|
Tứ Thánh-Đế Trong Phật Giáo
Tứ Thánh-đế là sự-thật chân-lý của chư bậc Thánh-nhân chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, là chánh-pháp cốt lõi căn bản trọng yếu trong giáo pháp của chư Phật quá-khứ, Đức-Phật hiện-tại và chư Phật vị-lai.
Tứ-Thánh-Đế:
1- Dukkha ariyasacca: Khổ-Thánh-đế đó là ngũ-uẩn-chấp-thủ hoặc sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới.
Trong giáo pháp của Đức-Phật, tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp trong cõi dục-giới, cõi sắc-giới, và danh-pháp trong cõi vô-sắc-giới, đúng theo sự-thật chân-lý thì chỉ có dukkha-sacca: khổ-đế mà thôi, không có pháp nào gọi là lạc-đế cả.
Tuy trong thọ tâm-sở (vedanācetasika) có sukhavedanā: thọ lạc, nhưng sukhavedanā: thọ-lạc ấy gọi là vipariṇāmadukkha: biến-chất-khổ, bởi vì thọ-lạc (sukhavedanā) sinh rồi diệt vô-thường làm biến chất, luôn luôn hành hạ, nên chỉ là khổ-đế mà thôi.
Thọ lạc dù là khổ vẫn còn dễ chịu đựng.
Như vậy, tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp thuộc về pháp-hữu-vi đúng theo sự-thật chân-lý thì chỉ có khổ-đế mà thôi, không có lạc-đế.
Nếu có lạc (sukha) thì lạc ấy gọi là sukhavipallāsa: lạc-đảo-điên do tưởng-đảo-điên (saññāvipallāsa), tâm-đảo-điên (cittavipallāsa), tà-kiến-đảo-điên (diṭṭhivipallāsa).
Tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp trong tam-giới thuộc về pháp-hữu-vi đều sinh rồi diệt, nên có 4 trạng-thái: trạng-thái-vô-thường, trạng-thái-khổ, trạng-thái-vô-ngã, trạng-thái-bất-tịnh, nhưng do tưởng-đảo-điên, tâm-đảo-điên, tà-kiến-đảo-điên tưởng sai, biết sai, thấy sai, chấp lầm cho rằng:
“Danh-pháp, sắc-pháp là thường, lạc, ngã, tịnh”.
Đúng theo sự-thật chân-lý thì tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp trong tam-giới thuộc về pháp-hữu-vi chỉ là dukkhasacca: khổ-đế mà thôi, không có lạc-đế nào cả.
2- Dukkhasamudaya ariyasacca: Nhân-sinh-Khổ-Thánh-đế đó là taṇhā: tham-ái.
Tham-ái là nhân sinh khổ trong kiếp hiện-tại và kiếp vị-lai.
* Tham-ái là nhân sinh khổ trong kiếp hiện-tại
- Nếu tâm tham-ái muốn được điều gì đó, vật gì đó,.. mà không được thoả mãn như ý, thì sân-tâm phát sinh không vừa lòng, làm cho khổ-tâm.
* Nếu tâm tham-ái muốn được điều gì đó, vật gì đó ... mà được thoả mãn như ý, thì tham-tâm phát sinh chấp thủ cho là của ta, cũng làm nhân phát sinh khổ-tâm như lo lắng, giữ gìn, sầu não.
Như Đức-Phật dạy câu kệ rằng:
“Taṇhāya jāyati soko, taṇhāya jāyatī bhayaṃ. Taṇhāya vippamuttassa, natthi soko kuto bhayaṃ.”([1])
Sự sầu não phát sinh do tham-ái, Sự lo sợ phát sinh do tham-ái, Bậc Thánh A-ra-hán diệt tham-ái, Không còn sầu não, từ đâu có lo sợ?
* Tham-ái là nhân-sinh-khổ trong kiếp vị-lai
Tất cả mọi chúng-sinh nào hễ còn tham-ái là còn phải tái sinh kiếp-sau, các chúng-sinh ấy gồm cả 3 bậc Thánh hữu học: bậc Thánh-Nhập-lưu, bậc Thánh-Nhất-lai, bậc Thánh-Bất-lai, bởi vì 3 bậc Thánh-nhân này vẫn còn một phần tham-ái.
* Chỉ có bậc Thánh-A-ra-hán đã diệt-đoạn-tuyệt tất cả mọi tham-ái, hoàn toàn không còn tham-ái dư sót nữa mà thôi.
Chúng-sinh còn có tham-ái sau khi chết thì tham-ái dẫn dắt nghiệp cho quả tái sinh kiếp sau, kiếp sau như thế nào là hoàn toàn tuỳ thuộc vào quả của nghiệp của mỗi chúng-sinh ấy.
* Chúng-sinh ấy sau khi chết, nếu ác-nghiệp cho quả tái sinh kiếp sau thì sinh vào 1 trong 4 cõi ác-giới (địa-ngục, a-tu-la, ngạ-quỷ, súc-sinh), thuộc loại chúng-sinh nào, trong cõi nào là hoàn toàn tuỳ thuộc vào quả của ác-nghiệp của chúng-sinh ấy mà thôi.
