• Tìm Hiểu Pháp Hành Thiền Tuệ
  • Tác giả: Hộ Pháp

Mục Lục

  • Phần I - Bắt đầu và cuối cùng của Pháp Hành Thiền Tuệ

    I. SƠ LƯỢC TIỂU SỬ ĐỨC PHẬT GOTAMA

  • Nguyên nhân Đức Bồ Tát đi Xuất gia

    Đức Bồ Tát thọ giáo Pháp Hành Thiền Định

    Đức Bồ Tát hành Pháp Khổ Hạnh (dukkharacariyà)

    Đức Bồ tát chứng đắc Tam Minh thành Bậc Chánh Đẳng Giác Tối Thượng

    Đức Phật thọ hưởng Quả Vị Giải Thoát Niết Bàn

    Đức Phật suy tư về Siêu Tam Giới Pháp

    Đại Phạm Thiên thỉnh Đức Phật thuyết pháp

  • II. CHUYỂN PHÁP LUÂN
  • Đức Phật Chuyển Pháp Luân lần đầu tiên
    Kinh Chuyển Pháp Luân

  • III. SỰ THẬT CHÂN LÝ (SACCA)
  • Sự thật Ngôn Ngữ Chế Định

    Chế Định Pháp

    Sự Thật Chân Nghĩa Pháp

    Chân Nghĩa pháp

  • IV. ĐỐI TƯỢNG PARAMATTHA VỚI PANNATTI
  • 6 thức tâm biết 6 đối tượng qua 6 môn diễn tiến qua 6 lộ trình tâm

    Phân biệt đối tượng Paramattha với đối tượng Pannatti theo các lộ trình tâm

    Ngũ môn lộ trình tâm

    Ý môn lộ trình tâm

    Ý môn lộ trình tâm có dục giới tác hành tâm

    Phân biệt đối tượng Paramattha và đối tượng pannatti

    Nhĩ môn lộ trình tâm và Ý môn lộ trình tâm

    Tỷ môn lộ trình tâm, Thiệt môn lộ trình tâm, Thân môn lộ trình tâm

    Suddhamanodvaravithicitta: Ý môn lộ trình tâm đơn thuần, không tùy thuộc vào ngũ môn lộ trình tâm

  • V. THUYẾT PHÁP (DESANA)
  • Lợi ích về Sự Thật theo Ngôn Ngữ Chế Định

    Lợi ích về Sự Thật theo Chân Nghĩa Pháp

  • Phần II - Pháp Hành (Bhàvanà)

    I. PHÁP HÀNH THIỀN ĐỊNH (Samathabhàvanà)

  • Định nghĩa thiền định

    Đối tượng của Thiền Định

    6 loại tánh của hành giả hành thiền định

    Đề mục thiền định thích hợp và không thích hợp với mỗi tánh của hành giả

    Đề mục thiền định thích hợp cả 6 tánh

    Phân loại 40 đề mục thiền định theo các bậc thiền

    Năm Pháp Chướng Ngại (Nivarana)

    Năm Chi Thiền (Jhànanga)

    Năm bậc Thiền Sắc Giới

    Bốn bậc Thiền Vô Sắc Giới

    Quả báu của Thiền Định

  • II. PHÁP HÀNH THIỀN TUỆ
  • Định nghĩa Thiền Tuệ

    Trí Tuệ Thiền Tuệ

    Danh Pháp Sắc Pháp

    Danh pháp, sắc pháp làm đối tượng Thiền Tuệ

    Sự sanh, sự diệt của Danh pháp Sắc pháp

  • PHÁP HÀNH THIỀN TUỆ (tiếp theo)
  • Ba trạng thái chung (Sàmannalakkhana)

    Ba pháp che án 3 trạng thái chung – Phương pháp diệt 3 pháp che án

  • PHÁP HÀNH THIỀN TUỆ (tiếp theo)
  • Tứ Thánh Đế (Ariyasacca)

  • PHÁP HÀNH THIỀN TUỆ (tiếp theo)
  • 4 Thánh Đạo – 4 Thánh Quả

    Niết Bàn (Nibbàna)

    Diệt Đoạn tuyệt phiền não

    Quả báu của Pháp Hành Thiền Tuệ

  • III. PHÁP HÀNH TỨ NIỆM XỨ
  • Đối tượng của Tứ Niệm Xứ

    Phần thân niệm xứ có 14 đối tượng

    Phần thọ niệm xứ có 1 đối tượng, chia 9 loại thọ

    Phần tâm niệm xứ có 1 đối tượng, chia 16 loại tâm

    Phần pháp niệm xứ có 5 đối tượng

  • IV. ĐỐI TƯỢNG TỨ OAI NGHI
  • Phần Lý thuyết Pháp Học Tứ Oai Nghi

    Phần Thực hành Đối Tượng Tứ Oai Nghi

  • ĐỐI TƯỢNG TỨ OAI NGHI (tiếp theo)
  • Chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác

