• Học Kinh Tụng Pali

 

DHAMMACAKKAPPAVATTANA SUTTA

UYYOJANA GĀTHĀ

 

Bhikkhūnaṃ pañcavaggīnaṃ, Isipatananāmake

Migadāye Dhammavaraṃ, yaṃ taṃ NibbānaPāpakaṃ

Sahampatināmakena, Mahābrahmena yācito

Catusaccaṃ pakāsento, lokanātho adesayi

Nanditaṃ sabba devehi, sabbasampattisādhakaṃ

Maggaphalasukhatthāya, Dhammacakkaṃ bhanāma he!

 

Dịch nghĩa:

 

KINH CHUYỂN PHÁP LUÂN

Kệ khai kinh

Do vị Đại Phạm Thiên  tên là Sahampati  Thỉnh cầu, Đức Phật đã thuyết pháp cao thượng, giảng giải về Tứ Thánh Đế – pháp dẫn đến sự Chứngngộ Niết-bàn. Đức Phật thuyết bài kinh này tại vườn nai Isipatana (trước đây là nơi  Chư  Phật Độc Giác thường ngự xuống) cho nhóm năm tỳ khưu (gồm các ngài Koṇḍañña, Vappa, Bhaddiya, Mahānāma và Assaji). Tất cả Chư  Thiên, Phạm  Thiên vô cùng hoan hỷ. Bài kinh này đem lại nhiều thành tựu cho thế gian và siêu thế giới.

Kính bạch Chư  hiền giả, vì muốn đem lại lợi ích và sự Chứng ngộ đạo quả cho tất cả chúng sanh, nay chúng tôi sẽ tụng bài kinh Chuyển Pháp Luân ấy.

 

Ngữ vựng:

 

Bhikkhu:                       tỳ khưu

Vaggi:                           nhóm

Isi:                                đạo sĩ, Độc Giác Phật

Patana (patati):             ngự xuống, rơi xuống

Isipatana:                      nơi  các vị Độc Giác Phật ngự xuống

Miga:                            con nai

Dāya:                           rừng vườn, sự cho tặng

Migadāya:                    rừng nai (lộc uyển)

Dhamma:                      pháp, bài kinh

Vara:                            cao thượng

Yaṃ:                            đại từ, thay Dhammacakkaṃ

Pāpaka:                        xấu ác, dẫn đến (nghĩa trong bài)

Sahampati:                    tên của vị Đại Phạm Thiên

Namaka:                      tên là

Mahābrahma:               Đại Phạm Thiên

Yācita(yācati):              thỉnh mời

Catusacca:                    Tứ đế

Pakāseti:                       chứng minh, giảng giải

Loka:                           thế giới, đời

Nātha:                          nơi  nương nhờ, người bảo hộ

Lokanātha:                   Đức Phật

Adesayi (deseti):           thuyết giảng

Nandita (nandati):         hoan hỷ

Deva:                           Chư   Thiên

Sampatti:                      sự an vui, sự thành tựu, giác ngộ

Sādhaka:                      hiệu lực, hoàn thành

Atthāya:                        vì lý do

Bhanāma(bhanati):        (chúng tôi) tụng

He:                               này các hiền giả

 

***

1. Evaṃ me sutaṃ—ekaṃ samayaṃ Bhagavā Bārāṇasiyaṃ viharati Isipatane migadāye. Tatra kho Bhagavā pañcavaggiye bhikkhū āmantesi.

Dveme bhikkhave antā pabbajitena na sevitabbā. Katame dve?

Yo cāyaṃ kāmesu kāmasukhallikānuyogo, hīno, gammo, pothujjaniko, anariyo, anatthasaṃhito.

Yo cāyaṃ attakilamathānuyogo dukkho, anariyo, anatthasaṃhito.

Ete kho bhikkhave ubho ante anupagamma majjhimā paṭippadā Tathāgatena abhisambuddhā cakkhu-karaṇī ñāṇa-karaṇī upasamāya abhiññāya sambodhāya nibbānāya saṃvattati.

 

Dịch nghĩa:

Con (là Ānanda) được nghe (bài kinh Chuyển Pháp Luân) như vậy:

Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại vườn nai Isipatana gần thành Bārāṇasi. Lúc ấy Đức Thế Tôn gọi nhóm năm tỳ khưu:

Này các tỳ khưu, có hai pháp cực đoan mà người xuất gia không hành theo.

Hai pháp ấy như thế nào?

Một là việc thường thụ hưởng các dục lạc trong ngũ trần, là pháp thấp hèn của người tại gia, phàm phu, không phải của bậc Thánh, không có sự lợi ích an vui nào.

Hai là tự ép xác khổ hạnh, làm khổ thân tâm, không phải là pháp của bậc Thánh, không đem lại sự lợi ích an vui nào.

Này các tỳ khưu! Nhờ hành theo trung đạo, không Thiên về hai cực đoan ấy, mà Như Lai đã giác ngộ Tứ Thánh Đế, làm cho tuệ nhãn phát sanh, làm cho trí tuệ phát sinh, dẫn đến sự vắng lặng mọi phiền não, dẫn đến thắng trí, dẫn đến Niết-bàn.

