|
TU TẬP NIỆM CHẾT
Hôm ấy, có một vị tỳ-khưu còn trẻ nhưng bị bệnh mất, thi hài được chư tăng hỏa táng. Một vài người thắc mắc sao còn quá trẻ mà đã hết tuổi thọ? Hay nghiệp đã chấm dứt? Vài ngày sau đó, trong thành phố Āḷavī có người chết bệnh, có người chết nước, có người chết lửa, có người chết do sét đánh, có người chết do đao kiếm... được bàn tán chỗ này, nơi kia. Đức Phật biết là đúng thời nên ngài thuyết một thời pháp nói về sự chết của các loài hữu tình. Đầu tiên, đức Phật cảm hứng ngữ thốt lên một bài kệ thơ dài nói về sự chết: “- Ôi! Từ khi nẩy mầm li ti một sự sống Nó rất nhỏ nằm trên đầu cây kim Tượng hình trong thai bào Là nó, Là một chúng sanh Cứ thế lớn lên Cứ thế nó tiến dần về phía trước Không thể trở lại Chẳng thể quay lui Dù chỉ một lần Trong khi nó chảy trôi như vậy Nó tiến dần đến cõi của sự chết Giống như dòng sông Nó nhỏ dần, hẹp dần rồi cạn dần Dưới sức nóng thiêu đốt của hỏa đại Như trái cây xanh kia Chín dần rồi rơi rụng Như chiếc bình đất nung kia Búa thời gian đập vỡ Như giọt sương ban mai kia Chợt tan biến dưới ánh nắng mặt trời Thế là ngày và đêm Lặng lẽ trôi qua Mạng sống của các loài hữu tình Tàn dần, lụn dần cho đến khi diệt mất Nó mong manh, nó hư ảo Như bọt bể, như bóng nước Tụ rồi tan ngay! Hiện rồi mất ngay! Ôi! Ai có biết chăng Khi vừa sinh ra Cái sống đi kèm với cái chết Trên sinh mệnh của các loài hữu tình Có một tên bạo chúa Có một tên sát nhân Chực sẵn với cây kiếm sắc Chờ sẵn với lưỡi gươm bén Nó kề bên cổ Không biết sẽ tướt đoạt mạng sống lúc nào Như đức vua kia Oanh oanh liệt liệt Chinh phục cả quả đất Nhưng thời khắc cuối cùng của đời người Mọi thành tựu và mọi vinh quang Giá trị xem ra không bằng nửa hạt giẻ Xác thân và hơi thở héo tàn Thần chết lạnh lùng cười khẩy mang đi! Ôi! Loài người có biết chăng Sức khỏe bị chấm dứt bằng tật bệnh Tuổi trẻ bị tấn công bằng già nua Sự sống bị xâm lăng bởi sự chết Đấy là định luật tất yếu Tất cả mạng sống có được từ ‘sinh’ Rồi bị ám ảnh bởi ‘già’ Rồi bị đoanh vây bởi ‘bệnh’ Và cuối cùng là cái ‘chết’ đánh gục Ví như núi đá khổng lồ kia Lớn rộng tận trời cao Nó tiến đến từ mọi phía Nghiền nát mọi sinh loài Cũng tương tự như thế Già chết nó nghiền nát Sinh mệnh bà-la-môn Sinh mệnh sát-đế-lỵ Sinh mệnh các chiến sĩ Sinh mệnh những thương gia Sinh mệnh các thợ thuyền Sinh mệnh những tiện dân Sinh mệnh các nô lệ Người hốt phân, kẻ nạo ống cống Nó không chừa một ai Và cho dẫu tượng quân, mã quân hùng mạnh Và cho dẫu bộ quân lớp lớp hàng hàng Và cho dẫu đại ảo gia, chú thuật gia Hay dẫu đem tất cả tài sản thế gian gộp lại Vẫn bất lực trước tử thần Trong các loại phá sản Sự chết là đệ nhất phá sản Phá sản mọi sự nghiệp Phá sản tất thảy mọi thành công ở trên đời Phá sản mọi ước mơ và mọi ảo tưởng Phá sản cho đến tận cùng hư vô và hủy diệt Ôi! Loài người có biết chăng Cho dẫu những người có danh vọng lớn Có công đức lớn Có sức mạnh lớn Có thần thông lớn Có trí tuệ lớn Có đồ chúng lớn Có tài sản lớn Có uy lực lớn Thế mà, cuối cùng Cái chết nó tóm lấy hết Nó quẳng tất thảy vào vực thẳm Rāhu Cái chết nó gặm vào hàm Như nai tơ non trong hàm sư tử Như chú ếch con nằm trong miệng rắn Cho dẫu như Moggallāna Là đệ nhất thần thông Cho dẫu như