|
4- Phước Thiện Cung Kính (Apacāyanakusala)
Apacāyanakusala: Phước thiện cung kính
Định nghĩa Apacāyana:
“Apacāyanti etenā’ti apacāyanaṃ” (Những người có thiện tâm cúi đầu cung kính, do tác ý thiện tâm ấy là nhân khiến cúi đầu cung kính, nên gọi là apacāyanakusala: phước thiện cung kính.)
Một người khi gặp cha, mẹ, ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, thầy, cô giáo, Tỳ khưu, Sa-di,… là những bậc đáng tôn kính, người ấy có tâm tôn kính cúi đầu cung kính, đảnh lễ những bậc đáng tôn kính ấy với thiện tâm trong sạch, không hề mong muốn sẽ được lợi lộc, danh thơm, tiếng tốt nào cả. Như vậy, gọi là phước thiện cung kính. Nếu người nào cúi đầu cung kính, đảnh lễ những bậc đáng tôn kính ấy với hy vọng mong được lợi lộc, danh lợi, v.v…Sự cúi đầu cung kính, đảnh lễ của người ấy không phải là phước thiện cung kính thật sự, mà chỉ là sự cung kính theo thói quen, theo phong tục tập quán mà thôi.
Apacāyanakusala: Phước thiện cung kính có 2 loại:
1- Sāmañña apacāyanakusala: Phước thiện cung kính bình thường: Đó là sự cúi đầu cung kính, đảnh lễ cha mẹ, ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, thầy giáo, cô giáo, …. do nghĩ rằng: “ Ta phải có bổn phận phải cúi đầu cung kính, đảnh lễ những bậc đáng tôn kính của ta.” Cho nên, sự cúi đầu cung kính, đảnh lễ những bậc đáng tôn kính ấy với thiện tâm trong sạch, không hề mong muốn sẽ được lợi lộc, danh thơm, tiếng tốt nào cả. Như vậy, gọi là phước thiện cung kính thông thường.
2- Visesa apacāyanakusala: Phước thiện cung kính đặc biệt: Đó là sự cúi đầu cung kính, đảnh lễ Tam Bảo: Đức Phật Bảo, Đức Pháp Bảo, Đức Tăng Bảo do niệm tưởng đến 9 Ân Đức Phật, 6 Ân Đức Pháp, 9 Ân Đức Tăng với dục giới đại thiện tâm hợp với trí tuệ. Như vậy, gọi là Phước thiện cung kính đặc biệt.
Bậc Đáng Tôn Kính có 3 hạng:
1- Guṇavuḍḍhipuggala: Bậc đáng tôn kính do đức cao: giới đức, định đức, tuệ đức, … 2- Vayavuḍḍhipuggala: Bậc đáng tôn kính do tuổi cao. 3- Jātivuḍḍhipuggala: Bậc đáng tôn kính do dòng dõi cao quý.
