|
Mục Lục
|
||
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, Đức Arahán, Đức Chánh Đẳng Giác ấy. Paṇāmagāthā Tilokekagaruṃ Buddhaṃ, Pāyādibhayahiṃsakaṃ, Āyuno pariyosānaṃ, Gacchāmi saraṇaṃ ahaṃ. Ādimajjhantakalyāṇam, Buddhassa dhammamosadhaṃ, Nibbānapariyosānaṃ, Gacchāmi saraṇaṃ ahaṃ. Tassa sāvakasaṃghañca, Puññakkhettaṃ anuttaraṃ, Arahattapriyosānaṃ, Gacchāmi saraṇaṃ ahaṃ. Buddhaṃ Dhammañca Saṃghañca, Abhivandiya sādaraṃ, Mūlabuddhasāsanan’ ti, Ayaṃ gantho mayā kato. Kệ lễ bái Tam Bảo Đức Thế Tôn cao thượng nhất tam giới, Dắt dẫn chúng sinh thoát khỏi họa tai, Nguyện suốt đời con xin quy y Phật, Mong chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế. Pháp của Ngài như linh dược nhiệm mầu, Hoàn hảo ở phần đầu giữa và cuối, Nguyện suốt đời con xin quy y Pháp, Mong được chứng ngộ Niết Bàn thoát khổ. Tăng bậc Thánh Thanh Văn đệ tử Phật, Là phước điền cao thượng của chúng sinh, Nguyện suốt đời con xin quy y Tăng, Mong được chứng đắc Thánh A-ra-hán. Đức Phật Đức Pháp Đức Tăng cao thượng, Con hết lòng thành kính lạy Tam Bảo, Rồi góp nhặt biên soạn tập sách nhỏ, Soạn phẩm này gọi “Nền Tảng Phật giáo” Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, Đức Arahán, Đức Chánh Đẳng Giác ấy. NỀN TẢNG PHẬT GIÁO (MŪLABUDDHASĀSANA) QUYỂN V PHƯỚC THIỆN PUÑÑA - KUSALA
Soạn giả: Tỳ-khưu Hộ Pháp (Dhammarakkhita Bhikkhu) Lời Nói Đầu Nền Tảng Phật Giáo là một bộ sách có 7 quyển gồm 9 chương. Mỗi chương được khái quát như sau: * Chương thứ nhất: Ba Ngôi Cao Cả (Tiyagga) - Đức Phật (Buddha) - Đức Pháp (Dhamma) - Đức Tăng (Saṃgha) * Chương thứ nhì: Tam Bảo (Ratanattaya) - Đức Phật Bảo (Buddharatana) - Đức Pháp Bảo (Dhammaratana) - Đức Tăng Bảo (Saṃgharatana) * Chương thứ ba: Ân đức Tam Bảo (Ratanattayaguṇa) Ân đức Phật (Buddhaguṇa) - Â n đức Pháp (Dhammaguṇa) - Ân đức Tăng (Saṃghaguṇa) * Chương thứ tư: Quy y Tam Bảo (Tisaraṇa) Quy y Phật Bảo (Buddhasaraṇa) - Quy y Pháp Bảo (Dhammasaraṇa) - Quy y Tăng Bảo (Saṃghasaraṇa) * Chương thứ năm: Giới hạnh (Sīlācāra) Giới hạnh của người tại gia cư sĩ (Gahaṭṭhasīla) Giới hạnh của bậc xuất gia tu sĩ (Pabbajitasīla) * Chương thứ sáu: Nghiệp - Quả của nghiệp (Kamma-kammaphala) Bốn loại nghiệp (Kammacatukka):
* Chương thứ bảy: Phước thiện (Puññakusala) 10 nhân sinh phước thiện (Puññakiriyāvatthu) * Chương thứ tám: Pháp hạnh ba-la-mật (Pāramī) 10 pháp hạnh ba-la-mật (Dasapāramī) * Chương thứ chín: Pháp hành (Bhāvanā) Pháp hành thiền định (Samathabhāvanā) Pháp hành thiền tuệ (Vipassanābhāvanā) Bộ Nền Tảng Phật Giáo gồm 9 chương, chia thành 7 quyển, mà mỗi quyển được đặt tên theo nội dung của từng chương: Chương thứ bảy: PHƯỚC THIỆN là quyển V của bộ Nền Tảng Phật Giáo. Phước Thiện trong Puññakriyāvatthu có 10 pháp:
1- Phước thiện bố thí (Dāna kusala) 2- Phước thiện giữ giới (Sīla kusala) 3- Phước thiện hành thiền (Bhāvanā kusala) 4- Phước thiện cung kính (Apaccāyana kusala) 5- Phước thiện hỗ trợ (Veyyāvacca kusala) 6- Phước thiện hồi hướng (Pattidāna kusala) 7- Phước thiện hoan hỷ phước (Pattānumodanā kusala) 8- Phước thiện nghe pháp (Dhammassavana kusala) 9- Phước thiện thuyết pháp (Desanā kusala) 10- Phước thiện chánh kiến (Diṭṭhijukamma kusala)
Trong 10 loại phước thiện này, phước thiện bố thí là phước thiện mà người thí chủ cần phải có của cải tài sản hoặc có vốn hiểu biết nhiều và cao thâm mới có thể tạo phước thiện bố thí đến cho những người khác hoặc các chúng sinh khác được. 9 loại phước thiện còn lại, người ta không cần thiết phải có của cải tài sản mà chỉ cần có sự hiểu biết trong công việc phước thiện ấy là đủ.
Thật ra, trong 10 phước thiện ấy, phước thiện bố thí là phước thiện thấp so sánh với các phước thiện khác.
Phước thiện giữ giới, phước thiện hành thiền, phước thiện cung kính, phước thiện hỗ trợ, phước thiện hồi hướng, phước thiện hoan hỷ phước, phước thiện nghe pháp, phước thiện thuyết pháp, phước thiện chánh kiến là những phước thiện cao theo mỗi phước thiện, hơn phước thiện bố thí nhiều. Sở dĩ, đặt vấn đề phước thiện thấp hoặc phước thiện cao, là vì một số người có quan niệm rằng: “Tôi không có của cải nhiều để làm phước thiện bố thí như người ta.” Họ không biết còn 9 loại phước thiện kia có phước thiện cao hơn mà không dùng đến của cải, mà chỉ cần sự hiểu biết để tạo phước thiện ấy mà thôi.
Trong một buổi lễ làm phước thiện, nhiều người cùng nhau làm phước thiện mà mỗi người tạo cho mình mỗi đại thiện nghiệp khác nhau. Tất cả mọi người tạo mọi đại thiện nghiệp ấy được chia ra làm 4 nhóm người theo 4 loại đại thiện nghiệp như sau:
1- Nhóm người tạo tam nhân đại thiện nghiệp bậc cao. 2- Nhóm người tạo tam nhân đại thiện nghiệp bậc thấp. 3- Nhóm người tạo nhị nhân đại thiện nghiệp bậc cao. 4- Nhóm người tạo nhị nhân đại thiện nghiệp bậc thấp. Mỗi đại thiện nghiệp của mỗi nhóm có quả khác nhau trong thời kỳ tái sinh kiếp sau và trong thời kỳ sau khi đã tái sinh như sau: 1- Tam nhân đại thiện nghiệp bậc cao là đại thiện nghiệp đồng sinh với 3 nhân: vô tham, vô sân và vô si (trí tuệ) trong 4 đại thiện tâm hợp với trí tuệ, cho quả trong 2 thời kỳ: * Trong thời kỳ tái sinh kiếp sau, đó là 4 đại quả tâm hợp với trí tuệ làm phận sự tái sinh làm người có tam nhân (tihetukapuggala) nghĩa là người có đủ 3 nhân: vô tham, vô sân, vô si (trí tuệ) từ khi đầu thai làm người.
