• Nền Tảng Phật Giáo - Quyển VI

    PHÁP HẠNH BA-LA-MẬT

    (Tập 1)

  • Soạn giả: Hộ Pháp

 

Chánh Cung Hoàng Hậu Samuddajā Thấy Ác Mộng

 

Trong ngày vị thầy rắn Alampāyana bắt Đức Bồ Tát Long Vương Bhūridatta, vào canh chót đêm ấy bà Chánh cung Hoàng hậu Samuddajā là Mẫu hậu của Đức Bồ Tát Long Vương Bhūridatta, nằm thấy ác mộng rằng:

“Bà Chánh cung Hoàng hậu Samuddajā bị một người đàn ông có gương mặt đỏ, dùng gươm chặt cánh tay bên phải của bà đem đi, khi máu đang chảy ròng.”

Sau khi tỉnh cơn ác mộng bà vẫn còn sợ hãi tay sờ cánh tay bên phải của bà còn nguyên, bà mới biết rằng đó là cơn ác mộng. Bà Chánh cung Hoàng hậu Samuddajā nghĩ rằng: “Ta nằm thấy cơn ác mộng thật là kinh hoàng, không biết có điều gì sảy ra cho bốn vị hoàng tử của ta và đấng phu quân của ta hay không?

Trong bốn hoàng hoàng tử thường có ba hoàng tử ở tại long cung chỉ có hoàng tử Bhūridatta thường xuất hiện trên cõi người, để thọ trì và giữ gìn bát giới uposathasīla trong những ngày giới hằng tháng mà thôi.

Trong cõi người, nếu hoàng tử Bhūridatta gặp thầy rắn hoặc điểu vương thì chắc chắn sẽ gây tai hoạ cho hoàng tử Bhūridatta của ta.”

Nghĩ như vậy, bà Chánh cung Hoàng hậu Samuddajā lo lắng khổ tâm sầu não nghĩ đến hoàng tử Bhūridatta suốt ngày đêm. Kể từ ngày bà Chánh cung Hoàng hậu thấy cơn ác mộng đến hôm nay đã trải qua nửa tháng.

Theo lệ thường, cứ mỗi nửa tháng hoàng tử  Bhūridatta đến chầu thăm viếng Đức Phụ Vương Dhataraṭṭha và Mẫu hậu Samuddajā.

Hôm ấy là ngày đến kỳ hạn nửa tháng, bà Chánh cung Hoàng hậu Samuddajā ngồi nhìn ra trước cổng lâu đài không thấy hoàng tử Bhūridatta đến, bà Chánh cung Hoàng hậu Samuddajā than vãn rằng: “Hoàng nhi Bhūridatta con hãy mau đến thăm Mẫu hậu, Mẫu hậu đang mong chờ con.”

Cứ như vậy, ngày này qua ngày khác, bà Chánh cung Hoàng hậu Samuddajā mong chờ hoàng tử Bhūridatta, làm cho bà khổ tâm sầu não suốt nửa tháng ròng rã.

Theo lệ thường, mỗi tháng một lần, ba hoàng tử Sudassana, Subhoga, Ariṭṭha ngự đến chầu thăm viếng Đức Phụ Vương Dhataraṭṭha và Mẫu hậu Samuddajā.

Hôm ấy, nhằm vào ngày đến kỳ hạn Đức Long Vương Sudassana, hoàng tử trưởng của Chánh cung Hoàng hậu Samuddajā và Đức Long Vương Dhataraṭṭha, ngự đến chầu Mẫu hậu Samuddajā, nhìn thấy Mẫu hậu Samud-dajā khổ tâm sầu não khóc than, hoàng tử trưởng Sudassana không biết do nguyên nhân nào làm cho Mẫu hậu khổ tâm như vậy, nên tâu rằng:

- Muôn tâu Mẫu hậu, con đến chầu thăm Mẫu hậu, do nguyên nhân nào mà Mẫu hậu không vui mừng, ai làm cho Mẫu hậu khổ tâm, sầu não? hoặc Mẫu hậu có nỗi khổ tâm gì mà trên gương mặt của Mẫu hậu âu sầu, đôi mắt của Mẫu hậu đầy nước mắt vậy? Tâu Mẫu hậu.

- Này hoàng nhi Sudassana yêu quý! Mẫu hậu nằm thấy cơn ác mộng trải qua một tháng nay như sau: “Một người đàn ông có đôi mắt đỏ, dùng thanh gươm chặt cánh tay bên phải của Mẫu hậu, đem đi, khi máu đang chảy ròng.”

Đó là nguyên nhân làm cho Mẫu hậu khổ tâm sầu não khóc than suốt ngày đêm, kể từ ngày hôm ấy cho đến nay trải qua một tháng rồi.

- Này hoàng nhi Sudassana yêu quý! Mẫu hậu cùng con ngự đến thăm lâu đài của Bhūridatta để biết rõ về hoàng đệ của con như thế nào?

Bà Chánh cung Hoàng hậu Samuddajā cùng phái đoàn hộ giá của Hoàng tử trưởng Sudassana ngự đến thăm lâu đài của Hoàng tử Bhūridatta.

Một tháng trước, các Hoàng hậu của Đức Long Vương Bhūridatta xuất hiện lên cõi người đến chỗ gò mối không gặp Đức Long Vương đấng phu quân của họ. Các bà hoàng hậu nghĩ rằng: “Đức Long Vương đã ngự trở về cõi long cung, đến chầu Mẫu hậu Samuddajā và Đức Phụ Vương Dhataraṭṭha, rồi ở lại hầu hạ phục vụ thuyết pháp tế độ Mẫu hậu cùng Đức Phụ Vương.”

Do đó, các bà Hoàng hậu không đi tìm kiếm Đức Long Vương Bhūridatta nữa.

Hôm nay, nhìn từ xa thấy Mẫu hậu Samuddajā và Hoàng huynh Sudassana ngự đến đây, các bà Hoàng hậu của Đức Long Vương Bhūridatta ngự ra cung kính đón rước Mẫu hậu và Hoàng huynh cùng đảnh lễ nơi bàn chân của hai Người, rồi tâu rằng:

- Muôn tâu Mẫu hậu, Đức Long Vương Bhūridatta hoàng tử của Mẫu hậu ở nơi nào, sao không cùng ngự theo Mẫu hậu?

- Muôn tâu Mẫu hậu, đã một tháng qua, các con ngày đêm mong chờ Đấng phu quân Bhūridatta trở về.

Nghe các bà Hoàng hậu của Đức Bồ Tát Long Vương Bhūridatta tâu như vậy, bà Chánh cung Hoàng hậu Samuddajā chết ngất, vì quá xúc động, Hoàng tử  Sudassana đến đỡ Mẫu hậu còn các bà hoàng hậu ấy ôm đôi bàn chân Mẫu hậu khóc than thảm thiết.

Khi ấy, Đức Long Vương Subhoga và Đức Long Vương Ariṭṭha cùng đoàn hộ giá ngự đến chầu thăm viếng Đức Phụ Vương Dhataraṭṭha và Mẫu hậu Samuddajā.

Trên đường đi ngang qua lâu đài của Hoàng huynh Bhūridatta nghe tiếng khóc than của các hoàng tỷ. Hai Đức Long Vương ghé vào lâu đài, thì thấy Mẫu hậu Samuddajā nằm trên long sàng, Hoàng huynh trưởng ngồi bên cạnh, các hoàng tỷ ôm đôi bàn chân Mẫu hậu khóc than thảm thiết.

Hai hoàng tử Subhoga và Ariṭṭha không biết chuyện gì xảy ra, ngự đến hầu đảnh lễ Mẫu hậu, mới biết Hoàng huynh Bhūridatta đã mất tích một tháng rồi.

Hoàng tử Subhoga và Ariṭṭha tâu với Mẫu hậu rằng:

- Muôn tâu Mẫu hậu, xin Mẫu hậu an tâm, ba huynh đệ chúng con sẽ đi khắp mọi nơi từ trên cõi trời, nơi rừng núi himavanta, cõi người, các con sông, biển… tìm cho được Hoàng huynh Bhūridatta thỉnh về chầu Mẫu hậu trong vòng 7 ngày.

Nghe các hoàng tử tâu như vậy, Mẫu hậu Samuddajā truyền bảo rằng:

- Này các hoàng nhi yêu quý! Các con hãy mau đi tìm  Bhūridatta thỉnh về chầu Mẫu hậu, nếu Mẫu hậu không gặp được Bhūridatta sớm thì chắc chắn Mẫu hậu không thể sống được nữa.

Nghe Mẫu hậu truyền dạy như vậy, Hoàng tử trưởng Sudassana truyền dạy hai hoàng đệ rằng:

- Này hai Hoàng đệ! Cả ba huynh đệ chúng ta phải đi khắp mọi nơi, huynh phân công tác như sau:

 * Hoàng đệ Ariṭṭha có tính khí nóng nảy nếu thấy Hoàng huynh Bhūridatta bị hành hạ ở xóm làng nào thì xóm làng ấy chắc chắn sẽ bị thiêu đốt thành tro bụi. Đó là điều hoàng đệ Bhūridatta không muốn.

Vậy, huynh phân công Hoàng đệ Ariṭṭha đi tìm trên các cõi trời. Nếu hoàng đệ thấy Hoàng huynh Bhūridatta đang thuyết pháp thì hoàng đệ vào thỉnh Hoàng huynh Bhūridatta trở về cõi long cung đến chầu Mẫu hậu gấp, vì Mẫu hậu đang mong chờ.

*Hoàng đệ Subhoga đi tìm trong rừng núi Himavanta và các con sông lớn, biển. Nếu thấy Hoàng huynh Bhūridatta thì thỉnh Hoàng huynh Bhūridatta ngự trở về cõi long cung vào chầu Mẫu hậu, vì Mẫu hậu đang mong chờ.

