• Nền Tảng Phật Giáo - Quyển VI

    PHÁP HẠNH BA-LA-MẬT

    (Tập 1)

  • Soạn giả: Hộ Pháp

Xuất Gia Trở Thành Đạo Sĩ

Sau khi làm phước thiện đại bố thí hết phần của cải tài sản xong, Đức Bồ Tát Mahākañcana anh trưởng dẫn 6 người em trai, 1 người em gái, 1 người tớ trai, 1 người tớ gái và 1 người bạn hữu cùng nhau đi vào rừng núi Himavanta, mỗi người làm một cốc lá gần hồ sen lớn, rồi xuất gia trở thành đạo sĩ sống tại nơi ấy.

Hằng ngày, các đạo sĩ dẫn nhau vào rừng vừa chuyện trò vừa hái trái cây lớn nhỏ, các thứ rau, các loại củ,… đem về cùng ăn chung chuyện trò vui vẻ với nhau.

 Một hôm, trên đường từ trong rừng trở về, Đức Bồ Tát đạo sĩ Mahākañcana suy nghĩ rằng:

Chúng ta đã từ bỏ nhà cửa, của cải đi xuất gia trở thành đạo sĩ sống trong rừng núi, mà cách sống giống như đời sống của người tại gia thế này, không thích hợp với bậc xuất gia như chúng ta.

Buổi chiều hôm ấy, gọi tất cả các vị đạo sĩ tụ hội,  Đức Bồ Tát đạo sĩ Mahākañcana nói rõ điều suy nghĩ của mình, rồi bảo rằng:

- Này quý vị đạo sĩ! Từ nay, mỗi vị ở tại cốc của mình thực hành pháp hành thiền định, không nên chuyện trò vui vẻ với nhau như thế này nữa.

Chỉ một mình tôi đi vào rừng tìm các thứ trái cây lớn nhỏ, rau, củ mà thôi, đem về chia ra 11 phần ăn.

Khi nghe tiếng kiểng đá báo hiệu, mỗi vị từ cốc thu thúc lục căn thanh tịnh, đi ra lãnh một phần ăn đem về cốc để dùng, rồi tiếp tục thực hành pháp hành thiền định.

 Trong trường hợp đặc biệt, nếu vị đạo sĩ nào có sự việc gì xảy ra thì vị đạo sĩ ấy nên đánh kiểng báo hiệu, để tất cả các vị đạo sĩ sẽ tụ hội tại nơi này.

Nghe Đức Bồ Tát Mahākañcana bảo như vậy, vị đạo sĩ Upakañcana em kế bèn bạch rằng:

- Kính bạch Đạo huynh trưởng, tất cả chúng tôi nương nhờ nơi Ngài mà xuất gia trở thành đạo sĩ.

Vậy, Ngài là vị Thầy của chúng tôi, tất cả chúng tôi đều có bổn phận hầu hạ phục vụ Ngài. Cho nên, việc đi vào rừng tìm các thứ trái cây lớn nhỏ, rau, củ là phận sự của chúng tôi.

 - Kính bạch Đạo huynh trưởng, xin thỉnh Thầy, nữ đạo sĩ Kañcanadevī em gái của chúng ta, nữ đạo sĩ tớ gái, cả 3 vị đều ở tại cốc thực hành pháp hành thiền định, còn lại chúng tôi gồm có 8 vị luân phiên nhau, mỗi ngày 1 vị đi vào rừng tìm đủ các thứ trái cây lớn nhỏ, rau, củ, đem về chia ra làm 11 phần ăn, đặt trên tảng đá, rồi đánh kiểng báo hiệu.

Khi nghe tiếng kiểng, xin thỉnh mỗi vị đi ra nhận một phần ăn đem về cốc để dùng, rồi thực hành pháp hành thiền định.

Về sau, các đạo sĩ xuống hồ lấy củ sen lên nấu chín chia ra làm 11 phần ăn cho mỗi vị một phần ăn để dùng. Tất cả các vị đạo sĩ tinh tấn thực hành pháp hành thiền định với đề mục kasiṇa, có định tâm vững chắc, có nhiều oai lực phi thường.

Khi ấy, cõi trời Tam thập Tam thiên của Đức Vua  Trời Sakka bị rung chuyển do oai lực giới đức của các đạo sĩ ấy, khiến Đức Vua Trời Sakka phải kính phục, nên nghĩ rằng:  Tất cả các vị đạo sĩ ấy có còn hướng tâm đến hưởng thụ ngũ dục hay không? Ta nên thử xem cho biết sự thật.”

Đức Vua Trời Sakka dùng oai lực giấu phần ăn củ sen của vị Đạo Trưởng Mahākañcana liên tiếp 3 ngày.

Ngày đầu, từ trong cốc đi ra đến tảng đá không thấy phần ăn củ sen của mình, Đức Bồ Tát đạo sĩ Mahā-kañcana nghĩ rằng: “Hôm nay, vị đạo sĩ ấy quên chia phần ăn của ta rồi.”

Ngày thứ hai, cũng không thấy phần ăn củ sen của mình, Đức Bồ Tát đạo sĩ Mahākañcana nghĩ rằng: “Chắc ta có lỗi gì, nên vị ấy không chia phần ăn củ sen cho ta.” 

Ngày thứ ba, cũng không thấy phần ăn củ sen của mình, Đức Bồ Tát đạo sĩ Mahākañcana nghĩ rằng: “Do nguyên nhân gì mà quý vị không chia phần ăn củ sen cho ta suốt 3 ngày nay? Nếu ta có lỗi thì ta nên xin lỗi, rồi ta xin quý vị tha thứ lỗi cho ta.”

Nghĩ như vậy, chiều hôm ấy, Đức Bồ Tát đạo sĩ Mahākañcana đánh tấm kiểng đá báo hiệu.

Nghe tiếng kiểng, tất cả các vị đạo sĩ cùng nhau đến tụ hội tại nơi quy định. Một vị đạo sĩ hỏi rằng:

- Kính thưa quý vị, vị nào đánh kiểng, có điều gì xảy ra vậy?

Đức Bồ Tát đạo sĩ Mahākañcana bảo rằng:

- Này quý vị, chính tôi là người đánh kiểng.

Các vị đạo sĩ thưa rằng:

- Kính bạch Thầy, do nguyên nhân gì mà Thầy đánh kiểng vậy?

Đức Bồ Tát Mahākañcana hỏi rằng:

- Này quý vị! 3 ngày qua liên tục, 3 vị nào có phận sự đi tìm củ sen vậy?

Một vị đạo sĩ đứng dậy chắp 2 tay thưa rằng:

- Kính bạch Thầy, ngày hôm kia cách nay 3 hôm, phiên con đi tìm củ sen. Bạch Thầy.

- Này con! Ngày hôm ấy, con có nhớ chia phần củ sen cho thầy hay không?

- Kính bạch Thầy, ngày hôm ấy, con đã chọn lựa những củ sen ngon nhất làm phần ăn để kính dâng cho Thầy trước. Bạch Thầy.

- Này quý vị! Ngày hôm qua cách nay 2 hôm, vị nào đi tìm củ sen vậy?

Một vị đạo sĩ đứng dậy chắp 2 tay thưa rằng:

- Kính bạch Thầy, ngày hôm qua, phiên con đi tìm củ sen. Bạch Thầy.

- Này con! Ngày hôm qua, con có nhớ chia phần ăn củ sen cho thầy hay không?

- Kính bạch Thầy, hôm qua, con đã chọn lựa những củ sen ngon nhất làm phần ăn để kính dâng cho Thầy trước. Bạch Thầy.

- Này quý vị! Ngày hôm nay, vị nào đi tìm củ sen vậy?

Một vị đạo sĩ đứng dậy chắp 2 tay thưa rằng:

- Kính bạch Thầy, ngày hôm nay, phiên con đi tìm củ sen. Bạch Thầy.

- Này con! Ngày hôm nay, con có nhớ chia phần ăn củ sen cho thầy hay không?

- Kính bạch Thầy, hôm nay, con đã chọn lựa những  củ sen ngon nhất làm phần ăn để kính dâng cho Thầy trước. Bạch Thầy.

Nghe 3 vị đạo sĩ bạch như vậy, Đức Bồ Tát đạo sĩ Mahākañcana bảo rằng:

- Này quý vị! Suốt 3 ngày qua, thầy đến tảng đá để nhận phần ăn của mình, nhưng không được phần ăn củ sen nào cả.

* Ngày đầu, thầy nghĩ rằng: “Vị chia phần ăn, quên phần của ta rồi.”

* Ngày hôm qua, thầy nghĩ rằng:“Chắc ta có lỗi gì?”

* Ngày hôm nay, thầy nghĩ rằng: “Ta nên đánh kiểng, báo quý vị đến tụ hội tại nơi này. Nếu ta có lỗi thì ta nên xin lỗi quý vị.”

 Đó là nguyên nhân mà thầy đánh kiểng chiều nay.

Nay, thầy đã nghe 3 vị làm phận sự tìm củ sen trong 3 ngày qua, đều có chia phần ăn củ sen cho thầy, nhưng sự thật, thầy không nhận được phần ăn củ sen.

Vậy, ai là người ăn cắp phần ăn củ sen ấy?

Thật ra, ăn cắp phần ăn củ sen, đó là điều đáng trách đối với bậc đã từ bỏ nhà cửa, của cải đi xuất gia trở thành đạo sĩ như chúng ta.

Nghe Đức Bồ Tát đạo sĩ Mahākañcana dạy bảo như vậy, tất cả các vị đạo sĩ đều phát sinh tâm ghê sợ tội lỗi mà thốt lên kinh ngạc rằng: “Ô! Tội lỗi thật!”