* Chúng-sinh ấy sau khi chết, nếu dục-giới-thiện-nghiệp cho quả tái sinh kiếp sau thì sinh làm người trong cõi người hoặc làm chư thiên trong cõi trời dục-giới, được sinh trong cõi thiện-dục-giới nào là hoàn toàn tuỳ thuộc vào quả của dục-giới-thiện-nghiệp của chúng-sinh ấy mà thôi. * Hành giả đã chứng đắc các bậc thiền-sắc-giới sau khi chết, chắc chắn sắc-giới-thiện-nghiệp cho quả tái sinh kiếp sau, sinh làm phạm thiên trong cõi trời sắc-giới, được sinh trong cõi trời sắc-giới nào là hoàn toàn tuỳ thuộc vào quả của sắc-giới-thiện-nghiệp sở đắc của hành-giả ấy mà thôi.
* Hành-giả đã chứng đắc các bậc thiền-vô-sắc-giới sau khi chết, chắc chắn vô-sắc-giới-thiện-nghiệp cho quả tái sinh kiếp sau, sinh làm phạm thiên trong cõi trời vô-sắc-giới, được sinh trong cõi trời vô-sắc-giới nào là hoàn toàn tuỳ thuộc vào quả của vô-sắc-giới-thiện-nghiệp sở đắc của hành-giả ấy mà thôi.
Ba Bậc Thánh Hữu Học (Sekha ariya)
* Bậc Thánh-Nhập-lưu sau khi chết, vĩnh viễn không bao giờ bị sa đoạ trong 4 cõi ác-giới nữa, mà chỉ có thiện-nghiệp cho quả tái sinh kiếp sau làm người trong cõi người hoặc làm chư thiên trong cõi trời dục-giới nhiều nhất 7 kiếp nữa mà thôi.
Đến kiếp thứ 7, chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam-giới.
* Bậc Thánh-Nhất-lai sau khi chết, dục-giới-thiện-nghiệp cho quả tái sinh kiếp sau làm người trong cõi người hoặc làm chư thiên trong cõi trời dục-giới chỉ còn 1 kiếp nữa mà thôi.
Trong kiếp ấy chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam-giới.
* Bậc Thánh-Bất-lai sau khi chết, không còn tái sinh trở lại cõi dục-giới, mà chỉ có sắc-giới-thiện-nghiệp cho quả tái sinh kiếp sau làm phạm thiên trong cõi trời sắc-giới mà thôi, được sinh trong cõi trời sắc-giới nào tuỳ theo bậc thiền sở đắc của Ngài.
Vị Thánh-Bất-lai phạm-thiên ấy chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh-A-ra-hán tại cõi trời sắc-giới, rồi sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam-giới.
* Bậc Thánh A-ra-hán đã diệt-đoạn-tuyệt được mọi tham-ái không còn dư sót, nên ngay kiếp hiện-tại, Ngài chắc chắn sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam-giới.
3- Dukkhanirodha ariyasacca: Diệt-Khổ-Thánh-đế đó là Niết-bàn.
Niết-bàn là pháp diệt Nhân-sinh-Khổ-Thánh-đế và cũng là pháp diệt quả Khổ-Thánh-đế.
* Diệt Nhân-Sinh-Khổ-Thánh-Đế
Hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt-đoạn-tuyệt mọi tham-ái, mọi phiền não không còn dư sót, gọi là Phiền-não Niết-bàn (Kilesa-parinibbāna), nghĩa là mọi tham-ái, mọi phiền não đã bị diệt-đoạn-tuyệt rồi, mọi phiền não vĩnh viễn không còn phát sinh nữa.
Như vậy, Niết-bàn là pháp diệt Nhân-sinh-Khổ-Thánh-đế.
* Diệt Quả Khổ-Thánh-Đế
Chư Thánh A-ra-hán đã diệt-đoạn-tuyệt mọi tham-ái mọi phiền não không còn dư sót nữa, đến khi hết tuổi thọ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam-giới, gọi là Ngũ-uẩn Niết-bàn (Khandhaparinibbāna) nghĩa là sau khi tịch diệt Niết-bàn rồi, không còn tái sinh kiếp nào nữa.
Như vậy, Niết-bàn là pháp diệt quả Khổ-Thánh-đế.
4-Dukkhanirodhagaminī paṭipadā ariyasacca: Pháp-hành dẫn đến Diệt-Khổ-Thánh-đế đó là pháp-hành bát-chánh-đạo.
Bát-chánh-đạo có 8 chánh: chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định, đó là 8 tâm-sở, là trí-tuệ tâm-sở, hướng-tâm tâm-sở, chánh-ngữ tâm-sở, chánh-nghiệp tâm-sở, chánh-mạng tâm-sở, tinh-tấn tâm-sở, niệm tâm-sở, nhất-tâm tâm-sở.
Bát-chánh-đạo có 8 chánh, đó là 8 tâm-sở này không đồng sinh đầy đủ trong tam-giới-tâm, nhưng khi hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ, đến khi chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả nào có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới, khi ấy, bát-chánh-đạo hợp đủ 8 chánh đó là 8 tâm-sở: trí-tuệ tâm-sở, hướng-tâm tâm-sở, chánh-ngữ tâm-sở, chánh-nghiệp tâm-sở, chánh-mạng tâm-sở, tinh-tấn tâm-sở, niệm tâm-sở, nhất-tâm tâm-sở đồng sinh với Thánh-đạo-tâm ấy hoàn thành xong 4 phận-sự:
- Khổ-Thánh-đế là pháp nên biết, thì Thánh-đạo-tuệ đã biết xong,
-Nhân-sinh-Khổ-Thánh-đế là pháp nên diệt, thì Thánh-đạo-tuệ đã diệt xong,
- Diệt-Khổ-Thánh-đế là pháp nên chứng ngộ, thì Thánh-đạo-tuệ đã chứng ngộ xong,
-Pháp-hành dẫn đến diệt-Khổ-Thánh-đế là pháp nên tiến hành, thì Thánh-đạo-tuệ đã tiến hành xong.
