|
Tam-Tuệ-Luân (Tiparivaṭṭa)
Đức-Phật dạy rằng:
Yato ca kho me bhikkhave, imesu catūsu ariyasaccesu evaṃ tiparivaṭṭaṃ dvādasākāraṃ yathābhūtaṃ ñāṇadassanaṃ suvisuddhaṃ ahosi, athā’haṃ bhikkhave, sadevake loke samārake sabrahmake sassamaṇabrahmaṇiyā pajāya sadevamanussāya “anuttaraṃ sammā-sambodhiṃ abhisambuddho’ti paccaññāsiṃ…”
“- Này chư Tỳ-khưu! Khi nào trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của tứ Thánh-đế theo tam-tuệ-luân (trí-tuệ-học, trí-tuệ-hành, trí-tuệ-thành) thành 12 loại trí-tuệ hoàn toàn trong sáng thanh tịnh đã phát sinh đến với Như-Lai…”
- Này chư Tỳ-khưu! Khi ấy, Như-Lai dõng dạc khẳng định truyền dạy rằng: “Như-Lai đã chứng đắc thành Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác vô thượng trong toàn cõi thế giới chúng-sinh nhân-loại, vua chúa, Sa-môn, Bà-la-môn, chư-thiên, Ma-vương, Phạm thiên cả thảy”.
Tứ Thánh-đế theo Tam-tuệ-luân là thế nào?
Tam-tuệ-luân đó là 3 loại trí-tuệ luân chuyển theo tuần tự trong tứ Thánh-đế là:
1- Saccañāṇa: Trí-tuệ-học trong tứ Thánh-đế, 2- Kiccañāṇa: Trí-tuệ-hành phận-sự trong tứ Thánh-đế, 3- Katañāṇa: Trí-tuệ-thành hoàn thành xong phận sự trong tứ Thánh-đế.
Giảng Giải
1- Saccañāṇa: Trí-Tuệ-Học Trong Tứ Thánh-Đế
Hành giả thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ, điều trước tiên cần phải học về phần pháp-học của tứ Thánh-đế, đó là 4 trí-tuệ-học trong tứ Thánh-đế cho hiểu rõ các chi pháp của mỗi Thánh-đế như sau:
1.1- Trí-Tuệ-Học Trong Khổ-Thánh-Đế
Trí-tuệ-học trong Khổ-Thánh-đế là học về ngũ-uẩn-chấp-thủ (pañcupadānakkhandha) nghĩa là ngũ-uẩn là đối-tượng của 4 pháp-chấp-thủ (tham-dục-chấp-thủ, tà-kiến-chấp-thủ, pháp-thường-hành-chấp-thủ,ngã-kiến-chấp-thủ).
Ngũ-uẩn-chấp-thủ có 5 uẩn là:
1- Sắc-uẩn-chấp-thủ đó là 28 sắc-pháp, là đối-tượng của pháp-chấp-thủ.
2- Thọ-uẩn-chấp-thủ đó là thọ tâm-sở đồng sinh với 81 tam-giới-tâm, là đối-tượng của pháp-chấp-thủ.
3- Tưởng-uẩn-chấp-thủ đó là tưởng tâm-sở đồng sinh với 81 tam-giới-tâm, là đối-tượng của pháp-chấp-thủ.
4- Hành-uẩn-chấp-thủ đó là 50 tâm-sở (trừ thọ và tưởng tâm-sở) đồng sinh với 81 tam-giới-tâm, là đối-tượng của pháp-chấp-thủ.
5- Thức-uẩn-chấp-thủ đó là 81 tam-giới-tâm, là đối-tượng của pháp-chấp-thủ.
* Mỗi tâm phát sinh chắc chắn có một số tâm-sở đồng sinh với tâm ấy, nên có 4 uẩn phát sinh:
- Tâm ấy thuộc về thức-uẩn, - Thọ tâm-sở đồng sinh với tâm ấy thuộc về thọ-uẩn, - Tưởng tâm-sở đồng sinh với tâm ấy thuộc về tưởng-uẩn, - Số tâm-sở còn lại đồng sinh với tâm ấy thuộc về hành-uẩn. - Và vatthurūpa là nơi nương nhờ của tâm với tâm-sở ấy phát sinh thuộc về sắc-uẩn.
* Đối với tất cả chúng-sinh trú trong 11 cõi dục-giới và chư phạm-thiên trú trong 15 cõi sắc-giới (trừ cõi trời Vô-tưởng-thiên) đều có đủ ngũ-uẩn.
* Đối với tất cả chư phạm-thiên trú trong 4 cõi vô-sắc-giới chỉ có 4 danh-uẩn mà thôi, không có sắc-uẩn.
* Đối với tất cả phạm-thiên trú trong cõi sắc-giới Vô-tưởng-thiên chỉ có 1 uẩn là sắc-uẩn.
Trong ngũ-uẩn-chấp-thủ này:
* Sắc-uẩn-chấp-thủ thuộc về sắc-pháp,
* Thọ-uẩn-chấp-thủ, tưởng-uẩn-chấp-thủ, hành-uẩn-chấp-thủ, thức-uẩn-chấp-thủ thuộc về danh-pháp.
Như vậy, ngũ-uẩn-chấp-thủ hoặc sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới là Khổ-Thánh-đế mà bậc Thánh-nhân đã chứng ngộ.
1.2-Trí-Tuệ-Học Trong Nhân-Sinh-Khổ-Thánh-Đế
Trí-tuệ-học trong Nhân-sinh-Khổ-Thánh-đế đó là học về các loại tham-ái.
