|
BỐN GIAI ĐOẠN TIẾN HÓA
đến giác ngộ giải thoát (BUỔI 6 - KHOÁ THIỀN 12)
Chúng ta sinh ra không biết từ vô thỉ nào - không thể xác định được thời gian bắt đầu, nhưng con đường tiến hoá từ bản năng đến tình cảm như súc sinh; từ tình cảm đến lý trí như con người; từ hiểu biết thiện ác đến lương thiện như chư thiên, Phạm thiên; từ lương thiện đến giác ngộ giải thoát hoàn toàn như các bậc Thánh... có thể kinh qua 4 giai đoạn phát triển. Căn cơ trình độ tiến hóa của mỗi chúng sinh một khác. Vì không hiểu rõ điều này nên chúng ta thường so sánh, thấy mình hơn hay kém người khác. Nếu có thể biết mình và mọi người đang ở giai đoạn nào trên đường tiến hóa đến giác ngộ thì có lẽ chúng ta sẽ có cách ứng xử thích nghi với nhau hơn, biết yêu thương và tôn trọng lẫn nhau hơn là bắt chước người khác hoặc muốn người khác phải theo mình.
Giai đoạn 1: Hình thành cái ngã bản năng Ở giai đoạn đầu của sự tiến hóa, chúng sinh sống theo bản năng. Bản năng có khuynh hướng thích hưởng lạc (cảm giác dễ chịu), tránh khổ (cảm giác khó chịu) mà bất cứ sinh vật nào cũng có giống nhau. Như con chó khi đói thì tìm thức ăn, khi nóng thì tìm chỗ mát. Cây cối cũng mọc theo bản năng nên người nhà quê chỉ cần nhìn cây tre mọc như thế nào có thể tiên đoán được năm đó hạn hán hay lũ lụt ra sao. Tuy nhiên, ở giai đoạn này các sinh vật phải sống lệ thuộc vào thiên nhiên, bị thiên nhiên chi phối, nên có thể nói bản năng rất gần gũi với qui luật thiên nhiên, hay chính bản năng là thành phần của thiên nhiên và vì vậy mà huân tập được khả năng chịu đựng để sinh tồn. Bản năng không có nghĩa xấu như người ta tưởng. Đối với người giác ngộ thì bản năng trở thành thần thông. Cây cỏ có thể đoán được lụt lội, con mèo có thể phân biệt được thức ăn giả thịt khác với thịt thật, mặc dù mùi vị được biến chế hoàn toàn giống nhau. Thậm chí con chó có thể cảm nhận được tâm ý người lạ, người "gian" vào nhà nó sủ, còn với người ngay thì nó vẫn thản nhiên. Bản năng là những trang bị rất hữu ích cho mỗi chúng sinh trong sự sống còn. Nhưng cũng từ môi trường phát huy bản năng tự nhiên khác nhau mà tính cá biệt cũng bắt đầu nảy sinh rồi dần dần hình thành cái ngã bản năng riêng của mỗi sinh vật. Chúng bắt đầu biết kết hợp với nhau và tranh giành lẫn nhau để sinh tồn. Cứ nhìn cánh sống bầy đàn cũng như sự hủy diệt lẫn nhau của những con thú khi tranh miếng ăn hoặc giành giới tính thì có thể biết được cái ngã bản năng hình thành như thế nào. Con người từ nhỏ cũng phát triển bản năng theo kiểu thú vật, nhưng qua kinh nghiệm từng trải họ có thể phát huy bản năng của mình hoặc của các loài thú thành kỹ năng hay kỹ xảo để sử dụng, chẳng hạn như trong các gánh xiếc, trong võ thuật, trong các môn thể dục thể thao và trong rất nhiều lĩnh vực sinh hoạt khác. Thực ra bản năng vốn vô ngã và tự nhiên nhưng khi được triển khai trong quá trình đời sống, chúng trở thành vật sở hữu riêng của mỗi người mà hình thành cái ngã bản năng lúc nào không hay. Cái ngã bản năng không dừng lại ở đó, các sinh vật có khuynh hướng hình thành tình cảm và lý trí, như con chó biết thương yêu và vâng lời người chủ, đó là cái ngã bản năng bắt đầu bước qua giai đoạn thứ 2 của sự phát triển.