Trong 3 bậc đáng tôn kính này, chỉ có sự cung kính, đảnh lễ bậc đáng tôn kính do đức cao và bậc đáng tôn kính do tuổi cao là phước thiện cung kính thật sự mà thôi. Nếu người dân nào cung kính bậc đáng tôn kính do dòng dõi hoàng tộc bởi vì sợ bị trị tội bất kính, hoặc vì muốn được phong chức tước, …thì sự cung kính của người ấy không phải phước thiện cung kính thật sự, mà đó là sự cung kính theo phong tục tập quán. Nếu người dân nào cung kính bậc đáng tôn kính do dòng dõi hoàng tộc do nghĩ đến ân đức của Đức Vua đem lại sự an lành thịnh vượng của đất nước, thì sự cung kính của người ấy cũng có thể gọi là phước thiện cung kính. Đức Phật Gotama có đầy đủ cả 3 Bậc đáng tôn kính: Bậc đáng tôn kính do đức cao thượng, Bậc đáng tôn kính do tuổi cao và Bậc đáng tôn kính do dòng dõi hoàng tộc sakya cao quý. Ngài Đại Đức Rāhula có 2 Bậc đáng tôn kính: Bậc đáng tôn kính do đức cao và Bậc đáng tôn kính do dòng dõi hoàng tộc sakya cao quý. Một số bậc Thánh Arahán có 2 Bậc đáng tôn kính: Bậc đáng tôn kính do đức cao, Bậc đáng tôn kính do tuổi cao. Vì các Ngài xuất thân từ dòng dõi bình dân. … Trong pháp luật của Đức Phật, tỳ khưu nhỏ hạ phải cung kính đảnh lễ tỳ khưu cao hạ. Nếu 2 tỳ khưu có hạ bằng nhau thì tỳ khưu xuất gia sau phải cung kính đảnh lễ tỳ khưu xuất gia trước, thậm chí chỉ có trước ít phút thôi. Dù người tại gia, cận sự nam, cận sự nữ là bậc Thánh nhân cũng phải nên cung kính đảnh lễ tỳ khưu phàm nhân. Người con thường có bổn phận cúi đầu cung kính, đảnh lễ cha mẹ, ông bà của mình, nhưng nếu khi người con trai ấy đã xuất gia trở thành Tỳ khưu có giới của Tỳ khưu, thì không còn đảnh lễ cha mẹ, ông bà của mình là người tại gia nữa, chỉ cần tỏ vẻ cung kính trong tâm là đủ. Guṇavuḍḍhipuggala: Bậc đáng tôn kính do 5 đức cao là giới đức, định đức, tuệ đức, giải thoát đức, giải thoát tri kiến đức cao thượng luôn luôn được mọi chúng sinh cung kính, đảnh lễ, cúng dường.
Đức Vua Trời Sakka Đảnh Lễ
Kinh Satthāravandanāsutta được tóm lược như sau:
Đức Thế Tôn truyền dạy chư tỳ khưu rằng: - Này chư tỳ khưu! Chuyện từng có, Đức Vua trời Sakka cõi trời Tam thập Tam thiên truyền bảo thiên nam Mātali đánh xe rằng: - Này Mātali! Ngươi hãy chuẩn bị cổ long xa được kéo bởi 1000 con ngựa báu, để Trẫm ngự đi du lãm vườn thượng uyển. Tuân theo lệnh Đức Vua trời Sakka, thiên nam Mātali đã chuẩn bị cổ long xa xong, rồi tâu với Đức Vua trời Sakka rằng: - Muôn tâu Đức Thiên Vương, cổ long xa được kéo bởi 1000 con ngựa báu đã sẵn sàng. - Này chư tỳ khưu! Khi ấy, Đức Vua trời Sakka từ trên lâu đài Vejayanta ngự bước xuống, chắp 2 tay đưa lên trán hướng về đảnh lễ Đức Thế Tôn. - Này chư tỳ khưu! Khi ấy, thiên nam Mātali tâu với Đức Vua trời Sakka rằng: - Muôn tâu Đức Thiên Vương, tất cả chư thiên và nhân loại đều cung kính, đảnh lễ Đức Thiên Vương. - Muôn tâu Đức Thiên Vương, nay Bệ hạ cung kính đảnh lễ Bậc đáng tôn kính ấy là Bậc nào? Đức Vua trời Sakka truyền dạy thiên nam Mātali rằng: - Này Mātali! Trẫm cung kính đảnh lễ Đức Phật Chánh Đẳng Giác, Bậc cao thượng nhất trong cõi người, các cõi trời dục giới, cõi trời sắc giới, vô sắc giới. - Này thiên nam Mātali! Trẫm cung kính đảnh lễ chư Thánh A-ra-hán đã diệt đoạn tuyệt được tất cả tham, sân, si không còn dư sót. - Này thiên nam Mātali! Trẫm cung kính đảnh lễ 3 bậc Thánh hữu học, không dể duôi, đang tinh tấn thực hành để diệt đoạn tuyệt mọi phiền não, mọi tham ái. Nghe Đức Vua trời Sakka truyền dạy như vậy, vị thiên nam Mātali tâu rằng: - Muôn tâu Đức Thiên Vương, Bệ hạ cung kính, đảnh lễ chư Bậc cao thượng nào trong tam giới này, kẻ hạ thần cũng xin cung kính đảnh lễ chư Bậc cao thượng ấy. Sau khi truyền bảo như vậy xong, Đức Vua trời Sakka cung kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, rồi lên ngồi trên cổ long xa được kéo bởi 1000 con ngựa báu ngự đi du lãm vườn thượng uyển.