 Khi ấy, vị thiên nam ngự trên cây trong rừng gần hồ nước, hiện xuống dưới đất, đến ngồi nơi hội họp ấy; một con voi phá chuồng, chạy trốn trong rừng, thỉnh thoảng đến đảnh lễ chư đạo sĩ, cũng đến đứng nơi ấy; một con khỉ bị thầy bắt rắn bắt buộc diễn trò với con rắn hổ mang, nên chạy trốn vào rừng sống gần hồ nước cũng đến ngồi nơi ấy; Đức Vua trời Sakka hiện xuống ẩn mình không để ai thấy cũng chứng kiến tại nơi ấy.

Khi ấy, vị đạo sĩ Upakañcana em trai kế của Đức Bồ Tát đạo sĩ Mahākañcana đứng dậy thành kính đảnh lễ Đức Bồ Tát đạo sĩ Mahākañcana huynh trưởng, và kính trọng các vị đạo sĩ, với lòng tôn kính xin bạch rằng:

- Kính bạch Thầy, xin Thầy cho phép con bộc bạch sự trong sạch của con có được không?

Nghe Upakañcana bạch như vậy, Đức Bồ Tát đạo sĩ bảo rằng:

- Này Upakañcana! Thầy cho phép con bộc bạch sự trong sạch của con tự nhiên.

Những Lời Thề Gọi Là Độc Địa

* Vị đạo sĩ Upakañcana đứng giữa nhóm đạo sĩ bộc bạch sự trong sạch của mình, xin thề với lời độc địa rằng:

- Kính bạch Thầy, nếu người nào ăn cắp phần ăn củ sen của Thầy thì xin cho người ấy có được nhiều ngựa, nhiều bò, nhiều vàng bạc, có được người vợ xinh đẹp dễ thương thật đáng yêu quý nhất, có nhiều con trai con gái thật dễ thương.

Sở dĩ, đó gọi là lời thề độc địa là vì vị đạo sĩ ấy thấy những thứ vật dục ấy có nhiều chừng nào, thì nỗi khổ thân, khổ tâm cũng có nhiều chừng ấy, bởi vì những thứ ấy đều vô thường, là khổ cả.

 Vị đạo sĩ này là người lánh xa ngũ dục (sắc dục, thanh dục, hương dục, vị dục, xúc dục) có tâm nhàm chán trong ngũ dục, bởi vì đó là 5 đối tượng ràng buộc.  

Các vị đạo sĩ khác thấy rõ, biết rõ tội lỗi của vật dục (vatthukāma) và phiền não dục (kilesakāma). Vì vậy, khi nghe vị đạo sĩ Upakañcana thề độc địa như vậy, các vị đạo sĩ đều bịt 2 lỗ tai lại. Còn Đức Bồ Tát đạo sĩ Mahākañcana bảo rằng: 

- Này Upakañcana! Lời thề của con thật là độc địa quá!  Con không ăn cắp củ sen thật sự.

Vậy, con nên ngồi xuống chỗ ngồi của mình.

* Tiếp theo vị đạo sĩ em trai thứ nhì đứng dậy thành kính đảnh lễ Đức Bồ Tát đạo sĩ Mahākañcana, xin bộc bạch sự trong sạch của mình, xin thề với lời độc địa rằng: 

- Kính bạch Thầy, nếu người nào ăn cắp phần ăn củ sen của Thầy thì xin cho người ấy thích trang sức, thoa bột trầm đỏ thơm tho, mặc vải từ vùng Kāsi, là người có nhiều con trai con gái dễ thương, là người say mê đắm đuối trong ngũ dục.

Bởi vì, người nào say mê đắm đuối trong ngũ dục thì người ấy phải chịu bao nhiêu là nỗi khổ.

* Tiếp theo cũng như vậy, vị đạo sĩ em trai thứ ba xin thề với lời độc địa rằng:

- Kính bạch Thầy, nếu người nào ăn cắp phần ăn củ sen của Thầy thì xin cho người ấy là người tại gia có nhiều ruộng đất, nhiều lúa gạo đầy kho, nhiều của cải ngọc ngà châu báu, nhiều con trai con gái, có danh tiếng, say mê trong ngũ dục, người ấy sống tại gia như vậy, không thấy sự già, sự bệnh của mình.

Bởi vì, người sống tại gia có đầy đủ ngũ dục, chắc chắn sẽ có nhiều nỗi khổ lớn lao.

* Tiếp theo cũng như vậy, vị đạo sĩ em trai thứ tư xin thề với lời độc địa rằng: 

 - Kính bạch Thầy, nếu người nào ăn cắp phần ăn củ sen của Thầy thì xin cho người ấy được làm lễ đăng quang lên ngôi vua có nhiều quyền lực, có sức mạnh, xâm chiếm các nước khác làm nước chư hầu, trị vì đất nước rộng lớn có 4 biển làm ranh giới.

Bởi vì, thấy tội lỗi trong ngôi vị đế vương. Đức Vua  càng lớn thì càng có nhiều nỗi khổ.

* Tiếp theo cũng như vậy, vị đạo sĩ em trai kế thứ năm xin thề với lời độc địa rằng: 

- Kính bạch Thầy, nếu người nào ăn cắp phần ăn củ sen của Thầy thì xin cho người ấy là vị thầy Bà-la-môn say mê trong sự xem sao, đoán số không bao giờ biết chán, được Đức Vua, các quan, các phú hộ, … thường đến lễ bái cúng dường người ấy.

Bởi vì, tâm tham ái trong lễ vật cúng dường là nhân sinh khổ thân, khổ tâm.

* Tiếp theo cũng như vậy, vị đạo sĩ em trai kế thứ sáu xin thề với lời thề độc địa rằng: 

- Kính bạch Thầy, nếu người nào ăn cắp phần ăn củ sen của Thầy thì xin cho người ấy được mọi người trong đời suy tôn là người tài giỏi về môn tụng thần chú; người ấy được nổi danh lan truyền khắp mọi nơi, nên có nhiều người đem các phẩm vật đến lễ bái cúng dường người ấy.  

Bởi vì, thấy tội lỗi trong lễ vật cúng dường.

* Tiếp theo cũng như vậy, vị đạo sĩ bạn hữu xin thề với lời độc địa rằng: 

- Kính bạch Thầy, nếu người nào ăn cắp phần ăn củ

sen của Thầy thì xin cho người ấy được Đức Vua ban cho xóm làng trù phú để lấy thuế, lúc nào cũng phát sinh tâm tham hoan hỷ cho đến chết.

Bởi vì, thấy tội lỗi trong của cải tài sản.

* Tiếp theo cũng như vậy, vị đạo sĩ tớ trai xin thề với lời thề độc địa rằng: 

- Kính bạch Thầy, nếu người nào ăn cắp phần ăn củ sen của Thầy thì xin cho người ấy được Đức Vua ban ân huệ làm chủ một vùng trù phú, ngày đêm thưởng thức ca

hát, nhảy múa vui chơi trong đám bạn hữu. Xin đừng gặp điều không may nào xảy ra cả.

Bởi vì, thấy rõ, biết rõ tội lỗi trong vật dục và phiền não dục là nhân sinh khổ.

* Tiếp theo cũng như vậy, nữ đạo sĩ Kañcanadevī em gái út  xin thề với lời độc địa rằng: 

- Kính bạch Thầy, nếu người nữ nào ăn cắp phần ăn củ sen của Thầy thì xin cho người nữ ấy được Đức Vua cao cả nhất trên trái đất, tấn phong người nữ ấy là đệ nhất Chánh cung Hoàng hậu cao cả nhất đứng đầu trong 16 ngàn hoàng hậu, cung phi mỹ nữ.

Bởi vì, nữ đạo sĩ có tâm nhàm chán trong ngũ dục, xem ngũ dục ví như đống phẩn có mùi hôi thối nên tránh xa, thấy rõ, biết rõ tội lỗi trong ngũ dục.

 * Tiếp theo cũng như vậy, nữ đạo sĩ tớ gái xin thề với lời độc địa rằng: 

- Kính bạch Thầy, nếu tớ gái nào ăn cắp phần ăn củ sen của Thầy thì xin cho tớ gái ấy không biết sợ sệt, ngồi ăn chung những món ăn ngon với những người chủ.

Bởi vì, người tớ gái ngồi ăn chung với chủ, đó là điều bất hạnh.

* Tiếp theo vị thiên nam xin thề với lời độc địa rằng: 

- Kính bạch vị Đạo Sư, nếu thiên nam nào ăn cắp phần ăn củ sen của Đạo Sư thì xin cho kiếp sau của thiên nam ấy sẽ là vị Đại Đức trụ trì một ngôi chùa lớn cũ tại kinh thành lớn, nên thường sửa chữa, làm mọi công việc hằng ngày, là vị Đại Đức ham mê làm việc suốt ngày.

Bởi vì, trong thời kỳ Đức Phật Kassapa, tiền kiếp vị thiên nam này đã từng là vị Đại Đức trụ trì một ngôi chùa lớn cũ, nên phải sửa chữa, làm mọi công việc hằng ngày, phải chịu bao nhiêu khổ cực. Do đó, tưởng nhớ lại tiền kiếp của mình mà kinh sợ.

 * Tiếp theo con voi cũng xin thề với lời độc địa rằng: 

- Kính bạch vị Đạo Sư, nếu con voi nào ăn cắp phần ăn củ sen của Đạo Sư thì xin cho con voi ấy bị buộc 4 chân, cổ và eo buộc bằng sợi dây xích chắc chắn, bị dắt ra khỏi rừng yên tịnh này, dẫn về kinh thành, bị đâm bằng lưỡi giáo, bị móc bằng câu móc.

