Đứa trẻ trong tôi
Khi còn nhỏ, nó như bất kỳ một đứa trẻ nào đều có cuộc sống hết sức vô tư, hồn nhiên đẹp đẽ. Đối với nó, khoảng sân trước nhà, khóm hoa trước cửa, mảng trời sau vuông cửa sổ… là tất cả thế giới, là niềm vui bất tận, là mục đích để cho nó khám phá không biết chán.
Nó có thể ngồi cả buổi ngắm một con chuồn chuồn khép cánh, chờ đợi đôi cánh của nó từ từ thay đổi, cong vút lên, rồi bay đi. Nó có thể tò mò xem xét đôi mắt trong veo to lớn ấy để ngẫm nghĩ về tạo hoá, “Từ đâu chuồn chuồn có đôi mắt lạ lùng thế. Nó có nhìn thấy mình không? Nếu biết nói, nó sẽ nói gì với mình nhỉ?”… Còn nó, nó có thể nói với chuồn chuồn, chim chóc, hoa lá cả ngày, tâm sự đủ thứ như một người bạn. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, nó, đứa trẻ ấy vẫn luôn sống trong hân hoan, luôn tìm ra niềm vui thích để tận hưởng hoàn cảnh mà cuộc sống đưa lại, không phải suy nghĩ đến việc phải thay đổi hoàn cảnh sống bao giờ. Đứa trẻ ấy có nhiều ước mơ, nhưng không bị sự khao khát phải đạt được. Nó có nhiều phân tích, nhưng không có sự can thiệp của lý trí. Trong nó chỉ luôn là những cảm xúc tích cực, trong sáng, hồn nhiên và đầy ắp niềm vui. Hạnh phúc của một đứa trẻ thật ra chỉ đơn giản như thế!
Rồi đứa trẻ ấy cũng phải lớn lên. Rời vuông cửa, rời khoảng sân, khóm hoa, rời cánh rừng sau nhà để về thành phố, rồi phải đi học, phải tiếp xúc với chúng bạn, với xã hội. Khi phải bước chân vào môi trường này, cuộc sống của nó bắt đầu xáo trộn. Mỗi hoàn cảnh tác động lên nó thật dữ dội.
Tâm thức của nó được (bị) mở ra liên tiếp với bao nhiêu câu hỏi Tại Sao dồn dập đến, dồn dập những câu trả lời. Vừa phải tập quen với hoàn cảnh sống mới, phải tiếp xúc với những lễ nghi, vừa phải phấn đấu theo trào lưu chung như một một đứa trẻ thành phố, phải tới trường, phải học giỏi, phải làm hài lòng người lớn, cha mẹ, thầy cô, phải chứng tỏ với chúng bạn, phải… phải… và vô vàn “sự phải” khác thấm đẫm nghĩa vụ ngày càng dày đặc trong cuộc đời nó.
Khi nhận thức càng có, sự học hành càng nhiều, túi đời của nó, đứa trẻ ấy, càng đầy, càng chật chội. Một mặt khác, tự bên trong nó hình thành nên những suy nghĩ mới, những hơn thua, lấy, bỏ, được mất. Cảm xúc của nó cũng thế, nhiều và đa dạng hơn, như chính những va đập xảy ra trong xã hội. Giờ đây cuộc sống của nó, đứa trẻ ấy bắt đầu có nước mắt, những sự “chịu đựng” hay những thoả hiệp bắt buộc. Những conflict đối nghịch. Những gì là “tự nhiên” ngày xưa chỉ còn là những rơi rớt, những khoảng khắc, những ký ức đẹp đẽ để thỉnh thoảng tìm về khi mệt mỏi hay thất vọng với cuộc sống. Sự tìm về trú ẩn tạm thời trong tâm thức của nó giống như tìm về một ốc đảo an lành trong sa mạc, như hốc cây khô ấm áp của chú sóc trong mùa đông lạnh lẽo.
Tất cả mài dũa dần đi sự tự nhiên của một đứa trẻ. Tâm thức của nó ngày càng tròn trĩnh hơn. Nó bắt đầu công cuộc “mài dũa” chính mình.