Sāriputta Có trí tuệ siêu quần Cũng đầu hàng, bất lực Trước sức mạnh tử thần! Và cho dẫu là Như Lai Với sắc thân ba hai quý tướng Và tám mươi vẻ đẹp Được trang bị viên mãn giới uẩn Viên mãn định uẩn Viên mãn tuệ uẩn Viên mãn giải thoát uẩn Viên mãn giải thoát tri kiến uẩn Viên mãn về danh xưng Viên mãn về công đức Viên mãn về hùng lực Viên mãn về thần thông Chẳng có ai sánh bằng Nhưng chẳng thể nào né tránh Trận mưa lũ thình lình Của sự chết ập đến Như một đống lửa lớn Bị dập tắt bởi một trận dông Chẳng một ai trốn được! Chẳng một ai thoát được!” Bài kệ thơ trầm hùng như sóng biển, như âm vọng đại ngàn rì rào lướt qua không gian điện thờ Aggāḷava làm cho hội chúng tỳ-khưu cùng nam nữ cư sĩ như nín thở. Sự chết như hiển hiện trước tầm mắt mọi người bằng lưỡi hái cong cong sắc bén, rực lửa của tử thần đang chực sẵn, đang hờm sẵn ở đâu đó trong bóng tối, bên ngưỡng cửa, bên chiếc giường của già bệnh và ngay cả ở nơi tuổi thanh xuân! Đức Phật lại tiếp tục bài giảng: - Như vậy, mỗi người phải biết suy niệm, quán tưởng về sự chết. Cái thân của chúng sanh nó già, nó bệnh, nó chết trong từng khoảnh khắc. Hãy xem đây, và hãy nhìn cho ra: Hiện nó là nơi cộng cư, đồng trú Của “tám mươi”(1) gia đình vi trùng Nó bám vào da, lấy da làm thức ăn Nó trú vào thịt, rúc thịt làm món ngon Nó dính vào gân, moi gân làm bữa nhậu Nó bám vào xương, rỉa xương làm thức nhắm Nó bám vào tủy, mút tủy làm thực phẩm Chúng ăn rồi chúng ỉa, chúng đái Chúng bài tiết dơ uế Rồi chúng làm tình Rồi chúng sinh con đẻ cái Rồi chúng bệnh, chúng già và chúng chết Vậy, cái thân này là nhà bảo sanh Là viện dưỡng thương Đồng thời là chỗ tiểu tiện, đại tiện Mà cũng là nghĩa địa của chúng Và khi chúng bất hòa, nổi loạn Khi chúng chiến tranh, dịch bệnh Thì cái thân này là bãi chiến trường Là cái hầm xác thối Làm cho cơ thể nầy Hoặc xanh xao, hư mòn, tiều tụy Hoặc suy kiệt và đi đến cái chết! Còn nữa, cái thân này không những san sẻ, cộng cư với tám mươi gia đình vi trùng mà còn chia nhau gánh chịu trăm ngàn thứ bệnh nội thương từ tim, từ phổi, từ gan, từ não, từ tim, từ lá lách, từ mật, từ bao tử, từ máu, từ ruột non, ruột già nữa. Nó lại còn bị mọi sự chết chóc từ bên ngoài đem đến như bởi rắn, bởi hổ, bởi báo, bởi bò cạp, bởi nước, bởi lửa, bởi mũi tên, bởi đao và bởi kiếm nữa. Như một mục tiêu được dựng ở ngã tư đường sẵn sàng nhận chịu những mũi tên nhọn, cọc nhọn, chĩa nhọn, đá sỏi từ bốn phương, tám hướng tấn công; cũng tương tự thế, trăm trăm ngàn ngàn tai ươn, hoạn nạn, bệnh tật, ốm đau, chết chóc luôn luôn chực chờ bổ xuống, phủ xuống cái thân này một cách khắc nghiệt, vô cảm, lạnh lùng! Này đại chúng! Suy đi, gẫm lại từ sự thật như vậy, thì sự chết không biết sẽ đến với ta lúc nào. Khi ngày tàn, đêm xuống, sớm đến, chiều đi, một hành giả quán tưởng về sự chết có thể suy niệm như sau: “Ta có thể bị chết do rắn, rết, bò cạp, độc trùng tức khắc bây giờ đây. Ta có thể bị chết do té ngã, dập đầu vào đá tức khắc bây giờ đây. Ta có thể bị chết do trúng thực, trúng gió, bởi mật, bởi đàm, bởi nghẽn tắt các vi mao tĩnh mạch...tức khắc bây giờ đây!” Còn nữa, này đại chúng! Như vậy, sự sống vốn rất mong manh và bất lực trước tử thần! Nó gắn liền vào hơi