|
7- Phước Thiện Hoan Hỷ (Pattānumodanā)
Pattānumodanākusala: Phước Thiện Hoan Hỷ
Định nghĩa Pattānumodanā:
“Pāpiyatī’ti: Patti. Pattiṃ anumodanti sādhukāraṃ dadanti etenā’ti: Pattānumodanaṃ” Phần phước thiện của người khác hồi hướng đến gọi là Patti. Những chúng sinh phát sinh thiện tâm hoan hỷ nhận phần phước thiện của người khác hồi hướng đến cho mình bằng cách nói lên lời hoan hỷ rằng: “Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!” với tác ý trong đại thiện tâm hoan hỷ gọi là Pattānumodanākusala: Phước thiện hoan hỷ nhận phần phước thiện của người khác hồi hướng.
Patti trong danh từ Pattānumodanā này có nghĩa là phần phước thiện của người thân khác hồi hướng. Chúng sinh phát sinh đại thiện tâm hoan hỷ nhận phần phước thiện của người khác hồi hướng đến cho mình, bằng cách nói lên lời hoan hỷ rằng: “Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!” với tác ý trong đại thiện tâm hoan hỷ, gọi là Pattānumodanā-kusala: Phước thiện hoan hỷ nhận phần phước thiện của người khác hồi hướng đến cho mình.
Căn cứ theo định nghĩa này:
* Nếu tác ý tâm sở trong đại thiện tâm đồng sinh với hỷ vô cùng hoan hỷ phần phước thiện của người khác hồi hướng đến cho mình, bằng cách nói lên lời hoan hỷ rằng: “Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!” thì Pattā-numodanākusala: Phước thiện hoan hỷ nhận phần phước thiện của người khác hồi hướng được trọn vẹn. * Nếu tác ý tâm sở trong đại thiện tâm đồng sinh với xả không hoan hỷ nhiều với phần phước thiện của người khác hồi hướng đến cho mình, dù có nói lên lời hoan hỷ theo người khác rằng: “Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!” thì Pattānumodanākusala: Phước thiện hoan hỷ nhận phần phước thiện của người khác hồi hướng không được trọn vẹn. * Nếu người nào có tác ý tâm sở trong đại thiện tâm đồng sinh với hỷ hợp với trí tuệ vô cùng hoan hỷ phần phước thiện của người khác hồi hướng đến cho mình, bằng cách nói lên lời hoan hỷ rằng: “Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!” thì Pattānumodanākusala: Phước thiện hoan hỷ nhận phần phước thiện của người khác hồi hướng được hoàn toàn trọn vẹn.
Anumodanākusala với Pattānumodanākusala
Anumodanākusala: Phước thiện hoan hỷ. Ví như người nào nhìn thấy người khác đang làm phước thiện bố thí, giữ gìn giới trong sạch, đang thực hành pháp hành thiền định, đang thực hành pháp hành thiền tuệ; hoặc nhìn thấy bảng tên thí chủ ghi trên vật thí dâng cúng dường đến Tam Bảo, hoặc đọc kinh sách thấy danh sách các thí chủ làm phước thiện pháp thí, rồi người ấy phát sinh đại thiện tâm vô cùng hoan hỷ, như vậy, gọi là anumodanākusala: phước thiện hoan hỷ. Pattānumodanākusala: Phước thiện hoan hỷ nhận phần phước thiện của người khác chia cho mình. Ví như người nào đã tạo được phước thiện bố thí, hoặc phước thiện xây dựng chỗ ở xong, làm lễ dâng cúng dường đến chư Tỳ khưu Tăng, rồi người ấy nói lên lời hồi hướng phần phước thiện ấy đến cho bà con thân quyến đã quá vãng, và nói lời chia phần phước thiện ấy đến cho những người đến tham dự trong buổi lễ ấy, hoặc sau đó gặp những người bà con thân quyến, bạn hữu, quen biết, v.v….. Khi nghe người ấy chia phần phước thiện của họ đến cho mình như vậy, những người nghe phát sinh đại thiện tâm vô cùng hoan hỷ nói lên lời hoan hỷ rằng: “Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!” với tác ý trong đại thiện tâm hoan hỷ phần phước thiện của thí chủ chia cho mình, như vậy, gọi là Pattānumodanākusala: Phước thiện hoan hỷ nhận phần phước thiện của người khác chia đến mình.
Phước Thiện Hồi Hướng (Pattidāna)
Pattidāna có 2 cách:
1- Uddissikapattidāna: Hồi hướng phần phước thiện đến cho chúng sinh riêng biệt. 2- Anuddissikapattidāna: Hồi hướng phần phước thiện đến chung cho tất cả chúng sinh.
* Hồi hướng phần phước thiện đến cho chúng sinh riêng biệt như thế nào? Sau khi đã tạo được phước thiện nào xong rồi, người thí chủ hồi hướng phần phước thiện ấy đến cho bà con thân quyến của họ đã quá vãng thời gian lâu hoặc mau không giới hạn. Nếu bà con thân quyến quá vãng nào hay biết có thân nhân làm phước thiện, rồi hồi hướng phần phước thiện ấy thì xuất hiện đến nơi ấy. Bà con thân quyến quá vãng ấy phát sinh đại thiện tâm trong sạch vô cùng hoan hỷ nhận phần phước thiện ấy, rồi nói lên lời hoan hỷ rằng: “Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!” Ngay tức thì bà con thân quyến quá vãng ấy hưởng được quả báu của phần phước thiện ấy, thoát khỏi kiếp khổ cực thiếu thốn ấy, được hưởng kiếp sống an lạc đầy đủ ngay.
Ví dụ: Tích Tirokuḍḍapetavatthu ([1]) được tóm lược điểm chính như sau:
Nhóm ngạ quỷ là bà con thân quyến của Đức Vua Bimbisāra từ thời kỳ Đức Phật Phussa xuất hiện trên thế gian cho đến thời kỳ Đức Phật Gotama của chúng ta trải qua thời gian khoảng cách 92 đại kiếp trái đất, có 8 Đức Phật theo tuần tự xuất hiện trên thế gian: Đức Phật Phussa, Đức Phật Vipassī, Đức Phật Sikhī, Đức Phật Vessabhū, Đức Phật Kakusandha, Đức Phật Koṇā-gamana, Đức Phật Kasspa, đến Đức Phật Gotama. Những người bà con thân quyến của Đức Vua Bimbisāra ấy vốn là những người hộ độ Đức Phật Phussa cùng chư Tỳ khưu Tăng, họ gây gỗ với nhóm người có đức tin khác, rồi cố ý làm trở ngại công việc bố thí cúng dường, họ đã tự lấy các đồ ăn của chư Tỳ khưu Tăng mà dùng, lại còn đốt cháy nhà bếp, nên họ đã tạo ác nghiệp trộm cắp của chư Tỳ khưu Tăng. Sau khi họ chết, ác nghiệp trộm cắp ấy cho quả tái sinh trong cõi địa ngục lớn, từ cõi địa ngục này đến các địa ngục khác, trải qua 92 đại kiếp trái đất, đến kiếp trái đất Bhaddakappa này. Trong thời kỳ Đức Phật Kassapa xuất hiện trên thế gian, họ mới được giải thoát ra khỏi cõi địa ngục, rồi tái sinh làm loài ngạ quỷ đói khát. Một hôm, nhóm ngạ quỷ này đến hầu Đức Phật Kassapa, bạch rằng: - Kính bạch Đức Thế Tôn, nhóm ngạ quỷ chúng con đến khi nào mới có người bà con thân quyến làm phước thiện bố thí, rồi hồi hướng phần phước thiện bố thí ấy đến cho chúng con, để chúng con nhận được phần phước thiện hồi hướng ấy, để thoát khỏi kiếp ngạ quỷ đói khát khổ cực này, được hưởng kiếp sống đầy đủ an lạc? Bạch Ngài. Nghe chúng ngạ quỷ bạch hỏi như vậy, Đức Phật Kassapa dạy bảo rằng: - Này các ngạ quỷ! Bây giờ các con chưa được gì đâu! Các con hãy ráng chờ trong thời vị lai đến khi Đức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian. Thuở ấy, Đức Vua Bimbisāra đã từng là bà con thân quyến của các con trước đây cách 92 đại kiếp trái đất. Đức Vua Bimbisāra sẽ làm phước thiện bố thí, cúng dường Đức Phật Gotama cùng chư tỳ khưu Tăng, rồi sẽ hồi hướng phần phước thiện ấy đến cho các con. Nghe lời dạy của Đức Phật Kassapa, nhóm ngạ quỷ vô cùng hoan hỷ trông chờ như sắp nhận được phần phước thiện bố thí ấy nay mai. Thời kỳ Đức Phật Kassapa xuất hiện trên thế gian, tuổi thọ con người khoảng 20.000 năm. Đến khi Đức Phật Kassapa tịch diệt Niết Bàn, và giáo pháp của Ngài cũng hoàn toàn bị tiêu hoại, thì ác pháp dần dần tăng trưởng, còn thiện pháp từ từ suy thoái, cho nên, tuổi thọ của con người giảm dần, giảm dần từ 20.000 năm