 

Ngữ vựng:

Evaṃ:                           như vậy

Me:                              bởi tôi, của tôi

Suta:                             sự nghe

Samaya:                       lần, thuở

Eka:                             một

Samaya:                       lần thuở

Tatra kho:                     khi ấy

Pañcavaggiye bhikkhū: nhóm 5 tỳ khưu

Āmantesi(āmanteti): gọi

Dve:                             hai

Ime:                              này

Dveme = dve + ime

Anta:                            cực đoan

Pabbajita:                     người xuất gia

Sevitabba (sevati): gần gũi, thân cận, thực hành

Katama:                       như thế nào

Kāmesu:                       trong các đối tượng ưa thích

Kāmasukhallika:           tham muốn dục lạc

Anuyoga:                      đi theo, trói buộc, thường hành

Hīna:                            thấp hèn

Gamma:                        thuộc về phàm phu, tại gia

Pothujjanika:                 nặng phiền não, đam mê ngũ dục

Anariya:                        không phải bậc thánh

Anatthasaṃhita:            không có lợi ích

Atta:                             tự ngã, thân và tâm (nghĩa trong bài)

Kilamatha:                    khổ hạnh, mệt mỏi, vất vả

Dukkha:                       khổ

Ubha:                           cả hai

Anupagamma (ana+upagacchati): không  thiên về, không đến gần

Tathāgata:                     Như Lai

Abhisambuddhā:           tự mình Chứng ngộ

Cakkhu-karaṇī:            làm cho tuệ nhãn phát sinh

Nāṇa-karaṇī:                làm cho trí tuệ phát sinh

Upasama:                     sự vắng lặng (hữu dư Niết bàn)

Abhiññā:                       trí tuệ siêu việt

Saṃbodha:                  giác ngộ

Saṃvattati:                   dẫn đến

Nibbāna:                      vô dư Niết bàn

***

2. Katamā ca sā bhikkhave majjhimā paṭipadā Tathāgatena abhisambuddhā cakkhu-karaṇī ñāṇa-karaṇī upasamāya abhiññāya sambodhāya nibbānāya saṃvattati?

Ayameva ariyo aṭṭhaṅgiko maggo. Seyyathidaṃ?

Sammādiṭṭhi, sammāsaṅkappo, sammāvācā, sammākammanto, sammā-ājīvo, sammāvāyāmo, sammāsati, sammāsamādhi.

Ayaṃ kho sā bhikkhave majjhimā paṭipadā  Tathāgatena abhisambuddhā cakkhu-karaṇī ñāṇa-karaṇī upasamāya abhiññāya sambodhāya nibbānāya saṃvattati.

 

Ngữ vựng:

Katama:                       như thế nào

Sā:                               này

Ayameva (ayaṃ+eva): chỉ có đây

Ariya-magga:                Thánh đạo

Aṭṭhaṅgika:                   hợp đủ 8 chi

Seyyathidaṃ:                như thế nào, như sau

Sammāditṭṭhi:                chánh kiến

Sammāsaṅkappa:         chánh tư duy

Sammāvācā:                 chánh ngữ

Sammākammanta:         chánh nghiệp

Sammā-ājīva:                chánh mạng

Sammāvājāma:             chánh tinh tấn

Sammāsati:                   chánh niệm

Sammāsamādhi:            chánh định

Majjhimā paṭipadā :      pháp hành trung đạo

 

Dịch nghĩa:

Này Chư  tỳ khưu, thế nào là pháp hành trung đạo mà Như Lai đã thực hành để  giác ngộ Tứ Thánh Đế làm cho tuệ nhãn phát sinh, làm cho trí tuệ phát sinh, dẫn đến sự vắng lặng mọi phiền não, dẫn đến thắng trí, dẫn đến Niết-bàn?

Pháp hành trung đạo đó chính là Thánh đạo hợp đủ 8 chi cao thượng là chánh kiến, chánh tư duy, chánh Ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.

***

3. Idaṃ kho pana bhikkhave dukkhaṃ ariyasaccaṃ, jātipi dukkhā, jarāpi dukkhā, byādhipi dukkhā, maraṇampi dukkhaṃ, appiyehi sampayogo dukkho, piyehi vippayogo dukkho, yaṃ picchaṃ na labhati taṃ pi dukkhaṃ, saṅkhittena pañcupādānakkhandhā pi dukkhā.

Dịch nghĩa:

Này Chư  tỳ khưu, Khổ thánh đế là:

-Tái sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ và chết là khổ.

-Phải sống chung với người không thương yêu hay gặp cảnh trái ý nghịch lòng là khổ.

-Phải xa lìa người thương yêu hay mất cảnh vừa lòng là khổ.

-Cầu mong (đừng có sanh, già, bệnh, chết...) mà không được như ý cũng là khổ

Tóm lại chấp thủ ngũ uẩn là khổ.

Ngữ vựng:

 

Jāti:                              sự tái sanh

Jarā:                             sự già

Byādhi:                         bệnh

Maraṇa:                       sự chết

Piya:                             yêu thương, vừa lòng

Appiya (a+piya):           không vừa lòng

Sampayoga:                  gần gũi, tiếp xúc

Vippayoga:                   xa lìa, mất đi

Icchaṃ:                        mong mỏi

Saṅkhittena:                  tóm lại

PañcuPādānakkhandhā: chấp thủ ngũ uẩn

 

4. Idaṃ kho pana bhikkhave dukkhasamudayaṃ ariyasaccaṃ, yāyaṃ taṇhā ponobbhavikā nandīrāga-sahagatā tatra tar’ābhinandinī. Seyyathidaṃ, kāmataṇhā, bhavataṇhā, vibhavataṇhā.