Nó không còn nhìn đời với con mắt trong sáng “vô điều kiện” nữa. Hành vi của nó bắt đầu có điều kiện, có mục đích. Nó dần thấy những mặt trái, tiêu cực, hơn là tích cực. Sự khám phá của nó vươn ra bên ngoài thay vì nhìn vào bên trong như trước. Suy nghĩ của nó ngày càng mang tính suy xét, kết luận, logic, đúng sai. Những cái “bên ngoài” ấy hình thành nên những thay đổi trong nhân cách của chính nó. Cả quá trình đó nếu nói đúng từ, thì chính là quá trình phá vỡ tâm thức của một “đứa trẻ” ngày xưa để nhào nặn nên những sự trưởng thành khác biệt, đôi khi là “dị biệt” của một con người.
Và thế là đứa trẻ trong tôi tiếp tục lớn, tiếp tục trưởng thành. Rồi biết yêu, rồi lấy chồng, rồi có con, rồi phấn đấu vì sự nghiệp riêng. Càng bước qua những giai đoạn ấy trong cuộc đời, những niềm vui và hạnh phúc của nó cũng thay đổi. Các giá trị cũng ngày một đổi khác. Nhưng có một sự thật đó là, nó ngày càng cách xa tâm thức một đứa trẻ của một thủa nào.
Kiếm nhiều tiền để mua những gì khiến nó vui hơn. Đi khắp thế giới đến những nơi nó cho là đẹp hơn. Lựa chọn bao nhiêu hoàn cảnh để mong tìm ra “ốc đảo” an bình, yên ấm hơn. Cả đời nó cứ đi như thế để tìm kiếm niềm vui, “hạnh phúc”. Càng làm đầy cho mình sự hào nhoáng bên ngoài, trong lòng nó càng nhiều hơn những thất vọng, những vết thương bầm dập, những xác xơ trong tâm. Thật sự cuối cùng nó khao khát điều gì, đang tìm kiếm điều gì trong cái thế giới không ngừng biến đổi này? Biết bao lần nó tự hỏi: Hạnh phúc đích thực là gì, có phải là một điều gì đó tốt “hơn” những gì nó đang có? Vậy thì hạnh phúc luôn ở phía trước, ở tương lai của nó mà nó không bao giờ chạm tới được.
Có một ngày như thế, giống như khi xưa Đức Phật giáo hoá kẻ sát hại 999 người vô tội chạy đuổi theo để giết Ngài. Kẻ đó hét lên: “Hãy dừng lại, nếu không ta sẽ giết chết ngươi”. Ngài vẫn đi, không dừng lại và ôn tồn nói: “Ta đã dừng lại từ lâu rồi, chỉ có ngươi chưa biết dừng lại đấy thôi.” Chỉ câu nói ấy mà rung động tâm can một kẻ giết người không nương tay, để hắn buông giáo, quỳ gối xin làm đệ tử của Ngài. Dừng lại. Hoá ra chỉ đơn giản như vậy thôi!
Khi dừng lại chính là lúc nó được trở lại sự an lành đã mất, là những giây phút của ngày xưa được sống trong an bình, ngắm chuồn ngủ bên bờ suối. Dừng lại để trở lại với chính mình. Dừng lại để thấy mình trở về là.. một đứa trẻ.
Sự thực đơn giản ấy phải đến khi đi hết gần cả cuộc đời nó mới hiểu.
Bàn tay đang nắm là viên kẹo ngọt
Buông là một khái niệm quen thuộc của người tu hành. Tu có nghĩa là buông. Nhưng buông cái gì? Buông ra sao? Buông khi nào? Ai Buông?… lại là vô vàn câu hỏi của người tu trên con đường học Đạo.
Khi trong tay là viên than hồng, xu hướng tự nhiên là thả nó ra ngay vì sợ bỏng tay. Viên than ấy ví cho khổ đau. Người bình thường khi thấy khổ đau thường tìm cách loại trừ nó ra khỏi cuộc sống của mình. Trong vô vàn cách thì những cách như tìm một hoàn cảnh khác, sự vật khác “tốt lành hơn” khiến cho khổ đau giảm xuống hay mất đi. Trong cả hai trường hợp chỉ là những cách đối trị hay trốn tránh khổ đau, chưa hẳn “buông được hòn than đỏ”. Khổ đau trong những trường hợp ấy ví như “đá đè cỏ” không thể hết hẳn, chỉ tạm thời lắng đọng, an yên một thời gian, rồi khi “bỏ đá ra cỏ lại mọc xanh hơn, nhiều hơn”. Giống như khi hết an yên thì khổ đau khác xuất hiện, tâm lại bất an.