xuống dần cho đến khi tuổi thọ chỉ còn 10 năm. Khi ấy, một thảm họa khủng khiếp xảy ra, con người chém giết lẫn nhau vô cùng tàn khốc, không phân biệt cha mẹ, con cái, anh em, bà con thân quyến, … Một số người hoảng sợ chạy trốn trong rừng núi thoát thân. Khi biết nạn chém giết không còn nữa, số người ấy gặp lại nhau, cam kết không sát hại lẫn nhau nữa. Từ đó, con người bắt đầu biết hổ thẹn tội lỗi, biết ghê sợ tội lỗi, do đó, tuổi thọ con người dần dần càng ngày càng tăng trưởng lên đến tột đỉnh a-tăng-kỳ năm. ([2]) Thời kỳ ấy, con người sống lâu phát sinh tâm dể duôi, ác pháp bắt đầu phát sinh, do đó, tuổi thọ của con người cũng bắt đầu giảm xuống dần, giảm xuống dần cho đến thời kỳ con người có tuổi thọ khoảng 100 năm. Khi ấy, Đức Phật Gotama của chúng ta xuất hiện trên thế gian. Vào thời ấy, Đức Vua Bimbisāra ngự tại kinh thành Rājagaha, trị vì đất nước Māgadha, Đức Thế Tôn ngự cùng chư Đại Đức tỳ khưu Tăng đến kinh thành Rājagaha, Đức Vua Bimbisāra ngự cùng toàn thể dân chúng đến hầu đảnh lễ, nghe Đức Phật thuyết pháp. Ngay ngày hôm ấy, Đức Vua Bimbisāra chứng ngộ chân lý tứ Thánh Đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo - Nhập Lưu Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu cùng với dân chúng 110.000 người trở thành bậc Thánh Nhập Lưu. Đức Vua Bimbisāra có đức tin trong sạch vững chắc nơi Tam Bảo: Đức Phật Bảo, Đức Pháp Bảo, Đức Tăng Bảo, kính thỉnh Đức Thế Tôn cùng chư Đại Đức tỳ khưu Tăng ngày hôm sau độ vật thực tại cung điện. Đức Thế Tôn im lặng nhận lời thỉnh mời của Đức Vua Bimbisāra. Sáng hôm ấy, Đức Thế Tôn ngự cùng chư Đại Đức tỳ khưu Tăng đến cung điện, Đức Vua Bimbisāra làm phước thiện đại bố thí đến Đức Thế Tôn và chư Đại Đức tỳ khưu Tăng. Khi ấy, nhóm ngạ quỷ bà con thân quyến của Đức Vua Bimbisāra cùng nhau hiện đến cung điện đứng chờ đợi với hy vọng rằng: “ Bây giờ, Đức Vua Bimbisāra sẽ hồi hướng phần phước thiện bố thí đến cho nhóm ngạ quỷ chúng ta. Bây giờ, Đức Vua Bimbisāra sẽ hồi hướng…” Sau khi dâng cúng dường vật thực đến Đức Thế Tôn và chư Đại Đức Tỳ khưu Tăng độ xong, Đức Vua Bimbisāra mãi lo suy nghĩ xây dựng ngôi chùa nơi nào thuận lợi, làm chỗ ở cho Đức Thế Tôn và chư Đại Đức Tỳ khưu Tăng, nên không hồi hướng phần phước thiện bố thí đến cho ai cả. Nhóm ngạ quỷ bà con thân quyến của Đức Vua không được hưởng được phần phước thiện bố thí, do đó, chúng vô cùng thất vọng khổ tâm. Ban đêm, nhóm ngạ quỷ bà con thân quyến của Đức Vua dẫn nhau hiện đến lâu đài của Đức Vua, kêu la khóc than những âm thanh đáng kinh sợ. Sáng ngày hôm sau, Đức Vua Bimbisāra ngự đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, bạch rằng: - Kính bạch Đức Thế Tôn, đêm qua, con nghe những âm thanh đáng kinh sợ. Vậy, có chuyện gì xảy đến với con hay không? Bạch Ngài. Đức Thế Tôn dạy rằng: - Này Đại Vương! không có gì đáng để Đại Vương lo sợ. Nhóm ngạ quỷ là bà con thân quyến của Đại Vương trong thời quá khứ, chúng trông đợi Đại Vương từ thời kỳ Đức Phật Kassapa cho đến nay với hy vọng Đại Vương làm phước thiện bố thí rồi hồi hướng phần phước thiện bố thí ấy đến cho chúng riêng biệt. Sau khi chúng được hưởng phần phước thiện hồi hướng ấy, chúng sẽ được giải thoát khỏi kiếp ngạ quỷ đói khát khổ cực, được hưởng kiếp sống đầy đủ an lạc. Ngày hôm qua, sau khi làm phước thiện bố thí xong, Đại Vương không hồi hướng phần phước thiện bố thí ấy đến cho chúng. Do đó, chúng thất vọng, đêm khuya chúng hiện đến gần lâu đài của Đại Vương kêu la khóc than những âm thanh đáng kinh sợ như vậy. Nghe Đức Thế Tôn dạy như vậy, Đức Vua Bimbisāra bạch rằng:
- Kính bạch Đức Thế Tôn, nếu ngày mai con làm phước thiện bố thí, rồi hồi hướng phần phước thiện bố thí ấy thì nhóm ngạ quỷ bà con thân quyến của con nhận được hay không? Bạch Ngài. Đức Thế Tôn dạy rằng: - Này Đại Vương! Nhóm ngạ quỷ bà con thân quyến của Đại Vương sẽ nhận được. Lắng nghe Đức Thế Tôn dạy như vậy, Đức Vua Bimbisāra liền bạch rằng: - Kính bạch Đức Thế Tôn, ngày mai, con kính thỉnh Đức Thế Tôn ngự cùng chư Đại Đức tỳ khưu Tăng đến cung điện, để con xin làm phước thiện bố thí, cúng dường đến Đức Thế Tôn cùng chư Đại Đức tỳ khưu Tăng, lần này con sẽ hồi hướng phần phước thiện bố thí đến cho nhóm ngạ quỷ bà con thân quyến của con riêng biệt, để giúp cho chúng giải thoát khỏi kiếp ngạ quỷ đói khát khổ cực ấy, được hưởng kiếp sống đầy đủ an lạc. Đức Thế Tôn im lặng nhận lời thỉnh mời của Đức Vua Bimbisāra. Đức Vua Bimbisāra thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, rồi xin phép hồi cung ngự trở về cung điện, lo sửa soạn vật thực, để làm phước thiện bố thí vào ngày hôm sau. Sáng hôm ấy, Đức Thế Tôn ngự cùng chư Đại Đức tỳ khưu Tăng đến cung điện của Đức Vua Bimbisāra, Đức Thế Tôn ngự lên ngồi chỗ cao quý và chư Đại Đức tỳ khưu Tăng ngồi chỗ mỗi vị. Nhóm ngạ quỷ bà con thân quyến của Đức Vua Bimbisāra dẫn nhau hiện đến đứng các nơi bên ngoài chờ đợi với hy vọng rằng: “Hôm nay, chúng ta chắc chắn sẽ thụ hưởng được phần phước thiện bố thí hồi hướng ấy, rồi hóa thành thức ăn, thức uống, v.v… cho chúng ta.” Đức Thế Tôn làm cho tất cả nhóm ngạ quỷ hiện rõ ra, để cho Đức Vua Bimbisāra nhìn thấy chúng. Mỗi khi, Đức Vua tự tay mình dâng cúng dường món ăn, thức uống nào đến Đức Thế Tôn và chư Đại Đức tỳ khưu Tăng, Đức Vua đều hồi hướng phần phước thiện bố thí rằng: “ Idaṃ me ñātīnaṃ hotu” Phước thiện bố thí này, cầu mong cho được thành tựu đến những bà con thân quyến của tôi. Nhóm ngạ quỷ bà con thân quyến của Đức Vua Bimbisāra phát sinh thiện tâm vô cùng hoan hỷ nói lên lời hoan hỷ rằng: “Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!” Ngay khi ấy, những ngạ quỷ bà con thân quyến đều có đầy đủ món ăn, thức uống, không còn phải chịu cảnh đói khát khổ thân nữa, nước tắm đầy đủ mát mẻ, có các thức ăn, thức uống ngon lành như món ăn cõi trời, nhóm ngạ quỷ có thân hình khỏe mạnh đẹp đẽ, nhưng chúng còn bị trần truồng. Đức Vua Bimbisāra thành kính dâng cúng dường y và các thứ vật dụng khác đến Đức Thế Tôn và chư Đại Đức tỳ khưu Tăng, rồi hồi hướng phần phước thiện bố thí rằng: “Idaṃ me ñātīnaṃ hotu” Phước thiện bố thí này, cầu mong cho được thành tựu đến những bà con thân quyến của tôi. Nhóm ngạ quỷ bà con thân quyến của Đức Vua Bimbisāra phát sinh thiện tâm vô cùng hoan hỷ nói lên lời hoan hỷ rằng: “Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!” Ngay khi ấy, những ngạ quỷ bà con thân quyến đều có đầy đủ các bộ y phục đẹp đẽ lạ thường, các đồ trang sức quý giá, các lâu đài sang trọng, chỗ nằm, chỗ ngồi đẹp đẽ, v.v… như cõi trời được phát sinh đến tất cả nhóm ngạ quỷ ấy. Do nhờ oai lực của Đức Thế Tôn, Đức Vua Bimbisāra tận mắt nhìn thấy tất cả nhóm ngạ quỷ bà con thân quyến của mình được giải thoát khỏi cảnh khổ đói khát, lạnh lẽo, … được hưởng mọi sự an lạc. Đức Vua phát sinh thiện tâm vô cùng hoan hỷ. Sau khi độ vật thực xong, Đức Thế Tôn thuyết pháp tích Tirokuḍḍapetavatthu này. Tích Tirokuḍḍapetavatthu này có 12 bài kệ, trong đó có câu hồi hướng rằng:
“Idaṃ vo ñātīnaṃ hotu, sukhitā hontu ñātayo.”
