• Nền Tảng Phật Giáo - Quyển VI

    PHÁP HẠNH BA-LA-MẬT

    (Tập 2)

  • Soạn giả: Hộ Pháp

Bậc Đại Trí Tuệ Với Người Có Của Cải 

 

Một buổi hội triều, Đức Vua Vedeha chủ trì gồm các quan đầy đủ trong triều đình, có 4 vị quân sư và Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita. Khi ấy, Đức Vua truyền bảo rằng:

- Này các khanh! Các khanh đều là bậc thiện trí có trí tuệ, Trẫm đặt một câu hỏi so sánh có 2 vế, các khanh hãy giải đáp.

Vị quân sư Senaka tâu rằng:

- Tâu Bệ hạ, kính xin Bệ hạ đặt câu hỏi ấy.

Đức Vua Vedeha truyền hỏi rằng:

- Thưa quân sư, trong đời này, có 2 hạng người: Một hạng là bậc đại thiện trí có trí tuệ mà không có chức trọng quyền cao, không có nhiều của cải; một hạng là người thiểu trí không có trí tuệ mà có chức trọng quyền cao, có nhiều của cải. Vậy, bậc thiện trí tán dương, ca tụng hạng người nào gọi là người cao thượng trong đời?

Câu hỏi này là câu hỏi tủ của dòng họ quân sư Senaka, nên quân sư Senaka nhanh nhạy tâu rằng:

- Tâu Bệ hạ, trong đời này, người có trí tuệ, người không có trí tuệ; người có tài nghệ, người không tài nghệ; dù người thuộc dòng họ cao, thấp cũng đều là người phục vụ cho người có chức trọng quyền cao, có nhiều của cải.

Nhận thức trong đời này như vậy, nên hạ thần xin tâu rằng:

“Bậc đại thiện trí có trí tuệ mà không có của cải là người thấp hèn, còn người có chức trọng quyền cao, có nhiều của cải, dù là người thiểu trí, không có trí tuệ vẫn là người cao thượng trong đời”.

Nghe vị quân sư Senaka tâu như vậy, Đức Vua Vedeha không truyền hỏi 3 vị quân sư khác mà truyền hỏi Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita rằng:

- Này Mahosadha paṇḍita! Bậc có trí tuệ siêu việt thấy rõ các pháp, Trẫm hỏi khanh rằng: “Người thiểu trí, không có trí tuệ, mà có chức trọng quyền cao, có nhiều của cải với bậc đại thiện trí có trí tuệ, mà không có chức trọng quyền cao, không có của cải. Trong 2 hạng người này, bậc thiện trí tán dương, ca tụng hạng người nào gọi là người cao thượng trong đời?”

Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita tâu rằng:

- Muôn tâu Đại Vương, người thiểu trí, không có trí tuệ, mà có chức trọng quyền cao, có nhiều của cải, tự cho mình là người có chức quyền, tạo ác nghiệp. Người thiểu trí ấy chỉ biết kiếp hiện tại mà không biết những kiếp vị lai, nên sau khi người thiểu trí ấy chết, ác nghiệp cho quả tái sinh trong cõi địa ngục, chịu quả khổ của ác nghiệp ấy. Như vậy, người thiểu trí ấy chịu quả khổ của ác nghiệp trong kiếp hiện tại và những kiếp vị lai.

Bậc đại thiện trí có trí tuệ hiểu biết chỉ tạo thiện nghiệp, nên kiếp hiện tại, bậc đại thiện trí sống được an lạc. Sau khi Bậc đại thiện trí chết, thiện nghiệp cho quả tái sinh kiếp sau trong cõi thiện giới, hưởng quả an lạc của thiện nghiệp ấy nữa.

Biết rõ sự thật như vậy, nên hạ thần xin tâu rằng:

 “Người thiểu trí không có trí tuệ, dù có chức trọng quyền cao, có nhiều của cải, cũng chẳng bao giờ cao thượng được. Còn Bậc đại thiện trí có trí tuệ, dù không có chức trọng quyền cao, không có nhiều của cải, thật sự vẫn là người cao thượng trong đời”.

Nghe Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita tâu như vậy, Đức Vua Vedeha nhìn qua vị quân sư Senaka, truyền bảo rằng:

- Thưa quân sư, Mahosadha paṇḍita tán dương ca tụng bậc đại thiện trí có trí tuệ, dù không có chức trọng quyền cao, không có nhiều của cải, thật sự vẫn là người cao thượng. Vậy, quân sư đối đáp thế nào?

Vị quân sư Senaka tâu rằng:

- Muôn tâu Bệ hạ, Mahosadha paṇḍita còn trẻ con quá, miệng còn hôi sữa, có biết gì đâu!

- Muôn tâu Bệ hạ, ông đại phú hộ Goravinda có nhiều của cải lớn, có thân hình xấu xí, không có tài nghệ, không có con cái. Khi ông nói, nước miếng chảy ra 2 bên mép, có 2 cô gái xinh đẹp như thiên nữ chờ lau nước miếng cho ông, có nhiều người đến phục vụ ông đại phú hộ ấy. Ông đại phú hộ hưởng được mọi sự an lạc trong đời. Biết trong đời này như vậy, nên hạ thần xin tâu rằng:

“Bậc đại thiện trí có trí tuệ mà không có của cải là người thấp hèn, còn người có chức trọng quyền cao, có nhiều của cải, dù là người thiểu trí, không có trí tuệ vẫn là người cao thượng trong đời”.

Nghe vị quân sư Senaka dẫn chứng ông đại phú hộ Goravinda như vậy, Đức Vua Vedeha truyền hỏi Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita rằng:

- Này Mahosadha paṇḍita, con đối đáp thế nào?

Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita tâu rằng:

- Muôn tâu Đại Vương, quân sư Senaka chẳng biết gì khác, chỉ thấy của cải và nhóm người phục vụ mà thôi, không thấy cái búa lớn sẽ rơi xuống đầu của mình, ví như con quạ thấy chỗ đống cơm đổ.

- Muôn tâu Đại Vương, người thiểu trí hưởng sự an lạc rồi say mê, phát sinh tâm dể duôi, dám tạo ác nghiệp. Nếu khi gặp quả khổ thân, khổ tâm thì phát sinh tâm sầu não, như con cá bị bắt lên khỏi nước, ném vào chỗ nóng thì vùng vẫy.

Biết rõ sự thật như vậy, nên hạ thần xin tâu rằng:

“Người thiểu trí không có trí tuệ, dù có chức trọng quyền cao, có nhiều của cải, cũng chẳng bao giờ cao thượng được. Còn bậc đại thiện trí có trí tuệ, dù không có chức trọng quyền cao, không có nhiều của cải, thật sự vẫn là người cao thượng trong đời”.

Nghe Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita tâu như vậy Đức Vua Vedeha truyền hỏi quân sư Senaka rằng:

- Thưa quân sư, quân sư đối đáp thế nào?

Vị quân sư Senaka tâu rằng:

 - Muôn tâu Bệ hạ, Mahosatha paṇḍita có biết gì đâu! Không nói đến loài người, các bầy chim từ mọi nơi đều bay đến sống nhờ cây có nhiều quả ở trong rừng như thế nào, phần đông nhiều người đến gần gũi thân cận với người có nhiều của cải, bởi vì họ nương nhờ người ấy để mong được của cải cũng như thế ấy.

Biết trong đời này như vậy, nên hạ thần xin tâu rằng:

“Bậc đại thiện trí có trí tuệ mà không có của cải là người thấp hèn, còn người có chức trọng quyền cao, có nhiều của cải, dù là người thiểu trí, không có trí tuệ vẫn là người cao thượng trong đời”.

Nghe quân sư Senaka tâu như vậy, Đức Vua Vedeha truyền hỏi Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita rằng:

- Này Mahosadha paṇḍita, con đối đáp thế nào?

Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita tâu rằng:

- Muôn tâu Đại Vương, người thiểu trí dùng sức mạnh tạo ác nghiệp làm khổ chúng sinh, để được của cải. Sau khi người thiểu trí ấy chết, ác nghiệp cho quả tái sinh trong cõi địa ngục, phải chịu quả khổ ác nghiệp của mình đã tạo trong tiền kiếp.

Biết rõ sự thật như vậy, nên hạ thần xin tâu rằng:

 “Người thiểu trí không có trí tuệ, dù có chức trọng quyền cao, có nhiều của cải, cũng chẳng bao giờ cao thượng được. Còn Bậc đại thiện trí có trí tuệ, dù không có chức trọng quyền cao, không có nhiều của cải, thật sự vẫn là người cao thượng trong đời”.

Nghe Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita tâu như vậy, Đức Vua Vedeha truyền hỏi quân sư Senaka rằng:

- Thưa quân sư, quân sư đối đáp thế nào?

