• Nền Tảng Phật Giáo - Quyển VII - Tập 1

    PHÁP HÀNH THIỀN ĐỊNH

  • Tác giả: Hộ Pháp

 

PHÁP-HÀNH-THIỀN (BHĀVANĀ)

 

Chương IX: Bhāvanā: Pháp-Hành-Thiền là chương tiếp theo chương VIII: Pāramī: Pháp Hạnh Ba-La-Mật đã được trình bày trong quyển VI (gồm có 3 tập) của bộ Nền-Tảng-Phật-Giáo.  

Chương IX: Bhāvanā: Pháp-Hành-Thiền này làquyển VII gồm có 2 phần, có 2 tập:

- Tập 1: Phần I: Pháp-hành-thiền-định, 
- Tập 2: Phần II: Pháp-hành-thiền-tuệ.
 
Định Nghĩa Bhāvanā
 

“Kusaladhamme bhāveti uppādeti vaḍḍhatī’ti bhāvanā.” Trạng-thái nào làm cho thiện-pháp bậc cao phát sinh lên đầu tiên, rồi làm cho thiện-pháp ấy phát triển, trạng-thái ấy gọi là bhāvanā: pháp-hành-thiền.

 
Định nghĩa bhāvanā có 2 đoạn:
 

1- Đoạn đầu: Kusaladhamme bhāveti uppādeti:

Trạng-thái làm cho thiện-pháp bậc cao phát sinh lên đầu tiên.

2- Đoạn sau: Kusaladhamme bhāveti vaḍḍhati:

Trạng-thái làm cho thiện-pháp bậc cao phát triển, và tăng trưởng.

 
Bhāvanā có 2 loại:
 

1- Samathabhāvanā: Pháp-hành-thiền-định có trong Phật-giáo và có ngoài Phật-giáo.

 

2-Vipassanābhāvanā: Pháp-hành-thiền-tuệ chỉ có trong Phật-giáo, từ khi Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác xuất hiện trên thế gian mà thôi, không có ngoài Phật-giáo.

 
 
PHẦN I
 
PHÁP-HÀNH-THIỀN-ĐỊNH
 
(SAMATHABHĀVANĀ)
 

Pháp-hành-thiền-định (Samathabhāvanā) là pháp-hành làm cho định-tâm an trú trong một đề-mục-thiền-định duy nhất, dẫn đến chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới-tâm, 4 bậc thiền vô-sắc-giới-tâm, hưởng sự an-lạc trong bậc thiền ấy trong kiếp hiện-tại và hưởng quả của bậc thiền ấy trong kiếp sau kế tiếp.

 

Pháp-hành-thiền-định này đã có trước khi Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian. Thật vậy, theo tiểu sử của Đức-Phật Gotama, kiếp chót là kiếp Đức-Bồ-Tát Thái-tử Siddhattha của Đức-vua Suddhodana và Chánh- cung Hoàng-hậu Mahāmayādevī.

 

Năm 16 tuổi, Đức-Bồ-Tát Thái-tử Siddhattha được Đức Phụ vương truyền ngôi lên làm vua, và kết hôn cùng với công-chúa Yasodharā. Đức-vua Bồ-Tát Siddhattha làm vua ngự tại kinh thành Kapilavatthu được 13 năm.

 

Năm 29 tuổi, Đức-vua Bồ-Tát Siddhattha từ bỏ ngai vàng, trốn đi xuất gia tìm con đường giải thoát khổ sinh, lão, bệnh, tử, tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài, ngay vào nửa đêm rằm tháng sáu (âm lịch), mặc dù Ngài nghe tin Chánh-cung Hoàng-hậu Yasodharā sinh hạ hoàng-tử Rāhula.

 

Đức-Bồ-Tát Thọ Giáo Pháp-Hành-Thiền-Định

 

Đức-Bồ-Tát Siddhattha trước tiên tìm đến thọ giáo với vị Đạo-sư Ālāra Kālāmagotta. Vị Đạo-sư hân hạnh tiếp nhận Đức-Bồ-Tát, rồi truyền dạy pháp-hành-thiền-định. Đức-Bồ-Tát Siddhattha thực-hành pháp-hành-thiền-định trong thời gian không lâu, Ngài đã chứng đắc 4 bậc thiền sắc-giới, và chứng đắc đến đệ tam thiền vô-sắc-giới gọi là Vô-sở-hữu-xứ-thiền thiện-tâm (Akiñcañ-ñāyatanajjhānakusalacitta) ngang bằng bậc thiền mà vị Đạo-sư Ālāra Kālāmagotta đã chứng đắc.

 

Vị Đạo-sư Ālāra Kālāmagotta tán dương ca tụng tài đức của Đức-Bồ-Tát Siddhattha rằng:

 

- Này hiền giả! Tôi đã chứng đắc bậc thiền vô-sắc-giới nào, thì hiền giả cũng chứng đắc được bậc thiền vô-sắc-giới ấy. Hiền giả chứng đắc bậc thiền vô-sắc-giới nào, thì tôi cũng đã chứng đắc bậc thiền vô-sắc-giới ấy.

- Này hiền giả, từ nay, hai chúng ta cùng làm Đạo-sư dạy dỗ nhóm đệ tử này.

 

Đức-Bồ-Tát Siddhattha suy xét rằng: “Bậc đệ tam 1thiền vô-sắc-giới, vô-sở-hữu-xứ-thiền thiện-tâm này sẽ cho quả tái sinh lên cõi vô-sắc-giới Phạm-thiên, cõi Vô-sở-hữu-xứ-thiên, có tuổi thọ sống lâu đến 60.000 đại-kiếp, không phải là pháp dẫn đến sự nhàm chán ngũ-uẩn, không diệt-đoạn-tuyệt được tham-ái, không diệt-đoạn-tuyệt được phiền-não, không chứng ngộ chân-lý tứ-Thánh-đế, không chứng đắc Niết-bàn, không giải thoát khổ sinh, lão, bệnh, tử, không giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài”.

 

Đức-Bồ-Tát Siddhattha không bằng lòng với sở đắc của mình, nên Ngài xin từ giã vị Đạo-sư Ālāra Kālāmagotta khả kính, để đi tìm pháp môn khác, hầu

mong giải thoát khổ sinh, lão, bệnh, tử.

 

Sau khi từ giã vị Đạo-sư Ālāra Kālāmagotta, Đức-Bồ-Tát Siddhattha tìm đến vị Đạo-sư Udaka Rāmaputta xin thọ giáo. Vị Đạo-sư hân hoan tiếp nhận Ngài, rồi truyền dạy pháp-hành-thiền-định. Đức-Bồ-Tát thực-hành pháp-hành-thiền-định qua một thời gian không lâu, Ngài chứng đắc 4 bậc thiền sắc-giới và chứng đắc đến đệ tứ thiền vô-sắc-giới tột đỉnh gọi là: Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiền thiện-tâm (Nevasaññānāsaññāyatanaj-jhānakusalacitta)bậc thiền tột đỉnh cõi vô-sắc-giới, ngang bằng với bậc thiền mà vị Đạo-sư Udaka Rāmaputta đã chứng đắc.

 

Vị Đạo-sư Udaka Rāmaputta tán dương ca tụng Đức-Bồ-Tát Siddhattha rằng:

 

- Này hiền giả! Tôi đã chứng đắc bậc thiền vô-sắc-giới tột đỉnh nào, thì hiền giả cũng chứng đắc bậc thiền vô-sắc-giới tột đỉnh ấy. Hiền giả chứng đắc bậc thiền vô-sắc-giới tột đỉnh nào, tôi cũng đã chứng đắc bậc thiền vô-sắc-giới tột đỉnh ấy.

- Này hiền giả, tôi xin thỉnh hiền giả làm Đạo-sư dạy dỗ nhóm đệ tử này.

 

Đức Bồ-Tát Siddhattha suy xét rằng: “Bậc đệ tứ thiền vô-sắc-giới, Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiền thiện-tâm này sẽ cho quả tái sinh lên cõi trời vô-sắc-giới Phạm-thiên, cõi Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiên, có tuổi thọ sống lâu đến 84.000 đại-kiếp, không phải là pháp dẫn đến sự nhàm chán ngũ-uẩn, không diệt-đoạn-tuyệt được tham-ái, không diệt-đoạn-tuyệt được phiền-não, không chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, không chứng đắc Niết-bàn, không giải thoát khổ sinh, lão, bệnh, tử, không giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam giới”.

 

Sau khi suy xét như vậy, Đức-Bồ-Tát Siddhattha xin từ giã Đạo-sư Udaka Rāmaputta khả kính, để đi tìm pháp môn khác, hầu mong giải thoát khổ sinh, lão, bệnh, tử.

 

Đức-Bồ-Tát Hành Pháp Khổ-Hạnh (Dukkaracariyā)

 

Sau khi từ giã vị Đạo-sư Udaka Rāmaputta, Đức-Bồ-Tát Siddhattha ngự đến khu rừng Uruvelā gần con sông Nerañjarā, nơi đây có nhóm 5 Tỳ-khưu: Ngài Trưởng- lão Koṇḍañña là trưởng nhóm cùng với Ngài Vappa, Ngài Bhaddiya, Ngài MahānāmaNgài Assaji xin theo hộ độ Đức-Bồ-Tát Siddhattha.

 

Đức-Bồ-Tát Siddhattha tinh tấn thực-hành pháp-hành khổ-hạnh (Dukkaracariyā) là pháp-khó-hành như phương-pháp nín thở ra, thở vào bằng miệng và mũi, hơi thở thoát ra ở hai lỗ tai; rồi tiếp tục nín thở ra, thở vào bằng miệng, bằng mũi và ngăn không để hơi thoát ra hai lỗ tai, hơi đâm lên trên đầu đau dữ dội, hơi đâm xuống bụng đau tức tối, hơi nóng phát ra toàn thân kinh khủng đến nỗi làm cho Đức-Bồ-Tát chết ngất.

 

- Số Chư-thiên tưởng rằng:Sa-môn Gotama đã chết rồi!”

- Số khác tưởng rằng: Sa-môn Gotama đang gần chết!”

- Số khác cho rằng: “Sa-môn Gotama không phải chết, cũng không phải đang gần chết, mà Sa-môn Gotama đang hành pháp của bậc Thánh-A-ra-hán!”

 

Đức-Bồ-Tát tiếp tục giảm vật thực dần dần, ban đầu độ vật thực chỉ vừa lòng bàn tay, từ từ giảm xuống chỉ còn bằng hạt sen… Vì vậy, kim thân của Đức-Bồ-Tát gầy ốm chỉ còn da bọc xương, đến nỗi sờ da bụng, thì đụng phải đường xương sống.

 

Trước kia kim thân của Đức-Bồ-Tát có đầy đủ 32 tướng tốt của bậc Đại-nhân và 80 tướng tốt phụ, có làn da màu vàng sáng ngời. Đến nay, các tướng tốt của bậc Đại-nhân và các tướng tốt phụ đã biến mất, còn làn da đã trở thành màu đen sẫm.

Một hôm, Đức-Bồ-Tát Siddhattha suy xét rằng: Ta đã thực-hành pháp-hành khổ-hạnh là pháp-khó-hành này suốt 6 năm trường ròng rã, đến chỗ cùng tột rồi.

Trong quá-khứ, chưa từng có Sa-môn, Bà-la-môn nào đã thực-hành pháp-hành khổ-hạnh đến mức như ta đang thực-hành. Hiện-tại và vị-lai cũng sẽ không có Sa-môn, Bà-la-môn nào có thể thực-hành pháp-hành khổ-hạnh như ta, thế mà, ta không thể trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.

Như vậy, chắc chắn còn có một pháp-hành nào khác”.

 

Đức-Bồ-Tát Siddhattha hồi tưởng lại: “Khi còn nhỏ, ta cùng đi với Đức Phụ-vương ra đồng làm lễ hạ điền, Đức Phụ-vương để ta ngồi trong một chiếc lều vải dưới gốc cây mận. Ta đã ngồi niệm đề-mục hơi thở vào, hơi thở ra, và ta đã chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm. Vậy, chắc chắn pháp-hành-thiền-định này làm nền tảng, để cho ta có thể trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác cũng nên”.

 

Ngài suy xét rằng: “Bây giờ, thân thể của ta gầy ốm, sức khỏe của ta yếu đuối, ta không thể thực-hành pháp-hành-thiền-định với đề-mục niệm hơi thở vào, hơi thở ra này được. Vậy, điều tốt hơn hết, ta nên thọ thực trở lại, để phục hồi sức khỏe, rồi ta mới có thể thực-hành pháp-hành-thiền-định với đề-mục-thiền-định niệm hơi thở”.

Đức-Bồ-Tát Từ Bỏ Pháp-Hành Khổ-Hạnh
 

Đức-Bồ-Tát Siddhattha đã thực-hành pháp-hành khổ- hạnh là pháp-khó-hành suốt 6 năm trường ròng rã, mà không đạt đến mục đích trở thành Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác, nên Ngài từ bỏ pháp-hành khổ-hạnh, Đức-Bồ-Tát mang bát vào xóm nhà Senā đi khất thực, độ vật thực trở lại trải qua một thời gian sức khoẻ hoàn toàn hồi phục trở lại như xưa. 

 

Trong thời kỳ thực-hành pháp-hành khổ-hạnh là pháp-khó-hành, 32 tướng tốt của bậc Đại-nhân và 80 tướng tốt phụ của Đức-Bồ-Tát Siddhattha biến mất.

 

Nay, kim thân của Đức-Bồ-Tát Siddhattha lại hiện rõ 32 tướng tốt của bậc Đại-nhân và 80 tướng tốt phụ, có nước da màu vàng sáng ngời như trước.

 

Vào ngày 14 tháng tư âm lịch, canh chót đêm ấy, Đức-Bồ-Tát Siddhattha nằm thấy 5 điều đại mộng (Mahāsupina).

Qua 5 đại mộng này, Ngài đoán biết rằng: “Ngài chắc chắn sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác”.

 

Sáng hôm rằm tháng tư âm lịch, Đức-Bồ-Tát ngự đến ngồi dưới gốc cây da, để chờ đến giờ đi vào xóm khất thực. Tại nơi đây, hằng năm, vào ngày rằm tháng tư này, nàng Sujātā thường đem lễ vật đến cúng dường, tạ ơn Chư-thiên, theo lời nguyện của nàng.

 

Nàng Sujātā là con gái của ông phú hộ Mahāsena ở làng Senā gần khu rừng Uruvelā, khi nàng trưởng thành có đến gốc cây da này cầu nguyện: “Khi tôi trưởng thành được kết duyên với người cùng dòng dõi, cùng giai cấp và sinh được một đứa con trai đầu lòng. Nếu tôi được toại nguyện, thì hằng năm vào ngày rằm tháng tư (âm lịch), tôi sẽ làm lễ cúng dường tạ ơn Chư-thiên cội cây này”.

Lời cầu nguyện của nàng được thành tựu như ý, cho nên, hằng năm vào ngày rằm tháng tư âm lịch, nàng Sujātā thường đem cơm sữa đến cúng dường tạ ơn Chư-thiên cội cây này.

Từ sáng sớm, nàng Sujātā đã thức dậy vắt sữa tinh khiết của 8 con bò, khi nàng đem nồi đựng sữa để gần vú con bò thứ nhất, thì dòng sữa tự nhiên chảy ra một mạch. Thật là một việc lạ thường chưa từng có bao giờ! Lần lượt 7 con bò còn lại, dòng sữa cũng chảy ra một mạch như vậy.

Khi nàng đổ sữa vào nồi nấu cơm, sữa sôi xoay tròn bên phải, không một giọt nào chảy tràn ra bên ngoài, còn lửa củi cháy đều không có một làn khói nào bốc lên.

Sở dĩ, có những việc lạ thường như vậy, là vì buổi sáng hôm ấy có Tứ-đại-Thiên-vương trông coi lò lửa, Vua-trời Sakka cõi Tam-thập-Tam-thiên,lấy củi bỏ vào lò, Đức-vua Trời Phạm-Thiên che dù, tất cả Chư-thiên đem những chất bổ dưỡng do năng lực của mình bỏ vào nồi cơm sữa. 

Nàng Sujātā đem chiếc mâm bằng vàng để đựng cơm, khi nàng đặt mâm gần nồi cơm, thì cơm sữa trong nồi tự nhiên viên lại thành vắt bằng trái thốt nốt lăn ra tuần tự từ nồi sang mâm đúng 49 vắt, thì vừa đầy mâm. Nàng lại chứng kiến thêm một việc lạ thường chưa từng có bao giờ. Nàng lấy một chiếc mâm khác đậy lại rồi phủ lên một lớp vải trắng tinh.

Hôm ấy, nàng Sujātā trang điểm bằng những đồ trang sức quý giá, rồi đội mâm cơm sữa cùng người con gái Puṇṇā ([1]) đi theo sau đến gốc cây đa.

Nhìn thấy Đức-Bồ-Tát có đầy đủ tướng tốt của bậc Đại-nhân và tướng tốt phụ, hào quang tỏa ra từ kim thân của Ngài sáng chói khắp vùng.

Thấy vậy, nàng Sujātā lại càng phát sinh đức tin trong sạch và vô cùng hoan hỷ chưa từng có bao giờ, bởi vì nàng tưởng rằng: “Đức-Bồ-Tát Siddhattha là vị thiên thần cội cây hiện ra, để thọ nhận phẩm vật cúng dường tạ ơn của nàng”.

Nàng Sujātācung kính đến gần Đức-Bồ-Tát  Siddhattha, đặt chiếc mâm vàng đầy cơm sữa và bình nước, hoa quả, vật thơm, … gần Đức-Bồ-Tát, đảnh lễ cung kính dâng lên Ngài.

Khi ấy, cái bát của Ngài bỗng nhiên biến mất, Ngài nhìn nàng Sujātā. Nàng liền bạch rằng:

- Kính bạch Đức Thiên-thần, con thành kính dâng lên Ngài chiếc mâm vàng đầy phẩm vật này. Kính xin Ngài từ bi hoan hỷ thọ nhận chiếc mâm vàng đầy phẩm vật này, để cho con được sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an-lạc lâu dài. Con được toại nguyện như thế nào, kính xin Ngài cũng được toại nguyện như thế ấy.

 Đức-Bồ-Tát Siddhattha đưa hai tay ra nhận lấy chiếc mâm vàng đầy phẩm vật cúng dường ấy.
 
Đức-Bồ-Tát Thọ Nhận Cơm Sữa Của Nàng Sujātā
 

Sau khi thọ nhận mâm vàng đầy cơm sữa của nàng Sujātā xong, Đức-Bồ-Tát đứng dậy rời khỏi gốc cây da, tay cầm chiếc mâm vàng đầy cơm sữa đi đến bến sông Nerañjarā, nơi mà chư Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác kiếp chót quá-khứ, trước khi trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, cũng đều ngự đến tại bến sông này để tắm, nên bến sông này gọi là bến Supaṭitthita. Ngài đặt mâm vàng đầy cơm sữa tại bến Supaṭitthita, rồi ngự xuống dòng sông Nerañjarā, để tắm.

Sau khi tắm xong, Đức-Bồ-Tát mặc y-cà-sa tượng trưng lá cờ chiến thắng của chư Thánh-A-ra-hán, đoạn Ngài ngồi quay mặt về hướng Đông, độ hết 49 vắt cơm sữa, rồi uống hết bình nước. (từ đó về sau suốt 7 tuần lễ gồm 49 ngày, Đức-Phật không độ vật thực và nước, chỉ an hưởng hương vị giải thoát Niết-bàn).

Sau khi độ cơm xong, Ngài đứng trên bờ sông, cầm chiếc mâm vàng phát nguyện: Hôm nay, nếu tôi được trở thành Đức-Phật-Chánh Đẳng-Giác thì xin cho chiếc mâm vàng này sẽ trôi ngược dòng nước; nếu không được thì chiếc mâm vàng này sẽ trôi xuôi theo dòng nước”.

Phát nguyện xong, Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha ném chiếc mâm vàng xuống dòng sông Nerañjarā.

 Thật phi thường thay! Chiếc mâm vàng cắt ngang dòng nước đang chảy, trôi ra giữa sông, rồi từ đó trôi ngược dòng nước một cách vô cùng mau lẹ, khoảng một đoạn khá xa, rồi chiếc mâm vàng chìm sâu xuống đáy nước, đụng phải ba chiếc mâm vàng của ba Đức-Phật quá-khứ: Đức-Phật Kakusandha, Đức-Phật Koṇā-gamana Đức-Phật Kassapa, phát ra một âm thanh vang dội, làm cho Long vương Kālanāga tỉnh giấc nghĩ rằng: “Hôm qua một Đức-Phật đã xuất hiện, hôm nay sẽ có một Đức-Phật nữa xuất hiện”, rồi thức dậy tán dương ca tụng hằng trăm bài kệ.
 

Trưa hôm ấy, Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha nghỉ trong khu rừng Sāla, những cây Sāla trong khu rừng bên bờ sông Nerañjarā, đua nhau nở hoa, để cúng dường đến Ngài.

Chiều hôm ấy, trên đường Đức-Bồ-Tát Siddhattha ngự đến cội cây Assattha ([2]),dọc theo hai bên đường Chư-thiên trang hoàng những đoá hoa trời rất xinh đẹp, các hàng Chư-thiên ở các cõi trời đua nhau cúng dường hương thơm cùng với thiên nhạc vang rền khắp 10 ngàn thế giới chúng-sinh.

 

Cùng lúc ấy, một người cắt cỏ Sotthiya, trên đường đi ngược chiều lại phía Đức-Bồ-Tát, nhìn thấy Ngài, liền phát sinh đức tin trong sạch, nên dâng cúng Ngài tám nắm cỏ. Đức-Bồ-Tát cầm tám nắm cỏ ngự thẳng đến cội cây Assattha.

 

Khi đứng hướng Nam của cội cây Assattha, Đức-Bồ-Tát nhìn thẳng về hướng Bắc, Ngài có cảm giác mất thăng bằng, như toàn cõi thế giới hướng Nam bị chìm sâu xuống cõi địa ngục Avīci, còn toàn cõi thế giới hướng Bắc được nổi lên đến cõi trời sắc-giới Phạm-thiên tột đỉnh. Ngài nghĩ: “Đây không phải là chỗ ngồi để ta có thể trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác”.

 

Ngài ngự đi sang đứng hướng Tây của cội cây Assattha, Đức-Bồ-Tát nhìn thẳng về hướng Đông, cũng như vậy, Ngài có cảm giác mất thăng bằng, như toàn cõi thế giới hướng Tây bị chìm sâu xuống cõi điạ ngục Avīci, còn toàn cõi thế giới ở hướng Đông được nổi lên đến cõi trời sắc-giới Phạm-thiên tột đỉnh. Ngài nghĩ: “Đây cũng không phải là chỗ ngồi, để ta có thể trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác”.

 

Ngài ngự sang đứng hướng Bắc của cội cây Assattha, Đức-Bồ-Tát nhìn thẳng hướng Nam, cũng như vậy, Ngài có cảm giác mất thăng bằng, như toàn cõi thế giới hướng Bắc bị chìm sâu xuống cõi điạ ngục Avīci, còn toàn cõi thế giới ở hướng Nam được nổi lên đến cõi trời sắc-giới Phạm-thiên tột đỉnh, Ngài nghĩ: “Đây cũng không phải là chỗ ngồi, để ta có thể trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác”.

 

Ngài ngự sang đứng hướng Đông của cội cây Assattha, Đức-Bồ-Tát nhìn thẳng về hướng Tây. Thật phi thường thay! Ngài có cảm giác toàn khắp cõi thế giới đều ở trạng-thái thăng bằng, nên Ngài nghĩ: “Chính đây là chỗ ngồi, để ta có thể chứng đắc thành bậc Chánh-Đẳng-Giác”.

 
Ngôi Bồ Đoàn Toàn Thắng Ác-Ma-Thiên
 

Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha trải tám nắm cỏ tại hướng Đông của cội cây Assattha.

Thật phi thường thay! Tại ngay chỗ ngồi ấy bỗng nhiên hoá thành ngôi bồ-đoàn quý báu, có chiều cao 14 hắc tay thật nguy nga lộng lẫy, mà không có một nhà kiến trúc mỹ thuật nào có thể tạo nên một ngôi bồ-đoàn đẹp tuyệt vời như vậy. Bởi vì, ngôi bồ-đoàn quý báu này phát sinh do thiện-nghiệp 30 pháp hạnh Ba-la-mật đầy đủ trọn vẹn của Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác sắp trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.

 
Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác ngồi kiết già vững vàng trên ngôi bồ-đoàn quý báu, mặt quay về hướng Đông rồi phát nguyện: Dù cho thịt và máu trong thân ta khô cạn hết, dù sắc thân này chỉ còn da bọc xương đi nữa, nếu ta chưa trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác thì ta cũng không bao giờ chịu rời khỏi ngôi bồ-đoàn quý báu này”. Lúc ấy, từ cung trời Tha-Hoá-Tự-Tại-Thiên, Ác-Ma- Thiên hoá ra hàng ngàn cánh tay đều cầm khí giới, cỡi voi trời Girimekhala dẫn đầu đoàn thiên ma tướng, thiên ma binh rầm rộ hiện xuống vây quanh cội cây Assattha, kéo dài 12 do tuần. Bên trên hư không, chúng thiên ma dày đặc 9 do tuần, chúng la hét âm thanh vang dội kinh khủng làm chấn động khắp mọi nơi, quyết tâm tranh giành ngôi bồ-đoàn của Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha.
 

Vừa mới đây, Chư-thiên, Phạm-thiên từ 10 ngàn thế giới đến cung kính cúng dường, tán dương ca tụng Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha. Khi thoáng nhìn thấy Ác-Ma-Thiên cùng với thiên ma binh, thiên ma tướng trùng trùng điệp điệp từng đoàn, từng lớp hiện xuống, tất cả Chư-thiên, Phạm-thiên đều bay xa lánh mặt, trở về chỗ của mình, chỉ còn một mình Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha vẫn điềm nhiên ngồi ngự trên ngôi bồ-đoàn quý báu, một cách an nhiên tự tại.

Ác-Ma-Thiên đã sử dụng đủ mọi loại vũ khí và phép thuật cực kỳ nguy hiểm, quyết sát hại Đức-Bồ-Tát, để chiếm đoạt ngôi bồ-đoàn quý báu ấy, với mục đích ngăn cản không cho Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.

 

Do oai lực 30 pháp hạnh Ba-la-mật đầy đủ trọn vẹn của Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha sắp trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, nên không có một loại phép thuật hay vũ khí nguy hiểm nào có thể sát hại Ngài được.

 

Quả thật như vậy! Do oai lực 30 pháp hạnh Ba-la-mật của Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác, các loại vũ khí, phép thuật của Ác-Ma-Thiên đều hóa thành những vật cúng dường Ngài.

Ngồi trên lưng voi trời Girimekhala, Ác-Ma-Thiên vô cùng căm uất chỉ tay về Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha nói như ra lệnh rằng:

- Này Sa-môn Gotama! Nhà ngươi hãy mau mau rời khỏi ngôi bồ-đoàn ấy, vì ngôi bồ-đoàn ấy là của ta, không phải của ngươi!

Đức-Bồ-Tát từ tốn đáp lại:

- Này Ác-Ma-Thiên! Ngôi bồ-đoàn quý báu này phát sinh do thiện-nghiệp 30 pháp-hạnh Ba-la-mật, 5 hạnh đại-thí, 3 pháp-hành mà Như-Lai đã thực-hành từ vô số kiếp cho đến kiếp hiện-tại này. Vì vậy, ngôi bồ-đoàn này thuộc về của Như-Lai, không phải của ngươi.

Khi ấy, chỉ một mình Đức-Bồ-Tát Siddhattha ngồi ngự trên bồ-đoàn quý báu, ngoài ra, không còn có một ai bên cạnh Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha cả, nên Ác-Ma-Thiên đặt câu hỏi bắt bí Đức-Bồ-Tát rằng:

- Thưa Sa-môn Gotama! Ngài nói rằng: “Ngôi bồ- đoàn quý báu ấy thuộc về của Như-Lai.”

Vậy, ai làm chứng cho Ngài!”

Nhìn xung quanh đều không có một Chư-thiên, Phạm-thiên nào cả, Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha bèn đưa bàn tay phải ra, rồi dùng ngón trỏ chỉ xuống mặt đất như truyền dạy bằng lời chân thật rằng: Trong vô số tiền kiếp của Như-Lai đã từng thực-hành 30 pháp-hạnh Ba-la-mật, 5 hạnh đại-thí, 3 pháp-hành. Bây giờ, tại nơi đây không có chúng-sinh nào đứng ra làm chứng cho Như-Lai, chỉ có mặt đất, mặt đất không có tâm thức này có thể làm chứng cho Như-Lai được không?

 

Thật phi thường thay! Lời chân thật của Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha vừa chấm dứt. Ngay tức khắc, mặt đất chuyển mình, rung động, phát ra những tiếng sấm sét long trời lở đất, làm cho Ác-Ma-Thiên kinh hoàng khiếp đảm, giục voi trời Girimekhala bỏ chạy trở về cõi Tha-Hóa-Tự-Tại-Thiên; còn đám thiên ma binh, thiên ma tướng thì vô cùng khiếp sợ, hốt hoảng chạy tán loạn theo Ác-Ma-Thiên trở về cõi trời.

 

 Khi ấy, Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha ngồi ngự trên ngôi bồ-đoàn quý báu dưới cội cây Assatthađã toàn thắng Ác-Ma-Thiên, vừa đúng lúc mặt trời sắp lặn hướng Tây, mặt trăng ló dạng hướng Đông. Khắp mười ngàn thế giới chúng-sinh, Chư-thiên các cõi trời dục-giới, Phạm-thiên các cõi trời sắc-giới, Long vương dưới long cung… toàn thể Chư-thiên, Phạm-thiên vui mừng reo hò vang dội khắp các tầng trời, tán dương ca tụng oai lực Ba-la-mật của Đức-Bồ-Tát rằng:

 

- Đức-Bồ-Tát Siddhattha đã toàn thắng rồi!

- Ác-Ma-Thiên đã hoàn toàn thất bại rồi!
 

Cho nên, ngôi bồ-đoàn quý báu này được phát sinh do quả của thiện-nghiệp 30 pháp-hạnh Ba-la-mật của Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha nên gọi là Aparājitapallaṅka nghĩa là Ngôi bồ-đoàn quý báu nơi toàn thắng Ác-Ma-Thiên.