Tham-ái có 3 loại, 6 loại, 18 loại, 54 loại,108 loại
* Tham-ái có 3 loại là:
1- Kāmataṇhā: Dục-ái là tham-ái trong 6 đối-tượng: sắc-ái, thanh-ái, hương-ái, vị-ái, xúc-ái, pháp-ái.
2- Bhavataṇhā: Hữu-ái là tham-ái trong 6 đối-tượng (sắc-ái, thanh-ái, hương-ái, vị-ái, xúc-ái, pháp-ái) hợp với thường-kiến, và tham-ái trong thiền sắc-giới-tâm, thiền vô-sắc-giới-tâm, trong cõi trời sắc-giới, cõi trời-vô-sắc-giới.
3- Vibhavataṇhā: Phi-hữu-ái là tham-ái trong 6 đối-tượng (sắc-ái, thanh-ái, hương-ái, vị-ái, xúc-ái, pháp-ái) hợp với đoạn-kiến.
* Tham-ái có 6 loại là:
1- Rūpataṇhā: Sắc-ái là tham-ái trong đối-tượng sắc-dục 2- Saddataṇhā: Thanh-ái là tham-ái trong đối-tượng thanh-dục, 3- Gandhataṇhā: Hương-ái là tham-ái trong đối-tượng hương-dục, 4- Rasataṇhā: Vị-ái là tham-ái trong đối-tượng vị-dục, 5- Phoṭṭhabbataṇhā: Xúc-ái là tham-ái trong đối-tượng xúc-dục, 6- Dhammataṇhā: Pháp-ái là tham-ái trong đối-tượng pháp-dục,
* Tham-ái có 18 loại là 3 loại tham-ái nhân với 6 đối-tượng thành 18 loại tham-ái.
* Tham-ái có 54 loại là 18 loại tham-ái nhân với 3 thời: - Thời quá-khứ có 18 loại tham-ái, - Thời hiện-tại có 18 loại tham-ái, - Thời vị-lai có 18 loại tham-ái, Trong 3 thời gồm có 54 loại tham-ái.
* Tham-ái có 108 loại là 54 loại tham-ái nhân với 2 bên: - Bên trong của mình có 54 loại tham-ái, - Bên ngoài mình, của người khác, vật khác có 54 loại tham-ái. Trong 2 bên gồm có 108 loại tham-ái.
Các loại tham-ái đều thuộc về Nhân-sinh-Khổ-Thánh-đế mà bậc Thánh-nhân đã chứng ngộ.
1.3- Trí-Tuệ-Học Trong Diệt-Khổ-Thánh-Đế
Trí-tuệ-học trong Diệt-Khổ-Thánh-đế đó là học về các loại Niết-bàn.
* Niết-bàn có 2 loại:
1- Sa upādisesanibbāna: Hữu-dư-Niết-bàn là Niết-bàn đối với chư bậc Thánh-A-ra-hán đã diệt-đoạn-tuyệt mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, còn gọi là phiền-não-Niết-bàn (kilesaparinibbāna), nhưng ngũ-uẩn vẫn còn tồn tại cho đến khi hết tuổi thọ.
2- Anupādisesanibbāna: Vô-dư-Niết-bàn là Niết-bàn đối với chư bậc Thánh-A-ra-hán đã diệt-đoạn-tuyệt mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót; đến lúc hết tuổi thọ, bậc Thánh-A-ra-hán tịch diệt Niết-bàn, còn gọi là ngũ-uẩn-Niết-bàn (khandhaparinibbāna), giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam-giới.
* Niết-bàn có 3 loại:
1-Animittanibbāna: Vô-hiện-tượng-Niết-bàn là Niết-bàn đối với hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ có trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của danh-pháp hoặc sắc-pháp, hiện rõ trạng-thái-vô-thường (aniccalakkhaṇa) hơn trạng-thái-khổ, trạng-thái-vô-ngã, do năng lực của tín-pháp-chủ (sadhindriya) hơn 4 pháp-chủ khác (tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ). Hoặc do năng lực của giới (sīla), dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn. Niết-bàn ấy gọi là Animittanibbāna: Vô-hiện-tượng-Niết-bàn là Niết-bàn không có hiện tượng của các pháp-hữu-vi.
2- Appaṇihitanibbāna: Vô-ái-Niết-bàn là Niết-bàn đối với hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ có trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của danh-pháp hoặc sắc-pháp, hiện rõ trạng-thái-khổ (dukkhalakkhaṇa) hơn trạng-thái-vô-thường, trạng-thái-vô-ngã, do năng lực của định-pháp-chủ (samādhindriya) hơn 4 pháp-chủ khác (tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ). Hoặc do năng lực của định (samādhi) dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn. Niết-bàn ấy gọi là Appaṇihita-nibbāna: Vô-ái-Niết-bàn là Niết-bàn không có tham-ái nương nhờ.
3- Suññatanibbāna: Chơn-không-Niết-bàn là Niết-bàn đối với hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ có trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của danh-pháp hoặc sắc-pháp, hiện rõ trạng-thái-vô-ngã (anattalakkhaṇa) hơn trạng- thái-vô-thường, trạng-thái-khổ, do năng lực của tuệ-pháp-chủ (paññindriya) hơn 4 pháp-chủ khác (tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ). Hoặc do năng lực của tuệ (paññā), dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn. Niết-bàn ấy gọi là Suññatanibbāna: Chơn-không-Niết-bàn là Niết-bàn hoàn toàn vô-ngã, không phải ta, không phải của ta.