* Kinh Saṃghavandanāsutta được tóm lược như sau:
- Này chư tỳ khưu! Chuyện từng có, Đức Vua trời Sakka cõi trời Tam thập Tam thiên truyền bảo thiên nam Mātali đánh xe rằng: - Này Mātali! Ngươi hãy chuẩn bị cổ long xa được kéo bởi 1000 con ngựa báu, để Trẫm ngự đi du lãm vườn thượng uyển. Tuân theo lệnh Đức Vua trời Sakka, thiên nam Mātali đã chuẩn bị cổ long xa xong, rồi tâu với Đức Vua trời Sakka rằng: - Muôn tâu Đức Thiên Vương, cổ long xa được kéo 1000 con ngựa báu đã sẵn sàng. - Này chư tỳ khưu! Khi ấy, Đức Vua trời Sakka từ trên lâu đài Vejayanta ngự bước xuống, chắp 2 tay đưa lên trán đảnh lễ chư tỳ khưu Tăng. - Này chư tỳ khưu! Khi ấy, thiên nam Mātali tâu với Đức Vua trời Sakka rằng: - Muôn tâu Đức Thiên Vương, chư tỳ khưu vốn từng nằm trong bụng mẹ suốt 10 tháng đầy dơ dáy đói khát. - Muôn tâu Đức Thiên Vương, do nguyên nhân nào mà Bệ hạ lại cung kính, đảnh lễ chư tỳ khưu không có nhà như vậy. Kính xin Bệ hạ truyền dạy cho hạ thần hiểu biết về chư tỳ khưu ấy có đức hạnh cao thượng như thế nào? Đức Vua trời Sakka truyền dạy thiên nam Mātali rằng: - Này Mātali! Trẫm cung kính đảnh lễ chư tỳ khưu không có nhà ấy, bởi vì các Ngài đã từ bỏ nhà, không còn quan tâm lưu luyến đến nhà nữa, các Ngài không cất giữ lúa gạo trong kho, trong hũ, trong nồi. Các Ngài thực hành hạnh đi khất thực, nhận vật thực mà người ta đã nấu chín rồi, các Ngài duy trì sinh mạng bằng món vật thực ấy. Chư tỳ khưu ấy là bậc thiện trí thường nói lời hay hữu ích, luôn luôn thực hành hạnh cao thượng. - Này Mātali! Nhóm chư thiên còn hận thù với nhóm Asura, phần đông chúng sinh hay giận hờn với nhau. Chư tỳ khưu ấy không còn sân hận nữa, đã diệt được mọi phiền não bên trong mình rồi. Khi mọi người còn chấp thủ, các Ngài không còn chấp thủ nữa. - Này Mātali! Trẫm cung kính, đảnh lễ chư tỳ khưu Tăng ấy, Nghe Đức Vua trời Sakka truyền dạy như vậy, vị thiên nam Mātali tâu rằng: - Muôn tâu Đức Thiên Vương, Bệ hạ cung kính, đảnh lễ chư tỳ khưu Tăng cao thượng nào trong đời này, kẻ hạ thần cũng xin cung kính đảnh lễ chư tỳ khưu Tăng cao thượng ấy. Sau khi truyền bảo như vậy xong, Đức Vua trời Sakka cung kính đảnh lễ chư tỳ khưu Tăng, rồi lên ngồi trên cổ long xa được kéo bởi 1000 con ngựa báu ngự đi du lãm vườn thượng uyển.