    Trí tuệ tỉnh giác

    Thay đổi oai nghi

    Đoạn kết của đối tượng 4 oai nghi

  • V. KẾT QUẢ CỦA PHÁP HÀNH THIỀN TUỆ
  • Trí tuệ Thứ Nhất

    Trí tuệ Thứ Nhì

    Trí Tuệ Thứ Ba

  • KẾT QUẢ CỦA PHÁP HÀNH THIỀN TUỆ (tiếp theo)
  • Trí tuệ Thiền Tuệ Thứ Tư

    Trí tuệ Thiền Tuệ Thứ Năm

  • KẾT QUẢ CỦA PHÁP HÀNH THIỀN TUỆ (tiếp theo)
  • Trí tuệ thiền Tuệ Thứ Sáu

    Trí tuệ Thiền Tuệ Thứ Bảy

    Trí Tuệ Thiền Tuệ Thứ Tám

    Trí Tuệ Thiền Tuệ Thứ Chín

    Trí Tuệ Thiền Tuệ Thứ Mười

    Trí Tuệ Thiền Tuệ Thứ Mười Một

  • KẾT QUẢ CỦA PHÁP HÀNH THIỀN TUỆ (tiếp theo)
  • Trí Tuệ Thiền Tuệ Thứ Mười Hai

    Trí Tuệ Thiền Tuệ Thứ Mười Ba

    Trí Tuệ Thiền Tuệ Siêu Tam Giới thứ Mười Bốn

    Trí Tuệ Thiền Tuệ Siêu Tam Giới Thứ Mười Lăm

    Trí Tuệ Thứ Mười Sáu

  • VI. DIỆT PHIỀN NÃO
  • Tính chất phiền não – Pháp diệt phiền não

    Năm cách Diệt Phiền não

    Thánh đạo Tuệ Diệt Đoạn tuyệt Phiền não

    Trí Tuệ Thiền Tuệ với Pháp Thanh Tịnh

    VII. BẢY PHÁP THANH TỊNH

    Sìlavisuddhi: Giới Thanh Tịnh

    Cittavisuddhi: Định Thanh Tịnh

    Ditthivisuddhi: Chánh Kiến Thanh Tịnh

    Kankhàvitaranavisuddhi: Thoát Ly Hoài Nghi Thanh Tịnh

    Maggàmagganànadassanavisuddhi: Đạo Phi Đạo Tri Kiến Thanh Tịnh

    Patipadànànadassanavisuddhi: Pháp Hành Tri Kiến Thanh Tịnh

    Nànadassanavisuddhi: Tri Kiến Thanh Tịnh

  • VIII. QUẢ BÁU ĐẶC BIỆT CỦA THIỀN TUỆ

    IX. SỰ KHÁC BIỆT GIỮA THIỀN ĐỊNH VÀ THIỀN TUỆ

  • Diệt đoạn tuyệt mọi Tham ái, Phiền não, Ác pháp

    Thọ hưởng Quả Vị Giải Thoát của Thánh Quả

    Nhập Diệt Thọ Tưởng Định

    Bậc Thánh nhân thành tựu các Ân Đức Tăng

    Quả báu đặc biệt của Thiền Tuệ

    Nhận xét về pháp hành Thiền Định – Pháp hành Thiền Tuệ

  • X. NHỮNG PHÁP NÊN BIẾT
  • Sáu pháp chướng ngại

    Nhân sanh pháp chướng ngại

    Nhân diệt pháp chướng ngại

    Pháp để diệt sự chướng ngại

  • NHỮNG PHÁP NÊN BIẾT (tiếp theo)
  • Không chấp ngã

    Không chấp ngã bằng cách phủ định ngã như thế nào?

    Không chấp ngã bằng cách khẳng định không có ngã như thế nào?

    Phân biệt hai sự thật

    Sự thật theo chân nghĩa pháp như thế nào?

    Sự thật theo ngôn ngữ chế định như thế nào?

  • NHỮNG PHÁP NÊN BIẾT (tiếp theo)
  • Danh pháp, sắc pháp trong pháp hành thiền tuệ

    Pháp hành trung đạo

    Bát chánh đạo là những pháp gì?

    Thực hành pháp hành trung đạo

  • NHỮNG PHÁP NÊN BIẾT (tiếp theo)
  • Pháp hành giới định tuệ

    Ba phương pháp tiến hành để chứng đắc 4 thánh đạo, 4 thánh quả

    Niết-bàn ở đâu?

    Pháp hành phạm hạnh

    5 pháp chủ (indriya)

  • NHỮNG PHÁP NÊN BIẾT (tiếp theo)
  • Đức Phật xuất hiện trên thế gian đem lại lợi ích gì cho chúng ta?

    Tính chất đặc biệt của pháp hành Tứ niệm xứ

    Tử sanh luân hồi

    Tam luân

  • NHỮNG PHÁP NÊN BIẾT (tiếp theo)
  • Bậc Thánh Arahan giải thoát khổ sanh như thế nào?

    Hành thiền tuệ ở giai đoạn nào trong đời người là tốt nhất?