Vì vậy, bát-chánh-đạo là pháp-hành dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn, diệt-Khổ-Thánh-đế.
Tứ Thánh-đế này là pháp nền tảng căn bản, là cốt lõi chính yếu trong giáo pháp của chư Phật Chánh-Đẳng-Giác quá-khứ, hiện-tại, vị-lai, bởi vì hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ, ban đầu dù có những đối-tượng-thiền-tuệ khác nhau như thân, thọ, tâm, pháp, ngũ-uẩn, 12 xứ, 18 tự-tánh (dhātu), v.v… đến giai đoạn cuối, cũng đều dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, rồi mới chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn được.
Cho nên, tứ Thánh-đế là sự-thật chân-lý mà chư bậc Thánh-nhân đã chứng ngộ, là pháp căn bản cốt yếu trong giáo pháp của chư Phật trong 3 thời quá-khứ, hiện-tại, vị-lai.
Nhân Quả Liên Quan Của Tứ Thánh-Đế
Chân-lý tứ Thánh-đế có nhân-quả liên quan với nhau:
* Khổ-Thánh-đế đó là ngũ-uẩn-chấp-thủ hoặc sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới, là quả của Nhân-sinh-Khổ-Thánh-đế.
* Nhân-sinh-Khổ-Thánh-đế đó là tham-ái là nhân phát sinh Khổ-Thánh-đế, tham-ái, là nhân dẫn dắt tái sinh kiếp sau (taṇhā ponobbhavikā).
* Diệt-Khổ-Thánh-đế đó là Niết-bàn không thuộc về quả của một nhân nào cả, bởi vì, Niết-bàn là pháp-vô-vi (asaṅkhatadhamma) là pháp hoàn toàn không có một nhân-duyên nào cấu tạo.
* Pháp-hành dẫn đến Diệt-Khổ-Thánh-đế đó là pháp-hành bát-chánh-đạo là pháp-hành dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn, Diệt-Khổ-Thánh-đế.
Như vậy, pháp-hành bát-chánh-đạo là pháp-hành dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn, Diệt-Khổ-Thánh-đế, không phải là nhân phát sinh Niết-bàn. Cho nên Niết-bàn cũng không phải là quả của pháp-hành bát-chánh-đạo.
Vậy, Niết-bàn chỉ là đối-tượng siêu-tam-giới của 4 Thánh-đạo-tâm, 4 Thánh-quả-tâm mà thôi.
Ví dụ nôm na rằng:
“Con đường dẫn đến kinh đô”
* Con đường ví như Bát-chánh-đạo là pháp-hành dẫn đến Diệt-Khổ-Thánh-đế.
* Kinh đô ví như Niết-bàn là pháp Diệt-Khổ-Thánh-đế.
Con đường dẫn đến kinh đô, chứ không phải là nhân phát sinh kinh đô. Cũng như vậy, Pháp-hành dẫn đến Diệt-Khổ-Thánh-đế đó là pháp-hành bát-chánh-đạo là pháp-hành dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn, chứ không phải là nhân phát sinh Niết-bàn. * Pháp-Hành-Trung-Đạo (Majjhimāpaṭipadā)
Pháp-hành-trung-đạo (Majjhimāpaṭipadā) là một pháp-hành chỉ có trong Phật-giáo mà thôi, hoàn toàn không có ngoài Phật-giáo.
Trong Kinh Dhammacakkappavattanasutta:([1]) Kinh Chuyển-Pháp-Luân mà Đức-Phật thuyết giảng lần đầu tiên, để tế độ nhóm 5 tỳ-khưu: Ngài Đại-Trưởng-lão Koṇḍañña, Ngài Đại-đức Vappa, Ngài Đại-đức Bhaddiya, Ngài Đại-đức Mahānāma, Ngài Đại-đức Assaji tại khu rừng phóng sinh nai gọi Isipatana, gần kinh thành Bāraṇasī.
Hai Pháp Thấp Hèn
Đức-Phật thuyết giảng rằng:
- Này chư Tỳ-khưu! Có hai pháp cực đoan thuộc về hai biên kiến mà bậc xuất gia không nên thực-hành theo. Hai pháp ấy như thế nào?
1- Một là việc thường thụ hưởng lạc trong ngũ-dục do tâm-tham-ái hợp với thường-kiến, là pháp thấp hèn của hạng phàm-nhân trong đời, không phải pháp-hành của bậc Thánh-nhân, không đem lại sự lợi ích, sự an lạc.
2- Hai là việc thường tự ép xác hành khổ mình do sân-tâm và có đoạn-kiến thuộc về pháp-hành-khổ-hạnh của ngoại đạo, không phải pháp-hành của bậc Thánh-nhân, không đem lại sự lợi ích, sự an lạc.
Pháp-Hành-Trung-Đạo (Majjhimāpaṭipadā)
- Này chư Tỳ-khưu! Không thiên về hai pháp cực đoan thuộc về hai biên kiến ấy, Như-Lai đã thực-hành theo pháp-hành-trung-đạo, nên đã chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế bằng trí-tuệ siêu-tam-giới, làm cho tuệ-nhãn phát sinh; trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới phát sinh đã làm vắng lặng mọi phiền-não; đã làm cho trí-tuệ siêu-việt-thông-suốt chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.
