• Học Kinh Tụng Pali

ĀRĀDHANĀ DEVATĀ

Sagge kāme ca rūpe giri sikhara-taṭe c’antalikkhe vimāne dīpe raṭṭhe ca gāme taru-vana-gahaṇe geha-vatthumhi khette bhummā c’āyantu Devā jala-thala-visame Yakkha-Gandhabba-Nāgā tiṭṭhantā santike yaṃ Muni-vara-vacanaṃ sādhavo me suṇantu.

Dhamma-ssavana kālo ayaṃ bhadantā.

Dhamma-ssavana kālo ayaṃ bhadantā.

Dhamma-ssavana kālo ayaṃ bhadantā.

 

Dịch nghĩa:

Xin thỉnh Chư Thiên ngự trên cõi trời dục giới cùng sắc giới, trên đỉnh núi, bờ sông, nơi Thiên cung, trong quốc độ, giữa hư không, nơi làng mạc, rừng rú, trên cây cối, ruộng vườn, mặt đất, trong nhà. Các vị Dạ-Xoa, Càn-thát-bà, Long vương ngự trên bờ, dưới nước ở quanh đây, xin cung thỉnh. Lành thay, xin chư  vị lắng nghe tôi tụng đọc lời dạy cao quý của Đấng Thanh Tịnh.

Thưa Chư  tôn giả, đây là thời khắc (thích hợp) để nghe Pháp. (3 lần)

 

Ngữ vựng:

Sagga:     cõi trời                        Kāma: dục giới

Ca:                                          Rūpa:   sắc giới

Giri: núi                                       Sikhara: đỉnh

Giri-sikhara:         đỉnh núi           Taṭa:     bờ sông

C’antalikkha = ca + antalikkha: bầu trời hư không

Vimāna:   cung trời                     Dīpa:    hòn đảo, ngọn đèn

Raṭṭha:    quốc độ

Gāma:     làng                            

Taru:       cây

Vana:      rừng lớn                     

Gahaṇa:   rừng rậm

Geha (gehaṃ, geho): nhà            

Vatthu:    đất vườn

Khetta:    ruộng                          

Bhummā: mặt đất

C’āyantu =  ca + ayantu  (ayāti): hãy đến            

Devā: Chư  Thiên

Jala: nước

Thala:      đất liền           

Visama:   gồ ghề

Yakkha: dạ-xoa                        

Gandhabba: càn-thát-bà

Nāga:      long vương                 

Tiṭṭhantā (tiṭṭhati):

Santika:   gần                              

Yaṃ (ya): nào

Muni:       bậc ẩn sĩ, Phật           

Vara:       cao quý

Vacana:   lời nói

Sādhu:     lành thay

Me:         của tôi

Suṇāti:     nghe

Dhamma: Pháp

Savana:   s nghe

Kāla:       thời gi

Ayaṃ:     này

Bhadanta: bậc đáng kính, tôn giả

THỈNH CHƯ THIÊN

Xin thỉnh Chư Thiên ngự trên cõi trời Dục giới cùng Sắc giới; Chư Thiên ngự trên đỉnh núi, núi không liền, hoặc nơi hư không; ngự nơi cồn bãi, đất liền hoặc các châu quận; ngự trên cây cối rừng rậm hoặc ruộng vườn; Chư Dạ Xoa, Càn Thát Bà, cùng Long Vương dưới nước trên bờ, hoặc nơi không bằng phẳng gần đây, xin thỉnh hội họp lại đây. Lời nào là kim ngôn cao thượng của Ðức Thích Ca Mâu Ni mà chúng tôi tụng đây, xin các bậc Hiền Triết nên nghe lời ấy.

Xin các ngài đạo đức, giờ nầy là giờ nên nghe Pháp Bảo. (3 lần)

***

Ba tòa thanh tịnh Bồ-Đề

Mười phương thiên chúng hội về nghe kinh

Pháp mầu diệt tận vô minh

Pháp mầu độ khổ sinh linh vạn loài.

Từ Dục giới vân đài sáu cõi

Đến Thiên cung sắc giới hữu hình

Chư Thiên đã tạo duyên lành        

Do theo phước quả, thiện sanh đến giờ

Các Ngài ngự bến bờ, đồng ruộng

Hoặc hư không, châu quận, thị phường

Non xanh, rừng rậm, đất bằng

Hoặc nơi quán cảnh, xóm làng gần xa

Xin đồng thỉnh Dạ-xoa chư chúng

Càn-thát-bà, Long chủng nơi nơi

Đầm ao, thành quách lâu đời

Hoặc là sông nước, biển khơi trùng trùng

Pháp vi diệu, nghìn thân nan ngộ

Đạo thậm thâm, kiên khổ khó vào

Ngày tàn, tháng lụn qua mau

Đắm si trần cảnh, đuối đầu tử sinh.