Dịch nghĩa:

Này Chư  tỳ khưu, nhân sanh khổ thánh đế này chính là tâm tham ái, là nhân dẫn dắt tái sanh, hợp với tham muốn, thoả thích, có trạng thái thường say đắm hoan lạc trong kiếp sống hay trong các đối  tượng. Nhân sanh khổ thánh đế ấy là:

-Dục ái (tham đắm trong 6 cảnh trần)

-Hữu ái (tham đắm  trong 6 cảnh trần hợp với thường kiến, hoặc tham ái trong thiền hữu sắc, thiền vô sắc, cõi trời hữu sắc, vô sắc)

-Phi hữu ái (tham đắm  trong 6 cảnh trần hợp với đoạn kiến, hoặc tham ái trong thiền vô sắc, cõi trời vô sắc).

 

Ngữ vựng:

 

 


Ngữ vựng:

Gāminī: dẫn đến

***

7. Idaṃ dukkhaṃ ariyasaccan’ti me bhikkhave pubbe ananussutesu dhammesu cakkhuṃ. udapādi, ñāṇaṃ udapādi, paññā udapādi, vijjā udapādi, āloko udapādi.

Taṃ kho pan’idaṃ dukkhaṃ ariyasaccaṃ pariññeyyan’ti me bhikkhave pubbe ananussutesu dhammesu cakkhuṃ udapādi, ñāṇaṃ udapādi, paññā udapādi, vijjā udapādi, āloko udapādi.

Taṃ kho pan’idaṃ dukkhaṃ ariyasaccaṃ pariññātan'ti me bhikkhave pubbe ananussutesu dhammesu cakkhuṃ udapādi, ñāṇaṃ udapādi, paññā udapādi, vijjā udapādi, āloko udapādi.

 

Ngữ vựng:

Ti = iti:                          là rằng

Pubbe:                          trước đây

Ananussuta:                  chưa từng nghe, chưa từng biết

Cakkhu = paññācakkhu: tuệ nhãn

Udapādi (udapajjati): đã phát sanh

Ñāṇa:                           trí tuệ (thấy rõ khổ thánh đế)

Paññā:                          trí tuệ (có tính phân tích)

Vijjā:                            tuệ minh

Āloka:                          ánh sáng (của trí tuệ)

Me:                              đến với ta (Như Lai)

Pariññeyya:                   nên biết

Pariññāta:                     đã được biết

 

Dịch nghĩa:

Này chư  tỳ khưu, tuệ nhãn (thấy rõ Khổ thánh đế) đã phát sanh, trí tuệ thiền tuệ đã phát sanh, trí tuệ (thấy rõ khổ sanh, khổ già.v.v...) đã phát sanh, tuệ minh đã phát sanh, ánh sáng trí tuệ (diệt màn vô minh che ám khổ thánh đế) đã phát sanh đến với Như Lai trong mọi pháp mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng:

“Thực tánh tất cả các pháp sanh trong tam giới (ngoại trừ tham ái), gọi là khổ thánh đế”.

Này chư  tỳ khưu, tuệ nhãn (thấy rõ khổ thánh đế) đã phát sanh, trí tuệ thiền tuệ đã phát sanh, trí tuệ (thấy rõ khổ sanh, khổ già v.v...) đã phát sanh, tuệ minh đã phát sanh, áng sáng trí tuệ (diệt màn vô minh che ám khổ thánh đế) đã phát sanh đến với Như Lai trong mọi pháp mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng:

“Thực tánh tất cả các pháp sanh trong tam giới, khổ thánh đế ấy là pháp cần phải biết rõ bằng trí tuệ”.

Này chư  tỳ khưu, tuệ nhãn (thấy rõ khổ thánh đế) đã phát sanh, trí tuệ thiền tuệ đã phát sanh, trí tuệ (thấy rõ khổ sanh, khổ già v.v...) đã phát sanh, tuệ minh đã phát sanh, ánh sáng trí tuệ (diệt màn vô minh che ám khổ thánh đế) đã phát sanh đến với Như Lai trong mọi pháp mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng:

“Thực tánh tất cả các pháp sanh trong tam giới, khổ thánh đế ấy, là pháp cần phải biết, thì đã được biết rõ bằng Thánh đạo tuệ.

***

8. Idaṃ dukkhasamudayaṃ ariyasaccan’ ti me bhikkhave pubbe ananussutesu dhammesu cakkhuṃ udapādi, ñāṇaṃ udapādi, paññā udapādi, vijjā udapādi, āloko udapādi.

Taṃ kho pan’idaṃ dukkhasamudayaṃ ariyasaccaṃ pahātabban’ti me bhikkhave pubbe ananussutesu dhammesu cakkhuṃ udapādi, ñāṇaṃ udapādi, paññā udapādi, vijjā udapādi, āloko udapādi.

Taṃ kho pan’idaṃ dukkhasamudayaṃ ariyasaccaṃ pahīnan’ti me bhikkhave pubbe ananusstesu dhammesu cakkhuṃ udapādi, ñāṇaṃ udapādi, paññā udapādi, vijjā udapādi, āloko udapādi.