 

Chư-thiên, Phạm-thiên đem những phẩm vật quý báu nhất từ cõi trời đến cúng dường, tán dương ca tụng 30 pháp-hạnh Ba-la-mật của Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác.

 

Đức-Bồ-Tát Siddhattha Chứng Đắc Tam-Minh

 

Sau khi Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha đã toàn thắng Ác-Ma-Thiên, vào canh đầu đêm rằm tháng tư âm lịch, Ngài thực-hành pháp-hành-thiền-định (samathabhāvanā) với đề-mục niệm hơi thở vào, hơi thở ra (anāpānassati) tuần tự chứng đắc 4 bậc thiền sắc-giới làm nền tảng để chứng đắc Tam-minh.

 
Tam-Minh (Tevijja)
 
1- Tiền-Kiếp-Minh (Pubbenivāsānussatiñāṇa)
 

Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha có đệ tứ thiền sắc-giới, định-tâm trong sáng thanh tịnh, thiền-tâm không lay động, làm nền tảng để Ngài hướng tâm đến chứng đắc tiền-kiếp-minh: Trí-tuệ nhớ rõ lại tiền kiếp, từ một kiếp đến hằng trăm kiếp, hằng ngàn kiếp, hằng vạn kiếp, hằng triệu kiếp, hằng triệu triệu kiếp… cho đến vô lượng kiếp không giới hạn.([3])

 

Tiền-kiếp-minh là trí-tuệ nhớ rõ tiền kiếp thuộc loại chúng-sinh nào, trong cõi giới nào, tên gì, thuộc dòng dõi nào, thực-hành thiện-nghiệp, bất-thiện-nghiệp, thực- hành pháp hạnh Ba-la-mật như thế nào, thọ lạc, thọ khổ, tuổi thọ, v.v… đều ghi nhớ rõ ràng mọi chi tiết.

 

Tiền-kiếp-minhminh thứ nhấtĐức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha đã chứng đắc vào canh đầu đêm rằm tháng tư (âm lịch).

 
2- Thiên-Nhãn-Minh (dibbacakkhuñāṇa)
 

Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha có đệ tứ thiền sắc-giới, định-tâm trong sáng thanh tịnh, thiền-tâm không lay động, làm nền tảng để Ngài hướng tâm đến chứng đắc thiên-nhãn-minh: Trí-tuệ thấy rõ, biết rõ kiếp quá-khứ, kiếp vị-lai của tất cả chúng-sinh hơn thiên nhãn của Chư-thiên, Phạm-thiên.

Thiên-nhãn-minh có 2 loại:
 

* Tử-sinh-minh (Cutūpapātañāṇa):Trí-tuệ thấy rõ biết rõ sự tử, sự tái sinh của tất cả chúng-sinh muôn loài trong các cõi giới, do nghiệp nào, do quả của nghiệp nào.

 

* Vị-lai-kiến-minh (Anāgataṃsañāṇa): Trí-tuệ thấy rõ những kiếp vị-lai của tất cả chúng-sinh trong muôn loài trong tam-giới.

 

Chư Phật dùng vị-lai-kiến-minh này để thọ ký, xác định thời gian của chúng-sinh trong những kiếp vị-lai xa xăm, còn lại thời gian bao nhiêu đại kiếp trái đất nữa, sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, hoặc Đức-Phật Độc-Giác, hoặc bậc Thánh-Thanh-Văn-Giác…

 

Thiên-nhãn-minh là minh thứ nhì mà Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha đã chứng đắc vào lúc canh giữa đêm rằm tháng tư (âm lịch).

 
3- Trầm-Luân-Tận-Minh (Āsavakkhayañāṇa)
 

Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha dùng đệ tứ thiền sắc-giới làm nền tảng, để thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ suy xét thấy rõ các pháp Thập-nhị-duyên-sinh (Paṭiccasamuppāda)đối-tượng pháp-hành-thiền-tuệ của chư Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác, để trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.

* Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác suy xét Thập-nhị- duyên-sinh theo chiều thuận như sau:

 
- Do vô-minh làm duyên, nên các hành sinh,

 (Avijjāpaccayā saṅkhārā)

 
- Do hành làm duyên, nên thức sinh,

 (Saṅkhārapaccayā viññāṇaṃ)

 
- Do thức làm duyên, nên danh sắc sinh,

 (Viññāṇapaccayā nāmarūpaṃ)

 
- Do danh sắc làm duyên, nên lục-nhập sinh,

 (Nāmarūpapaccayā saḷāyatanaṃ)

 
- Do lục-nhập làm duyên, nên lục-xúc sinh,

 (Saḷāyatanapaccayā phasso)

 
- Do lục-xúc làm duyên, nên lục-thọ sinh,

 (Phassapaccayā vedanā)

 
- Do lục-thọ làm duyên, nên lục-ái sinh,

 (Vedanāpaccayā taṇhā)

 
- Do lục-ái làm duyên, nên tứ-thủ sinh,
 (Taṇhāpaccayā upādānaṃ)
 

- Do tứ-thủ làm duyên, nênnhị-hữu sinh,

 (Upādānapaccayā bhavo)

 
- Do nhị-hữu làm duyên, nên tái sinh sinh,

 (Bhavapaccayā jāti)

 
- Do tái sinh làm duyên, nên lão tử… sinh.
 (Jātipaccayā jarāmaraṇaṃ…)
 

Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác suy xét Thập-nhị- duyên-sinh theo chiều thuận, chiều sinh, để trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ biết rõ sự sinh của mỗi pháp, trí-tuệ-thiền-tuệ chứng ngộ chân-lý Khổ-Thánh-đếNhân-sinh- Khổ-Thánh-đế.

 

* Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác suy xét Thập-nhị- nhân-diệt theo chiều nghịch, chiều diệt như sau:

 
- Do diệt tận vô-minh, nên diệt các hành,

(Avijjāyatveva asesavirāganirodhā saṅkhāranirodho)

 
- Do diệt hành, nên diệt thức,
 (Saṅkhāranirodhā viññaṇanirodho)
 
- Do diệt thức, nên diệt danh sắc,
 (Viññāṇanirodhā nāmarūpanirodho)
 
- Do diệt danh sắc, nên diệt lục-nhập,
 (Nāmarūpanirodhā saḷāyatananirodho)
 

- Do diệt lục-nhập, nên diệt lục-xúc,

 (Saḷāyatananirodhā phassanirodho)
 
- Do diệt lục-xúc, nên diệt lục-thọ,
 (Phassanirodhā vedanānirodho)
 
- Do diệt lục-thọ, nên diệt lục-ái,
 (Vedanānirodhā taṇhānirodho)
 

- Do diệt lục-ái, nên diệt tứ-thủ,

 (Taṇhānirodhā upādānanirodho)
 

- Do diệt tứ-thủ, nên diệt nhị-hữu,

 (Upādānanirodhā bhavanirodho)
 
- Do diệt nhị-hữu, nên diệt tái sinh,

 (Bhavanirodhā jātinirodho)

 
- Do diệt tái sinh, nên diệt lão tử….
 (Jātinirodhā jarāmaraṇaṃ… nirodho)
 

Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác quán xét Thập-nhị- nhân-diệt theo chiều nghịch, chiều diệt, để trí-tuệ-thiền tuệ thấy rõ, biết rõ “sự diệt” của mỗi pháp, trí-tuệ-thiền- tuệ chứng ngộ chân-lý Diệt-Khổ-Thánh-đếPháp-hành-dẫn-đến-Diệt-Khổ-Thánh-đế.

 

Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha không thầy chỉ dạy tự mình suy xét Thập-nhị-duyên-sinh và thập-nhị-nhân-diệt theo chiều thuận - chiều nghịch; chiều sinh - chiều diệt, nên trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ biết rõ sự sinh - sự diệt của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp; trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ biết rõ 3 trạng-thái-chung: trạng-thái-vô-thường, trạng-thái-khổ, trạng-thái-vô-ngã, của danh-pháp, sắc-pháp, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế đầu tiên không thầy chỉ day, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt-đoạn-tuyệt được 4 pháp-trầm-luân (āsava),đồng thời diệt-đoạn-tuyệt được mọi tham-ái, mọi phiền-não, và tất cả mọi ác-pháp không còn dư sót, đặc biệt, diệt-đoạn-tuyệt được tất cả mọitiền-khiên-tật-xấu (vāsanā)đãtích lũy từ vô số kiếp trong quá-khứ, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán cao thượng nhất đầu tiên trên toàn cõi muôn ngàn thế giới chúng-sinh, nên gọi là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác độc nhất vô nhị,có danh hiệu là Đức-Phật Gotama, tại đại cội cây Mahābodhirukkha([4]): cây Đại-Bồ-đề, đúng như 24 Đức-Phật quá-khứ đã từng thọ ký. 

 

Trầm-luân-tận-minhminh thứ 3Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha chứng đắc vào canh chót của đêm rằm tháng tư (âm lịch), vào lúc rạng đông, trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama. 

Như vậy, Pháp-hành-thiền-định (Samathabhāvanā) là pháp-hành có trước khi Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian. Còn Pháp-hành-thiền-tuệ (Vipassanā-bhāvanā) là pháp-hành có từ khi Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian.

 

Samatha: Thiền-Định

Định nghĩa Samatha
 
Samatha có 3 định nghĩa:
 

1- Kilese sametī’ti samatho: Hành-giả là hạng thiện-trí phàm-nhân thực-hành pháp-hành nào chế ngự được mọi phiền-não loại trung, đó là 5 pháp-chướng-ngại (nīvaraṇa), pháp-hành ấy gọi là pháp-hành-thiền-định.

Pháp-hành-thiền-định này có chi pháp là nhất-tâm tâm-sở (ekaggatā cetasika) đồng sinh với 8 dục-giới đại- thiện-tâm và đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm. 2- Cittaṃ sametī’ti samatho: Hành-giả là bậc Thánh-A-ra-hán ([5])thực-hành pháp-hành nào làm cho định-tâm vững chắc trong một đối-tượng thiền-định duy nhất. Pháp-hành ấy gọi là pháp-hành-thiền-định.  

Pháp-hành-thiền-định này có chi pháp là nhất-tâm tâm-sở (ekaggatā cetasika) đồng sinh với 8 dục-giới đại- duy-tác-tâm và đệ nhất thiền sắc-giới duy-tác-tâm.

3- Vitakkādi oḷārikadhamme sametī’ti samatho: Hành-giả đã chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới, rồi tiếp tục thực-hành pháp-hành nào, để chứng đắc đệ nhị thiền sắc-giới, v.v… bằng cách chế ngự được chi-thiền loại thô như vitakka, vicāra, v.v… Pháp-hành ấy gọi là pháp-hành-thiền-định.

 

Pháp-hành-thiền-định này có chi pháp là nhất-tâm tâm-sở (ekaggatā cetasika) đồng sinh với dục-giới đại-thiện-tâm, đại-duy-tác-tâm, đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm, duy-tác-tâm, đệ tam thiền sắc-giới thiện-tâm, duy-tác-tâm, v.v… cho đến đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm, duy-tác-tâm.

 

Giải Thích 3 Định Nghĩa:

1- Định nghĩa thứ nhất: Các hành-giả là hạng phàm-nhân có đủ tam-nhân (tihetukaputhujjana) có 2 giai đoạn:

* Giai đoạn đầu: Hành-giả tinh tấn thực-hành pháp-hành-thiền-định với dục-giới đại-thiện-tâm có đề-mục-thiền-định có khả năng dẫn đến chứng đắc được đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm.

* Giai đoạn cuối: Hành-giả chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm5 chi-thiền (jhānaṅga)vitakka, vicāra, pīti, sukha, ekaggatā có khả năng chế ngự 5 pháp-chướng-ngại (nīvaraṇa) kāmacchanda, byāpāda, thīnamiddha, uddhaccakukkucca, vicikicchā.

Mỗi chi-thiền có khả năng chế ngự được mỗi pháp-chướng-ngại như sau:

 
* Vitakka: Hướng-tâm chế ngự được thīna-middha: buồn-chán - buồn-ngủ,

* Vicāra: Quan-sát chế ngự được vicikicchā: hoài nghi,

* Pīti: Hỷ chế ngự được byāpāda: sân-hận,

* Sukha: Lạc chế ngự được uddhacca-kukkucca: phóng-tâm, hối-hận,

* Ekaggatā: Nhất-tâm chế ngự được kāmacchanda: tham-dục.

 

Định nghĩa thứ nhất, Samatha này chỉ là nhất-tâm tâm-sở (ekaggatā cetasika) đồng sinh trong dục-giới đại- thiện-tâm và đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm mà thôi.

 
Cho nên, định nghĩa này:“Kilese samatī’ti samatho.”
 

 2- Định nghĩa thứ nhì: Các hành-giả là bậc Thánh-A-ra-hánthuộc hạng Paññāvimutta: bậc Thánh-A-ra-hán giải thoát bằng trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới, không có bậc thiền sắc-giới làm nền tảng, làm đối-tượng-thiền-tuệ, nghĩa là bậc Thánh-A-ra-hán vốn là hành-giả không thực-hành pháp-hành-thiền-định trước, mà chỉ thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ mà thôi, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt-đoạn-tuyệt mọi phiền-não, mọi tham-ái không còn dư sót, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán gọi là Sukkhavipassaka.

 

Nay, bậc Thánh-A-ra-háncó ý nguyện muốn thực- hành pháp-hành-thiền-định, để chứng đắc các bậc thiền sắc-giới và vô-sắc-giới, có 2 giai đoạn:

 

* Giai đoạn đầu: Bậc Thánh-A-ra-hán thực-hành pháp-hành-thiền-định với dục-giới đại-duy-tác-tâm có đề-mục-thiền-định có khả năng dẫn đến chứng đắc được đệ nhất thiền sắc-giới duy-tác-tâm.

 

* Giai đoạn cuối: Bậc Thánh-A-ra-hánchứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới duy-tác-tâm 5 chi-thiền (jhānaṅga)vitakka, vicāra, pīti, sukha, ekaggatā không phải để chế ngự 5 pháp-chướng-ngại (nīvaraṇa) nào cả, mà chỉ làm cho định-tâm vững chắc trong một đối-tượng thiền-định mà thôi.   

 
Cho nên, định nghĩa này:“Cittaṃ sametī’ti samatho.”
 

3- Định nghĩa thứ ba: Các hành-giả đó là hạng thiện-trí phàm-nhân có đủ tam-nhân (tihetukaputhujjana), bậc Thánh-Nhập-lưu, bậc Thánh-Nhất-lai, bậc Thánh-Bất-lai đã chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâmbậc Thánh-A-ra-hán đã chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới duy-tác-tâm.

Quý Ngài tiếp tục thực-hành pháp-hành-thiền-định để chứng đắc các bậc thiền cao hơn như đệ nhị thiền sắc-giới, đệ tam thiền sắc-giới, v.v... có 2 giai đoạn:

* Giai đoạn đầu: Quý Ngài thực-hành pháp-hành-thiền-định với dục-giới đại-thiện-tâm, đại-duy-tác-tâm([6]) có đề-mục-thiền-định có khả năng dẫn đến chứng đắc đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm, duy-tác-tâm, v.v…

 

- Giai đoạn cuối: Quý Ngàikhông còn chế ngự 5 pháp-chướng-ngại (nīvaraṇa) nữa, mà chỉ làm cho định-tâm vững chắc có nhiều năng lực theo tuần tự, có khả năng chế ngự được chi-thiền (jhānaṅga) loại thô theo tuần tự là vitakka, vicāra, v.v… không phát sinh, để chứng đắc các bậc thiền sắc-giới bậc cao như sau:

 

* Nếu chế ngự được chi-thiền vitakka thì chứng đắc đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm, sắc-giới duy-tác-tâm còn 4 chi-thiền: Vicāra, pīti, sukha, ekaggatā.

 

* Nếu chế ngự được chi-thiền vicāra thì chứng đắc đệ tam thiền sắc-giới thiện-tâm, sắc-giới duy-tác-tâm còn 3 chi-thiền: Pīti, sukha, ekaggatā.

 

* Nếu chế ngự được chi-thiền pīti thì chứng đắc đệ tứ thiền sắc-giới thiện-tâm, sắc-giới duy-tác-tâm còn 2 chi-thiền: Sukha, ekaggatā.

 

* Nếu chế ngự được chi-thiền sukha thay bằng chi-thiền upekkhā thì chứng đắc đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm, sắc-giới duy-tác-tâm có 2 chi-thiền: Upekkhā, ekaggatā.  

 

Định nghĩa samathathứ ba này là nhất-tâm tâm-sở (ekaggatā cetasika) đồng sinh với dục-giới đại-thiện-tâm, đại-duy-tác-tâm, với đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm, sắc-giới duy-tác-tâm cho đến đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm, sắc-giới duy-tác-tâm.

Cho nên, định nghĩa này: “Vitakkādi oḷārikadhamme sametī’ti samatho”.
 
Samatha có 2 loại:
 

1- Paritta samatha: Thiền định có năng lực yếu.

2- Mahaggata samatha: Thiền định có năng lực mạnh.

 

Thế nào gọi là paritta samatha?

 

Hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định, tâm chưa đạt đến appanāsamādhi: an-định, nên gọi là paritta samatha, bởi vìtâm của hành-giả đang còn dục-giới đại-thiện-tâm hoặc dục-giới đại-duy-tác-tâm gần đến appanāsamādhi: an-định. Tuy có 5 chi-thiền hợp với các dục-giới-tâm ấy nhưng năng lực còn yếu.

 

Thế nào gọi là mahaggata samatha?

 

Hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định, tâm đã đạt đến appanāsamādhi: an-định, nên gọi là mahaggata samatha, bởi vìtâm của hành-giả đã chứng đắc mahag-gatajjhāna đó là sắc-giới thiền thiện-tâm, hoặc sắc-giới thiền duy-tác-tâm (của bậc Thánh-A-ra-hán).

Các chi-thiền hợp với các sắc-giới thiện-tâm ấy có nhiều năng lực. 

 

Đối với hành-giả phàm-nhân, 5 chi-thiền hợp với đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm ấy có khả năng chế ngự được 5 pháp-chướng-ngại (nīvaraṇa) bằng cách chế ngự, đè nén (vikhambhanapahāna).

 
Pháp-hành-thiền-địnhcó 2 phần:
 

1- Đối-tượng thiền-định,  

2- Tâm biết đối-tượng thiền-định. 

 

1- Đối-Tượng Thiền-Định

 

Đối-tượng thiền-định (Samatha kammaṭṭhāna) là đối-tượng của pháp-hành-thiền-định, gồm có 40 đề-mục-thiền-định ([7])chia ra làm 7 loại như sau:

 

1- 10 đề-mục kasiṇa,

2- 10 đề-mục tử-thi asubha,

3- 10 đề-mục niệm-niệm anussati,

4- 4 đề-mục tứ-vô-lượng-tâm appamaññā,

5- 1 đề-mục vật-thực đáng nhờm āhāre paṭikkūlasaññā, 

6- 1 đề-mục phân tích tứ-đại (catudhātuvavatthāna),

7- 4 đề-mục vô-sắc-giới (āruppa).

 

 1- 10 Đề-Mục-Thiền-Định Kasiṇa

 

1.1- Đề-mục-thiền-định đất (Pathavīkasiṇa),

1.2- Đề-mục-thiền-định nước (Āpokasiṇa),

1.3- Đề-mục-thiền-định lửa (Tejokasiṇa),

1.4- Đề-mục-thiền-định gió (Vāyokasiṇa),

1.5- Đề-mục-thiền-định màu xanh (Nīlakasiṇa),

1.6- Đề-mục-thiền-định màu vàng (Pītakasiṇa),

1.7- Đề-mục-thiền-định màu đỏ (Lohitakasiṇa),

1.8- Đề-mục-thiền-định màu trắng (Odātakasiṇa),

1.9- Đề-mục-thiền-định hư không (Ākāsakasiṇa),

1.10- Đề-mục-thiền-định ánh sáng (Ālokakasiṇa).

 

Đó là 10 đề-mục-thiền-định (kasiṇa) làm đối-tượng của pháp-hành-thiền-định.

 
2- 10 Đề-Mục Tử-Thi (Asubha)
 

2.1- Đề-mục tử-thi trải qua 2-3 ngày (Uddhumātaka),

2.2- Đề-mục tử-thi biến sang màu tím thâm (Vinīlaka),

2.3- Đề-mục tử-thi chảy máu mủ (Vipubbaka),

2.4- Đề-mục tử-thi bị chặt đứt thành nhiều đoạn (Vicchiddaka),

2.5- Đề-mục tử-thi bị chó, quạ, diều hâu, kên kên cắn xé ăn thịt, bỏ rải rác (Vikkhāyitaka),

2.6- Đề-mục tử-thi bị chặt tay, chân, đầu, mình bỏ rải rác (Vikkhittaka),

2.7- Đề-mục tử-thi bị đâm lủng nhiều lỗ (Hatavikkhittaka),    

2.8- Đề-mục tử-thi có máu chảy lai láng (Lohitaka),

2,9- Đề-mục tử-thi có giòi (Puḷuvaka),

2.10- Đề-mục tử-thi còn bộ xương trắng (Aṭṭhika).

 

Đó là 10 đề-mục tử-thi (asubha) làm đối-tượng của pháp-hành-thiền-định.

3- 10 Đề-Mục Niệm-Niệm (Anussati)

 

3.1- Đề-mục niệm-niệm 9 Ân-Đức-Phật (Buddhānussati),

3.2- Đề-mục niệm-niệm 6 Ân-Đức-Pháp (Dhammānussati),

3.3- Đề-mục niệm-niệm 9 Ân-đức-Tăng (Saṃghānussati),

3.4- Đề-mục niệm-niệm giới trong sạch của mình (Sīlānussati) 

3.5- Đề-mục niệm-niệm sự bố-thí của mình (Cāgānussati),

3.6- Đề-mục niệm-niệm 5 pháp Chư-thiên có nơi mình (Devatānussati),

3.7- Đề-mục niệm-niệm trạng-thái tịch tịnh an-lạc Niết-bàn (Upasamānussati),

3.8- Đề-mục niệm-niệm sự chết (Maraṇānussati),

3.9- Đề-mục niệm 32 thể trọc (trược) trong thân của mình (Kāyagatāsati),

3.10- Đề-mục niệm hơi thở vào, hơi thở ra (Ānāpānassati).

 

Đó là 10 đề-mục niệm-niệm (anussati) làm đối-tượng của pháp-hành-thiền-định.

 

4- Đề-Mục Tứ Vô-Lượng-Tâm (Appamaññā)

 

4.1- Đề-mục niệm rải tâm-từ (Mettā) đến chúng-sinh vô-lượng,

4.2- Đề-mục niệm rải tâm-bi (Karuṇā)đến chúng-sinh vô-lượng,

4.3- Đề-mục niệm rải tâm-hỷ (Muditā) đến chúng-sinh  vô-lượng,

4.4- Đề-mục niệm rải tâm-xả (Upekkhā) đến chúng-sinh  vô-lượng.

 

Đó là 4 đề-mục niệm rải tâm từ, bi, hỷ, xả đến chúng-sinh vô-lượng (appamaññā) làm đối-tượng của pháp-hành-thiền-định.

 

5- Đề-Mục Vật Thực Đáng Nhờm Gớm (āhārepaṭikkūlasaññā) 

 

6- Đề-Mục Phân Tích Tứ-Đại (catudhātuvavatthāna)

 

7- 4 Đề-Mục Thiền-Vô-Sắc (Āruppa)

 

Trong 4 đề-mục thiền-vô-sắc, mỗi đề-mục riêng biệt chỉ có khả năng dẫn đến chứng đắc mỗi bậc thiền vô-sắc-giới riêng biệt mà thôi như sau: 

 

7.1- Đề-mục thiền-vô-sắc-giới thứ nhất gọi là ākāsa-paññatti chỉ để chứng đắc đệ nhất thiền vô-sắc-giới gọi là ākāsānañcāyatanajjhāna:không-vô-biên-xứ-thiền mà thôi 

 

7.2- Đề-mục thiền vô-sắc-giới thứ nhì gọi là paṭhamā-ruppaviññāṇa chỉ để chứng đắc đệ nhị thiền vô-sắc-giới gọi là viññāṇañcāyatanajjhāna: thức-vô-biên-xứ-thiền mà thôi.

 

7.3- Đề-mục thiền vô-sắc-giới thứ ba gọi là natthi-bhāvapaññatti chỉ để chứng đắc đệ tam thiền vô-sắc-giới gọi là ākiñcaññāyatanajjhāna:vô-sở-hữu-xứ-thiền mà thôi.

 

7.4- Đề-mục thiền vô-sắc-giới thứ tư gọi là tatiyārup-paviññāṇa chỉ để chứng đắc đệ tứ thiền vô-sắc-giới gọi là nevasaññānāsaññāyatanajjhāna: phi-tưởng-phi- phi-tưởng-xứ-thiền mà thôi.

 
Gồm có 40 đề-mục-thiền-định.
 

3 Loại Nimitta, 3 Loại Bhāvanā, 3 Loại Samādhi

 

Trong 40 đề-mục-thiền-định phân loại 3 loại nimitta, 3 loại bhāvanā, 3 loại samādhi.

 

3 Loại Nimitta

 

1- Parikammanimitta: Đối-tượng đề-mục-thiền-định ban đầulàm đối-tượng của parikammabhāvanā: tâm- hành ban đầu thực-hành pháp-hành-thiền-định. Tất cả 40 đề-mục-thiền-định đều là parikammanimitta.

 

 2- Uggahanimitta: Đối-tượng thô-ảnh-tương-tự của parikammanimitta (đối-tượng đề-mục-thiền-định ban đầu) ấyphát sinh rõ trong tâm theo ý-môn-lộ-trình-tâm (manodvāravīthicitta) tác-hành-tâm (javanacitta) là dục-giới-đại-thiện-tâm hoặc dục-giới-đại-duy-tác-tâm của bậc Thánh-A-ra-hán, biết rõ đối-tượng thô-ảnh-tương-tự của parikammanimitta ấy.  

Trong 40 đề-mục-thiền-định chỉ có 22 đề-mục trực tiếp([8])uggahanimitta 18 đề-mục gián tiếp ([9])uggahanimitta.

 

3- Paṭibhāganimitta: Đối-tượng quang-ảnh-trong-sáng của đối-tượng uggahanimitta (đối-tượng thô-ảnh-tương-tự) ấy, trở nên hoàn toàn trong sáng được phát sinh rõ trong tâm của hành-giả, theo ý-môn-lộ-trình-tâm (manodvāravīthicitta).

 

Trong 30 đề-mục-thiền-định chỉ có 22 đề-mục trực tiếppaṭibhāganimitta 8 đề-mục gián tiếp([10])paṭibhāganimitta, gồm có 30 đề-mục-thiền-định.

 

3 Loại Bhāvanā, 3 Loại Samādhi

 

1- Parikammabhāvanā: Tâm-hành ban đầu thực- hành pháp-hành-thiền-định.

 

Hành-giả bắt đầu thực-hành pháp-hành-thiền-định với các dục-giới lộ-trình-tâmtác-hành-tâm (javanacitta) dục-giới-đại-thiện-tâm hoặc dục-giới-đại-duy-tác-tâm([11]) phát sinh liên tục có đối-tượng parikammanimitta: đối-tượng đề-mục-thiền-định ban đầu tiến triển tốt trở thành đối-tượng uggahanimitta: đối-tượngthô-ảnh-tương-tự của parikammanimitta (đối-tượng đề-mục-thiền-định ban đầu) ấy.

 

Định-tâm đồng sinh với dục-giới-đại-thiện-tâm hoặc dục-giới-đại-duy-tác-tâm gọi là parikammasamādhi: sơ-định ban đầu thực-hành pháp-hành-thiền-định còn cách xa bậc thiền sắc-giới (mahaggatajjhāna).  

 
Tất cả 40 đề-mục-thiền-định đều có parikamma-bhāvanā, parikammasamādhi.
 
2- Upacārabhāvanā: Tâm-hành cận bậc thiền:
 

Hành-giả đang thực-hành pháp-hành-thiền-định với các dục-giới ý-môn lộ-trình-tâmtác-hành-tâm (javana-citta) dục-giới-đại-thiện-tâm hoặc dục-giới-đại-duy-tác-tâm phát sinh liên tục có đối-tượng uggahanimitta: đối-tượng thô-ảnh-tương-tự của đề-mục-thiền-định ấy tiến triển tốt trở thành đối-tượng paṭibhāganimitta: đối-tượng quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định ấy dẫn đến gần bậc thiền sắc-giới.

 

Định-tâm đồng sinh với dục-giới-đại-thiện-tâm hoặc dục-giới-đại-duy-tác-tâm gọi là upacārasamādhi: cận-định trong đề-mục-thiền-định ấy, đạt đến gần bậc thiền sắc-giới (mahaggatajjhāna).

 

Trong các dục-giới lộ-trình-tâm có tác-hành-tâmdục-giới-đại-thiện-tâm hoặc dục-giới-đại-duy-tác-tâmphát sinh liên tục có đối-tượng đề-mục-thiền-định tiến triển tốt chia làm 2 giai đoạn:

* Dục-giới lộ-trình-tâm có tác-hành-tâm (javana-citta) dục-giới-đại-thiện-tâm hoặc dục-giới-đại-duy-tác-tâm phát sinh liên tục ở giai đoạn đầucòn cách xa bậc thiền sắc-giới, gọi là parikammabhāvanā.

 

* Dục-giới lộ-trình-tâm có tác-hành-tâm (javana-citta) dục-giới-đại-thiện-tâm hoặc dục-giới-đại-duy-tác-tâm phát sinh liên tục ở giai đoạn sau gần bậc thiền, gọi là upacārabhāvanā.  

Trong 40 đề-mục-thiền-định chỉ có 10 đề-mục trực tiếp([12]) upacārabhāvanā upacārasamādhi mà thôi.

 

3- Appanābhāvanā: Tâm-hành chứng đắc bậc thiền:

 

Hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định với sắc-giới lộ-trình-thiền-tâmtác-hành-tâm (javanacitta) chứng đắc sắc-giới thiền-thiện-tâm hoặc sắc-giới thiền-duy-tác-tâm,gọi là Appanābhāvanā:chứng đắc bậc thiền sắc-giới phát sinh có paṭibhāganimitta đối-tượng

quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định ấy,

 

Định-tâm đồng sinh với sắc-giới thiện-tâm ấy gọi là appanāsamādhi: an-định trong đề-mục-thiền-định ấy, chứng đắc bậc thiền-sắc-giới (mahaggatajjhāna).