 * Tiếp theo con khỉ cũng xin thề với lời độc địa rằng: 

- Kính bạch vị Đạo Sư, nếu con khỉ ăn cắp phần ăn củ sen của  Đạo Sư thì xin cho con khỉ ấy bị đeo vòng hoa đẹp nơi cổ, bị xỏ lỗ tai, bị đánh bằng roi. Vị thầy rắn tập luyện con khỉ xong, bắt con khỉ ấy diễn trò với rắn hổ mang, bắt đến gần miệng rắn hổ mang. Con khỉ ấy bị buộc cổ dắt đi diễn trò với rắn hổ mang theo các ngõ đường trong kinh thành.

Nghe 13 vị thề với lời độc địa như vậy, Đức Bồ Tát đạo sĩ Mahākañcana nghĩ rằng: “Không biết có ai nghĩ rằng ta không mất phần ăn củ sen mà nói rằng mất hay không, để bộc bạch sự trong sạch của mình.

Vậy, ta cũng xin thề với lời độc địa trước sự hiện diện của quý vị rằng:

- Này quý vị! Người nào nói dối rằng: “Phần ăn củ sen không mất mà nói mất, hoặc có nghi ngờ người nào, thì xin cho người ấy say mê hưởng mọi thứ ngũ dục (vatthukāma) với tâm phiền não dục (kilesakāma), không được đi xuất gia trở thành đạo sĩ, cho đến chết ở trong gia đình.

Ẩn mình nghe 11 vị đạo sĩ, vị thiên nam và con voi, con khỉ phát biểu cảm tưởng của mình như vậy, mà họ cho rằng: “Đó là lời thề độc địa,” nên Đức Vua trời Sakka nghĩ rằng: “Ta có tác ý giấu phần ăn củ sen của vị Đạo sư suốt 3 ngày qua, để thử nhóm đạo sĩ xem. Nay nghe họ đều tỏ vẻ nhàm chán trong ngũ dục, thấy tội lỗi ngũ dục, như nhổ bãi nước miếng, nên họ đều thề với lời thề mà họ cho là độc địa. ậy, ta nên bạch hỏi nguyên nhân nào mà họ cảm thấy nhàm chán trong ngũ dục như vậy.”

Đức Vua trời Sakka hiển hiện ra ngự đến đảnh lễ Đức Bồ Tát đạo sĩ Mahākañcana, rồi truyền hỏi rằng:   

- Kính bạch Ngài Đạo sư Mahākañcana, phần đông chúng sinh trong đời, mong mỏi, tìm kiếm những ngũ dục, nên tạo ác nghiệp, thiện nghiệp, bởi vì ngũ dục là đối tượng đáng mong ước, đáng hài lòng ưa thích, đáng say mê đối với chúng sinh trong đời này.

Quý Ngài đạo sĩ nhận thức thế nào về ngũ dục mà phát sinh tâm nhàm chán trong ngũ dục như vậy? Bạch Ngài.

Nghe Đức Vua trời Sakka bạch hỏi như vậy, Đức Bồ Tát đạo sĩ Mahākañcana tâu rằng:

- Muôn tâu Đức Vua trời Sakka, bởi vì say mê trong ngũ dục, nên phần đông chúng sinh tạo thân hành ác, khẩu nói ác, để phải chịu mọi cảnh khổ như bị hành hạ đánh đập, bị giam cầm trong nhà tù, bị chém giết.

Bởi vì say mê trong ngũ dục nên phần đông chúng sinh phát sinh tâm dể duôi, quên mình tạo ác nghiệp, mà bậc thiện trí chê trách. Những người ấy phải chịu quả khổ trong kiếp hiện tại. Sau khi chết, nếu ác nghiệp ấy cho quả tái sinh thì sẽ sinh trong 4 cõi ác giới: địa ngục, Atula, ngạ quỷ, súc sinh, chịu quả khổ của ác nghiệp ấy.

Do thấy tội lỗi của ngũ dục như vậy, nên các đạo sĩ cảm thấy nhàm chán trong ngũ dục.

Nghe Đức Bồ Tát đạo sĩ thưa như vậy, Đức Vua trời Sakka bạch thú thật rằng:  

- Kính bạch Ngài Đạo sư Mahākañcana cao thượng, Trẫm muốn thử xem quý vị đạo sĩ có còn hướng tâm đến hưởng thụ ngũ dục hay không, nên mới lấy giấu phần ăn củ sen của Ngài suốt 3 ngày liên tiếp.

Tất cả quý Ngài đạo sĩ đều là những bậc có giới đức trong sạch, hoàn toàn không phạm tội trộm cắp.

- Kính bạch Ngài, đây là 3 phần ăn củ sen của Ngài.

Đức Vua Trời Sakka Bị Quở Trách

Nghe Đức Vua trời Sakka bạch như vậy, Đức Bồ Tát đạo sĩ Mahākañcana tâu rằng:

- Tâu Đức Vua trời Sakka, các vị đạo sĩ chúng tôi không phải những người thuộc hạ của Đức Vua trời, chúng tôi không phải những người để cho Đức Vua trời thử xem như vậy.

Các đạo sĩ chúng tôi không phải thân quyến cũng không phải bạn hữu của Đức Vua trời. Tại sao Đức Vua trời ngự xuống đây coi thường, làm trò đùa với các đạo sĩ chúng tôi như vậy?

Đức Vua Trời Sakka Sám Hối Lỗi Và Xin Nương Nhờ  

Nghe Đức Bồ Tát đạo sĩ Mahākañcana quở trách như vậy, Đức Vua trời Sakka cúi xin lỗi bằng câu kệ rằng:

- Kính bạch Ngài Đạo sư Mahākañcana, bậc hành pháp cao thượng, Trẫm xin Ngài là vị Tôn sư, là Đức Phụ Thân của Trẫm, Trẫm xin nương nhờ bóng mát dưới đôi bàn chân của Ngài,

  Trẫm xin hết lòng thành kính đảnh lễ, xin sám hối Ngài cùng quý vị đạo sĩ, cầu xin quý Ngài tha thứ lỗi cho Trẫm đã phạm đến quý Ngài lần này. Trẫm cầu mong bậc thiện trí có đức nhẫn nại, không ghét bỏ Trẫm. Trẫm xin nương nhờ nơi quý Ngài.

Khi Đức Vua trời Sakka thành tâm sám hối lỗi lầm của mình, Đức Bồ Tát đạo sĩ Mahākañcana tha thứ lỗi cho Đức Vua trời Sakka và khuyên bảo nhóm vị đạo sĩ cũng nên tha thứ lỗi cho Đức Vua trời Sakka nữa.

Vâng lời Thầy, nhóm đạo sĩ đều hoan hỷ tha thứ lỗi cho Đức Vua trời Sakka.

Khi ấy, Đức Bồ Tát đạo sĩ Mahākañcana khuyên dạy nhóm đệ tử rằng:

- Này các con! Tất cả chúng ta được thấy Đức Vua trời Sakka cao cả trên cõi trời Tam thập Tam thiên, đó là đêm vinh hạnh đối với chúng ta sống trong rừng như thế này. Nếu sống tại nhà thì chúng ta không có cơ hội thấy Đức Vua trời Sakka như vậy.

- Này các con! Các con nên phát sinh thiện tâm hoan hỷ, hãy nên tha thứ lỗi cho Đức Vua trời Sakka, bởi vì thầy đã nhận lại được phần ăn củ sen rồi.

Sau đó, Đức Vua trời Sakka thành kính đảnh lễ Đức Đạo sư Mahākañcana và nhóm đạo sĩ, rồi xin phép ngự trở về cõi trời Tam thập Tam thiên.

Tất cả nhóm đạo sĩ thực hành pháp hành thiền định đều chứng đắc các bậc thiền sắc giới và chứng đắc các phép thần thông.

Sau khi nhóm đạo sĩ chết, sắc giới thiện nghiệp cho quả tái sinh lên cõi trời sắc giới phạm thiên.

Sau khi thuyết về tích Bhisajātaka xong, Đức Thế Tôn truyền dạy chư tỳ khưu rằng: 

- Này chư tỳ khưu! Chư đạo sĩ thiện trí tiền bối đều đem ngũ dục ra làm đối tượng để thề với lời thề gọi là độc địa theo cảm tưởng của mình như vậy.

Đức Thế Tôn thuyết về pháp tứ Thánh Đế, tỳ khưu có tâm tham muốn trong ngũ dục, thực hành pháp hành thiền tuệ dẫn đến chứng ngộ chân lý tứ Thánh Đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo - Nhập Lưu Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu tại nơi ấy.


Tích Bhisajātaka Liên Quan Đến Kiếp Hiện Tại.

Trong tích Bhisajātaka này, Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama làm đạo sĩ Mahākañcana trong thời quá khứ. Đến khi Đức Phật Gotama đã xuất hiện trên thế gian thì hậu kiếp của những nhân vật trong tích Bhisajātaka liên quan đến kiếp hiện tại của những nhân vật ấy như sau:

 - Vị đạo sĩ Upakañcana em trai thứ nhất, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại Đức Sārīputta, 

- Vị đạo sĩ em trai thứ nhì, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại Đức Mahāmoggallāna, 

- Vị đạo sĩ em trai thứ ba, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại Đức Mahākassapa, 

- Vị đạo sĩ em trai thứ tư, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại Đức Anuruddha, 

- Vị đạo sĩ em trai thứ năm, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại Đức Puṇṇa, 

- Vị đạo sĩ em trai thứ sáu, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại Đức Ānanda, 

- Vị nữ đạo sĩ Kañcanadevī em gái út, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại Đức Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā, 

- Vị đạo sĩ tớ gái, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại Đức Tỳ khưu ni Khujjuttarā, 

- Đức Vua trời Sakka, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại Đức Kāḷudāyī,

- Vị đạo sĩ tớ trai, nay kiếp hiện tại là cận sự nam Cittagahapati,

- Vị thiên nam cội cây, nay kiếp hiện tại là Dạ xoa   Sātāgira,

- Con voi, nay kiếp hiện tại là voi chúa Pāllileyyaka,

- Con khỉ, nay kiếp hiện tại là con khỉ dâng mật ong đến Đức Phật Gotama tại rừng Pāllileyyaka.