Hạng người tam nhân này là người vốn có trí tuệ, nếu thực hành pháp hành thiền định thì có khả năng chứng đắc các bậc thiền sắc giới và các bậc thiền vô sắc giới.
Nếu thực hành pháp hành thiền tuệ thì có khả năng chứng ngộ chân lý tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo- Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh nhân trong Phật giáo.
*Và trong thời kỳ sau khi tái sinh, đó là 8 đại quả hữu nhân tâm và 8 thiện quả vô nhân tâm, gồm có 16 quả tâm, thường tiếp nhận các đối tượng tốt, đáng hài lòng hoan hỷ trong cuộc sống hằng ngày.
2- Tam nhân đại thiện nghiệp bậc thấp là đại thiện nghiệp đồng sinh với 3 nhân: vô tham, vô sân và vô si (trí tuệ) trong 4 đại thiện tâm hợp với trí tuệ, và nhị nhân đại thiện nghiệp bậc cao là đại thiện nghiệp đồng sinh với 2 nhân: vô tham và vô sân, không có vô si, trong 4 đại thiện tâm không hợp với trí tuệ, 2 loại đại thiện nghiệp tương đương này cho quả trong 2 thời kỳ:
* Trong thời kỳ tái sinh kiếp sau, đó là 4 đại quả tâm không hợp với trí tuệ làm phận sự tái sinh làm người có nhị nhân (dvihetukapuggala) nghĩa là người chỉ có 2 nhân: vô tham và vô sân, không có vô si (trí tuệ) từ khi đầu thai làm người.
Hạng người nhị nhân là người vốn không có trí tuệ, nên dù thực hành pháp hành thiền định cũng không có khả năng chứng đắc các bậc thiền sắc giới nào cả. Dù thực hành pháp hành thiền tuệ thì cũng không có khả năng chứng ngộ chân lý tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả nào cả.
*Và trong thời kỳ sau khi tái sinh, đó là 4 đại quả hữu nhân tâm và 8 thiện quả vô nhân tâm, gồm có 12 quả tâm, thường tiếp nhận các đối tượng không tốt, không xấu trong cuộc sống hằng ngày.
3- Nhị nhân đại thiện nghiệp bậc thấp là đại thiện nghiệp đồng sinh với 2 nhân: vô tham và vô sân, không có vô si, trong 4 đại thiện tâm không hợp với trí tuệ, cho quả trong 2 thời kỳ:
* Trong thời kỳ tái sinh kiếp sau, đó là 1 suy xét tâm hợp với xả thiện quả vô nhân tâm làm phận sự tái sinh làm người vô nhân (ahetukapuggala) nghĩa là người không có nhân nào trong 3 nhân: vô tham, vô sân, vô si (trí tuệ) từ khi đầu thai làm người.
Hạng người vô nhân là người bị tật nguyền, bị đui mù, bị câm điếc, v.v… si mê, đần độn, khờ khạo, không có khả năng hiểu biết chánh pháp sâu sắc, chỉ biết những việc tầm thường trong cuộc sống hằng ngày mà thôi.
*Và trong thời kỳ sau khi tái sinh, đó là 8 thiện quả vô nhân tâm thường tiếp nhận các đối tượng tầm thường trong cuộc sống hằng ngày.
Như vậy, trong cùng một buổi lễ làm phước thiện, mà đại thiện nghiệp của một số người cho quả tái sinh kiếp sau trở thành hạng người tam nhân (tihetukapuggala), của một số người cho quả tái sinh kiếp sau trở thành hạng người nhị nhân (dvihetukapuggala), cũng của một số người cho quả tái sinh kiếp sau trở thành hạng người vô nhân (ahetukapuggala).
Quả của đại thiện nghiệp khác nhau, do bởi nguyên nhân nào?