 

Ngữ vựng:

Pahātabba:                   cần phải diệt tận

Pahīna:                         đã được diệt tận

Dịch nghĩa:

Này chư  tỳ khưu, tuệ nhãn (thấy rõ tham ái là nhân sanh khổ đế) đã phát sanh, trí tuệ (thấy rõ 108 loại tham ái) đã phát sanh, tuệ minh (thấu suốt mọi nhân sanh khổ thánh đế) đã phát sanh, ánh sáng trí tuệ (diệt màn vô minh che ám khổ thánh đế) đã phát sanh đến với Như Lai trong mọi pháp mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như Lai chưa từng  được nghe, chưa từng  được biết rằng:

“Thực tánh 3 loại tham ái gọi là nhân sanh khổ thánh đế, còn gọi là Tập Thánh Đế”.

Này chư  tỳ khưu, tuệ nhãn (thấy rõ tham ái là nhân sanh khổ thánh đế) đã phát sanh, trí tuệ (thấy rõ thực tánh ba loại tham ái) đã phát sanh, trí tuệ (thấy rõ 108 loại tham ái) đã phát sanh, tuệ minh (thấu suốt mọi nhân sanh khổ thánh đế) đã phát sanh ánh sánh trí tuệ (diệt màn vô minh che ám khổ thánh đế) đã phát sanh đến với Như Lai, trong mọi pháp mà trước đây, khi  chưa thành Phật, Như Lai chưa từng  được nghe, chưa từng  được biết rằng:

“Thực tánh 3 loại tham ái gọi là nhân sanh khổ thánh đế ấy, là pháp cần phải diệt bằng Thánh đạo tuệ”.

Này chư   tỳ khưu, tuệ nhãn (thấy rõ tham ái là nhân sanh khổ thánh đế) đã phát sanh, trí tuệ (thấy rõ thực tánh ba loại tham ái) đã phát sanh, trí tuệ (thấy rõ 108 loại tham ái) đã phát sanh, tuệ minh (thấu suốt mọi nhân sanh khổ thánh đế) đã phát sanh, ánh sáng trí tuệ (diệt màn vô minh che ám khổ thánh đế) đã phát sanh đến với Như Lai trong mọi pháp mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như Lai chưa từng  được nghe, chưa từng  được biết rằng:

“Thực tánh 3 loại tham ái gọi là nhân sanh khổ thánh đế ấy là pháp cần phải diệt tận thì đã được diệt tận bằng Thánh đạo tuệ rồi”.

***

9. Idaṃ dukkhanirodhaṃ ariyasaccan’ti me bhikkhave pubbe ananussutesu dhammesu cakkhuṃ udapādi, ñāṇaṃ udapādi, paññā udapādi, vijjā udapādi, āloko udapādi.

Taṃ kho pan’idaṃ dukkhanirodhaṃ ariyasaccaṃ sacchikātabban’ti me bhikkhave pubbe ananussutesu dhammesu cakkhuṃ udapādi, ñāṇaṃ udapādi, paññā udapādi, vijjā udapādi, āloko udapādi.

Taṃ kho pan’idaṃ dukkhanirodhaṃ ariyasaccaṃ sacchikātan’ti me bhikkhave pubbe ananussutesu dhammesu cakkhuṃ udapādi, ñāṇaṃ udapādi, paññā udapādi, vijjā udapādi, āloko udapādi.

 

Ngữ vựng:

Sacchikātabba:             cần phải chứng ngộ

Sacchikata:                   đã được chứng ngộ

 

Dịch nghĩa:

Này Chư  tỳ khưu, tuệ nhãn (thấy rõ Niết-bàn là nơi  diệt khổ thánh đế) đã phát sanh, trí tuệ thiền tuệ (thấy rõ Niết-bàn là nơi  an vui tuyệt đối) đã phát sanh, trí tuệ (thấy rõ 2 loại Niết-bàn, 3 loại Niết-bàn) đã phát sanh, tuệ minh (thấu suốt Niết-bàn là nơi  diệt khổ thánh đế) đã phát sanh, ánh sáng trí tuệ (diệt màn vô minh che ám khổ thánh đế) đã phát sanh đến với Như Lai trong mọi pháp mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng:

“Thực tánh Niết bàn ấy gọi là nơi  diệt khổ Thánh đế, còn gọi là Diệt Thánh đế”.

Này Chư tỳ khưu, tuệ nhãn (thấy rõ Niết-bàn là nơi  diệt khổ thánh đế) đã phát sanh, trí tuệ thiền tuệ (thấy rõ Niết-bàn là nơi  an vui tuyệt đối) đã phát sanh, trí tuệ (thấy rõ 2 loại Niết-bàn, 3 loại Niết-bàn) đã phát sanh, tuệ minh (thấu suốt Niết-bàn là nơi  diệt khổ thánh đế) đã phát sanh, ánh sáng trí tuệ (diệt màn vô minh che ám khổ thánh đế) đã phát sanh đến với Như Lai trong mọi pháp mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng:

“Thực tánh Niết bàn là nơi  diệt khổ Thánh đế ấy, là pháp cần phải chứng ngộ bằng thánh đạo tuệ.