- Đức Bồ Tát đạo sĩ Mahākañcana, nay kiếp hiện tại là Đức Phật Gotama

10 Pháp Hạnh Ba-La-Mật

Tóm lược tích Đức Bồ Tát đạo sĩ Mahākañcana, tiền kiếp của Đức Phật Gotama đã thực hành pháp hạnh xuất gia Ba-la-mật bậc hạ, ngoài ra, còn có pháp hạnh Ba-la-mật khác cũng đồng thời thành tựu như sau:

- Đức Bồ Tát đạo sĩ Mahākañcana đem tất cả của cải làm phước bố thí, đó là pháp hạnh bố thí Ba-la-mật.

- Đức Bồ Tát đạo sĩ Mahākañcana giữ giới trong sạch, đó là pháp hạnh giữ giới Ba-la-mật.

- Đức Bồ Tát đạo sĩ Mahākañcana có trí tuệ suy xét đúng đắn, đó là pháp hạnh trí tuệ Ba-la-mật.

- Đức Bồ Tát đạo sĩ Mahākañcana có sự tinh tấn không ngừng, đó là pháp hạnh tinh tấn Ba-la-mật.

- Đức Bồ Tát đạo sĩ Mahākañcana có đức nhẫn nại, đó là pháp hạnh nhẫn nại Ba-la-mật.

- Đức Bồ Tát đạo sĩ Mahākañcana  phát nguyện bằng lời chân thật, đó là pháp hạnh phát nguyện Ba-la-mật.

- Đức Bồ Tát đạo sĩ Mahākañcana có tâm từ đối với chúng sinh, đó là pháp hạnh tâm từ Ba-la-mật.

- Đức Bồ Tát đạo sĩ Mahākañcana có tâm xả đối với chúng sinh, đó là pháp hạnh tâm xả Ba-la-mật.

Đó là 9 pháp hạnh Ba-la-mật khác cũng đồng thời thành tựu cùng một lúc với pháp hạnh xuất gia Ba-la-mật bậc hạ này.

 

Nhận Xét Về Tích Đức Bồ Tát đạo sĩ Mahākañcana

Pháp hạnh xuất gia Ba-la-mật bậc hạ là 1 trong 10 pháp hạnh Ba-la-mật bậc hạ, cũng là 1 trong 30 pháp hạnh Ba-la-mật mà Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác cần phải thực hành cho được đầy đủ trọn vẹn, để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác (Sammāsambuddha).

Pháp hạnh xuất gia Ba-la-mật đó là đại thiện tâm trong sạch nhàm chán trong ngũ dục (sắc dục, thanh dục, hương dục, vị dục, xúc dục).

Tích Bhisajātaka này, Đức Bồ Tát Mahākañcana, tiền kiếp của Đức Phật Gotama, sinh trong gia đình phú hộ. 

Khi Đức Bồ Tát Mahākañcana trưởng thành, cha mẹ  khuyên bảo Ngài nên cưới vợ, nhưng Ngài khăng khăng từ chối, không chịu cưới vợ, bởi vì Ngài thấy rõ, biết rõ tội lỗi trong ngũ dục.

Không chỉ Đức Bồ Tát Mahākañcana không chịu cưới vợ mà còn làm gương cho 6 người em trai và 1 người em gái cũng không chịu lấy chồng nữa.

Sau khi cha mẹ qua đời, Đức Bồ Tát Mahākañcana đem tất cả của cải khoảng 800 triệu tiền Ấn thời ấy, làm phước thiện đại bố thí đến những người nghèo khổ, rồi dẫn 6 người em trai, 1 người em gái, 1 người bạn hữu, 1 người tớ trai và 1 người tớ gái đi vào rừng Himavanta, xuất gia trở thành đạo sĩ.

Tất cả nhóm vị đạo sĩ đều là những người có tâm nhàm chán trong ngũ dục (sắc dục, thanh dục, hương dục, vị dục, xúc dục).

Bậc xuất gia là người lánh xa ngũ dục (sắc dục, thanh dục, hương dục, vị dục, xúc dục) có tâm nhàm chán trong ngũ dục, thấy tội lỗi trong ngũ dục.

 Như vậy, gọi là Đức Bồ Tát thực hành pháp hạnh xuất gia Ba-la-mật bậc hạ.

 

        (Xong pháp hạnh xuất gia Ba-la-mật bậc hạ)

 

 3.2- Pháp Hạnh Xuất Gia Ba-la-mật Bậc Trung  ( Nekkhamma Upapāramī )

 

Tích Hatthipālajātaka (Hach- thi-pa-lá-cha-tá-ká)

Tích Hatthipālajātaka ([1]) này, Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama sinh làm công tử Hatthipāla thực hành pháp hạnh xuất gia Ba-la-mật bậc trung (nekkham-ma upapāramī). Tích này được bắt nguồn như sau:

Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại ngôi chùa Jetavana gần kinh thành Sāvatthi. Chư tỳ khưu tụ hội tại giảng đường đàm đạo về nhiều người từ bỏ nhà, xuất gia trở thành tỳ khưu trong giáo pháp của Đức Thế Tôn, đông đảo như vậy.

Khi ấy, Đức Thế Tôn ngự đến giảng đường, ngồi trên pháp toà truyền hỏi chư tỳ khưu rằng: 

- Này chư tỳ khưu!  Các con đang đàm đạo với nhau về vấn đề gì vậy?

 Chư tỳ khưu bạch với Đức Thế Tôn về vấn đề như vậy, Đức Thế Tôn truyền dạy rằng:

- Này chư tỳ khưu! Không chỉ kiếp hiện tại Như Lai đã thực hành đầy đủ trọn vẹn 30 pháp hạnh Ba-la-mật, xuất gia trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác thuyết pháp tế độ các hàng Thanh văn, nên có nhiều người từ bỏ nhà, xuất gia trở thành tỳ khưu trong giáo pháp của Như Lai rất đông như vậy, mà còn những tiền kiếp Như Lai khi còn là Đức Bồ Tát từ bỏ nhà, xuất gia trở thành đạo sĩ, cũng có nhiều  người từ bỏ nhà, đi theo Đức Bồ Tát đạo sĩ vào rừng núi Himavanta, xuất gia trở thành đạo sĩ rất đông.

Nghe Đức Thế Tôn truyền dạy như vậy, chư tỳ khưu kính thỉnh Đức Thế Tôn thuyết vê tiền kiếp của Ngài.

 

Tích Hatthipālajātaka 

Khi ấy, Đức Thế Tôn thuyết về tích Hatthipālajātaka được tóm lược như sau:

Trong thời quá khứ, Đức Vua Esukārī ngự tại kinh thành Bārāṇasī, trị vì đất nước Kāsi. Đức Vua Esukārī có vị Quan Thừa tướng vốn là người bạn thân thiết từ thời thơ ấu. Đức Vua và Quan Thừa tướng cả hai đều chưa có con nối dòng. Một hôm Đức Vua Esukārī truyền bảo giao ước với Quan Thừa tướng rằng:

- Này khanh thân mến! Hai chúng ta chưa có con kế thừa. Sau này, nếu bạn có công tử thì Trẫm sẽ truyền ngôi báu cho người công tử của bạn. Hoặc nếu Trẫm có Thái tử thì Thái tử sẽ thừa hưởng gia sản của bạn.

Đức Vua Esukārī và Quan Thừa tướng đã giao ước chắc chắn với nhau như vậy.

Một hôm, Quan Thừa tướng đi lý địa phương thâu thuế của mình, ngồi trên xe trở về kinh thành, đến bên ngoài cửa hướng đông, gặp một người đàn bà khốn khổ tên Bahuputtika có 7 đứa con trai nhỏ: đứa ẳm trên tay, đứa ngồi trên vai, đứa dắt theo sau, còn các đứa khác đi trước, đi sau bà. Quan Thừa tướng hỏi người đàn bà ấy rằng:

- Này người đàn bà khốn khổ! Cha của 7 đứa trẻ này ở đâu vậy?

Người đàn bà thưa rằng:

- Kính thưa quan lớn, cha của 7 đứa con này đâu có thường ở đây.

Quan Thừa tướng hỏi rằng:

- Này người đàn bà khốn khổ! Bà làm cách nào mà có 7 đứa con trai như vậy?

Nghe quan lớn hỏi như vậy, cảm thấy lúng túng, bà nhìn thấy một cây da lớn bên ngoài cửa thành, chỉ tay về phía cây da ấy mà thưa rằng:

- Kính thưa quan lớn, tiện nữ này đến cầu xin chư thiên ngự tại cây da, nên tiện nữ có được 7 đứa con trai như vậy.