 

Trong 40 đề-mục-thiền-định chỉ có 30 đề-mục ([13]) dẫn đến appanābhāvanā appanāsamādhi chứng đắc các bậc thiền mà thôi. Chứng đắc bậc thiền sắc-giới hoặc vô-sắc-giới nào hoàn toàn tuỳ thuộc vào khả năng của mỗi đề-mục-thiền-định ấy.

(Xem nghi thức lễ thọ pháp-hành-thiền-định trong phần cuối pháp-hành-thiền-định này).


Giảng Giải 40 Đề-Mục-Thiền-Định

 

I- 10 Đề-Mục-Thiền-Định Kasiṇa

10 đề-mục-thiền-định kasiṇa10 đề-mục-thiền-định có đủ 3 loại nimitta, 3 loại bhāvanā, 3 loại samādhi, có khả năng dẫn đến chứng đắc đủ 5 bậc thiền sắc-giới.

 

1.1- Đề-Mục-Thiền-Định Đất (Pathavīkasiṇa)

 
Pathavīkasiṇa=Pathavī+kasiṇa mà thôi.
 

Pathavī: Đất dùng để làm đề-mục-thiền-định (pathavī-kasiṇa) không phải là thật-tánh của đất (sabhāvapathavī) trạng-thái cứng hoặc mềm, thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma), mà chỉ là đất bình thường tự nhiên (sasambhārapathavī) thuộc về chế-định-pháp    (paññattidhamma mà thôi.

 
Kasiṇa: Trọn vẹn đề-mục-thiền-định đất, nghĩa là

hành-giả hướng tâm đến trọn vẹn đề-mục-thiền-định đất, không thiếu một phần nào. 

 

Pathavīkasiṇađề-mục-thiền-định đất trọn vẹn mà hành-giả dùng làm đề-mục của pháp-hành-thiền-định, có khả năng dẫn đến chứng đắc đầy đủ 5 bậc thiền sắc-giới.

 

Hành-giả là bậc xuất gia tỳ-khưu, sa-di hoặc cận-sự-nam, cận-sự-nữ có ý nguyện muốn thực-hành pháp-hành-thiền-định, với đề-mục-thiền-định đất (pathavīkasiṇa),hành-giảkhông nên biết đến thật-tánh của địa-đại (sabhāvapathavī) có trạng-thái cứng, mềm thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma), cũng không nên quan tâm đến màu sắc của đề-mục-thiền-định đất, mà hành-giả chỉ nên hướng tâm đến toàn diện trọn vẹn đối-tượng đề-mục-thiền-định đất (pathavīkasiṇa)đất bình thường (sasambhārapathavī) thuộc về chế-định-pháp mà thôi.Tiền Kiếp Chứng Đắc Thiền Sắc-Giới 

 

* Nếu hành-giả là người đã từng chứng đắc các bậc thiền sắc-giới với đề-mục-thiền-định đất (pathavīkasiṇa) trong tiền kiếp gần kiếp hiện-tại (kiếp trước từ cõi trời sắc-giới tái sinh xuống làm người), thì khi hành-giả hướng tâm đến đất bình thường tự nhiên (sasambhāra-pathavī) nhưmặt đất, đám đất nào đó thuộc về chế-định-pháp (paññattidhamma), làm đối-tượng đề-mục-thiền-định đất gọi là đối-tượng parikammanimitta là đề-mục-thiền-định ban đầu, với parikammabhāvanā: tâm-hành ban đầu bằng dục-giới-đại-thiện-tâm niệm thầm trong tâm rằng:“Pathavī,… Pathavī,… Pathavī,…, hoặc Đất,… Đất,… Đất, …” 

 

Định-tâm đồng sinh với dục-giới-đại-thiện-tâm gọi parikammasamādhi: sơ-định trong đề-mục-thiền-định đất đối-tượng parikammanimitta ban đầu ấy tiến triển dần dần trở thành đối-tượng uggahanimitta là đối-tượng thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định đất phát sinh rõ trong tâm.

 

Khi đối-tượng uggahanimitta đã phát sinh, hành-giả không nên hướng tâm đến đối-tượng đề-mục-thiền-định đất bên ngoài nữa, mà chỉ hướng tâm đến đối-tượng uggahanimitta của đề-mục-thiền-định đất ấy bên trong tâm mà thôi, tiến triển dần dần trở thành đối-tượng paṭibhāganimitta là đối-tượng quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định đất phát sinh rõ trong tâm với upacārabhāvanā: tâm-hành cận bậc thiền sắc-giới, đạt đến upacārasamādhi: cận-định gần bậc thiền sắc-giới.

 

Hành-giả tiếp tục thực-hành hướng tâm đến đối-tượng pathavīpaṭibhāganimitta: đối-tượng quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định đất ấy với tâm-hành tiến triển dần đến appanābhāvanā: tâm-hành chứng đắc bậc thiền sắc-giới trong sắc-giới lộ-trình-tâm, chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm, có appanāsamādhi: an-định trong đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm. 

 

Sau khi chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm, hành-giả tiếp tục thực-hành pháp-hành-thiền-định với đề-mục-thiền-định đất (pathavīkasiṇa) ấy, bắt đầu hướng tâm đến đối-tượng pathavīpaṭibhāganimitta là đối-tượng quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định đất ấy với tâm-hành tiến triển dần đến appanābhāvanā: tâm-hành chứng đắc bậc thiền sắc-giới trong sắc-giới lộ-trình-tâm, chứng đắc đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm, có appanā-samādhi: an-định trong đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm. 

 

Hành-giả tiếp tục thực-hành pháp-hành-thiền-định với đề-mục-thiền-định đất (pathavīkasiṇa) ấy như vậy, theo tuần tự chứng đắc đệ tam thiền sắc-giới thiện-tâm, đệ tứ thiền sắc-giới thiện-tâm cho đến đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm một cách thuận lợi đối với hành-giả ấy.   

 

* Nếu hành-giả là người không chứng đắc đề-mục- thiền-định đất trong tiền kiếp gần kiếp hiện-tại, thì hành-giả cần phải làm đề-mục-thiền-định đất như sau:

 

Cách Làm Đề-Mục-Thiền-Định Đất (Pathavīkasiṇa)

 

Hành-giả tìm đất sét màu mặt trời hừng đông rất sạch sẽ và dẻo, nhồi đất sét ấy cho thật nhuyễn, rồi cán mỏng ra trên tấm ván thành bánh tròn bằng phẳng trơn tru, không có vật dơ nào dính trên mặt hoàn toàn sạch sẽ, cũng không có màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng lẫn lộn, cắt bánh hình tròn có đường kính 1 gang và 4 lóng tay nằm ngang, dùng màu xanh hoặc màu trắng, vẽ một đường viền bằng ¼ lóng tay vòng quanh chu vi hình tròn đất sét, để làm nổi phần đất sét “Đề-mục-thiền-định đất (Pathavīkasiṇa)”.

 

Đề-mục-thiền-định đất (Pathavīkasiṇa) trung bình có đường kính 1 gang và 4 lóng tay nằm ngang, đối với các hành-giả. Nhưng nếu đối với hành-giả có tính hay suy- nghĩ (vitakkacarita) thì nên làm đề-mục-thiền-định đất nhỏ lại 2 hoặc 3 lóng tay, để phù hợp với tính hay suy- nghĩ. Vàđối với hành-giả có tính-si (mohacarita) thì nên làm đề-mục-thiền-định đất lớn thêm 4 hoặc 8 lóng tay, để phù hợp với tính-si.

 

 Đề-mục-thiền-định đất (pathavīkasiṇa) mà hành-giả sử dụng làm đối-tượng để thực-hành pháp-hành-thiền-định, hành-giả nên biết tôn kính, và giữ gìn sạch sẽ như tượng Đức-Phật.

 

Đặt Đề-Mục-Thiền-Định Đất (Pathavīkasiṇa)

 
Sau khi đã làm đề-mục-thiền-định đất xong, hành-giả

cần phải tìm một nơi thanh vắng, thuận lợi cho việc thực-hành pháp-hành-thiền-định. Hành-giả đặt đề-mục-thiền-định đất ngay trước mặt ngang tầm mắt, không cao, không thấp, cách chỗ ngồi khoảng 2 cùi và 1 gang tay.

 

Nếu hành-giả ngồi cách xa quá thì mắt không nhìn thấy rõ trọn vẹn đề-mục-thiền-định đất, hoặc nếu ngồi gần quá thì mắt nhìn thấy rõ dấu tay, những tỳ trên mặt đề-mục-thiền-định đất.

Như vậy, làm trở ngại cho định-tâm trong đề-mục- thiền-định đất, và làm cho đối-tượng uggahanimitta: thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định đất khó phát sinh.

Cho nên, hành-giả ngồi không xa quá, cũng không gần quá với đề-mục-thiền-định đất (pathavīkasiṇa) ấy.

 

Pháp Hỗ Trợ Pháp-HànhThiền

 

Thực-hành pháp-hành-thiền-định hoặc pháp-hành-thiền-tuệ cho được thuận lợi, hành-giả cần phải biết nhữngpháp hỗ trợ như sau:

* Để có đức tin trong sạch trong pháp-hành-thiền-định, pháp-hành-thiền-tuệ, hành-giả nên niệm tưởng đến 9 Ân-Đức-Phật, 6 Ân-Đức-Pháp, 9 Ân-đức-Tăng.

 

* Để tránh mọi sự trở ngại và tai hại, hành-giả nên niệm rải tâm-từ đến tất cả chúng-sinh vô-lượng trong muôn loài.

 

* Để diệt tâm tham-ái trong 5 đối-tượng ngũ dục: sắc dục, thanh dục, hương dục, vị dục, xúc dục, hành-giả nên niệm về 32 thể trược (trọc) trong thân của mình. 

 

* Để có sự tinh-tấn thực-hành pháp-hành-thiền-định, pháp-hành-thiền-tuệ, hành-giả niệm về sự chết

 

Bốn pháp hỗ trợ này được áp dụng tùy lúc, hợp thời.

 

Phương-Pháp Thực-Hành Đề-Mục-Thiền-Định Đất

 

Sau khi ngồi trong tư thế 2 chân bắt tréo lên nhau ngay thẳng trước đề-mục-thiền-định đất (pathavīkasiṇa), hành-giả chắp 2 tay cung kính đề-mục-thiền-định đất, rồi đặt bàn tay phải trên bàn tay trái trên 2 bàn chân, mắt nhìn thẳng đến toàn diện trọn vẹn đối-tượng đề-mục-thiền-định đất, không nên nhìn một phần nào của đề-mục-thiền-định đất ấy.

 

Khi hành-giả hướng tâm đến trọn vẹn đối-tượng đề-mục-thiền-định đất, không nên biết đến thật-tánh của địa-đại (sabhāvapathavī) có trạng-thái cứng, mềm thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma), cũng không nên quan tâm đến màu sắc của đề-mục-thiền-định đất, mà hành-giả chỉ nên hướng tâm đến trọn vẹn đối-tượng đề-mục-thiền-định đất đất bình thường (sasambhāra-pathavī) thuộc về chế-định-pháp (paññattidhamma) mà thôi.

 

Thực-Hành Đề-Mục-Thiền-Định Đất Pathavīkasiṇa

 

Hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định, với đề-mục-thiền-định đất (pathavīkasiṇa) gọi là đối-tượng parikammanimitta, đề-mục-thiền-định ban đầuvới parikammabhāvanā: tâm-hành ban đầu trong dục-giới lộ-trình-tâmtác-hành-tâm (javanacitta) dục-giới-đại-thiện-tâm niệm thầm trong tâm rằng:

“Pathavī,Pathavī, … Pathavī, … hoặc Đất, … Đất, … Đất,…” từng lúc khoảng 2-3 giây đồng hồ một lần, không nên niệm liên tục như niệm chú, nên thường mở mắt hướng tâm nhìn thẳng đến toàn diện trọn vẹn đề-mục-thiền-định đất (pathavīkasiṇa) ấy, càng lâu càng tốt, không nên thường nháy mắt, làm trở ngại đối-tượng uggahanimitta: thô-ảnh-tương-tự của đề-mục-thiền-định đất phát sinh rõ trong tâm.

 

Nếu hành-giả cảm thấy mỏi mắt thì nhắm mắt niệm thầm một lát, rồi mở mắt trở lại niệm thầm “Pathavī,… Đất,…” như vậy, cho đến khi đối-tượng parikamma-nimitta là đối-tượng đề-mục-thiền-định ban đầu tiến triển dần dần trở thành đối-tượng uggahanimitta là đối-tượng thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định đất (pathavīkasiṇa) phát sinh rõ ràng trong tâm. 

 

Định-tâm đồng sinh với dục-giới-đại-thiện-tâm gọi parikammasamādhi: sơ-định ban đầu thực-hành pháp- hành-thiền-định còn cách xa bậc thiền sắc-giới. 

 

Đối-Tượng Uggahanimitta Phát Sinh Rõ Trong Tâm

 

Khi đối-tượng uggahanimitta là thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định đất đã phát sinh rõ trong tâm, hành-giả cần phải thay đổi chỗ ngồi, hoặc ngồi quay sang hướng khác, không còn phải mở mắt hướng tâm nhìn thẳng đến đề-mục-thiền-định đất bên ngoài nữa, mà chỉ hướng tâm nhìn đối-tượng uggahanimitta là thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định đất bên trong tâm của hành-giả mà thôi.

 Đối-Tượng Uggahanimitta Biến Mất Trong Tâm

 

Nếu đối-tượng uggahanimitta là thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định đất ấy bị biến mất thìhành-giả cần phải quay trở lại mở mắt bình thường hướng tâm nhìn thẳng đến trọn vẹn đề-mục-thiền-định đất (pathavī-kasiṇa) ấy với parikammabhāvanā: tâm-hành ban đầu với dục-giới-đại-thiện-tâm niệm thầm trong tâm rằng: “Pathavī,... Pathavī,… Pathavī,… hoặc Đất,… Đất,… Đất,… Đất,…” như trước cho đến khi đối-tượng uggaha- nimitta là thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định đất  phát sinh rõ trở lại trong tâm như trước.

 

 Sự Khác Nhau Parikammanimitta Với Uggahanimitta

 

Đối-tượng parikammanimittađối-tượng uggaha-nimitta của đề-mục-thiền-định đất (pathavīkasiṇa) là 2 đối-tượng có hình dáng, màu sắc, lớn nhỏ giống nhau, chỉ có điểm khác nhau như sau: 

 

* Đối-tượng parikammanimitta của đề-mục-thiền-định đất ban đầu đối-tượng đề-mục-thiền-định đất hiện-tại, mà hành-giả ban đầu thực-hành pháp-hành-thiền-định, mở mắt bình thường hướng tâm nhìn thẳng đến toàn diện trọn vẹn đề-mục-thiền-định đất ấy với nhãn-môn-lộ-trình-tâm (cakkhudvāravīthi).

 

* Đối-tượng uggahanimitta là thô-ảnh-tương-tự của đề-mục-thiền-định đất ấy đối-tượng hình ảnh quá-khứ thô và tương tự với đề-mục-thiền-định đất được phát sinh rõ trong tâm, theo ý-môn-lộ-trình-tâm (manodvāravīthi).  

 

Đối-tượng uggahanimitta là thô-ảnh-tương-tự của đề-mục thiền-định đất được phát sinh rõ trong tâm mau hoặc chậm là tùy thuộc vào 5 pháp-chủ: tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ và các pháp-hạnh Ba-la-mật của hành-giả.  

Khi đối-tượng uggahanimittathô-ảnh-tương-tự của đề-mục-thiền-định đất (pathavīkasiṇa) đã phát sinh rõ như gắn dính trong tâm của hành-giả. Cho nên, hành-giả khi đứng, hoặc khi ngồi, hoặc khi nằm, hễ khi nhắm mắt lại thì đối-tượng uggahanimitta là thô-ảnh-tương-tự của đề-mục-thiền-định đất liền phát sinh rõ trong tâm.

 

Đối-Tượng Paṭibhāganimitta Phát Sinh Trong Tâm

 

Nếu hành-giả thuộc hạng người tam-nhân (tihetuka-puggala) có đủ 3 nhân: vô tham, vô sân, vô si (trí-tuệ) thì khi thực-hành pháp-hành-thiền-định với đề-mục- thiền-định đất, có khả năng làm cho đối-tượng uggahanimitta của đề-mục-thiền-định đất ấy diễn biến dần dần trở nên hoàn toàn trong sạch thanh khiết, trở thành đối-tượng paṭibhāganimitta là đối-tượng quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định đất phát sinh rõ ràng trong tâm.

 

Sự Khác Nhau Uggahanimitta Với Paṭibhāganimitta

 

* Đối-tượng uggahanimittađối-tượng paṭibhāga-nimittacủa đề-mục-thiền-định đất (pathavīkasiṇa) cả 2 đối-tượng đều phát sinh rõ trong tâm, theo ý môn dục-giới lộ-trình-tâm, chỉ có khác nhau như sau:

 

* Đối-tượng uggahanimitta là thô-ảnh-tương-tự quá-khứ hoàn toàngiống như đề-mục-thiền-định đất ban đầu  như các dấu tay, mặt đất có tỳ chút đỉnh, có màu lẫn lộn,v.v…như thế nào, khi đối-tượng uggahanimitta được phát sinh rõ trong tâm cũng có các dấu tay, mặt đất có tỳ chút đỉnh, có màu lẫn lộn, v.v… cũng đều như thế ấy.

 

* Đối-tượng paṭibhāganimitta quang-ảnh-trong-sáng không giống như đề-mục-thiền-định đất ban đầu, bởi vì các dấu tay, mặt đất có tỳ chút đỉnh, có màu lẫn lộn, v.v… hoàn toàn biến mất, không còn một tỳ nhỏ nào cả, thay vào đó chỉ là hình ảnh hoàn toàn trong sáng thanh khiết mà thôi.  

 

Thật ra, đối-tượng paṭibhāganimitta của đề-mục- thiền-định đất làdo năng lực của thiền định tiến triển làm cho đối-tượng uggahanimitta của đề-mục-thiền-định đất diễn biến dần dần biến mất các dấu tay, các tỳ, màu sắc, v.v…

 

Vì vậy, đối-tượng uggahanimitta biến đổi trở nên hoàn toàn trong sáng thanh khiết, trở thành đối-tượng paṭibhāganimitta của đề-mục-thiền-định đất ấy. 

Đối-tượng pathavīpaṭibhāganimitta không phải là đối-tượng chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) mà chỉ

đối-tượng chế-định-pháp (paññattidhamma) mà thôi.

 

Như vậy, từ đề-mục-thiền-định đất (pathavīkasiṇa) gọi là đối-tượng parikammanimitta ban đầu tiến triển dần dần trở thành đối-tượng uggahanimitta của parikammabhāvanā, và parikammasamādhi.

 

Từ đối-tượng uggahanimitta tiến triển dần dần trở thành đối-tượng paṭibhāganimitta của upacārabhāvanā, và upacārasamādhi: cận-định có đối-tượng paṭibhāga- nimitta của đề-mục-thiền-định đất ấy, gần bậc thiền sắc-giới (mahaggatajjhāna)

 

Do năng lực của upacārasamādhi: cận-định gần bậc thiền sắc-giới, nên làm giảm dần tiềm năng của 5 pháp- chướng-ngại (nīvaraṇa) không có cơ hội phát sinh.

 
5 Pháp-Chướng-Ngại (Nīvaraṇa):
 

1- Tham-dục trong ngũ dục (kāmacchandanīvaraṇa),

2- Sân-hận không hài lòng trong đối-tượng (byāpāda- nīvaraṇa)

3- Buồn-chán, buồn-ngủ buông bỏ đối-tượng (thīna- middhanīvaraṇa)

4- Phóng-tâm, hối-hận, (uddhaccakukkuccanīvaraṇa),

5- Hoài-nghi (vicikicchānīvaraṇa).

 

Năm pháp-chướng-ngại (nīvaraṇa) này bị chế ngự làm cho yếu dần bởi năng lực của upacārasamādhi đối-tượng paṭibhāganimitta.

 

Đối-Tượng Paṭibhāganimittacó 2 giai đoạn:

 

- Giai đoạn đầu: Đối-tượng paṭibhāganimitta của đề-mục-thiền-định đất (pathavīkasiṇa) là đối-tượng của upacārabhāvanā: tâm-hành cận bậc thiền sắc-giới.  

Hành-giả đang thực-hành pháp-hành-thiền-định với đề-mục-thiền-định đất, các dục-giới lộ-trình-tâmtác-hành-tâm (javanacitta), dục-giới-đại-thiện-tâm có đối-tượng paṭibhāganimitta của đề-mục-thiền-định đất.

 

Định-tâm đồng sinh với dục-giới-đại-thiện-tâm gọi là upacārasamādhi: cận-định có đối-tượng paṭibhāga-nimitta của đề-mục-thiền-định đất ấy, đạt đến cận-định, gần bậc thiền sắc-giới (mahaggatajjhāna).

 

- Giai đoạn sau: Đối-tượng paṭibhāganimitta của đề-mục-thiền-định đất (pathavīkasiṇa) là đối-tượng của appanābhāvanā: tâm hành chứng đắc bậc thiền sắc-giới.

 

 * Nếu hành-giả là hạng người tam-nhân (tihetuka-puggala) thuộc hạng tikkhapuggala: hành-giả có trí-tuệ sắc bén nhanh nhạy, tiền kiếp gần kiếp hiện-tại đã từng chứng đắc các bậc thiền sắc-giới, thì kiếp hiện-tại này, hành-giả hướng tâm đến đối-tượng paṭibhāganimitta là quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định đất, với appanābhāvanā: tâm hành dễ dàng chứng đắc sắc-giới-thiền thiện-tâm trong sắc-giới lộ-trình-thiền-tâm. 

 

Định-tâm đồng sinh với sắc-giới thiền-thiện-tâm gọi là appanāsamādhi: an-định vững chắc trong đối-tượng paṭibhāganimitta của đề-mục-thiền-định đất (pathavī-kasiṇa) ấy, chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm (paṭhamajjhānakusalacitta).

 

* Nếu hành-giả là hạng người tam-nhân (tihetuka-puggala) thuộc hạng mandapuggala: hành-giả có trí-tuệ chậm, tiền kiếp gần kiếp hiện-tại không chứng đắc các bậc thiền sắc-giới, thì kiếp hiện-tại này, hành-giả dù hướng tâm đến đối-tượng paṭibhāganimitta là quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định đất (pathavīkasiṇa), với appanābhāvanā: tâm-hành chậm chứng đắc sắc-giới-thiền thiện-tâm trong sắc-giới lộ-trình-thiền-tâm.

Định-tâm đồng sinh với sắc-giới thiền-thiện-tâm gọi là appanāsamādhi: an-định vững chắc trong đối-tượng paṭibhāganimitta của đề-mục-thiền-định đất (pathavī-kasiṇa) ấy, chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm (paṭhamajjhānakusalacitta).

 

*Nếu đối-tượng paṭibhāganimitta là quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định đất (pathavīkasiṇa) tuy đã phát sinh rõ trong tâm của hành-giả, nhưng chưa chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm, thìhành-giả cần phải giữ gìn đối-tượng pathavīpaṭibhāganimitta ấy một cách rất thận trọng, ví như Chánh-cung Hoàng-hậu có thai, các quân sư Bà-la-môn tiên đoán thai nhi là thái tử, khi sinh ra đời, đến lúc trưởng thành sẽ là Đức-Chuyển-luân Thánh-vương. Vì vậy, Chánh-cung Hoàng-hậu cần phải giữ gìn thai nhi rất thận trọng như thế nào, hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định, khi có đối-tượng pathavīpaṭibhāganimitta đã phát sinh rõ trong tâm cũng cần phải giữ gìn rất thận trọng cũng như thế ấy.

 

Pathavīpaṭibhāganimitta Biến Mất

 

Khi ban đầu đối-tượng pathavīpaṭibhāganimitta phát sinh rõ trong tâm, thì tâm của hành-giả đang là upacāra-bhāvanā: tâm-hành cận bậc thiền sắc-giới, có định-tâm là upacārasamādhi: cận-định gần bậc thiền sắc-giới.  

 

* Nếu hành-giả giữ gìn đối-tượng pathavīpaṭibhāga-nimitta thiếu thận trọng thì đối-tượng pathavīpaṭibhāga- nimitta ấy dễ bị biến mất.

 

Nếu khi đối-tượng pathavīpaṭibhāganimitta ấy bị biến mất thì tâm của hành-giả xuống bậc thấp parikam-mabhāvanāđịnh-tâmparikammasamādhi: sơ-định ban đầu thực-hành pháp-hành-thiền-định còn cách xa  bậc thiền sắc-giới (mahaggatajjhāna).  

Cho nên, hành-giả nên bắt đầu trở lại thực-hành pháp-hành-thiền-định với đề-mục-thiền-định đất theo tuần tự như trước, cho đến khi đối-tượng pathavīpaṭibhāga-nimitta phát sinh rõ trở lại trong tâm của hành-giả.

 

Cách Giữ Gìn Paṭibhāganimitta

 

Để giữ gìn đối-tượng pathavīpaṭibhāganimitta dẫn đến chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm, hành-giả cần phải tránh xa 7 điều bất lợi trong việc thực-hành pháp-hành-thiền-định (asappāya), đồng thời nên có đầy đủ 7 điều thuận lợi trong việc thực-hành pháp-hành-thiền-định (sappāya) như trong bộ Visuddhimagga chỉ dạy như sau:

 

7 Asappāya: 7 điều bất lợi,

7 Sappāya :7 điều thuận lợi.

 

1- * Āvāsa asappāya: Chỗ ở bất lợi,

    * Āvāsa sappāya: Chỗ ở thuận lợi,
 

* Āvāsa asappāya: Chỗ ở bất lợi: Chỗ ở nào mà hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định, nimitta chưa sinh thì không sinh, khi nimitta đã sinh rồi thì bị mất, tâm không an trụ thì vẫn không an trụ, …

Như vậy, chỗ ở ấy gọi là chỗ ở bất lợi.
 

* Āvāsa sappāya: Chỗ ở thuận lợi: Chỗ ở nào mà hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định, nimitta chưa sinh thì phát sinh, khi nimitta đã sinh rồi thì không bị mất, tâm không an trụ thì được an trụ, …

Như vậy, chỗ ở ấy gọi là chỗ ở thuận lợi.
 

2- * Gocara asappāya: Xóm nhà bất lợi 

    * Gocara sappāya: Xóm nhà thuận lợi 

 

* Gocara asappāya: Xóm nhà bất lợi khi đi khất thực  như sau:

* Xóm nhà nằm cách chỗ ở của hành-giả về hướng đông, hoặc hướng tây, ánh sáng mặt trời chiếu thẳng vào mặt khi hành-giả đi khất thực hoặc trở về.

* Xóm nhà nằm cách xa quá 5 cây số với chỗ ở của hành-giả, đường sá gồ ghề khó đi lại.

* Đi khất thực trong xóm nhà ấy, hành-giả không có đủ đồ ăn để sống.

Như vậy, gọi là xóm nhà bất lợi khi đi khất thực.
 

* Gocara sappāya: Xóm nhà thuận lợi khi đi khất thực như sau:

 

* Xóm nhà nằm cách chỗ ở của hành-giả về hướng nam, hoặc hướng bắc, tránh được ánh sáng mặt trời chiếu thẳng vào mặt khi hành-giả đi khất thực hoặc trở về.

* Xóm nhà nằm gần khoảng cách dưới 5 cây số với chỗ ở của hành-giả, đường sá bằng phẳng dễ đi lại.

* Đi khất thực trong xóm nhà ấy, hành-giả có đầy đủ vật thực để sống.

Như vậy, gọi là xóm nhà thuận lợi khi đi khất thực.
 

3- * Bhassa asappāya: Lời nói bất lợi,

    * Bhassa sappāya: Lời nói thuận lợi.
 

 * Bhassa asappāya: Lời nói bất lợi đó là lời nói liên quan đến tiracchānakathā, có 32 lời nói gọi là lời nói bất lợi. Những lời nói này làm trở ngại cho sự chứng đắc các bậc thiền, Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn.

 
Tiracchānakathā có 32 lời nói là:
 

1- Nói chuyện về Đức-vua và hoàng tộc,

2- Nói chuyện về trộm cắp,

3- Nói chuyện về các quan, chính phủ,

4- Nói chuyện về quân đội,

5- Nói chuyện về tai họa,

6- Nói chuyện về chiến tranh,

7- Nói chuyện về các đồ ăn,

8- Nói chuyện về các thức uống,

9- Nói chuyện về vải vóc, y phục,

10- Nói chuyện về chỗ nằm ngồi,

11- Nói chuyện về các vòng hoa,

12- Nói chuyện về các vật thơm,

13- Nói chuyện về bà con thân quyến, 

14- Nói chuyện về các xe cộ,

15- Nói chuyện về xóm làng,

16- Nói chuyện về các tỉnh thành,

17- Nói chuyện về các thành phố,

18- Nói chuyện về các vùng quê,

19- Nói chuyện về đàn bà,

20- Nói chuyện về đàn ông,

21- Nói chuyện về sự can đảm,

22- Nói chuyện về các con đường,

23- Nói chuyện về các bến nước, 

24- Nói chuyện về thân quyến đã quá vãng,

25- Nói chuyện về đâu đâu,

26- Nói chuyện về ai tạo ra thế giới này,

27- Nói chuyện về đại dương,

28- Nói chuyện về sự phát triển và sự suy đồi,

29- Nói chuyện về rừng rú,

30- Nói chuyện về núi non, 

31- Nói chuyện về dòng sông 

32- Nói chuyện về hòn đảo…

 

Đó là 32 lời nói bất lợi đối với hành-giả đang thực- hành pháp-hành-thiền-định hoặc pháp-hành-thiền-tuệ, bởi vì lời nói này không hỗ trợ cho pháp-hành thiền phát triển được, mà ngược lại chỉ làm trở ngại cho sự chứng đắc các bậc thiền, Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn mà thôi.

Do đó, hành-giả nên tránh xa những lời nói bất lợi. 

 

* Bhassa sappāya: Lời nói thuận lợi đó là lời nói liên quan đến kathāvatthu có 10 lời nói gọi là lời nói thuận lợi. Những lời nói này hỗ trợ cho sự chứng đắc các bậc thiền, Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn.