    Điều tai họa cho hành giả kiếp hiện tại

  • ĐOẠN KẾT
  • 7 đức tính của bậc Kalyanamitta

    Lời phát nguyện

    Nigamanakathà

    Patthànà

    Tài liệu tham khảo

    Phụ lục: NGỮ VỰNG

    Việt văn

    Pàli văn


LỜI CHÂN THÀNH BIẾT ƠN (Tái bản lần thứ nhất)

Lời nói đẩu tiên của bần sư là lời chân thành biết ơn những bạn đọc, bậc thiện trí đã dành thì giờ quý báu của mình để đọc quyển sách "Tìm Hiểu Pháp Hành Thiền Tuệ", đã phát hiện ra những sơ sót của bần sư, khiến cho bần sư vô cùng cảm kích trước thiện tâm trong sáng, xây dựng của quý vị. Đó là điều thôi thúc trong lòng bần sư, quyết tâm tái bản cho kỳ được, để sửa chữa những sơ sót mà quý vị đã chỉ giáo.

Tái bản lần này, bần sư đã sửa chữa những sơ sót, bớt phần dư, bổ sung vào phần thiếu, trình bày lại cho mạch lạc, để đền đáp một phần công ơn của quý vị đã quan tâm tìm hiểu quyển sách này.

Tuy nhiên, khả năng của bần sư có hạn, dầu cho cố gắng đến đâu đi nữa, chắc chắn cũng không tránh khỏi những sơ sót chưa tìm thấy, thậm chí còn có chỗ sai ngoài khả năng của bần sư.

Bần sư kính xin quý vị xem soạn phẩm này như là của chung, mà mỗi người trong chúng ta ai cũng có phần đóng góp xây dựng để cho quyển sách này được hoàn hảo, đó cũng là công lao giúp duy trì giáo pháp của Đức Phật được trường tồn trên quê hương thân yêu của chúng ta, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài cho mình, mọi người và chúng sinh.

Bần sư chân thành biết ơn quý vị !

Tỳ Khưu Hộ Pháp
Núi rừng Viên Không
Phật Lịch 2546-2002

-ooOoo-

Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa
Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Ðức Thế Tôn, Bậc Arahán, Bậc Chánh Ðẳng Giác

Paṇāmagāthā

Buddhaṃ Bhagavantaṃ seṭṭhaṃ,

Ādaraṃ abhivandiya.

Buddhassa Dhammosadhañca,

Ādimajjhantakaḷyanaṃ.

Buddhasāvakasaṃghañca,

Puññakkhettaṃ anuttaraṃ.

"Vipassanāpriyesanā",

Katā me aṭṭhasaṅgahā.

KỆ LỄ BÁI TAM BẢO

Chúng con đem hết lòng thành kính,

Ðảnh lễ Ðức Thế Tôn cao thượng,

Cùng Pháp của Ngài, như linh dược,

Hoàn hảo đoạn đầu, giữa và cuối,

Cùng chư Thánh Tăng đệ tử Phật,

Phước điền cao thượng của chúng sinh.

Con xin biên soạn tập sách nhỏ,

"Tìm hiểu về Pháp Hành Thiền Tuệ".

-ooOoo-

LỜI TỰA

Ðức Phật hằng ngày thường giáo huấn chư Tỳ khưu, Tỳ khưu ni, cận sự nam, cận sự nữ rằng:

"Bhikkhave, appamādena sampādetha,

Dullabho Buddhuppādo lokasmiṃ...". [1]

"Này chư Tỳ khưu, các con hãy nên cố gắng tinh tấn hoàn thành mọi phận sự Tứ thánh đế bằng pháp hành Tứ niệm xứ. Bởi vì, Ðức Phật xuất hiện trên thế gian này là một điều khó!...".

Thật vậy, trong Chú giải Trường bộ kinh [2] có ghi:

Có khi trải qua khoảng thời gian lâu dài vô số đại kiếp trái đất [3], mà chẳng có một Ðức Phật nào xuất hiện trên thế gian, gọi là suññakappa.

Thật diễm phúc biết dường nào! Trong kiếp trái đất hiện tại mà chúng ta đang sống gọi là Bhaddakappa, có nhiều nhất, đến 5 Ðức Phật xuất hiện trên thế gian:

Thời quá khứ, có 3 Ðức Phật đã xuất hiện trên thế gian là Ðức Phật Kakusandha, Ðức Phật Koṇāgamana, Ðức Phật Kassapa.

Thời hiện tại, Ðức Phật Gotama của chúng ta đã xuất hiện, nay, tuy Ngài đã tịch diệt Niết Bàn, song giáo pháp của Ngài vẫn còn lưu truyền trên thế gian này đến 5.000 năm. Ðến nay, giáo pháp của Ngài đã được lưu truyền trên 2.540 năm rồi và chỉ còn lưu truyền trong một thời gian khoảng 2.560 năm nữa, đủ 5.000 năm sẽ bị hoại diệt hoàn toàn. Bởi vì, loài người chẳng còn ai biết đến Ðức Phật, Ðức Pháp và Ðức Tăng nữa

Thời vị lai, còn Ðức Phật Metteyya sẽ xuất hiện trên thế gian.