Đây là giờ chuyển kinh Vô Thượng

Đây là giờ đọc tụng Pháp Âm

Lời vàng lý nghĩa cao thâm

Xin chư hiền giả lắng tâm thọ trì.

(Đoạn cuối tụng 3 lần, 1 lạy)

 

RATANATTAYAPUJĀ

Imehi dīpa-dhūp’ādi sakkārehi Buddhaṃ Dhammaṃ Saṅghaṃ abhipūjayāmi mātā-pit’ādīnaṃ guṇavantānañca mayhañca dīgharattaṃ atthāya hitāya sukhāya.

Dịch nghĩa:

Đệ tử thành kính cúng dường đèn, hương, lễ phẩm các loại lên  ba ngôi Tam Bảo. Nguyện cầu cho các bậc ân nhân, nhất là cha mẹ đệ tử được an lạc, lợi ích và tốt đẹp lâu dài.

 

Ngữ vựng:

Imehi (ima): với những (cái này)

Dīpa:       đèn

Dhūpa:    nhang, hương

Adi:        v.v……...

Sakkārehi (sakkāra):        với sự cung kính

Buddhaṃ (Buddha):        đến Phật

Dhammaṃ (Dhamma):     đến Pháp

Saṅghaṃ (Saṅgha):         đến Tăng

Abhipūjayāmi (abhipūjayati): cúng dường

Mātu:      mẹ

Pitu:         cha

Mātu-pitu: cha mẹ

Guṇavantu: ân nhân, bậc có ân Đức

Mayhaṃ (mama): đến cho con, của con

Dīgharattaṃ:        lâu dài

Attha:      tốt đẹp, tốt lành

Hita:        lợi ích

Sukha:     an lạc

 

DÂNG HƯƠNG

Con xin dâng các lễ vật này, nhứt là nhang đèn để cúng Phật, Pháp, Tăng Tam Bảo, ngưỡng cầu cho các bậc ân nhân, nhứt là cha mẹ con và con đều được sự tấn hóa, sự lợi ích, sự bình an lâu dài. (lạy)

***

Trước Tam Bảo uy linh tối thượng

Đèn trầm hương, tâm niệm chí thành

Nguyện cầu Pháp giới chúng sanh

Nhất là cha mẹ muôn phần phước duyên   

Mãi tấn hóa trên đường thiện nghiệp

Mãi vun bồi hạnh phúc Như Chân

Liên hoa nở thắm biển trần

Khổ đau vắng lặng, tham sân đoạn lìa.

 

 

BUDDHARATANAPAṆĀMA

Namo tassa Bhagavato Arahato Sammā Sambuddhassa. (3 lần)

Dịch nghĩa:

Kính lễ Đức Thế Tôn, Bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri.

 

Ngữ vựng:

Namo (Namati): kính lễ

Tassa (Ta):          đó

Bhagavato:          Đức Thế Tôn

Arāhato:              bậc ứng cúng

Sammā:               chánh

Sambuddho:        Đấng Toàn Giác, Biến Tri Đẳng Giác

 

LỄ PHẬT

Con đem hết lòng thành kính làm lễ Đức Bhagavā đó, Ngài là bậc Arahaṃ cao thượng, được chứng quả Chánh Biến Tri, do Ngài tự ngộ, không thầy chỉ dạy. (3 lần, 1 lạy)

***

Cúi đầu đảnh lễ đấng Từ Tôn

Bậc Chánh Biến Tri đáng cúng dường

Con nguyện thân tâm thường thanh tịnh

Làm lành, lánh dữ lợi quần sanh.

                                       (3 lần, 1 lạy)

 

TÁN DƯƠNG PHẬT

Yo sannisinno vara-bodhi-mūle

Māraṃ sasenaṃ mahatiṃ vijeyyo

Sambodhim’ āgacchi ananta ñāṇo

Lok’uttamo taṃ paṇamāmi Buddhaṃ.

 

Dịch nghĩa:

Người đã ngồi dưới cội bồ-đề cao quý, đại thắng ma quân và đạt đến chánh giác, là bậc có trí tuệ vô biên và là đấng tối thượng trên thế gian. Con cúi đầu đảnh lễ Đức Phật ấy.