 Này chư  tỳ khưu, tuệ nhãn (thấy rõ Niết-bàn là nơi  diệt khổ thánh đế) đã phát sanh, trí tuệ thiền tuệ (thấy rõ Niết-bàn là nơi  an vui tuyệt đối) đã phát sanh, trí tuệ (thấy rõ 2 loại Niết-bàn, 3 loại Niết-bàn) đã phát sanh, tuệ minh (thấu suốt Niết-bàn là nơi  diệt khổ thánh đế) đã phát sanh, ánh sáng trí tuệ (diệt màn vô minh che ám khổ thánh đế) đã phát sanh đến với Như Lai trong mọi pháp mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng:

“Thực tánh Niết bàn là nơi  diệt khổ Thánh đế ấy, là pháp cần phải chứng ngộ thì đã được chứng ngộ bằng Thánh đạo tuệ rồi.

***

10. Idaṃ dukkhanirodhagāminī paṭipadā  ariyasaccan’ti me bhikkhave pubbe ananussutesu dhammesu cakkhuṃ udapādi, ñāṇam udapādi, paññā udapādi, vijjā udapādi, āloko udapādi.

Taṃ kho pan’idaṃ dukkhanirodhagāminī paṭipadā  ariyasaccaṃ bhāvetabban’ti me bhikkhave pubbe ananussutesu dhammesu cakkhuṃ udapādi, ñāṇaṃ udapādi, paññā udapādi, vijjā udapādi, āloko udapādi.

Taṃ kho pan’idaṃ dukkhanirodhagāminī paṭipadā  ariyasaccaṃ bhāvitan’ti me bhikkhave pubbe ananussutesu dhammesu cakkhuṃ udapPādi, ñāṇam udapādi, paịnā udapādi, vijjā udapādi, āloko udapādi.

 

Ngữ vựng:

Bhāvetabba (bhāveti): cần phải tiến hành

Bhāvita:                        đã được tiến hành

 

Dịch nghĩa:

Này chư tỳ khưu, tuệ nhãn (thấy rõ Bát chánh đạo là pháp hành dẫn đến sự chứng ngộ Niết-bàn, là nơi  diệt khổ thánh đế) đã phát sanh, trí tuệ thiền tuệ (thấy rõ thực tánh Bát chánh đạo) đã phát sanh, trí tuệ (thấy rõ mỗi chi trong Bát chánh đạo) đã phát sanh, tuệ minh (thấu suốt Bát chánh đạo) đã phát sanh, ánh sáng trí tuệ (diệt màn vô minh che ám Bát chánh đạo) đã phát sanh đến với Như Lai trong mọi pháp mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như Lai chưa từng  được nghe, chưa từng  được biết rằng:

“Thực tánh Thánh đạo hợp đủ 8 chi là pháp hành dẫn đến sự chứng ngộ Niết-bàn, nơi  diệt khổ thánh đế, còn gọi là Đạo thánh đế”.

Này chư tỳ khưu, tuệ nhãn (thấy rõ Bát chánh đạo là pháp hành dẫn đến sự chứng ngộ Niết-bàn, là nơi  diệt khổ thánh đế) đã phát sanh, trí tuệ thiền tuệ (thấy rõ thực tánh Bát chánh đạo) đã phát sanh, trí tuệ (thấy rõ moãi chi trong Bát chánh đạo) đã phát sanh, tuệ minh (thấu suốt Bát chánh đạo) đã phát sanh, ánh sáng trí tuệ (diệt màn vô minh che ám Bát chánh đạo) đã phát sanh đến với Như Lai trong mọi pháp mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như Lai chưa từng  được nghe, chưa từng  được biết rằng:

“Thực tánh Thánh đạo hợp đủ 8 chi là pháp hành dẫn đến sự chứng ngộ Niết-bàn, nơi  diệt khổ thánh đế ấy, là pháp cần phải tiến hành”.

 Này chư tỳ khưu, tuệ nhãn (thấy rõ Bát chánh đạo là pháp hành dẫn đến sự chứng ngộ Niết-bàn, là nơi  diệt khổ thánh đế) đã phát sanh, trí tuệ thiền tuệ (thấy rõ thực tánh Bát chánh đạo) đã phát sanh, trí tuệ (thấy rõ mỗi chi trong Bát chánh đạo) đã phát sanh, tuệ minh (thấu suốt Bát chánh đạo) đã phát sanh, ánh sáng trí tuệ (diệt màn vô minh che ám Bát chánh đạo) đã phát sanh đến với Như Lai trong mọi pháp mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như Lai chưa từng  được nghe, chưa từng được biết rằng:

“Thực tánh Thánh đạo hợp đủ 8 chi là pháp hành dẫn đến sự chứng ngộ Niết-bàn, nơi  diệt khổ thánh đế ấy, là pháp cấn phải tiến hành, thì đã được tiến hành rồi.”

***

 11. Yāvakīvañca me bhikkhave imesu catūsu ariyasaccesu evaṃ Tiparivaṭṭaṃ dvādasākāraṃ yathābhūtaṃ ñāṇadassanaṃ na suvisuddhaṃ ahosi, neva tāv’āhaṃ bhikkhave sadevake loke samārake sabrahmake sassamaṇabrahmaÓiyā pajāya devamanussāya “anuttanaṃ sammā-sambodhiÑ abhisambuddho” ti paccaññāsiṃ.