Những Niết-bàn này đều thuộc về Diệt-Khổ-Thánh-đế mà bậc Thánh nhân đã chứng ngộ.
1.4- Trí-Tuệ-Học Trong Pháp-Hành Dẫn Đến Diệt-Khổ-Thánh-Đế
Trí-tuệ-học trong Pháp-hành dẫn đến Diệt-Khổ-Thánh-đế đó là học về pháp-hành-Bát-chánh-đạo.
Bát-chánh-đạo có 8 chánh:
1- Sammādiṭṭhi: Chánh-kiến là trí-tuệ chân-chính, trí-tuệ-thiền-tuệ chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế,
2- Sammāsaṅkappa: Chánh-tư-duy là tư duy chân-chính, có 3 pháp: - Tư duy thoát ra khỏi ngũ-dục (sắc-dục, thanh-dục, hương-dục, vị-dục, xúc-dục). - Tư duy không làm khổ mình, khổ người, - Tư duy không làm hại mình, hại người.
3- Sammāvācā: Chánh-ngữ là lời nói chân-chính có 4 điều: - Không nói dối, - Không nói lời chia rẽ, - Không nói lời thô tục, - Không nói lời vô ích.
4- Sammākammanta: Chánh-nghiệp là nghề nghiệp chân-chính có 3 điều: - Không sát sinh, - Không trộm cắp, - Không tà dâm.
5- Sammā-ājīva: Chánh-mạng là nuôi mạng chân-chính, tránh xa cách sống tà-mạng do thân hành ác-nghiệp, khẩu nói ác-nghiệp.
6- Sammāvāyāma: Chánh-tinh-tấn là tinh tấn chân chính có 4 pháp: - Tinh tấn ngăn ác pháp không cho sinh, - Tinh tấn diệt ác pháp đã phát sinh, - Tinh tấn làm cho thiện pháp chưa sinh, được phát sinh, - Tinh tấn làm tăng trưởng thiện pháp đã phát sinh.
7- Sammāsati: Chánh-niệm là niệm chân chính, có 4 pháp-hành tứ-niệm-xứ:
- Thân-niệm-xứ: Thân là đối-tượng của chánh- niệm, trí-tuệ-tỉnh-giác, - Thọ-niệm-xứ: Thọ là đối-tượng của chánh- niệm, trí-tuệ-tỉnh-giác, - Tâm-niệm-xứ: Tâm là đối-tượng của chánh-niệm, trí-tuệ-tỉnh-giác, - Pháp-niệm-xứ: Pháp là đối-tượng của chánh-niệm, trí-tuệ-tỉnh-giác.
8- Sammāsamādhi: Chánh-định là định-tâm chân-chính trong 4 hoặc 20 Thánh-đạo-tâm và 4 hoặc 20 Thánh-quả-tâm thuộc về siêu-tam-giới-tâm, có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới.
Bát-chánh-đạo đó là 8 loại tâm-sở:
* Chánh-kiến đó là trí-tuệ tâm-sở , * Chánh-tư-duy đó là hướng-tâm tâm-sở, * Chánh-ngữ đó là chánh-ngữ tâm-sở , * Chánh-nghiệp đó là chánh-nghiệp tâm-sở, * Chánh-mạng đó là chánh-mạng tâm-sở, * Chánh-tinh-tấn đó là tinh-tấn tâm-sở, * Chánh-niệm đó là niệm tâm-sở, * Chánh-định đó là nhất-tâm tâm-sở. 8 loại tâm-sở này gọi là bát-chánh-đạo chỉ cùng đồng sinh với 8 hoặc 40 siêu-tam-giới-tâm có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới mà thôi, bởi vì trong bát-chánh-đạo có 3 tiết-chế tâm-sở (viraticetasika): chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng thuộc về loại niyata ekatocetasika, 3 tâm-sở cố định chỉ cùng đồng sinh với 8 hoặc 40 siêu-tam-giới-tâm có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới mà thôi.
* Chánh-ngữ tâm-sở, chánh-nghiệp tâm-sở, chánh-mạng tâm-sở là 3 tiết-chế tâm-sở thuộc về loại aniyatayogīcetasika: bất-định tâm-sở còn thuộc loại nānākadāci: mỗi tâm-sở riêng rẽ đồng sinh với 8 dục-giới-đại-thiện-tâm, bởi vì mỗi tâm-sở này có mỗi đối tượng khác nhau.
Bát-Chánh-Đạo TheoTam-Giới Và Siêu-Tam-Giới
Bát-chánh-đạo có 8 chánh mà mỗi chánh có nhiều loại, phân biệt bát-chánh-đạo tam-giới và bát-chánh-đạo siêu-tam-giới như sau:
* Chánh-kiến (Sammādiṭṭhi) là trí-tuệ chân chính thấy đúng, biết đúng có 5 loại:
1- Kammassatā sammādiṭṭhi: Chánh-kiến-sở-nghiệp là trí-tuệ thấy đúng, biết đúng thiện- nghiệp và ác-nghiệp mà ta đã tạo rồi là thuộc của riêng ta, chỉ có ta là người thừa hưởng quả an lạc của thiện-nghiệp và chịu quả khổ của ác- nghiệp ấy mà thôi.
2- Vipassanā sammādiṭṭhi: Chánh-kiến-thiền-tuệ là trí-tuệ-thiền-tuệ-tam-giới (lokiyavipassanā) thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của danh-pháp, sắc-pháp, nên hiện rõ 3 trạng-thái-chung: trạng-thái-vô-thường, trạng-thái-khổ, trạng-thái-vô-ngã của danh-pháp, sắc-pháp.