 

Ngữ vựng:

Yo (ya):   người mà

Sannisinna:           đang ngồi

Bodhi:     tuệ giác, cây bồ đề

Mūla:                  gốc cây

Māra:                  ma

Sasena:    đoàn binh

Mahati:    lớn

Vijeyya:   chiến thắng

Sambodhi:           sự giác ngộ hoàn toàn

Agacchati:           đạt đến

Ananta:    vô biên

Ñāṇa:                  trí (tuệ)

Loka:                  thế gian

Uttama:   tối thượng

Taṃ (ta):             đó

Paṇamati (ṇamati): đảnh lễ

 

TÁN DƯƠNG PHẬT

Đức Phật tham thiền về sổ tức quán, ngồi trên Bồ đoàn, dưới gốc cây Bồ Đề quý báu và đánh thắng toàn bọn Ma Vương mà thành bậc Chánh Đẳng Chánh Giác. Ngài là bậc tối thượng hơn cả chúng sanh, con đem hết lòng thành kính mà làm lễ Ngài. (lạy)

****

Cội Bồ-Đề trang nghiêm thiền tịnh

Thắng thiên ma, vạn chướng trùng trùng

Con xin lạy đấng Đại Hùng

Rọi Vô Biên Trí tận cùng thế gian. (lạy)

 

LỄ TAM THẾ PHẬT

Ye ca Buddhā atītā ca

Ye ca Buddhā anāgatā

Paccuppannā ca ye Buddhā

Ahaṃ vandāmi sabbadā.

 

Dịch nghĩa:

Chư  Phật nào (có mặt) trong quá khứ

Chư  Phật nào (có mặt) trong vị lai

Chư  Phật nào (có mặt) trong hiện tại

Con thường xin đảnh lễ ba đời Chư  Phật.


Ngữ vựng:

Ye (ya):               những vị nào

Atīta:                               quá khứ

Anāgata:              vị lai

Paccuppanna:      hiện tại

Ahaṃ:                 con, tôi, đệ  tử

Vandati:               lễ, lạy

Sabbadā:                         tất cả, toàn thể

 

LỄ TAM THẾ PHẬT

Chư Phật đã thành Chánh Giác trong kiếp quá khứ.

Chư Phật sẽ thành Chánh Giác trong kiếp vị lai.

Chư Phật đang thành Chánh Giác trong kiếp hiện tại này.

Con đem hết lòng thành kính mà làm lễ Chư Phật trong tam thế ấy. (lạy)

****

Từ quá khứ vô vàn Phật hiện

Ở đương lai vô lượng Phật thành

Hiện tiền Chư Phật độ sinh

Con xin kính lễ, tâm minh nguyện cầu. (lạy)

 

BUDDHA GUṆA

Iti’pi so Bhagavā: Arahaṃ, Sammā Sambuddho, Vijjā-caraṇa-sampaṇṇo, Sugato, Lokavidū, Anuttaro, Purisa-damma-sārathi, Satthā-deva-manussānaṃ, Buddho, Bhagavā’ti.

 

Dịch nghĩa:

Đức thế Tôn ấy (có danh hiệu) như thế này: ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sỉ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.

 

Ngữ vựng:

Iti’pi:                   như thế

So (ta):                đó

Arahaṃ: A la hán, ứng Cúng

Sammā:               chánh

Sambuddho:        Đấng Toàn Giác, Biến Tri Đẳng Giác

Vijjā:                   minh

Caraṇa:               hạnh

Sampanno:          đầy đủ (túc)

Sugata:               Thiện thệ (khéo đi không trở lại)

Vidū:                   người biết

Loka-vidū:          Thế gian giải

Anuttara:             vô thượng

Purisa:                trượng phu

Damma:             điều ngự, chế phục

Sārathi:              người đánh xe

Satthā:                thầy

Manussa:           người

 

ÂN ĐỨC PHẬT

Itipi so Bhagavā

1- Arahaṃ (Ứng Cúng).

Đức Thế Tôn hiệu Arahaṃ, bởi Ngài đã xa lìa các tội lỗi nên tiền khiên tật thân và khẩu của Ngài đều được trọn lành.

2- Sammāsambuddho (Chánh Biến Tri).

Đức Thế Tôn hiệu Sammāsambuddho, bởi Ngài đã thành bậc Chánh Đẳng, Chánh Giác, tự Ngài ngộ lấy không thầy chỉ dạy.

3- Vijjācaraṇasampanno (Minh Hạnh Túc).

Đức Thế Tôn hiệu Vijjācaraṇa-sampanno, bởi Ngài toàn đắc 3 cái giác, 8 cái giác, và 15 cái hạnh.

4- Sugato (Thiện Thệ).

Đức Thế Tôn hiệu Sugato, bởi Ngài đã ngự đến nơi an lạc, bất sanh, bất diệt, Đại Niết Bàn.

5- Lokavidū (Thế Gian Giải).

Đức Thế Tôn hiệu Lokavidū, bởi Ngài đã thông suốt Tam Giới.