 

Ngữ vựng:

Yāvakīva:                     cho đến khi nào

Tiparivaṭṭaṃ:                3 lần chuyển, tam luân

Dvādasākāra:               12 thể loại (trí tuệ)

Yathābhūta:                  đúng theo thực tánh của pháp

Ñāṇadassana:               tri kiến

Suvisuddha:                  hoàn toàn trong sáng thanh tịnh

Na ahosi:                      chưa phát sanh

Neva:                           không bao giờ

Tāvāhaṃ (tāva+ahaṃ): cho đến khi Như Lai

Devaka:                        Chư Thiên ở 5 cõi trời dục giới

Loka:                           thế gian

Māraka:                       Tha hóa tự Thiên

Brahmaka:                    20 tầng trời Phạm Thiên

Sassamaṇabrahmaniyā: cùng với sa-môn, bà-la-môn

Pajā:                             tất cả chúng sanh

Devamanussa:               Chư Thiên cùng nhân loại

Anuttara:                      vô thượng

Sammāsambodhi:          Chánh Đẳng chánh giác

Abhisambuddho:           Chứng đắc

Paccaññāsiṃ:                tuyên bố

 

Dịch nghĩa:

Này Chư tỳ khưu, khi nào trí tuệ, thấy rõ, biết rõ thực tánh của các pháp một cách hoàn toàn trong sáng thanh tịnh theo 3 bậc tuệ luân (trí tuệ học, trí tuệ hành, trí tuệ thành) trong Tứ Thánh đế thành 12 thể loại trí tuệ chưa phát sanh đến với Như Lai, này Chư  tỳ khưu, khi ấy Như Lai chưa tuyên bố rằng: “Như Lai đã Chứng đắc vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác” trong hàng sa-môn, bà-la-môn, nhân loại, chư  Thiên, ma vương, và Phạm Thiên cả thảy.

***

12. Yato ca kho me bhikkhave imesu catūsu ariyasaccesu evaṃ Tiparivaṭṭaṃ dvādasākāraṃ yathābhūtaṃ ñāṇadassanaṃ suvisuddhaṃ ahosi, ath’āhaṃ bhikkhave sadevake loke samārake sabrahmake sassamaṇabrahmaṇiyā pajāya devamanussāya “anuttaraṃ sammā sambodhiṃ abhisambuddho” ti paccaññāsiṃ.

            Ñaṇañca pana me dassanaṃ udapādi "akuppā me vimutti, ayam'antimā jāti, natthi'dāni punabbhavoti".

 

Ngữ vựng:

Yato:                            khi nào

Athāhaṃ (atha+ahaṃ): khi ấy Như Lai...

Ñāṇa:                           trí tuệ (quán xét 4 thánh đạo và 4 thánh quả)

Akuppa:                       không bao giờ hư hoại

Vimutti:                         giải thóat (A-la-hán quả)

Ayaṃ jāti:                     kiếp này

Antima:                         cuối cùng

N’atthi:                         không còn

Idāni:                            ngay trong kiếp này

Punabbhavoti:               tái sanh

 

Dịch nghĩa:

Này chư tỳ khưu, khi nào trí tuệ, thấy rõ, biết rõ thực tánh của các pháp một cách hoàn toàn trong sáng thanh tịnh theo 3 bậc tuệ luân (trí tuệ học, trí tuệ hành, trí tuệ thành) trong tứ Thánh đế thành 12 thể loại trí tuệ đã phát sanh đến với Như Lai, này chư tỳ khưu, khi ấy Như Lai mới mạnh dạn tuyên bố rằng: “Như Lai đã chứng đắc vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác” trong hàng sa môn, bà-la-môn, nhân loại, chư  Thiên, ma vương, và Phạm Thiên cả thảy.

Tuệ tri kiến quán xét thấy rõ biết rõ A-la-hán thánh đạo thánh quả đã phát sanh đến với Như Lai. Sự giải thoát ra khỏi tất cả mọi phiền não của Như Lai không bao giờ hư mất. Kiếp này là kiếp chót, Như Lai không còn tái sanh trở lại kiếp nào nữa.

***

13. Idam’avoca Bhagavā attamanā pañcavaggiyā bhikkhū Bhagavato bhāsitaṃ abhinandun’ti.

Imasmiñca pana veyyākaraṇasmiṃ bhaññamāne āyasmato Koṇḍaññassa virajaṃ vītamalaṃ dhammacakkhuṃ udapādi “yaṃ kiñci samudayadhammaṃ sabbantaṃ nirodhadhamman” ti.

 


Ngữ vựng:

Idaṃ = idaṃ vācānaṃ: những lời này

Avoca:                         đã thuyết

Attamana:                     hoan hỷ

Bhagavato:                   của Đức Thế Tôn

Bhāsita:                        lời giáo huấn

Abhinandati:                 hoan hỷ tán dương

Veyyākaraṇa:               bài pháp thoại

Bhaññamāna:                đang thuyết giảng

Āyasmā:                       Đại đức

Viraja:                          thoát khỏi bụi nhơ (của thường kiến)

Vītamāla:                      không còn bụi nhơ (của đoạn kiến)

Dhammacakkhu:           pháp nhãn

Yaṃ kiñci:                    pháp hành nào

Samudayadhamma:       có trạng thái sanh

Nirodhadhamma:          có trạng thái diệt

 

Dịch nghĩa:

Đức Thế Tôn thuyết giảng bài kinh Chuyển Pháp Luân này xong, nhóm 5 tỳ khưu vô cùng hoan hỷ với lời giáo huấn của ngài. Trong khi bài pháp thoại được tuyên giảng thì pháp nhãn (chứng ngộ Tứ Thánh Đế), tâm không còn bụi nhơ bởi phiền não thường kiến, không còn ô nhiễm bởi đoạn kiến, đã phát sanh đến ngài Đại Đức Koṇḍañña. Ngài biết rõ ràng chắc chắn rằng: “Bất cứ pháp hành nào có trạng thái sanh, tất cả các pháp hành ấy đều có trạng thái diệt”.