 

Kathāvatthu có 10 lời nói là:

 

1- Nói chuyện về sự ít ham muốn,

2- Nói chuyện về sự hài lòng vật gì đã có, biết tri túc,

3- Nói chuyện về thân, khẩu, ý thanh tịnh,

4- Nói chuyện không liên quan với ngũ dục,

5- Nói chuyện về sự tinh tấn không ngừng,

6- Nói chuyện về giới,

7- Nói chuyện về định,

8- Nói chuyện về tuệ,

9- Nói chuyện về A-ra-hán Thánh-quả,

10- Nói chuyện về trí-tuệ quán triệt A-ra-hán Thánh đạo, A-ra-hán Thánh-quả và Niết-bàn.

 

Đó là 10 lời nói thuận lợi đối với hành-giả đang thực- hành pháp-hành-thiền-định hoặc pháp-hành-thiền-tuệ, bởi vì lời nói này hỗ trợ cho pháp-hành thiền phát triển được, hỗ trợ cho sự chứng đắc các bậc thiền, Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn.

Tuy 10 lời nói này gọi là lời nói thuận lợi, nhưng hành-giả đang thực-hành pháp-hành-thiền-định hoặc pháp-hành-thiền-tuệ, chỉ nên nói khi cần thiết mà thôi, không nên nói nhiều. 

 
 4- * Puggala asappāya: Con người bất lợi,
     * Puggala sappāya: Con người thuận lợi,
 

* Puggala asappāya: Con người bất lợi là người mà hành-giả đang thực-hành pháp-hành thiền không nên tiếp xúc, nói chuyện. Có 2 hạng người là:

 

1- Người thích trang điểm thân hình,

2- Người thích nói chuyện tiracchānakathā có 32 lời.

 

Hai hạng người này chỉ làm cho hành-giả phóng tâm, không an trụ trong đối-tượng thiền định được, nên gọi là con người bất lợi đối với hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định hoặc pháp-hành-thiền-tuệ . 

   

* Puggala sappāya: Con người thuận lợi là người mà hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định hoặc pháp-hành-thiền-tuệ nên thân cận gần gũi, để làm tăng thêm đức tin trong pháp-hành thiền của hành-giả. Có 2 hạng người là:

 

1- Người không nói chuyện tiracchānakathā, mà chỉ nói lời động viên khuyến khích làm tăng đức tin.

 

2- Người có giới, định, tuệ đầy đủ, khuyên dạy rõ ràng.

 

Hai hạng người này hỗ trợ cho hành-giả tăng trưởng đức tin trong sạch nơi pháp-hành thiền, làm cho tâm an trụ trong đối-tượng thiền định được, nên gọi là con người thuận lợi đối với hành-giả thực-hành pháp-hành thiền.

 
5- * Bhojana asappāya: Món ăn bất lợi,
     * Bhojana sappāya: Món ăn thuận lợi,
 

* Bhojana asappāya: Món ăn bất lợi là món ăn mà hành-giả đang thực-hành pháp-hành-thiền-định hoặc pháp-hành-thiền-tuệ, dùng vào không có thích hợp, nên làm cho thân thể cảm thấy khó chịu, có ảnh hưởng đến tâm hành-giả không được an-lạc.

Đó là món ăn bất lợi mà hành-giả không nên dùng.

 

 * Bhojana sappāya: Món ăn thuận lợi là món ăn mà hành-giả đang thực-hành pháp-hành-thiền-định hoặc pháp-hành-thiền-tuệ, dùng vào được thích hợp, nên làm cho thân thể cảm thấy dễ chịu, khỏe mạnh, có ảnh hưởng đến tâm hành-giả được an-lạc.

Đó là thức ăn thuận lợi mà hành-giả nên dùng.

6- * Utu asappāya: Thời tiết bất lợi,

    * Utu sappāya: Thời tiết thuận lợi,
 

* Utu asappāya: Thời tiết bất lợi là thời tiết quá nóng, hoặc quá lạnh làm cho thân thể của hành-giả đang thực- hành pháp-hành-thiền-định hoặc pháp-hành-thiền-tuệ, khó chịu đựng nổi, khiến cho tâm của hành-giả không được an-lạc.

Đó là thời tiết bất lợi đối với hành-giả thực-hành pháp-hành thiền.

 

* Utu sappāya: Thời tiết thuận lợi là thời tiết không nóng quá cũng không lạnh quá làm cho thân thể của hành-giả đang thực-hành pháp-hành-thiền-định hoặc pháp-hành-thiền-tuệ, dễ chịu đựng nổi, khiến cho tâm của hành-giả được an-lạc.

Đó là thời tiết thuận lợi đối với hành-giả thực-hành pháp-hành thiền.

 

7- * Iriyāpatha asappāya: Tứ oai nghi bất lợi,

    * Iriyāpatha sappāya: Tứ oai nghi thuận lợi,

 

* Iriyāpatha asappāya: Tứ oai nghi bất lợi là 4 oai nghi đi, đứng, ngồi, nằm, mà hành-giả đang thực-hành pháp-hành-thiền-định hoặc pháp-hành-thiền-tuệ, nếu sử dụng oai nghi nào, khi ấy, hành-giả cảm thấy thân tâm không được an-lạc thì oai nghi ấy gọi là oai nghi bất lợi đối với hành-giả.

 

* Iriyāpatha sappāya: Tứ oai nghi thuận lợi, là 4 oai nghi đi, đứng, ngồi, nằm, mà hành-giả đang thực-hành pháp-hành-thiền-định hoặc pháp-hành-thiền-tuệ, nếu sử dụng oai nghi nào, khi ấy, hành-giả cảm thấy thân tâm được an-lạc thì oai nghi ấy gọi là oai nghi thuận lợi đối với hành-giả.

 

Hành-giả đang thực-hành pháp-hành-thiền-định có đối- tượng paṭibhāganimitta là quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định đất (pathavīkasiṇa) đã phát sinh rõ trong tâm, dù hành-giả đã tránh xa 7điều bất lợi trong việc thực-hành pháp-hành-thiền-định, và có đầy đủ 7 điều thuận lợi trong việc thực-hành pháp-hành-thiền-định, nhưng vẫn chưa chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm.

 

Vậy, hành-giả cần phải thực-hành 10 pháp Appanākosala: Sự hiểu biết trong Appanā chứng đắc các bậc thiền sắc-giới, các bậc thiền vô-sắc-giới.

 

Appanākosala Có 10 Pháp

 

1- Hành-giả nên làm vệ sinh thân thể, y phục cho sạch sẽ, quét dọn chỗ ở, đồ dùng sạch sẽ, rồi sắp xếp gọn gàng dễ nhìn.

 

2- Hành-giả nên thực-hành đồng đều giữa 4 pháp-chủ là: tín-pháp-chủ với tuệ-pháp-chủ đồng đều nhau, và tấn-pháp-chủ với định-pháp-chủ đồng đều nhau, còn niệm-pháp-chủ có năng lực hơn 4 pháp-chủ kia, để giữ gìn thiện-tâm phát triển.

 

3- Hành-giả có trí-tuệ hiểu biết cách giữ gìn các nimitta thiền-định.

 

4- Khi nào hành-giả biết tâm buồn chán thực-hành pháp-hành-thiền-định, thì khi ấy hành-giả nên nâng đỡ 3 pháp giác-chi: pháp phân-tích giác-chi, pháp tinh-tấn giác-chi, pháp hỷ-giác-chi được phát triển, để tiếp tục thực-hành pháp-hành thiền-định.

 

5- Khi nào hành-giả biết phóng-tâm chuyện này chuyện kia, thì khi ấy hành-giả nên nâng đỡ 3 pháp giác-chi: pháp an-tịnh-giác-chi, pháp định-giác-chi, pháp xả- giác-chi được phát triển, để tiếp tục thực-hành pháp-hành thiền-định. 

 

6- Khi nào hành-giả biết chán nản, biếng nhác thực-hành pháp-hành-thiền-định, thì khi ấy hành-giả nên suy xét đến 8 pháp-động-tâm (saṃvegavatthu) sinh, lão, bệnh, tử, khổ trong cõi 4 ác-giới, khổ tử sinh luân hồi trong kiếp quá-khứ, trong kiếp vị-lai, khổ trong kiếp hiện-tại; và nên niệm tưởng đến 9 Ân-Đức-Phật, 6 Ân-đức- Pháp, 9 Ân-đức-Tăng, để phát sinh đức tin trong pháp-hành thiền-định, tiếp tục thực-hành pháp-hành-thiền-định.  

 

7- Khi nào hành-giả biết tâm ở trong trạng-thái ổn định, không buồn-chán, không phóng-tâm, không chán-nản, thì khi ấy hành-giả không nên nâng tâm, không nên chế ngự tâm, mà chỉ nên giữ gìn đại-thiện-tâm dõi theo biết đề-mục-thiền-định ấy mà thôi. 

 

8- Hành-giả tránh xa người không có định-tâm, hành động không nghiêm túc.

 

9- Hành-giả nên gần gũi thân cận với người có định-tâm vững chắc, có thân, khẩu, ý thanh-tịnh.  

 

10- Hành-giả cố gắng tinh tấn không ngừng, chỉ hướng tâm đến đối-tượng paṭibhāganimitta ấy, để chứng đắc các bậc thiền sắc-giới mà thôi.

 

Đó là 10 pháp hiểu biết để chứng đắc các bậc thiền sắc-giới.

 

Khai Triển Đối-tượng Paṭibhāganimitta

 

Hành-giả giữ gìn đối-tượng pathavīpaṭibhāganimitta vững chắc, rồi từ đó, nên khai triển đối-tượng pathavī-paṭibhāganimitta này lớn dần từ 1 lóng tay, 2 lóng tay, 3 lóng tay, …, 1 gang, 2 gang, 3 gang, …,1 cùi, 2 cùi, 3 cùi, … dần dần lớn rộng ra chỗ ở, xóm làng, trong nước, v.v…, để cho định-tâm tăng trưởng có nhiều năng lực. 

 

đối-tượng pathavīpaṭibhāganimitta được khai triển rộng lớn như vậy, tâm vẫn còn upacārabhāvanā: tâm- hành gần bậc thiền sắc-giới, có định-tâm là upacāra-samādhi: cận-định gần bậc thiền sắc-giới.

Hành-giả tiếp tục thực-hành như vậy cho đến khi tiến triển đến appanābhāvanā: tâm-hành chứng đắc bậc thiền sắc-giới trong sắc-giới lộ-trình-tâm, có định-tâmappanāsamādhi: an-định vững chắc trong đối-tượng pathavīpaṭibhāganimitta, chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới-thiện-tâm đầu tiên (paṭhamajjhānakusalacitta).

 

Paṭhamajjhānakusalacitta Đầu Tiên Phát Sinh

 

Khi hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định với đề-mục-thiền-định đất (pathavīkasiṇa) tiến triển theo tuần tự như trên đến giai đoạn chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới-thiện-tâm (rūpāvacarapaṭhamajjhānakusalacitta)đối-tượng pathavīpaṭibhāganimitta phát sinh, có 5 chi-thiền, trong sắc-giới lộ-trình-tâm đầu tiên gọi là (ādikammikajjhānavīthicitta)

Ādikammikajjhānavīthicitta: Lộ-trình-thiền-tâm đầu tiên

 

Đệ nhất thiền sắc-giới lộ-trình-thiện-tâm đầu tiên phát sinh có các loại tâm sinh rồi diệt theo tuần tự như sau:

 

Đồ Biểu Đệ Nhất Thiền Sắc-Giới Lộ-Trình-Tâm Đầu Tiên

 

     Đối-tượng cũ                                                đối-tượng cũ 

       kiếp trước                                                                        kiếp trước



 

              bha bha   na   da   ma pari upa anu got jha bhabha

                                          

                                                                   
             Đệ nhất thiền sắc giới thiện tâm
 

  Đệ Nhất Thiền Sắc-Giới Lộ-Trình-Tâm Đầu Tiên

 

1- Bhavaṅgacitta: Hộ-kiếp-tâm trước,   viết tắt     (bha)

2- Bhavaṅgacalana: Hộ-kiếp-tâm rung động,      vt (na)

3- Bhavaṅgupaccheda: Hộ-kiếp-tâm bị cắt đứt,   vt (na)

4- Manodvāravajjanacitta: Ý-môn-hướng-tâm,   vt (ma)

5- Parikamma: Tâm chuẩn bị đệ nhất thiền,       vt (pari)

6- Upacāra: Tâm cận đệ nhất thiền,                    vt (upa)

7- Anuloma: Tâm thuận theo đệ nhất thiền         vt (upa)

8- Gotrabhu: Tâm chuyển cõi giới ,                     vt (got)

9- Paṭhamajjhānakusalacitta: Đệ nhất thiền sắc-giới

    thiện-tâm đầu tiên,                                                 vt (jha)

10- Bhavaṅgacitta: Hộ-kiếp-tâm sau,                  vt (bha)

 

Chấm dứt đệ nhất thiền sắc-giới lộ-trình-tâm đầu tiên. 

 

Giải thích:

 

Hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định với đề-mục-thiền-định đất (pathavīkasiṇa) tiến triển theo tuần tự cho đến giai đoạn chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới-thiện-tâm đầu tiên đối-tượng pathavīpaṭibhāganimitta, trong đệ nhất thiền sắc-giới lộ-trình-tâm đầu tiên phát sinh, có các loại tâm sinh rồi diệt theo tuần tự như sau:

 

* Bhavaṅgacitta: Hộ-kiếp-tâm trước sinh rồi diệt,  

* Bhavaṅgacalana: Hộ-kiếp-tâm rung động sinh,diệt,

* Bhavaṅgupaccheda:Hộ-kiếp-tâm bị cắt đứt sinh, diệt,

* Manodvāravajjanacitta: Ý-môn-hướng-tâm 1sát-na có đối-tượng pathavīpaṭibhāganimitta sinh rồi diệt, 

* Javanacitta: Tác-hành-tâm dục-giới đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ làm phận sự tác-hành-tâm phát sinh liên tục có 5 hoặc 4 sát-na-tâm đầu là:

 

1- Sát-na-tâm thứ nhất gọi là Parikamma([14]):Tâm chuẩn bị cho đệ nhất thiền sắc-giới-tâm phát sinh1 sát-na-tâm có đối-tượng pathavīpaṭibhāganimitta giống như ý-môn-hướng-tâm, sinh rồi diệt, làm duyên cho sát-na-tâm

 

2- Sát-na-tâm thứ nhì gọi là Upacāra: Tâm cận đệ nhất thiền sắc-giới-tâm phát sinh1 sát-na-tâm có đối-tượng pathavīpaṭibhāganimitta giống như ý-môn-hướng-tâm, sinh rồi diệt, làm duyên cho sát-na-tâm 

 

3- Sát-na-tâm thứ ba gọi là Anuloma: Tâm thuận theo đệ nhất thiền sắc-giới-tâm phát sinh1 sát-na-tâm có đối-tượng pathavīpaṭibhāganimitta giống như ý-môn-hướng-tâm, sinh rồi diệt, làm duyên cho sát-na-tâm

 

4- Sát-na-tâm thứ 4 gọi là Gotrabhu: Tâm chuyển từ dục-giới đại-thiện-tâm chuyển lên sắc-giới thiện-tâm phát sinh 1 sát-na-tâm đối-tượng pathavīpaṭibhāganimitta giống như ý-môn-hướng-tâm, sinh rồi diệt, làm duyên cho sát-na-tâm sau. (4 sát-na-tâm này thuộc về tâm upacāra-bhāvanā, có định-tâm là upacārasamādhi: cận-định-tâm trong đệ nhất thiền sắc-giới lộ-trình-tâm đầu tiên sinh rồi diệt.)  

 

5- Sát-na-tâm thứ 5 gọi là Jhānacitta đó là đệ nhất thiền sắc-giới-thiện-tâm (rūpāvacarapaṭhamajjhāna-kusalacitta) phát sinh chỉ có 1 sát-na-tâm mà thôi, có đối-tượng pathavīpaṭibhāganimitta với appanābhāvanāđịnh-tâmappanāsamādhi: an-định-tâm trong đệ nhất thiền sắc-giới lộ-trình-tâm đầu tiên sinh rồi diệt, tiếp theo

 

* Bhavaṅgacitta: Hộ-kiếp-tâm sau chấm dứt đệ nhất thiền sắc-giới lộ-trình-tâm đầu tiên.

 

Như vậy, trong đệ nhất thiền sắc-giới lộ-trình-tâm đầu tiên với đối-tượng pathavīpaṭibhāganimitta có 2 loại tâm như sau:  

 

1- Dục-giới-đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ làm phận sự tác-hành-tâm có 4 sát-na-tâm là Parikamma, Upacāra, Anuloma,  Gotrabhu.     

 

2- Sắc-giới-tâm đó là đệ nhất thiền sắc-giới-thiện-tâm đầu tiên phát sinh chỉ có 1 sát-na-tâm mà thôi. 

 

Đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm đầu tiên có 5 chi-thiền là vitakka, vicāra, pīti, sukha, ekaggatā.

 

5 Chi-Thiền Chế Ngự 5 Pháp-Chướng-Ngại

 

* Đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm 5 chi-thiền có khả năng chế ngự được 5 pháp-chướng-ngại (nīvaraṇa) không phát sinh được. Mỗi chi-thiền có khả năng chế ngự được mỗi pháp-chướng-ngại như sau:

1- Vitakka: hướng-tâm chế ngự được thīna-middha: buồn-chán, buồn-ngủ,

2- Vicāra: quan-sát chế ngự được vicikicchā: hoài-nghi,

3- Pīti: hỷ chế ngự được byāpāda: sân-hận,

4- Sukha: lạc chế ngự được uddhacca-kukkucca: Phóng-tâm, hối-hận,

5- Ekaggatā: nhất-tâm chế ngự được kāmacchanda: tham-dục.

 

Sau khi đệ nhất thiền sắc-giới lộ-trình-tâm đầu tiên chấm dứt, liền tiếp theo các lộ-trình-tâm paccavekkhaṇa-vīthicitta quán triệt 5 chi-thiền phát sinh, mỗi lộ-trình-tâm quán triệt mỗi chi-thiền.

 
 Hành-Giả Tự Biết Chứng Đắc Bậc Thiền
 

Sau khi đã trải qua đệ nhất thiền sắc-giới lộ-trình-tâm đầu tiên (Ādikammikajjhānavīthicitta) và các quán-triệt lộ-trình-tâm (paccavekkhaṇavīthicitta) quán triệt các chi-thiền, cho nên hành-giả tự biết mình đã chứng đắc bậc thiền ấy rồi, bởi vì parikamma tâm chuẩn bị cho bậc thiền ấy, upacāra tâm cận bậc thiền ấy, anuloma tâm thuận theo bậc thiền ấy, gotrabhū tâm chuyển từ dục-giới-đại-thiện-tâm lên sắc-giới-thiền-tâm ấy, (hoặc từ thiền-tâm bậc thấp lên thiền-tâm bậc cao), thuộc về  dục-giới-tác-hành-tâm đối-tượng pathavīpaṭibhāganimitta.

 

paṭhamajjhānakusalacitta: đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm thuộc về appanājavanacitta: sắc-giới tác-hành-tâm cũng có đối-tượng pathavīpaṭibhāganimitta.

Tuy 2 loại tác-hành-tâm (javanacitta)kāmajavana-citta appanājavanacitta đều có đối-tượng pathavī-paṭibhāganimitta giống nhau, nhưng năng lực của mỗi tác-hành-tâm khác nhau:

 

* Kāmajavanacitta: dục-giới-tác-hành-tâm phát sinh còndo năng lực của kāmataṇhā: tham-ái trong cõi dục-giới.

 

* Appanājavanacitta đó là paṭhamajjhānakusalacitta đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm có 5 chi-thiền, tuy chỉ 1 sát-na-tâm nhưng có năng lực đặc biệt chế ngự được kāmataṇhā: tham-ái trong cõi dục-giới.

Do nhờ năng lựcđặc biệt này, cho nên hành-giả tự biết mình biết đã chứng đắc được đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm.

 

Sắc-Giới Thiện-Nghiệp

 

Tác ý (cetanā) đồng sinh với đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm (không có kāmataṇhā) sắc-giới thiện-nghiệp

thuộc về trọng-yếu-thiện-nghiệp (garukakusalakamma) chắc chắn cho quả tái sinh kiếp sau trong cõi trời sắc-giới. Cho nên, đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm này có tên là rūpāvacarakusalacitta: sắc-giới thiện-tâm.

 

Thực Tập Đệ Nhất Thiền Sắc-Giới Có Năng Lực

 

Sau khi đã chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới thiện- tâm đầu tiên, hành-giả cần phải tiếp tục thực tập nhập đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm ấy từ 1 đến 7 ngày, cho định-tâm có nhiều năng lực vững chắc, để làm nền tảng thực-hành 5 pháp vasībhāva: khả năng thuần thục.

 

Các thiền bậc cao như đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm, đệ tam thiền sắc-giới thiện-tâm, đệ tứ thiền sắc-giới thiện-tâm, đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm đều phải nương nhờ 5 pháp vasībhāva: khả năng thuần thục làm nền tảng.

 Trước tiên, hành-giả cần phải hướng tâm đến đối-tượng pathavīpaṭibhāganimitta parikammabhāvanā: tâm-hành ban đầu với đại-thiện-tâm niệm thầm rằng:

Pathavī,… Pathavī,… Pathavī,…cho đến khi lộ trình đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm phát sinh. 

 

Mỗi lộ trình đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm sinh rồi diệt, hành-giả không nên quán triệt 5 chi-thiền, mà chỉ nên hướng tâm đến đối-tượng pathavīpaṭibhāganimitta, cho lộ trình đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm sinh rồi diệt liên tục, để cho định-tâm có nhiều năng lực vững chắc mà thôi.

 
Sau đó, hành-giả cần phải thực tập 5 pháp vasībhāva: khả năng thuần thục.
 
 

Vasībhāva Có 5 Pháp

 

1- Āvajjana vasībhhāva: Hành-giả có khả năng thuần thục quán triệt chi-thiền với ý-môn-hướng-tâm,

 

2- Samāpajjana vasībhāva: Hành-giả có khả năng   thuần thục nhập bậc thiền ấy,

 

3- Adhiṭṭhāna vasībhāva: Hành-giả có khả năng thuầnthục phát nguyện ấn định thời gian nhập bậc thiền ấy,

 

4- Vuṭṭhāna vasībhāva: Hành-giả có khả năng thuần thục ấn định thời gian xả bậc thiền ấy,

 

5- Paccavekkhaṇa vasībhāva: Hành-giả có khả năng thuần thục quán triệt chi-thiền với tác-hành-tâm.

 

Giải Thích

 

1- Hành-giả có khả năng thuần thục quán triệt chi-thiền với ý môn hướng tâm như thế nào?

 

Hành-giả nhập đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm, rồi xả đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm ấy, tiếp theo quán triệt từng mỗi chi-thiền riêng biệt trong 5 chi-thiền ấy, với dục-giới-đại-thiện-tác-hành-tâm chưa đến 7 sát-na-tâm, chỉ cần 4 hoặc 5 sát-na-tâm mà thôi, tùy theo khả năng của hành-giả thuộc hạng trí-tuệ sắc bén nhanh nhạy (tikkha) hoặc thuộc hạng trí-tuệ chậm (manda).

 

Mỗi khi lộ-trình-tâm vừa chấm dứt, không để cho bhavaṅgacitta phát sinh nhiều sát-na-tâm, liền phát sinh Bhavaṅgacalana, Bhavaṅgupaccheda, tiếp theo lộ-trình-tâm Manodvāravajjana, mahākusalajavana 4 hoặc 5 sát-na-tâm làm phận sự.

 

Như vậy, gọi là āvajjana vasībhhāva: hành-giả có khả năng thuần thục quán triệt chi-thiền với ý-môn- hướng-tâm.

 

2- Hành-giả có khả năng thuần thục nhập bậc thiền sắc-giới ấy như thế nào?

 

Muốn nhập bậc thiền sắc-giới ấy lúc nào, hành-giả có khả năng thuần thục nhập bậc thiền sắc-giới ấy ngay tức khắc, chỉ cần hướng tâm đến đối-tượng pathavīpaṭi-bhāganimitta trong thời gian ngắn ngủi liền sau đó Bhavaṅgacalana, Bhavaṅgupaccheda, tiếp theo lộ-trình-tâm Manodvāravajjana, parikamma, upacāra, anuloma, gotrabhū, (hoặc upacāra, anuloma, gotrabhū) jhānacitta phát sinh liên tục.

 

Như vậy, gọi là samāpajjana vasībhāva: hành-giả có khả năng thuần thục nhập bậc thiền sắc-giới ấy.

 

3- Hành-giả có khả năng thuần thục phát nguyện ấn định thời gian nhập bậc thiền sắc-giới ấy như thế nào?

 

*Dòng lộ-trình-tâm bậc thiền sắc-giới ấy sinh, rồi diệt liên tục không ngừng, gọi là nhập bậc thiền sắc-giới ấy.

*Dòng lộ-trình-tâm bậc thiền sắc-giới ấy bị ngừng, rồi rơi xuống bhavaṅgacitta, gọi là xả bậc thiền sắc-giới ấy.

 

Hành-giả có khả năng thuần thục phát nguyện định thời gian nhập bậc thiền sắc-giới ấy.

Khi có ý nguyện nhập bậc thiền sắc-giới ấy thì tức khắc nhập bậc thiền sắc-giới ấy ngay.

 

Nếu cần nhập bậc thiền sắc-giới ấy suốt 1 giờ hoặc 2 giờ, v.v… thì dòng lộ-trình-tâm bậc thiền sắc-giới ấy sinh, rồi diệt liên tục suốt thời gian ấn định.

 

Như vậy, gọi là adhiṭṭhāna vasībhāva: hành-giả có khả năng thuần thục phát nguyện ấn định thời gian nhập bậc thiền sắc-giới ấy.

 

4- Hành-giả có khả năng thuần thục ấn định thời gian xả bậc thiền sắc-giới ấy như thế nào?

 

Hành-giả có khả năng thuần thục ấn định thời gian xả bậc thiền sắc-giới ấy lúc nào, đến đúng vào thời gian lúc ấy, thì hành-giả có khả năng thuần thục xả bậc thiền sắc-giới ấy ngay, không sớm không muộn.

 

Như vậy, gọi là vuṭṭhāna vasībhāva: hành-giả có khả năng thuần thục ấn định thời gian xả bậc thiền ấy,

 
Sự khác nhau giữa adhiṭṭhāna vasībhāva với vuṭṭhāna vasībhāva là:

* Adhiṭṭhāna vasībhāva: Hành-giả có khả năng thuần thục phát nguyện ấn định thời gian nhập bậc thiền sắc-giới ấy, đúng theo thời gian không trước không sau.

 

* Vuṭṭhāna vasībhāva: Hành-giả có khả năng thuần thục ấn định thời gian xả bậc thiền sắc-giới ấy, đúng theo thời gian không sớm không muộn.

 

5- Hành-giả có khả năng thuần thục quán triệt chi-thiền với dục-giới tác-hành-tâm như thế nào?

 

Sau khi đã xả bậc thiền sắc-giới ấy, hành-giả có khả năng quán triệt mỗi chi-thiền với dục-giới-đại-thiện-tác-hành-tâm 4 hoặc 5 sát-na-tâm phát sinh, và khoảng cách giữa mỗi lộ-trình-tâm có 4 hoặc 5 bhavaṅgacitta sinh, rồi diệt, liền phát sinh Bhavaṅgacalana, Bhavaṅgupaccheda tiếp theo lộ-trình-tâm Manodvāravajjana, kāmajavana-citta 4 hoặc 5 sát-na-tâm phát sinh,

 

Như vậy, gọi là paccavekkhaṇa vasībhāva: hành-giả có khả năng thuần thục quán triệt chi-thiền với dục-giới-đại-thiện-tác-hành-tâm.

 

 Āvajjana vasībhhāvaPaccavekkhaṇa vasībhāva có khả năng thuần thục quán triệt chi-thiền giống nhau trong cùng lộ-trình-tâm, nhưng gọi khác nhau theo khả năng của mỗi tâm:

 
* Khả năng của Manodvāravajjanacitta gọi là Āvajjanavasībhhāva.
 
* Khả năng của Javanacitta  gọi là  Paccavekkhaṇa vasībhāva.
 

Thực-hành Chứng Đắc Đệ Nhị Thiền Sắc-Giới

 

Sau khi đã chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm, hành-giả muốn tiếp tục thực-hành pháp-hành-thiền-định với đề-mục-thiền-định đất (pathavīkasiṇa), để chứng đắc đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm, hành-giả cần phải thực-hành theo tuần tự như sau:

 

 Hành-giả nên thực tập 5 pháp vasībhāva: khả năng thuần thục đặc biệt đãtrở nên thành thạo, sau đó, hành-giả nhập đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm xong, xả đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm ấy, rồi suy xét về đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm rằng: “Đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm này có 5 chi-thiền là bậc thiền gần với 5 pháp-chướng-ngại (nīvaraṇa).

Trong 5 chi-thiền, chi-thiền vitakka có trạng-thái thô là nhân làm cho các chi-thiền khác như vicāra, pīti, sukha, ekaggatā có năng lực yếu, làm cho định-tâm không đủ vững chắc.

Dù 5 pháp-chướng-ngại (nīvaraṇa) đã bị chế ngự rồi, vẫn có cơ hội phát sinh trở lại, làm cho đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm đã chứng đắc rồi, sẽ dễ bị mất.  

 

Còn đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm ấy có 4 chi-thiền: vicāra, pīti, sukha, ekaggatā có trạng-thái vi tế, định-tâm vững chắc hơn, nên cách xa với 5 pháp-chướng-ngại. 

 

Khi suy xét kỹ càng như vậy, hành-giả phát sinh tâm nhàm chán đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm, không còn tham muốn trong đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm ấy nữa.

 

Từ đó, hành-giả ấy bắt đầu hướng tâm đến đối-tượng pathavīpaṭibhāganimitta, có các lộ-trình-tâm parikamma-bhāvanā: tâm-hành ban đầu với đại-thiện-tâm niệm thầm rằng:“Pathavī, … Pathavī, … Pathavī, …” với vitakka-virāgabhāvanā: tâm-hành nhàm chán chi-thiền vitakka, để mong chứng đắc đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm.

 

Khi ấy, parikammabhāvanā: tâm-hành ban đầu có đối-tượng pathavīpaṭibhāganimitta (không phải là đối-tượng parikammanimitta hoặc đối-tượng uggahanimitta).