6- Anuttaro (Vô Thượng sĩ)

Đức Thế Tôn hiệu Anuttaro, bởi Ngài có đức hạnh không ai bì.

7- Purisadammasārathi (Điều Ngự Trượng Phu).

Đức Thế Tôn hiệu Purisadammasārathi, bởi Ngài là đấng tế độ những người hữu duyên nên tế độ.

8- Satthā-devamanussānaṃ (Thiên Nhơn Sư).

Đức Thế Tôn hiệu Satthā-devamanussānaṃ, bởi Ngài là thầy cả Chư Thiên và nhân loại.

9- Buddho (Phật).

Đức Thế Tôn hiệu Buddho, bởi Ngài Giác ngộ lý Tứ Diệu Đế và đem ra giáo hóa chúng sanh cùng biết với.

10- Bhagavā’ti (Thế Tôn).

Đức Thế Tôn hiệu Bhagavā, bởi Ngài đã siêu xuất Tam Giới tức là Ngài không còn luân hồi lại nữa. (lạy)

***

Hồng danh Phật: nhiệm mầu ỨNG CÚNG

CHÁNH BIẾN TRI, MINH HẠNH trọn đầy

Ơn đức THIỆN THỆ cao dày

Bậc THẾ GIAN GIẢI chỉ bày chơn tâm

VÔ THƯỢNG SĨ đoạn mầm ách phược

Bậc Trọn Lành: ĐIỀU NGỰ TRƯỢNG PHU

TRỜI, NGƯỜI quy phục Đạo-Sư

PHẬT, THẾ TÔN hiển Chơn Như độ đời. (lạy)

 

BUDDHA-ATTAPAṬIÑÑĀ

N’atthi me saraṇaṃ aññaṃ

Buddho me saraṇaṃ varaṃ

Etena sacca-vajjena

Hotu me jaya-maṅgalaṃ.

 

Dịch nghĩa:

Không có sự nương tựa nào khác cho con,

Đức Phật là nơi  nương tựa quý báu

Do lời chân thật này

Hãy là hạnh phúc thù thắng cho con.

 

Ngữ vựng:

N’atthi (na + atthi):          không có

Me:         cho con, cho tôi

Saraṇa:    sự quy y, nơi  nương tựa

Añña:      khác

Etena (eta): do…..này

Sacca:     chân thật

Vajja:     lời nói

Hotu:       hãy là, xin cho

Jaya:        thắng

Maṅgala: hạnh phúc

Jaya-maṅgala:       hạnh phúc thù thắng

 

LỜI BỐ CÁO QUY Y PHẬT BẢO

Chẳng có chi đáng cho con phải nương theo, chỉ có Đức Phật là quý báu, nên con phải hết lòng thành kính mà nương theo, đặng cầu sự an lạc đến cho con, y như lời chơn thật này. (lạy)

***

Chẳng có nơi nương nhờ cao trọng

Bằng Phật Đà vô thượng chí tôn

Chúng con quy ngưỡng một lòng

Y lời chân thật, cầu mong an lành.                  

                                                  (lạy)

 

BUDDHA-KHAMĀPANA

Uttam’aṅgena vande’haṃ

Pāda-paṃsuṃ var’uttamaṃ

Buddhe yo khalito doso

Buddho khamatu taṃ mamaṃ.

 

Dịch nghĩa:

Con xin cúi đầu đảnh lễ bụi trần cao quý dưới chân Đức Phật. Tội nào con mạo phạm đến Đức Phật, cúi xin Đức Phật tha thứ cho con.

 

Ngữ vựng:

Uttaṃ’aṅga (uttama+aṅga): cái đầu

Vande’haṃ (vanda+ahaṃ): con đảnh lễ

Pāda:                                           cái chân

Paṃsu:                            bụi, vi trần

Var’uttama (vara+uttama):           cao thượng

Khalita:                            lỗi lầm

Dosa:                                          sân, tội

Khamati:                          tha thứ

Mamaṃ (mama):                         cho con

 

SÁM HỐI PHẬT BẢO

Con  đem hết lòng thành kính cúi đầu làm lễ vi trần dưới chân Đức Phật, là Đấng Chí Tôn Chí Thánh. Các tội lỗi mà con đã vô ý phạm đến Phật Bảo, cúi xin Phật Bảo xá tội lỗi ấy cho con.         

                                                      (lạy)

****

Gieo năm vóc vi trần đảnh lễ

Những lỗi lầm vô ý gây nên

Cúi xin Ân Phật vô biên

Cho con sám tội tiền khiên từ rày. (lạy)     

                                           

DHAMMARATANAPANĀMA

Aṭṭh’aṅgik’āriya-patho janānaṃ

Mokkha-ppavesāya ujū ca maggo

Dhammo ayaṃ santi-karo paṇīto

Nīyāniko taṃ paṇamāmi Dhammaṃ.