3- Maggasammādiṭṭhi: Chánh-kiến-Thánh-đạo- tuệ là trí-tuệ-thiền-tuệ-siêu-tam-giới (lokuttara- vipassanā) chứng đắc Thánh-đạo-tuệ có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới.
4- Phalasammādiṭṭhi: Chánh-kiến-Thánh-quả-tuệ là trí-tuệ-thiền-tuệ-siêu-tam-giới (lokuttara-vipassanā) chứng đắc Thánh-quả-tuệ có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới.
5- Paccavekkhaṇā sammādiṭṭhi: Chánh-kiến-quán-triệt là trí-tuệ quán triệt Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn, phiền não nào đã bị diệt-đoạn-tuyệt và phiền não nào chưa bị diệt.
Trong 5 loại chánh-kiến này, chánh-kiến-sở-nghiệp, chánh-kiến-thiền-tuệ, và chánh-kiến-quán-triệt thuộc về tam-giới.
Chánh-kiến-Thánh-đạo-tuệ và chánh-kiến-Thánh-quả-tuệ thuộc về siêu-tam-giới.
Chánh-kiến đó là trí-tuệ tâm-sở (paññindriya-cetasika) đồng sinh với 4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ, 4 đại-duy-tác-tâm hợp với trí-tuệ, 5 sắc-giới-thiện-tâm, 5 sắc-giới-duy-tác-tâm, 4 vô-sắc-giới-thiện-tâm, 4 vô-sắc-giới-duy-tác-tâm, 4 Thánh-đạo-tâm, 4 Thánh-quả-tâm.
* Nếu khi trí-tuệ tâm-sở đồng sinh với tam-giới-tâm ấy thì chánh-kiến thuộc về tam-giới.
* Nếu khi trí-tuệ tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm thì chánh-kiến thuộc về siêu-tam-giới.
* Chánh-tư-duy (Sammāsaṅkappa) là tư duy chân-chính có 3 điều:
1- Tư duy thoát ra khỏi ngũ-dục, 2- Tư duy không làm khổ mình, khổ người, 3- Tư duy không làm hại mình, hại người,
Chánh-tư-duy đó là hướng-tâm tâm-sở (vitakkacetasika) đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm, 8 đại-duy-tác-tâm, đệ nhất thiền sắc-giới-thiện-tâm, đệ nhất thiền sắc-giới-duy-tác-tâm, 4 Thánh-đạo-tâm, 4 Thánh-quả-tâm.
*Nếu khi hướng-tâm tâm-sở đồng sinh với tam-giới-tâm ấy thì chánh-tư-duy thuộc về tam-giới.
* Nếu khi hướng-tâm tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm thì chánh-tư-duy thuộc về siêu-tam-giới.
* Chánh-ngữ (Sammāvācā) là lời nói chân-chính, có 3 loại:
1- Kathā sammāvācā: Chánh-ngữ lời-nói là lời nói hay, nói thật, lời nói chân-chính đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài đến cho người nghe.
2- Cetanā sammāvācā: Chánh-ngữ tác-ý là tác-ý thiện-tâm tránh xa 4 tà-ngữ: - Tránh xa lời nói dối, mà nói lời chơn-thật, - Tránh xa lời nói chia-rẽ, mà nói lời hoà-hợp, - Tránh xa lời thô-tục, mà nói lời dịu dàng - Tránh xa lời vô-ích, mà nói lời hữu-ích.
3- Virati sammāvācā: Chánh-ngữ tiết-chế là tiết-chế-tâm-sở tránh xa tà-ngữ, khi đang thực hành pháp-hành-thiền-tuệ.
Trong 3 loại chánh-ngữ này, chánh-ngữ lời-nói và chánh-ngữ tác-ý thuộc về tam-giới.
Chánh-ngữ tiết-chế đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm thuộc về siêu-tam-giới.
Chánh-ngữ đó là chánh-ngữ tâm-sở (sammā-vācācetasika) đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm, 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm.
* Nếu khi chánh-ngữ tâm-sở đồng sinh với tam-giới tâm ấy thì chánh-ngữ thuộc về tam-giới.
* Nếu khi chánh-ngữ tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm thì chánh-ngữ thuộc về siêu-tam-giới.
* Chánh-nghiệp (Sammākammanta) là nghề nghiệp chân-chính có 3 loại:
1-Kriyā sammākammanta: Chánh-nghiệp hành- động là hành động thiện-nghiệp đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài đến cho mọi người, mọi chúng-sinh.
2- Cetanā sammākammanta: Chánh-nghiệp tác-ý là tác-ý thiện-tâm tránh xa tà-nghiệp: - Tránh xa sự sát-sinh,, - Tránh xa sự trộm-cắp, - Tránh xa sự tà-dâm.
3- Virati sammākammanta: Chánh-nghiệp tiết-chế là tiết-chế tâm-sở tránh xa tà-nghiệp, khi đang thực hành pháp-hành-thiền-tuệ.
Trong 3 loại chánh-nghiệp này, chánh-nghiệp hành-động và chánh-nghiệp tác-ý thuộc về tam giới.
* Chánh-nghiệp tiết-chế đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm thuộc về siêu-tam-giới.
Chánh-nghiệp đó là chánh-nghiệp tâm-sở (sammākammantacetasika) đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm, 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm.