Khi có Ðức Phật xuất hiện trên thế gian, thì mới có pháp hành thiền tuệ (vipassanābhāvanā). Khi có pháp hành thiền tuệ, thì chúng sinh có duyên lành mới có thể học và hành theo pháp hành thiền tuệ để dẫn đến sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Ðạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn, là pháp giải thoát mọi cảnh khổ sanh, lão, bệnh, tử... đạt đến sự an lạc tuyệt đối.

Ðức Phật dạy trong Kinh Ðại Niết Bàn [4] có đoạn:

Một thuở nọ, Ðức Thế Tôn ngự đến làng Koṭigāma, Ngài dạy chư Tỳ khưu rằng:

"Này chư Tỳ khưu, bởi vì chưa chứng ngộ, chưa thấu triệt chân lý Tứ thánh đế, nên Như Lai và các con phải chịu tử sanh luân hồi từ kiếp này sang kiếp khác, trải qua suốt thời gian dài vô tận như thế ấy".

Vậy, chân lý Tứ thánh đế là gì?

Này chư Tỳ khưu, bởi vì chưa chứng ngộ, chưa thấu triệt Khổ thánh đế, nên Như Lai và các con phải chịu tử sanh luân hồi từ kiếp này sang kiếp khác trải qua suốt thời gian dài vô tận như thế.

Này chư Tỳ khưu, bởi vì chưa chứng ngộ, chưa thấu triệt Nhân sanh Khổ thánh đế, nên Như Lai và các con phải chịu tử sanh luân hồi...

Này chư Tỳ khưu, bởi vì chưa chứng ngộ, chưa thấu triệt Diệt Khổ thánh đế, nên Như Lai và các con phải chịu tử sanh luân hồi...

Này chư Tỳ khưu, bởi vì chưa chứng ngộ, chưa thấu triệt Pháp hành dẫn đến Diệt Khổ thánh đế, nên Như Lai và các con phải chịu tử sanh luân hồi từ kiếp này sang kiếp khác, trải qua suốt thời gian dài vô tận như thế.

Này chư Tỳ khưu, nay, Như Lai đã chứng ngộ, đã thấu triệt Khổ thánh đế; Như Lai đã chứng ngộ, đã thấu triệt Nhân sanh Khổ thánh đế; Như Lai đã chứng ngộ, đã thấu triệt Diệt Khổ thánh đế; Như Lai đã chứng ngộ, đã thấu triệt Pháp hành dẫn đến Diệt Khổ thánh đế. Như Lai đã diệt đoạn tuyệt gốc rễ tham ái là nhân sanh khổ rồi, không còn tham ái dắt dẫn đi tái sanh trong kiếp lớn kiếp nhỏ nữa, Như Lai chẳng còn phải tái sanh kiếp nào nữa...".

Pháp hành dẫn đến pháp Diệt Khổ thánh đế, đó là pháp hành Bát chánh đạo hợp đủ tám chánh: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định; đó là 8 tâm sở: trí tuệ tâm sở, hướng tâm tâm sở, chánh ngữ tâm sở, chánh nghiệp tâm sở, chánh mạng tâm sở, tinh tấn tâm sở, niệm tâm sở, nhất tâm tâm sở cùng với 28 tâm sở khác đồng sanh trong 4 Thánh Ðạo Tâm 4 Thánh Quả Tâm thuộc về siêu tam giới tâm, có Niết Bàn làm đối tượng.

Như vậy, Pháp hành Bát chánh đạo hợp đủ 8 chánh không phải là pháp hành bắt đầu tiến hành, hoặc đang tiến hành, mà là pháp thành ở giai đoạn kết quả cuối cùng, đã hoàn thành xong mọi phận sự của Tứ thánh đế, chứng đắc Thánh Ðạo, Thánh Quả và Niết Bàn.

Sự bắt đầu của pháp hành Bát chánh đạo là bắt đầu từ chánh niệm; đó là niệm thân, niệm thọ, niệm tâm, niệm pháp gọi là pháp hành Tứ niệm xứ.

Trong kinh Ðại Tứ niệm xứ, Ðức Phật thuyết giảng bắt đầu bằng câu:

"Ekāyano ayaṃ bhikkhave maggo...".

Này chư Tỳ khưu, đạo này là con đường duy nhất, để dẫn đến sự trong sạch, thanh tịnh hoàn toàn mọi phiền não, ô nhiễm trong tâm bậc Chánh Ðẳng Giác, chư Phật Ðộc Giác, chư Thánh Thanh Văn Giác; để diệt sự sầu não, than khóc; để diệt sự khổ thân, khổ tâm; để chứng đắc 4 Thánh Ðạo, 4 Thánh Quả; để chứng ngộ Niết Bàn. Ðạo duy nhất này là pháp hành Tứ niệm xứ...".[5]

Pháp hành Tứ niệm xứ là: niệm thân, niệm thọ, niệm tâm, niệm pháp cũng chính là niệm danh pháp, niệm sắc pháp, mà danh pháp, sắc pháp là đối tượng của pháp hành thiền tuệ.