Giai đoạn 2: Hình thành bản ngã tình cảm và lý trí Từ cảm giác sinh học bắt đầu tiến dần lên cảm xúc tâm lý, cái ngã bản năng chuyển thành cái ngã tình cảm và lớn dần thành cái ngã đầy tham ái. Cái ngã cảm tính phân biệt cái nó thích và cái nó không thích, cái nào thích thì muốn giành lấy, không thích thì loại bỏ bằng mọi cách. Từ sự phân biệt ưa-ghét mà có sự chọn lựa và tưởng tượng bắt đầu nảy sinh. Tưởng tượng đưa đến tư tưởng rồi hình thành quan niệm. Quan niệm thế nào là hạnh phúc, thế nào là đau khổ. Cái hạnh phúc và đau khổ ban sơ ở giai đoạn 1 thì rất dễ hiểu, nhưng ở giai đoạn 2 lại trở nên phức tạp hơn nhiều. Vì bị cái ngã tình cảm xen vào nên "khi thương trái ấu cũng tròn, khi ghét bồ hòn cũng méo". Cái lạc và cái khổ không còn thuần tuý như lúc ban đầu nữa mà đã bị méo mó đi, ngày càng mang nhiều chất chủ quan của từng cá tính. Sai lầm của cái ngã cảm tính là tham ái. Tham ái dẫn đến sự xuất hiện sai lầm của cái ngã lý tính là tà kiến. Vậy trong giai đoạn 2 xuất hiện cái ngã vừa tà kiến vừa tham ái. Trong quá trình tự khẳng định mình, tà kiến muốn thu thập thật nhiều kiến thức gọi là sở tri, còn tham ái muốn giữ lại mãi những gì nó thích, gọi là sở đắc. Bấy giờ cái ngã này bắt đầu muốn tự hoàn thiện chính mình. Sự phát triển cao nhất của giai đoạn này được gọi là ý đồ Tiểu Ngã muốn trở thành Đại Ngã. Đó là mục đích tối hậu của các tôn giáo trước thời Đức Phật, tiêu biểu nhất là Bà-la-môn giáo. Theo quan niệm này thì trở thành Đại Ngã là đạt được hạnh phúc tối cao, hoàn toàn thanh tịnh, trường tồn bất biến, tức là đạt được lý tường thường-lạc-ngã-tịnh. Quá trình phát triển từ Tiểu Ngã để trở thành Đại Ngã vẫn đi qua 2 con đường là sở tri và sở đắc của cái ngã tà kiến và tham ái. Vì vậy dù có trở thành cái ngã lý tưởng vĩ đại như thế nào thì bản chất của nó vẫn là vô minh ái dục mà thôi. Tuy mang danh hiệu là tu theo Phật giáo nhưng một số hành giả vẫn chỉ đủ trình độ để đi theo phương hướng tu hành kiểu Tiểu Ngã trở thành Đại Ngã, chẳng khác Bà-la-môn, khi nỗ lực hành trì để đạt đến những sở đắc lý tưởng như được thường tồn, chân ngã ở cõi giới tịnh lạc làm mục tiêu tối hậu. Vì bản ngã luôn muốn hoàn thiện chính mình bằng cách rèn luyện và tích lũy thật nhiều kiến thức cho sở tri để trở thành bậc trí giả tinh thông kim cổ và thật nhiều năng lực cho sở đắc để trở thành người hoàn hảo có thiền định thâm sâu, thần thông quảng đại. Ngờ đâu, trình độ giác ngộ càng tầm thường thì càng ước mơ lý tưởng phi thường. Ngược lại, trình độ giác ngộ càng tinh thâm lại càng thấy sự kỳ diệu ngay trong đời sống bình thường, như đi đứng ngồi nằm, ăn cơm, uống nước v.v… đều là chân lý nhiệm mầu, siêu việt. Cái phi thường ở ngay trong những sự vật có vẻ rất bình thường, cái hoàn hảo hàm ẩn trong những sự kiện dường như bất toàn giữa cuộc sống đời thường.