* Nếu khi chánh-nghiệp tâm-sở đồng sinh với tam-giới-tâm ấy thì chánh-nghiệp thuộc về tam-giới.
* Nếu khi chánh-nghiệp tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm thì chánh-nghiệp thuộc về siêu-tam-giới.
* Chánh-mạng (Sammā-ājīva) là nuôi mạng chân-chính có 2 loại:
1- Viriya sammā-ājīva: Chánh-mạng tinh-tấn là tinh tấn nuôi mạng chân-chính, từ bỏ cách sống tà-mạng do thân hành ác-nghiệp, khẩu nói ác-nghiệp.
2- Virati sammā-ājīva: Chánh-mạng tiết-chế là tiết-chế tâm-sở tránh xa cách sống tà-mạng, khi đang thực hành pháp-hành-thiền-tuệ.
Trong 2 loại chánh mạng này, chánh-mạng tinh-tấn thuộc về tam giới.
* Chánh-mạng tiết-chế đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm thuộc về siêu-tam-giới.
Chánh-mạng đó là chánh-mạng tâm-sở (sammā-ājīvacetasika) đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm, 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm.
* Nếu khi chánh-mạng tâm-sở đồng sinh với tam-giới-tâm ấy thì chánh-mạng thuộc về tam-giới.
* Nếu khi chánh-mạng tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm thì chánh-mạng thuộc về siêu-tam-giới.
* Chánh-tinh-tấn (Sammāvāyāma) là tinh-tấn chân chính, có 4 điều: - Tinh tấn ngăn ác pháp không cho sinh, - Tinh tấn diệt ác pháp đã phát sinh, - Tinh tấn làm cho thiện pháp chưa sinh, được phát sinh, - Tinh tấn làm tăng trưởng thiện pháp đã phát sinh.
Chánh-tinh-tấn đó là tinh-tấn tâm-sở (viriya-cetasika) đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm, 8 đại-duy-tác-tâm, 5 sắc-giới-thiện-tâm, 5 sắc-giới-duy-tác-tâm, 4 vô-sắc-giới-thiện-tâm, 4 vô-sắc-giới-duy-tác-tâm, 4 Thánh-đạo-tâm, 4 Thánh-quả-tâm.
* Nếu khi tinh-tấn tâm-sở đồng sinh với tam-giới-tâm thì chánh-tinh-tấn ấy thuộc về tam-giới.
* Nếu khi tinh-tấn tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm thì chánh-tinh-tấn thuộc về siêu-tam-giới.
* Chánh-niệm (Sammāsati) là niệm chân-chính trong 4 pháp-hành tứ-niệm-xứ: 1- Thân-niệm-xứ: Thân là đối-tượng của chánh-niệm, trí-tuệ-tỉnh-giác, 2- Thọ-niệm-xứ: Thọ là đối-tượng của chánh-niệm, trí-tuệ-tỉnh-giác, 3- Tâm-niệm-xứ: Tâm là đối-tượng của chánh-niệm, trí-tuệ-tỉnh-giác, 4- Pháp-niệm-xứ: Pháp là đối-tượng của chánh-niệm, trí-tuệ-tỉnh-giác.
Chánh-niệm đó là niệm tâm-sở (saticetasika) đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm, 8 đại-duy-tác-tâm, 5 sắc-giới-thiện-tâm, 5 sắc-giới-duy-tác-tâm, 4 vô-sắc-giới-thiện-tâm, 4 vô-sắc-giới-duy-tác-tâm, 4 Thánh-đạo-tâm, 4 Thánh-quả-tâm.
* Nếu khi niệm tâm-sở đồng sinh với tam-giới-tâm ấy thì chánh-niệm thuộc về tam-giới.
* Nếu khi niệm tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm thì chánh-niệm thuộc về siêu-tam-giới.
* Chánh-định (Sammāsamādhi) là định chân-chính trong 4 hoặc 20 Thánh-đạo-tâm và 4 hoặc 20 Thánh-quả-tâm có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới.
Chánh-định đó là nhất-tâm tâm-sở (ekaggatā-cetasika) đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm, 8 đại-duy-tác-tâm, 5 sắc-giới-thiện-tâm, 5 sắc-giới-duy-tác-tâm, 4 vô-sắc-giới-thiện-tâm, 4 hoặc 20 Thánh-đạo-tâm, 4 hoặc 20 Thánh-quả-tâm.
* Nếu khi nhất-tâm tâm-sở đồng sinh với tam-giới-tâm ấy thì chánh-định thuộc về tam-giới.
* Nếu khi nhất-tâm tâm-sở đồng sinh với 4 hoặc 20 Thánh-đạo-tâm và 4 hoặc 20 Thánh-quả-tâm thì chánh-định thuộc về siêu-tam-giới.
Đó là 4 trí-tuệ-học trong tứ Thánh-đế thuộc về Pháp-học-Phật-giáo (Pariyattisāsana). 2- Kiccañāṇa:Trí-Tuệ-Hành Phận-Sự Trong Tứ Thánh-Đế
Sau khi học hỏi, hiểu rõ trí-tuệ-học trong tứ Thánh-đế xong thuộc về phần Pháp-học-Phật- giáo, luân chuyển sang trí-tuệ-hành phận-sự trong tứ Thánh-đế thuộc về phần Pháp-hành- Phật-giáo.
Hành-giả bắt đầu thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ là thực-hành theo trí-tuệ-hành phận-sự trong tứ Thánh-đế.