Vị quân sư Senaka tâu rằng:

- Tâu Bệ hạ, nước các con sông nhỏ, lớn nào chảy ra đến con sông Gaṅgā đều bỏ tên riêng và nơi chốn của mình, trở thành nước sông Gaṅgā. Nước sông Gaṅgā chảy ra biển đại dương, trở thành nước biển đại dương như thế nào, những bậc đại thiện trí có trí tuệ nhiều khi đến phục vụ cho người có chức trọng quyền cao, thì tên tuổi của những bậc đại trí không còn nữa cũng như thế ấy.

Biết trong đời này như vậy, nên hạ thần xin tâu rằng:

“Bậc đại thiện trí có trí tuệ mà không có của cải là người thấp hèn, còn người có chức trọng quyền cao, có nhiều của cải, dù là người thiểu trí, không có trí tuệ vẫn là người cao thượng trong đời”.

 Nghe quân sư Senaka tâu như vậy, Đức Vua Vedeha truyền hỏi Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita rằng:

- Này Mahosadha paṇḍita, con đối đáp thế nào?

Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita tâu rằng:

- Tâu Đại Vương, nước các con sông lớn nhỏ chảy ra đến biển đại dương, dù biển đại dương có sức mạnh phi thường, có sóng to gió lớn vỗ vào bờ không thể nào tràn qua khỏi bờ được. Lời lẽ của người thiểu trí không thể vượt qua bậc đại thiện trí có nhiều trí tuệ được. Muốn biết điều lợi, điều bất lợi, điều thiện, điều bất thiện; muốn diệt sự hoài nghi, người thiểu trí dù có chức trọng quyền cao, có nhiều của cải cũng phải tìm đến học hỏi với bậc đại trí.

Biết rõ sự thật như vậy, nên hạ thần xin tâu rằng:

“Người thiểu trí không có trí tuệ, dù có chức trọng quyền cao, có nhiều của cải, cũng chẳng bao giờ cao thượng được. Còn bậc đại thiện trí có trí tuệ, dù không có chức trọng quyền cao, không có nhiều của cải, thật sự vẫn là người cao thượng trong đời”.

Vị quân sư Senaka tâu rằng:

- Tâu Bệ hạ, vị quan toà có chức trọng quyền cao, tuy là người không có giới chủ trì phiên toà xét xử bị cáo một cách thiên vị, không công minh, nhưng lời phán xử sai trái của vị quan toà ấy vẫn có hiệu lực, bắt buộc bị cáo phải tuân theo, còn Bậc đại thiện trí có trí tuệ nói lời hợp pháp đúng đắn mà không có quyền lực, thì không có ai tuân theo. Biết trong đời này như vậy, nên hạ thần xin tâu rằng:

“Bậc đại thiện trí có trí tuệ mà chức trọng quyền cao, không có của cải là người thấp hèn, còn người có chức trọng quyền cao, có nhiều của cải, dù là người thiểu trí không có trí tuệ vẫn là người cao thượng trong đời”.

Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita tâu rằng:

- Tâu Đại Vương, quân sư Senaka là người si mê, chỉ thấy trong kiếp hiện tại mà không biết những kiếp vị lai trong các cõi khác.

- Tâu Đại Vương, người thiểu trí có chức trọng quyền

cao là người không có giới, có tâm thiên vị, không công minh, nói lời sai trái, nói dối. Người thiểu trí ấy trong kiếp hiện tại, bị mọi người chê trách. Sau khi người thiểu trí ấy chết, ác nghiệp nói dối cho quả tái sinh kiếp sau trong 4 cõi ác giới: địa ngục, Atula, ngạ quỷ, súc sinh còn chịu quả khổ của ác nghiệp ấy nữa. Biết rõ sự thật như vậy, nên hạ thần xin tâu rằng:

“Người thiểu trí không có trí tuệ, dù có chức trọng quyền cao, có nhiều của cải, cũng chẳng bao giờ cao thượng được. Còn bậc đại thiện trí có trí tuệ, dù không có chức trọng quyền cao, không có nhiều của cải, thật sự vẫn là người cao thượng trong đời”.

Quân sư Senaka tâu rằng:

- Tâu Bệ hạ, dù bậc đại thiện trí có trí tuệ rộng lớn như mặt đất mà không có nhiều của cải, là người nghèo khổ, thì lời nói hay của bậc đại thiện trí ấy cũng không có giá trị giữa bà con thân quyến của họ và mọi người. Cho nên, bậc đại thiện trí ấy không được tôn trọng. Biết trong đời này như vậy, nên hạ thần xin tâu rằng:

 “Bậc đại thiện trí có trí tuệ mà không có chức trọng quyền cao, không có của cải là người thấp hèn, còn người có chức trọng quyền cao, có nhiều của cải, dù là người thiểu trí, không có trí tuệ vẫn là người cao thượng trong đời”.

Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita tâu rằng:

- Tâu Đại Vương, quân sư Senaka chỉ thấy kiếp hiện tại mà không thấy những kiếp vị lai.

- Tâu Đại Vương, bậc đại thiện trí có trí tuệ rộng lớn như mặt đất, không bao giờ nói dối, để có lợi cho mình hoặc cho người thân của mình. Bậc đại thiện trí có trí tuệ ấy nói lời chân thật, nên được nhiều người tôn kính, lễ bái cúng dường giữa nơi hội chúng đông đảo. Sau khi bậc đại trí chết, thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh kiếp sau trong các cõi thiện giới, cõi người, cõi trời dục giới hưởng được mọi sự an lạc. Biết rõ sự thật như vậy, nên hạ thần xin tâu rằng:

“Người thiểu trí không có trí tuệ, dù có chức trọng quyền cao, có nhiều của cải, cũng chẳng bao giờ cao thượng được. Còn bậc đại thiện trí có trí tuệ, dù không có chức trọng quyền cao, không có nhiều của cải, thật sự vẫn là người cao thượng trong đời”.

Quân sư Senaka tâu rằng:

- Tâu Bệ hạ, voi báu, ngựa báu, bò báu, ngọc Maṇi, ngọc Kuṇḍala, Phụ Nữ báu đều phát sinh trong gia đình giàu sang phú quý, cho người có đại phước, có chức trọng quyền cao sử dụng, và các người khác cũng đến phục vụ cho người có chức trọng quyền cao ấy. Biết trong đời này như vậy, nên hạ thần xin tâu rằng:

“Bậc đại thiện trí có trí tuệ mà không chức trọng quyền cao, không có của cải là người thấp hèn, còn người có chức trọng quyền cao, có nhiều của cải, dù là người thiểu trí, không có trí tuệ vẫn là người cao thượng trong đời”.

Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita tâu rằng:

- Tâu Đại Vương, người thiểu trí có chức trọng quyền cao, mà không biết làm tròn phận sự của mình, thì bị mất chức, có nhiều của cải mà không biết khuếch trương công việc thì của cải bị tiêu hao dần đối với người thiểu trí ấy. Biết rõ sự thật như vậy, nên hạ thần xin tâu rằng:

“Người thiểu trí không có trí tuệ, dù có chức trọng quyền cao, có nhiều của cải, cũng chẳng bao giờ cao thượng được. Còn bậc đại thiện trí có trí tuệ, dù không có chức trọng quyền cao, không có nhiều của cải, thật sự vẫn là người cao thượng trong đời”.

Nghe Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita tâu như vậy, Đức Vua Vedeha truyền hỏi vị quân sư Senaka rằng:

- Thưa quân sư, quân sư đối đáp thế nào?

Vị quân sư Senaka tâu rằng:

- Tâu Bệ hạ, Mahosatha paṇḍita còn thơ dại quá, chưa biết gì nhiều.

Khi ấy, vị quân sư Senaka nghĩ: Ta sẽ đưa ra chiêu thức quyết định này chắc chắn Mahosatha paṇḍita sẽ vô phương đối đáp, cùng đường, bí lối”. Nghĩ xong ông bèn tâu rằng:

- Muôn tâu Bệ hạ, cầu mong Bệ hạ sống lâu, chúng thần có 5 người là bậc có trí tuệ, đem hết lòng phụng sự Bệ hạ, bởi vì Bệ hạ là Chúa Thượng ngự trị trên chúng thần và toàn thể thần dân thiên hạ, như Đức Vua trời Sakka ngự trị trên toàn thể chư thiên trong cõi trời Tam thập tam thiên. Biết trong đời này như vậy, nên hạ thần xin tâu rằng:

 “Bậc đại thiện trí có trí tuệ mà không có của cải là người thấp hèn, còn người có chức trọng quyền cao, có nhiều của cải, dù là người thiểu trí, không có trí tuệ vẫn là người cao thượng trong đời”.

Nghe quân sư Senaka tâu như vậy, Đức Vua Vedeha nghĩ: “Quân sư Senaka đưa ra chiêu thức này rất hay, không biết Hoàng tử Mahosadha paṇḍita của ta có pháp môn kỳ diệu nào để đối đáp, đè bẹp được chiêu thức này của quân sư Senaka không?”

Đức Vua Vedeha truyền hỏi rằng:

- Này Mahosadha paṇḍita, con đối đáp thế nào?

Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita tâu rằng:

- Tâu Đại Vương, quân sư Senaka là người si mê, chỉ thấy chức trọng quyền cao, có nhiều của cải mà thôi, không biết được tính chất kỳ diệu của trí tuệ siêu việt.

- Tâu Đại Vương, khi gặp sự việc khó khăn xảy ra, người thiểu trí dù có chức trọng quyền cao, có nhiều của cải cũng phải đến nương nhờ, cầu cứu bậc đại thiện trí có nhiều trí tuệ, để giúp đở họ thoát khỏi sự khó khăn ấy.

- Tâu Đại Vương, khi gặp điều khó khăn, bậc đại trí có nhiều trí tuệ sáng suốt giải quyết mọi sự khó khăn một cách phi thường, còn người thiểu trí dù có chức trọng quyền cao, có nhiều của cải, vì có tâm si mê tối tăm nên không tìm ra lối thoát khỏi sự khó khăn ấy. Biết rõ sự thật như vậy, nên hạ thần xin tâu rằng:

“Người thiểu trí không có trí tuệ, dù có chức trọng quyền cao, có nhiều của cải, cũng chẳng bao giờ cao thượng được. Còn bậc đại thiện trí có trí tuệ, dù không có chức trọng quyền cao, không có nhiều của cải, thật sự vẫn là người cao thượng trong đời”.

 

Nghe lời lẽ đanh thép, sắc bén với trí tuệ siêu việt của Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita như vậy, Đức Vua Vedeha truyền hỏi quân sư Senaka rằng:

- Thưa quân sư, quân sư đối đáp thế nào?

Vị quân sư Senaka chỉ có vốn kiến thức hiểu biết chừng ấy mà thôi, nên không còn biết gì để đối đáp nữa, cúi mặt, hổ thẹn, làm thinh.

Khi ấy, Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita tâu rằng:

- Muôn tâu Đại Vương, trí tuệ là thiện pháp mà chư bậc đại thiện trí tán dương, ca tụng. Chư bậc đại thiện trí đều tán dương, ca tụng rằng: “Trí tuệ là thiện pháp cao thượng thật sự, người có trí tuệ là bậc đại thiện trí cao thượng trong đời”. Chức trọng quyền cao, của cải là đối tượng mà những người thiểu trí tham muốn.

Những người thiểu trí cầu mong chức trọng quyền cao, mong muốn có nhiều của cải. Khi tham muốn được thành tựu như ý, rồi say mê, chấp thủ trong chức trọng quyền cao, trong của cải ấy, làm cho tâm càng si mê tăm tối, không thể hiểu biết rõ được sự thật chân lý các pháp của chư bậc đại thiện trí trong đời.

Trí tuệ sáng suốt thấy rõ, biết rõ sự thật chân lý các pháp của chư bậc đại thiện trí, nên chắc chắn không có báu vật quý giá nào trong đời có thể sánh với trí tuệ được. Cho nên, người thiểu trí không có trí tuệ dù có chức trọng quyền cao, có nhiều của cải bao nhiêu đi nữa cũng không bao giờ cao thượng được. Chỉ có bậc đại thiện trí có trí tuệ mới thật sự cao thượng mà thôi.

Biết rõ sự thật như vậy, nên hạ thần xin tâu rằng:

“Người thiểu trí không có trí tuệ dù có chức trọng quyền cao, có nhiều của cải cũng chẳng bao giờ cao thượng được. Còn bậc đại thiện trí có trí tuệ dù không có chức trọng quyền cao, không có của cải, mới thật sự vẫn là người cao thượng trong đời”.

Nghe lời lẽ khẳng định đanh thép, sắc bén với trí tuệ siêu việt của Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita, Đức Vua Vedeha vô cùng hoan hỷ truyền bảo rằng:

- Này hoàng nhi Mahosadha paṇḍita yêu quý! Con là bậc đại thiện trí có trí tuệ siêu việt, thấy rõ các pháp, con đã đối đáp được những câu hỏi làm cho Phụ Vương vô cùng hoan hỷ. Phụ Vương ban thưởng cho con 100 con bò quý, một con voi báu cùng với đồ trang sức của nó, 10 chiếc xe ngựa báu ājañña, 16 xóm nhà để thâu thuế.

Cung kính nhận những ân huệ ban thưởng của Đức Vua Vedeha, Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita lạy tạ Đức Phụ Vương ra về. Từ đó về sau, Ngài hết lòng lo phụng sự Đức Phụ Vương, làm cho triều đình phát triển, giúp xây dựng đất nước Videha được phồn vinh.


Đức Bồ Tát Mahosadha Paṇḍita Chọn Bạn Đời

 

Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita trưởng thành có chức trọng quyền cao trong triều đình của Đức Vua Vedeha. Chánh cung Hoàng hậu Udumbaradevī theo dõi những việc làm phi thường của Ngài, nên phát sinh đức tin trong sạch và khâm phục trí tuệ siêu việt của Ngài. Bà nghĩ: Mahosadha paṇḍita, người em trai của ta đã trưởng thành, lên 16 tuổi, có chức trọng quyền cao trong triều đình. Vậy, ta nên chọn người con gái xứng đáng để làm lễ thành hôn cho em của ta”

Nghĩ xong, Bà đến chầu Đức Vua Vedeha, tâu điều suy nghĩ ấy lên Đức Vua. Đức Vua chuẩn y lời tâu của Bà. Bà liền truyền cho gọi Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita đến, truyền bảo rằng:

- Này Mahosadha paṇḍita em yêu quý! Chị đã tâu lên Hoàng Thượng, đã được Hoàng Thượng chuẩn y cho phép chị chọn một người con gái xứng đáng để làm lễ thành hôn với em. Vậy, em có đồng ý không?

Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita đồng ý nhận lời Chánh cung Hoàng hậu Udumbaradevī. Nhưng Ngài nghĩ: Người con gái mà Chánh cung Hoàng hậu tìm cho ta, biết đâu không thích hợp với ta. Vậy, tốt hơn, ta nên đi tìm người con gái mà ta hài lòng yêu thích”.

Nghĩ xong Ngài tâu với Chánh cung Hoàng hậu rằng:

- Tâu Chánh cung Hoàng hậu, chị kính yêu! Xin chị cho phép em đi tìm người con gái mà em hài lòng yêu thích. Kính xin chị chờ đợi em đôi ba ngày nữa.

Chánh cung Hoàng hậu Udumbaradevī đồng ý cho phép. Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita đảnh lễ Bà, rồi xin phép trở về tư dinh của mình. Báo tin cho các bạn hữu biết sẽ vắng mặt trong một vài hôm xong,

Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita cải trang thành người thợ may vá, một mình ra khỏi cửa thành hướng bắc, đi đến xóm nhà cánh đồng lúa mạch phía bắc (uttarayava-majjhakagāma).

Trong xóm nhà ấy có một gia đình ngày xưa là phú hộ, có một cô con gái tên Amarā rất xinh đẹp, thuỳ mị. đoan trang, đầy đủ đức tính tốt. Cô là người có trí tuệ, có phước lớn.

Sáng hôm ấy, cô Amarā đem cháo cho cha đang cày ruộng ngoài đồng, cô từ nhà đi ra theo con đường xóm nhà ra đồng ruộng.

Khi ấy, Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita đang đi trên con đường vào xóm nhà, gặp cô đang đi đến. Ngài thoáng nhìn thấy cô đi liền nghĩ: Cô gái này có đầy đủ mọi tướng tốt, nếu cô chưa có chồng thì thật là diễm phúc đối với ta biết dường nào! Ta sẽ chọn cô gái này làm vợ”.

Còn cô Amarā, khi vừa nhìn thấy Đức Bồ Tát Mahosadha iền nghĩ: Nếu ta được chàng trai trẻ này làm chồng thì thật là diễm phúc đối với ta biết dường nào!”

Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita nghĩ tiếp: Để biết cô gái này đã có chồng hay chưa, ta nên hỏi bằng cách ra dấu tay, nếu cô là người có trí tuệ thông minh thì sẽ hiểu được ý nghĩa câu hỏi của ta”. Nghĩ xong, đứng lại cách một khoảng, Ngài nắm bàn tay phải đưa lên.

Nhìn thấy như vậy, Cô Amarā hiểu ý nghĩa rằng: Chàng trai trẻ này muốn hỏi ta có chồng hay chưa”.

Cô đứng lại, ngửa bàn tay ra.

Đã hiểu rõ ý nghĩa của nhau, nên Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita đến gần cô bèn hỏi rằng:

Maho:- Này tiểu thư! tên tiểu thư gọi là gì?

Ama:- Thưa công tử, pháp nào không có quá khứ, vị lai,  hiện tại, pháp ấy là tên của tiện nữ.

Maho:- Này tiểu thư! Chỉ có pháp bất tử mới không có  quá khứ, vị lai, hiện tại mà thôi. Vậy, tên tiểu thư gọi là Amarā đúng không?

Ama:- Thưa công tử, đúng như vậy, tên của tiện nữ gọi là Amarā.