*Còn huynh sẽ đi tìm trên cõi người, nếu huynh xuất hiện lên cõi người với hình dáng người thanh niên trai trẻ thì loài người không quan tâm, không kính trọng. Vậy, huynh sẽ biến hoá thành vị đạo sĩ thì được loài người kính trọng, huynh sẽ dễ dàng hỏi thăm tin tức của Hoàng đệ Bhūridatta.

Sau khi phân công tác xong, cả ba huynh đệ vào đảnh lễ Mẫu hậu Samuddajā, xin Mẫu hậu ban phước lành ra đi.

Khi ấy, một hoàng muội Ajamukhī  là người em cùng Đức Phụ Vương Dhataraṭṭha khác Mẫu hậu, Công chúa Ajamukhī rất kính yêu Hoàng huynh Bhūridatta, nên xin đi theo sau Hoàng huynh trưởng Sudassana.

Hoàng huynh trưởng truyền dạy rằng:

- Này hoàng muội Ajamukhī yêu quý! Em không thể đi theo cùng với huynh được, bởi vì huynh biến hoá thành vị đạo sĩ, em đi theo sau sẽ bị người ta chê trách.

Nghe hoàng huynh trưởng Sudassana truyền dạy như vậy, hoàng muội Ajamukhī thưa rằng:

- Thưa Hoàng huynh trưởng, em sẽ biến hoá thành một con nhái con nằm gọn trên cái mũ của Hoàng huynh..

- Này hoàng muội Ajamukhī yêu quý! Nếu như vậy thì hoàng muội hãy mau đi theo Hoàng huynh ngay!

- Thưa Hoàng huynh trưởng, trước hết, muội hỏi các hoàng tỷ, hoàng hậu của Hoàng huynh Bhūridatta, để biết Hoàng huynh Bhūridatta xuất hiện lên cõi người thường thọ trì và giữ gìn bát giới uposathasīla chỗ nào, rồi huynh muội chúng ta hãy đi đến chỗ ấy trước.

Các hoàng hậu của Đức Long Vương Bhūridatta cho biết tại gò mối gần cây da bên bờ sông Yamunā, là nơi  Đấng phu quân Bhūridatta thường nằm thọ trì và giữ gìn bát giới uposathasīla trong những ngày giới hằng tháng.

Biết được chỗ của Hoàng huynh Bhūridatta, hai huynh muội hiện lên cõi người ngự đến tại nơi ấy quan sát xem xét thấy những vết máu khô của Hoàng đệ Bhūridatta, đi theo vết máu đến một nơi thấy những sợi dây mây vụn đang bỏ rãi rác nơi ấy. Vị đạo sĩ Sudassana đoán biết chắc chắn rằng: “Vị thầy rắn đã bắt Hoàng đệ Bhūridatta.”

Vị đạo sĩ Sudassana phát sinh nỗi khổ tâm cùng cực, nước mắt trào ra, vị đạo sĩ Sudassana lần theo con đường mòn mà vị thầy rắn đã đi đến một vùng dân chúng đông đúc, vị đạo sĩ Sudassana hỏi thăm dân chúng rằng:

- Này quý bà con! Vị thầy rắn bắt Đức Long Vương Bhūridatta biểu diễn trò tại đây có phải không?

- Kính thưa vị đạo sĩ, cách đây một tháng, vị thầy rắn Alampāyana bắt Đức Long Vương biểu diễn trò tại đây, đã thu được nhiều tiền, vàng bạc … rồi đi đến vùng khác rồi.

Nghe dân chúng cho biết tin tức về Hoàng đệ Bhūridatta, vị đạo sĩ Sudassana cảm thấy vui mừng, nhưng nỗi khổ tâm lại phát sinh, bởi vì nghĩ đến Hoàng đệ Bhūridatta bị thầy Alampāyana hành hạ, vị đạo sĩ Sudassana theo dõi từ vùng này đến vùng khác, từ tỉnh thành này đến tỉnh thành khác cuối cùng đến kinh thành Bārāṇasī, gặp vị thầy rắn Alampāyana đang chuẩn bị bắt Đức Long Vương Bhūridatta biểu diễn cho Đức Vua Bārāṇasī xem.

Hôm ấy, vị thầy rắn Alampāyana ăn mặc một bộ đồ sang trọng. cho người mang lồng kính ra đặt trước sân rồng của cung điện, các hoàng gia, các quan cùng dân chúng trong kinh thành tụ hội rất đông, một ngai vàng được sắp đặt chờ Đức Vua Bārāṇasī ngự đến xem.

Đức Vua Bārāṇasī truyền bảo các quan rằng:

Trẫm sẽ ngự đến, truyền cho vị thầy rắn Alampāyana hãy đem Long Vương Bhūridatta thả ra trước.

Được lệnh của Đức Vua Bārāṇasī, vị thầy rắn Alampāyana mở của lồng kính, báo hiệu mời Đức Long Vương Bhūridatta bò ra ngoài.

Khi ấy, vị đạo sĩ Sudassana đứng sau nhóm người xem, Đức Bồ Tát Long Vương Bhūridatta thò đầu ra xem bên ngoài, nếu nhìn thấy có Điểu Vương xuất hiện ở nơi ấy, thì Đức Bồ Tát Long Vương Bhūridatta không dám bò ra ngoài, vì sợ Điểu Vương gây tai hại cho mình.

Thấy không có Điểu Vương, nên Đức Bồ Tát Long Vương bò thẳng đến chỗ đứng của vị đạo sĩ Sudassana, những người đứng xem gần nơi ấy đều hoảng sợ bỏ chạy ra xa, chỉ còn vị đạo sĩ Sudassana đứng yên một chỗ, Đức Bồ Tát Long Vương cúi đầu dưới đôi bàn chân của vị đạo sĩ Sudassana. Vị đạo sĩ Sudassana nhìn thấy hoàn cảnh đáng thương của Hoàng đệ Bhūridatta, xúc động nên khóc trào nước mắt, Đức Bồ Tát Long Vương Bhūridatta cũng khóc rồi bỏ trở lại vào chiếc lồng kính.

Khi ấy, vị thầy rắn Alampāyana hiểu lầm vị đạo sĩ bị Long Vương Bhūridatta cắn, nên đến an ủi rằng:

- Thưa đạo sĩ, Long Vương Bhūridatta bò đến cắn đôi bàn chân của Ngài có phải không?

- Kính xin Ngài chớ nên lo sợ, tôi có bổn phận chữa trị vết thương cho Ngài được bình phục.

Nghe vị thầy rắn Alampāyana thưa như vậy, vị đạo sĩ Sudassana muốn khiêu khích với vị thầy rắn rằng:

- Này thầy rắn Alampāyana! Đức Long Vương ấy không có khả năng làm gì ta được, dù chỉ một chút thôi. Thật ra, trong đời này có bao nhiêu thầy rắn cũng không có một ai hơn ta được.

Vì không biết vị đạo sĩ ấy là ai, thầy rắn Alampāyana chạm tự ái, nên nổi cơn giận dữ mắng nhiếc rằng:

- Này Đạo sĩ! Ngươi là ai mà ngu si đến cuồng dại,

dám tự cao tự đại, mang hình thức đạo sĩ đến đây thách đố với ta giữa hội chúng đông đảo như thế này!

Vị thầy rắn Alampāyana tuyên bố rằng:

- Kính xin toàn thể hội chúng thông cảm cho tôi, nếu có chuyện gì xảy ra với vị đạo sĩ này thì tôi là người vô tội, kính xin quý vị đừng giận tôi.

Nghe vị thầy rắn Alampāyana nói vậy, vị đạo sĩ thách đố với vị thầy rắn rằng:

- Này thầy rắn Alampāyana! Ông đem con Long Vương đấu với con nhái con của ta. Trong cuộc chiến đầu này giữa hai chúng ta, mỗi người có một số tiền 5000 đồng kahāpana, nếu người nào thua thì người đó mất số tiền đó, nếu người nào thắng thì người ấy được số tiền đó.

Nghe vị đạo sĩ đặt ra điều kiện đấu nhau như vậy, vị thầy rắn Alampāyana nói với vị đạo sĩ trẻ rằng:

- Này đạo sĩ trẻ! Ta là người giàu mới có số tiền lớn như vậy, còn ngươi là kẻ nghèo hèn, ai đứng ra bảo lãnh cho ngươi.

Vậy, trong cuộc chiến đấu này giữa ta và ngươi, mỗi người phải đặt ra một số tiền 5000 đồng kahāpana.

Nghe vị thầy rắn Alampāyana nói như vậy, vị đạo sĩ Sudassana đến chầu Đức Vua Bārāṇasī tâu rằng:

- Muôn tâu Đại Vương cao thượng, cầu mong Đại Vương được sống lâu, an lạc. Kính xin Đại Vương đứng ra bảo lãnh số tiền 5000 đồng kahāpana giúp bần đạo.

Nghe vị đạo sĩ tâu như vậy, Đức Vua truyền hỏi rằng:

- Thưa vị đạo sĩ, Vì lý do gì mà đạo sĩ cầu xin Trẫm đứng ra bảo lãnh số tiền lớn như vậy?

Nghe Đức Vua truyền hỏi như vậy, vị đạo sĩ Sudassana tâu rằng:

- Muôn tâu Đại Vương, bởi vì thầy rắn Alampāyana đem Đức Long Vương Bhūridatta đấu với con nhái con của bần đạo. Trong cuộc chiến đấu giữa bần đạo với vị thầy rắn Alampāyana, nếu người nào thua thì phải chịu chồng đủ số tiền 5000 đồng kahāpana cho người thắng.

- Muôn tâu Đại Vương cao thượng, kính xin Đại Vương ngự đến chứng kiến cuộc chiến đấu hôm nay.

Đức Vua Bārāṇasī ngự cùng vị đạo sĩ Sudassana ra chỗ sân rồng nơi hội chúng tụ hội đông đảo.

Nhìn thấy Đức Vua ngự ra cùng với đạo sĩ, vị thầy rắn Alampāyana kính nể không dám xem thường vị đạo sĩ, do nghĩ rằng: Vị đạo sĩ này là người hoàng tộc nên thưa rằng:

- Thưa vị đạo sĩ, tôi không dám coi thường tài năng và oai lực của Ngài, nhưng tôi khuyên Ngài không nên ỷ lại vào tài năng của mình mà không biết sợ con Long Vương Bhūridatta này. Tôi cho Ngài biết con Long Vương Bhūridatta này có nhiều thần lực, có chất độc khủng khiếp lắm.