 

Dịch nghĩa:

Con đường Thánh gồm 8 chi của người là con đường trực tiếp dẫn đến giải thoát. Pháp ấy làm cho thanh tịnh và siêu thoát. Con đảnh lễ Pháp hướng đến giải thoát đó.

 

Ngữ vựng:

Aṭṭha:                  8

Aṅgika:               gồm...phần (chi)

Ariya:                  thánh

Patha:                  con đường

Jana:                    người

Mokkha:             giải thoát

Pavesa:                dẫn đến

Uju:                     thẳng, ngay thẳng

Magga:                đạo, con đường

Santi:                   an tịnh

Kara:                   làm cho

Paṇīta:                 siêu việt, giải thoát

Nīyānika = niyyānika: hướng đến giải thoát

 

LỄ BÁI PHÁP BẢO

Các Pháp đúng theo đạo Bát Chánh, là con đàng đi của bậc Thánh Nhân, là con đàng chánh, dẫn người hữu chí nhập Niết-bàn được. Pháp Bảo là Pháp trừ diệt các sự lao khổ và các điều phiền não, là Pháp chỉ dẫn chúng sanh thoát khỏi cái khổ sanh tử luân hồi, con đem hết lòng thành kính mà làm lễ Pháp ấy. (lạy)

****

Bát Thánh Đạo: Con đường chánh giác

Đưa chúng sanh vượt thoát bờ mê

Con nay một niệm quay về

Quy y Pháp Bảo: Bồ-Đề tự tâm. (lạy)

 

LỄ TAM THẾ PHÁP

Ye ca Dhammā atītā ca

Ye ca Dhammā anāgatā

Paccuppannā ca ye Dhammā

Ahaṃ vandāmi sabbadā.

 

Dịch nghĩa:

Giáo Pháp nào (có mặt) trong quá khứ

Giáo Pháp nào (có mặt) trong vị lai

Giáo Pháp nào (có mặt) trong hiện tại

Con thường xin đảnh lễ ba đời Pháp bảo.

 

LỄ TAM THẾ PHÁP

Các Pháp của Chư Phật đã có trong kiếp quá khứ. Các Pháp của Chư Phật sẽ có trong kiếp vị lai. Các Pháp của Chư Phật đang giáo truyền trong kiếp hiện tại này. Con đem hết lòng thành kính mà làm lễ các Pháp trong tam thế ấy. (lạy)

****

Từ quá khứ vô vàn Diệu Pháp

Ở đương lai vô lượng Pháp Mầu

Hiện tiền Phật Pháp thâm sâu

Thuyền Từ phương tiện bắc cầu độ sanh. (lạy)

DHAMMA GUṆA

Svākkhāto Bhagavatā Dhammo:

Sandiṭṭhiko, Akāliko, Ehipassiko, Opanayiko, Paccattaṃ veditabbo viññūhī’ti.

 

Dịch nghĩa:

Pháp đã được Đức Thế Tôn khéo khai thị là Pháp thiết thực hiện tiền, không bị hạn chế bởi thời gian, là Pháp đến để thấy, có khả năng hướng thượng, bậc trí tự mình liễu giải.

 

Ngữ vựng:

Svākkhāta (su+akkhāta): đã khéo tuyên thuyết

Akkhati:                          giảng giải, khai thị,tuyên thuyết

Sandiṭṭhika:                      thiết thực hiện tại, thực tại hiện tiền

Akālika (a+ kālika):         vượt qua thời gian, phi thời gian

Ehipassika (ehi+passika):             hãy đến mà thấy (tự chứng)

Passati:                                        thấy

Opanāyika:( upa+ nayika) hướng thượng, dẫn đến Niết Bàn

Paccattaṃ:                      mỗi người, từng cá nhân

Veditabba (vedeti):          nhận thức, liễu giải

Viññū:                             người biết, người trí

 

ÂN ĐỨC PHÁP BẢO

1- Svākkhāto Bhagavatā dhammo nghĩa là Tam Tạng Pháp Bảo của Đức Thế Tôn đã khẩu truyền y theo chánh pháp.

2- Dhammo là Pháp Thánh có 9 hạng: "4 đạo, 4 quả và 1 Niết Bàn".

3- Sandiṭṭhiko là Pháp mà Chư Thánh đã thấy chắc, biết chắc bởi nhờ kiến tánh, chẳng phải vì nghe, vì tin kẻ nào khác, nghĩa là tự mình thấy rõ chơn lý.