Trí-tuệ-hành phận-sự trong mỗi Thánh-đế khác nhau như sau: - Trí-tuệ-hành phận-sự nên biết Khổ-Thánh-đế, - Trí-tuệ-hành phận-sự nên diệt Nhân-sinh-Khổ-Thánh-đế - Trí-tuệ-hành phận-sự nên chứng-ngộ Diệt-Khổ-Thánh-đế, - Trí-tuệ-hành phận-sự nên tiến-hành Pháp-hành-Diệt-Khổ-Thánh-đế.
2- Trí-Tuệ-Hành Phận-Sự Trong Mỗi Thánh-Đế
2.1- Trí-Tuệ-Hành Phận-Sự Trong Khổ-Thánh-Đế
Khổ-Thánh-đế (Dukkha ariyasacca) đó là ngũ-uẩn-chấp-thủ hoặc sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới là pháp mà hành giả có trí-tuệ-hành phận-sự nên biết (pariññeyyaṃ) khổ-đế với trí-tuệ-thiền-tuệ-tam-giới thấy rõ, biết rõ danh-pháp, sắc-pháp ấy là khổ-đế. (không phải nên diệt, nên chứng ngộ, nên tiến hành).
2.2- Trí-Tuệ-Hành Phận-Sự Trong Nhân-Sinh-Khổ-Thánh-Đế
Nhân-sinh-Khổ-Thánh-đế (Dukkhasamudaya ariyasacca) đó là tham-ái là pháp mà hành-giả có trí-tuệ-hành phận-sự nên diệt([1])(pahātabbaṃ) nhân-sinh-khổ-Thánh-đế với trí-tuệ-thiền-tuệ-tam-giới diệt từng thời tham-ái. (không phải nên biết, nên chứng ngộ, nên tiến hành).
2.3- Trí-Tuệ-Hành Phận-Sự Trong Diệt-Khổ-Thánh-Đế
Diệt-Khổ-Thánh-đế (Dukkhanirodha ariya-sacca) đó là Niết-bàn là pháp mà hành-giả có trí-tuệ-hành phận-sự nên chứng ngộ (sacchi-kātabbaṃ) Diệt-Khổ-đế với trí-tuệ-thiền-tuệ-tam-giới chứng-ngộ-từng-thời Niết-bàn([2]) (không phải nên biết, nên diệt, nên tiến hành).
2.4- Trí-Tuệ-Hành Phận-Sự Trong Pháp-Hành Dẫn Đến Diệt-Khổ-Thánh-Đế
Pháp-hành dẫn đến Diệt-Khổ-Thánh-đế (Dukkhanirodhagaminī paṭipadā ariyasacca) đó là pháp-hành bát-chánh-đạo là pháp mà hành-giả có trí-tuệ-hành phận-sự nên tiến hành (bhāvetabbaṃ) pháp-hành dẫn đến Diệt-Khổ-Thánh-đế với trí-tuệ-thiền-tuệ-tam-giới đang tiến hành pháp-hành bát-chánh-đạo. (không phải nên biết, nên diệt, nên chứng ngộ)
Trong 4 trí-tuệ-hành phận-sự trong tứ Thánh-đế này, thì trí-tuệ-hành phận-sự nên biết Khổ-Thánh-đế là chính, đóng vai trò quan trọng trong pháp-hành-thiền-tuệ, như sau:
* Khi hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ, nếu có trí-tuệ-thiền-tuệ-tam-giới thấy rõ, biết rõ danh-pháp hoặc sắc-pháp là khổ-đế thì đó là trí-tuệ-hành phận-sự nên biết khổ-đế.
* Khi trí-tuệ-hành phận-sự nên biết khổ-đế ấy, thì tham-ái không thể nương nhờ nơi danh-pháp hoặc sắc-pháp ấy mà phát sinh, nghĩa là diệt tham-ái, đó là trí-tuệ-hành phận-sự nên diệt-từng-thời (tadaṅgappahāna) tham-ái, Nhân-sinh-Khổ-đế.
* Khi trí-tuệ-hành phận-sự nên diệt-từng-thời (tadaṅgappahāna) tham-ái, Nhân-sinh-Khổ-đế, thì đó là trí-tuệ-hành phận-sự nên chứng-ngộ-từng-thời (tadaṅganibbāna) Niết-bàn, Diệt-Khổ-đế.
* Khi trí-tuệ-hành phận-sự nên biết Khổ-đế, trí-tuệ-hành phận-sự nên diệt-từng-thời tham-ái, Nhân-sinh-Khổ-đế, trí-tuệ-hành phận-sự nên chứng-ngộ-từng-thời Niết-bàn, Diệt-Khổ-đế, đó là trí-tuệ-hành phận-sự nên tiến hành pháp-hành-Diệt-Khổ-đế.
Như vậy, 4 trí-tuệ-hành phận-sự trong tứ đế này, thì trí-tuệ-hành phận-sự nên biết Khổ-đế là chính, đồng thời trí-tuệ-hành phận-sự nên diệt-từng-thời Nhân-sinh-Khổ-đế, trí-tuệ-hành phận-sự nên chứng-ngộ-từng-thời Diệt-Khổ-đế, trí-tuệ-hành phận-sự nên tiến hành pháp-hành-Diệt-Khổ-đế cũng thành tựu cùng một lúc không trước không sau.
Bốn trí-tuệ-hành phận-sự trong tứ Thánh-đế này thuộc về Pháp-hành Phật-giáo (Paṭipatti-sāsana).