Nghe vị thầy rắn Alampāyana khuyên như vậy, vị đạo sĩ Sudassana nói với thái độ khiêu khích rằng:

- Này thầy rắn Alampāyana! Bần đạo biết Đức Long Vương này không có chất độc, nhưng ông đã lừa gạt mọi người cho rằng: Đức Long Vương có chất độc kinh khủng, để ông kiếm được nhiều của cải.

Nếu mọi người đều biết Đức Long Vương này không có chất độc, thì ông đâu có kiếm được của cải lớn như thế này? 

Nghe vị đạo sĩ Sudassana nói như vậy, thầy rắn Alampāyana nổi cơn tức giận như điên như cuồng mắng nhiếc vị đạo sĩ Sudassana rằng:

- Này đạo sĩ giả! Ngươi mặc đồ gia cọp, đầu đôi mũ như đạo sĩ, ngươi vốn là người si mê đần độn tự cao tự đại, dám thách ta giữa hội chúng này. Ngươì dám coi thường Long Vương này cho là không có chất độc. Vậy, ngươi dám đến gần con Long Vương có chất độc kinh khủng, có nhiều thần lực này hay không?

Nếu ngươi đến gần thì con Long Vương phun chất độc, phun lửa ra thiêu đốt ngươi biến thành tro bụi ngay!

Vị đạo sĩ Sudassana nói khiêu khích với vị thầy rắn Alampāyana rằng:

- Này thầy rắn Alampāyana! con rắn nước, con rắn lửa may ra còn có chất độc, nhưng Đức Long Vương này làm gì có chất độc!

Vị thầy rắn Alampāyana nổi cơn tức giận điên cuồng nói rằng:

- Này vị đạo sĩ giả! Tôi từng nghe chư Thánh Arahán cao thượng dạy rằng: “Các thí chủ đã làm phước bố thí trong đời này sau khi họ chết, thiện nghiệp bố thí ấy cho quả tái sinh lên cõi trời.”

 Vậy, khi đang còn sống, ngươi có những gì bố thí được thì nên làm phước bố thí ngay tức thì, ta sẽ sai khiến con Long Vương có nhiều thần lực, có chất độc kinh khủng, sẽ bò đến cắn ngươi, sẽ thiêu huỷ ngươi biến thành tro bụi.

Vị đạo sĩ Sudassana cũng khuyên vị thầy rắn rằng:

- Này thầy rắn Alampāyana! Tôi cũng từng nghe chư Thánh Arahán cao thượng dạy rằng:“Các thí chủ đã làm phước thiện bố thí trong đời này, sau khi người ấy chết, thiện nghiệp bố thí ấy cho quả tái sinh lên cõi trời.”

Vậy, khi ông còn sinh mạng, ông nên đem của cải tài sản để làm phước bố thí ngay bây giờ. Tôi sẽ cho con nhái con tên Ajamukhī có nhiều thần lực, có nhiều chất độc kinh khủng nhảy ra cắn ông, chắn chắn ông sẽ biến thành tro bụi.

- Này thầy rắn Alampāyana! con nhái con này tên Ajamukhī vốn là Công chúa của Đức Long Vương Dhataraṭṭha, nó là hoàng muội cùng Đức phụ Vương  khác Mẫu hậu với bần đạo, Công chúa Ajamukhī có nhiều thần lực có chất độc kinh khủng, nó sẽ cắn ông biến thành tro bụi.

Sau khi nói xong, đạo sĩ Sudassana đứng giữa hội chúng đông đảo đưa bàn tay ra gọi hoàng muội Ajamukhī rằng:

- Này hoàng muội Ajamukhī yêu quý! Em hãy nhảy ra từ trên mũ của Hoàng huynh, đứng trên bàn tay của Hoàng huynh. 

Nghe tiếng Hoàng huynh Sudassana gọi, con nhái con vốn là Công chúa Ajamukhī nhảy ra từ trên mũ, đứng trên bàn tay của vị đạo sĩ Sudassana, nhả từ miệng ra 3 giọt chất độc trên bàn tay của vị đạo sĩ Sudassana, rồi nhảy trở lại nằm trên mũ của vị đạo sĩ như trước.

Khi ấy, vị đạo sĩ Sudassana đưa 3 giọt chất độc dõng dạt tuyên bố rằng:

Toàn thể dân chúng trong nước này sẽ bị diệt vong chỉ do 3 giọt chất độc này mà thôi!

Tiếng nói của vị đạo sĩ Sudassana vang dội khắp kinh

thành Bārāṇasī ra xa chu vi rộng lớn.

Khi ấy, Đức Vua Bārāṇasī truyền hỏi vị đạo sĩ Sudassana rằng:

- Thưa Ngài đạo sĩ, tại sao dân chúng trong nước này sẽ bị diệt vong?

- Tâu Đại Vương, dân chúng trong nước này sẽ bị diệt vong bởi vì 3 giọt chất độc này.

- Thưa Ngài đạo sĩ, xin Ngài bỏ 3 giọt chất độc xuống mặt đất được hay không?

- Tâu Đại Vương, không thể được! Nếu bần đạo bỏ 3 giọt chất độc này xuống mặt đất, thì xin Đại Vương nên biết rằng:

Các loài cây ăn trái, các loài hoa màu v.v... do nương nhờ mặt đất đều bị khô héo, tàn lụi cả vì 3 giọt chất độc này. Do đó, bần đạo không thể bỏ xuống mặt đất được.

- Thưa đạo sĩ, xin Ngài ném xuống nước được hay không?

- Tâu Đại Vương, cũng không thể được! Nếu bần đạo ném 3 giọt chất độc này xuống nước, thì xin Đại Vương biết rằng:

Các loài chúng sinh sống trong nước đều bị chết cả thảy, không còn một con nào sống sót. Do đó, bần đạo không thể bỏ xuống nước được.

- Thưa đạo sĩ, xin Ngài ném lên hư không có được hay không?

- Tâu Đại Vương, cũng không thể được! Nếu bần đạo ném 3 giọt chất độc này lên hư không thì xin Đại Vương nên biết rằng: Mưa và sương sẽ không có, hạn hán suốt bảy năm  ròng rã.

Dó đó, bần đạo không thể nào ném lên hư không.  

 

Đức Vua Bārāṇasī khẩn khoản yêu cầu rằng:

- Thưa đạo sĩ, Trẫn không biết làm cách nào nữa. Vậy, xin Ngài tìm cách cứu giúp toàn thể dân chúng trong nước tránh khỏi tai hoạ diệt vong.

Vị đạo sĩ Sudassana tâu rằng:

- Tâu Đại Vương, nếu như vậy thì xin Đại Vương truyền lệnh cho đào 3 cái hầm thật sâu gần sát nhau, rồi bần đạo sẽ làm cho nó trở thành vô hiệu.

Sau khi đào xong 3 cái hầm sâu, vị đạo sĩ Sudassana bỏ dầy các loại cây thuốc khác nhau để làm hoá giải bớt chất độc vào hầm thứ nhất, bỏ đầy phân bò vào hầm thứ nhì, bỏ đầy thần dược vào hầm thứ ba.

 Vị đạo sĩ Sudassana bỏ 3 giọt chất độc xuống hầm thứ nhất, ngay khi ấy, ngọn lửa bốc cháy ngùn ngụt cháy lan sang hầm thứ nhì chứa đầy phân bò, rồi cháy sang hầm thứ ba gặp thần dược, ngọn lửa cháy hết thần dược, thì mới tắt.

Khi ấy, vị thầy rắn Alampāyana đứng gần nơi ấy, bị tiếp xúc hơi độc làm cho thân hình của ông lở loét, trở thành bệnh ngoài da thấy rất ghê tởm. Vị thầy rắn sợ hãi hét lên rằng:

Nāgarājānaṃ vissajjemi” (3 lần)

Tôi xin thả Đức Long Vương Bhūridatta ra được tự do. (3 lần.)


Nghe tiếng la hét lớn của thầy rắn Alampāyana như vậy, Đức Bồ Tát Long Vương Bhūridatta từ trong lồng kính bò ra, liền biến hoá ra thân hình to lớn có đầy đủ trang phục, đồ trang sức ngọc ngà quý báu đứng giữa hội chúng như Đức Vua trời, đồng thời vị đạo sĩ Sudassana và Công chúa Ajamukhī cũng hoá ra như vị thiên nam, thiên nữ có đầy đủ trang phục và đồ trang sức lộng lẫy đứng bên cạnh Đức Bồ Tát Long Vương Bhūridatta.

Khi ấy, Đức Long Vương Sudassana tâu rằng:  

- Muôn tâu Đại Vương, Đại Vương có biết ba huynh đệ muội chúng con là ai không?

Đức Vua Bārāṇasī truyền bảo rằng:

- Thưa quý vị, Trẫm không biết thật!

- Muôn tâu Đại Vương, Đại Vương không biết 3 huynh đệ muội chúng con là phải, nhưng điều chắc chắn Đại Vương nhớ rõ chuyện Công chúa Samuddajā của Đức Vua Brahmadatta ban cho Đức Long Vương Dhataraṭṭha trước kia đúng không?

Đức Vua Bārāṇasī truyền bảo rằng:

- Này quý vị! Đúng vậy, Trẫm nhớ rõ lắm! Bởi vì Công chúa Samuddajā là Hoàng muội của Trẫm.

Đức Long Vương Sudassana tâu rõ lý lịch rằng:

- Muôn tâu Đại Vương, cháu là hoàng tử trưởng tên Sudassana, em cháu là hoàng tử thứ nhì Bhūridatta, cả hai chúng cháu là hoàng tử của bà Chánh cung Hoàng hậu Samuddajā, Hoàng muội của Đại Vương.