Nghe người đàn bà khốn khổ thưa như vậy, Quan Thừa tướng xuống xe, đến chỗ cây da, cầm nhánh cây da lay động, nói lời hăm doạ chư thiên rằng:

- Này chư thiên cội cây! Hằng năm, Đức Vua đã truyền lệnh xuất ra một số tiền 1.000 kahāpaṇa, để làm lễ cúng dường đến các ngươi. Sao ngươi không dâng lên Đức Vua nhiều hoàng tử, nhiều công chúa! Còn người đàn bà khốn khổ kia có ân nghĩa gì đối với ngươi, mà ngươi ban cho bà ấy 7 đứa con trai như vậy!

Kỳ hạn trong khoảng 7 ngày, kể từ ngày hôm nay, nếu nhà ngươi không dâng lên Đức Vua của ta các hoàng tử, đến ngày thứ 7, thì ta sẽ ra lệnh chặt cây da này ra thành từng đoạn nhỏ, đào gốc chặt rễ.

Sau khi nói lời hăm doạ xong, Quan Thừa tướng lên xe vào kinh thành, trở về tư dinh của mình.

Sáng ngày hôm sau, Quan Thừa tướng lại đến cây da cũng nói lời hăm doạ, mỗi buổi sáng như vậy.

Đến sáng ngày thứ 6, Quan Thừa tướng cầm nhánh cây da lay động, dõng dạc nói lời hăm doạ rằng:

 - Này chư thiên cội cây! Chỉ còn 1 đêm nay nữa mà thôi. Nếu các ngươi không chịu dâng lên Đức Vua của ta các hoàng tử thì sáng ngày mai các ngươi phải bị phạt.

Nghe lời dõng dạc hăm doạ của Quan Thừa tướng như vậy, chư thiên cội cây hoảng sợ nghĩ rằng: “Nếu vị Quan Thừa tướng này không được các hoàng tử như ý thì chắc chắn ra lệnh chặt cây da này, làm hư hoại các lâu đài của chúng ta, không còn nơi nương nhờ nữa.

Vậy, chúng ta nên dâng lên Đức Vua các hoàng tử bằng cách nào đây!

Chư thiên cội cây bay đến cầu cứu các Đức tứ Thiên Vương, tâu rõ sự việc xảy ra như vậy. Các Đức tứ Thiên Vương không có khả năng dâng các hoàng tử theo sự yêu cầu của Quan Thừa tướng.

Chư thiên cội cây bay lên cõi trời Tam thập Tam thiên, đến chầu, cầu xin Đức Vua trời Sakka cứu giúp.

Nghe lời khẩn khoản cầu cứu của chư thiên cội cây, Đức Vua trời Sakka suy xét rằng:

Đức Vua Esukārī sẽ có được các hoàng tử xứng đáng, Đức Vua trời Sakka thấy 4 vị thiên nam đã từng tích luỹ nhiều phước thiện xứng đáng tái sinh làm các hoàng tử của Đức Vua Esukārī .

Tiền kiếp của 4 vị thiên nam này là 4 người thợ dệt trong kinh thành Bārāṇasī. Khi làm ra được của cải, chia ra 5 phần, lấy 1 phần đem làm phước thiện bố thí.

Sau khi 4 người thợ chết, thiện nghiệp cho quả tái sinh làm 4 vị thiên nam trong cõi trời Tam thập Tam thiên này. Tiếp theo kiếp sau sẽ tái sinh lên cõi trời Dạ Ma thiên, cõi trời Đâu Suất Đà thiên, cõi trời Hoá Lạc thiên, cõi trời Tha Hoá Tự Tại thiên. Thiện nghiệp cho quả tái sinh trong các cõi trời dục giới.

Nay đến lúc 4 vị thiên nam hết tuổi thọ tại cõi trời Tam thập Tam thiên này, thiện nghiệp sẽ cho quả tái sinh lên cõi trời Dạ Ma thiên.

Thấy rõ, biết rõ như vậy, nên Đức Vua trời Sakka ngự đến lâu đài của 4 vị thiên nam, truyền bảo rằng:

- Này 4 vị thiên nam! Các ngươi nên tái sinh làm người trong cõi người, theo tuần tự tái sinh đầu thai trong lòng Chánh cung Hoàng hậu của Đức Vua Esukārī.

Nghe lời truyền bảo của Đức Vua trời Sakka, 4 vị thiên nam tâu rằng:

- Muôn tâu Đức Vua trời Sakka, chúng thần xin tuân lệnh của Đức Vua, nhưng chúng thần không muốn tái sinh đầu thai trong lòng Chánh cung Hoàng hậu của Đức Vua Esukārī, mà chúng thần sẽ tái sinh đầu thai trong lòng phu nhân Vāseṭṭhī của Quan Thừa tướng.

Khi lớn lên, chúng thần sẽ từ bỏ nhà, xa lánh ngũ dục: sắc dục, thanh dục, hương dục, vị dục, xúc dục, xuất gia trở thành đạo sĩ lúc còn trai trẻ.

Chấp thuận điều kiện của 4 vị thiên nam, Đức Vua trời Sakka ngự trở về truyền bảo với chư thiên cội cây biết như vậy. Chư thiên cội cây vô cùng hoan hỷ đảnh lễ Đức Vua trời Sakka, rồi xin phép trở về chỗ lâu đài tại cây da.

Sáng ngày thứ 7, quan Thừa tướng ra lệnh gọi nhóm lính lực lưỡng đem theo cưa, búa, riều…, dẫn nhóm lính ấy đến cây da, quan Thừa tướng bực bội nói với chư thiên cội cây rằng: 

- Này chư thiên cội cây! Ta chỉ xin các ngươi dâng lên Đức Vua của ta các hoàng tử mà thôi, mà các ngươi không chịu giúp ta. Sáng ngày thứ 7 hôm nay đã hết kỳ hạn, các ngươi phải bị phạt.

Khi ấy, chư thiên cội cây hiện ra từ cây da do oai lực  của mình, thưa với Quan Thừa tướng với lời nhỏ nhẹ rằng:

- Kính thưa Quan Thừa tướng, chúng tôi sẽ ban cho Ngài 4 đứa con trai.

- Này chư thiên cội cây! Không phải ta muốn 4 đứa con trai ấy, mà ta chỉ xin các ngươi hãy kính dâng lên Đức Vua của ta 4 đứa con trai ấy mà thôi.

Chư thiên khẳng định thưa rằng:

- Kính thưa Quan Thừa tướng, chúng tôi chỉ ban cho Ngài 4 đứa con trai ấy mà thôi. 

Quan Thừa tướng khẩn khoản cầu xin rằng:

- Này chư thiên cội cây! Nếu vậy, thì xin chư thiên dâng lên Đức Vua 2 đứa con trai, còn ban cho tôi 2 đứa con trai vậy!

  Chư thiên khẳng định một lần nữa thưa rằng:

- Kính thưa Quan Thừa tướng, chúng tôi không thể kính dâng lên Đức Vua Esukārī, mà chỉ ban cho Ngài cả 4 đứa con ấy mà thôi.

 - Kính thưa Quan Thừa tướng, khi lớn lên, 4 đứa con ấy sẽ từ bỏ nhà đi vào rừng núi Himavanta, sẽ xuất gia trở thành đạo sĩ lúc đang còn trẻ.

Một lần nữa, Quan Thừa tướng khẩn khoản rằng: 

- Này chư thiên cội cây! Xin chư thiên dâng lên Đức Vua cả 4 đứa con trai ấy. Để ngăn cản 4 hoàng tử không xuất gia trở thành đạo sĩ. Đó là phận sự của ta.

Tuy Quan Thừa tướng khẩn khoản van nài như vậy, nhưng chư thiên cũng chỉ ban cho Quan Thừa tướng cả 4 đứa con trai ấy mà thôi, rồi biến mất trở về lâu đài.  

Từ đó về sau, những phẩm vật cúng dường phát sinh đến chư thiên rất nhiều.

Đức Bồ Tát Tái Sinh Đầu Thai

* Đức Bồ Tát Jeṭṭhakadevaputta: Đức Bồ Tát thiên nam trưởng chuyển kiếp (chết) từ cõi trời Tam thập Tam thiên, thiện nghiệp cho quả tái sinh đầu thai vào lòng

phu nhân Vāseṭṭhī của Quan Thừa tướng.

 Đúng 10 tháng, Đức Bồ Tát sinh ra đời, được đặt tên là Hatthipālakumāra: Công tử giữ voi, rồi giao cho người giữ voi nuôi dưỡng, cốt để ngăn cản không cho Đức Bồ Tát công tử Hatthipālakumāra lớn lên từ bỏ nhà, đi xuất trở thành đạo sĩ. Đức Bồ Tát công tử Hatthipāla lớn lên trong gia đình của người giữ voi.

 * Tiếp theo vị thiên nam thứ nhì chuyển kiếp, thiện nghiệp cho quả tái sinh đầu thai vào lòng phu nhân Vāseṭṭhī của Quan Thừa tướng.

Đúng 10 tháng bé trai sinh ra đời, được đặt tên là Assapālakumāra: Công tử giữ ngựa, rồi giao cho người giữ ngựa nuôi dưỡng. Công tử Assapāla lớn lên trong gia đình người giữ ngựa.

* Tiếp theo vị thiên nam thứ ba chuyển kiếp, thiện nghiệp cho quả tái sinh đầu thai vào lòng phu nhân Vāseṭṭhī của Quan Thừa tướng.

Đúng 10 tháng bé trai sinh ra đời, được đặt tên là Gopālakumāra: Công tử giữ bò, rồi giao cho người giữ bò nuôi dưỡng. Công tử Gopāla lớn lên trong gia đình người giữ bò…

* Tiếp theo vị thiên nam thứ tư chuyển kiếp, thiện nghiệp cho quả tái sinh đầu thai vào lòng phu nhân Vāseṭṭhī của Quan Thừa tướng.