Sau khi Đức Phật giác ngộ Sự Thật, Ngài bắt đầu chỉ cho những người đủ duyên thấy ra Sự Thật ấy để không còn sống trong tà kiến, tham ái và phiền não, khổ đau nữa. Đó là thời kỳ sống đạo, chưa hình thành tôn giáo có tổ chức như sau khi đức Phật viên tịch, nên có thể gọi đó là thời kỳ Đạo Phật uyên nguyên. Đạo ở đây là chân lý, Phật là giác ngộ, nghĩa là Đạo lý của người giác ngộ Sự Thật. Đạo lý đó đơn giản chính là sống tùy duyên thuận pháp vô ngã vị tha. Ba tháng sau khi đức Phật viên tịch, Kinh Luật Phật dạy lần đầu tiên được kết tập, từ đó Tứ Chúng y cứ vào lời dạy của đức Phật để hành trì, và cũng từ đó Đạo Phật trở thành tôn giáo có tổ chức được gọi là Phật giáo Nguyên Thủy vì trong buổi ban đầu này còn có các bậc Thánh truyền thừa Sự Thật được thực chứng nên vẫn còn là thời kỳ chánh pháp. Nhưng về sau vì không còn đức Phật và có quá ít các bậc Thánh trực tiếp chỉ thẳng Sự Thật, nên phần lớn đại chúng tin theo sự chỉ dẫn của các vị Tổ với những pháp môn phương tiện tâm đắc của họ mà nhiều Tông môn Hệ phái được hình thành. Nhiều vị Tổ các Tông môn tự soạn Kinh và Luận theo chủ thuyết riêng của mình, cải biên những lời dạy của Phật nên đó là thời kỳ tượng pháp, vì trong thời kỳ này nhiều biểu tượng đã được hình thành thay cho Sự Thật bản nhiên. Cũng từ đó sở tri và sở đắc trở thành mục tiêu tu tập lý tưởng được truyền thừa trong các Tông môn riêng biệt. Sự truyền thừa qua ngữ nghĩa mang tính triết học hơn là chỉ thẳng Sự Thật thực chứng đã khiến Phật giáo ngày càng mai một. Về sau, khi những biểu tượng đã được quần chúng biến thành các nhân vật thật như ngày nay thì Phật Giáo đã trở thành tín ngưỡng. Các vị Phật và Bồ Tát khác nhau xuất hiện ngày càng nhiều và trở thành các vị Thần Linh ban ơn cứu khổ, chỉ cần cầu xin, là các vị ấy có thể thoát khổ và cho vào nước Phật. Khi Phật giáo biến thành tín ngưỡng Thần Linh thì bắt đầu xuất hiện dấu hiệu mê tín dị đoan, nên đây chính là thời kỳ mạt pháp. Cái Ta phát triển thành Đại Ngã vẫn đạt được những thành tựu rất cao về thiền định Sắc và Vô Sắc. Đạt được nhiều thần thông hấp dẫn nên được nhiều người ưa thích. Trước khi giác ngộ thành Phật, Đức Phật đã từng đắc đến thiền định Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ là mức cao nhất trong thiền định. Nhưng ngài vẫn thấy đây chưa phải là cứu cánh giác ngộ giải thoát. Mặc dù trong những trạng thái đó hành giả vẫn có thể thấy vạn pháp đều không, đó là 4 trạng thái thiền định Vô Sắc là Không Vô Biên Xứ, Thức Vô Biên Xứ, Vô Sở Hữu Xứ, Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, nhưng đó vẫn chỉ là trạng thái tạm thời thoát khỏi Dục Giới và Sắc Giới chứ không phải là thái độ giác ngộ rốt ráo. Ngài thấy rất nhiều người bị dính mắc