Maho:- Này tiểu thư Amarā! Tiểu thư đem cháo cho ai vậy?

Ama:- Thưa công tử, tiện nữ đem cháo cho vị chư thiên đầu tiên (pubbadevatā) của tiện nữ.

Maho:- Này tiểu thư! Cha mẹ gọi là vị chư thiên đầu tiên. Vậy, tiểu thư đem cháo cho phụ thân của tiểu thư.

Ama:- Thưa công tử, đúng như vậy, tiện nữ đem cháo cho phụ thân.

Maho:- Này tiểu thư! Phụ thân của tiểu thư làm gì?

Ama:- Thưa công tử, phụ thân của tiện nữ làm 1 đường ra thành 2.

Maho:- Này tiểu thư! Công việc cày đất là làm 1 đường ra thành 2. Vậy, phụ thân của tiểu thư cày ruộng, đúng không?

Ama:- Thưa công tử, đúng như vậy, phụ thân của tiện nữ cày ruộng.

Maho:- Này tiểu thư! Phụ thân của tiểu thư cày ruộng chỗ nào?

Ama:- Thưa công tử, phụ thân của tiện nữ cày ruộng gần chỗ mà người ta đưa đến đó 1 lần không bao giờ trở về nữa.

Maho:- Này tiểu thư! Nghĩa địa là chỗ mà người ta đưa người chết đến đó 1 lần không bao giờ trở về nữa. Vậy, phụ thân của tiểu thư cày ruộng gần nghĩa địa, đúng không?

Ama: - Thưa công tử, đúng như vậy, phụ thân của tiện nữ cày ruộng gần nghĩa địa.

Maho:- Này tiểu thư! lúc nào tiểu thư trở về nhà?

Ama:- Thưa công tử, nếu nó lên thì tiện nữ chưa trở về nhà, nếu nó chưa lên thì tiện nữ trở về nhà.

Maho:- Này tiểu thư! Phụ thân của tiểu thư cày ruộng bên kia sông, nếu khi nước lên thì tiểu thư chưa trở về nhà, nếu nước sông chưa lên thì tiểu thư trở về nhà, có đúng không?

Ama: - Thưa công tử, đúng như vậy.

Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita với cô Amarā đàm thoại với nhau rất tâm đầu ý hợp, rồi cô mời Ngài dùng cháo. Ngài nghĩ: Nếu ta từ khước thì đó là điều không tốt”. Nghĩ vậy xong Ngài nhận lời mời của cô.

Cô Amarā đặt nồi cháo xuống đất, Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita nghĩ: “Nếu cô ta không rửa bát, không dâng nước cho ta rửa tay trước khi dùng cháo thì ta sẽ từ bỏ cô Amarā tại nơi đây”. Amarā là cô gái hiền thục, thông minh, đảm đang, khéo léo, cô rửa bát xong, lấy nước rửa tay dâng lên Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita. Cô chia phần cháo dành cho phụ thân, phần còn lại, cô múc ra bát, dâng đến Ngài. Ăn cháo, xúc miệng, uống nước xong, Ngài nói với cô rằng:

- Này tiểu thư! Tôi muốn đến nhà tiểu thư. Vậy, xin cô chỉ đường cho tôi.

Cô Amarā thưa rằng:

- Lành thay! Thưa công tử.

Rồi cô đọc bài kệ với ý nghĩa rằng:

- Thưa công tử, công tử theo con đường này vào trong xóm nhà, nhìn thấy tiệm bán gạo, qua tiệm bán gạo đến tiệm bán nước quýt (nước chua), trước tiệm nước có cây kovilāra trổ đầy hoa, đi qua cây kovilāra rồi rẽ qua con đường bên phải, bỏ con đường bên trái. Đó là con đường đi đến nhà của tiện nữ, có mẫu thân tiện nữ ở nhà trong xóm nhà vùng lúa mạch phía bắc.

Sau khi chỉ đường xong, hôm ấy cô Amarā cảm thấy vô cùng hoan hỷ, rồi đem cháo đến cho thân phụ đang cày ruộng bên kia sông gần nghĩa địa.

Nghe cô Amarā chỉ dẫn đường đến nhà cô, Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita có trí tuệ siêu việt, thông minh, đi đúng đường đến nhà của cô. Mẹ cô Amarā đón tiếp Ngài rất thân thiện, mời ngồi một nơi hợp lẽ rồi nói rằng:

- Này con! mời con dùng cháo.

Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita thưa rằng:

- Thưa mẹ, tiểu thư Amarā đã đem cháo đãi con rồi.

Mẹ của cô Amarā biết rằng: Cậu con trai này muốn con gái Amarā của ta rồi”. Nhận xét thấy gia đình này hiện nay không khá giả, Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita thưa rằng:

- Thưa mẹ, con là thợ may vá, nếu mẹ có vải thì đưa con may đồ mới, nếu có đồ y phục cũ rách thì đưa con vá lại.

- Này con! Trong nhà có vải mới, có y phục cũ rách, nhưng không có tiền trả tiền công.

- Thưa mẹ, con may vá không lấy tiền công đâu! Xin mẹ đem vải mới và các y phục cũ rách đưa con may, vá lại cho mẹ.

Bà mẹ cô Amarā đem vải mới, các y phục cũ rách đưa cho Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita may, vá lại. Với thời gian không lâu, Ngài đã làm xong tất cả do oai lực của mình. Ngài thưa với bà rằng:

- Thưa mẹ, con đã may, vá tất cả xong rồi. Xin mẹ thông báo đến những gia đình trong xóm, ai có vải mới hoặc y phục cũ rách đem đến đưa con may, vá lại.

Bà mẹ cô Amarā đi thông báo những gia đình trong xóm, họ đem những tấm vải mới, những bộ y phục cũ rách đưa Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita may, vá lại cho họ, với thời gian không lâu, Ngài đã làm xong tất cả do oai lực của mình.

Chiều hôm ấy, cô Amarā đội một bó củi và rau trở về nhà trước, còn phụ thân của cô trở về nhà sau. Mẫu thân của cô đã nấu cơm, đồ ăn đã sẵn sàng. Cô Amarā dọn bữa ăn chiều, mời cha mẹ và Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita dùng cơm xong, rồi cô mới dùng sau.

Tối hôm ấy, cô Amarā đem nước lau chân cha mẹ cô xong, rồi đem nước đến lau chân của Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita. Ngài xin phép ở lại nhà cô Amarā 2-3 hôm, với mục đích để theo dõi, xem xét tính tình, tư cách của cô Amarā.

Một hôm, để thử tài trí và đức tính của cô, Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita bảo cô rằng:

- Này tiểu thư! Cô lấy nửa lít gạo, đem nấu cháo, nấu cơm và làm bánh cho tôi với nửa lít gạo ấy.

Vâng lời Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita, cô Amarā lấy phần gạo nguyên hột đem nấu cháo, lấy phần hột gạo gãy đem nấu cơm và phần gạo tấm đem làm bánh.

Trước hết, cô Amarā đem cháo vào dâng đến Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita. Ngài bỏ miếng cháo vào miệng, vị ngon của nó thấm vào các thần kinh xúc giác, có cảm giác ngon tuyệt vời. Nhưng Ngài thử quở trách cô rằng:

- Tiểu thư không biết nấu cháo, làm hư phần gạo.

Rồi Đức Bồ Tát nhổ cháo cùng nước miếng xuống nền nhà. Cô Amarā vẫn tự nhiên, không phát sinh tâm sân, cũng không có buồn gì cả, rồi thưa rằng:

- Thưa công tử, nếu cháo không ngon miệng thì xin công tử dùng bánh vậy.

Cô đem bánh vào dâng Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita. Nhận bánh xong, mặc dù Ngài dùng nó thật ngon miệng, nhưng Ngài thử quở trách như lần trước. Cô Amarā vẫn tự nhiên thưa rằng:

- Thưa công tử, nếu bánh không ngon miệng thì xin công tử dùng cơm.

Cô đem cơm vào dâng Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita. Nhận cơm xong, mặc dù Ngài dùng cơm rất ngon miệng, nhưng Ngài vẫn thử quở trách như 2 lần trước.

Lần này, Đức Bồ Tát còn làm bộ nổi giận, lấy cháo, bánh và cơm trộn lẫn vào nhau đổ từ trên đầu xuống mình cô Amarā, rồi đuổi cô đi ra ngoài. Cô chắp 2 tay, thưa rằng:

- Tiện nữ kính xin công tử tha lỗi, tiện nữ xin vâng lời công tử.

Cô Amarā chắp 2 tay, xin phép đi ra ngoài, nhưng không dám đi ra xa mà đứng khuất ngoài cửa. Dù bị quở trách, bị đuổi ra ngoài, cô vẫn giữ thái độ tự nhiên, không hề phát sinh tâm sân, không tỏ ra giận hờn Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita.

Cô Amarā có đức tính nhẫn nại cao thượng như vậy khiến Đức Bồ Tát gọi cô vào.