4- Akāliko là Pháp độ cho đắc quả không chờ ngày giờ, là khi nào đắc đạo thì đắc quả không chậm trễ.


5- Ehipassiko là Pháp của Chư Thánh đã đắc quả rồi, có thể ứng hóa cho kẻ khác biết được.

6- Opanayiko là Pháp của Chư Thánh đã có trong mình do nhờ phép Thiền Định.

7- Paccattaṃ veditabbo viññūhi: là Pháp mà các hàng trí tuệ nhất là bậc Thượng Trí được biết, được thấy tự nơi tâm. (lạy)

****

Pháp Bất Diệt: Cha lành khéo dạy

Lìa danh ngôn, hý luận, nghĩ bàn

Vượt thời gian, vượt không gian

Thiết thực hiện tại, hoát nhiên tỏ tường.

Pháp hướng thượng, đến rồi thấy rõ

Lìa si mê, xả bỏ vọng trần

Trí nhân ngộ tánh chân nhân

Tự mình chứng nghiệm Pháp Thân Diệu  Thường. (lạy)

 

DHAMMA-ATTAPAṬIÑÑĀ

N’atthi me saraṇaṃ aññaṃ

Dhammo me saraṇaṃ varaṃ

Etena sacca-vajjena

Hotu me jaya-maṅgalaṃ.

 

Dịch nghĩa:

Không có sự nương tựa nào khác cho con,

Giáo pháp là nơi  nương tựa quí báu

Do lời chơn thật này

Hãy là hạnh phúc thù thắng cho con.

 

LỜI BỐ CÁO QUY Y PHÁP BẢO

Chẳng có chi đáng cho con phải nương theo, chỉ có Pháp Bảo là quí báu, nên con phải hết lòng thành kính mà nương theo, đặng cầu sự an lạc đến cho con, y như lời chơn thật này. (lạy)

****

Chẳng có nơi nương nhờ cao trọng

Bằng Đạo Vàng Vô Thượng Chí Tôn

Chúng con quy ngưỡng một lòng

Y lời chân thật, cầu mong an lành.

 

DHAMMAKHAMĀPANA

Uttam’aṅgena vand’ehaṃ

Dhammañca du-vidhaṃ varaṃ

Dhamme yo khalito doso

Dhammo khamatu taṃ mamaṃ.

 

Dịch nghĩa:

Con xin cúi đầu đảnh lễ hai loại Giáo Pháp cao thượng (pháp học và pháp hành).Tội lỗi nào con đã mạo phạm đến Pháp bảo, cúi xin Pháp bảo tha thứ cho con.

 

Ngữ vựng:

Du (dvi, dve, dvā):           2

Vidhaṃ (vidha):   gồm có...lần (hạng, thứ, bậc, loại)

 

SÁM HỐI PHÁP BẢO

Con đem hết lòng thành kính, cúi đầu làm lễ hai hạng Pháp Bảo là Pháp Học và Pháp Hành. Các tội lỗi mà con đã vô ý phạm đến Pháp Bảo, cúi xin Pháp Bảo xá tội lỗi ấy cho con. (lạy)

****

Gieo năm vóc vi trần đảnh lễ

Những lỗi lầm vô ý khởi sanh

Cúi xin Pháp Học, Pháp Hành

Cho con sám tội tâm thành từ đây.

 

SAṄGHARATANAPANĀMA

Saṅgho visuddho vara-dakkhineyyo

Sant’indriyo sabba mala-ppahīno

Guṇehi nekehi samiddhi-patto

Anāsavo taṃ paṇamāmi Saṅghaṃ.

 

Dịch nghĩa:

Tăng là bậc thanh tịnh, xứng đáng thọ nhận cúng dường, lục căn vắng lặng, đã đoạn tận tất cả ô nhiễm bất tịnh, đã chứng đạt nhiều Đức tính vô lậu. Con xin đảnh lễ Chư  Tăng ấy.

 

Ngữ vựng:

Visuddha:            thanh tịnh trong sạch

Dakkhineyya:    đáng thọ trí

Santi:                   tịch tịnh, an tịnh

Indriya:                căn (lục căn )

Sabba:                 tất cả

Mala:                   ô nhiễm

Pahīna:                trừ diệt

Guṇa:                  ân Đức, Đức tính

Neka:                  nhiều

Samiddhi:            thành

Patta (pāpuṇāti): đạt

Āsava:                 lậu hoặc

An-Āsava:           vô lậu

 

LỄ BÁI TĂNG BẢO

Chư Thánh Tăng đã được trong sạch quí báu là bậc đáng cho người dâng lễ cúng dường, vì lục căn của các Ngài đã thanh tịnh, lòng tham muốn đã dứt trừ, là Tăng đã thoát ly trần tục, con xin hết lòng thành kính mà làm lễ Chư Thánh Tăng ấy. (lạy)

****

Tăng là bậc từ hòa, nghiêm tịnh

Dứt trần lao, Đạo quả viên thành

Lục căn vắng lặng vô sanh

Ứng Cúng Cao Thượng: nhân lành thế gian. (lạy)

 

LỄ TAM THẾ TĂNG

Ye ca Saṅghā atītā ca

Ye ca Saṅghā anāgatā

Paccuppannā ca ye Saṅghā

Ahaṃ vandāmi sabbadā.