*Kinh Gagaṭṭhavandanāsutta được tóm lược như sau:
- Này chư tkhưu! Chuyện từng có, Đức Vua trời Sakka cõi trời Tam thập Tam thiên truyền bảo thiên nam Mātali đánh xe rằng: - Này Mātali! Ngươi hãy chuẩn bị cổ long xa được kéo bởi 1000 con ngựa báu, để Trẫm ngự đi du lãm vườn thượng uyển. Tuân theo lệnh Đức Vua trời Sakka, thiên nam Mātali đã chuẩn bị cổ long xa xong, rồi tâu với Đức Vua trời Sakka rằng: - Muôn tâu Đức Thiên Vương, cổ long xa được kéo bởi 1000 con ngựa báu đã sẵn sàng. - Này chư tỳ khưu! Khi ấy, Đức Vua trời Sakka từ trên lâu đài Vejayanta ngự bước xuống, chắp 2 tay đảnh lễ vòng quanh 8 hướng. - Này chư tỳ khưu! Khi ấy, thiên nam Mātali tâu với Đức Vua trời Sakka rằng: - Muôn tâu Đức Thiên Vương, các Bà-la-môn thông suốt các bộ môn, các Đức Vua trong toàn cõi người, tất cả mọi người, 4 Đức Đại Thiên Vương, toàn thể chư thiên cõi trời tứ Đại Thiên vương, toàn thể chư thiên cõi trời Tam thập Tam thiên đều cung kính, đều đảnh lễ Bệ hạ. - Muôn tâu Đức Thiên Vương, do nguyên nhân nào mà Bệ hạ lại cung kính, đảnh lễ vòng quanh 8 hướng. Kính xin Bệ hạ truyền dạy cho hạ thần hiểu biết về những hạng người có đức hạnh cao thượng ấy như thế nào? Đức Vua trời Sakka truyền dạy thiên nam Mātali rằng: - Này Mātali! Trẫm cung kính đảnh lễ các bậc xuất gia thực hành hạnh cao thượng, có giới đức trong sạch, có định tâm vững chắc, có trí tuệ hiểu biết rõ thực tánh của các pháp; những người tại gia là cận sự nam, cận sự nữ có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, thường tạo phước thiện bố thí, có giới hạnh trong sạch, biết ơn và biết đền ơn, biết lo phụng dưỡng cha mẹ, biết tế độ vợ con, bạn hữu, thân quyến. - Này Mātali! Trẫm cung kính, đảnh lễ những hạng người ấy. Nghe Đức Vua trời Sakka truyền dạy như vậy, vị thiên nam Mātali tâu rằng: - Muôn tâu Đức Thiên Vương, Bệ hạ cung kính, đảnh lễ những hạng người cao thượng nào trong đời này, kẻ hạ thần cũng xin cung kính đảnh lễ những hạng người cao thượng ấy. Sau khi truyền bảo như vậy xong, Đức Vua trời Sakka cung kính lễ những hạng người cao thượng ấy, rồi lên ngồi trên cổ long xa được kéo bởi 1000 con ngựa báu ngự đi du lãm vườn thượng uyển.