 

Khi hành-giả hướng tâm đến đối-tượng pathavīpaṭibhā-ganimitta với parikammabhāvanā: tâm-hành ban đầu như vậy, muốn biết tâm của hành-giả đạt đến upacā-rabhāvanā: tâm-hành gần đệ nhị thiền sắc-giới hay chưa, hành-giả nên nhập đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm, rồi xả đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm, hành-giảquán triệt 5 chi-thiền theo tuần tự.

 

Khi quán triệt 5 chi-thiền như vậy, nếu thấy trạng-thái thô của chi-thiền vitakka, và thấy trạng-thái vi tế của 4 chi-thiền còn lại, hành-giả biết rằng: “Tâm-hành của hành-giả đã đạt đến upacārabhāvanā: tâm-hành gần đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm.

 

Nếu chưa thấy trạng-thái thô của chi-thiền vitakka, và trạng-thái vi tế của chi-thiền vicāra, v.v… thì tâm-hành của hành-giả vẫn còn parikammabhāvanā: tâm-hành ban đầu cách xa đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm. 

 

Hành-giả cần phải cố gắng tinh tấn hướng tâm đến đối-tượng pathavīpaṭibhāganimitta với parikamabhāvanā: tâm-hành ban đầu tiếp tục thực-hành để đạt đến upacāra-bhāvanā: tâm-hành gần đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm.

 

Chứng Đắc Đệ Nhị Thiền Sắc-giới Thiện-tâm

 

Khi hành-giả cố gắng tinh tấn hướng tâm đến đối-tượng pathavīpaṭibhāganimitta với parikammabhāvanā: tâm-hành ban đầu thực-hành đạt đến upacārabhāvanā: tâm-hành gần đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm, tiếp tục thực-hành tiến triển đến appanābhāvanā: tâm-hành chứng đắc đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm đầu tiên trong đệ nhị thiền sắc-giới lộ trình thiện-tâm có các tâm sinh rồi diệt theo tuần tự như sau: “Bhavaṅgacitta, bhavaṅgacalana, bhavaṅgupaccheda, tiếp theo Manodvāra-vajjana, parikamma([15]), upacāra, anuloma, gotrabhū, dutiyajjhānakusalacitta (1 sát-na-tâm), bhavaṅgacitta, chấm dứt đệ nhị thiền sắc-giới lộ trình thiện-tâm đầu tiên.

 

Đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm có 4 chi-thiền là vicāra, pīti, sukha, ekaggatā. 

 
Tiếp theo các lộ-trình-tâm quán triệt (paccavekkhaṇa-vīthicitta) mỗi chi-thiền là vicāra, pīti, sukha, ekaggatā.
 

Hành-giả đã chứng đắc đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm.

 

Sau khi chứng đắc đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm, để cho đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm có nhiều năng lực, hành-giả cần phải thực tập tương tự như đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm.

 

Đệ Tam Thiền, Đệ Tứ Thiền, Đệ Ngũ Thiền Sắc-Giới

 

Sau khi đã chứng đắc đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm với đề-mục-thiền-định đất (pathavīkasiṇa), hành-giả tiếp tục thực-hành để chứng đắc các bậc thiền cao như đệ tam thiền sắc-giới thiện-tâm, đệ tứ thiền sắc-giới thiện-tâm, đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm theo tuần tự từ bậc thiền thấp đến bậc thiền cao.

 

Phương-pháp thực-hành phần đầu cũng giống như hành-giả đã chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm thực-hành để chứng đắc đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm,   nhưng phần sau, mỗi bậc thiền cao có khác nhau về phần suy xét thấy trạng-thái thô của chi-thiền trước, thấy trạng-thái vi tế của chi-thiền sau như sau:

* Chứng Đắc Đệ Tam Thiền Sắc-Giới Thiện-Tâm 

 

Sau khihành-giả đã chứng đắc đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm có 4 chi-thiền là vicāra, pīti, sukha, ekaggatā, rồi tiếp tục thực-hành để chứng đắc đệ tam thiền sắc-giới thiện-tâm, hành-giả nhập đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm, rồi xả đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm, suy xét thấy rõ trạng-thái thô của chi-thiền vicāra, vàthấy rõ trạng-thái vi tế của 3 chi-thiền  pīti, sukha, ekaggatā.

 

Hành-giả hướng tâm đến đối-tượng pathavīpaṭibhā-ganimitta thực-hành theo tuần tự 3 loại bhāvanā:  parikammabhāvanā: tâm-hành ban đầu, với vicāravirāga-bhāvanā: tâm-hành nhàm chán chi-thiền vicāra,đạt đến upacārabhāvanā: tâm-hành gần đệ tam thiền sắc-giới thiện-tâm, rồi tiếp tục thực-hành tiến triển đến appanā-bhāvanā: tâm-hành chứng đắc đệ tam thiền sắc-giới thiện-tâm đầu tiên trong đệ tam thiền sắc-giới lộ trình thiện-tâm có các tâm sinh rồi diệt theo tuần tự như sau:

 

Bhavaṅgacitta, bhavaṅgacalana, bhavaṅgupaccheda, tiếp theo Manodvāravajjana, parikamma([16]), upacāra, anuloma, gotrabhū, tatiyajjhānakusalacitta (1 sát-na-tâm), bhavaṅgacitta, chấm dứt đệ tam thiền sắc-giới lộ trình thiện-tâm đầu tiên.

 

Đệ tam thiền sắc-giới thiện-tâm có 3 chi-thiền là pīti, sukha, ekaggatā. 

 
Tiếp theo các lộ-trình-tâm quán triệt (paccavekkhaṇa-vīthicitta) mỗi chi-thiền là pīti, sukha, ekaggatā.
 

Hành-giả đã chứng đắc đệ tam thiền sắc-giới thiện-tâm.

 

* Chứng Đắc Đệ Tứ Thiền Sắc-Giới Thiện-Tâm 

 

Sau khihành-giả đã chứng đắc đệ tam thiền sắc-giới thiện-tâm có 3 chi-thiền là pīti, sukha, ekaggatā, rồi tiếp tục thực-hành để chứng đắc đệ tứ thiền sắc-giới thiện-tâm, hành-giả nhập đệ tam thiền sắc-giới thiện-tâm, rồi xả đệ tam thiền sắc-giới thiện-tâm, suy xét thấy rõ trạng-thái thô của chi-thiền pīti, vàthấy rõ trạng-thái vi tế của 2 chi-thiền sukha, ekaggatā.

 

Hành-giả hướng tâm đến đối-tượng pathavīpaṭibhā-ganimitta thực-hành theo tuần tự 3 loại bhāvanā:  parikammabhāvanā: tâm-hành ban đầu, với pītivirāga- bhāvanā: tâm-hành nhàm chán chi-thiền pīti,đạt đến upacārabhāvanā: tâm-hành gần đệ tứ thiền sắc-giới thiện-tâm, rồi tiếp tục thực-hành tiến triển đến appanā-bhāvanā:tâm-hành chứng đắc đệ tứ thiền sắc-giới thiện-tâm đầu tiên trong đệ tứ thiền sắc-giới lộ trình thiện-tâm có các tâm sinh rồi diệt theo tuần tự như sau:

 “Bhavaṅgacitta, bhavaṅgacalana, bhavaṅgupaccheda, tiếp theo Manodvāravajjana, parikamma([17]), upacāra, anuloma, gotrabhū, catutthajjhānakusalacitta (1 sát-na-tâm), bhavaṅgacitta, chấm dứt đệ tứ thiền sắc-giới lộ trình thiện-tâm đầu tiên.

 

Đệ tứ thiền sắc-giới thiện-tâm có 2 chi-thiền là  sukha, ekaggatā. 

 
Tiếp theo các lộ-trình-tâm quán triệt (paccavekkhaṇa-vīthicitta) mỗi chi-thiền là sukha, ekaggatā.
 

Hành-giả đã chứng đắc đệ tứ thiền sắc-giới thiện-tâm.

 

* Chứng Đắc Đệ Ngũ Thiền Sắc-Giới Thiện-Tâm 

 

Sau khihành-giả đã chứng đắc đệ tứ thiền sắc-giới thiện-tâm có 2 chi-thiền là sukha, ekaggatā, rồi tiếp tục thực-hành để chứng đắc đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm, hành-giả nhập đệ tứ thiền sắc-giới thiện-tâm, rồi xả đệ tứ thiền sắc-giới thiện-tâm, suy xét thấy rõ trạng-thái thô của chi-thiền sukha, vàthấy rõ trạng-thái vi tế của 2 chi-thiền upekkhā, ekaggatā.

Hành-giả hướng tâm đến đối-tượng pathavīpaṭibhā-ganimitta thực-hành theo tuần tự 3 loại bhāvanā:  parikammabhāvanā:tâm-hành ban đầu, với sukhavirāga-bhāvanā: tâm-hành nhàm chán chi-thiền sukha, đạt đến upacārabhāvanā: tâm-hành gần đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm, rồi tiếp tục thực-hành tiến triển đến appanā-bhāvanā: tâm-hành chứng đắc đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm đầu tiên trong đệ ngũ thiền sắc-giới lộ trình thiện-tâm có các tâm sinh rồi diệt theo tuần tự như sau:

 “Bhavaṅgacitta, bhavaṅgacalana, bhavaṅgupaccheda, tiếp theo Manodvāravajjana, parikamma([18]), upacāra, anuloma, gotrabhū, pañcamajjhānakusalacitta (1 sát-na-tâm), bhavaṅgacitta, chấm dứt đệ tứ thiền sắc-giới lộ trình thiện-tâm đầu tiên.

Đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm có 2 chi-thiền là  upekkhā, ekaggatā. 

 
Tiếp theo các lộ-trình-tâm quán triệt (paccavekkhaṇa-vīthicitta) mỗi chi-thiền là upekkhā, ekaggatā.
 

Hành-giả đã chứng đắc đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm.

 

* 5 Bậc Thiền Sắc-Giới

 

Đối với hành-giả thuộc hạng mandapuggala: hành-giả có trí-tuệ chậm thực-hành pháp-hành-thiền-định có khả năng chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm theo tuần tự như sau:

 

1- Đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm có 5 chi-thiền: vitakka, vicāra, pīti, sukha, ekaggatā do chế ngự được 5 pháp-chướng-ngại (nīvaraṇa): kāmacchanda, byāpāda, thīna-middha, uddhacca-kukkucca, vicikicchā.

 
2- Đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm có 4 chi-thiền:  vicāra, pīti, sukha, ekaggatā, do chế ngự được chi-thiền vitakka.
 

3- Đệ tam thiền thiện-tâm có 3 chi-thiền: pīti, sukha, ekaggatā, do chế ngự được chi-thiền vicāra.

 

4- Đệ tứ thiền sắc-giới thiện-tâm có 2 chi-thiền: sukha, ekaggatā, do chế ngự được chi-thiền pīti.

 

5- Đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm có 2 chi-thiền: upekkhā, ekaggatā, do thay thế chi-thiền sukha bằng upekkhā.

 

* 4 Bậc Thiền Sắc-Giới

 

Đối với hành-giả thuộc hạng tikkhapuggala: hành-giả có trí-tuệ sắc bén nhanh nhạy có khả năng suy xét thấy rõ trạng-thái thô của chi-thiền vitakkachi-thiền vicāracùng một lúc, nên đệ nhị thiền sắc-giới có 3 chi   thiền là pīti, sukha, ekaggatā.                                               

Cho nên, hành-giả thuộc hạng tikkhapuggala chỉ có 4 bậc thiền sắc-giới theo tuần tự như sau:

 

 1- Đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm có 5 chi-thiền: vitakka, vicāra, pīti, sukha, ekaggatā, do chế ngự được 5 pháp-chướng-ngại (nīvaraṇa): kāmacchanda, byāpāda, thīna-middha, uddhacca-kukkucca, vicikicchā.

 

2- Đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm có 3 chi-thiền: pīti, sukha, ekaggatā, do chế ngự được 2 chi-thiền vitakka, vicāra cùng một lúc.

 

3- Đệ tam thiền sắc-giới thiện-tâm có 2 chi-thiền: sukha, ekaggatā, do chế ngự được chi-thiền pīti.

 

4- Đệ tứ thiền sắc-giới thiện-tâm có 2 chi-thiền: upekkhā, ekaggatā, do thay thế chi-thiền sukha bằng chi-thiền upekkhā.

 

1.2- Đề-Mục-Thiền-Định Nước (Āpokasiṇa)    

 
Āpokasiṇa=Āpo+kasiṇa
 

Āpo: Nước dùng làm đề-mục-thiền-định nước (āpokasiṇa) không phải là thật-tánh của nước (sabhāva āpo) có trạng-thái chảy hoặc đông đặc, thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma), mà chỉ là nước bình thường tự nhiên (sasambhāra āpo) thuộc về chế-định-pháp (paññattidhamma) mà thôi.

 

Kasiṇa: Toàn thể nước, toàn vẹn nước của đề-mục-thiền-định, nghĩa là hành-giả hướng tâm đến trọn vẹn đề-mục-thiền-định nước, không thiếu một phần nào.  

 

Āpokasiṇa đề-mục-thiền-định nước trọn vẹn mà hành-giả dùng làm đề-mục của pháp-hành-thiền-định có khả năng dẫn đến chứng đắc đầy đủ 5 bậc thiền sắc-giới.  

 

Hành-giả có ý nguyện muốn thực-hành pháp-hành-thiền-định, với đề-mục-thiền-định nước,hành-giảkhông nên biết đến thật-tánh của thuỷ-đại (sabhāva āpo) có trạng-thái chảy hoặc đông đặc thuộc về chân-nghĩa-pháp, cũng không nên quan tâm đến màu sắc của đề-mục-thiền-định nước, mà hành-giả chỉ nên hướng tâm đến toàn diện trọn vẹn đối-tượng đề-mục-thiền-định nước nước bình thường (sasambhāra āpo) thuộc về chế-định-pháp mà thôi. 

 

Tiền Kiếp Chứng Đắc Thiền Sắc-Giới  

 

* Nếu hành-giả là người đã từng chứng đắc các bậc thiền sắc-giới với đề-mục-thiền-định nước trong tiền kiếp gần kiếp hiện-tại, thì khi hành-giả hướng tâm đến nước bình thường tự nhiên (sasambhāra āpo) như nước sông hoặc nước hồ, v.v… một loại nước nào đó thuộc về chế-định-pháp, làm đề-mục-thiền-định nước gọi là đối-tượng parikammanimitta là đề-mục-thiền-định ban đầu, với parikammabhāvanā: tâm-hành ban đầu bằng dục-giới-đại-thiện-tâm niệm thầm trong tâm rằng:

 

 Āpo,…Āpo,…Āpo,… hoặc Nước,…Nước,…Nước,.. ” 

 

Định-tâm đồng sinh với dục-giới-đại-thiện-tâm gọi parikammasamādhi: sơ-định trong đề-mục-thiền-định nước là đối-tượng parikammanimitta ban đầu ấy tiến triển dần dần trở thành đối-tượng uggahanimitta là đối-tượng thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định nước phát sinh rõ trong tâm.

 

Khi đối-tượng uggahanimitta đã phát sinh, hành-giả không nên hướng tâm đến đối-tượng đề-mục-thiền-định nước bên ngoài nữa, mà chỉ hướng tâm đến đối-tượng uggahanimitta của đề-mục-thiền-định nước ấy bên trong tâm mà thôi, tiến triển dần dần trở thành đối-tượng paṭibhāganimitta là đối-tượng quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định nước phát sinh rõ trong tâm với upacārabhāvanā: tâm-hành cận bậc thiền sắc-giới, có upacārasamādhi: cận-định gần bậc thiền sắc-giới.

 

Hành-giả tiếp tục thực-hành hướng tâm đến đối-tượng āpopaṭibhāganimitta là quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định nước ấy với tâm-hành tiến triển dần đến appanābhāvanā: tâm-hành chứng đắc bậc thiền sắc-giới trong sắc-giới lộ-trình-tâm, chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm, có appanāsamādhi: an-định trong đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm. 

 

Sau khi chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm, hành-giả tiếp tục thực-hành pháp-hành-thiền-định với đề-mục-thiền-định nước ấy, bắt đầu hướng tâm đến đối-tượng āpopaṭibhāganimitta là đối-tượng quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định nước ấy với tâm-hành tiến triển dần đến appanābhāvanā: tâm-hành chứng đắc bậc thiền sắc-giới trong sắc-giới lộ-trình-tâm, chứng đắc đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm, có appanāsamādhi: an-định trong đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm. 

 

Hành-giả tiếp tục thực-hành pháp-hành-thiền-định với đề-mục-thiền-định nước (āpokasiṇa) ấy như vậy, theo tuần tự chứng đắc đệ tam thiền sắc-giới thiện-tâm, đệ tứ thiền sắc-giới thiện-tâm cho đến đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm một cách thuận lợi đối với hành-giả ấy.   

 

* Nếu hành-giả là người không chứng đắc đề-mục- thiền-định nước trong tiền kiếp gần kiếp hiện-tại, thì hành-giả cần phải làm đề-mục-thiền-định nước như sau:

 

Cách Làm Đề-Mục-Thiền-Định Nước (Āpokasiṇa)

 

Hành-giả nên dùng nước thật trong sạch không có màu gì lẫn lộn, như hứng nước mưa từ trên hư không rơi xuống đổ vào trong bát hoặc trong đồ đựng nước đầy ngang miệng, có đường kính 1 gang và 4 ngón tay nằm ngang hoặc 30 phân, làm đề-mục-thiền-định nước.

 

Sau khi đã làm đề-mục-thiền-định nước xong, hành-giả cần phải tìm một nơi thanh vắng, thuận lợi cho việc thực-hành pháp-hành-thiền-định. Hành-giả ngồi một nơi thích hợp đặt đề-mục-thiền-định nước không xa cũng không gần, có thể hướng tâm đến đề-mục-thiền-định nước, không quan tâm đến thật-tánh của thủy-đại (sabhāva āpo) có trạng-thái chảy hoặc đông đặc của nước thuộc về chân-nghĩa-pháp, mà hành-giả chỉ hướng tâm đến nước thật trong sạch bình thường (sasambhāra āpo).

 

Hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định, với đề-mục-thiền-định nước gọi là đối-tượng parikammanimittalà đề-mục-thiền-định ban đầuvới parikammabhāvanā: tâm-hànhban đầu trong lộ-trình-tâmtác-hành-tâm (javanacitta) dục-giới-đại-thiện-tâm niệm thầm trong tâm rằng:

                                                        

Āpo,… Āpo,… Āpo,… hoặc Nước,… Nước,… Nước, …”từng lúc khoảng 2-3 giây đồng hồ một lần, không nên niệm liên tục như niệm chú, nên thường mở mắt hướng tâm nhìn thẳng đến toàn diện trọn vẹn đề-mục-thiền-định nước ấy, càng lâu càng tốt, không nên thường nháy mắt, làm trở ngại đối-tượng uggahanimitta: thô-ảnh-tương-tự của đề-mục-thiền-định nước phát sinh rõ trong tâm.

 

Nếu hành-giả cảm thấy mỏi mắt thì nhắm mắt niệm thầm một lát, rồi mở mắt trở lại niệm thầm “Āpo,… Nước,…như vậy, cho đến khi đối-tượng parikammanimitta là đối-tượng đề-mục-thiền-định ban đầu tiến triển dần dần trở thành đối-tượng uggahanimitta là đối-tượng thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định nước phát sinh rõ ràng trong tâm

 

Định-tâm đồng sinh với dục-giới-đại-thiện-tâm gọi là parikammasamādhi: sơ-định ban đầu thực-hành pháp-hành-thiền-định còn cách xa bậc thiền sắc-giới (mahag-gatajjhāna).

 

Đối-Tượng Uggahanimitta Phát Sinh Rõ Trong Tâm

 

Khi đối-tượng uggahanimitta là thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định nước đã phát sinh rõ trong tâm, hành-giả cần phải thay đổi chỗ ngồi, hoặc ngồi quay sang hướng khác, không còn phải mở mắt hướng tâm nhìn thẳng đến đề-mục-thiền-định nước bên ngoài nữa, mà chỉ hướng tâm nhìn đối-tượng uggahanimitta là thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định nước bên trong tâm của hành-giả mà thôi.  

 

Hành-giả tiếp tục hướng tâm đến đối-tượng uggaha-nimitta của đề-mục-thiền-định nước ấy diễn biến dần dần trở nên hoàn toàn trong sạch thanh khiết, trở thành đối-tượng paṭibhāganimitta là đối-tượng quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định nước phát sinh rõ trong tâm của hành-giả. 

 

Sự Khác Nhau Uggahanimitta Với Paṭibhāganimitta

 

Cả 2 đối-tượng uggahanimittađối-tượng paṭibhāga-nimittacủa đề-mục-thiền-định nước đều phát sinh rõ trong tâm, theo ý-môn-lộ-trình-tâm, chỉ có khác nhau như sau:

 

Đối-tượng uggahanimitta là đối-tượng thô-ảnh-tương-tự như đối-tượng parikammanimtta của đề-mục-thiền-định nước ban đầu. Còn đối-tượng paṭibhāganimitta là đối-tượng quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định nước trong suốt như viên ngọc bích cao quý.

 

Sau khi có đối-tượng paṭibhāganimitta là quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định nước, hành-giả tiếp tục thực-hành hướng tâm đến đối-tượng āpopaṭibhāga-nimitta của đề-mục-thiền-định nước ấy.

 

Phương-pháp thực-hành pháp-hành-thiền-định với đề-mục-thiền-định nước, để chứng đắc theo tuần tự 5 bậc thiền sắc-giới, hầu hết giống như phương-pháp thực-hành đề-mục-thiền-định đất đã trình bày ở phần trước.

 

1.3- Đề-Mục-Thiền-Định Lửa (Tejokasiṇa)

 
Tejokasiṇa= Tejo+kasiṇa
 

Tejo: Lửa dùng làm đề-mục-thiền-định lửa (tejo-kasiṇa) không phải là thật-tánh của lửa (sabhāvatejo) có trạng-thái nóng hoặc lạnh, thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma), mà chỉ là lửa bình thường tự nhiên (sasambhāratejo) thuộc về chế-định-pháp mà thôi.

 

Kasiṇa: Toàn thể lửa, toàn vẹn lửa của đề-mục-thiền-định, nghĩa là hành-giả hướng tâm đến trọn vẹn đề-mục-thiền-định lửa, không thiếu một phần nào. 

 

Tejokasiṇađề-mục-thiền-định lửa trọn vẹn mà hành-giả dùng làm đề-mục của pháp-hành-thiền-định có khả năng dẫn đến chứng đắc đầy đủ 5 bậc thiền sắc-giới.  

 

Hành-giả có ý nguyện muốn thực-hành pháp-hành-thiền-định, với đề-mục-thiền-định lửa,hành-giảkhông nên biết đến thật-tánh của hỏa-đại (sabhāvatejo) có trạng-thái nóng hoặc lạnh thuộc về chân-nghĩa-pháp, cũng không nên quan tâm đến màu sắc của đề-mục-thiền-định lửa, mà hành-giả chỉ nên hướng tâm đến toàn diện trọn vẹn đối-tượng đề-mục-thiền-định lửa lửa bình thường (sasambhāratejo) thuộc về chế-định-pháp mà thôi. 

 

Tiền Kiếp Chứng Đắc Thiền Sắc-Giới 

 

Nếu hành-giả là người đã từng chứng đắc các bậc thiền sắc-giới với đề-mục-thiền-định lửa trong tiền kiếp gần kiếp hiện-tại, thì khi hành-giả hướng tâm đến lửa bình thường tự nhiên như lửa ngọn đèn, hoặc lửa trong

lò, hoặc lửa cháy rừng, v.v… một loại lửa nào đó, thuộc về chế-định-pháp làm đề-mục-thiền-định lửa gọi là đối-tượng parikammanimitta là đề-mục-thiền-định ban đầu, với parikammabhāvanā: tâm-hành ban đầu bằng dục-giới-đại-thiện-tâm niệm thầm trong tâm rằng:

Tejo,… Tejo,… Tejo,… hoặc Lửa,… Lửa,… Lửa, …” 

 

Định-tâm đồng sinh với dục-giới-đại-thiện-tâm gọi parikammasamādhi: sơ-định trong đề-mục-thiền-định lửa là đối-tượng parikammanimitta ban đầu ấy tiến triển dần dần trở thành đối-tượng uggahanimitta là đối-tượng thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định lửa phát sinh rõ trong tâm.

 

Khi đối-tượng uggahanimitta ấy đã phát sinh, hành-giả không nên hướng tâm đến đối-tượng đề-mục-thiền-định lửa bên ngoài nữa, mà chỉ hướng tâm đến đối-tượng uggahanimitta của đề-mục-thiền-định lửa ấy bên trong tâm mà thôi, tiến triển dần dần trở thành đối-tượng paṭibhāganimitta là đối-tượng quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định lửa phát sinh rõ trong tâm với upacārabhāvanā: tâm-hành cận bậc thiền sắc-giới, có upacārasamādhi: cận-định gần bậc thiền sắc-giới.

 

Hành-giả tiếp tục thực-hành hướng tâm đến đối-tượng tejopaṭibhāganimitta: đối-tượng quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định lửa ấy với tâm-hành tiến triển dần đến appanābhāvanā: tâm-hành chứng đắc bậc thiền sắc-giới trong sắc-giới lộ-trình-tâm, chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm, có appanāsamādhi: an-định trong đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm. 

 

Sau khi chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm, hành-giả tiếp tục thực-hành pháp-hành-thiền-định với đề-mục-thiền-định lửa (tejokasiṇa) ấy, bắt đầu hướng tâm

đến đối-tượng tejopaṭibhāganimitta là đối-tượng quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định lửa ấy với tâm-hành tiến triển dần đến appanābhāvanā: tâm-hành chứng đắc bậc thiền sắc-giới trong sắc-giới lộ-trình-tâm, chứng đắc đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm, có appanāsamādhi: an-định trong đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm. 

 

Hành-giả tiếp tục thực-hành pháp-hành-thiền-định với đề-mục-thiền-định lửa (tejokasiṇa) ấy như vậy, theo tuần tự chứng đắc đệ tam thiền sắc-giới thiện-tâm, đệ tứ thiền sắc-giới thiện-tâm cho đến đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm một cách thuận lợi đối với hành-giả ấy.   

 

* Nếu hành-giả là người không chứng đắc đề-mục- thiền-định lửa trong tiền kiếp gần kiếp hiện-tại, thì hành-giả cần phải làm đề-mục-thiền-định lửa như sau:

 

Cách Làm Đề-Mục-Thiền-Định Lửa (Tejokasiṇa) 

 

* Dùng lửa làm đề-mục-thiền-định lửa (tejokasiṇa), hành-giả nên lấy củi khô chắc, chặt ra từng đoạn, rồi chọn một nơi thích hợp, đốt lửa lên tại một nơi thích hợp, dựng phía trước một tấm ván mỏng, khoét một lỗ có đường kính 1 gang và 4 lóng tay nằm ngang hay 30 phân, làm đề-mục-thiền-định lửa.  

 

Hành-giả ngồi trước đề-mục-thiền-định lửa ngang tầm mắt, không cao, không thấp, cách chỗ ngồi khoảng 2 cùi và 1 gang tay, không nên ngồi xa quá, cũng không nên ngồi gần quá.

 

Hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định với đề-mục thiền-định lửa, không nên quan tâm đến màu của lửa, cũng không nên biết trạng-thái nóng của lửa thuộc về chân-nghĩa-pháp, hành-giả chỉ hướng tâm đến ngọn lửa bình thường (sasambhāratejo) thuộc về chế-định-pháp (paññattidhamma) qua vòng tròn có đường kính 1 gang và 4 lóng tay làm đề-mục-thiền-định lửa mà thôi.

 

Hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định, với đề-mục-thiền-định lửa gọi là parikammanimitta: đối-tượng đề-mục-thiền-định ban đầuvới parikammabhāvanā: tâm-hành ban đầu trong lộ-trình-tâmtác-hành-tâm (javanacitta) dục-giới-đại-thiện-tâm niệm thầm trong tâm rằng:

Tejo, …Tejo,…Tejo,… hoặc Lửa,… Lửa,… Lửa…” như vậy, từng lúc khoảng 2-3 giây đồng hồ một lần, không nên niệm liên tục như niệm chú, nên thường mở mắt hướng tâm nhìn thẳng đến toàn diện trọn vẹn đề-mục-thiền-định lửa ấy, càng lâu càng tốt, không nên thường nháy mắt, làm trở ngại đối-tượng uggahanimitta: thô-ảnh-tương-tự của đề-mục-thiền-định lửa phát sinh rõ trong tâm.

 

Nếu hành-giả cảm thấy mỏi mắt thì nhắm mắt niệm thầm một lát, rồi mở mắt trở lại niệm thầm “Tejo,… Lửa,…” như vậy, cho đến khi đối-tượng parikammanimitta là đối-tượng đề-mục-thiền-định ban đầu tiến triển dần dần trở thành đối-tượng uggahanimitta là đối-tượng thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định lửa phát sinh rõ ràng trong tâm. 

 

Định-tâm đồng sinh với dục-giới-đại-thiện-tâm gọi là parikammasamādhi: sơ-định ban đầu thực-hành pháp-hành-thiền-định còn cách xa bậc thiền sắc-giới. 

 

Đối-Tượng Uggahanimitta Phát Sinh Rõ Trong Tâm

 

Khi đối-tượng uggahanimitta là thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định lửa đã phát sinh rõ trong tâm, hành-giả cần phải thay đổi chỗ ngồi, hoặc ngồi quay sang hướng khác, không còn phải mở mắt hướng tâm nhìn thẳng đến đề-mục-thiền-định lửa bên ngoài nữa, mà chỉ hướng tâm nhìn đối-tượng uggahanimitta là thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định lửa bên trong tâm của hành-giả mà thôi.  

 

Hành-giả tiếp tục hướng tâm đến đối-tượng uggaha-nimitta của đề-mục-thiền-định lửa ấy diễn biến dần dần trở nên hoàn toàn trong sạch thanh khiết, trở thành đối-tượng paṭibhāganimitta là đối-tượng quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định lửa phát sinh rõ trong tâm của hành-giả. 