Như vậy, tiến hành Tứ niệm xứ hoặc tiến hành thiền tuệ đều đưa đến kết quả hoàn toàn giống nhau. Ðó là chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Ðạo, 4 Thánh Quả Niết Bàn, là pháp siêu tam giới.

Pháp Hành Thiền Tuệ là pháp hành chỉ có trong Phật giáo, hoàn toàn không có ngoài Phật giáo. Pháp hành này có từ khi Ðức Phật xuất hiện trên thế gian và trong giáo pháp của Ngài.

Đức Thế Tôn có danh hiệu là "Sammāsambuddha": Bậc Chánh Ðẳng Giác, bởi vì chính tự Ngài là Bậc đầu tiên tiến hành thiền tuệ dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Ðạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán đầu tiên trong 10 muôn triệu thế giới chúng sinh. Do đó, gọi là bậc Chánh Ðẳng Giác.

Và Ðức Thế Tôn có danh hiệu "Buddha": Ðức Phật, bởi vì chính tự Ngài là Bậc đầu tiên tiến hành thiền tuệ dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Ðạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn; rồi đem ra giáo huấn chúng sinh: nhân loại, chư thiên, phạm thiên..., cũng chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Ðạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn như Ngài đã chứng ngộ. Do đó, gọi là Ðức Phật.

Pháp hành thiền tuệ là pháp hành dẫn đến sự giải thoát khổ tái sanh. Sự giải thoát khổ tái sanh theo khả năng của mỗi bậc Thánh nhân như sau:

Hạng thiện trí phàm nhân tiến hành thiền tuệ có thể dẫn đến sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Ðạo, Nhập Lưu Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu (Sotāpanna), là bậc Thánh thứ nhất trong Phật giáo. Bậc Thánh Nhập Lưu này, được giải thoát khổ tái sanh trong 4 cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ và súc sanh), chỉ còn tái sanh cõi thiện giới: làm người hoặc chư thiên ở 6 cõi trời dục giới, nhiều nhất đến 7 kiếp. Trong kiếp thứ 7 chắc chắn sẽ chứng đắc Arahán Thánh Ðạo, Arahán Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Arahán rồi tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt sự tử sanh luân hồi trong tam giới.

Bậc Thánh Nhập Lưu, nếu tiếp tục tiến hành thiền tuệ, có thể dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Nhất Lai Thánh Ðạo, Nhất Lai Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Nhất Lai (Sakadāgāmi), là bậc Thánh thứ nhì trong Phật giáo. Bậc Thánh Nhất Lai này, chỉ còn khổ tái sanh một kiếp làm người hoặc làm chư thiên cõi trời dục giới mà thôi. Trong kiếp ấy chắc chắn sẽ chứng đắc Arahán Thánh Ðạo, Arahán Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Arahán rồi tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sanh luân hồi trong tam giới.

Bậc Thánh Nhất Lai, nếu tiếp tục tiến hành thiền tuệ, có thể dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Bất Lai Thánh Ðạo, Bất Lai Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Bất Lai (Anāgāmi), là bậc Thánh thứ ba trong Phật giáo. Bậc Thánh Bất Lai này, không còn khổ tái sanh trở lại cõi dục giới, mà chỉ còn tái sanh làm Phạm thiên ở cõi trời sắc giới. Ở tại cõi trời ấy, chắc chắn sẽ chứng đắc Arahán Thánh Ðạo, Arahán Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Arahán rồi tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sanh luân hồi trong tam giới.

Bậc Thánh Bất Lai, nếu tiếp tục tiến hành thiền tuệ có thể dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Arahán Thánh Ðạo, Arahán Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Arahán (Arahanta), là bậc Thánh thứ tư cao thượng nhất trong Phật giáo.

Bậc Thánh Arahán đã hoàn toàn diệt đoạn tuyệt mọi tham ái, cùng tất cả mọi phiền não, ác pháp không còn dư sót; đã hoàn thành mọi phận sự của Tứ thánh đế, đã hoàn thành xong phạm hạnh; ngay kiếp hiện tại, đến khi hết tuổi thọ, tịch diệt Niết Bàn, giải thoát khổ tái sanh, chấm dứt tử sanh luân hồi trong tam giới.

Vậy, Pháp Hành Thiền Tuệ này đưa đến mục đích cuối cùng tịch diệt Niết Bàn, giải thoát khổ tái sanh ở kiếp sau. Vì nếu còn tái sanh dầu cõi dục giới, cõi sắc giới hay cõi vô sắc giới, cũng còn phải chịu khổ của danh pháp, sắc pháp. Giải thoát khổ tái sanh là giải thoát hoàn toàn tất cả mọi cảnh khổ. Ðó là Niết Bàn, Diệt Khổ thánh đế.