- Này chư Tỳ-khưu! Như thế nào gọi là pháp-hành-trung-đạo mà Như-Lai đã chứng ngộ chân lý tứ Thánh-đế, bằng trí-tuệ siêu-tam-giới, làm cho tuệ-nhãn phát sinh; trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới phát sinh đã làm vắng lặng mọi phiền-não; đã làm cho trí-tuệ siêu-việt-thông-suốt chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.
- Này chư Tỳ-khưu! Pháp-hành-trung-đạo là Thánh-đạo hợp đủ 8 chánh cao thượng là chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định.
- Này chư Tỳ-khưu! Pháp-hành-trung-đạo là Thánh-đạo hợp đủ 8 chánh cao thượng này, mà Như-Lai đã chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, bằng trí-tuệ siêu-tam-giới, làm cho tuệ-nhãn phát sinh; trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới phát sinh đã làm vắng lặng mọi phiền não; đã làm cho trí-tuệ siêu-việt-thông-suốt chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn”.
Trong bài kinh này, Đức-Phật thuyết giảng pháp-hành-trung-đạo chính là Thánh-đạo hợp đủ 8 chánh cao thượng là chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định.
Như vậy, 8 chánh này chính là 8 tâm-sở (cetasika) đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm, 4 Thánh-quả-tâm có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới.
Thật ra, 4 Thánh-đạo-tâm, 4 Thánh-quả-tâm có 36 tâm-sở đồng sinh. Trong 36 tâm-sở ấy chỉ có 8 tâm-sở gọi là bát-chánh-đạo như sau:
1- Trí-tuệ tâm-sở gọi là chánh-kiến, 2- Hướng-tâm tâm-sở gọi là chánh-tư-duy, 3- Chánh-ngữ tâm-sở gọi là chánh-ngữ, 4- Chánh-nghiệp tâm-sở gọi là chánh-nghiệp, 5- Chánh-mạng tâm-sở gọi là chánh-mạng, 6- Tinh-tấn tâm-sở gọi là chánh-tinh-tấn, 7- Niệm tâm-sở gọi là chánh-niệm, 8- Nhất-tâm tâm-sở gọi là chánh-định.
Tám tâm-sở này cùng với 28 tâm-sở khác đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm, 4 Thánh-quả-tâm cùng có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới.
Pháp-hành-trung-đạo đó là pháp-hành-bát-chánh-đạo hợp đủ 8 chánh trong 4 Thánh-đạo-tâm, 4 Thánh-quả-tâm có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới.
Như vậy, pháp-hành-bát-chánh-đạo hợp đủ 8 chánh này không phải là pháp-hành bắt đầu thực-hành, cũng không phải là pháp-hành đang thực-hành, mà sự thật là pháp-hành đã thực- hành xong rồi, đã hoàn thành xong mọi phận-sự tứ Thánh-đế, nên pháp-hành bát-chánh-đạo hợp đủ 8 chánh này gọi là Pháp-thành-Phật-giáo (Paṭivedhasāsana) là kết quả của pháp-hành Phật-giáo (paṭipattisāsana).
Cho nên, pháp-hành-trung-đạo này là pháp-hành-bát-chánh-đạo hợp đủ 8 chánh ấy ở giai đoạn cuối.
Bắt Đầu Thực Hành Pháp-Hành-Bát-Chánh-Đạo
* Giai đoạn đầu thực-hành pháp-hành-bát-chánh-đạo, hành-giả cần phải bắt đầu thực-hành chánh-niệm: niệm-thân, niệm-thọ, niệm-tâm, niệm-pháp, đó là thực-hành pháp-hành-tứ-niệm-xứ.
Thật vậy, trong kinh Rahogatasutta([2]) Ngài Đại-đức Anuruddha từng tư duy rằng:
“Hành-giả nào chán nản thực-hành pháp-hành-tứ-niệm-xứ, hành-giả ấy được gọi là người chán nản thực-hành pháp-hành-bát-chánh-đạo, nên không thể dẫn đến sự giải thoát khổ tử sinh luân hồi.
“Hành-giả nào tinh-tấn thực-hành pháp-hành-tứ-niệm-xứ, hành giả ấy được gọi là người có tinh-tấn thực-hành pháp-hành-bát-chánh-đạo, nên có thể dẫn đến sự giải thoát khổ tử sinh luân hồi…”
Như vậy, chánh-niệm đó là pháp-hành-tứ-niệm-xứ là nhân đầu dẫn đến quả cuối cùng là Thánh-đạo hợp đủ 8 chánh: chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định đó là 8 tâm-sở đồng sinh trong 4 Thánh-đạo-tâm, 4 Thánh-quả-tâm có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới.
Trong chú giải kinh Mahāsatipaṭṭhānasutta-vaṇṇanā giảng giải rằng:
“Pubbabhāgasatipaṭṭhānamaggo” Tứ-niệm-xứ là phần đầu của bát-chánh-đạo.
Pháp-Hành-Trung-Đạo Là Pháp-Hành-Tứ-Niệm-Xứ
Trong chi bộ kinh, phần 3 chi pháp, Đức-Phật thuyết giảng về 3 pháp-hành (paṭipadā):
1- Āgāḷhā paṭipadā: Pháp-hành hưởng lạc cực đoan, 2- Nijjhāmāpaṭipadā: Pháp-hành khổ hạnh cực đoan, 3- Majjhimāpaṭipadā: Pháp-hành-trung-đạo.
Đức-Phật thuyết giảng về pháp-hành-trung-đạo rằng:
- Này chư Tỳ-khưu! Pháp-hành-trung-đạo là thế nào?