Dịch nghĩa:

Tăng già nào (có mặt) trong quá khứ,

Tăng già nào (có mặt) trong vị lai,

Tăng già nào (có mặt) trong hiện tại,

Con thường xin đảnh lễ ba đời Tăng bảo.

 

Chư Tăng đã đắc Đạo cùng Quả trong kiếp quá khứ. Chư Tăng sẽ đắc Đạo cùng Quả trong kiếp vị lai. Chư Tăng đang đắc Đạo cùng Quả trong kiếp hiện tại này, con đem hết lòng thành kính mà làm lễ Chư Thánh Tăng trong tam thế ấy. (lạy)

****

Từ quá khứ vô vàn Tăng Chúng

Ở đương lai vô lượng Thánh, Hiền

Ơn sâu Tăng Bảo hiện tiền

Con xin kính lễ, gieo duyên Niết-Bàn.

 

SAṄGHA GUṆA

Su-paṭipanno Bhagavato Sāvakasaṅgho.

Uju-paṭipanno Bhagavato Sāvakasaṅgho.

Ñāya-paṭipanno Bhagavato Sāvakasaṅgho.

Sāmīci-paṭipanno Bhagavato Sāvakasaṅgho.

Yad’idaṃ cattāri purisa-yugāni, aṭṭha purisa-puggalā. Esa Bhagavato Sāvakasaṅgho:

Āhuṇeyyo, Pāhuṇeyyo, Dakkhiṇeyyo, Añjali-karaṇīyo, Anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassā’ti.

 

Dịch nghĩa:

Chư  Thanh văn đệ  tử của Đức Thế Tôn là bậc thiện hạnh.

Chư  Thanh văn đệ  tử của Đức Thế Tôn là bậc trực hạnh.

Chư  Thanh văn đệ  tử của Đức Thế Tôn là bậc ứng lý hạnh.

Chư  Thanh văn đệ  tử của Đức Thế Tôn là bậc hoà kính hạnh.

Nghĩa là 4 đôi:Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, tức 8 chúng: Tu-đà-hoàn đạo, Tu-đà-hoàn quả, Tư-đà-hàm đạo, Tư-đà-hàm quả, A-na-hàm đạo, A-na-hàm quả, A-la-hán đạo, A-la-hán quả.

Chư  Thanh văn đó là bậc đáng kính, đáng tôn trọng, đáng cúng dường, đáng chấp tay lễ bái, bậc vô thượng phước điền của thế gian.

 

Ngữ vựng:

Su:                      thiện, tốt, diệu

Paṭipanna:            hành theo, sống theo, hạnh

Sāvaka:               Thanh văn

Uju:                     ngay thẳng, chính trực

Ñāya:                  ứng lý, như lý, chánh lý

Sāmīci:                như pháp, hoà kính

Yad’idaṃ:           nghĩa là

Cattāri:                4

Yuga:                  đôi

Puggala:               chiếc,cá nhân

Esa (eta):             đó, ấy

Āhuṇeyya:           đáng kính trọng

Pāhuṇeyya:          đáng tôn kính

Dakkhiṇeyya:      đáng cúng dường

Añjali-karaṇīya: đáng lễ bái, đáng chấp tay

Anuttara:             vô thượng

Puñña:                 phước

 

ÂN ĐỨC TĂNG BẢO

1- Supaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho: Tăng là các bậc Thanh Văn đệ tử Phật, các Ngài đã tu hành chín chắn y theo Chánh Pháp.

2- Ujupaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho: Tăng là các bậc Thanh Văn đệ tử Phật, các Ngài đã tu hành chính chắn y theo Thánh Pháp.

3- Ñāyapaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho: Tăng là các bậc Thanh Văn đệ tử Phật, các Ngài tu hành để Giác Ngộ Niết-Bàn, là nơi an lạc dứt khỏi các sự thống khổ.

4- Sāmīcipaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho: Tăng là các bậc Thanh Văn đệ tử Phật, các Ngài đã tu theo phép Giới Định Tuệ.