Tích Vandanavimānavatthu ([1])
Một thuở nọ Đức Thế Tôn ngự tại ngôi chùa Jetavana, gần kinh thành Sāvatthi. Khi ấy, một nhóm đông tỳ khưu Tăng an cư nhập hạ gần tại một xóm làng suốt 3 tháng mùa mưa xong, sau khi làm lễ Pavāraṇā: Lễ thỉnh mời chư Tăng chỉ lỗi, một đoàn tỳ khưu Tăng lên đường đi đến kinh thành Sāvatthi, để hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn. Trên đường đi ngang qua xóm nhà, một cận sự nữ nhìn thấy đoàn chư tỳ khưu Tăng, cô liền phát sinh đức tin trong sạch, ngồi xuống đất chắp 2 tay cúi đầu cung kính đảnh lễ 3 lần chư tỳ khưu Tăng ấy, với đại thiện tâm vô cùng hoan hỷ, rồi ngồi chắp tay nhìn theo đoàn chư tỳ khưu Tăng đi cho đến khi khuất tầm mắt. Về sau, người cận sự nữ chết, thiện nghiệp cung kính đảnh lễ chư tỳ khưu Tăng ấy cho quả tái sinh làm thiên nữ xinh đẹp có nhiều oai lực, có hào quang rực rỡ tỏa khắp mọi nơi trong lâu đài nguy nga tráng lệ tại cõi trời Tam thập Tam thiên, hưởng mọi sự an lạc trong cõi trời. Một hôm, Ngài Đại Đức Mahāmoggallāna lên cõi trời Tam thập Tam thiên, thiên nữ đến cung kính đảnh lễ Ngài Đại Đức, Ngài hỏi thiên nữ rằng: - Này thiên nữ! Cô có thân hình rất xinh đẹp, có nhiều oai lực, có hào quang rực rỡ tỏa ra khắp mọi nơi như một ngôi sao sáng, có đầy đủ các thứ của cải quý báu phát sinh lên cô như vậy. - Này thiên nữ! khi ở cõi người, tiền kiếp của cô đã tạo phước thiện nào, mà nay kiếp hiện tại là thiên nữ xinh đẹp, có nhiều oai lực, có hào quang rực rỡ tỏa ra khắp mọi nơi như vậy? Nghe Ngài Đại Đức Mahāmoggallāna hỏi như vậy, thiên nữ vô cùng hoan hỷ bạch rằng: - Kính bạch Ngài Đại Đức, khi ở cõi người, nhìn thấy đoàn chư tỳ khưu Tăng có giới đức đi đường, con phát sinh đức tin trong sạch ngồi xuống chắp tay cung kính đảnh lễ chư tỳ khưu Tăng với đại thiện tâm trong sạch. Sau khi con chết, phước thiện cung kính đảnh lễ chư tỳ khưu Tăng ấy cho quả tái sinh lên cõi trời Tam thập Tam thiên này, con là thiên nữ có thân hình xinh đẹp, có hào quang rực rỡ tỏa ra khắp mọi nơi như thế này, và mọi thứ của cải quý báu được phát sinh cũng do nhờ quả của phước thiện cung kính đảnh lễ ấy. - Kính bạch Ngài Đại Đức, khi ở cõi người, con đã tạo phước thiện cung kính đảnh lễ chư tỳ khưu Tăng như vậy, nên kiếp hiện tại này con được xinh đẹp, có hào quang rực rỡ tỏa ra khắp mọi phương hướng như vậy.
Quả Báu Của Pháp Cung Kính
Đức Phật dạy câu kệ Dhammapadagāthā số 109 rằng:
“Abhivādanasīlissa, niccaṃ vuḍḍhāpaccāyino. Cattāro dhammā vaḍḍhanti, āyu vaṇṇo sukhaṃ balaṃ.”
- Này chư Tỳ khưu! Bốn pháp là tuổi thọ, sắc đẹp, sự an lạc của thân tâm, sức mạnh của thân tâm được tăng trưởng đối với người thường có pháp cung kính, đảnh lễ bậc đáng tôn kính.) Bậc đáng tôn kính là bậc xuất gia Sa-di, tỳ khưu có giới đức trong sạch, có pháp hạnh cao thượng, người tại gia có giới hạnh trong sạch, có mọi phước thiện đầy đủ, có tuổi cao cũng là bậc đáng tôn kính đối với người tại gia. Tuổi thọ của người ấy được tăng trưởng có nghĩa là người ấy có tuổi thọ chừng nào thì sống đến hết tuổi thọ chừng ấy, mà không có một tai họa nào có thể cắt đứt sinh mạng của người ấy trước khi hết tuổi thọ. Sắc đẹp, sự an lạc, sức mạnh tùy theo tuổi thọ của người ấy.