Cầu xin phước thiện bố thí này được thành tựu quả báu đến những bà con thân quyến của các con, cầu mong những bà con thân quyến của các con thoát khỏi mọi cảnh khổ, được hưởng sự an lạc lâu dài.
Pattidānakusala: Phước thiện hồi hướng phần phước thiện của mình và Pattānumodanakusala: Phước thiện hoan hỷ nhận phần phước thiện của người khác có liên quan với nhau như người cho và người hoan hỷ nhận.
Tích Sāriputtattheramātupeta ([3])
Tích Sāriputtattheramātupeta: Ngạ quỷ thân mẫu của Ngài Đại Đức Sāriputta được tóm lược như sau:
Tiền kiếp của nữ ngạ quỷ này đã từng là thân mẫu của Ngài Đại Đức Sāriputta trong quá khứ kiếp thứ 5 kể từ kiếp hiện tại. Tiền kiếp của nữ ngạ quỷ là vợ của ông Bà-la-môn nhà giàu có nhiều của cải. Ông Bà-la-môn là người có tâm từ, tâm bi đối với mọi người. Hằng ngày, ông tự tay làm phước thiện bố thí, cúng dường vật thực, y phục, vật dụng cần thiết, … đến các Sa-môn, Bà-la-môn, những người nghèo khổ, người qua đường, v.v. … Một hôm, ông Bà-la-môn có công việc phải đi, nên ông dạy bảo người vợ ở nhà thay ông giữ gìn truyền thống gia đình làm phước thiện bố thí, cúng dường vật thực, y phục, vật dụng cần thiết, …. đến các Sa-môn, Bà-la-môn, những người nghèo khổ, người qua đường, nhưng người vợ ở nhà không làm theo lời dạy bảo của chồng. Hễ có người đến nương nhờ thì bà buông lời mắng nhiếc rằng: “Các người hãy ăn phẩn, uống nước tiểu, liếm máu mủ, nước miếng, … Sau khi bà chết, ác nghiệp ấy cho quả tái sinh vào loài ngạ quỷ đói khát, ăn uống những đồ dơ bẩn như ăn phẩn, uống nước tiểu, liếm máu mủ, nước miếng,… chịu bao nỗi khổ cực đói khát, lạnh lẽo do quả của ác nghiệp của mình đã tạo trong tiền kiếp. Nữ ngạ quỷ nhớ lại được tiền kiếp của mình đã từng là thân mẫu của Ngài Đại Đức Sāriputta, nên bà đến nương nhờ Ngài tế độ, nhưng vị thiên nam giữ cổng ngăn cản không cho vào. Nữ ngạ quỷ thưa với vị thiên nam rằng: - Thưa thiên nam, tiền kiếp của tôi đã từng là thân mẫu của Ngài Đại Đức Sāriputta. Xin thiên nam cho tôi được phép vào đảnh lễ Ngài. Nữ ngạ quỷ vào đứng khép nép. Nhìn thấy nữ ngạ quỷ, Ngài Đại Đức Sāriputta có tâm bi bèn hỏi rằng: - Này nữ ngạ quỷ! Ngươi là ai mà thân hình trần truồng, ốm yếu da bọc xương, đứng run rẩy thật đáng thương. Lão tăng tế độ ngươi thế nào? Nghe Ngài Đại Đức hỏi, nữ ngạ quỷ bạch rằng: - Kính bạch Ngài Đại Đức, tiền kiếp của con đã từng là thân mẫu của Ngài, do ác nghiệp của con cho quả tái sinh làm loài nữ ngạ quỷ chịu cảnh đói khát, đành phải ăn uống đồ dơ bẩn, ăn phẩn, uống nước tiểu, nước đàm, nước miếng người ta nhổ bỏ, liếm máu mủ của đàn ông, đàn bà, nước vàng từ tử thi chảy ra, sống không có nơi nương tựa trong các nghĩa địa, bãi tha ma. - Kính bạch Ngài Đại Đức, kính xin Ngài làm phước thiện bố thí, rồi hồi hướng phần phước thiện bố thí ấy đến cho con. Khi con phát sinh thiện tâm trong sạch hoan hỷ nhận phần phước thiện bố thí hồi hướng ấy, may ra cứu giúp con thoát khỏi kiếp ngạ quỷ đói khát như thế này. Lắng nghe nữ ngạ quỷ đã từng là thân mẫu của mình, Ngài Đại Đức Sāriputta phát sinh tâm bi tìm cách cứu giúp nữ ngạ quỷ thoát khỏi cảnh khổ, nên Ngài đến bàn bạc với Ngài Đại Đức Mahāmoggallāna, Ngài Đại Đức Anuruddha, Ngài Đại Đức Mahākappina cùng nhau cứu giúp nữ ngạ quỷ. Ngài Đại Đức Mahāmoggallāna đi khất thực trong kinh thành Rājagaha, vào cung điện gặp Đức Vua Bimbisāra. Đức Vua thỉnh mời, yêu cầu Ngài cần những thứ vật dụng nào, để Đức Vua dâng cúng. Nhân dịp ấy, Ngài Đại Đức thưa cho Đức Vua biết chuyện nữ ngạ quỷ đã từng là thân mẫu của Ngài Đại Đức Sāriputta, sống trong cảnh đói khát, không có nơi nương nhờ. Nghe vậy, Đức Vua truyền lệnh xây cất 4 cái cốc chỗ ở của chư tỳ khưu Tăng. Sau khi xây cất xong, sắm sửa đầy đủ 4 thứ vật dụng cần thiết đối với tỳ khưu, Đức Vua Bimbisāra làm lễ dâng 4 cái cốc ấy đến Ngài Đại Đức Sāriputta có Đức Phật chủ trì. [1] Bộ Chú giải Petavatthu, Tích Tirokuḍḍapetavatthuvaṇṇanā [2] Asaṅkheyya tính theo số lượng số 1 đứng trước 140 số 0 (số không) [3] Bộ Petavatthu Tích Sāriputtattheramātupetavaṇṇanā Một lần nữa, Ngài Đại Đức Sāriputta làm lễ dâng 4 cái cốc có đầy đủ 4 thứ vật dụng cần thiết đến chư tỳ khưu Tăng từ bốn phương, có Đức Phật chủ trì, rồi xin hồi hướng phần phước thiện bố thí ấy đến nữ ngạ quỷ đã từng là thân mẫu của mình trong tiền kiếp. Nữ ngạ quỷ phát sinh thiện tâm vô cùng hoan hỷ nhận phần phước thiện bố thí hồi hướng đặc biệt ấy, nói lên lời hoan hỷ rằng: Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay! Ngay tức thì, thoát khỏi kiếp ngạ quỷ, hóa sinh làm vị thiên nữ xinh đẹp trên cõi trời, có hào quang sáng ngời, có y phục lộng lẫy trong lâu đài nguy nga tráng lệ, có đầy đủ các thứ của cải quý giá của chư thiên, hưởng mọi sự an lạc trong cõi trời ấy.
Hồi Hướng Thành Tựu
Phước thiện bố thí mà thí chủ hồi hướng đến hàng ngạ quỷ bà con thân quyến của thí chủ, hoặc hàng ngạ quỷ khác được thành tựu cần phải hội đầy đủ 3 điều kiện cần thiết: * Thí chủ có thiện tâm trong sạch hồi hướng phần phước thiện bố thí của mình đến cho hàng ngạ quỷ. * Hàng ngạ quỷ gồm có nhiều nhóm như: 12 nhóm, 4 nhóm, 21 nhóm. Trong tất cả các nhóm ngạ quỷ ấy, chỉ có nhóm ngạ quỷ sống gần gũi với loài người, gọi là Paradattupajīvikapeta: Ngạ quỷ sống do nhờ vật thực của người khác cho, mới có cơ hội nhận được phần phước thiện bố thí của thân nhân, hoặc của những người khác hồi hướng; còn lại các nhóm ngạ quỷ khác không có cơ hội nhận phần phước thiện bố thí của thân nhân hồi hướng, bởi vì chúng sống xa với loài người. * Bậc thọ thí có đầy đủ các đức cao thượng, như Đức Phật Chánh Đẳng Giác, chư Thánh Arahán, chư Đại Đức Tỳ khưu Tăng có giới đức trong sạch, thực hành pháp hạnh cao thượng.
Nếu hội đầy đủ 3 điều kiện cần thiết ấy thì sự hồi hướng phần phước thiện bố thí đến nhóm ngạ quỷ bà con thân quyến của thí chủ, hoặc hàng ngạ quỷ khác ấy mới được thành tựu.