Vậy, Đại Vương là Đức Vua cậu của hai huynh đệ chúng cháu.

- Muôn tâu Đức Vua Cậu, Mẫu hậu Samuddajā sinh hạ được 4 hoàng tử: Cháu là hoàng tử trưởng tên Sudassana, kế hoàng tử thứ nhì Bhūridatta, hoàng tử thứ ba Subhoga và hoàng tử thứ tư Ariṭṭha. Mỗi cháu đi tìm hoàng tử Bhūridatta mỗi nơi. Còn Công chúa Ajamukhī này là hoàng muội của chúng cháu cùng Đức Phụ Vương Dhataraṭṭha  khác Mẫu hậu.

Nghe Đức Long Vương Sudassana tâu rõ cội nguồn như vậy, Đức Vua Bārāṇasī vui mừng khôn xiết, ôm choàng 3 cháu vào lòng, quá xúc động trào ra nước mắt, rồi dẫn nhau ngự vào cung điện.

Trước tiên Đức Vua truyền hỏi rằng:

- Này các cháu yêu quý! Mẫu hậu Samuddajā của các cháu thế nào? Cậu muốn gặp Mẫu hậu của các cháu bằng cách nào?

Đức Long Vương Sudassana tâu rằng:

- Tâu Đức Vua Cậu, Mẫu hậu Samuddajā của các cháu nằm thấy ác mộng đoán biết chắc chắn rằng:

Hoàng tử Bhūridatta bị tai nạn, cho nên ngày đêm Mẫu hậu Samuddajā nhớ thương hoàng tử Bhūridatta, lo lắng sầu não khổ tâm, truyền 3 huuynh đệ chúng cháu mỗi vị một nơi đi tìm cho được hoàng tử Bhūridatta, thỉnh về chầu Mẫu hậu sớm.

- Tâu Đức Vua cậu, Đức Vua Ngoại của chúng cháu hiện đang ngự tại nơi nào?

- Này quý cháu yêu quý! Đức Vua Ngoại của các cháu từ khi tiễn đưa Công chúa Samuddajā rời khỏi cung điện, ban cho Đức Long Vương Dhataraṭṭha.

Từ đó, đêm ngày nhớ thương Công chúa Samuddajā, nỗi buồn khổ khôn nguôi, nên Đức Vua Ngoại đã truyền ngôi lại cho cậu, rồi Đức Vua Ngoại từ bỏ kinh thành Bārāṇasī đi vào rừng xuất gia trở thành đạo sĩ.

Hiện nay, Đức Vua Ngoại đạo sĩ của các cháu đang ngự tại rừng núi kia.

- Tâu Đức Vua Cậu, Mẫu hậu của chúng cháu muốn viếng thăm Đức Vua Ngoại và Đức Vua cậu. Cháu xin hẹn đến ngày hôm ấy, Đức Vua cậu ngự đến chỗ ở của Đức Vua ngoại. Vào ngày hôm ấy, cháu sẽ thỉnh Mẫu hậu Samuddajā, và các cháu đủ mặt ngự đến đoàn tụ gia đình tại chỗ ở của Đức Vua Ngoại đạo sĩ ấy.

Đức Vua Bārāṇasī truyền hỏi về Đức Bồ Tát Long Vương Bhūridatta rằng:

- Này cháu Bhūridatta yêu quý! Cháu có nhiều thần lực phi thường như vậy, tại sao vị thầy rắn Alampāyana bắt được cháu?

Đức Bồ Tát Long Vương Bhūridatta tâu với Đức Vua cậu Bārāṇasī hiểu rõ về thực hành pháp hạnh giữ giới Ba-la-mật, pháp hạnh phát nguyện Ba-la-mật, pháp hạnh nhẫn nại Ba-la-mật, v.v… của mình, rồi Đức Bồ Tát Long Vương Bhūridatta thuyết pháp giảng dạy Đức Vua cậu thực hành mười pháp của Đức Vua, làm phước thiện bố thí, giữ giới v.v.. giữ gìn truyền thống tổ tiên của dòng họ.

Khi ấy, Đức Long Vương Sudassana tâu rằng:

- Tâu Đức Vua Cậu, Mẫu hậu Samuddajā đang ngày đêm nhớ thương, trông ngóng từng giờ từng phút mong gặp Hoàng tử Bhūridatta. Chúng cháu cần phải trở lại cõi long cung sớm.

Vậy, chúng cháu kính đảnh lễ Đức Vua Cậu, xin phép bái biệt Đức Vua Cậu, hẹn vào ngày ấy đoàn tụ đông đủ.

Đức Vua Bārāṇasī tiễn đưa những người cháu yêu quý ra khỏi cung điện, không cầm được nước mắt, nhìn theo 3 người cháu cho đến khi chúng nó biến mất, xuất hiện trở về cõi long cung của mình.

 

Đức Bồ Tát Bhūridatta Trở Về Cõi Long Cung

 

Khi Đức Bồ Tát Long Vương Bhūridatta trở về cõi long cung, Mẫu hậu Samuddajā, Đức Phụ Vương Dhataraṭṭha, các hoàng hậu, những người trong hoàng tộc, các quan cận thần .v.v… đều cảm thấy vui mừng khôn xiết.

Đức Bồ Tát Long Vương Bhūridatta bị nhốt trong lồng kính một tháng qua, phải chịu mọi cảnh khổ hành hạ đói khát, nên bị lâm bệnh, nằm trên lâu đài của mình, nhưng còn phải vất vả tiếp những người thân đến thăm viếng.

* Hoàng tử Ariṭṭha có phận sự lên trên cõi trời để tìm kiếm khắp mọi nơi mà không gặp Hoàng huynh Bhūridatta, nên đã trở về cõi long cung trước nhất.

* Hoàng tử Subhoga có phận sự đi tìm trong khu rừng núi Himavanta, các con sông lớn, các biển cả đại dương, khi Hoàng tử Subhoga đến con sông Yamunā gặp người thợ săn Nesāda hằng ngày đến con sông này tắm để rửa tội, bởi vì y phản bạn, chỉ thầy rắn Alampāyana bắt Đức Bồ Tát Long Vương Bhūridatta.

Hoàng tử Subhoga bắt người thợ săn Nesāda đem xuống cõi long cung để trị tội, nhưng Đức Bồ Tát Long Vương Bhūridatta truyền lệnh cho các long nam dẫn người thợ săn Nesāda rời khỏi cõi long cung đưa trở về cõi người.

 

Ngày Đoàn Tụ Thân Tộc

 

Đúng ngày hẹn, Đức Vua Bārāṇasī cùng với đoàn hộ giá ngự đến cốc của Đức Phụ Vương đạo sĩ.Đức Bồ Tát Long Vương Bhūridatta truyền lệnh rằng:

Chúng ta chuẩn bị ngự đến chầu Đức Vua Ngoại Brahmadatta và Đức Vua Cậu Sāgarabrahmadatta.

Đức Bồ Tát Long Vương Bhūridatta dẫn đầu phái đoàn gồm có Đức Phụ Vương Dhataraṭṭha, Mẫu hậu Samuddajā, các hoàng tử, các công chúa, các hoàng hậu, các thành phần trong long tộc, cùng các quan quân theo hộ giá từ cõi long cung xuất hiện lên bờ sông Yamunā trên con đường dẫn đến cốc của Đức Vua Ngoại Brahmadatta đạo sĩ.

Khi ấy, từ xa nhìn thấy Đức Bồ Tát Long Vương Bhūridatta dẫn đầu phái đoàn đông đảo, Đức Vua Sāgarabrahmadatta không nhận ra được Đức Bồ Tát Long Vương Bhūridatta cháu của mình, nên tâu hỏi Đức Phụ Vương đạo sĩ rằng:

- Muôn tâu Đức Phụ Vương, phái đoàn đông đảo, quân lính chỉnh tề, tiếng trống nhịp nhàng, tiếng tù và vang dội của Đức Vua nào từ xa ngự đến, Đức Vua còn trẻ có gương mặt trong sáng như vàng rồng, oai phong lẫm liệt ngự trên chiếc long xa được trang hoàng lộng lẫy, có chiếc lộng che trên đầu.

Đức Vua nào có gương mặt trong sáng như vàng ròng, trên thân mình được điểm trang những viên ngọc maṇi vô giá, bên cạnh có hai người hầu tay cầm quạt lông đuôi công được kết rất xinh đẹp.

Đức Vua nào có thân hình cân đối khoẻ mạnh, trang điểm những viên ngọc maṇi quý giá, đôi chân mang đôi hia vàng óng ánh, tay cầm thanh gươm báu…

Trẫm xin tỏ lòng tôn kính Đức Vua ấy.

- Muôn tâu Đức Phụ Vương,  Đức Vua ấy là Đức Vua  đất nước nào? từ đâu ngự đến đây vậy? Đức Phụ Vương.

Đức Đạo sĩ Brahmadatta chứng đắc các bậc thiền và các phép thần thông là Đức Phụ Vương của Đức Vua Sāgarabrahmadatta truyền dạy rằng:

- Này Hoàng nhi Sāgarabrahmadatta! Đức Long Vương Bhūridatta sắp ngự đến nơi đây, là hoàng tử của Đức Long Vương Dhataraṭṭha và Chánh cung Hoàng hậu Samuddajā, Hoàng muội của hoàng nhi. Đức Long Vương Bhūridatta ấy là cháu gọi Đức Phụ Vương là Ông Ngoại và gọi hoàng nhi là Vua  Cậu.

Khi Đức Đạo sĩ Brahmadatta truyền dạy Đức Vua Sāgarabrahmadatta như vậy, thì Đức Long Vương Bhūridatta dẫn đầu phái đoàn gồm có Đức Phụ Vương Dhataraṭṭha, Mẫu hậu Samuddajā, các Hoàng hậu, các Hoàng tử, các Công chúa, các hoàng gia, các đoàn quan quân đông đảo theo hộ giá đến tận cốc của vị Đạo sĩ Brahmadatta.