3- Katañāṇa: Trí-Tuệ-Thành Hoàn Thành Xong Phận-Sự Trong Tứ-Thánh-Đế
Hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ, khi có 4 trí-tuệ-hành phận-sự tứ-đế với trí-tuệ-thiền-tuệ-tam-giới đã hoàn thành xong phận-sự tứ-đế, thì được luân chuyển đến 4 trí-tuệ-thành phận-sự tứ Thánh-đế với trí-tuệ-thiền-tuệ-siêu-tam-giới đã hoàn thành xong phận-sự tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.
Khi ấy, Khổ-Thánh-đế đó là sắc-pháp, danh-pháp tam-giới là pháp mà trí-tuệ-hành phận-sự nên biết (pariññeyyaṃ) sắc-pháp danh-pháp tam-giới là khổ-đế với trí-tuệ-thiền-tuệ-tam-giới, rồi được luân chuyển đến trí-tuệ-thành phận-sự đã biết xong (pariññātaṃ) Khổ-Thánh-đế với Thánh-đạo-tuệ thuộc về trí-tuệ-thiền-tuệ-siêu-tam-giới có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới.
* Cũng đồng thời, Nhân-sinh-Khổ-Thánh-đế đó là tham-ái là pháp mà trí-tuệ-hành phận-sự nên diệt (pahātabbaṃ) tham-ái, Nhân-sinh-Khổ-đế với trí-tuệ-thiền-tuệ-tam-giới, rồi được luân chuyển đến trí-tuệ-thành phận-sự đã diệt xong (pahīnaṃ) Nhân-sinh-Khổ-Thánh-đế với Thánh-đạo-tuệ thuộc về trí-tuệ-thiền-tuệ-siêu-tam-giới có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới.
* Cũng đồng thời, Diệt-Khổ-Thánh-đế đó là Niết-bàn là pháp mà trí-tuệ-hành phận-sự nên chứng-ngộ (sacchikātabbaṃ) Niết-bàn-từng-thời là Diệt-Khổ-đế với trí-tuệ-thiền-tuệ-tam-giới, rồi được luân chuyển đến trí-tuệ-thành phận-sự đã chứng-ngộ xong (sacchikataṃ) Niết-bàn, Diệt-Khổ-Thánh-đế với Thánh-đạo-tuệ thuộc về trí-tuệ-thiền-tuệ-siêu-tam-giới có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới.
* Cũng đồng thời, pháp-hành dẫn đến Diệt-Khổ-Thánh-đế đó là bát-chánh-đạo là pháp mà trí-tuệ-hành phận-sự nên tiến hành (bhāvetabbaṃ) bát-chánh-đạo, pháp-hành-Diệt-Khổ-đế, với trí-tuệ-thiền-tuệ-tam-giới, rồi được luân chuyển đến trí-tuệ-thành phận-sự đã tiến hành xong (bhāvitaṃ) pháp-hành dẫn đến Diệt-Khổ-Thánh-đế với Thánh-đạo-tuệ thuộc về trí-tuệ-thiền-tuệ-siêu-tam-giới có đối-tượng Niết-bàn siêu tam-giới, đã hoàn thành 4 phận-sự là:
* Khổ-Thánh-đế là pháp nên biết, thì đã biết xong với Thánh-đạo-tuệ,
* Nhân-sinh-Khổ-Thánh-đế là pháp nên diệt, thì đã diệt xong với Thánh-đạo-tuệ,
* Diệt-Khổ-Thánh-đế là pháp nên chứng ngộ, thì đã chứng ngộ xong với Thánh-đạo-tuệ,
* Pháp-hành dẫn đến Diệt-Khổ-Thánh-đế là pháp nên tiến hành, thì đã tiến hành xong với Thánh-đạo-tuệ.
Trong 4 trí-tuệ-thành đã hoàn thành xong 4 phận-sự trong tứ Thánh-đế, thì trí-tuệ-thành phận-sự đã tiến hành xong pháp-hành bát- chánh-đạo Diệt-Khổ-Thánh-đế là chính yếu, còn lại 3 trí-tuệ-thành phận-sự trong mỗi Thánh-đế kia cũng đã được hoàn thành xong mỗi phận-sự đồng thời cùng một lúc không trước, không sau.
4 trí-tuệ-thành hoàn thành xong 4 phận-sự trong tứ Thánh-đế thuộc về Pháp-thành-Phật-giáo (paṭivedhasāsana).
Ví dụ: Một đèn dầu thắp sáng trong đêm tối có 4 sự việc xảy ra cùng một lúc, không trước không sau:
* Ánh sáng toả ra, * Bóng tối biến mất, * Dầu hao dần, * Tim cháy dần, 4 sự việc này xảy ra đồng thời cùng một lúc, không trước không sau.
Cũng như vậy, 4 trí-tuệ-hành phận-sự, và 4 trí-tuệ-thành đã hoàn thành xong phận-sự trong tứ Thánh-đế được hoàn thành xong đồng thời, cùng một lúc, không trước không sau.
Quan Hệ Nhân Quả Của Tam-Tuệ-Luân
Quan hệ từ quả đến nhân, từ nhân đến quả
4 trí-tuệ-thành trong tứ Thánh-đế chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, đó là kết quả của 4 trí-tuệ-hành phận-sự đã hoàn thành xong trong tứ Thánh-đế.
4 trí-tuệ-hành phận-sự trong tứ Thánh-đế đã thực-hành đúng theo phận-sự trong mỗi Thánh-đế, đó là kết quả của 4 trí-tuệ-học trong tứ Thánh-đế đã hiểu biết rõ mỗi chi pháp của mỗi Thánh-đế.