Đúng 10 tháng bé trai sinh ra đời, được đặt tên là Ajapālakumāra: Công tử giữ dê, rồi giao cho người giữ dê nuôi dưỡng. Công tử Ajapāla lớn lên trong gia đình người giữ dê…

Để ngăn cản không cho 4 công tử từ bỏ nhà, đi xuất gia trở thành đạo sĩ, nên Quan Thừa tướng ra lệnh mời tất cả mọi đạo sĩ phải rời khỏi đất nước Kāsi, bởi vì Quan Thừa tướng sợ rằng: “Bốn công tử nhìn thấy vị đạo sĩ, rồi sẽ đi xuất gia trở thành đạo sĩ, không có người kế thừa sự nghiệp của mình.”

Được nuôi dưỡng trưởng thành trong mỗi gia đình như vậy, mỗi công tử trở thành đứa trẻ ngỗ nghịch, không biết lễ phép, thích quậy phá mọi người.

Bàn Tính Truyền Ngôi Vua

Bốn công tử đến lúc trưởng thành đều có thân hình phương phi, đặc biệt thân hình Đức Bồ Tát công tử Hatthipāla có những tướng tốt của bậc đại nhân, nhưng tính khí của mỗi công tử lại là ngang tàng ngỗ nghịch.

Bốn công tử được biết là 4 huynh đệ với nhau đều là con của Quan Thừa tướng. Mỗi công tử ở mỗi tư dinh của mình.

Khi Đức Bồ Tát Hatthipāla lên 16 tuổi, Đức Vua Esukārī và Quan Thừa tướng bàn tính với nhau rằng:

Việc truyền ngôi báu cho công tử Hatthipāla và phong chức cho 3 công tử như thế nào đây!

Bởi vì mỗi công tử đều có tính khí ngang tàng ngỗ nghịch, nếu công tử Hatthipāla được làm lễ đăng quang lên ngôi vua, và 3 công tử được phong chức quan trong triều thì chỉ làm cho đất nước Kāsi này bị suy vong mà thôi. Còn nếu có các đạo sĩ đến kinh thành Bārāṇasī này, thì 4 công tử chắc chắn sẽ từ bỏ dinh thự, đi xuất gia trở thành đạo sĩ chỉ làm khổ dân chúng mà thôi.

Bây giờ, Trẫm và khanh nên thử 4 công tử trước, rồi sau đó sẽ tính việc truyền ngôi sau.


Đức Bồ Tát Công Tử Hatthipāla.

Sau khi bàn tính xong, Đức Vua Esukārī và Quan Thừa tướng thay hình đổi dạng, giả làm  2 vị đạo sĩ đi đến khất thực trước cổng tư dinh của Đức Bồ Tát công tử Hatthipāla.

Nhìn thấy 2 vị đạo sĩ, Đức Bồ Tát công tử Hatthipāla vô cùng hoan hỷ ra tận cổng, đảnh lễ dưới đôi bàn chân của 2 vị đạo sĩ, đón rước vào tư dinh, thỉnh ngồi trên chỗ ngồi cao quý, rồi bạch rằng:

- Kính bạch hai Ngài đạo sĩ cao quý, đã lâu lắm rồi, nay con mới gặp hai Ngài đạo sĩ thực hành phạm hạnh cao thượng, thu thúc lục căn thanh tịnh. Thật là đáng tôn kính. 

 Hai Ngài mặc y phục, đội mũ đạo sĩ là bậc diệt mọi phiền não. Con đem hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ quý Ngài bằng thân, khẩu, ý.

  - Kính bạch hai Ngài đạo sĩ cao quý, con vô cùng hoan hỷ phát sinh đức tin trong sạch nơi quý Ngài đạo sĩ thực hành thiện pháp.

Kính thỉnh hai Ngài ngồi trên chỗ ngồi cao quý, độ nước. Con xin lau đôi bàn chân của quý Ngài, xin xoa dầu, bóp đôi chân của quý Ngài. Kính mời thọ nhận những lễ vật cúng dường của con.

Thấy Đức Bồ Tát công tử Hatthipāla vô cùng hoan hỷ đón rước, tiếp đãi rất cung kính, biết lễ phép, nói lời khiêm tốn như vậy, vị đạo sĩ vốn là Quan Thừa tướng phụ thân của Đức Bồ Tát công tử hỏi rằng:

- Này công tử Hatthipāla! Con có biết hai chúng tôi là ai, mà con đã tiếp đãi cung kính với chúng tôi như vậy?

- Kính bạch hai Ngài đạo sĩ cao quý, hai Ngài là đạo sĩ từ rừng núi Himavanta đến đây.

- Này công tử Hatthipāla! Hai chúng tôi không phải là đạo sĩ. Vị này là Đức Vua Esukārī, còn ta là Quan Thừa tướng cha của con đây!

Đức Bồ Tát công tử Hatthipāla hỏi rằng:

- Muôn tâu Đại Vương Esukārī và kính thưa phụ thân, con muốn biết do nguyên nhân gì mà Đại Vương và phụ thân phải thay hình đổi dạng, giả làm vị đạo sĩ như vậy?

Quan Thừa tướng, phụ thân của công tử Hatthipāla trả lời rằng: 

- Này Hatthipāla con yêu quý! Đức Vua và cha giả làm đạo sĩ như vậy, chỉ để thử con mà thôi.

 - Kính thưa phụ thân, Đại Vương và phụ thân thử con như vậy để làm gì?

- Này Hatthipāla con yêu quý! Khi con thấy Đức vua và cha giả làm đạo sĩ, để cho con không muốn xuất gia trở thành đạo sĩ. Nếu được như vậy thì Đức Vua và cha  sẽ làm lễ đăng quang cho con lên ngôi vua, trị vì đất nước Kāsi này.

Nghe phụ thân bảo như vậy, Đức Bồ Tát công tử Hatthipāla thưa rằng:

- Kính thưa phụ thân, con không muốn lên ngôi làm vua, mà con chỉ muốn xuất gia trở thành đạo sĩ mà thôi.

 Nghe công tử Hatthipāla dõng dạc thưa như vậy, Quan Thừa tướng, phụ thân công tử khuyên bảo rằng:

- Này Hatthipāla con yêu quý! Con còn trẻ nên học các bộ môn truyền thống, lên ngôi làm vua, hưởng mọi đối tượng ngũ dục an lạc trong đời, có các hoàng hậu, sinh ra nhiều hoàng tử, nhiều công chúa, để nối dòng dõi.

Đến lúc tuổi già, con mới nên vào rừng núi xuất gia trở thành đạo sĩ.

Người nào xuất gia lúc tuổi già như vậy, người ấy được chư bậc thiện trí tán dương ca tụng.

Nghe phụ thân khuyên dạy như vậy, Đức Bồ Tát công tử Hatthipāla thưa rằng:

- Kính thưa phụ thân, học các bộ môn truyền thống không phải là chân lý, không đem lại sự lợi ích thật sự, ngôi vua cũng vậy. 

- Kính thưa phụ thân, có ai có thể ngăn được sự già, sự bệnh, sự chết bằng quyền lực, bằng các con của mình được đâu!

Của cải tài sản, các con là nguồn gốc của khổ não, là nơi chấp thủ.

Chư bậc thiện trí khuyên dạy nên lánh xa ngũ dục là những đối tượng làm say mê trong đời.

 Mỗi chúng sinh được hiện hữu trong đời đều do quả của nghiệp của chúng sinh ấy đã tạo trong kiếp quá khứ.

- Kính thưa phụ thân, bởi vì tất cả chúng sinh đều có nghiệp là của riêng mình. 

Nghe Đức Bồ Tát công tử Hatthipāla thưa với phụ thân như vậy, Đức Vua Esukārī truyền hỏi công tử rằng:

- Này công tử Hatthipāla! Ngươi nói:Mỗi chúng sinh được hiện hữu trong đời đều do quả của nghiệp của chúng sinh ấy đã tạo trong kiếp quá khứ.” Đó chắc chắn là sự thật.

Tuy nhiên, cha mẹ già của ngươi mong ước được nhìn thấy ngươi sống lâu 100 tuổi, không có bệnh luôn khoẻ mạnh, để phụng dưỡng cha mẹ già. 

Nghe Đức Vua Esukārī truyền bảo như vậy, Đức Bồ Tát công tử Hatthipāla tâu rằng:

- Muôn tâu Đại Vương cao cả, tình bằng hữu với sự già, tình thân thiết với sự chết, nếu có đối với người nào, hoặc người nào biết chắc rằng: “Ta sẽ không chết” thì đôi khi cha mẹ sẽ nhìn thấy người ấy sống lâu 100 tuổi, không có bệnh luôn khoẻ mạnh.

- Muôn tâu Đại Vương cao cả, như người chèo đò ngang chở khách từ bến này sang bến kia, rồi ngược lại như thế nào, thì sự già, sự bệnh thường dắt dẫn sinh mạng của chúng sinh đến sự chết cũng như thế ấy.

Đức Bồ Tát công tử Hatthipāla giảng giải về sinh mạng của chúng sinh ngắn ngủi như vậy, rồi cầu nguyện cho Đức Vua Esukārī rằng:

Xin cầu nguyện cho Đại Vương thân tâm thường được an lạc. Sự già, sự bệnh, sự chết đang theo đuổi kẻ tiện dân đang tâu với Đại Vương.

Kính xin Đại Vương không nên dể duôi trong mọi thiện pháp, không nên say mê trong sinh mạng vô  thường này!

