kẻ xấu... tất cả đều do nghiệp? Con người sinh ra sống chết đều có số phải không sư? Còn thuyết luân hồi là thế nào ạ? Và có phải trong tương lai, đức Phật Di-lặc sẽ hạ thế ở cõi Ta-bà? Con cám ơn sư.
Xem Câu Trả Lời »
Trả lời:
Ngoài nghiệp còn có những định luật khác ảnh hưởng đến đời sống con người, nhưng nghiệp là phần mà con người chủ động tạo ra. Ví dụ như ảnh hưởng của mặt trăng, mặt trời, thời tiết, nhân quả v.v... là hiện tượng chung cho mọi người theo nguyên lý tự nhiên trong vũ trụ vạn vật, nhưng thái độ phản ứng hay xử lý đối với những hiện tượng đó thì mỗi người mỗi khác theo tư kiến tư dục của họ. Thái độ hành xử khác biệt này chính là nghiệp, và người ấy phải gặt lấy hậu quả của nó. Cái gọi là số mệnh chính là toàn bộ nội dung mà nghiệp của mỗi người tạo ra cho mình và cuộc sống. Do đó gọi là nghiệp mệnh đúng hơn là số mệnh đã được an bài. Và luân hồi chính là dòng nhân quả nghiệp báo triền miên mà mỗi người gieo và gặt, trả và vay luân lưu bất tận.
Đức Phật Thích Ca tiên đoán vị Phật tương lai của trái đất có tên gọi là Phật Metteyya (Di-lặc).
Câu hỏi:
Kính thưa Sư. Cho con hỏi: 1. Trong khóa giảng thiền Thầy nói rằng Niết-bàn ở trong tâm ta không ở đâu cả. Vậy khi Đức Phật tịch về cõi Niết-bàn mà kinh sách thường nói là ở đâu? Theo con nghĩ Niết-bàn là 1 cõi mà Đức Phật đã về ở vì Ngài đã thành bậc Chánh Đẳng Chánh Giác thì không thể thành tro bụi được, cũng như bên Bắc Tông quý Thầy nói cõi Cực lạc Tây phương của Đức Phật A-di-đà vậy. Theo truyền thống Phật Giáo Nguyên Thủy tu như PHẬT sẽ thành PHẬT rồi về đâu? 2. Trong phần mở đầu bài giảng thiền Thầy có nói bà hoàng hậu (con cũng không biết tên) sai người chờ Đức PHẬT kinh hành đến thành trì sẽ chửi Đức PHẬT, mà Ngài vẫn đến, sau cùng giáo hóa được họ. Trong khi đức vua cha của nàng Da-du-đà-la cũng chờ Đức PHẬT đến để chửi mà Ngài lại rẽ sang đường khác vì không muốn đức vua mang thêm nghiệp. Sao con thấy có 2 cách hành xử khác nhau thế. Vì thời giờ eo hẹp con không dám hỏi Thầy trong khóa học. Xin Thầy hoan hỷ chỉ dẫn con. Con cám ơn Thầy.
Xem Câu Trả Lời »
Trả lời:
1) Thẳng thắn mà nói thì việc tìm hiểu Niết-bàn ở đâu không ích gì cho sự trực nhận thực tại để thoát ly điên đảo mộng tưởng cả. Đã là Phật thì ở đâu mà chẳng là Niêt-bàn. Niết-bàn được đức Phật định nghĩa là đoạn tận tham, đoạn tân sân, đoạn tận si. Vậy ỏ đâu không có tham sân si ở đó là Niết-bàn. Nếu Niết-bàn có một chỗ để trụ thì đã không gọi là Vô Sở Trụ hay Vô Thủ Trước Niết-bàn rồi. Bậc giác ngộ, thấy Pháp, sống thuận Pháp và thể nhập Pháp tánh nên lấy Pháp giới tánh làm Pháp Thân (Dhammakaya) không còn nương tựa hay bám trụ trên bất cứ tướng nào (Anissito viharati na kinci loke upadiyati).
Sở dĩ thầy nói: "Ngay đây không tham sân si là Niết-bàn" để mọi người đừng lăng xăng tìm kiếm bên ngoài (vọng ngoại), ở tương lai hay một nơi xa xăm nào đó. Hãy trở về mà thấy (ehipassiko), ngay tại đây (sanditthiko) và bây giờ (akaliko), trên tự thân thực tại (opanayiko) mà mỗi người có thể chứng nghiệm được (paccattam veditabbo vinnuhi). Và đó là lý do vì sao đức Phật dạy chúng ta trở về chánh niệm tỉnh giác ngay nơi thực tại thân tâm này thì ở đó thấy Niết-bàn.