Khi ấy, Đức Long Vương Dhataraṭṭha đến đảnh lễ dưới hai bàn chân của Đức Đạo sĩ Brahmadatta, Nhạc Phụ và đảnh lễ Đức Vua Sāgarabrahmadatta, Nhạc Huynh, rồi ngồi một nơi hợp lẽ.

Tiếp đến Chánh cung Hoàng hậu Samuddajā đến đảnh lễ dưới hai bàn chân của Đức Đạo sĩ Brahmadatta, Đức Phụ Vương, Bà vô cùng xúc động, nỗi vui mừng trào nước mắt, khi gặp lại Đức Phụ Vương trải qua bao năm xa cách, Bà gục đầu trên đôi bàn chân của Đức Phụ Vương Brahmadatta một hồi lâu, mới vấn an sức khoẻ, hàn huyên với nhau trong tình phụ tử thiêng liêng, rồi Bà đến đảnh lễ dưới hai bàn chân của Hoàng huynh Sāgarabrahmadatta. Hoàng huynh và Hoàng muội rất vui mừng khôn xiết trào nước mắt, hàn huyên với nhau nói không hết lời. Một cảnh tượng đoàn tụ những người thân yêu với nhau thật là thắm thiết.

Tiếp đến, các hoàng tử của bà Chánh cung Hoàng hậu Samuddajā đến đảnh lễ dưới hai bàn chân của Đức Ông Ngoại Brahmadatta lần đầu tiên mới gặp nhau, mới biết lẫn nhau, tình cảm cũng rất là thiêng liêng! Và cùng nhau đến đảnh lễ dưới hai bàn chân của Đức Vua Cậu Sāgarabrahmadatta.

Cảnh gia đình dòng họ đoàn tụ trong tình cảm thiêng liêng thắm thiết với nhau, rồi phái đoàn Đức Bồ Tát Long Vương Bhūridatta đảnh lễ Ông Ngoại Đạo sĩ Brahmadatta và Vua Cậu Sāgarabrahmadatta xin bái biệt trở về cõi long cung.

Đức Vua Sāgarabrahmadatta ở lưu lại đôi ba hôm sau mới ngự trở về kinh thành Bārāṇasī.

* Bà  Chánh cung Hoàng hậu Samuddajā quy thiên tại cõi long cung.

* Đức Bồ Tát Long Vương Bhūridatta giữ gìn giới cho đến trọn kiếp, sau khi băng hà, thiện nghiệp cho quả tái sinh kiếp sau làm Đức Vua trời Sakka trong cõi Tam thập tam thiên như ý nguyện.

Và tất cả mọi nhân vật trong tích này sau khi chết, thiện nghiệp cho quả tái sinh kiếp sau trong cõi trời.

Sau khi thuyết về tích Bhūridattajātaka xong, Đức Thế Tôn truyền dạy rằng:

- Này các cận sự nam, cận sự nữ! Đức Bồ Tát Long Vương Bhūridatta tiền kiếp của Như Lai, đang thực hành, bồi bổ các pháp hạnh Ba-la-mật cho được đầy đủ, Đức Bồ Tát Long Vương rời khỏi cõi long cung, hiện lên

cõi người, để giữ gìn bát giới uposathasīla hoàn toàn trong sạch và trọn vẹn trong những ngày giới hằng tháng như vậy.

 

 Tích Bhūridattajātaka Liên Quan Đến Kiếp Hiện Tại

 

 Trong tích Bhūridattajātaka này, Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama sinh làm kiếp Đức Long Vương Bhūridatta trong thời quá khứ. Đến khi Đức Phật Gotama đã xuất hiện trên thế gian, thì hậu kiếp của những nhân vật trong tích Bhūridattajātaka ấy liên quan đến kiếp hiện tại của những nhân vật ấy như sau:

- Đức Long Vương Dhataraṭṭha, nay kiếp hiện tại là Đức Phụ Vương Suddhodana.

- Chánh cung Hoàng hậu Samuddajā, nay kiếp hiện tại là Bà Chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī.

- Hoàng tử trưởng Sudassana, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại Đức Sāriputta.

  - Hoàng tử Subhoga, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại Đức Mahāmoggallāna.

- Hoàng tử Kāṇāriṭṭha, nay kiếp hiện tại là Tỳ khưu Sunakkhatta,

 - Cậu Somadatta, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại Đức Ānanda.

- Công chúa Ajamukhī, nay kiếp hiện tại là Đại Đức tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā

- Thợ săn Nesāda, nay kiếp hiện tại là tỳ khưu Devadatta.

- Đức Bồ Tát Long Vương Bhūridatta, nay kiếp hiện tại là Đức Phật Gotama.

 

 10 Pháp Hạnh Ba-la-mật

 

Tóm lược tích Đức Bồ Tát Long Vương Bhūridatta, tiền kiếp của Đức Phật Gotama đã thực hành pháp hạnh giữ giới Ba-la-mật bậc hạ, ngoài ra, còn 9 pháp hạnh Ba-la-mật khác cũng đồng thời thành tựu như sau:   

- Đức Bồ Tát Long Vương Bhūridatta dám hy sinh, đó là pháp hạnh bố thí Ba-la-mật

- Đức Bồ Tát Long Vương Bhūridatta lánh xa ngũ dục, đó là pháp hạnh xuất gia Ba-la-mật

- Đức Bồ Tát Long Vương Bhūridatta suy xét đúng đắn, đó là pháp hạnh trí tuệ Ba-la-mật

- Đức Bồ Tát Long Vương Bhūridatta có sự tinh tấn không ngừng, đó là pháp hạnh tinh tấn Ba-la-mật,

- Đức Bồ Tát Long Vương Bhūridatta có đức nhẫn nại

chịu đựng, không hề phát sinh tâm sân, đó là pháp hạnh nhẫn nại Ba-la-mật

- Đức Bồ Tát Long Vương Bhūridatta giữ gìn lời chân thật, đó là pháp hạnh chân thật Ba-la-mật

- Đức Bồ Tát Long Vương Bhūridatta phát nguyện bằng lời chân thật, đó là pháp hạnh phát nguyện Ba-la-mật.

- Đức Bồ Tát Long Vương Bhūridatta có tâm từ đối với người thợ săn, đó là pháp hạnh tâm từ Ba-la-mật.

- Đức Bồ Tát Long Vương Bhūridatta có tâm xả đối với người thợ săn, đó là pháp hạnh tâm xả Ba-la-mật.

 

Đó là 9 pháp hạnh Ba-la-mật khác đồng thời thành tựu cùng với pháp hạnh giữ giới Ba-la-mật bậc hạ ấy.

 

Nhận Xét Về Tích Đức Bồ Tát Long Vương Bhūridatta

 

Pháp hạnh giữ giới Ba-la-mật bậc hạ là 1 trong 10 pháp hạnh Ba-la-mật bậc hạ, cũng là 1 trong 30 pháp hạnh Ba-la-mật mà Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác cần phải thực hành cho được đầy đủ trọn vẹn, để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác (Sammāsambuddha).

Pháp hạnh giữ giới Ba-la-mật đó là tác ý thiện tâm sở và 3 tiết chế tâm sở giữ gìn thân và khẩu tránh xa mọi hành ác, để cho thân và khẩu được trong sạch thanh tịnh.

Đức Bồ Tát Long Vương Bhūridatta nhẫn nại chịu đựng nỗi khổ cốt để giữ gìn giới cho được trong sạch, gọi là pháp hạnh giữ giới Ba-la-mật bậc hạ.

Loài Long (Nāga) là hạng chúng sinh đặc biệt có thần thông biến hoá tự nhiên do quả của nghiệp (kamma-vipāka iddhi). Do đó, loài long có thể biến hoá ra thành người, chư thiên, súc sinh, v.v… Loài Long ở  cõi long cung, có lâu đài toàn bằng vàng, bạc, thất báu, bằng các thứ ngọc quý….phát sinh do quả của nghiệp.    

Tích Bhūridattajātaka này có những trường hợp đặc biệt như:

* Trường hợp Thái tử Brahmadatta thành hôn với long nữ sống ở trong rừng. Long nữ hoá ra lâu đài đầy đủ tiện nghi do oai lực của long nữ. Bà long nữ sinh hạ công tử Sāgarabrahmadatta  tiểu thư Samuddajā. Hai đứa con này thuộc về loài người thật không có phép thần thông biến hoá tự nhiên do quả của nghiệp.

Như vậy, loài người nam có thể thành hôn với loài long nữ sinh con trai, con gái thuộc về loài người thật.

* Trường hợp Đức Long Vương Dhataraṭṭha thành hôn với công chúa Samuddajā, rồi rước về cõi long cung do oai lực của Đức Long Vương Dhataraṭṭha.

  Bà Chánh cung Hoàng hậu Samuddajā sống trong cõi long cung, sinh hạ được 4 đứa con: Hoàng tử trưởng Sudassana, hoàng tử thứ Bhūridatta (Đức Bồ Tát Bhūridatta là tiền kiếp của Đức Phật Gotama), hoàng tử Subhoga và hoàng tử Āriṭṭha. Bốn đứa con này thuộc về loài long có phép thần thông biến hoá tự nhiên do quả của nghiệp.

Như vậy, loài long nam có thể thành hôn với loài người nữ sinh con thuộc về loài long có thần thông biến hoá tự nhiên. 

* Trường hợp người thợ săn Nesāda và đứa con trai Somadatta xuống cõi long cung do oai lực của Đức Bồ Tát Long Vương Bhūridatta. Trong khi hai cha con người thợ săn sống ở cõi long cung, được hưởng mọi sự an lạc trong cõi long cung như loài long. Nhưng khi hai cha con trở về cõi người, thì trở lại cuộc sống bình thường như mọi người.

Như vậy, loài người có thể sống ở cõi long cung được, do nhờ oai lực của Đức Long Vương.