thở, gắn liền với bốn cử động đi đứng nằm ngồi, gắn liền với nóng và lạnh, gắn liền với tứ đại, gắn liền với thức ăn, vật uống. Thế nào là sự sống được gắn liền vào hơi thở? Sự sống chỉ được duy trì, được tiếp diễn khi hơi thở vô, hơi thở ra được liên tục và đều đặn. Nếu hơi gió đi vào mà không đi ra hoặc hơi gió đi ra mà không đi vào thì sự chết đã đến gõ cửa. Thế nào là sự sống được gắn liền với bốn cử động đi, đứng, nằm, ngồi? Sự sống chỉ được duy trì và tiếp diễn khi đi đứng nằm ngồi được vận hành suôn sẻ, trôi chảy; nếu một trong bốn oai nghi ấy bị ngưng đọng, ngưng trệ thì sự sống đã bị tê liệt. Thế nào là sự sống được gắn liền với nóng và lạnh? Sự sống chỉ được duy trì, tiếp diễn khi thủy hỏa quân bình, đều hòa; nếu cơ thể lạnh quá độ hoặc nóng quá độ thì sự chết đã kề bên lưng. Thế nào là sự sống được gắn liền với tứ đại? Sự sống chỉ được duy trì và tiếp diễn khi đất, nước, lửa, gió cân phân, đều hòa. Nếu một trong bốn đại rối loạn, tăng thịnh hơn ba đại kia thì sự chết đã được báo hiệu. Và cuối cùng, tương tự vậy là thức ăn, vật uống. Thức ăn vật uống có thể duy trì sự sống mà cũng có thể hủy diệt sự sống. Ăn uống chừng mực, vừa phải, có tiết độ thì cái thân sẽ vô bệnh, mạnh khỏe; nếu khẩu tạp vô độ, bạ ăn, bậy uống thì bệnh tật, ốm đau đi liền với cái chết là việc đã từng xảy ra trước mắt cho rất nhiều người. Này đại chúng! Sự chết vốn không ai có thể tiên lường, suy đoán hay xác định được. Tại sao? Vì sự chết có năm vô tướng, bất định: “Đấy là thọ mạng vô tướng, bất định; bệnh tật vô tướng, bất định; thời gian vô tướng, bất định; không gian vô tướng, bất định; và thứ năm là số phận vô tướng, bất định!” Thế nào là thọ mạng không có tướng và không có thể định được? Vì không ai có thể biết là mình sẽ sống bao lâu! Vì có hữu tình chết từ trong thai bào, trong giai đoạn còn một tuần, hai tuần; giai đoạn một tháng, hai tháng hay giai đoạn vừa ra khỏi bụng mẹ. Có người chết lúc mười tuổi, hai mươi tuổi, năm mươi tuổi hoặc sau năm mươi tuổi... Thế nào là bệnh tật không có tướng và không có thể định được? Vì không ai có thể biết là mình sẽ chết về bệnh này hay chết về bệnh kia? Bị chết về nhiều thứ bệnh hay chết chỉ một, vài bệnh? Thế nào là thời gian không có tướng và không thể định được? Vì không ai có thể biết mình chết lúc này hay lúc khác? Thời gian này hay thời gian kia? Buổi sáng, buổi trưa, buổi chiều hay buổi tối? Thế nào là không gian không có tướng và không có thể định được? Vì không ai có thể biết khi mình chết, cái thây sẽ nằm ở chỗ nào, xứ nào, chốn nào, trên giường, trên đất, trong làng, ngoài làng, dưới ruộng, trên núi, trong hang động hay dưới cội cây? Và cuối cùng, là số phận, chỗ lai sinh cũng không có tướng và cũng không định được như thế! Vì ai là người biết được kẻ chết ở nơi này sẽ sinh lại ở nơi nào? Có người chết cõi người nhưng sau đó hóa sanh cõi trời, sinh lại cõi người hay lưu lạc vào bốn đường khổ? Sự vần xoay, trầm luân, lui tới ba cõi, sáu đường của các loài hữu tình quả thật là mù mờ, bấp bênh và vô định vậy. Này đại chúng tỳ-khưu và cận sự nam nữ hai hàng! Sự chết vô hình, vô ảnh, vô tướng, bấp bênh, vô định như vậy nên mọi người nên hằng suy niệm và quán tưởng về sự chết