5- Yadidaṃ cattāri purisayugāni: Tăng nếu đếm đôi thì có bốn bậc:

- Tăng đã đắc Đạo cùng Quả Tu-Đà-Hườn.

- Tăng đã đắc Đạo cùng Quả Tư Đà Hàm.

- Tăng đã đắc Đạo cùng Quả A Na Hàm.

- Tăng đã đắc Đạo cùng Quả A La Hán.

6- Aṭṭha purisapuggalā: Tăng nếu đếm chiếc thì có tám bậc:

- Tăng đã đắc Đạo Tu-Đà-Hườn.

- Tăng đã đắc Quả Tu-Đà-Hườn.

- Tăng đã đắc Đạo Tư Đà Hàm.

- Tăng đã đắc Quả Tư Đà Hàm.

- Tăng đã đắc Đạo A Na Hàm.

- Tăng đã đắc Quả A Na Hàm.

- Tăng đã đắc Đạo A La Hán.

- Tăng đã đắc Quả A La Hán.

7- Esa Bhagavato sāvakasaṅgho: Chư Tăng ấy là các Bậc Thinh Văn đệ tử Phật.

8- Āhuneyyo: Các Ngài đáng thọ lãnh bốn món vật dụng của tín thí, ở phương xa đem đến dâng cúng cho những người có giới hạnh.

9- Pāhuneyyo: Các Ngài đáng thọ lãnh của tín thí, mà họ dành để cho thân quyến cùng bầu bạn ở các nơi, nhưng họ lại đem đến dâng cúng cho các Ngài.

10- Dakkhiṇeyyo: Các Ngài đáng thọ lãnh của Tín thí, tin lý nhân quả đem đến dâng cúng.

11- Añjalikaraṇīyo: Các Ngài đáng cho chúng sanh lễ bái.

12- Anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassa: Các Ngài là phước điền của chúng sanh không đâu bì kịp. (lạy)

****

Bậc Diệu Hạnh: Thinh Văn Đệ Tử

Bậc Chánh Chơn: Pháp Lữ Tăng-Già

Bậc Mô Phạm cõi ta-bà

Thân tâm Trực Hạnh lìa xa luân hồi.

Thánh Đạo, Quả: bốn đôi, tám chúng

Đệ tử Phật, Ứng Cúng tôn nghiêm

Cung nghinh, kính lễ một niềm

Ân Đức cao cả, phước điền dày sâu.

SAṄGHA-ATTAPATIÑÑĀ

N’atthi me saraṇaṃ aññaṃ

Saṅgho me saraṇaṃ varaṃ

Etena sacca-vajjena

Hotu me jaya-maṅgalaṃ.

Dịch nghĩa:

Không có sự nương tựa nào khác cho con,

Tăng Bảo là nơi  nương tựa quý báu;

Do lời chân thật này,

Mong rằng con có được hạnh phúc thù thắng.

 

LỜI BỐ CÁO QUY Y TĂNG BẢO

Chẳng có chi đáng cho con phải nương theo, chỉ có Đức Tăng là quí báu, nên con phải hết lòng thành kính mà nương theo, đặng cầu sự an lạc đến cho con, y như lời chơn thật này. (lạy)

****

Chẳng có nơi nương nhờ cao trọng

Bằng Tăng-già vô thượng chí tôn

Chúng con quy ngưỡng một lòng

Y lời chân thật, cầu mong an lành.

 

SAṄGHAKHAMĀPANA

Uttam’aṅgena vande’haṃ

Saṅghañ ca duvidh’ottamaṃ,

Saṅghe yo khalito doso

Saṅgho khamatu taṃ mamaṃ.

Dịch nghĩa:

Con xin cúi đầu đảnh lễ hai bậc Tăng cao quý (phàm tăng và thánh tăng). Tội lỗi nào mà con đã mạo phạm đến Tăng bảo, cúi xin Tăng bảo tha thứ cho con.

 

Ngữ vựng:

Duvidh’ottamaṃ: du+vidha+uttamaṃ: hai bậc cao quý.

 

SÁM HỐI TĂNG BẢO

Con đem hết lòng thành kính, cúi đầu làm lễ hai bậc Tăng Bảo là Phàm Tăng và Thánh Tăng, các tội lỗi mà con đã vô ý phạm đến Tăng Bảo, cúi xin Tăng Bảo xá tội lỗi ấy cho con. (lạy)

****

Gieo năm vóc vi trần đảnh lễ

Những lỗi lầm ngã mạn, kiêu căng

Cúi xin chư Thánh, Phàm Tăng

Cho con sám tội, ăn năn từ rày. (lạy)

  




[ Ðầu trang][Trở về mục lục ][ Trở về trang Thư Viện ]

updated: 2024