Nên Ðức Phật dạy:

"Natthi rāgasamo aggi,

Natthi dosasamo kali.

Natthi khandhasamā dukkhā,

Natthi santiparaṃ sukhaṃ". [6]

Không có lửa nào, như lửa tình dục.

Không có tội nào, như tội sân hận.

Không có khổ nào, như khổ ngũ uẩn.

Không có lạc nào, hơn lạc Niết Bàn.

"Nibbānaṃ paramaṃ sukhaṃ" [7].

Niết Bàn là an lạc tuyệt đối.

"Nibbānaṃ paramaṃ vadanti Buddhā...". [8]

Chư Phật Toàn Giác, chư Phật Ðộc Giác, chư Thánh Thanh Văn Giác đồng tán dương ca tụng Niết Bàn cao thượng nhất.

Niết Bàn là mục đích tột cùng của chư Phật Toàn Giác, chư Phật Ðộc Giác, chư Thánh Thanh Văn Giác và cũng là mục đích chung cho các hàng Phật tử xuất gia và tại gia cư sĩ.

Những nguyên nhân xa và gần để chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Ðạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành Ðức Phật Toàn Giác, Ðức Phật Ðộc Giác, bậc Thánh Thanh Văn Giác, đều tùy thuộc vào sự tròn đủ 10 pháp hạnh ba la mật.

Mười pháp hạnh ba la mật (pāramī) là:

1- Bố thí ba la mật (Dānapāramī).

2- Giữ giới ba la mật (Sīlapāramī).

3- Xuất gia ba la mật (Nekkhammapāramī).

4- Trí tuệ ba la mật (Paññāpāramī).

5- Tinh tấn ba la mật (Vīriyapāramī).

6- Nhẫn nại ba la mật (Khantipāramī).

7- Chân thật ba la mật (Saccapāramī).

8- Chí nguyện ba la mật (Addhiṭṭhānapāramī).

9- Tâm từ ba la mật (Mettāpāramī).

10- Tâm xả ba la mật (Upekkhāpāramī).

Pāramī: ba la mật, có nhiều nghĩa. Nghĩa chính yếu của pháp hạnh ba la mật ṅhân duyên chính để dẫn đến sự chứng ngộ Niết Bàn cao thuợng". vậy, không phải bố thí, giữ giới, xuất gia..., nào cũng trở thành ba la mật được.

Ðiều kiện trở thành ba la mật phải có thiện tâm hoàn toàn trong sạch, không bị ô nhiễm do bởi tham ái (taṇhā), ngã mạn (māna), tà kiến (diṭṭhi), và đồng thời hợp với tâm đại bi (mahākaruṇā) và trí tuệ hướng đến chứng đạt cứu cánh Niết Bàn (upāyakosallañāṇa). Nhờ hợp đủ điều kiện như vậy, thì sự bố thí, giữ giới, xuất gia..., mới trở thành pháp hạnh ba la mật.

Pháp hạnh ba la mật quyết định sự thành tựu nguyện vọng của mỗi vị Bồ Tát như sau:

Ðể trở thành bậc Thánh Thanh Văn bậc thường (Ariyasāvaka): Vị Bồ Tát Thanh Văn ấy (Sāvakabodhisatta) cần phải tạo trọn đủ 10 pháp hạnh ba la mật, trong suốt một thời gian nhanh nhất cũng gần 100 ngàn đại kiếp rồi phải có duyên lành gặp Ðức Phật Toàn Giác hoặc giáo pháp của Ðức Phật ấy, được nghe, được hiểu biết chánh pháp rồi tiến hành thiền tuệ dẫn đến sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Thánh Ðạo, Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Thanh Văn.

Ðức Phật Gotama có vô số bậc Thánh Thanh Văn bậc thường.

Ðể trở thành bậc Thánh Ðại Thanh Văn (Mahāsāvaka). Vị Bồ Tát đại Thanh Văn ấy (Mahāsāvakabodhisatta) cần phải tạo trọn đủ 10 pháp hạnh ba la mật, trong suốt thời gian 100 ngàn đại kiếp, rồi chắc chắn phải có duyên lành gặp Ðức Phật Toàn Giác, được nghe từ kim ngôn của Ðức Phật, tiến hành thiền tuệ dẫn đến sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Ðạo, 4 Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Arahán đại Thanh Văn.

Ðức Phật Gotama có 80 vị Thánh đại Thanh Văn.

Ðể trở thành bậc Thánh Tối thượng Thanh Văn (Aggasāvaka): Vị Bồ Tát tối thượng Thanh Văn ấy (Aggasāvakabodhisatta), cần phải tạo trọn đủ 10 pháp hạnh ba la mật trong suốt thời gian một a tăng kỳ và 100 ngàn đại kiếp, rồi chắc chắn có duyên lành gặp Ðức Phật Toàn Giác, được nghe từ kim ngôn của Ðức Phật rồi tiến hành thiền tuệ dẫn đến sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Ðạo, 4 Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Arahán tối thượng Thanh Văn.