Đức Phật Tôn Kính Pháp Bảo
Đức Phật thuyết dạy kinh Gāravasutta ([1])
Một thuở nọ, sau khi trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác có danh hiệu Đức Phật Gotama, trong tuần lễ thứ năm Đức Thế Tôn ngự tại cội cây Ajapālanigrodha (về phía Đông, cách cội Đại Bồ Đề khoảng 32 sải tay) bên bờ sông Nerañjarā, gần khu rừng Uruvelā, (từ ngày 14 tháng 5 đến 20 tháng 5). Khi ấy, điều tư duy phát sinh đối với Đức Thế Tôn tại nơi thanh vắng ấy rằng: “Con người không có nơi tôn kính, không có nơi kính trọng là sống khổ, Như Lai nên cung kính, lễ bái vị Sa-môn hoặc Bà-la-môn nào đây!” Tiếp theo, Đức Thế Tôn suy xét rằng: “ *Như Lai nên tôn kính, kính trọng Sa-môn hoặc Bà-la-môn nào, rồi nương nhờ nơi vị ấy, để cho phần giới (sīlakkhandha) chưa đầy đủ thì được đầy đủ hoàn toàn, nhưng Như Lai không thấy Sa-môn hoặc Bà-la-môn nào khác có đầy đủ hoàn toàn phần giới hơn Như Lai, trong thế giới này, cõi ma- vương, các cõi trời dục giới, các cõi trời sắc giới, chúng sinh muôn loài, chư Sa-môn, chư Bà-la-môn, nhân loại, chư thiên, chư phạm thiên cả thảy. “Vậy, Như Lai sống nên tôn kính, kính trọng phần giới của Như Lai.” . “ *Như Lai nên tôn kính, kính trọng Sa-môn hoặc Bà-la-môn nào, rồi nương nhờ nơi vị ấy, để cho phần định (samādhikkhandha) chưa đầy đủ thì được đầy đủ hoàn toàn, nhưng Như Lai không thấy Sa-môn hoặc Bà-la-môn nào khác có đầy đủ hoàn toàn phần định hơn Như Lai, trong thế giới này, cõi ma- vương, các cõi trời dục giới, các cõi trời sắc giới, chúng sinh muôn loài, chư Sa-môn, chư Bà-la-môn, nhân loại, chư thiên, chư phạm thiên cả thảy.. “Vậy, Như Lai sống nên tôn kính, kính trọng phần định của Như Lai.”. “ *Như Lai nên tôn kính, kính trọng Sa-môn hoặc Bà-la-môn nào, rồi nương nhờ nơi vị ấy, để cho phần tuệ (paññādhikkhandha) chưa đầy đủ thì được đầy đủ hoàn toàn, nhưng Như Lai không thấy Sa-môn hoặc Bà-la-môn nào khác có đầy đủ hoàn toàn phần định hơn Như Lai, trong thế giới này, cõi ma- vương, các cõi trời dục giới, các cõi trời sắc giới, chúng sinh muôn loài, chư Sa-môn, chư Bà-la-môn, nhân loại, chư thiên, chư phạm thiên cả thảy.”. “Vậy, Như Lai sống nên tôn kính, kính trọng phần tuệ của Như Lai.” “ *Như Lai nên tôn kính, kính trọng Sa-môn hoặc Bà-la-môn nào, rồi nương nhờ nơi vị ấy, để cho phần pháp giải thoát (vimuttikkhandha) chưa đầy đủ thì được đầy đủ hoàn toàn, nhưng Như Lai không thấy Sa-môn hoặc Bà-la-môn nào khác có đầy đủ hoàn toàn phần pháp giải thoát hơn Như Lai, trong thế giới này, cõi ma-vương, các cõi trời dục giới, các cõi trời sắc giới, chúng sinh muôn loài, chư Sa-môn, chư Bà-la-môn, nhân loại, chư thiên, chư phạm thiên cả thảy.” “Vậy, Như Lai sống nên tôn kính, kính trọng phần pháp giải thoát của Như Lai.”