- Này chư Tỳ-khưu! Trong Phật-giáo này, tỳ-khưu:
1- Là hành-giả có tâm tinh-tấn không ngừng, có chánh-niệm trực nhận, có trí-tuệ-tỉnh-giác trực giác thấy rõ, biết rõ thân trong phần thân-niệm-xứ, để diệt tham-tâm hài lòng, và diệt sân-tâm không hài lòng trong ngũ-uẩn-chấp-thủ này,
2- Là hành-giả có tâm tinh-tấn không ngừng, có chánh-niệm trực nhận, có trí-tuệ-tỉnh-giác trực giác thấy rõ, biết rõ các thọ trong phần thọ-niệm-xứ, để diệt tham-tâm hài lòng, và diệt sân-tâm không hài lòng trong ngũ-uẩn-chấp-thủ này.
3- Là hành-giả có tâm tinh-tấn không ngừng, có chánh-niệm trực nhận, có trí-tuệ-tỉnh-giác trực giác thấy rõ, biết rõ tâm trong phần tâm-niệm-xứ, để diệt tham-tâm hài lòng, và diệt sân-tâm không hài lòng trong ngũ-uẩn-chấp-thủ này.
4- Là hành-giả có tâm tinh-tấn không ngừng, có chánh-niệm trực nhận, có trí-tuệ-tỉnh-giác trực giác thấy rõ, biết rõ các pháp trong phần pháp-niệm-xứ, để diệt tham-tâm hài lòng, và diệt sân-tâm không hài lòng trong ngũ-uẩn-chấp-thủ này…”
Như vậy, phần đầu của Pháp-hành-trung-đạo là pháp-hành-tứ-niệm-xứ hoặc pháp-hành-thiền-tuệ, và phần cuối của Pháp-hành-trung-đạo là bát-chánh-đạo hợp đủ 8 chánh đó là 8 tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm, 4 Thánh-quả-tâm có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới.
Pháp-hành-trung-đạo có 2 giai đoạn:
1- Giai đoạn đầu của pháp-hành-trung-đạo, 2- Giai đoạn cuối của pháp-hành-trung-đạo.
Pháp-hành-trung-đạo là pháp-hành diệt tham- tâm hài lòng (abhijjhā) và diệt sân-tâm bực mình (domanassa) đồng thời cũng diệt si-tâm tăm tối không thấy rõ, biết rõ thật-tánh của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, để cho trí-tuệ-thiền-tuệ phát sinh theo tuần tự từ trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới cho đến trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới gồm có 16 loại trí-tuệ-thiền-tuệ.
1- Giai Đoạn Đầu Của Pháp-Hành-Trung-Đạo,
* Giai đoạn đầu của pháp-hành-trung-đạo là hành-giả thực-hành pháp-hành-tứ-niệm-xứ hoặc pháp-hành-thiền-tuệ để phát sinh trí-tuệ từ trí-tuệ thứ nhất gọi là Nāmarūpaparicchedañāṇa: Trí-tuệ thấy rõ, biết rõ, phân biệt rõ thật-tánh của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp tam-giới đúng theo chân-nghĩa-pháp đều là pháp-vô-ngã, không phải ta, không phải người, không phải người nam, không phải người nữ, v.v… Tiếp theo trí-tuệ-thiền-tuệ phát sinh theo tuần tự,
Đến trí-tuệ-thiền-tuệ thứ 4 gọi là udayabbayā-nupassanāñāṇa phát sinh, thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, nên hiện rõ 3 trạng-thái-chung: trạng-thái-vô-thường, trạng-thái-khổ, trạng-thái-vô-ngã của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới.
Và các trí-tuệ-thiền-tuệ tuần tự phát sinh cho đến trí-tuệ-thiền-tuệ thứ 13 gọi là Gotrabhu-ñāṇa: trí-tuệ-thiền-tuệ chuyển tánh từ dòng phàm-nhân sang dòng Thánh-nhân. Trí-tuệ-thiền-tuệ này có khả năng đặc biệt tiếp nhận đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới, song tâm vẫn còn dục-giới-đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ.
Đó là giai đoạn đầu của pháp-hành-trung-đạo.
2- Giai Đoạn Cuối Của Pháp-Hành-Trung-Đạo,
* Giai đoạn cuối của pháp-hành-trung-đạo là hành-giả đã chứng đắc đến trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới thứ 14 gọi là Maggañāṇa: Thánh-đạo-tuệ đồng sinh với Thánh-đạo-tâm và trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới thứ 15 gọi là Phalañāṇa: Thánh-quả-tuệ đồng sinh với Thánh-quả-tâm, có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới.
4 Thánh-đạo-tâm, 4 Thánh-quả-tâm có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới. Khi ấy, chắc chắn có bát-chánh-đạo hợp đủ 8 chánh: chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định đó là 8 tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm, 4 Thánh-quả-tâm ấy. Đó là giai đoạn cuối của pháp-hành-trung-đạo. [1] Saṃ., Mahāvaggapāḷi, Kinh Dhammacakkappavattanasutta [2] Saṃyuttanikāya, bô, Mahāvaggapāḷi, kinh Rahogatasutta Thực Hành Pháp-Hành-Trung-Đạo
Pháp-hành-trung-đạo (Majjhimāpaṭipadā) là pháp-hành mà hành-giả cần phải học hỏi, nghiên cứu, hiểu biết các đối-tượng-tứ-niệm-xứ là thân, thọ, tâm, pháp hoặc đối-tượng-thiền-tuệ là tất cả mọi sắc-pháp, tất cả mọi danh-pháp thuộc về chân-nghĩa-pháp một cách rành rẽ.