Chỉ mới nghe một tiếng đầu, cô chắp tay đi vào ngay, ngồi gần dưới đôi chân của Ngài.

Khi ấy, Ngài lấy từ trong ruột tượng một bộ đồ sang trọng và tấm vải quý giá trao cho cô Amarā rồi bảo rằng:

- Này tiểu thư! Cô nên đi tắm, rồi mặc bộ đồ này và choàng tấm vải này lên.

Vâng lời Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita, cô Amarā đi tắm, rồi mặc bộ đồ, choàng tấm vải đi đến hầu Ngài.

Đức Bồ Tát dẫn cô đến hầu cha mẹ của cô, dâng lên cha mẹ cô 2 tấm vải quý giá, các châu báu và một số tiền Kahāpana lớn gọi là làm sính lễ rước cô Amarā.

Cha mẹ cô vô cùng hoan hỷ nhận sính lễ của Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita, chấp thuận cho phép con gái của họ là Amarā làm vợ Ngài.

 
 

Đức Bồ Tát Rước Cô Amarā Về Kinh Thành

 

Sau đó, Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita đảnh lễ cha mẹ cô Amarā, xin phép rước cô trở về kinh thành Mithilā. Trên đường trở về kinh thành, Đức Bồ Tát trao cho cô một cây dù và một đôi dép, bảo rằng:

- Này em Amarā yêu quý! Em hãy dùng cây dù này để che nắng và đôi dép mang đi đường.

Cô Amarā nhận 2 món đồ của Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita trao cho. Cô che dù khi đi vào dưới cây cao bóng mát, khi đi ra ngoài khoảng không gian trống trải, cô xếp dù lại. Và cô mang đôi dép khi lội xuống nước, khi lên bờ, cô cởi đôi dép cầm trên tay. Nhìn thấy cô hành động như vậy, Ngài bèn hỏi rằng:

- Này Amarā, em yêu quý! Tại sao đi ngoài trời nắng khoảng không gian trống trải, em không che dù, nhưng khi đi vào khu rừng có cây cao bóng mát, em lại che dù, như vậy nghĩa là gì?

Cô Amarā thưa rằng:

- Thưa đức phu quân kính yêu, bởi vì đi ngoài trời nắng khoảng không gian trống trải, em không sợ nhánh cây khô hoặc vật gì rơi đụng đầu, nên em không cần che dù, còn khi đi vào khu rừng có cây cao, em cần phải che dù để ngăn ngừa các cành cây khô gãy rơi xuống đụng đầu em.

Nghe lời giải thích của cô Amarā, Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita nghĩ: “Amarā có trí tuệ thông minh, giải thích hợp lý”, rồi hỏi tiếp rằng:

- Này Amarā em yêu quý! Tại sao khi đi trên đường, em không mang dép, khi lội xuống dưới nước, em lại mang dép, như vậy nghĩa là gì?

- Thưa đức phu quân kính yêu, bởi vì khi đi trên đường, mắt em nhìn thấy gai, gốc cây, v.v…để tránh được, nên em không cần mang dép, còn khi lội xuống dưới nước, mắt em không nhìn thấy gai, gốc cây, v.v… để tránh được, nên em cần phải mang dép để ngăn ngừa gai, gốc cây, v.v… không đụng dưới bàn chân em.

Nghe lời giải thích của cô Amarā, Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita vô cùng hoan hỷ, hài lòng với lời giải thích hợp lý của cô. Trên đường đi, hai người nhìn thấy một cây táo có nhiều quả táo chín trĩu cành. Cô Amarā thưa rằng:

- Thưa phu quân kính yêu, mời anh leo lên cây hái quả táo chín mà dùng, rồi cho em dùng với!

Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita bảo rằng:

- Này Amarā em yêu quý! Anh cho phép em leo lên cây hái quả táo chín cho anh dùng với!

Được Đức Bồ Tát cho phép, cô Amarā leo lên cây hái quả táo chín rồi nghĩ: “Để xem Đức phu quân là người có trí tuệ hay không”. Cô thưa rằng:

- Thưa phu quân kính yêu, anh muốn dùng quả táo nóng hay quả táo lạnh?

Hiểu ý nghĩa câu hỏi của cô, nhưng Đức Bồ Tát làm như không hiểu nên trả lời rằng:

- Này Amarā em yêu quý! Anh muốn dùng quả táo nóng.

Nghe Đức phu quân trả lời như vậy, cô Amarā hái quả táo chín, ném xuống chỗ đất, rồi thưa rằng:

- Kính mời anh dùng quả táo nóng!

Đi đến nhặt quả táo chín lên, Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita thổi bụi đất cho sạch, rồi dùng quả táo chín ấy. Dùng xong Ngài lại bảo rằng:

- Này Amarā em yêu quý! Bây giờ anh muốn dùng quả táo lạnh.

Nghe Đức phu quân bảo như vậy, cô Amarā hái quả táo chín, ném xuống bụi cỏ, rồi thưa rằng:

- Kính mời anh dùng quả táo lạnh!

Đi đến bụi cỏ nhặt quả táo chín, rồi Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita dùng quả táo chín ấy mà không cần phải thổi bụi. Ngài rất hài lòng về cô Amarā, bởi vì cô là người có trí tuệ, rồi bảo cô leo xuống.

Vâng lời dạy của Đức Bồ Tát, cô leo xuống, mang bình xuống sông lấy nước đem lên dâng Ngài súc miệng, rửa mặt, uống nước rồi họ tiếp tục đi vào kinh thành Mithilā.

 

Thử Lòng Chung Thuỷ

 

Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita gửi cô Amarā ở trong nhà người gác cửa kinh thành, nói riêng cho người vợ người gác cửa kinh thành biết Ngài muốn thử lòng chung thuỷ của cô vợ mới. Ngài trở về tư dinh của mình, gọi các bạn đến báo cho họ biết rằng:

- Này các bạn thân mến! Tôi đã chọn được một cô gái đem về làm vợ, nhưng tôi đã gửi cô gái ấy ở tại nhà người gác cửa kinh thành. Bạn đem số tiền 1.000 đồng Kahāpana đến thử dụ dỗ cô gái ấy với số tiền này.

Vâng lời Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita, một người bạn đến gặp cô Amarā, tán tỉnh, dụ dỗ với số tiền lớn ấy, nhưng không sao thuyết phục được cô, bởi vì cô có một tấm lòng son sắt, thuỷ chung, chờ đợi người chồng. Người bạn trở về báo cho Ngài biết rõ lại mọi sự việc xảy ra như vậy. Ngài bảo người bạn khác đến gặp cô Amarā lần thứ nhì, lần thứ ba, nhưng không sao dụ dỗ cô được. Ngài bảo rằng:

- Nếu như vậy thì các bạn dùng quyền lực, bắt cô dẫn đến đây.

Cô Amarā bị bắt đến tư dinh của Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita, nhìn thấy Ngài trong trang phục một vị quan lớn, có chức trọng quyền cao, giàu sang phú quý mà cô không sao biết được người ấy chính là chồng của mình, cứ tưởng là một người nào khác. Nhìn thấy vị quan lớn ấy, cô cười, rồi cô khóc.

Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita, vị quan lớn truyền hỏi rằng:

- Này cô gái kia! Tại sao cô cười, rồi cô khóc?

Cô Amarā thưa rằng:

- Kính thưa quan lớn, bởi vì tôi nhìn thấy quan lớn có chức trọng quyền cao, là người giàu sang phú quý như thế này. Đó là quả của thiện nghiệp mà quan lớn đã từng tạo trong những kiếp quá khứ. Do đó, tôi nghĩ: “Quả của thiện nghiệp thật phi thường!” Cho nên, tôi phát sinh tâm hoan hỷ, tôi đã cười.

Và trong kiếp hiện tại này, quan lớn có ý định tạo ác nghiệp hành ác, xúc phạm đến người con gái đã có chồng. Nếu quan lớn tạo ác nghiệp ấy thì sẽ không tránh khỏi tái sinh trong cõi địa ngục, chịu quả khổ. Do đó, tôi phát sinh tâm bi, muốn cứu vớt quan lớn mà không được, nên phát sinh khổ tâm, tôi đã khóc.

Nghe lời giải thích của cô Amarā như vậy, Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita đã biết rõ cô là cô gái có đức hạnh tốt, có tấm lòng son sắt chung thuỷ đối với chồng của mình. Ngài truyền bảo các người bạn rằng:

- Này các ngươi! Hãy tiễn đưa cô gái này về chỗ ở của cô ngay!

Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita cải trang trở lại là người thợ may vá đến gặp cô Amarā, ở lại với cô trong đêm hôm ấy.

Sáng sớm hôm sau, Ngài dẫn cô vào cung điện chầu Chánh cung Hoàng hậu Udumbaradevī, tâu trình cho bà biết rõ mọi việc về cô.

Chánh cung Hoàng hậu Udumbaradevī đến chầu Đức Vua Vedeha, tâu lên Đức Vua biết rõ, để tổ chức lễ thành hôn cho Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita với cô tiểu thư Amarā tại tư dinh của Ngài.