 

Sự Khác Nhau Uggahanimitta Với Paṭibhāganimitta

 

Cả 2 Đối-tượng uggahanimittađối-tượng paṭibhāga-nimittacủa đề-mục-thiền-định lửa đều phát sinh rõ trong tâm, theo ý-môn-lộ-trình-tâm, chỉ có khác nhau như sau:

 

Đối-tượng uggahanimitta là đối-tượng thô-ảnh-tương-tự như đối-tượng parikammanimitta của đề-mục-thiền-định lửa ban đầu. Còn đối-tượng paṭibhāganimitta là đối-tượng quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định lửa trong suốt như tấm vải nhung đỏ, hoặc tấm vàng ròng.

 

Sau khi có đối-tượng paṭibhāganimitta là quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định lửa hành-giả tiếp tục thực-hành hướng tâm đến đối-tượng tejopaṭibhāga-nimitta của đề-mục-thiền-định lửa ấy.

 

Phương-pháp thực-hành pháp-hành-thiền-định với đề-mục-thiền-định lửa, để chứng đắc theo tuần tự 5 bậc thiền sắc-giới, hầu hết giống như phương-pháp thực-hành đề-mục-thiền-định đất (pathavīkasiṇa) đã trình bày ở phần trước.

 
1.4- Đề-Mục-Thiền-Định Gió (Vāyokasiṇa)
 
Vāyokasiṇa=Vāyo+kasiṇa
 

Vāyo: Gió dùng làm đề-mục-thiền-định gió (vāyo-kasiṇa) không phải là thật-tánh của gió (sabhāvavāyo) có trạng-thái lay động hoặc căng đầy nào cả, thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma), mà chỉ là gió bình thường tự nhiên (sasambhāravāyo) thuộc về chế-định-pháp (paññattidhamma) mà thôi.

 

Kasiṇa: Toàn thể gió, toàn vẹn gió của đề-mục-thiền-định, nghĩa là hành-giả hướng tâm đến trọn vẹn đề-mục-thiền-định gió, không thiếu một phần nào.

 

Vāyokasiṇađề-mục-thiền-định gió trọn vẹn mà hành-giả dùng làm đề-mục của pháp-hành-thiền-định có khả năng dẫn đến chứng đắc đầy đủ 5 bậc thiền sắc-giới.  

 

Hành-giả có ý nguyện muốn thực-hành pháp-hành-thiền-định, với đề-mục-thiền-định gió hành-giảkhông nên biết đến thật-tánh của phong-đại (sabhāvavāyo) có trạng-thái lay động hoặc căng đầy thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma), mà hành-giả chỉ nên hướng tâm đến toàn diện trọn vẹn đối-tượng đề-mục-thiền-định gió gió bình thường tư nhiên (sasambhāravāyo) thuộc về chế-định-pháp mà thôi.

 

Không Làm Đề-Mục-Thiền-Định Gió (Vāyokasiṇa)

 

Hành-giả là người đã từng chứng đắc các bậc thiền sắc-giới với đề-mục-thiền-định gió (vāyokasiṇa) hoặc không chứng đắc các bậc thiền sắc-giới với đề-mục-thiền-định gió trong tiền kiếp gần kiếp hiện-tại, cũng đều không phải làm đề-mục-thiền-định gió riêng biệt, mà hành-giả chỉ cần sử dụng gió bình thường tự nhiên (sasambhāravāyo) thuộc về chế-định-pháp (paññatti-dhamma) làm đề-mục-thiền-định gió mà thôi.

 

Thật ra, gió không thể thấy bằng mắt thịt được, nhưng có thể biết gió bằng mắt nhìn thấy ngọn cây lay chuyển, cành cây, lá cây lay động hoặc thân tiếp xúc với gió có cảm giác mát lạnh, … một trong những đối-tượng ấy làm đề-mục-thiền-định gió (vāyokasiṇa).   

 

Hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định, với đề-mục-thiền-định gió gọi là đối-tượng parikammanimittalà đề-mục-thiền-định ban đầuvới parikammabhāvanā: tâm-hành ban đầu trong lộ-trình-tâmtác-hành-tâm (javanacitta) dục-giới-đại-thiện-tâm niệm thầm trong tâm rằng:

 

Vāyo,…Vāyo,...Vāyo,… hoặc Gió,… Gió,... Gió,…” như vậy, từng lúc khoảng 2-3 giây đồng hồ một lần, không nên niệm liên tục như niệm chú, nên thường mở mắt hướng tâm nhìn thẳng đến toàn diện trọn vẹn đề-mục-thiền-định gió (vāyokasiṇa) ấy, càng lâu càng tốt,   để cho đối-tượng uggahanimitta là thô-ảnh-tương-tự của đề-mục-thiền-định gió phát sinh rõ trong tâm.

 

Nếu hành-giả cảm thấy mỏi mắt thì nhắm mắt niệm thầm một lát, rồi mở mắt trở lại niệm thầm “Vāyo,Gió,…” như vậy, cho đến khi đối-tượng parikamma-nimitta là đối-tượng đề-mục-thiền-định ban đầu tiến triển dần dần trở thành đối-tượng uggahanimitta là đối-tượng lay động của đề-mục-thiền-định gió phát sinh rõ ràng trong tâm. 

 

Định-tâm đồng sinh với dục-giới-đại-thiện-tâm gọi là parikammasamādhi: sơ-định ban đầu thực-hành pháp-hành-thiền-định còn cách xa bậc thiền sắc-giới.  

 

Đối-Tượng Uggahanimitta Phát Sinh Rõ Trong Tâm

 

Khi đối-tượng uggahanimitta là thô-ảnh-lay-động của đề-mục-thiền-định gió đã phát sinh rõ trong tâm, hành-giả cần phải thay đổi chỗ ngồi, hoặc ngồi quay sang hướng khác, không còn phải mở mắt hướng tâm nhìn thẳng đến đề-mục-thiền-định gió bên ngoài nữa, mà chỉ hướng tâm nhìn đối-tượng uggahanimitta là thô-ảnh của đề-mục-thiền-định gió bên trong tâm của hành-giả mà thôi.  

 

Hành-giả tiếp tục hướng tâm đến đối-tượng uggaha-nimitta của đề-mục-thiền-định gió ấy diễn biến dần dần trở nên hoàn toàn trong sáng bất động, trở thành đối-tượng paṭibhāganimitta là quang-ảnh-trong-sáng bất động của đề-mục-thiền-định gió phát sinh rõ trong tâm của hành-giả. 

 

Sự Khác Nhau Uggahanimitta Với Paṭibhāganimitta

 

Cả 2 Đối-tượng uggahanimittađối-tượng paṭibhāga-nimittacủa đề-mục-thiền-định gió đều phát sinh rõ trong tâm, theo ý-môn-lộ-trình-tâm, chỉ có khác nhau như sau:

 Đối-tượng uggahanimitta là đối-tượng thô-ảnh-lay- động của đối-tượng parikammanimtta, đề-mục-thiền-định gió (vāyokasiṇa) ban đầu. Còn đối-tượng paṭibhāganimitta là đối-tượng quang-ảnh-trong-sáng bất động của đề-mục-thiền-định gió. 

Sau khi có đối-tượng paṭibhāganimitta là quang-ảnh-trong-sáng bất động của đề-mục-thiền-định gió, hành-giả tiếp tục thực-hành hướng tâm đến đối-tượng vāyo-paṭibhāganimitta của đề-mục-thiền-định gió ấy.

 

Phương-pháp thực-hành pháp-hành-thiền-định với  đề-mục-thiền-định gió, để chứng đắc theo tuần tự 5 bậc thiền sắc-giới, hầu hết giống như phương-pháp thực-hành đề-mục-thiền-định đất đã trình bày ở phần trước. 

 
3 Loại Nimitta Của Đề-Mục-Thiền-Định Gió
 

* Đối-tượng parikammanimitta đólà gió thổi làm ngọn cây lay chuyển, cành cây, lá cây lay động,…  

 

* Đối-tượng uggahanimitta đối-tượng như hơi nồi cơm bốc lên, hoặc hơi nước sôi bốc lên, hoặc hơi thác nước, hoặc khói bay,… là thô-ảnh lay động phát sinh rõ trong tâm.

 

* Đối-tượng paṭibhāganimitta cũng là đối-tượng như hơi nước sôi bốc lên, hơi nước, v.v… như đối-tượng uggaha-nimitta, nhưng đối-tượng paṭibhāganimitta là quang-ảnh-trong-sáng bất động, định ảnh như ảnh chụp, ảnh vẽ.

Thật ra, gió bình thường tự nhiên không thể thấy bằng mắt thịt được. Vì vậy, hành-giả cần phải nhờ mắt thấy ngọn cây lay chuyển, cành cây, lá cây lay động,…   

Hành-giả sử dụng một trong các đối-tượng ấylàm đề-mục-thiền-định gió gọi là đối-tượng parikamma-nimitta: đề-mục-thiền-định ban đầu.

 * Đối-tượng uggahanimitta đối-tượng như hơi nồi cơm bốc lên, hoặc hơi nước sôi bốc lên, hoặc hơi thác nước, hoặc khói bay,.. là thô-ảnh lay động của đề-mục-thiền-định gió phát sinh rõ trong tâm.

 

Cho nên, hành-giả thực-hành hướng tâm đến gió bình thường tự nhiên bên ngoài, để có thô-ảnh của đề-mục-thiền-định gió đặc biệt phát sinh rõ trong tâm, trở nên đối-tượng uggahanimitta.

 

Vấn: Nếu vậy thì hành-giả trực tiếp hướng tâm đến hơi nồi cơm bốc lên, hoặc hơi nước sôi bốc lên, hoặc  hơi thác nước, hoặc khói bay, … bởi vì các loại hơi này là uggahanimitta: đối-tượng thô-ảnh lay động của đề-mục-thiền-định gió (vāyokasiṇa) không được hay sao?

 

Đáp: Hành-giả không thể trực tiếp hướng tâm đến hơi nồi cơm bốc lên, hoặc hơi nước sôi bốc lên, hoặc hơi thác nước, hoặc khói bay, … bởi vì uggahanimitta: đối-tượng thô-ảnh lay động của đề-mục-thiền-định gió (vāyo- kasiṇa) hiện rõ bên trong tâm với ý môn lộ-trình-tâm.

 

Đối-tượng uggahanimitta tiến triển trở thành paṭi-bhāganimitta: đối-tượng quang-ảnh-trong-sáng bất động của đề-mục-thiền-định gió (vāyokasiṇa) cũng hiện rõ bên trong tâm với ý môn lộ-trình-tâm.

 

Khi có đối-tượng paṭibhāganimitta của đề-mục-thiền-định gió (vāyokasiṇa), hành-giả tiếp tục thực-hành hướng tâm đến đối-tượng paṭibhāganimitta là quang-ảnh-trong-sáng bất động của đề-mục-thiền-định gió ấy, để dẫn đến chứng đắc theo tuần tự 5 bậc thiền sắc-giới.

 

Vaṇṇakasiṇa: 4 Màu Kasiṇa

 

1.5- Đề-Mục-Thiền-Định Màu Xanh (Nīlakasiṇa)

 

Nīlakasiṇa: Đề-mục-thiền-định màu xanh trọn vẹn là đề-mục của pháp-hành-thiền-định có khả năng dẫn đến chứng đắc đầy đủ 5 bậc thiền sắc-giới.

 

Hành-giảcó ý nguyện muốn thực-hành pháp-hành-thiền-định với đề-mục-thiền-định màu xanh (nīlakasiṇa) thuộc về chế-định-pháp (paññattidhamma).

 

Tiền Kiếp Chứng Đắc Thiền Sắc-giới  

 

* Nếu hành-giả là người đã từng chứng đắc các bậc thiền sắc-giới với đề-mục-thiền-định màu xanh trong tiền kiếp gần kiếp hiện-tại, thì khi hành-giả hướng tâm đến màu lá xanh, hoa màu xanh, vải màu xanh, vật gì màu xanh, … một loại nào đó thuộc về chế-định-pháp (paññattidhamma), làm đề-mục-thiền-định màu xanh gọi là đối-tượng parikammanimitta là đề-mục-thiền-định ban đầu, với parikammabhāvanā: tâm-hành ban đầu bằng dục-giới-đại-thiện-tâm niệm thầm trong tâm rằng:   

“Nīlaṃ, ... Nīlaṃ, ... Nīlaṃ, … hoặc Màu xanh, ... Màu xanh, ... Màu xanh, ...”    

 

Định-tâm đồng sinh với dục-giới-đại-thiện-tâm gọi parikammasamādhi: sơ-định trong đề-mục-thiền-định màu xanh là đối-tượng parikammanimitta ban đầu ấy tiến triển dần dần trở thành đối-tượng uggahanimitta là thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định màu xanh phát sinh rõ trong tâm.

 

Khi đối-tượng uggahanimitta đã phát sinh, hành-giả không nên hướng tâm đến đối-tượng đề-mục-thiền-định màu xanh bên ngoài nữa, mà chỉ hướng tâm đến đối-tượng

uggahanimitta của đề-mục-thiền-định màu xanh ấy bên trong tâm mà thôi, tiến triển dần dần trở thành đối-tượng paṭibhāganimitta là đối-tượng quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định màu xanh phát sinh rõ trong tâm với upacārabhāvanā: tâm-hành cận bậc thiền sắc-giới, có upacārasamādhi: cận-định gần bậc thiền sắc-giới.

 

Hành-giả tiếp tục thực-hành hướng tâm đến đối-tượng nīlapaṭibhāganimitta là quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định màu xanh ấy với tâm-hành tiến triển dần đến appanābhāvanā: tâm-hành chứng đắc bậc thiền sắc-giới trong sắc-giới lộ-trình-tâm, chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm, có appanāsamādhi: an-định trong đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm. 

 

Sau khi chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm, hành-giả tiếp tục thực-hành pháp-hành-thiền-định với đề-mục-thiền-định màu xanh (nīlakasiṇa) ấy, bắt đầu hướng tâm đến đối-tượng nīlapaṭibhāganimitta là đối-tượng quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định màu xanh ấy với tâm-hành tiến triển dần đến appanā-bhāvanā: tâm-hành chứng đắc bậc thiền sắc-giới trong sắc-giới lộ-trình-tâm, chứng đắc đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm, có appanāsamādhi: an-định trong đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm. 

 

Hành-giả tiếp tục thực-hành pháp-hành-thiền-định với đề-mục-thiền-định màu xanh ấy như vậy, theo tuần tự chứng đắc đệ tam thiền sắc-giới thiện-tâm, đệ tứ thiền sắc-giới thiện-tâm cho đến đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm một cách thuận lợi đối với hành-giả ấy.   

 

* Nếu hành-giả là người không chứng đắc đề-mục-thiền-định màu xanh trong tiền kiếp gần kiếp hiện-tại, thì hành-giả cần phải làm đề-mục-thiền-định màu xanh như sau:

 

Cách Làm Đề-Mục-Thiền-Định Màu Xanh (Nīlakasiṇa) 

 

Hành-giả tìm hoa màu xanh, hoặc vải màu xanh, hoặc tấm ván sơn màu xanh, chọn một thứ nào đó tùy theo sở thích của hành-giả.

 

* Nếu sử dụng hoa màu xanh thì cùng loại không lấy nhụy, sắp hoa không thấy cuống hoa trong nắp bát hoặc đồ đựng hoa có đường kính 1 gang và 4 lóng tay nằm ngang.

 

* Nếu sử dụng vải màu xanh, hoặc tấm nhựa màu xanh,hoặc tấm ván ép sơn màu xanh, thì cắt tròn có đường kính 1 gang và 4 lóng tay nằm ngang, rồi vẽ một đường biên màu trắng hoặc màu đỏ ¼ ngón tay vòng quanh chu vi vòng tròn,để làm nổi đề-mục-thiền-định màu xanh.  

 

 Đề-mục-thiền-định màu xanh mà hành-giả sử dụnglàm đối-tượng để thực-hành pháp-hành-thiền-định, hành-giả phải nên biết tôn kính, và giữ gìn sạch sẽ như tượng Đức-Phật.

 

Đặt Đề-Mục-Thiền-Định Màu Xanh

 

Sau khi đã làm đề-mục-thiền-định màu xanh xong, hành-giả cần phải tìm một nơi thanh vắng, thuận lợi cho việc thực-hành pháp-hành-thiền-định. Hành-giả đặt đề-mục-thiền-định màu xanh ngay trước mặt ngang tầm mắt, không cao, không thấp, cách chỗ ngồi khoảng 2 cùi và 1 gang tay. (không nên đặt xa quá, cũng không nên đặt gần quá)

Khi hành-giả hướng tâm đến trọn vẹn đối-tượng đề- mục-thiền-định màu xanh chỉ thuộc về chế-định-pháp (paññattidhamma) mà thôi.
 

Thực-hành Đề-Mục-Thiền-Định Màu Xanh (Nīlakasiṇa)

 

Hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định, với đề-mục-thiền-định màu xanh gọi là đối-tượng parikamma-nimitta đề-mục-thiền-định ban đầuvới parikamma-bhāvanā: tâm-hành ban đầu trong lộ-trình-tâmtác-hành-tâm (javanacitta) dục-giới-đại-thiện-tâm niệm thầm trong tâm rằng:

“Nīlaṃ,… Nīlaṃ,… Nīlaṃ,… hoặc Màu xanh,… Màu xanh,… Màu xanh,…” từng lúc khoảng 2-3 giây đồng hồ một lần, không nên niệm liên tục như niệm chú, nên thường mở mắt hướng tâm nhìn thẳng đến toàn diện trọn vẹn đề-mục-thiền-định màu xanh (nīlakasiṇa) ấy, càng lâu càng tốt, không nên thường nháy mắt, làm trở ngại đối-tượng uggahanimitta: thô-ảnh-tương-tự của đề-mục-thiền-định màu xanh phát sinh rõ trong tâm.

 

Nếu hành-giả cảm thấy mỏi mắt thì nhắm mắt niệm thầm một lát, rồi mở mắt trở lại niệm thầm “Nīlaṃ,… Màu xanh,…” như vậy, cho đến khi đối-tượng parikammanimitta là đề-mục-thiền-định ban đầu tiến triển dần dần trở thành đối-tượng uggahanimitta là thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định màu xanh phát sinh rõ ràng trong tâm. 

 

Định-tâm đồng sinh với dục-giới-đại-thiện-tâm gọi parikammasamādhi: sơ-định ban đầu thực-hành pháp- hành-thiền-định còn cách xa bậc thiền sắc-giới (mahag-gatajjhāna).

 

Đối-Tượng Uggahanimitta Phát Sinh Rõ Trong Tâm

 

Khi đối-tượng uggahanimitta là thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định màu xanh đã phát sinh rõ trong tâm, hành-giả cần phải thay đổi chỗ ngồi, hoặc ngồi quay sang hướng khác, không còn phải mở mắt hướng tâm nhìn thẳng đến đề-mục-thiền-định màu xanh bên ngoài nữa, mà chỉ hướng tâm nhìn đối-tượng uggahanimitta là thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định màu xanh bên trong tâm của hành-giả mà thôi.

 

Hành-giả tiếp tục hướng tâm đối-tượng uggaha-nimitta là thô-ảnh-tương-tự của đề-mục-thiền-định màu xanh (nīlakasiṇa) ấy tiến triển dần dần trở nên hoàn toàn trong sạch thanh khiết, trở thành đối-tượng paṭibhāga-nimitta là quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định màu xanh phát sinh trong tâm.  

 

Sau khi có đối-tượng paṭibhāganimitta là quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định màu xanh, hành-giả tiếp tục thực-hành hướng tâm đến đối-tượng nīlapaṭibhāga-nimitta của đề-mục-thiền-định màu xanh ấy.

 

Phương-pháp thực-hành pháp-hành-thiền-định với đề-mục-thiền-định màu xanh, để chứng đắc theo tuần tự 5 bậc thiền sắc-giới, hầu hết giống như phương-pháp thực-hành đề-mục-thiền-định đất (pathavīkasiṇa) đã trình bày ở phần trước. 

 

6- Đề-Mục-Thiền-Định Màu Vàng (Pītakasiṇa)

 

7- Đề-Mục-Thiền-Định Màu Đỏ (Lohitakasiṇa)

 
8- Đề-Mục-Thiền-Định Màu Trắng (Odātakasiṇa)
 

Đề-mục-thiền-định màu vàng (pītakasiṇa), đề-mục-thiền-định màu đỏ (lohitakasiṇa), đề-mục-thiền-định màu trắng (odātakasiṇa) là những đề-mục của pháp-hành-thiền-định có khả năng dẫn đến chứng đắc đầy đủ 5 bậc thiền sắc-giới.

 

Hành-giảcó ý nguyện muốn thực-hành pháp-hành-thiền-định với đề-mục-thiền-định màu vàng (pītakasiṇa) hoặc đề-mục-thiền-định màu đỏ (lohitakasiṇa) hoặc đề-mục-thiền-định màu trắng (odātakasiṇa).

 

1.6- Đề-Mục-Thiền-Định Màu Vàng (Pītakasiṇa)

 

* Nếu hành-giả là người đã từng chứng đắc các bậc thiền sắc-giới với đề-mục-thiền-định màu vàng (pīta-kasiṇa), thì khi hành-giả hướng tâm đến hoa màu vàng, vải màu vàng, vật gì màu vàng, … một loại nào đó thuộc về chế-định-pháp (paññattidhamma), làm đối-tượng đề-mục-thiền-định màu vàng gọi là đối-tượng parikamma-nimitta là đề-mục-thiền-định ban đầu, với parikamma-bhāvanā: tâm-hành ban đầu bằng dục-giới-đại-thiện-tâm niệm thầm trong tâm rằng: 

“Pītakaṃ,…Pītakaṃ,…Pītakaṃ,…hoặc Màu vàng,… Màu vàng,… Màu vàng,…”

 

Định-tâm đồng sinh với dục-giới-đại-thiện-tâm gọi parikammasamādhi: sơ-định trong đề-mục-thiền-định màu vàng là đối-tượng parikammanimitta ban đầu ấy tiến triển dần dần trở thành đối-tượng uggahanimitta là thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định màu vàng phát sinh rõ trong tâm.

 

Khi đối-tượng uggahanimitta đã phát sinh, hành-giả không nên hướng tâm đến đối-tượng đề-mục-thiền-định màu vàng bên ngoài nữa, mà chỉ hướng tâm đến đối-tượng uggahanimitta của đề-mục-thiền-định màu vàng ấy bên trong tâm mà thôi, tiến triển dần dần trở thành đối-tượng paṭibhāganimitta là quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định màu vàng phát sinh rõ trong tâm với upacārabhāvanā: tâm-hành cận bậc thiền sắc-giới, có upacārasamādhi: cận-định gần bậc thiền sắc-giới.

 

Hành-giả tiếp tục thực-hành hướng tâm đến đối-tượng pītapaṭibhāganimitta là quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định màu vàng ấy với tâm-hành tiến triển dần đến appanābhāvanā: tâm-hành chứng đắc bậc thiền sắc-giới trong sắc-giới lộ-trình-tâm, chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm, có appanāsamādhi: an-định trong đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm. 

 

Sau khi chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm, hành-giả tiếp tục thực-hành pháp-hành-thiền-định với đề-mục-thiền-định màu vàng ấy, bắt đầu hướng tâm đến đối-tượng pītapaṭibhāganimitta là đối-tượng quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định màu vàng ấy với tâm-hành tiến triển dần đến appanā-bhāvanā: tâm-hành chứng đắc bậc thiền sắc-giới trong sắc-giới lộ-trình-tâm, chứng đắc đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm, có appanāsamādhi: an-định trong đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm. 

 

Hành-giả tiếp tục thực-hành pháp-hành-thiền-định với đề-mục-thiền-định màu vàng ấy như vậy, theo tuần tự chứng đắc đệ tam thiền sắc-giới thiện-tâm, đệ tứ thiền sắc-giới thiện-tâm cho đến đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm một cách thuận lợi đối với hành-giả ấy.   

 

* Nếu hành-giả là người không chứng đắc đề-mục- thiền-định màu vàng trong tiền kiếp gần kiếp hiện-tại, thì hành-giả cần phải làm đề-mục-thiền-định màu vàng.  

 

Cách làm đề-mục-thiền-định màu vàng (pītakasiṇa) tương tự như cách làm đề-mục-thiền-định màu xanh (nīlakasiṇa), chỉ có khác là chọn toàn màu vàng mà thôi.

 

 Đặt Đề-Mục-Thiền-Định Màu Vàng (Pītakasiṇa)

 

Sau khi đã làm đề-mục-thiền-định màu vàng xong, hành-giả cần phải tìm một nơi thanh vắng, thuận lợi cho việc thực-hành pháp-hành-thiền-định. Hành-giả đặt đề-mục-thiền-định màu vàng ấy ngay trước mặt ngang tầm mắt, không cao, không thấp, cách chỗ ngồi khoảng 2 cùi và 1 gang tay. (không nên đặt xa quá, cũng không nên đặt gần quá).

Khi hành-giả hướng tâm đến trọn vẹn đối-tượng đề- mục-thiền-định màu vàng (pītakasiṇa) ấy chỉ thuộc về chế-định-pháp (paññattidhamma) mà thôi.
 

Thực-Hành Đề-Mục-Thiền-Định Màu Vàng (Pītakasiṇa)

 

Hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định, với đề-mục-thiền-định màu vàng gọi là parikammanimitta: đối-tượng đề-mục-thiền-định ban đầuvới parikammabhāvanā: tâm-hành ban đầu trong lộ-trình-tâmtác-hành-tâm (javana-citta) dục-giới-đại-thiện-tâm niệm thầm trong tâm rằng:

 

“Pītakaṃ,…Pītakaṃ,…Pītakaṃ,… hoặc Màu vàng,… Màu vàng,... Màu vàng,...” từng lúc khoảng 2-3 giây đồng hồ một lần, không nên niệm liên tục như niệm chú, nên thường mở mắt hướng tâm nhìn thẳng đến toàn diện trọn vẹn đề-mục-thiền-định màu vàng ấy, càng lâu càng tốt, không nên thường nháy mắt, làm trở ngại đối-tượng uggahanimitta: thô-ảnh-tương-tự của đề-mục-thiền-định màu vàng phát sinh rõ trong tâm.

 

Nếu hành-giả cảm thấy mỏi mắt thì nhắm mắt niệm thầm một lát, rồi mở mắt trở lại niệm thầm “Pītakaṃ,… Màu vàng,…” như vậy, cho đến khi đối-tượng parikam-manimitta là đề-mục-thiền-định ban đầu tiến triển dần dần trở thành đối-tượng uggahanimitta là thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định màu vàng (pītakasiṇa) phát sinh rõ ràng trong tâm. 

 
Định-tâm đồng sinh với dục-giới-đại-thiện-tâm gọi parikammasamādhi: sơ-định ban đầu thực-hành pháp- hành-thiền-định còn cách xa bậc thiền sắc-giới. 
 

Đối-Tượng Uggahanimitta Phát Sinh Rõ Trong Tâm

 

Khi đối-tượng uggahanimitta là thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định màu vàng (pītakasiṇa) đã phát sinh rõ trong tâm, hành-giả cần phải thay đổi chỗ ngồi, hoặc ngồi quay sang hướng khác, không còn phải mở mắt hướng tâm nhìn thẳng đến đề-mục-thiền-định màu vàng bên ngoài nữa, mà chỉ hướng tâm nhìn đối-tượng uggahanimitta là thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định màu vàng bên trong tâm của hành-giả mà thôi.  

 

 Hành-giả tiếp tục hướng tâm đến đối-tượng uggaha-nimitta là thô-ảnh-tương-tự của đề-mục-thiền-định màu vàng (pītakasiṇa) ấy tiến triển dần dần trở nên hoàn toàn trong sạch thanh khiết, trở thành đối-tượng paṭibhāga-nimitta là quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định màu vàng phát sinh trong tâm.  

 

Sau khi có đối-tượng paṭibhāganimitta là quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định màu vàng (pītakasiṇa), hành-giả tiếp tục thực-hành hướng tâm đến đối-tượng pītapaṭibhāganimitta của đề-mục-thiền-định màu vàng ấy.

 

Phương-pháp thực-hành pháp-hành-thiền-định với đề-mục-thiền-định màu vàng, để chứng đắc theo tuần tự 5 bậc thiền sắc-giới, hầu hết giống như phương-pháp thực-hành đề-mục-thiền-định đất đã trình bày ở phần trước.

 

1.7- Đề-Mục-Thiền-Định Màu Đỏ (Lohitakasiṇa)

 

* Nếu hành-giả là người đã từng chứng đắc các bậc thiền sắc-giới với đề-mục-thiền-định màu đỏ (lohita-kasiṇa), thì khi hành-giả hướng tâm đến hoa màu đỏ, vải màu đỏ, vật gì màu đỏ, … một loại nào đó thuộc về chế-định-pháp (paññattidhamma), làm đề-mục-thiền-định màu đỏ, gọi là đối-tượng parikammanimitta là đề-mục-thiền-định ban đầu,với parikammabhāvanā: tâm-hành ban đầu bằng dục-giới-đại-thiện-tâm niệm thầm trong tâm rằng:  

 

 Lohitakaṃ,… Lohitakaṃ,… Lohitakaṃ,… hoặc Màu đỏ,… Màu đỏ, … Màu đỏ,…”   

Định-tâm đồng sinh với dục-giới-đại-thiện-tâm gọi parikammasamādhi: sơ-định trong đề-mục-thiền-định màu đỏ là đối-tượng parikammanimitta ban đầu ấy tiến triển dần dần trở thành đối-tượng uggahanimitta là thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định màu đỏ phát sinh rõ trong tâm.

 

Khi đối-tượng uggahanimitta đã phát sinh, hành-giả không nên hướng tâm đến đối-tượng đề-mục-thiền-định màu đỏ bên ngoài nữa, mà chỉ hướng tâm đến đối-tượng uggahanimitta của đề-mục-thiền-định màu đỏ ấy bên trong tâm mà thôi, tiến triển dần dần trở thành đối-tượng paṭibhāganimitta là quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định màu đỏ phát sinh rõ trong tâm với upacārabhāvanā: tâm-hành cận bậc thiền sắc-giới, có upacārasamādhi: cận-định gần bậc thiền sắc-giới.

 

Hành-giả tiếp tục thực-hành hướng tâm đến đối-tượng lohitapaṭibhāganimitta là quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định màu đỏ ấy với tâm-hành tiến triển dần đến appanābhāvanā: tâm-hành chứng đắc bậc thiền sắc-giới trong sắc-giới lộ-trình-tâm, chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm, có appanāsamādhi: an-định trong đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm. 