Pháp-hành-trung-đạo là pháp-hành có khả năng diệt tham-tâm hài lòng (abhijjhā) và diệt sân-tâm bực mình (domanassa) trong đối-tượng tứ-niệm-xứ ấy, hoặc đối-tượng-thiền-tuệ sắc-pháp, danh-pháp ấy, đồng thời diệt si-tâm tối tăm che phủ thật-tánh của mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma).
* Thực hành không đúng theo pháp-hành-trung-đạo như thế nào?
Số hành giả không thường gần gũi thân cận với bậc thiện-trí trong Phật-giáo, không học hỏi, nghiên cứu về môn học vi-diệu-pháp, không hiểu rõ thật-tánh của tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp tam-giới đều có sự sinh, sự diệt, đều có 3 trạng-thái-chung: trạng-thái-vô-thường, trạng-thái-khổ, trạng-thái-vô-ngã.
Hành giả không hiểu rõ tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp tam-giới đều là khổ-đế (dukkha-sacca) là pháp mà hành-giả có trí-tuệ-hành phận-sự nên biết (pariññeyya) khổ-đế với trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới.
Do chưa hiểu rõ thật-tánh của tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp tam-giới, chưa hiểu biết trí-tuệ-hành phận sự nên biết (pariññeyya) khổ-đế với trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới như vậy, nên khi thực-hành pháp-hành-tứ-niệm-xứ, hành-giả coi trọng đối-tượng niệm-xứ này, coi khinh đối-tượng niệm-xứ kia. Hoặc khi thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ, hành-giả coi trọng đối-tượng thiền-tuệ sắc-pháp, danh-pháp này, coi khinh đối-tượng thiền-tuệ sắc-pháp, danh-pháp kia.
Khi hành-giả thực-hành pháp-hành-tứ-niệm-xứ hoặc pháp-hành-thiền-tuệ, nếu có tâm thiên vị trong đối-tượng niệm-xứ hoặc đối-tượng-thiền-tuệ ấy, khi thì tham-tâm hài lòng phát sinh nơi đối-tượng niệm-xứ này, hoặc đối-tượng sắc-pháp, danh-pháp này, khi thì sân-tâm bực mình phát sinh nơi đối-tượng niệm-xứ kia, hoặc đối-tượng sắc-pháp, danh-pháp kia.
Như vậy, hành-giả thực-hành pháp-hành-tứ-niệm-xứ hoặc pháp-hành-thiền-tuệ, không diệt được tham-tâm hài lòng nơi đối-tượng niệm-xứ này hoặc đối-tượng-thiền-tuệ này, và không diệt được sân-tâm bực mình nơi đối-tượng niệm-xứ kia hoặc đối-tượng-thiền-tuệ kia.
Cho nên, hành giả thực hành không đúng theo pháp-hành-trung-đạo.
Hơn nữa, khi có tham-tâm hoặc sân-tâm phát sinh, ắt có si-tâm-sở đồng sinh với tham-tâm, sân-tâm ấy, nên che phủ thật-tánh của danh-pháp, sắc-pháp. Vì vậy, hành-giả không thể thấy rõ, biết rõ thật-tánh của sắc-pháp, danh-pháp thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma).
Ví dụ: Hành-giả đang thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ có sắc-ngồi đó là tư thế ngồi, dáng ngồi thuộc về sắc-pháp phát sinh do tâm, làm đối-tượng-thiền-tuệ.
* Nếu khi hành-giả coi trọng đối-tượng sắc-ngồi thì tham-tâm hài lòng nơi sắc-ngồi ấy phát sinh, chắc chắn có si-tâm-sở đồng sinh với tham-tâm ấy che phủ thật-tánh sắc-pháp của sắc-ngồi ấy.
* Nếu khi có phóng-tâm phát sinh (nghĩ đến chuyện khác), nên tâm buông bỏ đối-tượng sắc-ngồi ấy, nếu hành giả coi khinh phóng-tâm tâm-sở (uddhaccacetasika) thuộc về danh-pháp thì sân-tâm bực mình phát sinh, bởi vì phóng-tâm làm mất đối-tượng sắc-ngồi ấy. Sân-tâm phát sinh chắc chắn có si-tâm-sở đồng sinh với sân-tâm ấy làm che phủ thật-tánh của danh-pháp của phóng-tâm tâm-sở ấy.
Như vậy, hành-giả thực-hành pháp-hành-thân-niệm-xứ hoặc pháp-hành-thiền-tuệ có đối-tượng sắc-ngồi, không diệt được tham-tâm hài lòng nơi đối-tượng sắc-ngồi và cũng không diệt được sân-tâm bực mình nơi đối-tượng danh-pháp phóng-tâm, trong khi đang thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ với đối-tượng sắc-ngồi ấy.
Cho nên, hành giả thực hành không đúng theo pháp-hành-trung-đạo. * Thực-hành đúng theo pháp-hành-trung-đạo như thế nào?
Số hành-giả thường gần gũi thân cận với bậc thiện-trí trong Phật giáo, thường học hỏi, nghiên cứu, hiểu biết về môn học vi-diệu-pháp, hiểu biết thật-tánh tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp tam-giới đều là pháp-vô-ngã (không phải ta, không phải người, không phải người nam, không phải người nữ, không phải chúng-sinh, không phải vật này, vật kia, v.v… Tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp tam-giới thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) đều có sự sinh, sự diệt, đều có 3 trạng-thái-chung: trạng-thái-vô-thường, trạng-thái-khổ,trạng-thái-vô-ngã.