Đức Vua Vedeha chuẩn tấu lời tâu trình của Chánh cung Hoàng hậu Udumbaradevī. Bà truyền lệnh trang điểm cho cô Amarā với những đồ trang sức quý giá lộng lẫy như thiên nữ, rồi Bà ngự dẫn đầu với đoàn hộ giá tiễn đưa tiểu thư Amarā đến tư dinh của Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita.

Lễ thành hôn của Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita và tiểu thư Amarā được tổ chức rất trọng thể, có Đức Vua Vedeha và Chánh cung Hoàng hậu Udumbaradevī chủ trì, các quan, quân trong triều đình, dân chúng trong kinh thành Mithilā và dân chúng ngoài thành đến dự lễ thành hôn này.

Đức Vua Vedeha ban cho số tiền 1.000 đồng Kahāpana và các tặng phẩm quý giá gọi là quà trong dịp lễ thành hôn ấy. Các quan, quân trong triều đình, dân chúng trong kinh thành Mithilā và dân chúng ngoài thành đều đem những tặng phẩm quý giá làm quà trong lễ thành hôn này. Cho nên, lễ thành hôn này có được rất nhiều quà tặng.

Phu nhân Amarā thưa với Đức phu quân, Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita, đem tất cả các món quà ấy chia ra làm 2 phần:

- 1 phần nhập vào kho của triều đình.

- 1 phần đem phân phát đến những người nghèo khổ trong kinh thành và ngoài thành.

Đôi vợ chồng, Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita và tiểu thư Amarā, đều là bậc thiện trí, có trí tuệ, thông minh, sáng suốt, sống chung với nhau được an lạc hạnh phúc.

Đức Bồ Tát là một vị quan cận thần rất thân tín của Đức Vua Vedeha, là một vị quân sư dâng những kế sách lên Đức Vua trị vì đất nước Videharaṭṭha cho được thái bình, phồn vinh, dân chúng được an cư lạc nghiệp.


Bốn Vị Quân Sư Âm Mưu Hại Đức Bồ Tát

 

Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita có trí tuệ siêu việt, tài giỏi phi thường, được Đức Vua Vedeha đem lòng ngưỡng mộ khâm phục, trọng dụng, nên những kế sách tấu trình của Ngài thường đều được Đức Vua chuẩn tấu. Đức Vua ít quan tâm đến 4 vị quân sư đã phụng sự lâu năm.

Một hôm, 3 vị quân sư: Pukkusa, Kāminda và Devinda cùng nhau đến tư dinh của vị quân sư Senaka. 4 vị quân sư bàn bạc với nhau tìm ra mưu kế hại Đức Bồ Tát. Vị quân sư Senaka bảo rằng:

- Này ba vị quân sư! Chúng ta là 4 vị quân sư kỳ cựu trong triều đình từ trước đến nay. Từ ngày Mahosadha paṇḍita, con trai của ông phú hộ xóm nhà phía đông vào cung điện, được Đức Vua nhận làm Hoàng tử, Mahosadha paṇḍita ỷ lại mình là người có trí tuệ, được Đức Vua tín cẩn đặc biệt. Mahosadha paṇḍita thường tâu lên Đức Vua những kế sách hay, nên được Đức Vua ban thưởng, còn chúng ta không được Đức Vua ban thưởng. Do đó chúng ta đã mất nhiều lợi lộc.

Vậy, chúng ta làm cách nào để hại Mahosadha paṇḍita này.

Ba vị quân sư thưa rằng:

- Thưa quân sư, ba chúng tôi không nghĩ ra mưu kế nào để hại Mahosadha paṇḍita. Vậy, quân sư có nghĩ ra mưu kế nào chưa?

- Này quý vị! Tôi đã nghĩ ra mưu kế này, xin trình bày quý vị rõ. Bốn vị quân sư chúng ta, mỗi vị thi hành một công việc:

- Chính tôi sẽ là người lấy cắp viên ngọc Cūḷamaṇi của Đức Vua.

- Vị quân sư Pukkusa lấy cắp vòng vàng đeo cổ của

   Đức Vua.

- Vị quân sư Kāminda lấy cắp cái mền long thú của Đức Vua.

- Vị quân sư Devinda lấy cắp đôi hia của Đức Vua.

Khi mỗi người chúng ta lấy cắp được mỗi vật báu của Đức Vua đem về xong, mỗi người chúng ta tìm cách đưa mỗi báu vật ấy vào nhà của Mahosadha cho được, đừng để ai nghi ngờ mỗi chúng ta.

Ba vị quân sư đều chấp nhận đó là kế hay và hứa sẽ cùng nhau thực hiện. Khi 4 vị quân sư vào chầu Đức Vua, mỗi người lẻn vào trong phòng lấy một báu vật theo sự phân công đem về tư dinh.

* Vị quân sư Senaka đem giấu viên ngọc Cūḷamaṇi của Đức Vua Vedeha trong nồi bơ, rồi gọi người tớ gái, bảo rằng:

- Ngươi hãy đem cái nồi bơ này đi bán, nhưng không được bán cho nhà khác, chỉ bán cho người trong tư dinh của quan lớn Mahosadha paṇḍita mà thôi.

Thật ra, nếu người trong tư dinh của quan lớn Mahosadha paṇḍita chịu mua thì người xin kính biếu nồi bơ này, không cần lấy tiền.

Vâng lời chủ, người tớ gái đem nồi bơ đi ngang qua tư dinh của Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita rao lớn rằng: 

- Xin mời mua bơ ngon,…

Người tớ gái đội nồi bơ đi qua, đi lại trước mà rao mời như vậy, không đi nơi nào khác.

Bà Amarādevī có trí tuệ, thông minh, đứng trên tư dinh, nhìn qua cửa sổ, thấy hành vi, cử chỉ người bán bơ ấy khả nghi rồi nghĩ: “Tại sao người bán bơ này không đi bán nơi khác mà cứ đi qua rồi đi lại trước tư dinh của ta, người ấy rao lớn: ‘Xin mời mua bơ ngon’ chắc chắn có điều gì nơi người ấy”. Nghĩ xong, bà truyền gia nhân gọi người bán bơ vào.

Khi người bán bơ vào tư dinh, bà ra hiệu cho các gia nhân vào bên trong dinh. Bà hỏi người bán bơ rằng:

- Này ngươi! Ngươi bán bơ có phải không?

- Thưa bà, tiện nữ bán bơ. Kính mời bà mua giúp, bơ này ngon lắm.

- Này ngươi! Ta sẽ mua nồi bơ này của ngươi.

Nghe bà Amarādevī nói như vậy, người tớ gái tỏ vẻ vui mừng, nói rằng:

- Con xin cám ơn Bà.

Khi ấy, không có một gia nhân nào ở gần bà Amarādevī, cho nên bà nhờ người bán bơ rằng:

- Này con! Ta nhờ con vào bên trong gọi giúp gia nhân của ta ra đây.

Vâng lời bà Amarādevī, người bán bơ đi vào bên trong, nhân dịp ấy, bà đưa tay vào nồi bơ, gặp viên ngọc Cūḷamaṇi vô giá của triều đình. Bà để trở lại, rồi ngồi chờ người bán bơ gọi gia nhân trở ra. bà truyền hỏi rằng:

- Này con! Con bán nồi bơ này giá bao nhiêu?

Người tớ gái hoàn toàn không hề biết trong nồi bơ có viên ngọc Cūḷamaṇi nên thưa rằng:

- Thưa Bà, nồi bơ này giá tiền chỉ bằng 4 lít gạo mà thôi, nếu Bà muốn mua nồi bơ này, con kính biếu cho Bà nồi bơ này. Kính xin Bà nhận nồi bơ này cho con vui.

- Này con! Ta xin nhận nồi bơ này của con, con đối xử với ta tốt quá!

- Thưa Bà, con chân thành cảm ơn Bà.

Khi ấy, Bà Amarādevī truyền hỏi rằng:

- Này con! Con ở đâu vậy?

- Thưa Bà, con là người tớ gái ở trong tư dinh của vị quân sư Senaka.

- Này con! Tên con gọi là gì?

Người tớ gái nói tên thật của mình.

- Này con! Cha mẹ con tên gì?

Người tớ gái nói thật tên cha mẹ mình.

Sau cuộc đàm thoại thân mật, người tớ gái của vị quân sư Senaka xin phép trở về.

* Vị quân sư Pukkusa thì đem giấu vòng vàng đeo cổ của Đức Vua Vedeha trong cái hộp, bên trên đựng đầy hoa lài, ông gọi người tớ gái đến rồi bảo rằng:

- Này ngươi! Ngươi hãy đem cái hộp hoa lài này đi bán, nhưng chỉ đem đến bán cho bà chủ tư dinh của vị quan Mahosadha paṇḍita mà thôi.

Bà Amarādevī cũng mua cái hộp ấy, rồi cũng hỏi rõ người bán tên gì, từ đâu đến và tên của cha mẹ nó.