Hồi Hướng Thành Tựu – Không Thành Tựu
Trong bài kinh Jāṇusasoṇīsutta ([1]) Đức Thế Tôn thuyết dạy ông Bà-la-môn Jāṇusasoṇī về cách hồi hướng phước thiện bố thí thành tựu và không thành tựu đến số chúng sinh, được tóm lược như sau:
Một thuở nọ, ông Bà-la-môn Jāṇusasoṇī đến hầu đảnh lễ vấn an Đức Thế Tôn xong, ngồi một nơi hợp lẽ, bạch với Đức Thế Tôn rằng: - Kính bạch Đức Phật Gotama, con là Bà-la-môn làm phước thiện bố thí, với hy vọng rằng: “Phước thiện bố thí này được thành tựu đến các bà con thân quyến đã quá vãng. Xin mời các bà con thân quyến quá vãng hãy thụ hưởng quả báu của phước thiện bố thí ấy.” - Kính bạch Đức Phật Gotama, phước thiện bố thí ấy có được thành tựu đến các bà con thân quyến đã quá vãng của con hay không? Các bà con thân quyến quá vãng của con có thụ hưởng được quả báu của phước thiện bố thí ấy hay không? Đức Thế Tôn dạy ông Bà-la-môn Jāṇusasoṇī rằng: - Này Bà-la-môn! Phước thiện bố thí hồi hướng ấy nếu có cơ hội thì được thành tựu. Và phước thiện bố thí hồi hướng ấy nếu không có cơ hội thì không được thành tựu. Jā. - Kính bạch Đức Phật Gotama, phước thiện bố thí hồi hướng ấy có cơ hội thành tựu như thế nào? Và phước thiện bố thí ấy không có cơ hội thành tựu như thế nào? ĐP. - Này Bà-la-môn! Trong đời này, người nào tạo ác nghiệp sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói lời chia rẽ, nói lời thô tục, nói lời vô ích, tham lam của người khác, thù hận, có tà kiến. Sau khi người ấy chết, ác nghiệp ấy cho quả tái sinh làm chúng sinh địa ngục, sống trong cõi địa ngục. - Này Bà-la-môn! Phước thiện bố thí hồi hướng ấy không có cơ hội thành tựu đến chúng sinh địa ngục. (Chúng sinh địa ngục không có cơ hội thụ hưởng quả báu của phước thiện bố thí ấy.) - Này Bà-la-môn! Trong đời này, người nào tạo ác nghiệp sát sinh, trộm cắp, tà dâm,…, tham lam của người khác, thù hận, có tà kiến. Sau khi người ấy chết, ác nghiệp ấy cho quả tái sinh làm loài súc sinh, sống trong loài súc sinh. - Này Bà-la-môn! Phước thiện bố thí hồi hướng ấy không có cơ hội thành tựu đến loài súc sinh. (Loài súc sinh ấy không có cơ hội thụ hưởng quả báu của phước thiện bố thí ấy.) - Này Bà-la-môn! Trong đời này, người nào tạo thiện nghiệp tránh xa sự sát sinh, tránh xa sự trộm cắp, tránh xa sự tà dâm, tránh xa sự nói dối, tránh xa sự nói lời chia rẽ, tránh xa sự nói lời thô tục, tránh xa sự nói lời vô ích, không tham lam của người khác, không thù hận, có chánh kiến. Sau khi người ấy chết, thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm người, sống trong cõi người. - Này Bà-la-môn! Phước thiện bố thí hồi hướng ấy cũng không có cơ hội thành tựu đến người ấy. (Người ấy cũng không có cơ hội thụ hưởng quả báu của phước thiện bố thí ấy.) - Này Bà-la-môn! Trong đời này, người nào tạo thiện nghiệp tránh xa sự sát sinh, tránh xa sự trộm cắp, tránh xa sự tà dâm,…, không tham lam của người khác, không thù hận, có chánh kiến. Sau khi người ấy chết, thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm chư thiên, sống trong cõi trời dục giới. - Này Bà-la-môn! Phước thiện bố thí hồi hướng ấy cũng không có cơ hội thành tựu đến vị chư thiên ấy. (Vị chư thiên ấy cũng không có cơ hội hưởng quả báu của phước thiện bố thí ấy.) - Này Bà-la-môn! Trong đời này, người nào tạo ác nghiệp sát sinh, trộm cắp, tà dâm,…, tham lam của người khác, thù hận, có tà kiến. Sau khi người ấy chết, ác nghiệp ấy cho quả tái sinh làm chúng sinh ngạ quỷ sống trong loài ngạ quỷ với vật thực của loài ngạ quỷ; hoặc loài ngạ quỷ ấy nếu có thân nhân hoặc bạn hữu, những thí chủ khác làm phước thiện bố thí, rồi hồi hướng phần phước thiện bố thí ấy đến cho họ, thì họ có cơ hội hoan hỷ thụ hưởng phần phước thiện hồi hướng ấy, rồi hưởng quả báu của phước thiện ấy. - Này Bà-la-môn! Phước thiện bố thí hồi hướng ấy có cơ hội thành tựu đến loài ngạ quỷ ấy. (Loài ngạ quỷ ấy có cơ hội hưởng quả báu của phước thiện bố thí ấy.) Jā, - Kính bạch Đức Phật Gotama, nếu bà con thân quyến đã quá vãng ấy không sinh làm loài ngạ quỷ thì ai sẽ hưởng quả báu của phước thiện bố thí ấy. ĐP. - Này Bà-la-môn! Có các bà con thân quyến khác đã quá vãng sinh làm loài ngạ quỷ. Các bà con thân quyến ngạ quỷ khác ấy có cơ hội thụ hưởng quả báu của phước thiện bố thí ấy. Jā, - Kính bạch Đức Phật Gotama, nếu bà con thân quyến ấy đã quá vãng không sinh làm loài ngạ quỷ và các bà con thân quyến đã quá vãng khác cũng không sinh làm loài ngạ quỷ, thì ai sẽ hưởng quả báu của phước thiện bố thí ấy. ĐP. - Này Bà-la-môn! Các bà con thân quyến tử sinh luân hồi trải qua thời gian lâu dài vô số kiếp ấy, mà không có bà con thân quyến quá vãng nào sinh làm loài ngạ quỷ, đó là điều không thể có được. Và thí chủ làm phước thiện hồi hướng phần phước thiện bố thí của mình thì chính thí chủ là người hưởng quả báu của phước thiện bố thí ấy. Jā, - Kính bạch Đức Phật Gotama, Ngài dạy: Người thí chủ cũng hưởng quả báu của phước thiện bố thí ấy được sao? ĐP. - Này Bà-la-môn! Như Lai dạy: Người thí chủ hưởng quả báu của phước thiện bố thí ấy được. - Này Bà-la-môn! Trong đời này, người nào tạo ác nghiệp sát sinh, trộm cắp, tà dâm, …, tham lam của người khác, thù hận, có tà kiến. Nhưng người ấy cũng làm phước thiện bố thí vật thực, nước uống, vải, xe cộ, vòng hoa, vật thơm, vật thoa đến những người khác, bố thí cúng dường các thứ vật dụng cần thiết đến các Sa-môn, Bà-la-môn. Sau khi người ấy chết, ác nghiệp ấy cho quả tái sinh trong loài voi, con voi ấy là con voi báu được Đức Vua sử dụng, nên nó có vật thực, nước uống đầy đủ, có các đồ trang sức quý giá,… - Này Bà-la-môn! Điều mà người ấy tạo ác nghiệp sát sinh, trộm cắp, tà dâm, ..., tham lam của người khác, thù hận, có tà kiến, sau khi người ấy chết, ác nghiệp ấy cho quả trong thời kỳ tái sinh (paṭisandhikāla) trong loài voi. Và điều mà người ấy tạo phước thiện bố thí vật thực, nước uống, vải,… cho quả trong thời kỳ sau khi tái sinh (pavattikāla), con voi ấy là con voi báu được Đức Vua sử dụng, nên nó có vật thực, nước uống đầy đủ, có các đồ trang sức quý giá,… - Này Bà-la-môn! Trong đời này, người nào tạo ác nghiệp sát sinh, trộm cắp, tà dâm, …, tham lam của người khác, thù hận, có tà kiến. Nhưng người ấy cũng làm phước thiện bố thí vật thực, nước uống, vải, xe cộ, vòng hoa, vật thơm, vật thoa đến những người khác, bố thí cúng dường các thứ vật dụng cần thiết đến các Sa-môn, Bà-la-môn. Sau khi người ấy chết, ác nghiệp ấy cho quả tái sinh trong loài ngựa, trong loài bò, trong loài chó, …, con ngựa ấy sẽ là con ngựa báu, con bò ấy sẽ là con bò chúa, con chó ấy sẽ là con chó rất tinh khôn, … được người sử dụng, nên nó có vật thực, nước uống đầy đủ, có các đồ trang sức quý giá,… - Này Bà-la-môn! Điều mà người ấy tạo ác nghiệp sát sinh, trộm cắp, tà dâm, …, tham lam của người khác, thù hận, có tà kiến, sau khi chết, ác nghiệp ấy cho quả trong thời kỳ tái sinh (paṭisandhikāla) trong loài ngưạ, trong loài bò, trong loài chó. Và điều mà người ấy tạo phước thiện bố thí vật thực, nước uống, vải, … , cho quả trong thời kỳ sau khi tái sinh (pavattikāla), nên con ngựa ấy là con ngựa báu, con bò ấy là con bò chúa, con chó ấy là con chó rất tinh khôn, … được người sử dụng, nên nó có vật thực, nước uống đầy đủ, có các đồ trang sức quý giá,… - Này Bà-la-môn! Trong đời này, người nào tạo thiện nghiệp tránh xa sự sát sinh, tránh xa sự trộm cắp, tránh xa sự tà dâm, tránh xa sự nói dối, tránh xa sự nói lời chia rẽ, tránh xa sự nói lời thô tục, tránh xa sự nói lời vô ích, không tham lam của người khác, không thù hận, có chánh kiến. Và người ấy cũng làm phước thiện bố thí vật thực, nước uống, vải, xe cộ, vòng hoa, vật thơm, vật thoa đến những người khác, bố thí cúng dường các thứ vật dụng cần thiết