 

Đức Bồ Tát Công Tử Hatthipāla Đi Xuất Gia

Sau khi tâu xong, Đức Bồ Tát công tử Hatthipāla đảnh lễ Đức Vua Esukārī, đảnh lễ Quan Thừa tướng phụ thân của mình, rồi xin phép từ bỏ tư dinh, không màng đến ngôi vua, rời khỏi kinh thành Bārāṇasī, để đi xuất gia trở thành đạo sĩ, nên có một số đông dân chúng cũng xin đi xuất gia theo Đức Bồ Tát công tử Hatthipāla.

Dẫn đoàn tuỳ tùng thuộc hạ dài khoảng 1 do-tuần đến bờ sông Gaṅgā, Đức Bồ Tát công tử Hatthipāla nhìn dòng nước sông Gaṅgā làm đề mục thiền định Āpokasiṇa, thực hành pháp hành thiền định dẫn đến chứng đắc các bậc thiền sắc giới, chứng đắc các phép thần thông tại nơi ấy.

Đức Bồ Tát Hatthipāla nghĩ rằng: “Đoàn tuỳ tùng này sẽ đông đảo lắm, còn có 3 người em trai, cha mẹ, Đức Vua Esukārī, Chánh cung Hoàng hậu của Đức Vua, những người trong hoàng tộc, cùng với toàn thể dân chúng trong kinh thành Bārāṇasī sẽ đi xuất gia trở thành đạo sĩ. Cho nên, ta nên chờ đợi mọi người đến đông đủ.”

Khi ấy, Đức Bồ Tát Hatthipāla ngồi giảng dạy đoàn tuỳ tùng thuộc hạ tại bờ sông Gaṅgā.

 

Công Tử Assapāla

Vào ngày hôm sau, Đức Vua Esukārī và Quan Thừa tướng bàn tính với nhau rằng:

Công tử Hatthipāla không màng đến ngôi vua, dẫn đoàn tuỳ tùng đông đảo đi xuất gia trở thành đạo sĩ, đang nghỉ tại bờ sông Gaṅgā.

Nay, Trẫm cùng ngự với khanh nên đến thử công tử Assapāla như thế nào, rồi sẽ làm lễ đăng quang cho lên ngôi vua.

Sau khi bàn tính xong, Đức Vua Esukārī và Quan Thừa tướng giả làm đạo sĩ ngự đến khất thực trước cổng tư dinh của công tử Assapāla.

Nhìn thấy hai vị đạo sĩ đứng trước cổng tư dinh của mình, công tử Assapāla vô cùng hoan hỷ ra tận cổng, đảnh lễ dưới đôi bàn chân của 2 vị đạo sĩ, đón rước vào tư dinh, thỉnh ngồi trên chỗ ngồi cao quý, rồi bạch với hai vị đạo sĩ rằng:

- Kính bạch hai Ngài đạo sĩ cao quý, đã lâu lắm rồi, nay con mới gặp hai Ngài đạo sĩ thực hành phạm hạnh cao thượng, thu thúc lục căn thanh tịnh. Thật là đáng tôn kính. 

Công tử Assapāla phục vụ hộ độ tiếp đãi hai vị đạo sĩ

như Đức Bồ Tát công tử Hatthipāla.

Thấy công tử Assapāla biết giữ lễ phép, nói lời khiêm

tốn, nên Quan Thừa tướng phụ thân bảo với công tử Assapāla biết sự thật rằng:

- Này Assapāla con yêu quý! Sự thật chúng ta không phải là hai đạo sĩ như con tưởng. Vị này là Đức Vua Esukārī và ta là Quan Thừa tướng, cha của con đây. Đức Vua và cha sẽ làm lễ đăng quang cho con lên ngôi vua, trị vì đất nước Kāsi này.

Nghe phụ thân của mình bảo như vậy, công tử Assapāla thưa rằng:

- Kính thưa phụ thân, khi huynh trưởng Hatthipāla của con đang hiện hữu, sao có thể làm lễ đăng quang cho con lên ngôi vua được!

Quan Thừa tướng phụ thân của công tử Assapāla cho biết rằng:

- Này Assapāla con yêu quý! Huynh trưởng Hatthipāla của con không chịu lên ngôi làm vua, đã xin phép cha, rời khỏi kinh thành Bārāṇasī, đi xuất gia trở thành đạo sĩ rồi.

Công tử Assapāla thưa tiếp rằng:

- Kính thưa phụ thân, hiện nay huynh trưởng Hatthi-pāla của con đang ở đâu vậy?

 - Này Assapāla con yêu quý! Hiện nay huynh trưởng Hatthipāla của con đang ở bến sông Gaṅgā.

Công tử Assapāla dõng dạc thưa với phụ thân rằng:

- Kính thưa phụ thân, con cũng không muốn lên ngôi làm vua, ví như bãi nước miếng mà huynh trưởng Hatthipāla của con đã nhổ bỏ, chẳng lẽ con lại quỳ gối liếm bãi nước miếng ấy sao! Con cũng sẽ đi xuất gia trở thành đạo sĩ theo huynh trưởng Hatthipāla của con.

Công tử Assapāla giảng giải rằng:

- Muôn tâu Đại Vương, kính thưa phụ thân, ngũ dục:

sắc dục, thanh dục, hương dục, vị dục, xúc dục ví như sình lầy làm cho chúng sinh chìm đắm; ngũ dục là những đối tượng dắt dẫn tâm chúng sinh đến sự khổ.

Những chúng sinh nào say mê trong ngũ dục ví như  sình lầy, những chúng sinh ấy bị chìm đắm không thể vượt qua bờ bên kia là Niết Bàn được; những chúng sinh ấy có tâm thấp hèn, phải chịu khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài mà thôi.

- Muôn tâu Đại Vương, kính thưa phụ thân, trước đây, lớn lên trong gia đình người giữ ngựa, con là đứa trẻ ngang tàng ngỗ nghịch, đã tạo nhiều ác nghiệp làm khổ các chúng sinh khác. Khi còn tử sinh luân hồi, quả của ác nghiệp ấy con không thể tránh khỏi được.

Vậy, ngay bây giờ, con ráng thu thúc thân, khẩu, ý tránh xa mọi ác nghiệp, chỉ cố gắng tinh tấn tạo mọi thiện nghiệp mà thôi.

Công tử Assapāla cầu nguyện rằng:  

- Muôn tâu Đại Vương và phụ thân kính yêu, con xin cầu nguyện Đại Vương và phụ thân thân tâm thường được an lạc. Sự già, sự bệnh, sự chết đang theo đuổi con đang tâu với Đại Vương và phụ thân.

 

Công Tử Assapāla Đi Xuất Gia

Công tử Assapāla đảnh lễ Đức Vua Esukārī và phụ thân, rồi xin phép rời khỏi kinh thành Bārāṇasī, dẫn theo đoàn tuỳ tùng thuộc hạ cùng dân chúng theo sau dài 1 do  tuần, đi tìm huynh trưởng Hatthipāla tại bờ sông Gaṅgā.

Nhìn thấy người em thứ nhất, công tử Assapāla cùng với đoàn tuỳ tùng đông đảo đến, huynh trưởng Hatthi-pāla ngồi trên hư không thuyết pháp giảng dạy công tử Assapāla cùng đoàn tuỳ tùng, rồi khuyên rằng:

- Này Assapāla em yêu quý! Đoàn người này chắc chắn sẽ càng đông thêm nữa. Vậy, chúng ta nên chờ đợi tại nơi này.

Nghe huynh trưởng Hatthipāla dạy bảo như vậy, công tử Assapāla vâng lời ở lại chờ đợi.

 

Công Tử Gopāla

Sau khi công tử Assapāla đã xin phép rời khỏi kinh thành Bārāṇasī, đi xuất gia theo Đức Bồ Tát công tử Hatthipāla, vào ngày hôm sau, Đức Vua Esukārī và Quan Thừa tướng giả làm đạo sĩ đi khất thực đến đứng trước cổng tư dinh của công tử Gopāla.

Nhìn thấy hai vị đạo sĩ đứng trước cổng, công tử Gopāla vô cùng hoan hỷ ra tận cổng đảnh lễ dưới hai bàn chân của hai vị đạo sĩ, rồi thỉnh vào tư dinh của mình, thỉnh ngồi trên chỗ ngồi cao quý, phục vụ hộ độ tiếp đãi như hai người anh đã làm, và bạch những lời lẽ như hai người anh đã bạch.

Khi ấy, Quan Thừa tướng truyền bảo cho công tử Gopāla biết rõ sự thật rằng:

- Này công tử Gopāla, con yêu quý! Sự thật chúng ta không phải là hai vị đạo sĩ như con tưởng, mà là Đức Vua Esukārī và Quan Thừa tướng cha của con đây.

Đức Vua và cha sẽ làm lễ đăng quang cho con lên ngôi vua, trị vì đất nước Kāsi này.

Nghe phụ thân của mình bảo như vậy, công tử Assapāla thưa rằng:

- Kính thưa phụ thân, khi hai huynh của con đang hiện hữu, sao có thể làm lễ đăng quang cho con lên ngôi vua được!

Quan Thừa tướng phụ thân của công tử Assapāla cho biết rằng:

- Này Gopāla con yêu quý! huynh trưởng Hatthipāla và huynh Assapāla của con không chịu lên ngôi làm vua, đã xin phép cha, rời khỏi kinh thành Bārāṇasī, đi xuất gia trở thành đạo sĩ. Hiện nay đang ở tại bờ sông Gaṅgā.

 Nghe phụ thân cho biết như vậy, công tử Gopāla vô cùng hoan hỷ thưa rằng:

- Kính thưa phụ thân, đã từ lâu con tha thiết muốn xuất gia trở thành đạo sĩ, mà con chưa tìm ra được con đường xuất gia, cũng như người đi tìm con bò bị lạc đường vào trong rừng.