Vậy, hãy nên tìm hiểu quyển “Phước Thiện” này, sẽ giúp cho độc giả có thêm sự hiểu biết về phước thiện nhất là 10 phước thiện trong Puññakriyāvatthu, giúp cho mình tạo tam nhân đại thiện nghiệp bậc cao trong 4 dục giới đại thiện tâm hợp với trí tuệ, cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp sau, đó là 4 đại quả tâm hợp với trí tuệ làm phận sự tái sinh làm người có tam nhân (tihetukapuggala) nghĩa là người có đủ 3 nhân: vô tham, vô sân, vô si (trí tuệ) từ khi đầu thai làm người. Quyển “ Phước Thiện ” này, bần sư đã dày công sưu tầm, gom nhặt các pháp, các tích chuyện liên quan đến mỗi phước thiện, giúp cho độc giả hiểu biết về 10 phước thiện, chỉ được bấy nhiêu thôi!
Tuy bần sư cố gắng hết mình giảng giải để giúp cho độc giả tìm hiểu rõ về 10 phước thiện, song vì khả năng có hạn, nên chắc chắn không tránh khỏi những điều sơ sót, thậm chí còn có chỗ sai ngoài khả năng hiểu biết của bần sư. Để lần sau tái bản được hoàn thiện hơn, kính mong chư bậc thiện trí từ bi chỉ giáo, góp ý chân tình. Kính xin quý vị xem soạn phẩm này như là của chung, mà mỗi người trong chúng ta, ai cũng có bổn phận đóng góp xây dựng, để cho soạn phẩm này được hoàn hảo, hầu mong đem lại sự lợi ích chung, sự tiến hóa, sự an lạc cho phần đông chúng ta. Bần sư kính cẩn đón nhận những lời đóng góp phê bình xây dựng ấy của chư bậc thiện trí, và kính xin quý Ngài ghi nhận nơi đây lòng chân thành biết ơn sâu sắc của bần sư. Quyển V - Phước Thiện này được hoàn thành do nhờ có nhiều người giúp sức, đóng góp, nhất là Dhammanandā Upāsikā đã tận tình đánh máy vi tính, dàn trang, làm thành quyển. Các thí chủ trong nước và ngoài nước có đức tin trong sạch lo ấn hành, và được nhà xuất bản tôn giáo cho phép ấn hành. Bần sư vô cùng hoan hỷ biết ơn tất cả quý vị. Nhân dịp này, con là Dhammarakkhita Bhikkhu (Tỳ-khưu Hộ Pháp) thành kính dâng phần pháp thí thanh cao này đến Ngài Cố Vaṃsarakkhitamahāthera (Cố Đại Trưởng Lão Hộ Tông) là sư phụ của con, đồng thời đến Ngài Cố Đại Trưởng Lão Thiện Luật, Ngài Cố Đại Trưởng Lão Bửu Chơn, Ngài Cố Đại Trưởng Lão Giới Nghiêm, Ngài Cố Trưởng Lão Hộ Giác (chùa Từ Quang) cùng chư Đại Trưởng Lão, Đại đức khác đã dày công đem Phật giáo Nguyên thuỷ (Theravāda) về truyền bá trên quê hương Việt Nam thân yêu, và xin kính dâng đến chư Đại Trưởng Lão ở nước Thái Lan, nước Myanmar (Miến Điện), đã có công dạy dỗ con về pháp học và pháp hành. Con kính mong quý Ngài hoan hỷ. Idaṃ no ñātinaṃ hotu, sukhitā hontu ñātayo. Phước thiện pháp thí thanh cao này, xin hồi hướng đến tất cả thân quyến của chúng con, từ kiếp hiện tại cho đến vô lượng kiếp trong quá khứ, cầu mong quý vị hoan hỷ thọ nhận phần phước thiện này để thóat khỏi cảnh khổ, được an lạc lâu dài. Imaṃ puññābhāgaṃ mātāpitu-ācariya-ñāti-mittānañceva sesasabbasattānañca dema, sabbepi te puññapattiṃ laddhāna sukhitā hontu. Chúng con thành tâm hồi hướng, chia phước đến ông bà, cha mẹ, thầy tổ, thân quyến, bạn hữu cùng tất cả chúng sinh từ cõi địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh, nhân loại, chư thiên trong các cõi trời