***

14. Pavattite ca pana Bhagavatā dhammacakke bhummā devā saddamanussāvesuṃ “etaṃ Bhagavatā Bārāṇasiyaṃ Isipatane migadāye anuttaraṃ dhammacakkaṃ pavattitaṃ appaṭivattiyaṃ samaṇena vā brahmaṇena vā devena vā mārena vā brahmuna vā kenaci vā lokasmin’ti.”

Bhummānaṃ devānaṃ saddaṃ sutvā Cātummahārājikā devā sadda-manussāvesuṃ...

Cātummahārājikānaṃ devānaṃ saddaṃ sutvā Tāvatiṃsā devā saddamanussāvesuṃ...

Tāvatiṃsānaṃ devānaṃ saddaṃ sutvā Yāmā devā sadda-manussāvesuṃ ...

Yāmānaṃ devānaṃ saddaṃ sutvā Tusitā devā sadda-manussāvesuṃ...

Tusitānaṃ devānaṃ saddaṃ sutvā Nimmānaratī devā sadda-manussāvesuṃ...

Nimmānaratīnaṃ devānaṃ saddaṃ sutvā Paranimmitavasavattī devā saddamanussāvesuṃ...

Paranimmitavasavattīnaṃ devānaṃ saddaṃ sutvā Brahmakāyikā devā saddamanussāvesuṃ “Etaṃ Bhagavatā Bārāṇasiyaṃ Isipatane migadāye anuttaraṃ dhammacakkaṃ pavattitaṃ appaṭivattiyaṃ samaṇena vā brahmanena vā devena vā mārena vā brahmuna vā kenaci vā lokasmin’ti.

Itiha tena khaṇena tena layena tena muhuttena yāva brahmalokā saddo abbuggacchi ayañca dasasahassī lokadhātu saṅkampi sampakampi sampavedhi.

 Appamāṇo ca uḷāro obhāso loke Pāturahosi atikkamma devānaṃ devanubhāvanti.

Atha kho Bhagavā imaṃ udānaṃ udānesi “Aññāsi vata bho Koṇḍañño, aññāsi vata bho Koṇḍañño” ti.

Itihidaṃ āyasmato Koṇḍaññassa 'Aññāsi Koṇḍañño' tveva nāmaṃ ahosī’ti.

 

Dịch Nghĩa:

Khi Đức Thế Tôn thuyết giảng kinh Chuyển Pháp Luân vừa xong, chư  thiên trên địa cầu đồng thanh tán dương ca tụng rằng:

“Đức Thế Tôn thuyết Chuyển  Pháp Luân Vô Thượng tại vườn nai Isipatana gần thành Bārāṇasī, chưa từng  có sa-môn, hay bà-la-môn, hay chư  thiên, ma vương, phạm thiên, hay bất cứ một ai trong đời này có thể thuyết chuyển pháp luân như vậy được”.

Chư  thiên ở cõi Tứ Đại Thiên Vương được nghe lời tán dương ca tụng của chư  thiên ở địa cầu cũng đồng thanh tán dương ca tụng như trên.

Chư  thiên ở cõi Tam Thập Tam Thiên được nghe lời tán dương ca tụng của chư  thiên ở cõi Tứ Đại Thiên vương cũng đồng thanh tán dương ca tụng như trên.

Chư  thiên ở cõi Dạ Ma Thiên được nghe lời tán dương ca tụng của chư  thiên ở cõi Tam Thập Tam Thiên cũng đồng thanh tán dương ca tụng như trên.

Chư  thiên ở cõi Đâu Xuất Thiên được nghe lời tán dương ca tụng của chư  thiên ở cõi Dạ Ma Thiên cũng đồng thanh tán dương ca tụng như trên.

Chư  thiên ở cõi Hoá Lạc Thiên được nghe lời tán dương ca tụng của chư  thiên ở cõi Đâu Xuất Thiên cũng đồng thanh tán dương ca tụng như trên.

Chư  thiên ở cõi Tha Hoá Tự Tại Thiên được nghe lời tán dương ca tụng của chư  thiên ở Hoá Lạc Thiên cũng đồng thanh tán dương ca tụng như trên.

Chư  thiên ở cõi Phạm Thiên được nghe lời tán dương ca tụng của chư  thiên ở cõi Tha Hoá Tự Tại Thiên cũng đồng thanh tán dương ca tụng rằng:

“Đức thế tôn thuyết chuyển pháp luân vô thượng tại vườn nai Isipatana gần thành Bārāṇasī, chưa từng  có sa-môn, hay bà-la-môn, hay chư  thiên, ma vương, phạm thiên, hay bất cứ một ai trong đời này có thể thuyết chuyển pháp luân như vậy được”.

Ngay sát na ấy, ngay lúc ấy, ngay khoảnh khắc ấy, lời tán dương ca tụng thấu lên  đến cõi trời Sắc Giới Phạm Thiên cao nhất là Sắc Cứu Cánh Thiên. mười ngàn thế giới đều rung chuyển, rúng động, rung rinh. Ánh sáng hào quang của Đức Chánh Đẳng Chánh Giác tỏa rộng vô biên cùng khắp thế giới, hơn hẳn tất cả oai lực của chư  thiên phạm thiên cả thảy.