2) Câu hỏi thứ hai thì sau khi hỏi anh đã tự trả lời được rồi nên có lẽ không cần phải trả lời nữa phải không?
Câu hỏi:
Thưa Sư. Con muốn hỏi Sư một chuyện mà con thắc mắc từ lâu. Con thấy các thầy thường hay nói, cơ hội được làm người rất hiếm hoi và chỉ có ở cõi người mới có thể thực hành phát triển về mặt tâm linh. Hay ở trong Kinh, đức Phật có lấy ví dụ về chuyện con rùa mù để nói lên cơ hội khó khăn để có thể tái sinh làm người. Con cũng tin nhưng vẫn còn thắc mắc không biết cơ hội làm người có khó đến vậy không, vì con đọc thấy việc nhiều người mất đi đã tái sinh trở lại làm người và người này nhớ lại được kiếp trước của mình, hay như trường hợp hóa thân của các vị Lạc-ma cũng vậy. Con cũng thắc mắc thêm, sao các cõi Trời, Atula hay ngã quỷ địa ngục không thể thực hành được ạ. Con thấy các cõi đều có thể có nhiều động lực mong muốn thoát khổ. Mong thầy giải thích giùm con.
Xem Câu Trả Lời »
Trả lời:
Cõi người là cõi có đủ khổ vui, thành bại, thăng trầm... nên có thể giúp cho người tu thấy được mọi mặt của cuộc sống, từ đó có thể giác ngộ giải thoát. Dưới cõi người thì khổ quá không tu được, trên cõi người thì vui quá cũng không giác ngộ được. Nếu so với chúng sanh trong tất cả các cõi trên và dưới cõi người thì làm người quả nhiên là hiếm. Nhưng khi được làm người nếu không biết học ra bài học giác ngộ từ cõi người thì nếu làm ác sẽ mất cõi người mà đi xuống, nếu tu để được quả phước an lạc thì cũng sẽ mất cõi người mà đi lên. Đức Phật muốn nhắc nhở chúng ta đừng xem thường kiếp người mà làm ác để bị sa đọa hay cứ mong tu để đi lên cõi trên hưởng phước. Vì như vậy sẽ mất cơ hội tu hành giác ngộ.
Câu hỏi:
Thưa Sư, xin Sư chỉ cho con được rõ, con nghe giảng chỉ cần con người thoát ly Tam giới (Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới) thì người đó đã đoạn tận phiền não và thể nhập Niết Bàn. Thưa Sư, quan niệm đó theo tinh thần Phật giáo Nguyên Thủy sai khác thế nào? Vì con có được nghe Sư giảng về giới, định, tuệ có 3 loại trong đó khi ta ngồi nghe Pháp hay đọc Kinh thì giới, định, tuệ ngay lúc đó là tự nhiên không phải do bản ngã tạo ra! Con thấy vấn đề đó cũng gần như khi xa lìa được ba cõi Dục, Sắc và Vô Sắc thì con người sẽ buông bỏ được tất cả sẽ an lạc! Xin Sư hoan hỷ cho con được tỏ tường!
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!
Xem Câu Trả Lời »
Trả lời:
Nói chung là khi giới định tuệ được viên mãn thì thoát khỏi tam giới. Nhưng nếu giới định tuệ do bản ngã cố gắng hoàn thiện thì không bao giờ viên mãn được. Chí có tự tánh giới định tuệ mới viên mãn được thôi. Vì vậy pháp thiền Vipassanà Trong Phật Giáo Nguyên Thủy sử dụng giới định tuệ tự tánh (vô ngã) để loại trừ cái ta ảo tưởng muốn đạt thành. Cái ta luôn tạo ra tam giới, nên nó không bao giờ thoát ly được tam giới. Thoát ly tam giới đồng nghĩa với chấm dứt cái ta ảo tưởng. Bài kệ:
Học Đạo quý vô tâm
Làm, nghĩ nói khộng lầm
Sáng, trong và lặng lẽ
Giản dị mới uyên thâm
chính là mô tả một đời sống sáng suốt, định tĩnh, trong lành thoát ly tam giới vậy