* Vị quân sư Kāminda đem giấu cái mền lông thú của Đức Vua Vedeha trong cái giỏ chất đầy rau cải, ông gọi người tớ gái đến rồi bảo rằng:

- Này ngươi! Ngươi hãy đem cái giỏ rau cải này đi bán, nhưng chỉ đem đến bán cho bà chủ tư dinh của vị quan Mahosadha paṇḍita mà thôi.

Bà Amarādevī cũng mua giỏ rau ấy, rồi hỏi rõ người bán tên gì, từ đâu đến và tên của cha mẹ nó.

* Vị quân sư Devinda thì đem giấu đôi hia vàng của Đức Vua Vedeha trong bao gạo, ông gọi người tớ gái đến rồi bảo rằng:

- Này ngươi! Ngươi hãy đem cái bao gạo này đi bán, nhưng chỉ đem đến bán cho bà chủ tư dinh của vị quan Mahosadha paṇḍita mà thôi.

Bà Amarādevī cũng mua bao gạo ấy, rồi hỏi rõ người bán tên gì, từ đâu đến và tên của cha mẹ nó.

Bà Amarādevī đã nhận mua được 4 báu vật của Đức Vua Vedeha, mỗi báu vật Bà đều ghi chép lại rõ trên tấm biển tên của vị quân sư nào, bảo người tớ gái nào đem đến bán, tên mỗi người tớ gái và tên cha mẹ của họ. Bà thưa trình cho Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita biết rõ Bà đã mua báu vật của Đức Vua Vedeha từ 4 người tớ gái của 4 vị quân sư đem đến bán cho Bà, và Bà đã ghi rõ chi tiết của mỗi báu vật ấy rồi Bà đem cất giữ trong tư dinh.

Một hôm, 4 vị quân sư đến chầu Đức Vua theo thường lệ, vị quân sư Senaka tâu rằng:

- Muôn tâu Bệ hạ, lâu nay Bệ hạ không trang sức viên ngọc Cūḷamaṇi?

- Thưa quân sư, khanh hãy đem viên ngọc Cūḷamaṇi ra cho Trẫm trang sức hôm nay.

Bốn vị quân sư làm bộ đi vào bên trong phòng cất các báu vật của Đức Vua Vedeha, trở ra tay không, rồi tâu rằng:

- Muôn tâu Bệ hạ, hạ thần không tìm thấy viên ngọc Cūḷamaṇi và cũng không tìm thấy 3 báu vật khác là xâu chuỗi vàng, đôi hia vàng và chiếc mền bằng lông thú, rồi tâu với lời lẽ khẳng định rằng:

- Muôn tâu Bệ hạ, 4 món báu vật của Bệ hạ không còn trong cung điện của Bệ hạ, chúng hạ thần biết chắc chắn 4 món báu vật ấy hiện có trong tư dinh của Mahosadha paṇḍita.

- Muôn tâu Bệ hạ, Mahosadha paṇḍita sử dụng 4 món báu vật này trước, rồi sau đó sẽ tính giết Bệ hạ, để chiếm ngôi vua.

Khi ấy, quan thân tín của Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita đem chuyện này đến báo cho Ngài biết. Nghe quan thân tín thưa báo như vậy, nên Ngài nghĩ: “Ta nên đến chầu Đức Vua để biết hư thật thế nào?”

Nhìn thấy Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita từ ngoài đi vào cung điện, Đức Vua nổi cơn thịnh nộ, không cho phép Ngài vào, bởi vì tin theo lời 4 vị quân sư đã tâu.

Biết Đức Vua Vedeha đang nổi cơn thịnh nộ, nên Đức Bồ Tát trở về lại tư dinh của mình.

Không lâu sau đó, Đức Vua truyền lệnh bắt giam Đức Bồ Tát. Quan thân tín của Ngài liền đến bẩm báo cho Ngài lệnh truyền của Đức Vua Vedeha.

Đức Bồ Tát nghĩ: “Ta nên trốn đi nơi khác”. Nên Ngài gặp phu nhân Amarā, báo cho Bà biết rằng:

- Này Amarā, em yêu quý! Lệnh truyền của Đức Vua như vậy. Ngay bây giờ hay nhất, anh nên trốn đi nơi khác lánh nạn một thời gian, em ở tại dinh thự này tuỳ cơ ứng phó.

 

Đức Bồ Tát Mahosadha Paṇḍita Trốn Đi Lánh Nạn

 

Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita cải trang đi ra cửa thành phía Nam kinh thành Mithilā, đến xóm nhà vùng lúa mạch phía nam, xin vào chỗ làm đồ gốm, làm việc để nuôi mạng. Vị thầy nhận Ngài làm học trò, rồi dạy làm đồ gốm.

Dân chúng trong kinh thành Mithilā xôn xao bàn tán về việc Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita đã trốn đi ra khỏi kinh thành Mithilā để lánh nạn.

Nghe tin Ngài đã trốn đi ra khỏi kinh thành Mithilā để lánh nạn, bốn vị quân sư nói với dân chúng rằng:

- Bốn vị quân sư chúng tôi cũng đều là bậc thiện trí. Vậy, xin quý vị hãy an tâm.

Biết chắc Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita không còn ở trong tư dinh, nên 4 vị quân sư không ai nói cho ai biết, mỗi vị tự mình âm thầm lén lút đem những món quà quý giá đến biếu bà Amarā, phu nhân của Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita, để chiếm lấy tình cảm của bà, trong lúc Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita không có trong tư dinh.

 

Bốn Vị Quân Sư Bị Mắc Mưu Kế

 

Bà Amarā vốn là người có trí tuệ, mưu kế cao siêu, bà biết rõ 4 vị quân sư này đã có âm mưu đê tiện, vu oan giá hoạ làm hại Đức phu quân Mahosadha paṇḍita của bà, họ là những kẻ trộm cắp 4 báu vật của Đức Vua Vedeha.

Đây là cơ hội tốt để bà minh oan cho Đức phu quân. Bà hoan hỷ nhận đủ 4 món quà quý giá của 4 vị quân sư đem đến biếu, rồi Bà kính mời 4 vị quân sư cùng đến gặp Bà trong cùng một đêm, nhưng đặc biệt, Bà hẹn mỗi vị quân sư đến khác giờ rằng:

- Kính thưa quân sư, tiện nữ kính mời quân sư nhớ đến vào đúng đêm ấy và đúng vào giờ ấy. Kính xin quân sư đến đúng hẹn.

Bà Amarā nghĩ: “Ta sẽ làm cho 4 vị quân sư si mê này phải xấu hổ giữa triều đình”.  Nghĩ xong bà bảo những gia nhân đào một cái hầm sâu quá đầu người, đổ phẩn và nước tiểu vào hầm ấy, rồi đậy nắp hầm bằng một tấm ván, có chốt cài chặt. Khi mở chốt, nếu người nào bước lên tấm ván thì người ấy sẽ rơi xuống hầm phẩn và nước tiểu, rồi nắp hầm tự động đậy trở lại như trước. Trên nắp hầm, Bà lót một tấm thảm xinh đẹp, để ngụy trang.

Trong căn phòng được trang hoàng kết hoa rất xinh đẹp đáng hài lòng, mọi công việc đều được bí mật hoàn thành tốt đẹp .

Vào đêm hôm hẹn ấy, vị quân sư Senaka ăn uống no say, trang phục nghiêm trang. Đúng theo giờ mà Bà Amarā đã hẹn, vị quân sư Senaka đến đứng trước cửa tư dinh của Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita, bảo người lính gác cửa vào báo cho bà Amarā biết là mình đã đến.

Biết vị quân sư Senaka đến, bà cho mời vào, ông ta đi vào đứng gần bà. Bà niềm nở đón tiếp rồi thưa với ông rằng:

- Thưa quân sư, đêm nay tiện nữ sẽ thuộc về quân sư rồi. Vậy, kính mời Ngài vào phòng tắm nước hoa trước.

Nghe lời mời ngon ngọt của bà Amarā, vị quân sư Senaka ngoan ngoãn vâng lời vào phòng tắm, vừa bước vào phòng, ông ta vừa đạp lên tấm thảm xinh đẹp thì nắp hầm hạ xuống làm cho ông rơi xuống hầm phẩn và nước tiểu, rồi nắp hầm đậy trở lại như trước. Quân sư Senaka đứng chịu trận dưới hầm phẩn và nước tiểu kín đáo tối tăm, chịu mồi hôi thối kinh khủng như thế.

Cũng vào đêm hôm ấy, đúng theo giờ mà bà Amarā đã hẹn, vị quân sư Pukkusa đến đứng trước cửa tư dinh của Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita, bảo người lính gác cửa vào báo cho bà Amarā biết là mình đã đến.

Biết vị quân sư Pukkusa đến, bà cho mời vào, ông ta đi vào đứng gần bà. Bà niềm nở đón tiếp rồi thưa với ông giống như vị quân sư Senaka. Rồi quân sư Pukkusa bước vào phòng tắm, đạp lên tấm thảm xinh đẹp thì nắp hầm hạ xuống làm cho ông ta rơi xuống hầm phẩn và nước tiểu, đụng phải cái đầu, ông hoảng hốt la lên rằng:

- Ngươi là người hay hàng phi nhân, đáng kinh sợ quá!