Hành-giả hiểu biết rõ tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp tam-giới đều là khổ-đế là pháp mà trí-tuệ-hành có phận-sự nên biết (pariñ-ñeyya) khổ-đế với trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới.
Do nhờ có yonisomanasikāra trí-tuệ hiểu biết đúng 4 trạng-thái của tất cả mọi sắc-pháp, danh-pháp tam-giới là vô-thường, khổ, vô-ngã, bất-tịnh, nên khi thực-hành pháp-hành-tứ-niệm-xứ hoặc pháp-hành-thiền-tuệ, hành-giả không coi trọng đối-tượng niệm-xứ này, hoặc đối-tượng sắc-pháp, danh-pháp này, cũng không coi khinh đối-tượng niệm-xứ kia, hoặc đối-tượng sắc-pháp, danh-pháp kia. Hành giả không có tâm thiên vị trong các đối-tượng-tứ-niệm-xứ hoặc các đối-tượng-thiền-tuệ.
Khi hành-giả thực-hành pháp-hành-tứ-niệm-xứ hoặc pháp-hành-thiền-tuệ, đặt tâm-trung-dung nơi đối-tượng-niệm-xứ hoặc nơi đối-tượng sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, nên tham-tâm hài lòng không phát sinh nơi đối-tượng-niệm-xứ này, hoặc đối-tượng-thiền-tuệ sắc-pháp, danh-pháp này, và sân-tâm bực mình cũng không phát sinh nơi đối-tượng niệm-xứ kia, hoặc đối-tượng-thiền-tuệ sắc-pháp, danh-pháp kia.
Như vậy, hành-giả thực-hành pháp-hành-tứ-niệm-xứ hoặc pháp-hành-thiền-tuệ đúng theo pháp-hành-trung-đạo (majjhimapaṭipadā), nên diệt được tham-tâm hài lòng nơi đối-tượng-niệm-xứ, hoặc đối-tượng-thiền-tuệ, và diệt được sân-tâm bực mình nơi đối-tượng niệm-xứ hoặc nơi đối-tượng-thiền-tuệ.
Cho nên, hành-giả thực-hành đúng theo pháp-hành-trung-đạo.
Ví dụ: Hành-giả đang thực-hành pháp-hành-thân-niệm-xứ có sắc-ngồi đó là tư thế ngồi, dáng ngồi thuộc về sắc-pháp phát sinh do tâm; hoặc thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ có tư thế ngồi, dáng ngồi thuộc về sắc-pháp phát sinh do tâm làm đối-tượng-thiền-tuệ.
* Khi hành-giả thực-hành pháp-hành-thân-niệm-xứ với đối-tượng tư thế ngồi, dáng ngồi là sắc-pháp phát sinh do tâm, gọi là sắc-ngồi, hoặc thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ với đối-tượng sắc-ngồi là sắc-pháp phát sinh do tâm, đó là tư thế ngồi, dáng ngồi.
Hành-giả thực-hành pháp-hành-thân-niệm-xứ với đối-tượng tư thế ngồi, dáng ngồi, hoặc pháp-hành-thiền-tuệ với đối-tượng sắc-ngồi, hành-giả không coi trọng đối-tượng tư thế ngồi, dáng ngồi gọi là sắc-ngồi, nên tham-tâm hài lòng nơi đối-tượng sắc-ngồi ấy không phát sinh, chỉ có trí-tuệ-thiền-tuệ phát sinh thấy rõ, biết rõ thật-tánh của sắc-ngồi thuộc về sắc-pháp ấy mà thôi.
* Nếu khi có phóng-tâm phát sinh (nghĩ đến chuyện khác), làm cho tâm buông bỏ đối-tượng sắc-ngồi ấy thì hành-giả không coi khinh phóng-tâm tâm-sở (uddhaccacetasika) thuộc về danh-pháp, nên sân-tâm bực mình không phát sinh, chỉ có trí-tuệ-thiền-tuệ phát sinh thấy rõ, biết rõ thật-tánh của phóng-tâm tâm-sở thuộc về danh-pháp mà thôi.
Hành-giả thực-hành pháp-hành-thân-niệm-xứ hoặc pháp-hành-thiền-tuệ diệt được tham-tâm hài lòng nơi đối-tượng sắc-pháp của sắc-ngồi ấy, và diệt được sân-tâm bực mình nơi đối-tượng danh-pháp của phóng-tâm tâm-sở ấy.
Cho nên, hành-giả thực-hành đúng theo pháp-hành-trung-đạo do biết đặt tâm-trung-dung trong tất cả mọi đối-tượng tứ-niệm-xứ hoặc mọi đối-tượng-thiền-tuệ sắc-pháp, danh-pháp, bởi vì hành-giả không coi trọng đối-tượng niệm-xứ này hoặc đối-tượng-thiền-tuệ này, cũng không coi khinh đối-tượng niệm-xứ kia hoặc đối-tượng-thiền-tuệ kia.
Hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ, hiểu biết rõ thật-tánh của tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp tam-giới đều có sự sinh, sự diệt, đều có 3 trạng-thái-chung: trạng-thái-vô-thường, trạng-thái-khổ, trạng-thái-vô-ngã, không hơn không kém, đều có khả năng dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.
Sở dĩ, hành-giả thực-hành đúng theo pháp-hành-trung-đạo là vì có yonisomanasikāra hỗ trợ hiểu biết trong tâm với trí-tuệ hiểu biết đúng 4 trạng-thái: trạng-thái-vô-thường, trạng-thái-khổ, trạng-thái-vô-ngã, trạng-thái-bất-tịnh của tất cả mọi sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới.