. “ *Như Lai nên tôn kính, kính trọng Sa-môn hoặc Bà-la-môn nào, rồi nương nhờ nơi vị ấy, để cho phần giải thoát tri kiến (vimuttiñāṇadassanakkhandha) chưa đầy đủ thì được đầy đủ hoàn toàn, nhưng Như Lai không thấy Sa-môn hoặc Bà-la-môn nào khác có đầy đủ hoàn toàn phần giải thoát tri kiến hơn Như Lai, trong thế giới này, cõi ma- vương, các cõi trời dục giới, các cõi trời sắc giới, chúng sinh muôn loài, chư Sa-môn, chư Bà-la-môn, nhân loại, chư thiên, chư phạm thiên cả thảy.” “Vậy, Như Lai sống nên tôn kính, kính trọng phần giải thoát tri kiến của Như Lai.”
“Do đó, Như Lai sống nên tôn kính, kính trọng 9 Pháp siêu tam giới đó là 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn mà Như Lai đã chứng đắc vậy.”
Ngay sau đó, Đại phạm thiên Sahampati biết được điều tư duy của Đức Thế Tôn với tâm của mình, nên biến từ cõi sắc giới phạm thiên, xuất hiện xuống cõi người đứng trước Đức Thế Tôn, như người khỏe mạnh co tay vào hoặc duỗi tay ra. Khi ấy, Đại phạm thiên Sahampati mặc y phục chừa vai phải, chắp 2 tay cung kính hướng về Đức Thế Tôn, kính bạch rằng: - Kính bạch Đức Thế Tôn, điều ấy đúng như vậy. - Kính bạch Đức Thiện Ngôn, điều ấy đúng như vậy. - Kính bạch Đức Thế Tôn, chư Đức A-ra-hán, Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã xuất hiện trong thời quá khứ, tất cả chư Phật Chánh Đẳng Giác quá khứ ấy sống cũng đều tôn kính, kính trọng 9 Pháp siêu tam giới. - Kính bạch Đức Thế Tôn, chư Đức A-ra-hán, Đức Phật Chánh Đẳng Giác sẽ xuất hiện trong thời vị lai, tất cả chư Phật Chánh Đẳng Giác vị lai ấy sống cũng đều tôn kính, kính trọng 9 Pháp siêu tam giới. - Kính bạch Đức Thế Tôn, Đức A-ra-hán, Đức Phật Chánh Đẳng Giác đang xuất hiện trong thời hiện tại này, cũng tôn kính, kính trọng 9 Pháp siêu tam giới. Sau khi kính bạch Đức Thế Tôn như vậy, Đại phạm thiên Sahampati bạch bài kệ tóm lược rằng: - Kính bạch Đức Thế Tôn, Chư Phật Chánh Đẳng Giác đã xuất hiện thời quá khứ, Chư Phật Chánh Đẳng Giác sẽ xuất hiện thời vị lai, Đức Phật Chánh Đẳng Giác đang hiện hữu hiện tại, Tất cả chư Phật Chánh Đẳng Giác sống đều tôn kính, kính trọng chánh pháp. Đó là truyền thống của chư Phật Chánh Đẳng Giác. Vì thế, chúng sinh yêu mình, mong được cao thượng, Nên niệm tưởng đến lời giáo huấn của Đức Phật, Nên đem hết lòng tôn kính, kính trọng chánh pháp.