vào trạng thái đó đã không thể giác ngộ giải thoát được. Và Đức Phật đã phát hiện ra chướng ngại cho sự giác ngộ giải thoát chính là cái Ta ảo tưởng. Khi vẫn còn cái Ta, dù nó là Đại Ngã thì vẫn là vô minh ái dục, không thể nào thấy pháp Vô Ngã được. Khi cái ngã ảo tưởng phát triển đến mức tột cùng để trở thành Đại Ngã, nó vẫn đụng phải sự tương đối trong thái độ chấp thủ nhị nguyên. Bản chất cuộc sống là nhất nguyên lưỡng tính, tức bản chất hai mặt bất nhị của đời sống. Cuộc đời luôn có Âm có Dương, có Được có Mất, có Thành có Hoại, có Cao có Thấp, có Ngày có Đêm, v.v… và v.v… Nhưng bản ngã luôn cầu toàn nên chỉ muốn đạt được mặt mà nó cho là hoàn hảo nhất mà thôi. Theo Dịch lý, dù đạt được Chí Dương vẫn còn có lỗi (Kháng long hữu bối). Vì khi chỉ muốn giữ tình trạng tốt đẹp nhất thì bản ngã vẫn luôn lo sợ sự xuất hiện của trạng thái đối nghịch phá đổ sự hoàn hảo một chiều của nó. Trong sự biến dịch của Trời Đất (Pháp), dù cho ở trong trạng thái tốt đẹp nhất cũng không thể tồn tại mãi, với sự vận hành qua thời gian mọi thứ có khuynh hướng quay trở lại các trạng thái đối nghịch. Như trong Dịch lý Dương cực sinh Âm, Âm cực sinh Dương trở lại như chu kỳ trong quỹ đạo của các hành tinh vậy. Cho nên đức Phật dạy phần lớn chư Thiên, Phạm Thiên ở các cõi giới cao trong Tam giới khi hết thọ mạng vẫn sinh vào các cõi giới thấp như địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh... Điều này thật dễ hiểu vì tính chất của bản ngã là luôn muốn trở thành nên dù có đạt được tình trạng tốt đẹp nhất rồi lâu ngày cũng chán. An lạc mãi thấy cũng tầm thường nên lại tìm đau khổ thử xem có đạt được một cứu cánh hoàn hảo nào hơn không! Khi châu Âu đạt đến mức thịnh vượng về tiện nghi vật chất họ vẫn chưa thỏa mãn nên bắt đầu tìm kiếm thuộc địa, gây ra chiến tranh, chết chóc. Mặt khác đời sống quá sung túc trở nên quá tầm thường, do đó xu hướng đi tìm trải nghiệm trong những trò chơi mạo hiểm, thậm chí đau đớn, thay cho sự êm đềm nhàm chán, bắt đầu xuất hiện. Đúng là đi đến tận cùng của cái lạc thì lại muốn cái khổ, đó là sự luân hồi của cái Ta tà kiến và tham ái, nhưng loay hoay thế nào thì rồi cũng dẫn đến phiền não khổ đau mà thôi! "Thuyền to ắt sóng lớn", bản ngã càng cao thì khổ đau càng lắm, cái khổ tinh vi mang tính tâm lý còn nguy hiểm hơn sự đau đớn xác thân. Khi đạt tới tận cùng của ham muốn rồi vẫn thấy không có gì là hoàn toàn cả, bản ngã cầu toàn đụng phải sự bất toàn của tính nhị nguyên mà rơi vào khổ uẩn. Mọi nỗ lực để cầu toàn trở nên vô vọng và cuối cùng bản ngã cũng đành phải đầu hàng. Đó là lúc bắt đầu bước ngoặt chuyển qua một giai đoạn khác đó là giai đoạn thứ 3: đức tin vào tha lực.
Giai đoạn 3: Đức tin, giao phó hoàn toàn cho Tha Lực.