đến các Sa-môn, Bà-la-môn. Sau khi người ấy chết, thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm người trong cõi người. Người ấy là người giàu sang phú quý, có nhiều của cải tài sản, hưởng được mọi sự an lạc trong cõi người. - Này Bà-la-môn! Điều mà người ấy tạo thiện nghiệp tránh xa sự sát sinh, tránh xa sự trộm cắp, tránh xa sự tà dâm, …, không tham lam của người khác, không thù hận, có chánh kiến, sau khi người ấy chết, thiện nghiệp ấy cho quả trong thời kỳ tái sinh (paṭisandhikāla) làm người trong cõi người. Và điều mà người ấy tạo phước thiện bố thí vật thực, nước uống, vải, …, cho quả trong thời kỳ sau khi tái sinh (pavattikāla), nên người ấy được giàu sang phú quý, có nhiều của cải tài sản, hưởng được mọi sự an lạc trong cõi người. - Này Bà-la-môn! Trong đời này, người nào tạo thiện nghiệp tránh xa sự sát sinh, tránh xa sự trộm cắp, tránh xa sự tà dâm, …, không tham lam của người khác, không thù hận, có chánh kiến. Và người ấy cũng làm phước thiện bố thí vật thực, nước uống, vải, xe cộ, vòng hoa, vật thơm, vật thoa đến những người khác, bố thí cúng dường các thứ vật dụng cần thiết đến các Sa-môn, Bà-la-môn. Sau khi gười ấy chết, thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm vị chư thiên trong cõi trời dục giới. Vị chư thiên ấy có đầy đủ mọi đối tượng thật đáng hài lòng trên cõi trời. - Này Bà-la-môn! Điều mà người ấy tạo thiện nghiệp tránh xa sự sát sinh, tránh xa sự trộm cắp, tránh xa sự tà dâm, …, không tham lam của người khác, không thù hận, có chánh kiến. Sau khi người ấy chết, thiện nghiệp ấy cho quả trong thời kỳ tái sinh (paṭisandhikāla) trong làm chư thiên trên cõi trời dục giới. Và điều mà người ấy tạo phước thiện bố thí vật thực, nước uống, vải,…, cho quả trong thời kỳ sau khi tái sinh (pavattikāla), nên vị chư thiên ấy có đầy đủ mọi đối tượng đáng hài lòng, hưởng được mọi sự an lạc trên cõi trời dục giới ấy. - Này Bà-la-môn! Do đó, Như Lai dạy: Người thí chủ hưởng quả báu của phước thiện bố thí ấy được. Jā, - Kính bạch Đức Phật Gotama, Thật phi thường! Chưa từng nghe! - Kính bạch Đức Phật Gotama, điều mà người thí chủ cũng được hưởng quả báu của phước thiện bố thí ấy như vậy, thì nên làm phước thiện bố thí thật sự, nên có đức tin nơi phước thiện bố thí thật sự. ĐP - Này Bà-la-môn! Điều ấy đúng như vậy. Sau khi nghe Đức Thế Tôn thuyết dạy như vậy, ông Bà-la-môn Jāṇusasoṇī bạch rằng: - Kính bạch Đức Phật Gotama, con thật vô cùng hoan hỷ. Đức Phật Gotama thuyết pháp bằng nhiều cách, ví như lật ngửa ra vật bị che đậy, hoặc mở ra vật bị đóng kín, hoặc rọi đèn soi sáng vào chỗ tăm tối, để cho người có đôi mắt sáng được thấy rõ tất cả mọi vật hiện hữu. Con đem hết lòng thành kính xin quy y, nương nhờ nơi Đức Phật Gotama, xin quy y, nương nhờ nơi Đức Pháp Bảo, xin quy y, nương nhờ nơi chư Tỳ khưu Tăng Bảo. Kính xin Đức Phật Gotama chấp nhận con là người cận sự nam đã quy y Tam Bảo kể từ nay cho đến trọn đời.
Phước Thiện Bố Thí Và Phước Thiện Hồi Hướng (Dānakusala và Pattidānakusala)
Phước thiện bố thí được tạo dễ dàng thuận lợi đối với con người trong cõi người này, bởi vì con người có nhiều cơ hội tạo phước thiện bố thí, còn các chúng sinh khác trong các cõi khác không có cơ hội dễ tạo phước thiện bố thí này được. Thật vậy, trong tam giới gồm có 31 cõi:
* Vô sắc giới có 4 cõi, chư phạm thiên trong 4 cõi này chỉ có 4 uẩn: Thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn, không có sắc uẩn, (chư phạm thiên trong cõi vô sắc giới này chỉ có tâm mà không có thân). Mỗi vị đều an hưởng sự an lạc trong cõi ấy.
* Sắc giới có 16 cõi, chư phạm thiên có ngũ uẩn trong 15 cõi và chư phạm thiên có nhất uẩn là sắc uẩn trong cõi Vô tưởng thiên. Mỗi vị đều an hưởng sự an lạc trong cõi ấy.
* Dục giới có 11 cõi:
- 4 cõi ác giới (địa ngục, A-tu-la, ngạ quỷ, súc sinh) các chúng sinh này đang chịu quả khổ của ác nghiệp, nên không có cơ hội làm phước thiện bố thí được. - 6 cõi trời dục giới, các hàng chư thiên này, mỗi vị đều chỉ hưởng quả an lạc của thiện nghiệp của mình trong cõi trời ấy mà thôi. Khi muốn làm phước thiện bố thí, vị thiên nam hoặc vị thiên nữ ấy phải xuất hiện xuống cõi người, hóa ra thành người mới có thể làm phước thiện bố thí được. Như trường hợp Đức Vua trời Sakka và Chánh cung Hoàng hậu Sujātā xuất hiện xuống cõi người hóa ra thành 2 ông bà già nghèo khổ sống trong chòi lá ở bìa rừng, chờ Ngài Đại Đức Mahākassapa đi khất thực ngang qua, thỉnh Ngài dừng lại, rồi để bát cho Ngài. v.v… - Cõi người, những con người trong cõi người này, hưởng quả an lạc của thiện nghiệp và chịu quả khổ của ác nghiệp của mình, có nhiều cơ hội làm phước thiện bố thí được dễ dàng thuận lợi hơn các cõi khác. Những thí chủ có cơ hội đã làm phước thiện bố thí (dānakusala), rồi nên hồi hướng phần phước thiện bố thí ấy đến những bà con thân quyến đã quá vãng, hoặc đến những bà con thân quyến còn hiện hữu trong đời, hoặc đến tất cả chúng sinh khác gọi là phước thiện hồi hướng (pattidānakusala).
Pattidānakusala: Phước thiện hồi hướng có 2 cách:
1- Uddissikapattidānakusala: Phước thiện hồi hướng phần phước thiện đến cho chúng sinh riêng biệt: Dựa theo bài kệ trong tích Tirokuḍḍapetavatthu, các Ngài Đại Trưởng Lão dạy câu kệ hồi hướng rằng:
“Idaṃ no ñātīnaṃ hotu, sukhitā hontu ñātayo.” “Cầu xin phước thiện bố thí này được thành tựu quả báu đến những bà con thân quyến của chúng con, cầu mong những bà con thân quyến của chúng con thoát khỏi mọi cảnh khổ, được hưởng sự an lạc lâu dài.”
Hồi hướng phần phước thiện đến từng mỗi người như:
“Imaṃ puññabhāgaṃ mātā-pitu-ācariya-ñāti-mitta-samūhānaṃ demi, (dema).” “Con (chúng con) xin hồi hướng phần phước thiện (bố thí, giữ giới, hành thiền) thanh cao này đến cha mẹ, thầy cô giáo, bà con thân quyến, bạn hữu đã quá vãng cả thảy.”
Nếu những người còn đang hiện hữu trong đời thì nên đọc rằng: “Con (chúng con) xin kính dâng phần phước thiện (bố thí, giữ giới, hành thiền) thanh cao này đến cha mẹ, thầy cô giáo, bà con thân quyến, bạn hữu cả thảy.”
2- Anuddissikapattidānakusala: Phước thiện hồi hướng phần phước thiện đến chung cho tất cả chúng sinh:
“Imaṃ puññabhāgaṃ sabbasattānaṃ demi,(dema).” “Con (chúng con) xin hồi hướng phần phước thiện (bố thí, giữ giới, hành thiền) thanh cao này đến tất cả chúng sinh.”
Nếu có tác ý hồi hướng gồm cả 2 riêng và chung thì nên đọc rằng:
Imaṃ puññabhāgaṃ mātā-pitu-ācariya-ñāti-mitta-samūhānañceva sesasabbasattānañca devatānañca arakkhadevatānañca visesato guṇavantānañca dema, sabbepi te puññapattiṃ laddhāna sukhitā hontu, dukkhā muccantu sabbattha.” “Chúng con thành tâm hồi hướng, kính dâng phần phước thiện (bố thí, giữ giới, hành thiền) thanh cao này đến ông bà, cha mẹ, thầy cô giáo, bà con thân quyến, bạn hữu cả thảy, cùng tất cả chúng sinh, toàn thể chư thiên, các vị chư thiên hộ trì mỗi chúng con, đặc biệt đến các bậc ân nhân. Sau khi quý vị đã nhận phần phước thiện thanh cao này rồi, cầu mong tất cả quý vị đều được hưởng mọi sự an lạc, được giải thoát mọi cảnh khổ trong khắp mọi nơi.”
Vấn: Những hạng chúng sinh nào có cơ hội nhận được phần phước thiện của thân nhân, hoặc của các thí chủ khác hồi hướng đến cho tất cả chúng sinh, gọi là pattānumodanākusala? Đáp: Những hạng chúng sinh ấy là những chúng sinh sống gần gũi với loài người mới có cơ hội hoan hỷ nhận phần phước thiện của thân nhân hoặc của các thí chủ khác hồi hướng đến tất cả chúng sinh. Đó là: * Paradattupajīvikapeta: Loài ngạ quỷ duy trì sinh mạng do nhờ vật thực người khác cho. * Vemānikapeta: Ngạ quỷ chịu quả khổ nhẹ của ác nghiệp ban ngày, đến ban đêm hưởng quả an lạc của thiện nghiệp giữ giới. * Vinipātika asura: A-tu-la Vinipātika như chư thiên ở trên mặt đất gần gũi với loài người.