 

           (Xong pháp hạnh giữ giới Ba-la-mật bậc hạ)


 

2.2 -  Pháp Hạnh Giữ Giới Ba-la-mật Bậc Trung

          (Sīla upapāramī)

 

Tích Chaddantajātaka (chat-đanh-tá-cha-tá-ká)

 

Tích Chaddantajātaka ([1]) Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama sinh làm Đức bạch tượng chúa  Chaddanta thực hành pháp hạnh giữ giới Ba-la-mật bậc trung (Sīla upapāramī). Tích này được bắt nguồn như sau:

Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại ngôi chùa Jetavana gần kinh thành Sāvatthi. Khi ấy, Đức Thế Tôn đang ngự trên pháp toà đề cập đến vị tỳ khưu ni trẻ  phát sinh tâm sầu não không tự kiềm chế được mình, nên phát ra tiếng khóc lớn tiếng giữa hội chúng tỳ khưu, tỳ khưu ni, cận sự nam, cận sự nữ đang nghe Đức Thế Tôn thuyết pháp.

Do nguyên nhân nào vị tỳ khưu ni trẻ khóc lớn tiếng như vậy?

Vị tỳ khưu ni trẻ vốn là con gái một gia đình khá giả trong kinh thành Sāvatthi, cô cảm thấy nhàm chán đời sống của người tại gia, cho nên cô xin phép cha mẹ từ bỏ gia đình đi xuất gia trở thành tỳ khưu ni trong giáo pháp của Đức Phật Gotama.

Một hôm, vị tỳ khưu ni trẻ cùng đi với nhóm tỳ khưu ni đến ngôi chùa Jetavana, để nghe Đức Phật thuyết pháp.

Lúc ấy, Đức Phật đang ngự trên pháp toà thuyết pháp, vị tỳ khưu ni trẻ chiêm ngưỡng kim thân của Đức Phật có đầy đủ 32 tướng tốt của bậc đại nhân và 80 tướng tốt phụ một cách say mê, vị tỳ khưu ni trẻ nghĩ rằng:

Trong vòng tử sinh luân hồi, tiền kiếp của ta đã từng là phu nhân của Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama hay không?

Ngay khi ấy, vị tỳ khưu ni trẻ nhớ lại tiền kiếp của mình rằng: “Tiền kiếp của ta đã từng sinh làm kiếp con voi cái là Chánh cung Hoàng hậu thứ nhì tên là Cūḷasubhaddā của Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta, tiền kiếp của Đức Phật Gotama.”

Khi nhớ tiền kiếp của mình như vậy, vị tỳ khưu ni trẻ phát sinh tâm vô cùng hoan hỷ, không tự kiềm chế được mình, không tự thu thúc, nên phát ra tiếng cười lớn giữa hội chúng đang nghe Đức Phật thuyết pháp.

Tiếp theo, vị tỳ khưu ni trẻ tiếp tục nhớ lại tiền kiếp của mình rằng: “Khi ta là con voi Chánh cung Hoàng hậu thứ nhì đã từng phục vụ đem lại sự an lạc cho Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta hay không?”

Vị tỳ khưu ni trẻ nhớ lại tiền kiếp khác của mình đã phạm phải tội lỗi lớn rằng: “Khi tiền kiếp của ta là Chánh cung Hoàng hậu của Đức Vua tại kinh thành Bārāṇasī, ta đã dùng quyền Chánh cung Hoàng hậu thuê mướn người thợ săn Soṇuttara bắn Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta chết bằng mũi tên tẩm thuốc độc cực mạnh của ta.” 

Ngay khi ấy, vị tỳ khưu ni trẻ phát sinh tâm hối hận khổ tâm sầu não không tự kiềm chế được mình, nên khóc lên tiếng lớn giữa hội chúng đang nghe Đức Phật thuyết pháp.

Theo dõi diễn tiến tâm trạng của vị tỳ khưu ni trẻ, Đức Phật mỉm miệng cười.

Khi ấy, chư tỳ khưu kính bạch rằng:

- Kính bạch Đức Thế Tôn, do nguyên nhân nào mà Đức Thế Tôn mỉm miệng cười như vậy? Bạch Ngài.

Đức Thế Tôn truyền dạy rằng:

- Này chư tỳ khưu! Vị tỳ khưu ni trẻ ấy nhớ lại tiền kiếp của mình đã từng phạm tội lỗi lớn đối với tiền kiếp của Như Lai, nên cô hối hận tội lỗi, phát sinh tâm sầu não khổ tâm khóc lên tiếng  lớn như vậy.

Đó là nguyên nhân mà Như Lai mỉm cười.

Chư tỳ khưu kính thỉnh Đức Thế Tôn thuyết về tiền kiếp của Ngài.

 

Tích Chaddantajātaka

 

Đức Thế Tôn thuyết tích Chaddantajātaka được tóm lược như sau:

Trong thời kỳ qua khứ, Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama sinh làm Đức bạch tượng Chaddanta, miệng và bốn bàn chân màu đỏ, cao 88 cùi tay, dài 120 cùi tay, cái vòi màu bạc dài 58 cùi tay, đặc biệt cặp ngà chu vi 15 cùi tay, dài 58 cùi tay có hào quang 6 màu.

Đức Bồ Tát bạch tượng Chaddanta trở thành voi chúa có hai con voi Chánh cung Hoàng hậu: Chánh cung Hoàng hậu đệ nhất Mahāsubhaddā Chánh cung Hoàng hậu đệ nhị Cūḷasubhaddā, có đàn voi 8.000  con tuỳ tùng thuộc hạ, tất cả đàn voi này đều có phép thần thông bay trên hư không như loài chim, sống gần các hồ nước lớn Chaddanta dài và rộng 52 do tuần, giữa hồ có chiều sâu 12 do tuần, bến hồ thoai thoải từ cạn tới sâu, có các thứ hoa sen, hoa súng đủ màu.

Hồ nước lớn Chaddanta này ở trong khu rừng núi Himavanta, xung quanh hồ có nhiều loại cây ăn trái, để cho đàn voi sống quanh năm suốt tháng.

Trong rừng núi Himavanta, xung quanh chỗ ở của Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta cùng đàn voi thuộc hạ có 7 dãy núi cao: núi Cūḷakāḷapabbata, núi Mahākāḷapabbata, núi Udakapabbata, núi Candima-passapabbata, núi Sūriyapassapabbata, núi Maṇipassa-pabbata, núi Suvaṇṇapassapabbata.

 Phía đông của dãy núi lớn Suvaṇṇapassapabbata, có động lớn làm chỗ ở của Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta cùng 8.000 con voi thuộc hạ trong suốt mùa mưa, vào mùa nóng, đàn voi kéo nhau vào trong rừng cây lớn nghỉ mát.

Một hôm, một con voi đến chầu voi chúa tâu rằng:

- Muôn tâu Đức Voi Chúa, trong khu rừng Sālā đã trổ hoa Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta dẫn đàn voi ngự vào khu rừng Sālā, để chơi thể thao, ngắm hoa Sālā. Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta húc đầu vào thân cây Sālā trổ đầy hoa.

Khi ấy, voi Chánh cung Hoàng hậu đệ nhị Cūḷa-subhaddā đứng dưới cành cây khô có tổ kiến bị gãy rơi xuống đầu và mình của bà, bà bị các con kiến cắn làm cho bà khó chịu.

Còn voi Chánh cung Hoàng hậu đệ nhất Mahā-subhaddā đứng dưới cành đầy hoa trổ, những cánh hoa, nhuỵ hoa rơi xuống đầu và mình bà, bà được ngửi mùi hoa thơm dễ chịu.

 

Kết Oan Trái

 

Khi ấy voi Chánh cung Hoàng hậu đệ nhị Cūḷa-subhaddā nghĩ rằng: “Voi Chánh cung Hoàng hậu đệ nhất Mahāsubhaddā được voi chúa sũng ái, cho rơi những   

cánh hoa, nhuỵ hoa xuống đầu và mình có mùi thơm dễ chịu; còn ta thì voi chúa cho rơi những cành cây khô có những con kiến xuống đầu và mình, bị cắn làm khó chịu.

Từ nay, ta kết oan trái với Đức bạch tượng chúa Chaddanta này.

Một hôm, Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta dẫn đầu đàn voi ngự đến hồ nước Chaddanta để tắm, chơi nước, khi Đức Bồ Tát bạch tượng chúa tắm, có hai con voi trẻ theo hầu phục vụ, lấy cỏ khô kỳ thân mình của Đức Bồ Tát bạch tượng chúa cho sạch sẽ.

Sau khi Đức Bồ Tát bạch tượng chúa tắm xong, ngự lên bờ đứng nghỉ. Khi ấy, hai con voi Chánh cung Hoàng hậu ngự xuống hồ tắm xong, cũng ngự lên bờ đứng nghỉ. Sau đó, đàn voi 8.000 con xuống hồ tắm, chơi nước.

Khi đàn voi lên bờ đem những đoá hoa sen, hoa súng đem đến trang hoàng cho Đức Bồ Tát bạch tượng chúa,  và hai con voi Chánh cung Hoàng hậu để cho thơm tho xinh đẹp.

Khi ấy, một con voi đem dâng Đức Bồ Tát bạch tượng chúa một đoá hoa sen lớn rất xinh đẹp. Đức Bồ Tát bạch tượng chúa nhận đoá hoa sen ấy, cho nhuỵ hoa rơi trên đầu, rồi đem trao cho voi Chánh cung Hoàng hậu đệ nhất Mahāsubhaddā.

 

 

Nhìn thấy Đức Bồ Tát bạch tượng chúa đem đoá hoa sen lớn xinh đẹp ấy cho voi Chánh cung Hoàng hậu đệ nhất Mahāsubhaddā như vậy, voi Chánh cung Hoàng hậu đệ nhị Cūḷasubhaddā phát sinh tâm ganh tỵ, nghĩ rằng:“Đức bạch tượng chúa đem đoá hoa sen lớn xinh đẹp ban cho voi Chánh cung Hoàng hậu đệ nhất Mahā-subhaddā yêu quý, còn ta thì không cho gì cả.”

Một lần nữa, voi Chánh cung Hoàng hậu đệ nhị Cūḷasubhaddā kết oan trái với Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta.

Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta thường làm món vật thực bằng trái cây chín trộn với mật ong đem  kính dâng lên 500 Đức Phật Độc Giác. 

Một hôm, voi Chánh cung Hoàng hậu đệ nhị Cūḷa-subhaddā đi tìm các trái cây lớn nhỏ đem kính dâng Đức Phật Độc Giác, rồi cầu nguyện trong tâm rằng: “Kính bạch Đức Phật Độc Giác, do nhờ thiện nghiệp cúng dường các trái cây đến Ngài, sau khi kiếp này con chết, thiện nghiệp ấy xin cho quả tái sinh kiếp sau đầu thai trong lòng Chánh cung Hoàng hậu của Đức Vua   Maddarājā.

Khi sinh ra đời được đặt tên là Subhaddārājākaññā: Công chúa Subhaddā.

Đến khi trưởng thành, con sẽ là Chánh cung Hoàng hậu của Đức Vua Bārāṇasī, được Đức Vua sủng ái nhất, để con thực hiện theo ý đồ của con, nghĩa là con có thể tâu lên Đức Vua tuyển chọn một người thợ săn tài giỏi, đến tận nơi này sẽ bắn Đức bạch tượng chúa Chaddanta chết bằng mũi tên tẩm thuốc độc cực mạnh của con, rồi cưa cặp ngà có hào quang sáu màu đem về dâng cho con.

Cầu xin cho con sẽ được thành tựu như ý.

 Sau khi cầu nguyện xong trở về, kể từ ngày hôm ấy,  voi Chánh cung Hoàng hậu đệ nhị Cūḷasubhaddā nhịn ăn, nhịn uống thân hình gầy ốm, không lâu voi Chánh cung Hoàng hậu đệ nhị Cūḷasubhaddā chết.

Sau khi chết, do nhờ thiện nghiệp cúng dường Đức Phật Độc Giác ấy cho quả tái sinh kiếp sau đầu thai vào lòng bà Chánh cung Hoàng hậu  của Đức Vua Maddarājā.

Khi bà Chánh cung Hoàng hậu của Đức Vua Madda-rājā sinh ra một công chúa đặt tên là Subhaddārājā-kaññā: Công chúa Subhaddā.

Khi công chúa Subhaddā trưởng thành rất xinh đẹp, Đức Vua  Maddarājā đem dâng công chúa đến Đức Vua Bārāṇasī. Công chúa Subhaddā được Đức Vua Bārāṇasī sủng ái nhất, nên được tấn phong ngôi vị Chánh cung Hoàng hậu  đứng đầu 1.600 cung phi mỹ nữ.

Bà Chánh cung Hoàng Subhaddā nhớ lại tiền kiếp của mình với lời cầu nguyện đã được thành tựu như ý.

Bà Chánh cung Hoàng hậu nghĩ rằng: “Bây giờ, ta nên thực hiện ý đồ của ta là tìm người thợ săn tài giỏi có khả năng bắn Đức bạch tượng chúa Chaddanta chết bằng mũi tên tẩm thuốc độc cực mạnh của ta, rồi cưa cặp ngà có hào quang sáu màu đem về dâng cho ta.” 

Nghĩ xong, bà Chánh cung Hoàng hậu Subhaddā giả bệnh, truyền bảo các nàng hầu rằng:

Nếu Đức Vua hỏi về bà, thì các ngươi hãy tâu rằng:

“Bà Chánh cung Hoàng hậu Subhaddā bị lâm bệnh.”

Truyền bảo như vậy, bà Chánh cung Hoàng hậu vào phòng nằm.

Không thấy Chánh cung Hoàng hậu Subhaddā đến chầu, Đức Vua Bārāṇasī truyền hỏi các nàng hầu rằng:

- Này các ngươi! Chánh cung Hoàng hậu Subhaddā thế nào, sao Trẫm không thấy?

Nghe Đức Vua truyền hỏi, các nàng hầu tâu rằng:

- Muôn tâu Hoàng Thượng, bà Chánh cung Hoàng hậu Subhaddā bị lâm bệnh.

Nghe tâu như vậy, Đức Vua Bārāṇasī ngự đến tận phòng thăm bà, rồi truyền hỏi rằng:

- Này ái khanh Subhaddā yêu quý! Ái khanh có thân hình xinh đẹp, có màu da như màu vàng, có đôi mắt trong trẻo đẹp tuyệt vời. Vậy, nay do nguyên nhân nào mà ái khanh như đoá hoa héo dàu như vậy?

Bà Chánh cung Hoàng hậu Subhaddā tâu rằng:

- Muôn tâu Hoàng Thượng, do thần thiếp có mộng ước, nên làm ảnh hưởng xấu đến cái thai của thần thiếp, nhưng điều mộng ước này của thần thiếp khó thành tựu.

Nếu thần thiếp không thành tựu được, chắc chắn thần thiếp khó có thể sống, để hầu hạ Hoàng Thượng. 

Nghe bà Chánh cung Hoàng hậu Subhaddā tâu như vậy, Đức Vua truyền hỏi rằng:

- Này ái khanh Subhaddā yêu quý! Nếu ái khanh có mộng ước điều gì trong cõi người này thì Trẫm sẽ tìm ban cho ái khanh được toại nguyện. Vậy, ái khanh hãy tâu cho Trẫm rõ.

Nghe Đức Vua truyền hỏi như vậy, bà Chánh cung Hoàng hậu Subhaddā tâu rằng:

- Muôn tâu Hoàng Thượng, kính xin Hoàng Thượng truyền gọi những người thợ săn tài giỏi trong đất nước Kāsiraṭṭha tụ hội tại cung điện. Khi ấy, thần thiếp sẽ tâu rõ điều mộng ước của thần thiếp.

Chuẩn theo lời tâu của bà Chánh cung Hoàng hậu Subhaddā, Đức Vua Bārāṇasī truyền lệnh các quan tuyển chọn những người thợ săn tài giỏi trong nước tập trung tại cung điện.

Sau thời gian không lâu, khoảng 60 ngàn người thợ săn trong nước Kāsiraṭṭha đến chầu Đức Vua tại cung điện. Đức Vua Bārāṇasī truyền bảo bà Chánh cung Hoàng hậu Subhaddā biết rằng:

- Này ái khanh Subhaddā yêu quý! Những người thợ

săn tài giỏi này được tuyển chọn là những người có tài  săn bắn, họ sẽ phục vụ vì sự lợi ích của ái khanh.

Nghe Đức Vua truyền bảo như vậy, bà Chánh cung Hoàng hậu Subhaddā truyền bảo các người thợ săn rằng: 

- Này các người thợ săn! Ta nằm mộng thấy Đức bạch tượng chúa toàn màu trắng có cặp ngà phát ra hào quang sáu màu. Vậy, ta nhờ các ngươi bắn Đức bạch tượng chúa ấy chết, rồi cưa lấy cặp ngà ấy đem về dâng cho ta.  Ta sẽ trọng thưởng cho các ngươi.

Nghe bà chánh cung hoàng hậu Subhaddā truyền bảo như vậy, những người thợ săn tâu rằng:

- Tâu bà Chánh cung Hoàng hậu, từ đời ông đời cha của các kẻ tiện dân này chưa từng nghe rằng: “Đức bạch tượng chúa toàn màu trắng có cặp ngà phát ra hào quang sáu màu.”

- Tâu bà Chánh cung Hoàng hậu, bà nằm mộng thấy Đức bạch tượng chúa ấy ở nơi nào trong bốn phương tám hướng. Tâu lệnh Bà?

Bà Chánh cung Hoàng hậu Subhaddā quan sát xem xét những người thợ săn ấy, bà phát hiện ra một người thợ săn Sonuttara là con người dị tướng, đã từng kết oan trái với tiền kiếp của Đức bạch tượng chúa Chaddanta, nên bà nghĩ rằng: “Chỉ có người thợ săn Sonuttara này mới chịu thi hành theo sự chỉ dẫn của ta mà thôi.”

Bà Chánh cung Hoàng hậu Subhaddā tâu lên Đức Vua Bārāṇasī, xin Đức Vua cho phép tên săn Sonuttara lên lâu đài tầng thứ bảy, để cho bà Chánh cung Hoàng hậu chỉ hướng chỗ ở của Đức bạch tượng chúa Chaddanta.

Đức Vua Bārāṇasī chuẩn tấu theo lời của Bà, người thợ săn Sonuttara được phép lên lâu đài tầng thứ bảy, bà Chánh cung Hoàng hậu Subhaddā chỉ tay về hướng bắc, rồi truyền bảo rằng:

- Này người thợ săn Sonuttara! Ngươi nhìn về phía hướng bắc này, ngươi băng qua những khu rừng đến chân núi, ngươi vượt qua 7 dãy núi cao theo tuần tự, đến dãy núi thứ bảy cao nhất gọi là dãy núi Suvaṇṇa-passapabbata có các loài hoa đua nhau trổ quanh năm, có đàn thú kinnara kinnarī đông đảo. Ngươi leo lên đến đỉnh núi, nhìn xuống chân núi bên kia thấy cây da to lớn.

Vào mùa nóng Đức bạch tượng chúa Chaddanta có cặp ngà phát ra hào quang sáu màu đứng hóng mát tại dưới tàng cây da to lớn ấy, xung quanh Đức bạch tượng chúa có đàn voi 8.000 con có phép thần thông bay trên hư không như loài chim, chạy mau như gió, ngày đêm theo hộ trì bảo vệ Đức bạch tượng chúa. Cho nên, kẻ thù nào cũng không thể đến gần Đức bạch tượng chúa được.

Nếu nhìn thấy kẻ thù nào từ xa thì đàn voi chạy đến bắt chà xát thành bột.

Nghe bà Chánh cung Hoàng hậu Subhaddā truyền bảo như vậy, người thợ săn Sonuttara tâu rằng:

- Tâu bà Chánh cung Hoàng hậu Subhaddā, trong cung điện có nhiều thứ ngọc ngà châu báu quý giá, tại sao bà không muốn các thứ ấy, mà bà lại muốn cặp ngà của Đức bạch tượng chúa Chaddanta?