Bản ngã phải mất biết bao công sức và thời gian mới đạt được Đại Ngã cho nên lúc đầu nó an hưởng thành tựu vĩ đại của mình trong các cõi Chư Thiên và Phạm Thiên một thời gian lâu dài vì không muốn để mất năng lực đã thủ đắc, đã dày công phấn đấu đạt thành. Nhưng sau một thời gian hưởng thụ lâu dài trong bình lặng như thế, sự nhàm chán bắt đầu xuất hiện, rồi sự an lạc dần dần phai nhạt và biến mất, đó là dấu hiệu của sự chết để quay trở lại với thế giới bất toàn và đau khổ trước đây. Thì ra có vui thì có khổ, có tịnh thì có động, có được thì có mất, chẳng có gì hoàn hảo một chiều như ý muốn của cái ngã cầu toàn theo hướng nhị nguyên mâu thuẫn ấy. Đối diện với sự thật hai mặt không thể tách rời (bất nhị hay nhất nguyên lưỡng tính) của sự sống, bản ngã không thể chọn lựa một chiều theo ý mình được nữa, hóa ra nỗ lực trở thành hoàn hảo chỉ là mộng huyễn, cuối cùng đành phải đầu hàng Sự Thật Bất Khả Tri. Từ đó bản ngã bắt đầu chấp nhận mọi thứ, tin tưởng và phó thác số phận của mình cho một Năng Lực Bất Khả Tri hay một Đấng Tạo Hóa Toàn Năng nào đó. Chấp nhận “an phận thủ thường”, “thuận thiên lập mệnh” hoặc “vâng ý Cha” chính là lúc giai đoạn Đức Tin bắt đầu xuất hiện.
Giai đoạn tưởng như hoàn toàn thụ động này thực ra lại cao hơn nhiều so với giai đoạn nỗ lực năng động trước đó của bản ngã cầu toàn. Đến đây không còn nỗ lực ý chí lăng xăng tạo tác của bản ngã để trở thành theo tư kiến tư dục nữa. Đức tin giúp tín đồ chấp nhận mọi sự đến đi – do Tạo Hóa, Đất Trời hay Định Mệnh an bài – dù đó là được hay mất, hơn hay thua, thành hay bại, vui hay khổ trên đời một cách nhẹ nhàng thoải mái nhờ không còn sự nỗ lực căng thẳng của cái Ta lý trí vọng thức nữa.
Đây là giai đoạn kham nhẫn với thực tại, chấp nhận hai mặt của cuộc sống, chịu đựng mọi thử thách của mặt đối nghịch, với đức tin rằng Đấng Tuyệt Đối (Tạo Hóa, Thiên Địa, Thần Linh) muốn ban cho mình sức chịu đựng như một ân sủng để có khả năng thể nhập vào cõi Tuyệt Đối Thường Hằng, chẳng hạn như Thiên Đàng, Cực Lạc v.v... cảnh giới có đời sống hạnh phúc vĩnh cửu, thiêng liêng và mầu nhiệm của lòng tin. Khi thực sự buông xuống mọi nỗ lực và kinh nghiệm cá nhân, tâm bắt đầu bình tĩnh lại, bắt đầu biết lắng nghe và chiêm nghiệm sự vận hành của vạn pháp mới dần dần thấy rằng mọi thành - bại, được - mất,… tất cả những gì đến với mình trong cuộc đời này đều có ý nghĩa của nó. Lúc đó mới sẵn sàng chấp nhận mọi sự để học hỏi chứ không còn "trốn học" như trước kia nữa. Trước kia, trong giai đoạn vị ngã, cái Ta thường trốn khổ, tìm lạc, theo đuổi cái gì phù hợp với ý thích của mình, vì vậy nhận thức của bản ngã luôn phiến diện, một chiều, thì bây giờ đã có thể chấp nhận cả hai mặt của cuộc sống nên đã bình tĩnh lại, sống trọn vẹn hơn, không còn lăng xăng tạo tác do phân chia chọn lựa theo ý đồ của bản ngã nữa. Niềm tin vào cái tuyệt đối giúp tâm có thể sẵn sàng trực diện với Sự Thật, nhờ vậy giai đoạn đức tin bắt đầu chuyển qua giai đoạn thứ tư, Trí tuệ lấy Sự Thật (Pháp) làm bài học giác ngộ.