Ðức Phật Gotama có 2 vị Thánh tối thượng Thanh Văn. Ðó là: Ðại Ðức Sāriputta và Ðại Ðức Mahāmoggallāna.

* Ðể trở thành Ðức Phật Ðộc Giác (Paccekabuddha): Vị Bồ Tát Ðộc Giác ấy (Paccekabodhisatta), cần phải tạo trọn đủ 20 pháp hạnh ba la mật: 10 pháp hạnh ba la mật bậc thường và 10 pháp hạnh ba la mật bậc trung, trong suốt thời gian 2 a tăng kỳ và 100 ngàn đại kiếp. Vào thời kỳ không có Ðức Phật Toàn Giác xuất hiện trên thế gian, vị Bồ Tát Ðôïc Giác này không cần phải nghe, học hỏi từ một vị thầy nào khác, mà chỉ tự chính mình tiến hành thiền tuệ dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Ðạo, 4 Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Arahán, gọi là Ðức Phật Ðộc Giác.

Ðức Phật Ðộc Giác, chính Ngài chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Ðạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn, nhưng không thể giáo huấn chúng sinh cùng chứng ngộ chân lý như Ngài. Ðức Phật Ðộc Giác có thể có hàng trăm hàng ngàn vị, song mỗi vị đều tự chính mình chứng đắc.

* Ðể trở thành Ðức Phật Toàn Giác, gọi là Bậc Chánh Ðẳng Giác (Sammāsambuddha): Vị Bồ Tát Chánh Ðẳng Giác ấy (Sammāsambodhisatta), cần phải tạo trọn đủ 30 pháp hạnh ba la mật: 10 pháp hạnh ba la mật bậc thường, 10 pháp hạnh ba la mật bậc trung và 10 pháp hạnh ba la mật bậc thượng. Thời gian để tạo 30 pháp hạnh ba la mật khác nhau tùy theo ba hạng Bồ Tát như sau:

1- Ðối với Ðức Bồ Tát có trí tuệ ưu việt (Paññādhika), tức là trí tuệ có năng lực hơn cả đức tin tinh tấn. Khi Ðức Bồ Tát đã được Ðức Phật thọ ký xong rồi còn cần phải tạo 30 pháp hạnh ba la mật thêm suốt thời gian 4 a tăng kỳ [9] và 100 ngàn đại kiếp [10] nữa. Ðức Bồ Tát này không cần phải nghe hay học hỏi từ một vị thầy nào khác, mà tự chính mình tiến hành thiền tuệ dẫn đến sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Ðạo, 4 Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Arahán đầu tiên xuất hiện trên thế gian, gọi là Bậc Chánh Ðẳng Giác, hoặc Ðức Phật Toàn Giác, độc nhất vô nhị.

2- Ðối với Ðức Bồ Tát có đức tin ưu việt (Saddhādhika), tức là đức tin có năng lực hơn cả trí tuệtinh tấn. Khi Ðức Bồ Tát đã được Ðức Phật thọ ký xong rồi còn cần phải tạo 30 pháp hạnh ba la mật thêm trong suốt thời gian gấp đôi Ðức Bồ Tát có trí tuệ ưu việt, là 8 a tăng kỳ và 100 ngàn đại kiếp. Ðức Bồ Tát này không cần phải nghe hay học hỏi từ vị thầy nào khác, mà tự chính mình tiến hành thiền tuệ dẫn đến sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế chứng đắc 4 Thánh Ðạo, 4 Thánh Quả trở thành bậc Thánh Arahán đầu tiên xuất hiện trên thế gian, gọi là Bậc Chánh Ðẳng Giác, hoặc Ðức Phật Toàn Giác, độc nhất vô nhị.

3- Ðối với Ðức Bồ Tát có tinh tấn ưu việt (Vīriyādhika), tức là tinh tấn có năng lực hơn cả trí tuệ đức tin. Khi Ðức Bồ Tát đã được Ðức Phật thọ ký xong rồi, còn cần phải tạo 30 pháp hạnh ba la mật thêm trong suốt thời gian gấp đôi Ðức Bồ Tát có đức tin ưu việt, là 16 a tăng kỳ và 100 ngàn đại kiếp nữa. Ðức Bồ Tát này không cần phải nghe hay học hỏi từ một vị thầy nào khác, mà tự chính mình tiến hành thiền tuệ dẫn đến sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Ðạo, 4 Thánh Quả trở thành bậc Thánh Arahán đầu tiên xuất hiện trên thế gian, gọi là Bậc Chánh Ðẳng Giác, hoặc Ðức Phật Toàn Giác, độc nhất vô nhị.

Người Phật tử, dầu là bậc xuất gia hay hàng tại gia cư sĩ, có nguyện vọng muốn trở thành Ðức Phật Toàn Giác, Ðức Phật Ðộc Giác, bậc Thánh Thanh Văn Giác bậc nào; người Phật tử ấy cần phải tạo trọn đủ những pháp hạnh ba la mật theo tiêu chuẩn bậc ấy, để làm nhân duyên chính, dẫn đến sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Ðạo, 4 Thánh Quả, đạt đến nguyện vọng của mình.