 

Ngữ vựng:

Pavattite:                      khi đang thuyết giảng

Bhagavatā:                    bởi Đức Thế Tôn

Bhummā Devā:             chư  thiên ở trên địa cầu

Saddamanussaveti:        tán dương, ca tụng

Pavattita:                      (thuyết) chuyển

Appaṭivattiya:               không được thuyết chuyển

Kenaci:                         bất cứ người nào

Cātummahārājikā Devā: Chư  Thiên ở cõi Tứ Thiên Vương

Tāvatiṃsā Devā:           Chư  Thiên ở cõi Tam Thập Tam Thiên

Yāmā Devā:                 Chư  Thiên ở cõi trời Dạ Ma

Tusitā Devā:                 Chư  Thiên ở cõi trời Đâu Suất

Nimmānaratī Devā: Chư  Thiên ở cõi trời Hoá Lạc

Paranimmitavasavattī Devā: Chư  Thiên ở cõi trời Tha HóaTự Tại

Brahmakāyikā Devā: Chư  Thiên ở cõi Phạm Thiên

Tena Khaṇena:             ngay trong sát na ấy

Tena Layena:                ngay lúc ấy

Tena Muhuttena:           ngay trong khoảnh khắc ấy

Yāva:                           cho đến

Abbhuggacchati:           vang dội đến

Dasasahassī:                 10 000

Lokadhātu:                   thế giới

Saṅkampati:                 rung chuyển

Sampakampati:             rúng động

Appamāṇa:                   vô lượng

Uḷāra:                           lớn rộng, cao cả

Obhāsa:                        ánh sáng, hào quang

Pāturahoti:                    hiện ra rõ ràng

Atikkamma:                  hơn hẳn

Devanubhāva:               thần lực

Udāna:                         sự phát biểu

Udāneti:                        thoát lên

Aññati:                          chứng ngộ

Vata:                            quả thật

Bho:                             này bạn (cách nói thân mật)

Nāma:                          tên

***

15. Atha kho āyasmā Aññāsi Koṇḍañño diṭṭha-dhammo patta-dhammo vidita-dhammo pariyogḷha-dhammo tiṇṇa-vicikiccho vigata kathaṃ katho vesārajjapatto aparapaccayo satthu sāsane Bhagavantaṃ etadavoca: “Labheyy’āhaṃ bhante Bhagavato santike pabbajjaṃ, labheyyaṃ upasampadan” ti.

“Ehi bhikkhū” ti Bhagavā avoca “Svākkhāto dhammo cara brahmacariya sammā dukkhassa antakiriyāya” ti sāva tassa āyasmato upasampadā ahosi.

       Dhammacakkappavattanasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

Dịch nghĩa:

Khi ấy Đại Đức Aññāsi Koṇḍañña đã phát sanh trí tuệ chứng ngộ Tứ Thánh Đế, đã đạt đến Tứ Thánh Đế, đã biết rõ Tứ Thánh Đế, đã thấu suốt Tứ Thánh Đế, nên đã diệt tận hoàn toàn mọi điều hoài nghi nơi  Đức Phật và giáo pháp, ngoài Đức Phật ra không còn tin tưởng nơi  người nào khác nữa.

Ngài Đại Đức Aññāsi Koṇḍañña bạch Đức Thế Tôn rằng:

“Kính bạch Đức Thế Tôn, kính xin Ngài từ bi cho con thọ giới tỳ khưu nương nhờ nơi  Ngài”.

Đức Thế Tôn truyền lời dạy rằng:

“Này con, hãy đến với Như Lai, con trở thành tỳ khưu như con đã cầu xin. Giáo pháp cao thượng mà Như Lai đã khéo thuyết giảng, con hãy cố gắng thực hành để  chấm dứt sự khổ sanh tử luân hồi”.

Chỉ với lời truyền dạy ấy của Đức Thế Tôn, ngài Aññāsi Koṇḍañña đã trở thành tỳ khưu (theo cách Ehibhikkhūpasampadā).

Chấm dứt bài kinh Chuyển Pháp Luân.

 

Ngữ vựng:

Diṭṭhadhamma:              chứng ngộ Tứ Thánh Đế

Pattadhamma:               đạt đến Tứ Thánh Đế

Viditadhamma:              biết rõ Tứ Thánh Đế

Pariyogậhadhamma: thấu suốt Tứ Thánh Đế

Tiṇṇa:                           vượt ra, thoát ra, tận diệt

Vigata:                          thoát khỏi

Kathaṃ katho:              thế này thế khác, hoài nghi

Vesārajja:                     sự tin tưởng, sự can đảm

Aparapaccaya:             không dựa vào người khác

Satthu:                          bậc đạo sư

Sāsana:                         giáo pháp

Labheyy’āhaṃ:             cho con được

Pabbajja:                      xuất gia

Upasampadā:               sự thọ giới tỳ khưu

Ehi:                               hãy đến đây

Svākkhāta:                   được khéo thuyết giảng

Brahmacariya:               phạm hạnh

Cara:                            hãy tiến hành

Dukkhassa antakiriya: chấm dứt khổ

Sāva = sā + eva

Niṭṭhita (niṭṭhati) :          hoàn tất

***

  




[ Ðầu trang][Trở về mục lục ][ Trở về trang Thư Viện ]

updated: 2024