Những hạng chúng sinh này phát sinh đại thiện tâm vô cùng hoan hỷ phần phước thiện bố thí của thân nhân hoặc của các thí chủ khác, rồi nói lên lời hoan hỷ rằng: “Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!” thì ngay tức khắc hưởng được quả báu của phần phước thiện hồi hướng ấy, liền thoát khỏi kiếp ngạ quỷ, thiện nghiệp hoan hỷ nhận phần phước thiện hồi hướng ấy cho quả tái sinh làm vị thiên nam hoặc thiên nữ trên cõi trời, có hào quang sáng ngời, có y phục lộng lẫy trong lâu đài nguy nga tráng lệ, có đầy đủ các thứ của cải quý giá của chư thiên, hưởng mọi sự an lạc trong cõi trời ấy.
Quả Báu Của Pattānumodanākusala
Tích Vihāravimāna ([2]) được tóm lược những điểm chính như sau:
Một thuở nọ Đức Thế Tôn ngự tại ngôi chùa Jetavana gần kinh thành Sāvatthi. Khi ấy, Đại cận sự nữ Visākhā cùng với các bạn và đoàn thuộc hạ đều trang điểm lộng lẫy có ý định đi du ngoạn công viên. Đại cận sự nữ Visākhā trang điểm với đồ trang sức tấm choàng mahālatā cùng với 500 người bạn gái và đoàn thuộc hạ ngồi trên xe đang trên đường đi đến công viên, bà nghĩ rằng: “Ta đi du ngoạn công viên có lợi ích gì đâu! Vậy, ta nên đi đến ngôi chùa Jetavana, để đảnh lễ Đức Thế Tôn và chư Đại Đức tỳ khưu Tăng, rồi nghe Đức Phật thuyết pháp.” Sau khi nghĩ như vậy, đại cận sự nữ Visākhā dẫn đoàn đi đến gần ngôi chùa, dừng lại một nơi, bà cởi đồ trang sức tấm choàng mahālatā ra, rồi trao cho một tỳ nữ cầm. Đại cận sự nữ Visākhā đi vào giảng đường đảnh lễ Đức Thế Tôn và chư Đại Đức tỳ khưu Tăng, rồi ngồi một nơi hợp lẽ. Đức Thế Tôn thuyết pháp tế độ Đại cận sự nữ Visākhā cùng với 500 bạn gái và đoàn thuộc hạ. Sau khi nghe Đức Thế Tôn thuyết pháp xong, đại cận sự nữ Visākhā đảnh lễ Đức Thế Tôn và chư Đại Đức tỳ khưu Tăng, xin phép trở về nhà. Trên đường đi, đại cận sự nữ Visākhā bảo cô nữ tỳ trao tấm choàng mahālatā lại cho bà, thì cô tỳ nữ thưa rằng: - Kính thưa bà chủ, con để quên tấm choàng mahālatā tại giảng đường. Con xin phép trở lại giảng đường lấy tấm choàng mahālatā cho bà. Nghe cô nữ tỳ thưa như vậy, đại cận sự nữ Visākhā bảo rằng: - Này con! Nếu con đã để quên tấm choàng mahālatā tại giảng đường thì con không nên trở lại lấy nó. Ta sẽ kính dâng tấm choàng mahālatā ấy để bán lấy tiền xây dựng ngôi chùa. Đại cận sự nữ Visākhā đi trở lại đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn bạch rằng: - Kính bạch Đức Thế Tôn, con kính dâng tấm choàng mahālatā trị giá 90 triệu 100 ngàn đồng tiền vàng. Với số tiền ấy, Đức Thế Tôn cho phép con xây dựng một ngôi chùa to lớn thích hợp làm chỗ ở của Đức Thế Tôn và chư Đại Đức tỳ khưu Tăng. [1] Bộ Aṅguttaranikāya Phần Dasakanipāta, Kinh Jāṇusasoṇīsutta [2] Bộ Chú giải Vimānavatthu, Tích Vihāravimānavatthu& Nghe đại cận sự nữ Visākhā bạch như vậy, Đức Thế Tôn chấp thuận bằng cách làm thinh. - Kính bạch Đức Thế Tôn, người có khả năng mua nổi tấm choàng mahālatā này không có. Vậy, con xin mua lại tấm choàng mahālatā với giá ấy. - Kính bạch Đức Thế Tôn, con nên xây dựng ngôi chùa tại nơi nào? Bạch Ngài. Đức Thế Tôn dạy đại cận sự nữ Visākhā rằng: - Này Visākhā! Con nên xây dựng một ngôi chùa gần phía Đông cửa thành Sāvatthi. Vâng lời Đức Thế Tôn, đại cận sự nữ Visākhā mua đất, rồi xây dựng một ngôi chùa to lớn do Ngài Đại Đức Mahāmoggallāna trông coi xây dựng. Một ngôi chùa như lâu đài đồ sộ có 2 tầng gồm có 1000 phòng: tầng trên có 500 phòng và tầng dưới cũng có 500 phòng thật là nguy nga như cõi trời. Xung quanh ngôi chùa xây cất 1000 cốc nhỏ riêng biệt vắng vẻ, đường đi kinh hành, và đầy đủ mọi tiện nghi khác cho chư Đại Đức tỳ khưu Tăng. Công trình xây dựng ngôi chùa ấy suốt 9 tháng mới hoàn thành, làm lễ khánh thành ngôi chùa đặt tên ngôi chùa là Pubbārāma chi phí thêm số tiền 90 triệu đồng vàng nữa. Đại cận sự nữ Visākhā kính dâng cúng dường ngôi chùa Pubbārāma đến chư Đại Đức tỳ khưu Tăng tứ phương có Đức Phật chủ trì. Đại cận sự nữ Visākhā và 500 người bạn gái nhìn thấy ngôi chùa Pubbārāma đồ sộ nguy nga phát sinh đại thiện tâm vô cùng hoan hỷ. Khi ấy, đại cận sự nữ Visākhā nói với các người bạn gái rằng: “Imaṃ evrūpaṃ pasādaṃ kārentiyā yaṃ mayā puññaṃ pasutaṃ, taṃ anumodatha, pattidānaṃ vo dammi.” - Này các bạn gái thân mến! Tôi đã cho xây dựng ngôi chùa Pubbārāma đồ sộ như một lâu đài nguy nga thế này, đã kính dâng đến chư Đại Đức tỳ khưu Tăng tứ phương có Đức Phật chủ trì, nên đã tạo được phước thiện bố thí lớn này. Tôi xin thành tâm chia phần phước thiện thanh cao này đến cho quý bạn. Xin quý bạn nên phát sinh đại thiện tâm hoan hỷ phần phước thiện bố thí ấy.” Nghe đại cận sự nữ Visākhā chia phần phước thiện bố thí đến cho mình, nên tất cả những người bạn gái vô cùng hoan hỷ nói lên lời hoan hỷ rằng: “Aho sādhu! Aho sādhu!” “A-hô, lành thay! A-hô, lành thay!” Với đại thiện tâm vô cùng hoan hỷ. Trong nhóm những người bạn gái thân thiết ấy, một người bạn gái phát sinh đại thiện tâm vô cùng hoan hỷ đặc biệt đến phần phước thiện bố thí của đại cận sự nữ Visākhā. Về sau, người bạn gái thân thiết của đại cận sự nữ Visākhā chết, thiện nghiệp hoan hỷ phần phước thiện bố thí của đại cận sự nữ Visākhā cho quả tái sinh làm thiên nữ trên cõi trời Tam thập Tam thiên, trong lâu đài đồ sộ nguy nga tráng lệ cao 16 do-tuần, tỏa ra ánh sáng 100 do-tuần, có hồ nước rộng lớn nhiều hoa sen, hoa súng đủ loại rất xinh đẹp lạ thường. Một hôm nọ, Ngài Đại Đức Anuruddha bay lên cõi trời Tam thập Tam thiên, nhìn thấy thiên nữ bạn thân của đại cận sự nữ Visākhā nên hỏi rằng: - Này thiên nữ! Cô có thân hình rất xinh đẹp, hào quang sáng ngời tỏa ra khắp mọi phương hướng, như ngôi sao sáng trên hư không, có các tiếng nhạc trời réo rắt, có hương trời tỏa ra quanh cô. - Này thiên nữ! Tiền kiếp của cô khi ở cõi người, cô đã tạo thiện nghiệp như thế nào, mà nay kiếp hiện tại này là thiên nữ có nhiều oai lực như vậy? Nghe Ngài Đại Đức Anuruddha hỏi như vậy, vị thiên nữ vô cùng hoan hỷ bạch rằng: - Kính bạch Ngài Đại Đức, Tiền kiếp của con, khi ở cõi người, con là người bạn thân của đại cận sự nữ Visākhā. Đại cận sự nữ Visākhā cho xây dựng một ngôi chùa Pubbārāma đồ sộ nguy nga như lâu đài, làm lễ dâng cúng dường đến chư Đại Đức tỳ khưu Tăng tứ phương có Đức Phật chủ trì. Con nhìn thấy ngôi chùa Pubbārāma đồ sộ nguy nga được dâng cúng dường đến chư Đại Đức tỳ khưu Tăng mà con kính trọng, nên con phát sinh đại thiện tâm vô cùng hoan hỷ phước thiện bố thí cúng dường ấy. Khi ấy, đại cận sự nữ Visākhā vô cùng hoan hỷ nói với chúng con, bạn của bà rằng: “- Này các bạn gái thân mến! Tôi đã cho xây dựng ngôi chùa Pubbārāma đồ sộ như một lâu đài nguy nga thế này, đã kính dâng đến chư Đại Đức tỳ khưu Tăng tứ phương có Đức Phật chủ trì, nên đã tạo được phước thiện bố thí lớn này. Tôi xin thành tâm chia phần phước thiện này đến cho quý bạn. Xin quý bạn nên phát sinh đại thiện tâm hoan hỷ phần phước thiện bố thí ấy.” Khi ấy, con là một trong nhóm bạn của bà, con phát sinh đại thiện tâm vô cùng hoan hỷ nói lên lời hoan hỷ rằng: “Aho, sādhu! Aho, sādhu!”