 

Sau khi chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm, hành-giả tiếp tục thực-hành pháp-hành-thiền-định với đề-mục-thiền-định màu đỏ ấy, bắt đầu hướng tâm đến đối-tượng lohitapaṭibhāganimitta là quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định màu đỏ ấy với tâm-hành tiến triển dần đến appanābhāvanā: tâm-hành chứng đắc bậc thiền sắc-giới trong sắc-giới lộ-trình-tâm, chứng đắc đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm, có appanāsamādhi: an-định trong đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm. 

 

Hành-giả tiếp tục thực-hành pháp-hành-thiền-định với đề-mục-thiền-định màu đỏ (lohitakasiṇa) ấy như vậy, theo tuần tự chứng đắc đệ tam thiền sắc-giới thiện-tâm, đệ tứ thiền sắc-giới thiện-tâm cho đến đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm một cách thuận lợi đối với hành-giả ấy.   

 
* Nếu hành-giả là người không chứng đắc đề-mục- thiền-định màu đỏ trong tiền kiếp gần kiếp hiện-tại, thì hành-giả cần phải làm đề-mục-thiền-định màu đỏ.  
 

Cách làm đề-mục-thiền-định màu đỏ (lohitakasiṇa)  tương tự như cách làm đề-mục-thiền-định màu xanh (nīlakasiṇa), chỉ có khác là chọn toàn màu đỏ mà thôi.

 

 Đặt Đề-Mục-Thiền-Định Màu Đỏ (Lohitakasiṇa)

 

Sau khi đã làm đề-mục-thiền-định màu đỏ xong, hành-giả cần phải tìm một nơi thanh vắng, thuận lợi cho việc thực-hành pháp-hành-thiền-định. Hành-giả đặt đề-mục-thiền-định màu đỏ ấy ngay trước mặt ngang tầm mắt, không cao, không thấp, cách chỗ ngồi khoảng 2 cùi và 1 gang tay. (không nên đặt xa quá, cũng không nên đặt gần đề-mục-thiền-định màu đỏ ấy quá).

 
Khi hành-giả hướng tâm đến trọn vẹn đối-tượng đề- mục-thiền-định màu đỏ (lohitakasiṇa) ấy chỉ thuộc về chế-định-pháp (paññattidhamma) mà thôi.
 

Thực-Hành Đề-Mục-Thiền-Định Màu Đỏ (Lohitakasiṇa)

 

Hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định, với đề-mục-thiền-định màu đỏ gọi là đối-tượng parikammanimitta đề-mục-thiền-định ban đầuvới parikammabhāvanā: tâm-hành ban đầu trong lộ-trình-tâmtác-hành-tâm (javana-citta) dục-giới-đại-thiện-tâm niệm thầm trong tâm rằng:

 

“Lohitakaṃ,… Lohitakaṃ,… Lohitakaṃ,… hoặc Màu đỏ,… Màu đỏ, … Màu đỏ,…” từng lúc khoảng 2-3 giây đồng hồ một lần, không nên niệm liên tục như niệm chú, nên thường mở mắt hướng tâm nhìn thẳng đến toàn diện trọn vẹn đề-mục-thiền-định màu đỏ ấy, càng lâu càng tốt, không nên thường nháy mắt, làm trở ngại đối-tượng uggahanimitta: thô-ảnh-tương-tự của đề-mục-thiền-định màu vàng (pītakasiṇa) phát sinh rõ trong tâm.

 

Nếu hành-giả cảm thấy mỏi mắt thì nhắm mắt niệm thầm một lát, rồi mở mắt trở lại niệm thầm “Lohitakaṃ, … Màu đỏ,…” Như vậy, cho đến khi đối-tượng parikammanimitta là đề-mục-thiền-định ban đầu tiến triển dần dần trở thành đối-tượng uggahanimitta là thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định màu đỏ (lohita-kasiṇa) phát sinh rõ ràng trong tâm. 

 

Định-tâm đồng sinh với dục-giới-đại-thiện-tâm gọi parikammasamādhi: sơ-định ban đầu thực-hành pháp- hành-thiền-định còn cách xa bậc thiền sắc-giới. 

 

Đối-Tượng Uggahanimitta Phát Sinh Rõ Trong Tâm

 

Khi đối-tượng uggahanimitta là thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định màu đỏ (lohitakasiṇa) đã phát sinh rõ trong tâm, hành-giả cần phải thay đổi chỗ ngồi, hoặc ngồi quay sang hướng khác, không còn phải mở mắt hướng tâm nhìn thẳng đến đề-mục-thiền-định màu đỏ  bên ngoài nữa, mà chỉ hướng tâm nhìn đối-tượng uggahanimitta là thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định màu đỏ bên trong tâm của hành-giả mà thôi.  

 

 Hành-giả tiếp tục hướng tâm đến đối-tượng uggaha-nimitta là thô-ảnh-tương-tự của đề-mục-thiền-định màu đỏ ấy tiến triển dần dần trở nên hoàn toàn trong sạch thanh khiết, trở thành đối-tượng paṭibhāganimitta là quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định màu đỏ  phát sinh trong tâm.

 

Sau khi có đối-tượng paṭibhāganimitta là quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định màu đỏ (lohitakasiṇa), hành-giả tiếp tục thực-hành hướng tâm đến đối-tượng lohitapaṭibhāganimitta của đề-mục-thiền-định màu đỏ ấy.

 

Phương-pháp thực-hành pháp-hành-thiền-định với đề-mục-thiền-định màu đỏ (lohitakasiṇa), để chứng đắc theo tuần tự 5 bậc thiền sắc-giới, hầu hết giống như phương-pháp thực-hành đề-mục-thiền-định đất (pathavī-kasiṇa) đã trình bày ở phần trước.

 

1.8- Đề-Mục-Thiền-Định Màu Trắng (Odātakasiṇa)

 

* Nếu hành-giả là người đã từng chứng đắc các bậc thiền sắc-giới với đề-mục-thiền-định màu trắng thì khi hành-giả hướng tâm đến hoa màu trắng, vải màu trắng, vật gì màu trắng, … một loại nào đó thuộc về chế-định-pháp (paññattidhamma), làm đề-mục-thiền-định màu trắng, gọi là đối-tượng parikammanimitta là đề-mục-thiền-định ban đầu, với parikammabhāvanā: tâm-hành ban đầu bằng dục-giới-đại-thiện-tâm niệm thầm trong tâm rằng: 

 

Odātaṃ,… Odātaṃ,… Odātaṃ,… hoặc Màu trắng, … Màu trắng,… Màu trắng, ...” 

 

Định-tâm đồng sinh với dục-giới-đại-thiện-tâm gọi parikammasamādhi: sơ-định trong đề-mục-thiền-định màu trắng là đối-tượng parikammanimitta ban đầu ấy tiến triển dần dần trở thành đối-tượng uggahanimitta là thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định màu trắngphát sinh rõ trong tâm.

 

Khi đối-tượng uggahanimitta đã phát sinh, hành-giả không nên hướng tâm đến đối-tượng đề-mục-thiền-định màu trắng bên ngoài nữa, mà chỉ hướng tâm đến đối-tượng uggahanimitta của đề-mục-thiền-định màu trắng ấy bên trong tâm mà thôi, tiến triển dần dần trở thành đối-tượng paṭibhāganimitta là quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định màu trắng phát sinh rõ trong tâm với upacārabhāvanā: tâm-hành cận bậc thiền sắc-giới, có upacārasamādhi: cận-định gần bậc thiền sắc-giới.

 

Hành-giả tiếp tục thực-hành hướng tâm đến đối-tượng odātapaṭibhāganimitta là quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định màu trắng ấy với tâm-hành tiến triển dần đến appanābhāvanā: tâm-hành chứng đắc bậc thiền sắc-giới trong sắc-giới lộ-trình-tâm, chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm, có appanāsamādhi: an-định trong đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm. 

 

Sau khi chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm, hành-giả tiếp tục thực-hành pháp-hành-thiền-định với đề-mục-thiền-định màu trắng (odātakasiṇa) ấy, bắt đầu hướng tâm đến đối-tượng odātapaṭibhāganimitta là quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định màu trắng ấy với tâm-hành tiến triển dần đến appanābhāvanā: tâm-hành chứng đắc bậc thiền sắc-giới trong sắc-giới lộ-trình-tâm, chứng đắc đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm, có appanāsamādhi: an-định trong đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm. 

 

Hành-giả tiếp tục thực-hành pháp-hành-thiền-định với đề-mục-thiền-định màu trắng (odātakasiṇa) ấy như vậy, theo tuần tự chứng đắc đệ tam thiền sắc-giới thiện-tâm, đệ tứ thiền sắc-giới thiện-tâm cho đến đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm một cách thuận lợi đối với hành-giả ấy.  

 

* Nếu hành-giả là người không chứng đắc đề-mục- thiền-định màu trắng trong tiền kiếp gần kiếp hiện-tại, thì hành-giả cần phải làm đề-mục-thiền-định màu trắng.  

 

Cách làm đề-mục-thiền-định màu trắng (odātakasiṇa) tương tự như cách làm đề-mục-thiền-định màu xanh (nīlakasiṇa), chỉ có khác là chọn toàn màu trắng mà thôi.

 

Đặt Đề-Mục-Thiền-Định Màu Trắng (Odātakasiṇa)

 

Sau khi đã làm đề-mục-thiền-định màu trắng xong, hành-giả cần phải tìm một nơi thanh vắng, thuận lợi cho việc thực-hành pháp-hành-thiền-định. Hành-giả đặt đề-mục-thiền-định màu trắng ấy ngay trước mặt ngang tầm mắt, không cao, không thấp, cách chỗ ngồi khoảng 2 cùi và 1 gang tay. (không nên đặt xa quá, cũng không nên đặt gần với đề-mục-thiền-định màu trắng ấy quá).

 

Khi hành-giả hướng tâm đến trọn vẹn đối-tượng đề- mục-thiền-định màu trắng (odātakasiṇa) ấy chỉ thuộc về chế-định-pháp (paññattidhamma) mà thôi.

 

Thực-Hành Đề-Mục-Thiền-Định Màu Trắng (Odātakasiṇa)

 

Hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định, với đề-mục-thiền-định màu trắng gọi là đối-tượng parikamma-nimittalà đề-mục-thiền-định ban đầuvới parikamma-bhāvanā: tâm-hành ban đầu trong lộ-trình-tâmtác-hành-tâm dục-giới-đại-thiện-tâm niệm thầm trong tâm rằng:

 

“Odātaṃ,…Odātaṃ,…Odātaṃ,… hoặc Màu trắng,… Màu trắng,… Màu trắng, ...” từng lúc khoảng 2-3 giây đồng hồ một lần, không nên niệm liên tục như niệm chú, nên thường mở mắt hướng tâm nhìn thẳng đến toàn diện trọn vẹn đề-mục-thiền-định màu trắng (odātakasiṇa) ấy, càng lâu càng tốt, không nên thường nháy mắt, làm trở ngạiđối-tượng uggahanimitta: thô-ảnh-tương-tự của đề-mục-thiền-định màu trắng (odātakasiṇa) phát sinh rõ trong tâm.

 

Nếu hành-giả cảm thấy mỏi mắt thì nhắm mắt niệm thầm một lát, rồi mở mắt trở lại niệm thầm “Odātaṃ, … Màu trắng,…”. Như vậy, cho đến khi đối-tượng parikamma-nimitta là đề-mục-thiền-định ban đầu tiến triển dần dần trở thành đối-tượng uggahanimitta là thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định màu trắng phát sinh rõ ràng trong tâm

Định-tâm đồng sinh với dục-giới-đại-thiện-tâm gọi parikammasamādhi: sơ-định ban đầu thực-hành pháp- hành-thiền-định còn cách xa bậc thiền sắc-giới. 

 

Đối-Tượng Uggahanimitta Phát Sinh Rõ Trong Tâm

 

Khi đối-tượng uggahanimitta là thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định màu trắng (odātakasiṇa) đã phát sinh rõ trong tâm, hành-giả cần phải thay đổi chỗ ngồi, hoặc ngồi quay sang hướng khác, không còn phải mở mắt hướng tâm nhìn thẳng đến đề-mục-thiền-định màu trắng bên ngoài nữa, mà chỉ hướng tâm nhìn đối-tượng uggahanimitta là thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định màu trắng bên trong tâm của hành-giả mà thôi.  

 

 Hành-giả tiếp tục hướng tâm đối-tượng uggaha-nimitta là thô-ảnh-tương-tự của đề-mục-thiền-định màu trắng ấy tiến triển dần dần trở nên hoàn toàn trong sạch thanh khiết, trở thành đối-tượng paṭibhāganimitta là quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định màu trắng (odātakasiṇa) phát sinh trong tâm.  

 

Sau khi có đối-tượng paṭibhāganimitta là quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định màu trắng,hành-giả tiếp tục thực-hành hướng tâm đến đối-tượng odāta-paṭibhāganimitta của đề-mục-thiền-định màu trắng ấy.

 

Phương-pháp thực-hành pháp-hành-thiền-định với đề-mục-thiền-định màu trắng, để chứng đắc theo tuần tự 5 bậc thiền sắc-giới, hầu hết giống như phương-pháp thực-hành đề-mục-thiền-định đất  đã trình bày ở phần trước.

 

1.9- Đề-Mục-Thiền-Định Hư-Không (Ākāsakasiṇa)

 

Đề-mục-thiền-định hư-không (ākāsakasiṇa) là đề-mục của pháp-hành-thiền-định có khả năng dẫn đến chứng đắc đầy đủ 5 bậc thiền sắc-giới.

 

Hành-giảcó ý nguyện muốn thực-hành pháp-hành-thiền-định với đề-mục-thiền-định hư-không (ākāsakasiṇa).

 

Tiền Kiếp Chứng Đắc Thiền Sắc-Giới 

 

* Nếu hành-giả là người đã từng chứng đắc các bậc thiền sắc-giới với đề-mục-thiền-định hư-không (ākāsa-kasiṇa) trong tiền kiếp gần kiếp hiện-tại, thì khi hành-giả hướng tâm đến khoảng trống cửa ra vào, khoảng trống cửa sổ, v.v… một loại nào đó thuộc về chế-định-pháp (paññattidhamma), làm đề-mục-thiền-định hư không gọi là đối-tượng parikammanimitta là đề-mục-thiền-định ban đầu, với parikammabhāvanā: tâm-hành ban đầu bằng dục-giới-đại-thiện-tâm niệm thầm trong tâm rằng: 

 

Ākāso, … Ākāso, … Ākāso, … hoặc Hư-không, … Hư-không, … Hư-không, …”  

 

Định-tâm đồng sinh với dục-giới-đại-thiện-tâm gọi parikammasamādhi: sơ-định trong đề-mục-thiền-định hư-không là đối-tượng parikammanimitta ban đầu ấy tiến triển dần dần trở thành đối-tượng uggahanimitta là thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định hư-không phátsinh rõ trong tâm.

 

Khi đối-tượng uggahanimitta đã phát sinh, hành-giả không nên hướng tâm đến đối-tượng đề-mục-thiền-định hư-không bên ngoài nữa, mà chỉ hướng tâm đến đối-tượng uggahanimitta của đề-mục-thiền-định hư-không ấy bên trong tâm mà thôi, tiến triển dần dần trở thành đối-tượng paṭibhāganimitta là quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định hư-không phát sinh rõ trong tâm với upacārabhāvanā: tâm-hành cận bậc thiền sắc-giới, có upacārasamādhi: cận-định gần bậc thiền sắc-giới.

 

Hành-giả tiếp tục thực-hành hướng tâm đến đối-tượng ākāsapaṭibhāganimitta là quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định hư-không ấy với tâm-hành tiến triển dần đến appanābhāvanā: tâm-hành chứng đắc bậc thiền sắc-giới trong sắc-giới lộ-trình-tâm, chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm, có appanāsamādhi: an-định trong đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm. 

 

Sau khi chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm, hành-giả tiếp tục thực-hành pháp-hành-thiền-định với đề-mục-thiền-định hư-không ấy, bắt đầu hướng tâm đến đối-tượng ākāsapaṭibhāganimitta là quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định hư-không ấy với tâm-hành tiến triển dần đến appanābhāvanā: tâm-hành chứng đắc bậc thiền sắc-giới trong sắc-giới lộ-trình-tâm, chứng đắc đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm, có appanāsamādhi: an-định trong đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm. 

Hành-giả tiếp tục thực-hành pháp-hành-thiền-định với đề-mục-thiền-định hư-không (ākāsakasiṇa) ấy như vậy, theo tuần tự chứng đắc đệ tam thiền sắc-giới thiện-tâm, đệ tứ thiền sắc-giới thiện-tâm cho đến đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm một cách thuận lợi đối với hành-giả ấy.  

 

* Nếu hành-giả là người không chứng đắc các bậc thiền sắc-giới với đề-mục-thiền-định hư-không trong tiền kiếp gần kiếp hiện-tại, thì hành-giả cần phải làm đề-mục-thiền-định hư-không (ākāsakasiṇa) như sau:

 

Cách Làm Đề-Mục-Thiền-Định Hư-Không (Ākāsakasiṇa)

 

Nếu hành-giả không có khả năng hướng tâm trực tiếp đến khoảng trống cửa ra vào, khoảng trống cửa sổ, v.v… thìcần phải làm đề-mục-thiền-định hư-không (ākāsa-kasiṇa) bằng cách khoét lỗ vách có đường kính 1 gang và 4 ngón tay nằm ngang (hoặc 30 phân), làm đề-mục thiền-định hư-không (ākāsakasiṇa), chiều caongồi ngang tầm mắt, không cao, không thấp, trong căn nhà kín. 

Thực-hành pháp-hành-thiền-định với đề-mục-thiền-định hư-không (ākāsakasiṇa), hành-giả ngồi vừa tầm mắt, khoảng cách 2 cùi 1 gang. (không nên ngồi xa quá, cũng không nên ngồi gần quá).

Khi hành-giả hướng tâm đến đề-mục-thiền-định hư-không ấy gọi là đối-tượng parikammanimitta là đề-mục-thiền-định ban đầuvới parikammabhāvanā: tâm-hành ban đầu trong lộ-trình-tâmtác-hành-tâm (javanacitta) dục-giới-đại-thiện-tâm niệm thầm trong tâm rằng:

 

“Ākāso, … Ākāso, … Ākāso, …hoặc Hư không,… Hư không,… Hư không,…”từng lúc khoảng 2-3 giây đồng hồ một lần, không nên niệm liên tục như niệm chú, nên thường mở mắt hướng tâm nhìn thẳng đến toàn diện trọn vẹn đề-mục-thiền-định hư-không (ākāsakasiṇa) ấy, càng lâu càng tốt, không nên thường nháy mắt, làm trở ngại đối-tượng uggahanimitta: thô-ảnh-tương-tự của đề-mục-

thiền-định hư-không phát sinh rõ trong tâm.

 

Nếu hành-giả cảm thấy mỏi mắt thì nhắm mắt niệm thầm một lát, rồi mở mắt trở lại niệm thầm “Ākāso,… Hư không,… như vậy, cho đến khi đối-tượng parikammanimitta là đề-mục-thiền-định ban đầu tiến triển dần dần trở thành đối-tượng uggahanimitta là thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định hư-không phát sinh rõ ràng trong tâm. 

 

Định-tâm đồng sinh với dục-giới-đại-thiện-tâm gọi parikammasamādhi: sơ-định ban đầu thực-hành pháp- hành-thiền-định còn cách xa bậc thiền sắc-giới. 

 

Đối-Tượng Uggahanimitta Phát Sinh Rõ Trong Tâm

 

Khi đối-tượng uggahanimitta là thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định hư-không (ākāsakasiṇa) đã phát sinh rõ trong tâm, hành-giả cần phải thay đổi chỗ ngồi, hoặc ngồi quay sang hướng khác, không còn phải mở mắt hướng tâm nhìn thẳng đến đề-mục-thiền-định hư-không (ākāsakasiṇa) bên ngoài nữa, mà chỉ hướng tâm nhìn đối-tượng uggahanimitta là thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định hư-không bên trong tâm của hành-giả mà thôi.  

 

 Hành-giả tiếp tục hướng tâm đối-tượng uggaha-nimitta là thô-ảnh-tương-tự của đề-mục-thiền-định hư-không (ākāsakasiṇa) ấy tiến triển dần dần trở nên hoàn toàn trong sạch thanh khiết, trở thành đối-tượng paṭi-bhāganimitta là quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định hư-không phát sinh trong tâm.  

 

Sự Khác Nhau 3 Loại Nimitta

 
Ba loại nimitta của đề-mục-thiền-định hư-không như sau:
 

* Đối-tượng parikammanimitta của đề-mục-thiền-định hư-không là hư-không cửa sổ, lỗ trống, hoặc lỗ trống trên vách.

 

* Đối-tượng uggahanimitta của đề-mục-thiền-định hư-không (ākāsakasiṇa) là thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định hư-không hiện rõ trong tâm.

 

* Đối-tượng paṭibhāganimitta của đề-mục-thiền-định hư-không quang ảnh hoàn toàn trong sáng không có ranh giới bao bọc, có thể khai triển rộng hay hẹp bao nhiêu do năng lực của định-tâm.

 

Sau khi có đối-tượng paṭibhāganimitta là quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định hư-không hành-giả tiếp tục thực-hành hướng tâm đến đối-tượng ākāsa-paṭibhāganimitta của đề-mục-thiền-định hư-không ấy.

 

Phương-pháp thực-hành pháp-hành-thiền-định với  đề-mục-thiền-định hư-không (ākāsakasiṇa), để chứng đắc theo tuần tự 5 bậc thiền sắc-giới, hầu hết giống như phương-pháp thực-hành đề-mục-thiền-định đất (pathavī-kasiṇa) đã trình bày ở phần trước.

 

 1.10- Đề-Mục-Thiền-Định Ánh-Sáng (Ālokakasiṇa)

 

Đề-mục-thiền-định ánh-sáng (ālokakasiṇa) là đề-mục của pháp-hành-thiền-định có khả năng dẫn đến chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới.

Hành-giảcó ý nguyện muốn thực-hành pháp-hành-thiền-định với đề-mục-thiền-định ánh-sáng (ālokakasiṇa).

 

Tiền Kiếp Chứng Đắc Thiền Sắc-Giới 

 

* Nếu hành-giả là người đã từng chứng đắc các bậc thiền sắc-giới với đề-mục-thiền-định ánh-sáng, trong tiền kiếp gần kiếp hiện-tại, thì khi hành-giả hướng tâm đến ánh sáng mặt trời, ánh sáng mặt trăng, ánh sáng đèn, v.v…. một loại ánh sáng nào đó thuộc về chế-định-pháp (paññattidhamma), làm  đề-mục-thiền-định ánh-sáng gọi là đối-tượng parikammanimitta là đề-mục-thiền-định ban đầu, với parikammabhāvanā: tâm-hành ban đầu bằng dục-giới-đại-thiện-tâm niệm thầm trong tâm rằng: 

 

Āloko, Āloko, … Āloko ,… hoặc Ánh-sáng, ... Ánh-sáng, ... Ánh-sáng,…”    

 

Định-tâm đồng sinh với dục-giới-đại-thiện-tâm gọi parikammasamādhi: sơ-định trong đề-mục-thiền-định ánh-sáng là đối-tượng parikammanimitta ban đầu ấy tiến triển dần dần trở thành đối-tượng uggahanimittathô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định ánh-sáng (āloka-kasiṇa) phát sinh rõ trong tâm.

 

Khi đối-tượng uggahanimitta đã phát sinh, hành-giả không nên hướng tâm đến đối-tượng đề-mục-thiền-định ánh-sáng bên ngoài nữa, mà chỉ hướng tâm đến đối-tượng uggahanimitta của đề-mục-thiền-định ánh-sáng ấy bên trong tâm mà thôi, tiến triển dần dần trở thành đối-tượng paṭibhāganimitta là quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định ánh-sáng phát sinh rõ trong tâm với upacārabhāvanā: tâm-hành cận bậc thiền sắc-giới, có upacārasamādhi: cận-định gần bậc thiền sắc-giới.

 

Hành-giả tiếp tục thực-hành hướng tâm đến đối-tượng ālokapaṭibhāganimitta là quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định hư-không ấy với tâm-hành tiến triển dần đến appanābhāvanā: tâm-hành chứng đắc bậc thiền sắc-giới trong sắc-giới lộ-trình-tâm, chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm, có appanāsamādhi: an-định trong đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm. 

 

Sau khi chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm, hành-giả tiếp tục thực-hành pháp-hành-thiền-định với đề-mục-thiền-định ánh-sáng ấy, bắt đầu hướngtâm đến đối-tượng ālokapaṭibhāganimitta là quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định ánh-sáng ấy với tâm-hành tiến triển dần đến appanābhāvanā: tâm hành chứng đắc bậc thiền sắc-giới trong sắc-giới lộ-trình-tâm, chứng đắc đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm, có appanāsamādhi: an-định trong đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm. 

 

Hành-giả tiếp tục thực-hành pháp-hành-thiền-định với đề-mục-thiền-định ánh-sáng (ālokakasiṇa) ấy như vậy, theo tuần tự chứng đắc đệ tam thiền sắc-giới thiện-tâm, đệ tứ thiền sắc-giới thiện-tâm cho đến đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm một cách thuận lợi đối với hành-giả ấy.  

 

* Nếu hành-giả là người không chứng đắc các bậc thiền sắc-giới với đề-mục-thiền-định ánh-sángtrong tiền kiếp gần kiếp hiện-tại, thì hành-giả cần phải làm đề-mục thiền-định ánh-sáng (ālokakasiṇa)như sau:

 

Cách Làm Đề-Mục-Thiền-Định Ánh-Sáng (Ālokakasiṇa)

 

Hành-giả làm đề-mục-thiền-định ánh-sáng (āloka-kasiṇa) bằng cách khoét lỗ không lớn, không nhỏ nơi vách nhà hoặc trên mái nhà, để cho ánh sáng chiếu vào bên trong nhà, hiện rõ trên vách hoặc dưới nền nhà.

 

Nếu khi không có ánh sáng thì hành-giả cần phải tạo ra ánh sáng bằng cách đốt đèn, dùng đèn điện, khoét lỗ trên vách hoặc trên màn, cho ánh sáng chiếu qua lỗ rọi trên vách hoặc trên màn làm đề-mục-thiền-định ánh-sáng 

 

Hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định, với đề-mục-thiền-địnhánh-sáng (ālokakasiṇa)gọi là đối-tượng parikammanimitta là đề-mục-thiền-định ban đầu với  parikammabhāvanā: tâm-hành ban đầu trong lộ-trình-tâmtác-hành-tâm (javanacitta) dục-giới-đại-thiện-tâm niệm thầm trong tâm rằng:

Āloko,….Āloko,….Āloko,…hoặc Ánh-sáng, … Ánh-sáng,... Ánh-sáng,…” từng lúc khoảng 2-3 giây đồng hồ một lần, không nên niệm liên tục như niệm chú, nên thường mở mắt hướng tâm nhìn thẳng đến toàn diện trọn vẹn đề-mục-thiền-định ánh-sáng (ālokakasiṇa) ấy, càng lâu càng tốt, không nên thường nháy mắt, làm trở ngại đối-tượng uggahanimitta: thô-ảnh-tương-tự của đề-mục-thiền-định ánh-sáng (ālokakasiṇa) phát sinh rõ trong tâm.

Nếu hành-giả cảm thấy mỏi mắt thì nhắm mắt niệm thầm một lát, rồi mở mắt trở lại niệm thầm “Āloko,… Ánh-sáng,…” như vậy, cho đến khi đối-tượng parikammanimitta là đề-mục-thiền-định ban đầu tiến triển dần dần trở thành đối-tượng uggahanimitta là thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định ánh-sáng phát sinh rõ ràng trong tâm. 

Định-tâm đồng sinh với dục-giới-đại-thiện-tâm gọi parikammasamādhi: sơ-định ban đầu thực-hành pháp- hành-thiền-định còn cách xa bậc thiền sắc-giới. 

 

Đối-Tượng Uggahanimitta Phát Sinh Rõ Trong Tâm

 

Khi đối-tượng uggahanimitta là thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định ánh-sáng (ālokakasiṇa) đã phát sinh rõ trong tâm, hành-giả cần phải thay đổi chỗ ngồi, hoặc ngồi quay sang hướng khác, không còn phải mở mắt hướng tâm nhìn thẳng đến đề-mục-thiền-định ánh-sáng bên ngoài nữa, mà chỉ hướng tâm nhìn đối-tượng uggahanimitta là thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định ánh-sáng bên trong tâm của hành-giả mà thôi.  

 Hành-giả tiếp tục hướng tâm đến đối-tượng uggaha-nimitta là thô-ảnh-tương-tự của đề-mục-thiền-định ánh-sáng (ālokakasiṇa) ấy tiến triển dần dần trở nên hoàn toàn trong sạch thanh khiết, trở thành đối-tượng paṭibhāganimitta là quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định ánh-sáng phát sinh trong tâm. 

 

Sau khi có đối-tượng paṭibhāganimitta là quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định ánh-sáng, hành-giả tiếp tục thực-hành hướng tâm đến đối-tượng āloka-paṭibhāganimitta của đề-mục-thiền-định ánh-sáng ấy.

 

Phương-pháp thực-hành pháp-hành-thiền-định với đề-mục-thiền-định ánh-sáng (ālokakasiṇa), để chứng đắc theo tuần tự 5 bậc thiền sắc-giới, hầu hết giống như phương-pháp thực-hành đề-mục-thiền-định đất (pathavī-kasiṇa) đã trình bày ở phần trước.

 

Tính Chất Đặc Biệt 10 Đề-Mục-Thiền-Định Kasiṇa

 

10 đề-mục-thiền-định kasiṇa: đề-mục-thiền-định đất, nước, lửa, gió, màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng, hư không, ánh sáng, sau khi hành-giả đã chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới với 1 trong 10 đề-mục-thiền-định kasiṇa nào xong rồi.

 

Nếu hành-giả có ý nguyện muốn thực-hành đề-mục-thiền-định kasiṇa nào chỉ cần hướng tâm đến đối-tượng bình thường tự nhiên của đề-mục-thiền-định kasiṇa ấy với parikammabhāvanā: tâm-hành ban đầu trong lộ-trình-tâmtác-hành-tâm (javanacitta) dục-giới-đại-thiện-tâm niệm thầm trong tâm đề-mục-thiền-định kasiṇa ấy, thì đối-tượng uggahanimitta: thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định kasiṇa ấy phát sinh rõ trong tâm của hành-giả, mà không cần phải làm đề-mục-thiền-định kasiṇa ấy riêng biệt. (giống như trường hợp hành-giả đã từng chứng đắc các bậc thiền sắc-giới với đề-mục-thiền-định kasiṇa ấy trong kiếp quá-khứ gần kiếp hiện-tại.)  