để lợi lạc và an vui lâu dài cho mình. Giới hạn đời người là một trăm năm chăng? Có chắc chắn như thế không? Vì sự chết không biết nó sẽ đến thăm viếng lúc nào nên phải thường xuyên thực hành ba nghiệp lành, tốt; lìa xa ba nghiệp xấu ác để chuẩn bị hành trang, tư lương cho mình. Phải thường suy niệm có sanh ắt có tử để tự nhắc nhủ mình tinh cần tích lũy các công đức, các thiện sự như bố thí, trì giới, các công việc lợi tha. Này đại chúng! Phải thường trực tưởng niệm đời sống ngắn ngủi, bao nhiêu năm không biết hạn kỳ; và sự chết thì luôn hờm sẵn để cắt lìa, đoạn diệt mạng sống của ta. Vậy, có thể nghĩ tưởng về cái chết và tu tập niệm chết trong một ngày, một đêm: “Sau một ngày một đêm, ta sẽ chết, vậy ta phải khéo miên mật chánh niệm, tỉnh giác!” Ai tinh cần thực hành được một ngày, một đêm như vậy là đã làm nhiều, đúng theo yêu cầu của Như Lai, thật đáng khen ngợi. Có vị khác, người khác có thể nghĩ tưởng về cái chết và tu tập niệm chết trong thời gian chỉ một bữa ăn: “Sau thời gian bữa ăn này ta sẽ chết, vậy ta phải khéo miên mật chánh niệm, tỉnh giác!” Một vị khác:“Đời người không phải giới hạn trong một bữa ăn mà chỉ trong thời gian nhai nuốt bốn năm miếng ăn thôi”. Có vị khác:“Đời người chỉ tồn tại một miếng ăn”. Một vị khác nữa:“Sự sống chỉ được gói ghém trong một hơi thở vào, một hơi thở ra!” Có vị: “Sự sống chỉ nằm vỏn vẹn chỉ trong một niệm, trong một sát-na thôi!”. Những hành giả suy niệm về sự chết như vậy là đã rất miên mật, rất tinh cần; những tạp niệm tham sân, bụi bặm phiền não không có cơ hội len thấm vào tâm vị ấy. Này đại chúng! Cuối cùng, người suy niệm, quán tưởng sự chết chỉ trong một niệm, trong một sát-na là cao tột, là cùng tận, là đúng với chân lý, là hợp với tuệ trí đệ nhất nghĩa. Tại sao vậy? Như cái bánh xe, khi lăn nó chỉ tiếp đất ở một điểm và khi dừng, nó cũng chỉ dừng trên một điểm. Sự sống của tất thảy chúng sanh, chúng chỉ sống, chỉ hiện tồn, chỉ có mặt khi lục căn giao tiếp với lục trần trong mọi diễn tiến duyên khởi đang là. Nói là sáu (lục căn) nhưng luôn luôn chỉ có một; chỉ có một căn vận hành, giao tiếp; rồi qua từng sát-na, từng tiểu sát-na chúng chuyển đổi cho nhau rất vi tế, rất nhanh nhạy. Và trong sự giao tiếp đang là của một căn ấy, cũng chỉ có một điểm giao tiếp với thực tại đang là như bánh xe tiếp đất kia vậy. Nói cách khác, đời sống của chúng sanh chỉ kéo dài trong một niệm, một sát-na; sau một niệm, một sát-na ấy là chấm dứt sự sống. Một niệm, một sát-na sống; một niệm, một sát-na chết và cứ thế tiếp diễn sống, chết, sống, chết trùng trùng vô cùng tận! Nếu lập ngôn một cách cô đọng thì: “Trong một sát-na quá khứ khi nó sống thì nó không có mặt trong hiện tại, không có mặt trong vị lai. Trong một sát-na khi nó sống trong hiện tại thì nó không có mặt trong quá khứ, không có mặt trong vị lai. Trong một sát-na khi nó sống trong vị lai thì nó không có mặt trong hiện tại, không có mặt trong quá khứ!” Giảng đến ngang đây, đức Phật lại cảm hứng ngữ thốt lên một bài kệ thơ nữa: “- Ôi! Sự sống của một hữu tình Sự sống ấy là gì? Là khổ, là lạc, là hỷ, Là ưu, là ai, là hoạn? Là ái, là ố, là sầu, Là thương, là bi, là hận? Tất cả đấy, chúng tồn tại ở đâu? Chúng có