Giai đoạn thứ 4: Trí tuệ giác ngộ Sự Thật
Trong giai đoạn này nhờ đức tin vào Đấng Tuyệt Đối, cái ngã dần dần lắng xuống, tâm bắt đầu bình tĩnh sáng suốt hơn nên thấy biết ngày càng rõ ràng hơn. Từ đó đức tin cũng bắt đầu chuyển dần qua quan sát Sự Thật (Chân Lý) đang diễn ra nơi chính mình trong đời sống để học ra nguyên lý vận hành của vạn pháp.
Nhờ quan sát thấy pháp đến đi trung thực như nó là nên bắt đầu nhận ra bản chất thực của mọi sự vật. Do sự thấy biết xuất phát từ trải nghiệm, chiêm nghiệm trung thực mọi hiện tượng thân tâm mà phát hiện ra được cách vận hành của tiến trình tâm sinh vật lý trong sự tương giao với pháp giới xung quanh. Giác ngộ là phát hiện ra phiền não khổ đau đều do nhận thức và hành vi sai lầm (tà kiến và tham ái) của tâm thức bản ngã tạo ra, và khi giải thoát khỏi những sai lầm trói buộc ảo hóa ấy thì liền thấy Pháp Tánh Niết-bàn. Từ thấy được hai mặt của các pháp đến phát hiện ra rằng, lấy cái mình thích đồng thời cũng phải nhận luôn cái mình không thích, ngược lại, bỏ cái mình không thích đồng thời cũng đánh mất luôn cái mình ưa thích. Nhờ thấy ra chúng luôn gắn liền nhau như hai mặt của một đồng tiền, nên không còn cái ngã lý trí chọn lựa nhị nguyên theo tư kiến tư dục nữa. Ví như khi lựa chọn cây cỏ, người kém hiểu biết thấy cây nào đắng, cay, có gai, có độc thì bỏ. Nhưng đối với vị thầy thuốc thông hiểu tính dược thì không bỏ cây nào. Thuốc độc nhưng biết cách pha chế và sử dụng đúng liều lượng có thể chữa lành bệnh. Trong khi thuốc bổ mà dùng không đúng chỗ, không đúng cách, hoặc quá liều lượng vẫn có thể chết người. Đức Phật được tôn xưng là Sammà Sambuddho – Chánh Biến Tri hoặc Toàn Giác - là vì Ngài thấy biết rõ ràng mọi mặt của pháp giới, một cái nhìn toàn diện dung thông tất cả chứ không phải như “người mù sờ voi”, chỉ thấy mặt này mà không thấy mặt kia. Vậy muốn học bài học giác ngộ thì phải chấp nhận tất cả những gì đến với mình, khổ cũng học, lạc cũng học, được cũng học, mất cũng học, thuận cũng học, nghịch cũng học v.v... Khi nào thấy ra tính bất nhị của pháp thì mới không còn chọn lựa chủ quan theo ý mình nữa. Nhờ quá trình học hỏi và chiệm nghiệm như thế mà phát hiện được rằng hai mặt của cuộc sống là để giúp chúng ta sống thăng bằng - trung đạo - chứ không phải để chọn lựa hay lấy bỏ một chiều. Đức Phật chỉ cho chúng ta thấy rằng: “Khi nội tâm thanh tịnh thì thấy tất cả các pháp đều thanh tịnh”. Với tâm thanh tịnh thì thấy lạc hay khổ cũng đều thanh tịnh, đều có ý nghĩa và đều bình đẳng. Nhưng khi khởi tâm phân biệt thì liền rơi vào phiền não khổ đau. Vì vậy bài pháp thoại đầu tiên của Đức Phật là Bốn Sự Thật Vi Diệu, nói rõ mọi khổ đau đều xuất phát từ bản ngã - cái Ta ảo tưởng. Cho dù cái Ta đó có đạt đến tận cùng của hạnh phúc như ý mình