Như vậy, 4 trí-tuệ-học trong tứ Thánh-đế hiểu biết rõ các chi pháp của mỗi Thánh-đế làm nền tảng cơ bản, làm nhân phát sinh dẫn đến quả là 4 trí-tuệ-hành phận-sự trong tứ Thánh-đế đúng theo phận-sự của mỗi Thánh-đế.
4 trí-tuệ-hành phận-sự trong tứ Thánh-đế đã hoàn thành xong làm nhân phát sinh dẫn đến quả là 4 trí-tuệ-thành trong tứ Thánh-đế chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt-đoạn-tuyệt mọi tham-ái, mọi phiền não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán, phạm hạnh cao thượng đã hoàn thành xong, kiếp này là kiếp chót, không còn tái sinh kiếp nào nữa, chắc chắn sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam-giới.
Vai Trò 4 Trí-Tuệ-Hành Và 4 Trí-Tuệ-Thành
Trong 4 trí-tuệ-hành phận-sự trong tứ Thánh-đế ở giai đoạn đầu, thì trí-tuệ-hành phận-sự nên biết sắc-pháp, danh-pháp tam-giới là khổ-đế với trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới, đóng vai trò chính yếu, còn 3 trí-tuệ-hành phận-sự của mỗi Thánh-đế kia cũng được thành tựu đồng thời cùng một lúc, không trước không sau.
Trong 4 trí-tuệ-thành đã hoàn thành phận-sự trong tứ Thánh-đế ở giai đoạn cuối, thì trí-tuệ-thành đã hoàn thành xong phận-sự đã tiến hành pháp-hành bát-chánh-đạo Diệt-Khổ-Thánh-đế với 4 Thánh-đạo-tuệ thuộc về trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới, đóng vai trò chính yếu, còn 3 trí-tuệ-thành phận-sự của mỗi Thánh-đế kia cũng được thành tựu đồng thời cùng một lúc, không trước không sau.
Thánh-Đạo-Tuệ Diệt-Đoạn-Tuyệt 3 Loại Tham-Ái
1- Nhập-lưu-Thánh-đạo-tuệ có khả năng diệt-đoạn-tuyệt được 2 loại tham-ái: vibhava-taṇhā: tham-ái hợp với đoạn-kiến, và bhava-taṇhā: tham-ái hợp với thường-kiến, trong 4 tham-tâm hợp với tà-kiến. (còn lại 4 tham-tâm không hợp với tà-kiến, thì chưa diệt được).
2- Nhất-lai-Thánh-đạo-tuệ có khả năng diệt-đoạn-tuyệt được 1 loại tham-ái: kāmataṇhā: tham-ái trong 5 đối-tượng ngũ-dục (sắc-dục, thanh-dục, hương-dục, vị- dục, xúc-dục) loại thô ở cõi dục-giới, trong 4 tham-tâm không hợp với tà-kiến. (còn 5 đối-tượng ngũ-dục loại vi tế chưa diệt được).
3- Bất-lai-Thánh-đạo-tuệ có khả năng diệt-đoạn-tuyệt được 1 loại tham-ái: kāmataṇhā: tham-ái trong 5 đối-tượng ngũ-dục vi tế ở cõi dục-giới, trong 4 tham-tâm không hợp với tà-kiến. (còn tham-ái trong các bậc thiền sắc-giới-tâm, các bậc thiền vô-sắc-giới-tâm, cõi trời sắc-giới, cõi trời vô-sắc-giới thì chưa diệt được).
4- A-ra-hán-Thánh-đạo-tuệ có khả năng diệt-đoạn-tuyệt được 1 loại tham-ái: bhava-taṇhā: tham-ái trong các bậc thiền sắc-giới-tâm, các bậc thiền vô-sắc-giới-tâm, cõi trời sắc-giới, cõi trời vô-sắc-giới, trong 4 tham-tâm không hợp với tà-kiến không còn dư sót.
Như vậy, bậc Thánh-A-ra-hán có khả năng đặc biệt diệt-đoạn-tuyệt được hoàn toàn mọi tham-ái không còn dư sót nữa. [1] Diệt tham-ái có 5 cách: - Vikkhambhanappahāna: Diệt bằng cách chế ngự tham-ái do năng lực của bậc thiền. - Tadaṅgappahāna: Diệt-từng-thời tham-ái do năng lực của trí-tuệ-thiền-tuệ tam giới . - Samucchedappahāna: Diệt-đoạn-tuyệt tham-ái do năng lực của Thánh-đạo-tuệ. - Paṭippassadhippahāna: Diệt bằng cách làm vắng-lặng tham-ái do năng lực của Thánh-quả-tuệ - Nissaraṇappahāna: Diệt khỏi tham-ái do năng lực của đối-tượng Niết-bàn. [2] Nirodho nibbānaṃ Niết-bàn có nghĩa là diệt, có 5 loại: - Vikkhambhananibbāna: Diệt bằng cách chế ngự phiền não do năng lực của bậc thiền. - Tadaṅganibbāna: Diệt-từng-thời phiền não do năng lực của trí-tuệ-thiền-tuệ tam giới. - Samucchedanibbāna: Diệt-đoạn-tuyệt phiền não do năng lực của Thánh-đạo-tuệ. - Paṭippassadhinibbāna: Diệt cách làm vắng lặng phiền não do năng lực của Thánh-quả tuệ. - Nissaraṇanibbāna: Diệt khỏi phiền não do năng lực của đối-tượng Niết-bàn.
|