Cung Kính Đức Phật Đạt Đến Bậc Cao Thượng
Tích con chim Ulūkasakuṇa ([2])
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự trong động Indasālā trên núi Vedisaka. Khi ấy, một con chim Ulūka (chim ưng) có tâm tôn kính Đức Thế Tôn, mỗi ngày nó bay theo sau hầu tiễn đưa Đức Thế Tôn ngự đi vào xóm làng khất thực, một nửa đoạn đường, rồi nó đậu chờ tại nơi ấy. Sau khi Đức Thế Tôn khất thực xong ngự đi trở về, con chim Ulūka chờ nửa đường đón rước Đức Thế Tôn ngự trở về núi. Hằng ngày, con chim Ulūka có tâm tôn kính bay theo sau tiễn đưa Đức Thế Tôn ngự đi khất thực, một nửa đường, và chờ đón rước Đức Thế Tôn ngự đi trở về núi một nửa đường như vậy. Một hôm vào một buổi chiều, Đức Thế Tôn cùng chư Đại Đức Tăng đang ngồi hội trên núi, con chim Ulūka từ trên núi bay sà xuống cúi đầu cung kính đi vào gần Đức Thế Tôn, cung kính chắp đôi cánh lại, rồi xòe đôi cánh ra, cúi đầu sát nền cung kính đảnh lễ Đức Thế Tôn và chư Đại Đức Tăng với thiện tâm vô cùng tôn kính.
Khi ấy, nhìn thấy con chim Ulūka cung kính đảnh lễ như vậy, Đức Thế Tôn mỉm cười. Ngài Đại Đức Ānanda bạch Đức Thế Tôn rằng: - Kính bạch Đức Thế Tôn, do nhân nào, do duyên nào mà Đức Thế Tôn mỉm cười như vậy? Đức Thế Tôn dạy rằng: - Này Ānanda! Con hãy nhìn thấy con chim Ulūka có thiện tâm trong sạch cung kính đảnh lễ Như Lai và chư tỳ khưu Tăng. Với phước thiện cung kính đảnh lễ này, suốt 100 ngàn đại kiếp trái đất, con chim Ulūka này chỉ còn tử sinh luân hồi trong cõi người và các cõi trời mà thôi, (nó không hề bị sa đọa vào trong 4 cõi ác giới: địa ngục, a-tu-la, ngạ quỷ, súc sinh). Sau này, con chim Ulūka này sẽ trở thành Đức Phật Độc Giác có danh hiệu là Somanassa. Tích con chim Ulūka (chim ưng) này có đức tin trong sạch cung kính đảnh lễ Đức Thế Tôn cùng chư Đại Đức Tỳ khưu Tăng với thiện tâm tôn kính như vậy, là phước thiện cung kính không chỉ ngăn được sự tái sinh trong 4 cõi ác giới: địa ngục, a-tu-la, ngạ quỷ, súc sinh, mà còn làm nhân, làm duyên dắt dẫn tạo 20 pháp hạnh Ba-la-mật (10 pháp hạnh Ba-la-mật bậc hạ và 10 pháp hạnh Ba-la-mật bậc trung) cho được đầy đủ trọn vẹn, để trở thành Đức Phật Độc Giác có danh hiệu Somanassa. Con chim Ulūka chỉ có tạo phước thiện cung kính đảnh lễ Đức Thế Tôn và chư Đại Đức Tỳ khưu Tăng như vậy, mà năng lực của phước thiện cung kính đảnh lễ ấy làm nhân duyên dẫn đến sự thành tựu quả báu trong cõi người (manussasampatti), sự thành tựu quả báu trong các cõi trời (devasampatti), cuối cùng thành tựu Niết Bàn giải thoát khổ (Nibbànasampatti). (Xong phần Phước thiện cung kính) [1] Saṃyuttanikāya, Sagāthāvaggasaṃyuttapāḷi, Kinh Gāravasutta [2] M. Mūlapaṇṇāsaṭṭhakathā, Cūḷasīhanādasuttavaṇṇanā |