“A-hô, lành thay! A-hô, lành thay! Với đại thiện tâm vô cùng hoan hỷ. - Kính bạch Ngài Đại Đức, sau khi tiền kiếp của con chết, thiện nghiệp hoan hỷ phần phước thiện bố thí của đại cận sự nữ Visākhā ấy cho quả tái sinh làm thiên nữ trong lâu đài đồ sộ nguy nga tráng lệ tại cõi trời Tam thập Tam thiên này. Con có ánh sáng hào quang sáng ngời tỏa ra khắp mọi phương hướng, các thiên nữ khác hầu hạ đàn ca múa hát. Xung quanh lâu đài có các nhạc trời réo rắt, các hương trời tỏa ra thơm tho, có hồ nước lớn với nhiều loại hoa sen, hoa súng xinh đẹp, có khu vườn với nhiều loại cây có quả quanh năm, suốt tháng. - Kính bạch Ngài Đại Đức, tất cả những gì mà con hưởng trong kiếp hiện tại thiên nữ này, đó là quả báu của phước thiện hoan hỷ phần phước thiện bố thí của đại cận sự nữ Visākhā, trong tiền kiếp của con với đại thiện tâm vô cùng hoan hỷ. Nghe vị thiên nữ bạch tiền kiếp của cô đã phát sinh đại thiện tâm vô cùng hoan hỷ phần phước thiện bố thí của đại cận sự nữ Visākhā, nên kiếp hiện tại là thiên nữ như vậy, Ngài Đại Đức Anuruddha hỏi về đại cận sự nữ Visākhā sinh cõi trời nào rằng: - Này thiên nữ! Cô có được những quả báu đáng hài lòng này là nhờ phước thiện hoan hỷ phần phước thiện bố thí của đại cận sự nữ Visākhā. Vậy, xin cô nói cho biết đại cận sự nữ Visākhā sau khi chết, thiện nghiệp cho quả tái sinh trong cõi trời nào? Cô thiên nữ bạch với Ngài Đại Đức Anuruddha rằng: - Kính bạch Ngài Đại Đức, đại cận sự nữ Visākhā là bạn thân của con, sau khi chết, thiện nghiệp cho quả tái sinh làm Bà thiên nữ Visākhā, trở thành Chánh cung Hoàng hậu của Đức Vua trời Sunimmita trên cõi trời Nimmānaratī (Hóa lạc thiên). Còn các quả báu của thiện nghiệp của đại cận sự nữ Visākhā thì con không thể nào biết được. - Kính bạch Ngài Đại Đức, con đã bạch cho Ngài biết đại cận sự nữ Visākhā sau khi chết, thiện nghiệp cho quả hóa sinh trong cõi trời Nimmānaratī đúng sự thật vậy. Vấn: Cô thiên nữ cõi trời Tam thập Tam thiên biết Bà thiên nữ Visākhā cõi trời Hóa lạc thiên bằng cách nào? Đáp: Bà thiên nữ Visākhā từ cõi trời Hóa lạc thiên xuống thăm cô thiên nữ cõi trời Tam thập Tam thiên nói cho biết cõi trời của mình. Khi ấy, cô thiên nữ bạch thỉnh cầu Ngài Đại Đức Anuruddha rằng: - Kính bạch Ngài Đại Đức, khi Ngài trở lại cõi người, kính xin Ngài khuyên dạy mọi người nên có đức tin trong sạch làm phước thiện bố thí đến chư Đại Đức tỳ khưu Tăng, nên lắng nghe chánh pháp của Đức Phật, bởi vì “Sudullabho laddho manussalābho.” (Được sinh làm kiếp người là điều khó được lắm!) Đã được làm người rồi, thật vô cùng diễm phúc gặp thời kỳ Đức Phật Gotama đã xuất hiện trên thế gian, Đức Pháp Bảo, và Đức Tăng Bảo đã xuất hiện trên thế gian. Xin quý vị phát sinh đại thiện tâm có đức tin trong sạch làm phước thiện bố thí, cúng dường đến chư Thánh Tăng Thanh Văn đệ tử của Đức Phật Chánh Đẳng Giác, có 4 đôi, 8 bậc Thánh là phước điền cao thượng của chúng sinh không đâu sánh được. Cho nên, những thí chủ nào làm phước thiện bố thí, cúng dường những thứ vật dụng cần thiết đến chư Đại Đức tỳ khưu Tăng, dù ít, dù nhiều, chắc chắn những thí chủ ấy được phước thiện bố thí lớn lao vô lượng, có quả báu lớn lao vô lượng, cũng ví như nước biển đại dương không thể biết được số lượng nhiều bao nhiêu. Sau khi những thí chủ ấy chết, thiện nghiệp bố thí ấy cho quả tái sinh làm thiên nam hoặc thiên nữ trên cõi trời dục giới, hưởng mọi sự an lạc trong cõi trời ấy cho đến hết tuổi thọ. Cô thiên nữ đã hưởng được mọi quả báu thật đáng hài lòng của phước thiện hoan hỷ phần phước thiện bố thí của đại cận sự nữ Visākhā, nên cô nhắn lời khuyên bảo mọi người nên làm phước thiện bố thí những thứ vật dụng cần thiết đến chư Đại Đức tỳ khưu Tăng, để được nhiều phước thiện vô lượng, có quả báu cũng vô lượng, được hưởng sự an lạc trong kiếp hiện tại và vô số kiếp vị lai, đặc biệt còn làm duyên lành để giải thoát khỏi cảnh khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài. Đức Vua Trời Sakka Thỉnh Cầu Đức Phật Ban Phước Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại ngôi chùa Jetavana, gần kinh thành Sāvatthi. Khi ấy, Đức Vua trời Sakka ngự đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn cùng đoàn chư thiên đông đảo, Đức Thế Tôn truyền hỏi Đức Vua trời Sakka rằng: - Này Thiên vương! Do nhân nào mà Thiên vương ngự đến cùng với đoàn chư thiên đông đảo như vậy? Đức Vua trời Sakka bạch với Đức Thế Tôn rằng: - Kính bạch Đức Thế Tôn, toàn thể chư thiên hội họp, đàm đạo với nhau có đặt ra 4 câu hỏi mà suốt 12 năm qua không một vị nào có khả năng giải đáp được. Đó là nguyên nhân mà con ngự đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn cùng với đoàn chư thiên đông đảo như thế này. - Kính bạch Đức Thế Tôn, 4 câu hỏi: 1- Trong tất cả các sự bố thí, bố thí gì? Bậc thiện trí gọi là bố thí cao thượng nhất. 2- Trong tất cả các loại vị, thứ vị nào? Bậc thiện trí gọi là thứ vị cao thượng nhất. 3- Trong tất cả các sự hỷ lạc, hỷ lạc gì? Bậc thiện trí gọi là sự hỷ lạc cao thượng nhất. 4- Sự đoạn tuyệt mọi tham ái, tại sao? Bậc thiện trí gọi là cao thượng nhất, Nghe Đức Vua trời Sakka bạch hỏi 4 câu hỏi như vậy, Đức Thế Tôn truyền dạy rằng: - Này Thiên vương! Như Lai đã tạo đầy đủ trọn vẹn 30 pháp hạnh Ba-la-mật, đã trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác cốt để giải đáp mọi thắc mắc của tất cả chúng sinh như Thiên vương bây giờ. Xin Thiên vương lắng nghe Như Lai giải đáp: 1- Trong tất cả các sự bố thí, pháp thí là sự bố thí cao thượng nhất. 2- Trong tất cả các loại vị, pháp vị là vị cao thượng nhất. 3- Trong tất cả các sự hỷ lạc, pháp hỷ lạc là cao thượng nhất. 4- Sự đoạn tuyệt mọi tham ái là cao thượng thật sự, bởi vì trở thành bậc Thánh Arahán, giải thoát mọi cảnh khổ tử sinh luân hồi trong tam giới. Đức Phật thuyết câu kệ Dhammapadagāthā số 354: “Sabbadānaṃ dhammadānaṃ jināti, Sabbarasaṃ dhammaraso jināti, Sabbaratiṃ dhammaratiṃ jināti, Taṇhakkhayo sabbadukkhaṃ jināti.” ([1]) Pháp thí là cao thượng hơn tất cả mọi sự bố thí, Pháp vị là cao thượng hơn tất cả mọi thứ vị, Pháp hỷ lạc là cao thượng hơn tất cả mọi sự hỷ lạc, Sự đoạn tuyệt mọi tham ái, trở thành bậc Thánh A-ra- hán là cao thượng thật sự, vì giải thoát khỏi tất cả mọi cảnh khổ sinh tử luân hồi. Giảng Giải: *Sabbadāna: Tất cả mọi sự bố thí: Sự bố thí cúng dường những tấm y quý giá, những vật thực ngon lành, những chỗ ở đầy đủ tiện nghi, những thuốc trị bệnh hay, v.v... thuộc về āmisadāna, các vật thí này cúng dường đến Đức Phật Chánh Đẳng Giác, Đức Phật Độc Giác, chư Thánh Thanh Văn Giác,… Phước thiện bố thí āmisadāna, các vật thí này sẽ cho quả báu có nhiều của cải đầy đủ, giàu sang phú quý trong kiếp hiện tại và vô số kiếp vị lai. *Dhammadāna: Pháp thí đó là bố thí chánh pháp của Đức Phật như thuyết chánh pháp, dạy chánh pháp, đàm đạo chánh pháp, sự ấn hành sách học chánh pháp, phân phát sách dạy chánh pháp, v.v… đều gọi là dhamma-dāna: pháp thí. Phước thiện pháp thí cho quả báu có trí tuệ sáng suốt, phát sinh trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh của các danh pháp, sắc pháp; trí tuệ thiền tuệ chứng ngộ chân lý tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh nhân. Vì vậy, tất cả moi sự bố thí thuộc về āmisadāna, các vật thí dù nhiều đến bao nhiêu đi nữa cũng không thể sánh với dhammadāna, pháp thí được. Thật vậy, thí chủ làm phước thiện bố thí thuộc về āmisadāna chỉ có thể giúp cho người thọ thí bớt khổ trong kiếp hiện tại, được sự an lạc có giới hạn mà thôi. Còn thí chủ làm phước thiện bố thí thuộc về dhamma-dāna dù chỉ một bài kệ gồm có 4 câu, mà những người nhận hiểu biết rõ ý nghĩa bài kệ ấy, rồi thực hành theo chánh pháp cũng dắt dẫn cho họ chứng ngộ chân lý tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh nhân, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài. Như trường hợp Ngài Đại Đức Sāriputta vốn là bậc đại trí tuệ, nhưng khi Ngài còn là tu sĩ tên Upatissa đệ tử của vị Đạo sư ngoại đạo Sañcaya, Ngài không thể chứng ngộ chân lý tứ Thánh Đế được. Đến khi tu sĩ Upatissa nghe Ngài Đại Đức Assji thuyết dạy bài kệ gồm có 4 câu, mới nghe 2 câu đầu, tu sĩ Upatissa liền chứng ngộ chân lý tứ Thánh Đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo - Nhập Lưu Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu. Cho nên, pháp thí là cao thượng hơn tất cả mọi sự thí. *Sabbarasa: Tất cả mọi thứ vị đó là các thứ vị ngon của các món ăn, thức uống của con người, hoặc của chư thiên trong các cõi trời dục giới, … Tất cả mọi thứ vị ngon ấy làm nhân duyên để cho chúng sinh dễ phát sinh tâm tham ái trong vị, say đắm trong vòng tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài. *Dhammarasa: Pháp vị đó là vị của chánh pháp 37 Pháp gọi là Bodhipakkhiyadhamma dẫn đến chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn, gọi là 9 Pháp Siêu tam giới, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài. Đức Phật dạy rằng: “Seyyathāpi Pahārāda, mahāsamuddo ekaraso loṇaraso. Evamevaṃ kho Pahārāda, ayaṃ dhamma-vinayo ekaraso vimuttiraso. Ayampi Pahārāda, ayaṃ dhammavinayo ekaraso vimuttiraso,… ([2])” - Này Pahārāda! Như đại dương chỉ có vị duy nhất là ‘vị mặn’. - Này Pahārāda! Cũng như vậy, pháp và luật này của Như Lai chỉ có vị duy nhất là“vị giải thoát khổ” mà thôi. - Này Pahārāda! pháp và luật này chỉ có vị duy nhất là “vị giải thoát khổ” mà thôi. Cho nên, dhammarasa pháp vị đó là Vimuttirasa: Vị giải thoát khổ là vị cao thượng hơn tất cả mọi thứ vị. *Sabbarati: Tất cả mọi sự hỷ lạc là sự hỷ lạc trong của cải, trong danh vọng, trong con cái thành đạt, hoặc phát sinh hỷ lạc khi xem ca hát nhảy múa, khi nghe nhạc, nghe hát hay, v.v… Tất cả moi sự hỷ lạc ấy làm nhân duyên để cho chúng sinh dễ phát sinh tâm tham ái trong hỷ lạc, say đắm trong vòng tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài. *Dhammarati: Pháp hỷ lạc như hành giả thực hành pháp hành thiền định, phát sinh pháp hỷ lạc trong bậc thiền, rồi hành giả xả bậc thiền, tiếp tục thực hành pháp hành thiền tuệ dẫn đến chứng ngộ chân lý tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán an hưởng sự an lạc tịch tịnh Niết Bàn. Đến khi hết tuổi thọ, bậc Thánh A-ra-hán tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài. Cho nên, Pháp hỷ lạc là cao thượng hơn tất cả mọi sự hỷ lạc trong đời. *Taṇhakkhaya: Diệt đoạn tuyệt được mọi tham ái thì các hạng phàm nhân không có khả năng diệt được, mà chỉ có 4 bậc Thánh Nhân mới có khả năng diệt đoạn tuyệt được tham ái mà thôi. *Bậc Nhập Lưu Thánh Đạo tuệ có khả năng diệt đoạn tuyệt được tham ái trong 4 tâm tham hợp với tà kiến. Cho nên, Bậc Thánh Nhập Lưu vĩnh viễn không còn khổ tái sinh trong 4 cõi ác giới: địa ngục, a-tu-la, ngạ quỷ, súc sinh nữa, mà chỉ còn tái sinh trong cõi thiện giới: cõi người và 6 cõi trời dục giới nhiều nhất 7 kiếp nữa. Đến kiếp thứ 7, chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán diệt đoạn tuyệt mọi tham ái không còn dư sót nữa, rồi tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài. *Bậc Nhất Lai Thánh Đạo tuệ có khả năng diệt đoạn tuyệt được tham ái loại thô trong cõi dục giới trong 4 tâm tham không hợp với tà kiến. Cho nên, bậc Thánh Nhất Lai chỉ còn tái sinh trong cõi thiện giới: cõi người hoặc cõi trời dục giới một kiếp duy nhất nữa mà thôi. Trong kiếp ấy chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán diệt đoạn tuyệt mọi tham ái không còn dư sót nữa, rồi tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài. *Bậc Bất Lai Thánh Đạo tuệ có khả năng diệt đoạn tuyệt được tham ái loại vi tế trong cõi dục giới trong 4 tâm tham không hợp với tà kiến. Cho nên, bậc Thánh Bất Lai không còn trở lại tái sinh trong cõi dục giới, mà chỉ còn tái sinh trên cõi trời sắc giới, rồi chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán diệt đoạn tuyệt mọi tham ái không còn dư sót nữa, rồi tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài. *Bậc A-ra-hán Thánh Đạo tuệ có khả năng diệt đoạn tuyệt được tham ái trong 4 tâm tham không hợp với tà kiến không còn dư sót. Cho nên bậc Thánh A-ra-hán đến khi hết tuổi thọ, đồng thời tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài. Taṇhakkhaya: Diệt đoạn tuyệt được mọi tham ái không còn dư sót thì chắc chắn là bậc Thánh A-ra-hán. *Sabbadukkha: Tất cả mọi cảnh khổ đều không còn nữa, khi bậc Thánh A-ra-hán tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt mọi cảnh khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài. Cho nên, sự đoạn tuyệt mọi tham ái, trở thành bậc Thánh A-ra-hán là cao thượng thật sự, vì giải thoát khỏi tất cả mọi cảnh khổ tử sinh luân hồi. Đức Vua Trời Sakka Thỉnh Cầu Đức Phật Ban Phước Sau khi Đức Thế Tôn thuyết dạy bài kệ như vậy, Đức Vua trời Sakka đảnh lễ Đức Thế Tôn bạch rằng: “Bhante evaṃ jeṭṭhake nāma dhammadāne kimatthaṃ amhākaṃ pattiṃ na dāpetha, ito paṭṭhāya no bhikkhusaṃghassa kathetvā pattiṃ dāpetha Bhante.” ([3]) - Kính bạch Đức Thế Tôn, phước thiện pháp thí là cao thượng hơn tất cả mọi phước thiện bố thí khác như vậy, sao Ngài không truyền bảo chư tỳ khưu Tăng ban cho chúng con phần phước thiện pháp thí cao thượng ấy. - Kính bạch Đức Thế Tôn, từ nay về sau, kính xin Ngài truyền bảo chư tỳ khưu Tăng ban cho chúng con phần phước thiện pháp thí ấy. Nghe lời thỉnh cầu của Đức Vua trời Sakka như vậy, Đức Thế Tôn truyền bảo hội chư tỳ khưu Tăng lại, Đức Thế Tôn truyền dạy rằng: “Bhikkhave, Ajjādiṃ katvā mahādhammassavanaṃ vā pākatikadhammassavanaṃ vā upanisinnakathaṃ vā antamaso anumodanampi kathetvā sabbasattānaṃ pattiṃ dadeyyātha.” - Này chư Tỳ khưu! Từ nay về sau, các con nghe chánh pháp nhiều hoặc nghe chánh pháp thường ngày hoặc ngồi đàm đạo chánh pháp, dù ít nhất nói lời hoan hỷ, thì các con cũng nên ban phần phước thiện pháp thí cao thượng ấy đến cho tất cả chúng sinh. Như vậy, pattidānakusala, phước thiện hồi hướng (biếu, dâng, cho) phần phước thiện của mình đến cho người khác, và pattānumodanākusala, phước thiện hoan hỷ nhận phần phước thiện của người khác biếu cho (dâng cho) mình có liên quan với nhau. Người hồi hướng phần phước thiện của mình là tạo phước thiện hồi hướng (pattidānakusala) và người nhận phần phước thiện của người khác là cũng tạo phước thiện hoan hỷ (pattānumodanākusala). |