mặt ở không, thời, gian nào? Trú xứ nào? Chỗ nào? Sự thật là nó chỉ sống Trong một niệm thoáng qua Cái gọi là sắc thọ tưởng hành thức uẩn ấy Của người đã chết Hay của người đang sống Đều giống nhau Đều một đi không trở lại Không có thế giới sanh Nếu ý thức không sanh Không có thế giới diệt Nếu ý thức không diệt Thế giới chỉ hiện tồn Khi ý thức có mặt Thế giới là hoại diệt Khi ý thức tan rã Theo với nghĩa tuyệt đối, Theo với đệ nhất nghĩa Sinh tử là như thế Bất sanh, bất tử là như thế!” Vậy này đại chúng! Những cách quán niệm về sự chết như vậy; tinh cần, miên mật trong một ngày, một đêm; trong một bữa ăn; trong bốn năm miếng nhai nuốt; trong một miếng ăn; trong một hơi thở vào ra hay trong một niệm thì tất thảy mọi triền cái(1) đều được áp đảo, những thiền chi(2) sẽ xuất hiện, vị ấy sẽ đạt cận hành định. Cận hành định này là do “tử tưởng”(3) phát sanh. Tưởng niệm về sự chết phải luôn tinh cần, vị ấy sẽ không tham luyến đối với bất cứ sự hiện hữu nào, không bám víu vào một đối tượng nào trong đời sống, không trách cứ ác pháp nào, không tích chứa một sở hữu nào, không bị cấu uế của lòng tham trong bốn món vật dụng. Từng sát-na trôi qua, sinh và diệt trôi qua, liên miên bất tận không có điểm dừng nơi sắc pháp, nơi cảm thọ, nơi tri giác, nơi tâm hành, nơi nhận thức; nhờ vậy, tướng vô thường dần dần lộ rõ trong tuệ nhãn vị ấy. Và khi tướng vô thường xuất hiện thì tướng về khổ và vô ngã cũng đồng thời xuất hiện; vị ấy thấy rõ tam tướng, đi vào lộ trình tâm thánh đạo. Trong khi một người chưa tu tập niệm chết thì thường bị bất an, bối rối, hãi hùng, kinh sợ vào lúc lâm chung như thể thình lình bị dã thú vồ chụp, như bất chợt bị ma quỷ đón bắt, như bị rắn mổ, như bị kẻ cướp trấn lột hay như bị kẻ sát nhân bức hại thì người có tu tập niệm chết, ngược lại, được ra đi an lành, không vọng tưởng, hoang tưởng, được chánh niệm tỉnh giác, hoàn toàn tự chủ và vô úy. Nếu chưa đặt được bàn chân trên mảnh đất bất tử do thấy rõ tam tướng, chưa đi vào được cận hành định như ý muốn thì khi thân hoại mạng chung, vị ấy cũng sẽ hóa sanh vào cảnh giới an vui hạnh phúc của cõi người hoặc cõi trời. “- Ai trên đời có trí Tinh cần, tỉnh giác luôn Hằng tu tập niệm chết Có lợi lạc phi thường! Ai có duyên niệm chết Một ngày hoặc một đêm Một bữa ăn, miếng ăn Một hơi thở, một niệm Người ấy đã thách đấu Với ác ma, thần chết Kiên cường không sợ hãi Người ấy là bất tử Người ấy là vô sanh Đạt an vui tối thượng!” Bài pháp hiên ngang, hào hùng của đức Phật hôm ấy như tuyến chiến với hư vô, coi thường hư vô, bước ra khỏi hư vô đã giúp cho không biết bao nhiêu người thấy rõ bộ mặt thật của sự chết; đồng thời biết đâu là sanh tử trong một niệm, biết đâu là vô sanh bất tử cũng trong một niệm; một số trong họ đi vào vài quả thánh đầu tiên. Đặc biệt, trong hội chúng hôm ấy có một cô gái mười sáu tuổi con người thợ dệt(1) đã bừng bừng hỷ hoan trên khuôn mặt; và cô tự hứa với lòng là sẽ tu tập niệm chết này từ khoảnh khắc này, sẽ không dám biếng lười, dể duôi, giải đãi... (1) - Hôn trầm - thụy miên, nghi, sân, trạo cử, dục. (2) - Tầm, tứ, phỉ, lạc, cận hành (3) - Suy tưởng, niệm tưởng về sự chết. (1) - Xem câu chuyện trong chú giải Dhammapada. iii. 170f.
|