 Nay, con đã thấy con đường mà hai huynh của con đi rồi, ví như người ấy thấy dấu chân con bò bị lạc đường vào trong rừng.

- Kính thưa phụ thân, con không muốn lên ngôi làm vua, mà chỉ muốn từ bỏ kinh thành Bārāṇasī này, đi theo hai huynh của con xuất gia trở thành đạo sĩ mà thôi.

Công tử Gopāla tâu với Đức Vua Esukārī và thưa phụ thân của mình rằng:

- Muôn tâu Đại Vương Esukārī, như người nuôi bò không thấy con bò lạc đường vào trong rừng sâu như thế nào, cũng như sự lợi ích của sự xuất gia của kẻ tiện dân này bị thất lạc từ lâu. Hôm nay, kẻ tiện dân đã thấy con đường xuất gia ấy rồi, chẳng lẽ kẻ tiện dân này không đi tìm lại sự lợi ích của sự xuất gia của mình hay sao! 

- Muôn tâu Đại Vương, kẻ tiện dân này chắc chắn cũng sẽ đi theo con đường mà hai huynh của kẻ tiện dân này đã đi.

 Công Tử Gopāla Đi Xuất Gia

Công tử Gopāla đảnh lễ Đức Vua và phụ thân, rồi xin phép rời khỏi kinh thành Bārāṇasī, đi theo con đường của hai huynh của mình.

  Khi ấy, quan Thừa tướng phụ thân của công tử Gopāla khẩn khoản yêu cầu rằng:

- Này Gopāla con yêu quý! Xin con chờ 1-2 ngày nữa, để cho Đức Vua và cha thân tâm được ổn định, rồi sau đó con mới đi xuất gia có được không?

Nghe Đức Vua và phụ thân của mình khẩn khoản yêu cầu như vậy, công tử Gopāla tâu rằng:

- Muôn tâu Đại Vương và kính thưa phụ thân, thiện nghiệp nên tạo hôm nay thì không nên khất lại ngày mai. Thiện nghiệp nên tạo hôm nay, thì chỉ nên tạo ngay hôm nay mà thôi.

- Muôn tâu Đại Vương và kính thưa phụ thân,

Người nào khất lần công việc rằng: Công việc nên làm hôm nay khất lại ngày mai, công việc nên làm ngày mai khất lại ngày kia, và cứ như vậy, thì người ấy không được lợi ích của công việc ấy.

Bậc thiện trí biết rằng: Công việc nào vị lai chưa đến công việc ấy không có lợi ích gì. Thiện pháp phát sinh, bậc thiện trí bỏ lỡ sao được!

Sau khi giảng giải như vậy, công tử Gopāla cầu nguyện Đức Vua và phụ thân rằng:

- Muôn tâu Đại Vương và phụ thân kính yêu, con xin cầu nguyện Đại Vương và thân phụ thân tâm thường được an lạc.

Sự già, sự bệnh, sự chết đang đuổi theo con, con xin phép đi xuất gia.  

Công tử Gopāla đảnh lễ Đức Vua và phụ thân, rồi xin phép rời khỏi kinh thành Bārāṇasī, dẫn theo đoàn tuỳ tùng thuộc hạ cùng dân chúng theo sau dài 1 do-tuần, đi tìm 2 người anh của mình tại bờ sông Gaṅgā.

Nhìn thấy em thứ nhì, công tử Gopāla cùng với đoàn tuỳ tùng đông đảo đến, huynh trưởng Hatthipāla ngồi trên hư không thuyết pháp giảng dạy công tử Gopāla cùng đoàn tuỳ tùng.

Công Tử Ajapāla

Sau khi không thể khẩn khoản yêu cầu công tử Gopāla ở lại dù 1-2 ngày cũng không được, Đức Vua và Quan Thừa tướng vô cùng thất vọng.

Qua ngày hôm sau, Đức Vua Esukārī và Quan Thừa tướng giả làm đạo sĩ đi khất thực đến đứng trước cổng tư dinh của công tử Ajapāla.

Nhìn thấy hai vị đạo sĩ đứng trước cổng, công tử Ajapāla vô cùng hoan hỷ ra tận cổng đảnh lễ dưới bàn chân của hai vị đạo sĩ, rồi thỉnh vào tư dinh của mình, thỉnh ngồi trên chỗ cao quý, cung kính tiếp đãi giống như 3 người anh, và bạch lời lẽ cũng như vậy.

Khi ấy, Đức Vua Esukārī và Quan Thừa tướng truyền bảo cho công tử Ajapāla biết sự thật rằng:

- Này công tử Ajapāla, con yêu quý! Sự thật chúng ta không phải là hai vị đạo sĩ như con tưởng, mà là Đức Vua Esukārī và Quan Thừa tướng cha của con đây.

Đức Vua và cha sẽ làm lễ đăng quang cho con lên ngôi vua, trị vì đất nước Kāsi này.

Nghe phụ thân của mình bảo như vậy, công tử Assapāla thưa rằng:

- Kính thưa phụ thân, khi ba huynh của con đang hiện hữu, sao có thể làm lễ đăng quang cho con lên ngôi vua được!

Quan Thừa tướng phụ thân của công tử Assapāla cho biết rằng:

- Này Ajapāla con yêu quý! huynh trưởng Hatthipāla,  huynh thứ nhất Assapāla và huynh thứ nhì Gopāla của con không chịu lên ngôi làm vua, đã xin phép cha, rời khỏi kinh thành Bārāṇasī, đi xuất gia trở thành đạo sĩ. Hiện nay đang ở tại bờ sông Gaṅgā.

 Nghe phụ thân cho biết như vậy, công tử Ajapāla vô cùng hoan hỷ thưa rằng:

- Kính thưa phụ thân, một khi ba người anh của con không chịu lên ngôi làm vua, như nhổ bãi nước miếng, rồi bỏ đi, chẳng lẽ con quỳ gối liếm lại bãi nước miếng của ba người anh của con được hay sao!

- Kính thưa phụ thân, chắc chắn con cũng chỉ đi xuất gia theo ba người anh của con mà thôi.

Nghe công tử Ajapāla dõng dạc thưa như vậy, Đức vua Esukārī và Quan Thừa tướng vô cùng thất vọng, chỉ còn cách khẩn khoản tha thiết công tử Ajapāla rằng:

- Này Ajapāla con yêu quý! Con còn trẻ quá! Đức Vua và cha mẹ còn có bổn phận nuôi dưỡng. Bây giờ con nên lên ngôi làm vua, trị vì đất nước Kāsi này. Đến lúc tuổi già con mới nên xuất gia trở thành đạo sĩ.

Nghe phụ thân khuyên dạy như vậy, công tử Ajapāla thưa rằng:

- Kính thưa phụ thân, thông thường, tất cả chúng sinh, có số chết lúc còn trẻ, có số chết lúc tuổi già, có phải vậy không?

Không có báo hiệu nào để phân biệt chúng sinh nào chết lúc còn trẻ, hoặc chúng sinh nào chết lúc tuổi già.

Riêng phận con, con hoàn toàn không biết chết lúc nào. Vì vậy, tốt nhất con nên xuất gia ngay từ bây giờ.

Công tử Ajapāla tâu rằng:

- Muôn tâu Đại Vương và kính thưa phụ thân, kẻ tiện dân thấy một cô gái xinh đẹp dễ thương, cô gái ấy chết trong thời còn trẻ, chưa kịp hưởng sự an lạc trong đời; và thấy một cậu trai trẻ có thân hình khỏe mạnh, có trí tuệ sáng suốt, thế mà cậu trai trẻ ấy cũng không thoát khỏi tử thần.

- Muôn tâu Đại Vương và kính thưa phụ thân, kẻ tiện dân sẽ lánh xa ngũ dục, từ bỏ tư dinh này, đi ra khỏi kinh thành Bārāṇasī, để đi xuất gia theo 3 người anh của tiện dân.

Kính xin Đức Vua và phụ thân mở lòng đại bi tế độ, cho phép kẻ tiện dân này được phép đi xuất gia.

Sau khi giảng giải như vậy, công tử Gopāla cầu nguyện Đức Vua và phụ thân rằng:

- Muôn tâu Đại Vương và phụ thân kính yêu, con xin cầu nguyện Đại Vương và phụ thân thân tâm thường được an lạc. Sự già, sự bệnh, sự chết đang đuổi theo con, con xin phép đi xuất gia. 

Công Tử Ajapāla Đi Xuất Gia

Công tử Ajapāla đảnh lễ Đức Vua và phụ thân, rồi xin phép rời khỏi kinh thành Bārāṇasī, dẫn theo đoàn tuỳ tùng thuộc hạ cùng dân chúng theo sau dài 1 do-tuần, đi tìm 3 người anh của mình tại bờ sông Gaṅgā.

Nhìn thấy em thứ ba, công tử Ajapāla cùng với đoàn tuỳ tùng đông đảo đến, huynh trưởng Hatthipāla ngồi trên hư không thuyết pháp giảng dạy công tử Ajapāla cùng đoàn tuỳ tùng, rồi khuyên rằng:

- Này Ajapāla em yêu quý! Đoàn người này chắc chắn sẽ càng đông thêm nữa. Vậy, chúng ta nên chờ đợi tại nơi này.

Nghe huynh trưởng Hatthipāla dạy bảo như vậy, công tử Ajpāla vâng lời ở lại chờ đợi.





[ Ðầu trang][Trở về mục lục ][ Trở về trang Thư Viện ]

updated: 2024