Trong 10 pháp hạnh ba la mật: bố thí, giữ giới, xuất gia, trí tuệ, tinh tấn, nhẫn nại, chân thật, chí nguyện, tâm từ và tâm xả đều có tính tương quan lẫn nhau tùy theo mỗi ba la mật.

Ví dụ:

Khi thí chủ muốn tạo bố thí ba la mật là chính, thì có thể có một số ba la mật phụ khác như: trí tuệ, tinh tấn, chí nguyện, tâm từ,... cũng thành tựu cùng với bố thí ba la mật.

Ðặc biệt nhất, khi hành giả tiến hành thiền tuệ, tạo trí tuệ ba la mật là chính, thì sẽ có rất nhiều ba la mật phụ khác như: giữ giới, xuất gia, trí tuệ, tinh tấn, nhẫn nại, chân thật, chí nguyện cùng thành tựu với pháp hạnh trí tuệ ba la mật. Ðó là tánh ưu việt của sự tiến hành thiền tuệ.

Ðối với chư Bồ Tát có nguyện vọng muốn trở thành Ðức Phật Toàn Giác, Ðức Phật Ðộc Giác, bậc Thánh tối thượng Thanh Văn hay bậc Thánh đại Thanh Văn, thì chắc chắn không thể thành đạt được trong thời kỳ Ðức Phật đã tịch diệt Niết Bàn, dầu giáo pháp của Ngài hiện còn lưu truyền trên thế gian. Song, sự tiến hành thiền tuệ là một cơ hội quý giá hiếm có, để bồi bổ các pháp hạnh ba la mật. Khi chư Bồ Tát ấy tiến hành thiền tuệ, có khả năng chứng đạt trí tuệ thiền tuệ, nhưng chỉ có thể đạt đến trí tuệ thiền tuệ thứ 14 gọi là saṅkhārupekkhāñāṇa mà thôi, không thể chứng đạt đến trí tuệ thiền tuệ cao hơn. Bởi vì, bị ngăn cản do năng lực phát nguyện trở thành Ðức Phật Toàn Giác, hoặc Ðức Phật Ðộc Giác, hoặc bậc Thánh tối thượng Thanh Văn hoặc bậc Thánh đại Thanh Văn.

Ngoài ra, đối với bậc Thanh Văn hạng thường (Pakatisāvaka), ngay ở thời kỳ chánh pháp của Ðức Phật còn lưu truyền trên thế gian này, vẫn còn là một cơ hội tốt, để cho số Thanh Văn hạng thường này tiến hành thiền tuệ. Nếu có đủ trí tuệ ba la mật từ nhiều đời nhiều kiếp ở quá khứ làm duyên lành hỗ trợ, có thể dẫn đến sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Thánh Ðạo, Thánh Quả nào đó, thì thật là diễm phúc biết dường nào! Nếu chưa được chứng đắc Thánh Ðạo, Thánh Quả, thì âu cũng là duyên lành hi hữu để bồi bổ ba la mật, hầu mong chứng đắc Thánh Ðạo, Thánh Quả ở vị lai.

Niềm hy vọng đối với tất cả Phật tử chúng ta, theo kinh sách có ghi rõ rằng:

"Mỗi Ðức Phật Toàn Giác có khả năng tế độ một số lượng khoảng 24 a tăng kỳ 600 triệu 100 ngàn chúng sinh, được cứu vớt ra khỏi biển khổ tử sanh luân hồi trong ba giới bốn loài".[11]

Ðức Phật Gotama của chúng ta đã thuyết pháp tế độ chúng sinh suốt 45 năm, vẫn chưa đủ số lượng 24 a tăng kỳ 600 triệu 100 ngàn chúng sinh ấy. Cho nên, khi Ðức Phật tịch diệt Niết Bàn rồi, giáo pháp của Ngài còn lưu truyền trên thế gian đến 5.000 năm, để cứu vớt chúng sinh có duyên lành còn sót lại, có cơ hội học hỏi theo chánh pháp rồi tiến hành thiền tuệ dẫn đến sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Thánh Ðạo, Thánh Quả.

Vậy, chúng ta nên có niềm tin và hy vọng ở trong số lượng chúng sinh được tế độ, chúng ta nên cố gắng tinh tấn tiến hành thiền tuệ, chớ nên dễ duôi!

Ðể chứng minh, trong Chú giải Kinh Gotamisutta [12] có ghi rằng: "Giáo pháp của Ðức Phật Gotama tồn tại trên thế gian 5.000 năm, trải qua 5 thời kỳ như sau:

1- Thời kỳ thứ nhất: Gồm có 1.000 năm, sau khi Ðức Phật tịch diệt Niết Bàn, có những bậc Thánh Arahán đầy đủ Tứ tuệ phân tích (Catupaṭisambhidā), bậc Thánh Arahán có đủ Lục thông, Tam minh.


[ Ðầu trang ][ Trở về trang Thư Viện ]

updated: 2024