dục giới, chư phạm thiên trong các cõi trời sắc giới,... tất cả quý vị hoan hỷ thọ nhận phần phước thiện pháp thí thanh cao này, cầu mong quý vị thoát mọi sự khổ, được an lạc lâu dài. Idaṃ me dhammadānaṃ āsavakkhayāvahaṃ hotu. Phước thiện pháp thí thanh cao này của mỗi người chúng con, xin làm duyên lành dẫn dắt mỗi người chúng con đến chứng đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt mọi phiền não trầm luân, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài. Nếu mỗi người trong chúng con chưa diệt đoạn tuyệt được mọi phiền não trầm luân, chưa giải thoát khổ sinh, vẫn còn tiếp tục tử sinh luân hồi, thì do năng lực phước thiện pháp thí thanh cao này ngăn cản mọi ác nghiệp không có cơ hội cho quả tái sinh trong 4 cõi ác giới: Địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh; và cũng do năng lực phước thiện này chỉ hỗ trợ thiện nghiệp cho quả tái sinh trong cõi thiện giới: cõi người, các cõi trời dục giới... mà thôi. Được sinh kiếp nào, mỗi người trong chúng con cũng là người có chánh kiến, có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, có duyên lành được gần gũi thân cận với bậc thiện trí, lắng nghe chánh pháp của bậc thiện trí, có đức tin trong sạch nơi bậc thiện trí, cố gắng tinh tấn hành theo lời giáo huấn của bậc thiện trí, không ngừng tạo mọi pháp hạnh ba-la-mật cho sớm được đầy đủ trọn vẹn, để mong sớm chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn, mong diệt đoạn tuyệt mọi phiền não trầm luân, trở thành bậc Thánh Arahán. Trong vòng tử sinh luân hồi, mỗi khi chúng con được nghe tin lành Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng ngự nơi nào, dù gần dù xa, chúng con liền phát sinh tâm hỷ lạc, có đức tin trong sạch nơi Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng; quyết tâm tìm đến nơi ấy, để hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, hoặc chư Thánh Thanh Văn đệ tử của Ngài, lắng nghe chánh pháp, cố gắng tinh tấn hành theo chánh pháp của Ngài, để mong chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt mọi phiền não, mọi tham ái, mọi ác pháp, trở thành bậc Thánh Arahán sẽ tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài. Nay chúng con hết lòng thành kính thọ phép quy y Tam Bảo: Quy y Đức Phật Bảo, quy y Đức Pháp Bảo, quy y Đức Tăng Bảo, và thành tâm hộ trì Tam Bảo cho đến trọn đời, trọn kiếp. Do nhờ năng lực phước thiện thanh cao này, cầu mong cho mỗi người chúng con luôn luôn có được duyên lành sâu sắc trong Phật giáo. Do nhờ năng lực phước thiện pháp thí thanh cao này hỗ trợ, nhắc nhở cho mỗi người chúng con, khi thành tựu quả báu ở cõi người (manussasampatti) như thế nào, cũng không đắm say trong cõi người; hoặc khi thành tựu quả báu ở cõi trời (devasampatti) hưởng được an lạc như thế nào, cũng không đắm say trong cõi trời. Bởi vì mục đích cứu cánh cao cả của mỗi chúng con là cầu mong sớm thành tựu quả báu chứng ngộ Niết Bàn (Nibbānasampatti), giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài. Icchitaṃ patthitaṃ amhaṃ Điều mong ước, ý nguyện của chúng con Tỳ-khưu Hộ Pháp
|