Rất nhiều người nghĩ rằng bỏ hết gia đình, con cái, nhà cửa… lên chùa mới là “thực sự buông bỏ”. Bởi, trong cuộc sống này biết bao những quan hệ xã hội phức tạp khiến cho tâm người dao động, khổ sở. Tiền bạc là sức ép, là nguyên nhân gây ra cãi vã, ly tan; sự phấn đấu để giàu có khiến cho con người mệt mỏi; tình yêu vô vọng, hay sự mất lòng tin, hiểu lầm, khiến cho con người thất vọng, suy sụp… Thực ra suy nghĩ ấy là sai lầm nếu không hiểu rõ bản chất của “viên than hồng”. Nó không nằm ở những sự vật ấy, hoàn cảnh ấy, quan hệ ấy, con người ấy, mà nằm ở nhận thức của chính mình. Nếu thấy ra khổ đau cũng là một bài học tốt (nguyên nhân, sinh, diệt…), thì ta sẽ không có xu hướng loại trừ nó. Lúc đó khổ đau mới được đoạn diệt.
Viên than còn là ví dụ dễ thấy, dễ biết, “viên kẹo” còn vi tế hơn nhiều.
Khi những gì đang nắm là tốt đẹp, là tinh tấn, là thành tích, nhất là thành tích trong tu tập khiến cho con người bị dính mắc ghê lắm. Những “đạt”, "những an", những "về", những "tới" khiến cho xu hướng muốn "nắm giữ" giống như có được viên kẹo ngọt, ăn thử rồi muốn ăn nữa, ăn mãi, muốn có, không muốn rời.
Trong tu Thiền, khi tâm đạt tới "an chỉ định" rất nhiều thiền sinh cảm thấy hạnh phúc, rồi khi thiền thấy "ánh sáng", "hào qua.ng” hay "hình ảnh những vị Phật", rồi thì "thông tỷ, thông nhĩ, thông nhãn.." càng dễ khiến thiền sinh hoan hỷ, mong giữ lại những giây phút ấy, hoặc kéo dài ra càng lâu càng tốt, hoặc mong cầu thành tích cao hơn.
Hệ quả của những "viên kẹo ngọt" đó là bị dính mắc. Dính mắc vào thành tích là cái dính mắc "ngọt ngào" khó buông bỏ hơn gấp nhiều lần "viên than hồng", bởi sự vi tế của nó.
Trong tích của nhà Phật nói nhiều về "ngón tay chỉ Trăng", về "con thuyền đưa ta sang sông". Ngay cả khi con thuyền ấy có đẹp đẽ đến mức nào thì cũng chỉ là phương tiện. Mặt trăng vẫn mãi là mặt trăng dù có dùng tay để chỉ hay dùng bất kỳ lời gì để mô tả thì vẫn không phải là mặt trăng. Nó tự tồn tại bên ngoài những định nghĩa, giới thiệu, giải thích – cũng như sự chỉ dẫn của "ngón tay".
Thiền là lối sống, là con đường giúp ta thấy ra sự thật, thấy ra sự sống đang là, không phải loại trừ, hay níu giữ. Sự sống ấy là tất cả dòng chảy quanh ta bao gồm cả thân, thọ, tâm, pháp. Buông là buông cái "tâm lăng xăng tạo tác", cái tâm mong muốn trở thành. Hiểu được nó thì dù là viên than hồng hay viên kẹo ngọt ta cũng chỉ cảm thấy được sự "nóng đỏ của viên than", "sự ngọt ngào của viên kẹo" mà không bị dính mắc hay bị nó chi phối.
Khổ đau cũng vậy, hạnh phúc cũng thế. Khi trong "thấy chỉ có thấy", trong "nghe chỉ có nghe…" vắng bặt cái "tôi đang tu, đang chứng, đang thiền" thì lúc đó Tánh Biết sẽ tự biết nên phải làm gì, như thế nào, hay nói một cách khác là "pháp tự tu" vậy. Vì thế buông mà cũng chẳng có gì để buông, cũng không có ai buông thì đó mới là Buông thực sự.