Hay có phải Bà có ý định muốn giết Đức bạch tượng chúa Chaddanta để trả thù hay bà muốn Đức bạch tượng chúa  giết sạch dòng dõi thợ săn của tiện dân?

 

Nghe người thợ săn Sonuttara tâu như vậy, bà Chánh cung Hoàng hậu Subhaddā bày tỏ sự thật mong người thợ săn thông cảm và giúp đỡ rằng:

- Này người thợ săn Sonuttara! Sự thật, tôi không phải nằm mộng thấy Đức bạch tượng chúa Chaddanta, mà tôi nhớ lại tiền kiếp của tôi sinh làm voi là Chánh cung Hoàng hậu đệ nhị Cūḷasubhaddā của Đức bạch tượng chúa Chaddanta. Đức bạch tượng chúa đem lòng sũng ái đối với voi Chánh cung Hoàng hậu đệ nhất Mahāsubhaddā hơn voi Chánh cung Hoàng hậu đệ nhị Cūḷasubhaddā tiền kiếp của tôi.

Vì vậy, voi Chánh cung Hoàng hậu đệ nhị Cūḷa-subhaddā phát sinh tâm ganh tỵ, ghen tức, kết oan trái với Đức bạch tượng chúa Chaddanta, nên quyết tâm trả thù Đức bạch tượng chúa Chaddanta.

- Này người thợ săn Sonuttara! Tiền kiếp của tôi đã từng làm phước thiện cúng dường đến Đức Phật Độc Giác, rồi cầu nguyện rằng: “Do năng lực phước thiện này, cầu xin cho con tuyển chọn được một người thợ săn tài giỏi, đến tận nơi này, y sẽ bắn Đức bạch tượng chúa Chaddanta chết bằng mũi tên tẩm thuốc độc cực mạnh của con, rồi cưa cặp ngà có hào quang sáu màu đem về dâng cho con.

Xin cho lời cầu nguyện của con sẽ được thành tựu như ý.

- Này người thợ săn Sonuttara! Ta đã từng làm phước thiện và cầu nguyện mong được thành tựu như ý.

Vậy, ngươi chớ nên lo sợ, xin ngươi hãy cố gắng giúp ta giết Đức bạch tượng chúa Chaddanta chết, rồi cưa lấy cặp ngà ấy đem về dâng cho ta.

 Thành tựu được như vậy, ta sẽ tâu lên Đức Vua Bārāṇasī ban thưởng cho ngươi 5 xóm nhà để cho ngươi lấy thuế, hưởng sự an lạc suốt đời.

Nghe bà chánh cung hoàng hậu Subhaddā truyền bảo như vậy, người thợ săn Sonuttara đồng ý làm theo lời hướng dẫn nên tâu rằng:

- Tâu bà Chánh cung Hoàng hậu Subhaddā, xin bà  truyền bảo cho kẻ tiện dân biết rõ chỗ ở và sự sinh hoạt hằng ngày của Đức bạch tượng chúa Chaddanta ấy.

Nghe người thợ săn Sonuttara tâu như vậy, bà Chánh cung Hoàng hậu Subhaddā nhớ lại tiền kiếp làm con voi Chánh cung Hoàng hậu đệ nhị Cūḷasubhaddā sống gần gũi thân cận bên Đức bạch tượng chúa Chaddanta, nên truyền bảo với người thợ săn Sonuttara rằng:

- Này người thợ săn Sonuttara! Đức bạch tượng chúa Chaddanta thường ngự xuống hồ lớn Chaddanta tắm, chơi nước xong, được trang hoàng các loại hoa sen hoa súng rồi ngự lên bờ đứng nghỉ nơi ấy, chờ đợi đàn voi 8.000 con tắm xong, Đức bạch tượng chúa Chaddanta  dẫn đầu ngự trở về chỗ ở của mình.

Nghe bà chánh cung hoàng hậu Subhaddā truyền bảo  như vậy, người thợ săn Sonuttara tâu rằng:

- Tâu bà Chánh cung Hoàng hậu Subhaddā, kẻ tiện dân này sẽ cố gắng hết sức mình để giết Đức bạch tượng Chaddanta chết, rồi cưa cặp ngà ấy đem về dâng lên Bà.

Nghe người thợ săn Sonuttara tâu như vậy, bà Chánh cung Hoàng hậu Subhaddā vô cùng hoan hỷ ban cho người thợ săn Sonuttara 1000 đồng kahāpana, rồi truyền bảo rằng:

- Này người thợ săn Sonuttara! Ngươi hãy trở về thăm nhà, và chuẩn bị những thứ cần thiết đem theo, kể từ hôm nay đến ngày thứ bảy, bạn hãy trở lại đây, đến chầu ta, để nhận những thứ dụng cụ lên đường.

 

Chuẩn Bị Trả Thù

 

Bà Chánh cung Hoàng hậu Subhaddā truyền gọi người thợ rèn đến chầu bà, rồi truyền bảo rằng:

- Nầy người thợ rèn! Ta cần những dụng cụ phá rừng làm gỗ như; cưa, búa, đục, dao, rựa, cuốc… đặc biệt một câu móc ba lưỡi leo núi. Nhà ngươi hãy làm cho gấp đem lại cho ta.

 

Bà Chánh cung Hoàng hậu Subhaddā truyền gọi người may da đến chầu bà, rồi truyền bảo rằng:

- Này người thợ may da! Ta cần một bao da để đựng đồ dụng cụ đồ sắt, dây da để leo núi, dây nịt, giày dép đi rừng núi … Nhà ngươi hãy làm gấp đem lại cho ta.

Bà Chánh cung Hoàng hậu Subhaddā truyền bảo người trong nội cung sửa soạn chuẩn bị đầy đủ các món đồ ăn, lương khô, thuốc men, …đồ dùng cho người đi xa. 

Bà Chánh cung Hoàng hậu Subhaddā truyền gọi người thợ làm cây tên đến chầu bà, rồi truyền bảo rằng:   

- Này người thợ làm cây tên! Nhà ngươi hãy làm cho ta một số cây tên, đặc biệt một ít cây tên đầu mũi tên tẩm thuốc độc cực mạnh, rồi đem nạp gấp cho ta.

Mọi việc bà Chánh cung Hoàng hậu Subhaddā đã chuẩn bị xong, đến ngày thứ 7 người thợ săn đến chầu bà chánh cung hoàng hậu Subhaddā, bà truyền bảo rằng:

- Này người thợ săn Sonuttara! Những món đồ ăn,  thuốc men, các dụng cụ phá rừng, câu móc ba lưỡi leo núi, đặc biệt các mũi tên đã tẩm thuốc độc cực mạnh…. tất cả mọi thứ ta đã chuẩn bị sẳn sàng bỏ vào trong bao da. Ngươi hãy mang vào thử xem.

Người thợ săn Sonuttara vốn có sức mạnh hơn người, nên mang bao da nặng như vậy, mà vẫn không cảm thấy nặng nề đối với y.

Bà Chánh cung Hoàng hậu Subhaddā dặn dò nên thận trọng đi đường, và cầu chúc người thợ săn Sonuttara cố gắng hoàn thành nhiệm vụ một cách vẻ vang, rồi Bà ngự đến chầu Đức Vua Bārāṇasī, tâu việc người thợ săn Sonuttara đi thi hành phận sự.

Người thợ săn Sonuttara đến chầu Đức Vua Bārāṇasī và bà Chánh cung Hoàng hậu Subhaddā, rồi xin phép lên đường đi vào rừng núi Himavanta.

Người thợ săn Sonuttara lên xe đi ra khỏi kinh thành Bārāṇasī, có số người tiển chân một đoạn đường, rồi trở về, chiếc xe chở người thợ săn Sonuttara khoảng đường 30 do tuần đến bìa rừng, người thợ săn Sonuttara xuống xe đi bộ một mình băng qua những khu rừng rậm rạp đầy gai góc, nhắm thẳng về hướng bắc đến chân núi, từ dãy núi cao này đến dãy núi cao khác vô cùng hiểm trở, người thợ săn Sonuttara cần phải dùng câu móc ba lưỡi ném qua núi cao, rồi đu người qua theo giây.

Cuộc hành trình của người thợ săn Sonuttara được tiến hành theo lời chỉ dẫn của bà Chánh cung Hoàng hậu Subhaddā đã trải qua bao nhiêu gian lao thử thách đầy nguy hiểm đến sinh mạng. Người thợ săn Sonuttara đã vượt qua được sáu dãy núi cao, đến dãy núi thứ bảy cao nhất gọi là Suvaṇṇapassapabbata, trên đỉnh núi có loài thú Kinnara, kinnarī sống với nhau từng đàn.

Đứng trên đỉnh núi, người thợ săn Sonuttara nhìn xuống chân núi, thấy cây da to lớn, có bóng mát lớn bao phủ, dưới đại cội cây da, một Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta có đôi ngà phát ra hào quang sáu màu, xung quanh Đức bạch tượng chúa có đàn voi đông khoảng 8.000 con theo hầu bảo vệ Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta ấy. Nhìn ra xa một khoảng, người thợ săn Sonuttara thấy một cái hồ nước Chaddanta rộng lớn mênh mông có nhiều loài hoa sen hoa súng.

Người thợ săn Sonuttara đứng trên đỉnh núi cao, quan sát thấy rõ, theo dõi mỗi khi Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta ngự theo con đường xuống hồ nước để tắm, sau khi tắm xong, Đức Bồ Tát bạch tượng ngự theo con đường lên bờ, đứng tại một nơi chờ đợi đàn con voi tắm xong, rồi Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta dẫn đầu cùng nhau ngự trở về chỗ ở của mình.

Người thợ săn Sonuttara đã theo dõi nhiều ngày qua đều thấy Đức Bồ Tát bạch tượng chúa Chaddanta sinh hoạt như vậy trở thành thói quen hằng ngày.



[1] Bộ Jātakaṭṭhakathā,  phần Tiṃs




[ Ðầu trang][Trở về mục lục ][ Trở về trang Thư Viện ]

updated: 2024