Thật vậy, * sắc-ngồi là 1 trong đối-tượng tứ-oai-nghi trong thân-niệm-xứ thuộc về sắc-pháp phát sinh do tâm có sự sinh, sự diệt, có 3 trạng-thái-chung: trạng-thái-vô-thường, trạng-thái-khổ, trạng-thái-vô-ngã, có khả năng dẫn đến chứng ngộ chân lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.
*Phóng-tâm đó là phóng-tâm tâm-sở (uddhac-cacetasika) là 1 trong đối-tượng 5 pháp-chướng-ngại (nīvaraṇapabba) trong pháp-niệm-xứ thuộc về danh-pháp cũng có sự sinh, sự diệt, cũng có 3 trạng-thái-chung: trạng-thái-vô-thường, trạng-thái-khổ, trạng-thái-vô-ngã, cũng có khả năng dẫn đến chứng ngộ chân lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.
Dù đối-tượng sắc-ngồi thuộc về sắc-pháp hoặc dù đối-tượng phóng-tâm tâm-sở thuộc về danh-pháp thì tâm của hành-giả vẫn có chánh-niệm trực nhận đối-tượng ấy, có trí-tuệ-tỉnh-giác trực giác thấy rõ, biết rõ thật-tánh của đối-tượng sắc-ngồi thuộc về sắc-pháp hoặc của đối-tượng phóng-tâm tâm-sở thuộc về danh-pháp ấy một cách trung-dung, không hơn không kém, không coi trọng đối-tượng sắc-ngồi, cũng không coi khinh đối-tượng phóng-tâm.
Khi phóng-tâm diệt, hành-giả có chánh-niệm, có trí-tuệ-tỉnh-giác trực giác thấy rõ, biết rõ trở lại đối-tượng sắc-ngồi cũ như trước.
Cho nên, hành-giả thực-hành đúng theo pháp-hành-trung-đạo.
Khi hành-giả thực-hành pháp-hành-tứ-niệm-xứ hoặc pháp-hành-thiền-tuệ trong giai đoạn đầu đúng theo pháp-hành-trung-đạo, vì không thiên về 2 pháp cực đoan là tham-tâm và sân-tâm, nên diệt được tham-tâm hài lòng nơi đối-tượng-niệm-xứ ấy hoặc đối-tượng-thiền-tuệ ấy, và diệt được sân-tâm bực mình nơi đối-tượng niệm-xứ ấy, hoặc đối-tượng-thiền-tuệ ấy, đồng thời diệt được si-tâm-sở đồng sinh với tham-tâm ấy, hoặc sân-tâm ấy, nên trí-tuệ-thiền-tuệ tiến triển từ trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới cho đến trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới, chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.
Khi chứng đắc 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm có đối-tượng Niết-bàn, siêu-tam-giới. Khi ấy, bát-chánh-đạo hợp đủ 8 chánh là chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định đó là 8 tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm.
Đó là giai đoạn cuối của pháp-hành-trung-đạo.
(Xong phần giải thích tóm tắt trong kinh Chuyển-Pháp-Luân).
Đoạn Kết
Đức-Phật Gotama thuyết giảng bài kinh Dhammacakkappavatanasutta: Kinh Chuyển-Pháp-Luân lần đầu tiên tế độ nhóm 5 tỳ-khưu là Ngài Đại-trưởng-lão Aññāsikoṇḍañña, Ngài Đại-đức Vappa, Ngài Đại-đức Bhaddiya, Ngài Đại-đức Mahānāma, Ngài Đại-đức Assaji tại khu rừng phóng sinh nai gọi là Isipatana, gần kinh thành Bāraṇasī.
Kinh Chuyển-Pháp-Luân này là một bài kinh tối ư quan trọng trong giáo pháp của Đức-Phật. Trong bài kinh này, Đức-Phật thuyết giảng về tứ Thánh-đế, là pháp căn bản, cốt lõi trong Phật-giáo, tam-tuệ-luân trong tứ Thánh-đế là 3 loại trí-tuệ luân chuyển theo tuần tự như sau:
1- Saccañāṇa: Trí-tuệ-học trong tứ Thánh-đế thuộc về pháp-học Phật-giáo, chuyển đến
2- Kiccañāṇa: Trí-tuệ-hành phận sự trong mỗi Thánh-đế thuộc về pháp-hành Phật-giáo, chuyển đến
3- Katañāṇa: Trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự trong mỗi Thánh-đế thuộc về pháp-thành Phật-giáo đó là chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-Bàn, diệt-đoạn-tuyệt mọi tham-ái, mọi phiền-nãokhông còn dư sót, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán. Hành-giả biết rõ phạm-hạnh cao thượng đã hoàn thành, kiếp này là kiếp chót sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài.
Như vậy, kinh Dhammacakkappavatanasutta: Kinh Chuyển-Pháp-Luân này là bài kinh tóm lược được phần căn bản cốt lõi tứ Thánh-đế, và tam-tuệ-luân trong tứ Thánh-đế, thuộc về pháp-học Phật-giáo, pháp-hành Phật-giáo, pháp-thành Phật-giáo.
Rằm tháng sáu Phật-Lịch 2557/2013 Chùa Tổ Bửu-Long, Q.9, Tp. Hồ-Chí-Minh.
Tỳ-Khưu Hộ-Pháp (Dhammarakkhita Bhikkhu) (Aggamahāpaṇḍita)
|