chăng nữa thì vẫn là khổ và nguyên nhân của khổ mà thôi. Khi không còn phân vân chọn lựa giữa hai mặt của cuộc sống thì tâm mới đủ sáng suốt, định tĩnh và trong lành để thấy rõ thực tính của vạn pháp. Đó mới là Pháp tính bất nhị, bình đẳng và vô phân biệt - không thể tách rời. Thấy được pháp tính không có nghĩa là chỉ thấy phần tinh túy nhất thôi mà thấy được tất cả mọi mặt: tính, tướng, thể, dụng, nhân, quả, duyên, báo, tác của pháp. Đó mới là thấy được thực tính chân đế một cách toàn diện. Cũng như theo Dịch lý khi trở về Thái Cực thì mới thấu suốt được tất cả sự biến dịch của Trời Đất. Khi nhận ra Chân Lý ở khắp mọi nơi thì chỉ cần tâm đủ sáng suốt định tĩnh trong lành hay đủ rỗng rang lặng lẽ trong sáng thì ngay đây và bây giờ, dù pháp đang diễn ra thế nào, chúng ta vẫn đang ở trong Chân Lý Ngàn Đời, là Niết-bàn, là Thượng Đế hay Thái Cực. Nhưng nếu chúng ta bỏ quên thực tại đang là, chỉ loay hoay chọn lựa lấy bỏ hoặc tham vọng tạo tác để trở thành theo tư kiến tự dục (tà kiến, tham ái) thì đó chính là đang tạo ra luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau. Bát Chánh Đạo, Giới Định Tuệ, và cụ thể là Thiền Vipassanà chính là giai đoạn thể nghiệm cuối cùng mà mọi người có thể tự mình chứng ngộ (Paccattam veditabbo Viññùhi) Chân lý (Dhamma) nơi Thực tại hiện tiền (Sanditthiko), Vượt khỏi thời gian (Akàliko), Hồi đầu là thấy (Ehipassiko), Trọn vẹn với thời vị tính đang là (Opanayiko). Người có thể thấy Pháp như vậy là người “ít bụi trong mắt”, đã trở về với Nội Tâm Chói Sáng (Pabhassara Citta), không sinh, không hữu, không tác, không thành, hoàn toàn thoát khỏi thế giới sinh hữu tác thành của bản ngã.
Tóm lại:
Giai đoạn thứ nhất, sống theo bản năng, tuy bắt đầu hình thành bản ngã nhưng chỉ là quán tính hoàn toàn lệ thuộc vào thiên nhiên, nếu có Tôn giáo thì chỉ là những hình thức thờ các Vật Tổ, đây có thể xem là giai đoạn “tùy cảnh hành”. Giai đoạn thứ 2, nỗ lực có tính tình cảm và lý trí, có thể xem là giai đoạn quyết liệt nhất của “tùy ngã hành”, đây là giai đoạn phổ thông nhất của ý chí rèn luyện, phát triển cá tính để khẳng định bản ngã mà một số Tôn giáo xem là lý tưởng để đạt tới. Giai đoạn thứ 3, khi bản ngã đối đầu với bức tường bí ẩn Bất Khả Tri ngoài khả năng kiểm soát của mình đành giao phó cho Tha Lực Tuyệt Đối. Đó là giai đoạn “tùy tín hành” của đức tin vô điều kiện.
Giai đoạn thứ 4, cuối cùng của sự giác ngộ, khi bản ngã đã được buông xuống thì đồng thời tâm cũng trở về với bản nguyên thanh tịnh trong sáng nên đã phản ánh trung thực quy luật vận hành của tất cả pháp. Đây mới thật sự là giai đoạn Tuệ Giác “tùy Pháp hành” của Đạo Phật, ở đó không còn nỗ lực tạo tác của bản ngã, không còn hãnh diện của đức tin nơi tha lực siêu nhiên, nên không là gì cả mà là tất cả.
|