Vị quân sư Senaka bảo rằng:

- Ta là quân sư Senaka đây! Còn ngươi là ai vậy?

- Thưa quân sư Senaka, tôi là quân sư Pukkusa.

Hai vị quân sư đứng chịu trận dưới hầm phẩn và nước tiểu tối tăm, chịu ngửi mùi hôi thối kinh khủng như thế.

Cũng đêm hôm ấy, vị quân sư Kāminda cũng đến đúng hẹn, được đón rước như hai vị quân sư trước và rồi lại rơi xuống hầm phẩn và nước tiểu, đụng phải 2 cái đầu dưới hầm, ông ta hoảng hốt la lên rằng:

 - Các ngươi là người hay các hàng phi nhân, đáng kinh sợ quá!

- Chúng ta là quân sư Senaka và quân sư Pukkusa đây, còn ngươi là ai vậy?

- Thưa hai vị, tôi là quân sư Kāminda.

Ba vị quân sư đứng chịu trận dưới hầm phẩn và nước tiểu tối tăm, chịu ngửi mùi hôi thối kinh khủng như thế.

Và cũng trong đêm ấy, vị quân sư Devinda cũng đến đúng hẹn, được đón rước như các vị trước và cũng chịu chung số phận như 3 vị quân sư kia. Khi ông ta rơi xuống hầm phẩn và nước tiểu, đụng phải 3 cái đầu dưới hầm, ông hoảng hốt la lên rằng:

- Các ngươi là người hay các hàng phi nhân, đáng kinh sợ quá!

- Chúng ta là quân sư Senaka, quân sư Pukkusa và quân sư Kāminda đây, còn ngươi là ai vậy?

- Thưa ba vị quân sư, tôi là quân sư Devinda.

Bốn vị quân sư đứng chịu trận dưới hầm phẩn và nước tiểu tối tăm, nắp hầm kiên cố, chịu ngửi mùi hôi thối kinh khủng như vậy. Ba vị quân sư thưa với vị quân sư Senaka rằng:

- Thưa quân sư, bây giờ chúng ta có cách nào để thoát ra khỏi hầm phẩn và nước tiểu hôi thối, tối tăm kinh khủng này không?

Vị quân sư Senaka bảo rằng:

- Chúng ta đều là những hạng người khốn nạn, đê hèn, rồi còn phải chịu bao nỗi xấu hổ khác hơn thế nữa!

Bốn vị quân sư bị bà Amarā nhốt dưới hầm phẩn và nước tiểu tối tăm, ngột ngạt suốt đêm hôm ấy.

Sáng ngày hôm sau, bà bảo những người gia nhân lôi cổ 4 vị quân sư lên khỏi hầm, dội nước tắm cho họ, rồi lấy dao cạo trọc đầu và râu của họ, lấy viên gạch chà xát trên da đầu cho chảy máu, để hành hạ họ.

Mỗi vị quân sư được đặt nằm ngửa, trần truồng trên một tấm ván, đặt trên ngực mỗi vị một thứ báu vật mà chinh họ đã ăn trộm của Đức Vua Vedeha, và một tấm kẽm có ghi rõ tên người tớ gái, tên cha mẹ cô và tên người chủ đã sai cô đem bán cho bà Amarā là những vị quân sư trên.

Bà Amarā bảo những người gia nhân quấn quanh mỗi vị quân sư bằng tấm vải tốt rất xinh đẹp bao quanh người, 2 đầu cột lại. Bà đóng con dấu của quan lớn  Đức Bồ Tát quân sư Mahosadha paṇḍita.

Bà Amarā đến cung điện, xin vào chầu Đức Vua Vedeha giữa bá quan văn võ. Bà bảo những người gia nhân đem 4 món quà đến đặt dưới chân Đức Vua Vedeha rồi tâu rằng:

- Muôn tâu Hoàng Thượng, tiện nữ kính xin dâng lên Hoàng Thượng 4 món quà này. Kính thỉnh Hoàng Thượng anh minh ngự lãm.

Đức Vua Vedeha truyền lệnh cho lính mở ra từng gói. Đức Vua chứng kiến:

* Gói thứ nhất: Vị quân sư Senaka nằm trần truồng bị cạo trọc đầu và râu, trên ngực có viên ngọc Cūḷamaṇi và tấm kẽm ghi rõ nguồn gốc.

* Gói thứ nhì: Vị quân sư Pukkusa nằm trần truồng, bị cạo trọc đầu và râu, trên ngực có xâu chuỗi vàng và tấm kẽm ghi rõ nguồn gốc.

* Gói thứ ba: Vị quân sư Kāminda nằm trần truồng, bị cạo trọc đầu và râu, trên ngực có chiếc mền lông thú và tấm kẽm ghi rõ nguồn gốc.

* Gói thứ tư: Vị quân sư Devinda nằm trần truồng, bị cạo trọc đầu và râu, trên ngực có đôi hia vàng và tấm kẽm ghi rõ nguồn gốc.

 

Nhìn thấy rõ 4 vị quân sư nằm trần truồng, tóc râu không còn sợi nào, trên ngực mỗi vị có một món báu vật mà 4 vị quân sư này đã tâu rằng 4 báu vật ấy chắc chắn Mahosadha paṇḍita đã lấy trộm làm của riêng.

 Đức Vua Vedeha làm thinh, không truyền bảo lời nào cả. Bá quan văn võ trong triều đình vỗ tay reo hò rằng:

- Ô! Xin quý vị hãy xem 4 con bạch vượn giả nhân chưa từng thấy bao giờ!

Làm cho 4 vị quân sư thật là vô cùng xấu hổ. Khi ấy, bà Amarā, phu nhân của Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita tâu lên Đức Vua Vedeha rằng:

- Muôn tâu Hoàng Thượng, kính xin Hoàng Thượng anh minh, sáng suốt, xem xét lại sự việc rằng Hoàng tử Mahosadha paṇḍita phu quân của tiện nữ, không phải là kẻ trộm cắp 4 báu vật của Hoàng Thượng, mà sự thật:

 * Quân sư Senaka đã lấy trộm viên ngọc Cūḷamaṇi của Hoàng Thượng.

 * Quân sư Pukkusa đã lấy trộm xâu chuỗi vàng của Hoàng Thượng.

 * Quân sư Kāminda đã lấy trộm chiếc mền lông thú của Hoàng Thượng.

 * Quân sư Devinda đã lấy trộm đôi hia vàng của Hoàng Thượng.

 - Muôn tâu Hoàng Thượng,

* Quân sư Senaka đã giấu viên ngọc Cūḷamaṇi trong nồi bơ đầy.

* Quân sư Pukkusa đã giấu xâu chuỗi vàng trong cái hộp, bên trên đựng đầy hoa lài.

* Quân sư Kāminda đã giấu chiếc mền lông thú được giấu trong cái giỏ chất đầy rau cải.

 * Quân sư Devinda đã giấu đôi hia vàng được giấu trong bao gạo.

Mỗi vị quân sư sai bảo người tớ gái của mình đem đi bán, mà chỉ được phép bán cho tiện nữ mà thôi.

- Muôn tâu Hoàng Thượng, tiện nữ biết 4 báu vật ấy là của Hoàng Thượng, cho nên tiện nữ đã mua báu vật, rồi ghi rõ tên của người tớ gái, tên cha mẹ, tên chủ của tớ gái là 4 vị quân sư. Nay, tiện nữ kính xin dâng lại 4 báu vật này lên Hoàng Thượng.

- Muôn tâu Hoàng Thượng, bốn vị quân sư biết Hoàng tử Mahosadha paṇḍita, đức phu quân của tiện nữ không có trong tư dinh, nên đêm hôm qua, mỗi vị quân sư lén lút đến tư dinh ấy, theo giờ hẹn khác nhau, xâm nhập vào tư dinh có ác ý toan tính làm hại tiện nữ. Do đó, tiện nữ đã cho họ rơi xuống hầm phẩn và nước tiểu, rồi nhốt suốt đêm qua.

Sáng nay, tiện nữ sai bảo gia nhân lôi 4 vị quân sư lên, cạo đầu, râu, trói đem đến tâu trình Hoàng Thượng xét xử tội 4 kẻ trộm cắp báu vật của Hoàng Thượng. Tiện nữ kính đảnh lễ Hoàng Thượng, xin phép trở về tư dinh.

Nghe phu nhân của Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita tâu như vậy, Đức Vua Vedeha biết sự việc đã rõ ràng, nên chỉ còn biết truyền bảo các quân sư của mình rằng:

- Các ngươi hãy mau trở về tư dinh của mình, tắm rửa sạch sẽ, ăn mặc tử tế!





[ Ðầu trang][Trở về mục lục ][ Trở về trang Thư Viện ]

updated: 2024