 

Khi ấy, hành-giả tiếp tục thực-hành chỉ hướng tâm đền đối-tượng uggahanimitta của đề-mục-thiền-định kasiṇa ấy phát sinh rõ trong tâm mà thôi, cho đến khi trở thành đối-tượng paṭibhāganimitta là quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục kasiṇa ấy, rồi dẫn đến chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới, một cách rất thuận lợi đối với hành-giả.

 

Như vậy, 10 đề-mục-thiền-định kasiṇa có tính chất liên quan với nhau về đối-tượng uggahanimittađối-tượng paṭibhāganimitta, để dẫn đến chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới.

 

Đề-Mục-Thiền-Định Dễ Chứng Đắc Bậc Thiền

 

Trong 40 đề-mục-thiền-định chỉ có 30([19]) đề-mục-thiền-định có khả năng chứng đắc bậc thiền mà thôi. Trong 30 đề-mục-thiền-định ấy có 10 đề-mục-thiền-định kasiṇa là những đề-mục-thiền-định tương đối dễ chứng đắc các bậc thiền sắc-giới hơn các đề-mục-thiền-định khác, bởi vì hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định hướng tâm đến đề-mục-thiền-định kasiṇa dễ phát sinh đối-tượng uggahanimitta: thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định kasiṇa ấy và dễ đạt đến uppacāra-samādhi: cận-định, gần tâm bậc thiền sắc-giới.

 

Hành-giả tiếp tục thực-hành hướng tâm đến đối-tượng uggahanimitta ấy cho đến khi trở thành đối-tượng paṭi-bhāganimitta là quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định kasiṇa ấy, để dẫn đến chứng đắc appanā-samādhi: an-định trong bậc thiền sắc-giới.

 

Trong 10 đề-mục-thiền-định kasiṇa có 4 đề-mục-thiền-định màu vaṇṇakasiṇa: đề-mục-thiền-định màu xanh, đề-mục-thiền-định màu vàng, đề-mục-thiền-định màu đỏ, đề-mục-thiền-định màu trắng, là 4 đề-mục-thiền-định dễ chứng đắc các bậc thiền sắc-giới hơn các đề-mục-thiền-định khác.

 

Trong 4 đề-mục-thiền-định màu vaṇṇakasiṇa này, có đề-mục-thiền-định màu trắng (odātakasiṇa) là đề-mục-thiền-định dễ chứng đắc các bậc thiền sắc-giới hơn 3 đề-mục-thiền-định màu khác.

 

Thật vậy, đề-mục-thiền-định màu trắng mà hành-giả đang thực-hành hướng tâm đến đối-tượng parikamma-nimitta đề-mục-thiền-định ban đầu là đề-mục-thiền-định màu trắng, với parikammabhāvanā: tâm-hành ban đầu bằng dục-giới-đại-thiện-tâm niệm thầm trong tâm rằng: 

 

Odātaṃ, … Odātaṃ, … Odātaṃ, … hoặc Màu trắng, … Màu trắng, … Màu trắng, …” 

 

Định-tâm đồng sinh với dục-giới-đại-thiện-tâm gọi parikammasamādhi: sơ-định trong đối-tượng đề-mục-thiền-định màu trắng parikammanimitta ban đầu ấy tiến triển dần dần trở thành đối-tượng uggahanimitta là thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định màu trắngphát sinh rõ trong tâm.

 

Dù khi đối-tượng uggahanimitta là thô-ảnh-tương-tự của đề-mục-thiền-định màu trắng (odātakasiṇa) chưa phát sinh hiện rõ trong tâm, mà hành-giả cũng có khả năng đặc biệt ngăn được tâm buồn-chán buồn-ngủ (thīna-middha) là phiền-não làm chướng ngại pháp-hành-thiền-định, không thể phát sinh lên được.

 

Khi đối-tượng uggahanimitta là thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định màu trắng phát sinh hiện rõ trong tâm, hành-giả tiếp tục hướng tâm đến đối-tượng uggahanimitta ấy làm cho tiến triển cho đến khi trở thành đối-tượng paṭibhāganimitta là quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định màu trắng, đạt đến uppacārasamādhi: cận-định, gần đến bậc thiền sắc-giới.

 

Dù chưa đạt đến appanāsamādhi: an-định, chưa chứng đắc bậc thiền sắc-giới nào, mà hành-giả cũng có khả năng đặc biệt thấy rõ, biết rõ những điều rất phi thường chưa từng có. Đó là tính chất đặc biệt của đề-mục-thiền-định màu trắng (odātakasiṇa).

 

 2- 10 Đề-Mục-Thiền-Định Tử-Thi Bất-Tịnh (Asubha)  

 

Asubha: Bất tịnh là gì?

 

Asubha có nghĩa là không tốt đẹp, trong 10 đề-mục-thiền-định tử-thi này có ý nghĩa là tử-thi bất-tịnh (asubha), chỉ đề cập đến sự biến đổi của tử-thi của mọi người sau khi chết mà thôi. Cho nên, Asubha nghĩa là đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh.

 

Trong 40 đề-mục-thiền-định, 10 đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh (asubha) này chỉ có khả năng dẫn đến chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới mà thôi, bởi vì 10 đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh (asubha) này có đối-tượng thô, luôn luôn cần đến chi-thiền vitakka: hướng tâm đến đối-tượng thiền-định, nên không thể dẫn đến chứng đắc các thiền sắc-giới bậc cao. 

 

10 Đề-Mục-Thiền-Định Tử-Thi Bất-Tịnh (Asubha)

 

10 loại tử-thi biến đổi làm 10 đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh là đối-tượng của pháp-hành-thiền-định như sau:

 

1- Uddhumātaka: Đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnhsình lên, sau khi chết được 2- 3 ngày, thật là đáng ghê tởm.

 

2- Vinīlaka: Đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh đặc biệt có màu tím thâm lẫn với màu đỏ, màu trắng, thật là đáng ghê tởm.

 

3- Vipubbaka: Đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh có nước vàng, mủ chảy ra từ chỗ thịt sình nứt nẻ, thật là đáng ghê tởm.

 

4- Vicchiddaka: Đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh bị chặt ra làm 2 phần, thật là đáng ghê tởm.

 

5- Vikkhāyitaka: Đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh bị chim kền kền, quạ, diều hâu, chó sói,… cắn xé ăn bỏ rải rác, thật là đáng ghê tởm.

 

6- Vikkhittaka: Đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh như tay, chân, đầu, mình, …bị vất bỏ rải rác mọi hướng, thật là đáng ghê tởm.

 

7- Hatavikkhittaka: Đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh bị đâm bằng giáo, bị chặt bằng dao ra thành nhiều mảnh bỏ rải rác khắp mọi nơi, thật là đáng ghê tởm.

 

8- Lohitaka: Đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnhcó máu chảy từ các phần của tử-thi thấm ướt đầy máu, thật là đáng ghê tởm.

 

9- Puḷuvaka: Đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh có giòi bò ra từ tử-thi, thật là đáng ghê tởm.

 

10- Aṭṭhika: Đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh chỉ còn xương mà thôi, thật là đáng ghê tởm.

 

Đó là 10 đề-mục-thiền-định bất-tịnh (Asubha).

 

Thực-Hành 10 Đề-Mục-Thiền-Định Tử-Thi

 

2.1- Đề-Mục-Thiền-Định Tử-Thi Uddhumātaka

 

Hành-giả có ý nguyện muốn thực-hành pháp-hành- thiền-định với đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh uddhu-mātaka sình lên, sau khi chết được 2-3 ngày.Hành-giả cần phải tìm tử-thiuddhumātaka đồng tính với mình, nghĩa là nam hành-giả tìm tử-thi uddhumātaka nam hoặc nữ hành-giả tìmtử-thiuddhumātaka nữ làm đối-tượng đề-mục-thiền-định của mình.

 

Hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định, với đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh uddhumātaka sình lên, sau khi chết được 2-3 ngàygọi là đối-tượng parikamma-nimitta là đề-mục-thiền-định ban đầu với  parikamma-bhāvanā: tâm-hành ban đầu trong lộ-trình-tâmtác-hành-tâm (javanacitta) dục-giới-đại-thiện-tâm niệm thầm trong tâm rằng:

  

Uddhumātakaṃ paṭikūḷaṃ, … Uddhumātakaṃ paṭi-kūḷaṃ,… Uddhumātakaṃ paṭikūḷaṃ, hoặc Tử-thi Uddhumātaka này thật là đáng ghê tởm, … Tử-thi Uddhumātaka này thật là đáng ghê tởm, …” như vậy.

 

Định-tâm đồng sinh với dục-giới-đại-thiện-tâm gọi parikammasamādhi: sơ-định trong đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh uddhumātaka là đối-tượng parikamma-nimitta ban đầu ấy tiến triển dần dần trở thành đối-tượng uggahanimitta là thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh uddhumātaka phát sinh rõ trong tâm.

Khi đối-tượng uggahanimitta đã phát sinh, hành-giả không nên hướng tâm đến đối-tượng đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh uddhumātaka bên ngoài nữa, mà chỉ hướng tâm đến đối-tượng uggahanimitta của đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh uddhumātaka ấy bên trong tâm mà thôi, tiến triển dần dần trở thành đối-tượng paṭibhāganimitta là quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh uddhumātaka phát sinh rõ trong tâm với upacārabhāvanā: tâm-hành cận bậc thiền sắc-giới, có upacārasamādhi: cận-định gần bậc thiền sắc-giới.

 

Hành-giả tiếp tục thực-hành hướng tâm đến đối-tượng uddhumātakapaṭibhāganimitta là quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh uddhumātaka ấy với tâm-hành tiến triển dần đến appanābhāvanā: tâm-hành chứng đắc bậc thiền sắc-giới trong sắc-giới lộ-trình-tâm, chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm, có appanā-samādhi: an-định trong đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm

 

3 Loại Nimitta Của Đề Mục Tử-thi Uddhumātaka

 

* Đối-tượng parikammanimtta đólà đề-mục-thiền-định tử-thibất-tịnh uddhumātaka (đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnhsình lên sau khi chết được 2-3 ngày).

 

* Đối-tượng uggahanimitta đólà thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnhuddhumātaka sình lên sau khi chết được 2-3 ngày phát sinh rõ trong tâm.

 

* Đối-tượng paṭibhāganimitta đó là tử-thi bất-tịnhuddhumātaka sình lên sau khi chết được 2-3 ngày phát sinh rõ trong tâm, không còn đáng ghê tởm nữa, bởi vì tử-thi bất-tịnhuddhumātaka ấy giống như tượng hình to lớn mập mạp sạch sẽ trong sáng.

 

Mặc dù vậy, hành-giả vẫn cảm thấy tử-thi bất-tịnh uddhumātaka ấythật là đáng ghê tởm.

 

Tử-thiuddhumātaka đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh sình lên sau khi chết được 2- 3 ngày  là đề-mục-thiền-định khó thực-hành hơn đề-mục-thiền-định khác, bởi vì tử-thi bất-tịnh sình lên chỉ có 1 ngày hoặc 2 ngày mà thôi, sau ngày đó tử-thi bất-tịnh biến đổi thành tử-thi bất-tịnh vinīlaka, tử-thi bất-tịnh vipubbaka.

 

Dù trong khoảng thời gian ngắn, tử-thi bất-tịnh uddhumātaka ấy cũngcó thể làm cho đối-tượng uggaha-nimitta phát sinh rõ trong tâm được, rồi tiến triển dần dần trở thành đối-tượng paṭibhāganimitta phát sinh, dẫn đến chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới. 

 

Tử-thi bất-tịnh uddhumātaka là đề-mục-thiền-định có tính chất thô, nên chỉ có khả năng dẫn đến chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới mà thôi, không thể chứng đắc đệ nhị thiền sắc-giới, v.v… được, bởi vì đề-mục-thiền-định tử-thibất-tịnh uddhumātaka này cần đến chi-thiền vitakka: hướng tâm đến đối-tượng.

 

Muốn chứng đắc đệ nhị thiền sắc-giới, v.v…, hành-giả cần phải thay đổi đề-mục-thiền-định khác có khả năng chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới.

 

2.2- Đề-Mục-Thiền-Định Tử-Thi Vinīlaka

 

Hành-giả có ý nguyện muốn thực-hành pháp hành thiền định với đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh vinīlaka đặc biệt có màu tím thâm lẫn với màu đỏ, màu trắng.

 

Hành-giả cần phải tìm tử-thi vinīlaka đồng tính với mình, nghĩa là nam hành-giả tìm tử-thi vinīlaka nam hoặc nữ hành-giả tìm tử-thi vinīlaka nữ làm đối-tượng đề-mục-thiền-định của mình.

 

Hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định, với đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnhvinīlaka đặc biệt có màu tím thâm lẫn với màu đỏ, màu trắng gọi là đối-tượng parikammanimitta là đề-mục-thiền-định ban đầu với  parikammabhāvanā: tâm-hành ban đầu trong lộ-trình-tâmtác-hành-tâm (javanacitta) dục-giới-đại-thiện-tâm niệm thầm trong tâm rằng:

Vinīlakaṃ paṭikūḷaṃ,… Vinīlakaṃ paṭikūḷaṃ,... Vinīlakaṃ paṭikūḷaṃ, … hoặc Tử-thi Vinīlaka này thật là đáng ghê tởm,… Tử-thi Vinīlaka này thật là đáng ghê tởm, …” như vậy.
 

Định-tâm đồng sinh với dục-giới-đại-thiện-tâm gọi parikammasamādhi: sơ-định trong đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh vinīlaka là đối-tượng parikammanimitta ban đầu ấy tiến triển dần dần trở thành đối-tượng uggahanimitta là thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh vinīlakaphát sinh rõ trong tâm.

 
 

Khi đối-tượng uggahanimitta đã phát sinh, hành-giả không nên hướng tâm đến đối-tượng đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh vinīlakabên ngoài nữa, mà chỉ hướng tâm đến đối-tượng uggahanimitta của đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh vinīlakaấy bên trong tâm mà thôi, tiến triển dần dần trở thành đối-tượng paṭibhāganimitta là quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh vinīlakaphát sinh rõ trong tâm với upacārabhāvanā: tâm-hành cận bậc thiền sắc-giới, có upacārasamādhi: cận-định gần bậc thiền sắc-giới.

 

Hành-giả tiếp tục thực-hành hướng tâm đến đối-tượng vinīlakapaṭibhāganimitta là quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh vinīlakaấy với tâm- hành tiến triển dần đến appanābhāvanā: tâm-hành chứng

đắc bậc thiền sắc-giới trong sắc-giới lộ-trình-tâm, chứng

đắc đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm, có appanā-samādhi: an-định trong đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm.

 

3 Loại Nimitta Của Đề Mục Tử-Thi Vinīlaka

 

Đối-tượng parikammanimtta đó là đề-mục-thiền-định tử-thibất-tịnh vinīlaka đặc biệt có màu tím thâm lẫn với màu đỏ, màu trắng.

   

* Đối-tượng uggahanimitta đólà thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnhvinīlaka đặc biệt có màu tím thâm lẫn với màu đỏ phát sinh rõ trong tâm.

 

* Đối-tượng paṭibhāganimitta đó là tử-thi bất-tịnhvinīlaka đặc biệt có màu tím thâm lẫn với màu đỏ, màu trắng phát sinh rõ trong tâm, không còn đáng ghê tởm nữa, bởi vì tử-thi bất-tịnhvinīlaka ấy giống như tượng hình sạch sẽ trong sáng.

 

Mặc dù vậy, hành-giả vẫn cảm thấy tử-thi bất-tịnh vinīlaka ấythật là đáng ghê tởm.

 

Tử-thi bất-tịnhvinīlaka là đề-mục-thiền-định có tính chất thô, nên chỉ có khả năng dẫn đến chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới mà thôi, không thể chứng đắc đệ nhị thiền sắc-giới, v.v… được, bởi vì đề-mục-thiền-định tử-thibất-tịnh vinīlaka này cần đến chi-thiền vitakka: hướng tâm đến đối-tượng.

 

Muốn chứng đắc đệ nhị thiền sắc-giới, v.v…, hành-giả cần phải thay đổi đề-mục-thiền-định khác có khả năng chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới.   

 

2.3- Đề-Mục-Thiền-Định Tử-Thi Vipubbaka

 

Hành-giả có ý nguyện muốn thực-hành pháp-hành- thiền-định với đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh vipubbaka có nước vàng, mủ chảy ra từ chỗ thịt sình nứt nẻ.

 

Hành-giả cần phải tìm tử-thi vipubbaka đồng tính với mình, nghĩa là nam hành-giả tìm tử-thi vinīlaka nam hoặc nữ hành-giả tìmtử-thivinīlaka nữ làm đối-tượng đề-mục-thiền-định của mình.

 

Hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định, với đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh vipubbaka có nước vàng, mủ chảy ra từ chỗ thịt sình nứt nẻgọi là đối-tượng parikammanimitta là đề-mục-thiền-định ban đầu với  parikammabhāvanā: tâm-hành ban đầu trong lộ-trình-tâmtác-hành-tâm (javanacitta) dục-giới-đại-thiện-tâm niệm thầm trong tâm rằng:

  

Vipubbakaṃpaṭikūḷaṃ,… Vipubbakaṃ paṭikūḷaṃ,... Vipubbakaṃpaṭikūḷaṃ, … hoặc Tử-thi Vipubbaka này thật là đáng ghê tởm, … Tử-thi Vipubbaka này thật là đáng ghê tởm, …” như vậy.  

 

Định-tâm đồng sinh với dục-giới-đại-thiện-tâm gọi parikammasamādhi: sơ-định trong đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh vipubbaka là đối-tượng parikammanimitta ban đầu ấy tiến triển dần dần trở thành đối-tượng uggahanimitta là thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh vipubbaka phát sinh rõ trong tâm.

 

Khi đối-tượng uggahanimitta đã phát sinh, hành-giả không nên hướng tâm đến đối-tượng đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh vipubbaka bên ngoài nữa, mà chỉ hướng tâm đến đối-tượng uggahanimitta của đề-mục-thiền-định

tử-thi bất-tịnh vipubbaka ấy bên trong tâm mà thôi, tiến triển dần dần trở thành đối-tượng paṭibhāganimitta là quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh vipubbaka phát sinh rõ trong tâm với upacāra-bhāvanā: tâm-hành cận bậc thiền sắc-giới, có upacāra- samādhi: cận-định gần bậc thiền sắc-giới.

 

Hành-giả tiếp tục thực-hành hướng tâm đến đối-tượng vipubbakapaṭibhāganimitta là quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh vipubbaka ấy với tâm-hành tiến triển dần đến appanābhāvanā: tâm-hành chứng đắc bậc thiền sắc-giới trong sắc-giới lộ-trình-tâm, chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm, có appanā-samādhi: an-định trong đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm.  

 

3 Loại Nimitta Của Đề Mục Tử-Thi Vipubbaka

 

* Đối-tượng parikammanimtta đólà đề-mục-thiền-định tử-thibất-tịnh vipubbaka có nước vàng, mủ chảy ra từ chỗ thịt sình nứt nẻ,* Đối-tượng uggahanimitta đólà thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh vipubbaka có nước vàng, mủ chảy ra từ chỗ thịt sình nứt nẻ phát sinh rõ trong tâm.

 

* Đối-tượng paṭibhāganimitta đó là tử-thi bất-tịnhvipubbaka có nước vàng, mủ chảy ra từ chỗ thịt sình nứt nẻ phát sinh rõ trong tâmkhông còn đáng ghê tởm nữa, bởi vì tử-thi bất-tịnhvipubbaka ấy giống như tượng hình sạch sẽ trong sáng.

 

Mặc dù vậy, hành-giả vẫn cảm thấy tử-thi bất-tịnh  vipubbaka ấythật là đáng ghê tởm.

 

 Tử-thi bất-tịnhvipubbaka là đề-mục-thiền-định có tính chất thô, nên chỉ có khả năng dẫn đến chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới mà thôi, không thể chứng đắc đệ nhị thiền sắc-giới, v.v… được, bởi vì đề-mục-thiền-định tử-thibất-tịnh vipubbakanày cần đến chi-thiền vitakka: hướng tâm đến đối-tượng.

 

Muốn chứng đắc đệ nhị thiền sắc-giới, v.v…, hành-giả cần phải thay đổi đề-mục-thiền-định khác có khả năng chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới.

 

2.4- Đề-Mục-Thiền-Định Tử-Thi Vicchiddaka

 

Hành-giả có ý nguyện muốn thực-hành pháp hành thiền định với đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh vicchiddaka bị chặt ra làm 2 phần.

Hành-giả cần phải tìm tử-thi vicchiddaka đồng tính với mình, nghĩa là nam hành-giả tìm tử-thi vicchiddaka nam hoặc nữ hành-giả tìmtử-thivicchiddaka nữ làm đối-tượng đề-mục-thiền-định của mình.

 

Hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định, với đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnhvicchiddaka bị chặt ra làm 2 phần gọi là đối-tượng parikammanimitta là đề-mục-thiền-định ban đầu với  parikammabhāvanā: tâm-hành ban đầu trong lộ-trình-tâmtác-hành-tâm (javanacitta) dục-giới-đại-thiện-tâm niệm thầm trong tâm rằng:

  

Vicchiddakaṃ paṭikūḷaṃ,… Vicchiddakaṃ paṭikūḷaṃ, … hoặc Tử-thi Vicchiddaka này thật là đáng ghê tởm,… Tử-thi Vicchiddaka này thật là đáng ghê tởm,…” như vậy.

 

Định-tâm đồng sinh với dục-giới-đại-thiện-tâm gọi parikammasamādhi: sơ-định trong đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh vipubbaka là đối-tượng parikammanimitta ban đầu ấy tiến triển dần dần trở thành đối-tượng uggahanimitta là thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh vicchiddaka phát sinh rõ trong tâm.

 

Khi đối-tượng uggahanimitta đã phát sinh, hành-giả không nên hướng tâm đến đối-tượng đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh vicchiddaka bên ngoài nữa, mà chỉ hướng tâm đến đối-tượng uggahanimitta của đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh vicchiddaka ấy bên trong tâm mà thôi, tiến triển dần dần trở thành đối-tượng paṭibhāganimitta là quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh vicchiddaka phát sinh rõ trong tâm với upacāra-bhāvanā: tâm-hành cận bậc thiền sắc-giới, có upacāra-samādhi: cận-định gần bậc thiền sắc-giới.

 

Hành-giả tiếp tục thực-hành hướng tâm đến đối-tượng vicchiddakapaṭibhāganimitta là quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh vicchiddaka ấy với tâm-hành tiến triển dần đến appanābhāvanā: tâm-hành chứng đắc bậc thiền sắc-giới trong sắc-giới lộ-trình-tâm, chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm, có appanā-samādhi: an-định trong đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm

 

3 Loại Nimitta Của Đề Mục Tử-Thi Vicchiddaka

 

* Đối-tượng parikammanimtta đólà đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh vicchiddaka bị chặt ra làm 2 phần.

 

* Đối-tượng uggahanimitta đólà thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh vicchiddaka bị chặt ra làm 2 phần phát sinh rõ trong tâm. 

 

* Đối-tượng paṭibhāganimitta đó là tử-thi bất-tịnhvicchiddaka bị chặt ra làm 2 phần phát sinh rõ trong tâmkhông còn đáng ghê tởm nữa, bởi vì tử-thi bất-tịnhvicchiddaka ấy giống như tượng hình sạch sẽ trong sáng.

 
Mặc dù vậy, hành-giả vẫn cảm thấy tử-thi bất-tịnh vicchiddaka ấy thật là đáng ghê tởm.
 

 Tử-thi bất-tịnh vicchiddaka là đề-mục-thiền-định có tính chất thô, nên chỉ có khả năng dẫn đến chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới mà thôi, không thể chứng đắc đệ nhị thiền sắc-giới, v.v… được, bởi vì đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh vicchiddaka này cần đến chi-thiền vitakka: hướng tâm đến đối-tượng.

 

Muốn chứng đắc đệ nhị thiền sắc-giới, v.v…, hành-giả cần phải thay đổi đề-mục-thiền-định khác có khả năng chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới.

 

2.5- Đề-Mục-Thiền-Định Tử-Thi Vikkhāyitaka

 

Hành-giả có ý nguyện muốn thực-hành pháp-hành- thiền-định với đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh vikkhā-yitaka bị chim kền kền, quạ, diều hâu, chó sói,… cắn xé ăn bỏ rải rác.

 

Hành-giả cần phải tìm tử-thi vikkhāyitaka đồng tính với mình, nghĩa là nam hành-giả tìm tử-thi vikkhāyitaka nam hoặc nữ hành-giả tìm tử-thi vikkhāyitaka nữ làm đối-tượng đề-mục-thiền-định của mình.

 

Hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định, với đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh vikkhāyitaka bị chim kền kền, quạ, diều hâu, chó sói,… cắn xé ăn bỏ rải rác gọi là đối-tượng parikammanimitta là đề-mục-thiền-định ban đầu với  parikammabhāvanā: tâm-hành ban đầu trong lộ-trình-tâmtác-hành-tâm (javanacitta) dục-giới-đại-thiện-tâm niệm thầm trong tâm rằng:

  “Vikkhāyitakaṃpaṭikūḷaṃ, … Vikkhāyitakaṃ paṭi-kūḷaṃ, … Vikkhāyitakaṃpaṭikūḷaṃ, … hoặc Tử-thi Vikkhāyitaka này thật là đáng ghê tởm, … Tử-thi Vikkhā-yitaka này thật là đáng ghê tởm, …” như vậy.

 

Định-tâm đồng sinh với dục-giới-đại-thiện-tâm gọi parikammasamādhi: sơ-định trong đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh vikkhāyitaka là đối-tượng parikammanimitta ban đầu ấy tiến triển dần dần trở thành đối-tượng uggahanimitta là thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh vikkhāyitaka phát sinh rõ trong tâm.

 

Khi đối-tượng uggahanimitta đã phát sinh, hành-giả không nên hướng tâm đến đối-tượng đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh vikkhāyitaka bên ngoài nữa, mà chỉ hướng tâm đến đối-tượng uggahanimitta của đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh vikkhāyitaka ấy bên trong tâm mà thôi, tiến triển dần dần trở thành đối-tượng paṭibhāganimitta: quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh vikkhāyitaka phát sinh rõ trong tâm với upacāra-bhāvanā: tâm-hành cận bậc thiền sắc-giới, có upacāra-samādhi: cận-định gần bậc thiền sắc-giới.

Hành-giả tiếp tục thực-hành hướng tâm đến đối-tượng vikkhāyitakapaṭibhāganimitta là quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh vikkhāyitaka ấy với tâm hành tiến triển dần đến appanābhāvanā: tâm-hành chứng đắc bậc thiền sắc-giới trong sắc-giới lộ-trình-tâm, chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm, có appanā-samādhi: an-định trong đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm.

 

3 Loại Nimitta Của Đề Mục Tử-Thi Vikkhāyitaka

 

* Đối-tượng parikammanimtta đólà đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh vikkhāyitaka bị chim kền kền, quạ, diều hâu, chó sói,… cắn xé ăn bỏ rải rác. 

 

* Đối-tượng uggahanimitta đólà thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh vikkhāyitaka bị chim kền kền, quạ, diều hâu, chó sói,… cắn xé ăn bỏ rải rác phát sinh rõ trong tâm. 

 

* Đối-tượng paṭibhāganimitta đó là tử-thi bất-tịnh vikkhāyitaka bị chim kền kền, quạ, diều hâu, chó sói,… cắn xé ăn bỏ rải rácphát sinh rõ trong tâm, không còn đáng ghê tởm nữa, bởi vì tử-thi bất-tịnh vikkhāyitaka ấy giống như tượng hình sạch sẽ trong sáng.

 

 Mặc dù vậy, hành-giả vẫn cảm thấy tử-thi bất-tịnh vikkhāyitaka ấy thật là đáng ghê tởm.

 Tử-thi bất-tịnh vikkhāyitaka là đề-mục-thiền-định có tính chất thô, nên chỉ có khả năng dẫn đến chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới mà thôi, không thể chứng đắc đệ nhị thiền sắc-giới, v.v… được, bởi vì đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh vikkhāyitaka này cần đến chi-thiền vitakka: hướng tâm đến đối-tượng.

 

Muốn chứng đắc đệ nhị thiền sắc-giới, v.v…, hành-giả cần phải thay đổi đề-mục-thiền-định khác có khả năng chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới.

 

2. 6- Đề-Mục-Thiền-Định Tử-Thi Vikkhittaka

 

Hành-giả có ý nguyện muốn thực-hành pháp-hành-thiền-định với đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh vikkhittaka  như tay, chân, đầu, mình, … bị vất bỏ rải rác mọi hướng.

Hành-giả cần phải tìm tử-thi vikkhittaka đồng tính với mình, nghĩa là nam hành-giả tìm tử-thi vikkhittaka nam hoặc nữ hành-giả tìmtử-thivikkhittaka nữ làm đối-tượng đề-mục-thiền-định của mình.

 

Hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định, với đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh vikkhittaka như tay, chân, đầu, mình, … bị vất bỏ rải rác mọi hướng gọi là đối-tượng parikammanimitta là đề-mục-thiền-định ban đầu với parikammabhāvanā: tâm-hành ban đầu trong lộ-trình-tâmtác-hành-tâm (javanacitta) dục-giới-đại-thiện-tâm niệm thầm trong tâm rằng:

Vikkhittakaṃpaṭikūḷaṃ,…Vikkhittakaṃ paṭikūḷaṃ,,... Vikkhittakaṃpaṭikūḷaṃ,… hoặc Tử-thi Vikkhittaka này thật là đáng ghê tởm, … Tử thi Vikkhittaka này thật là đáng ghê tởm, …” như vậy.

 

Định-tâm đồng sinh với dục-giới-đại-thiện-tâm gọi parikammasamādhi: sơ-định trong đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh vikkhittaka là đối-tượng parikammanimitta ban đầu ấy tiến triển dần dần trở thành đối-tượng uggahanimitta là thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh vikkhittaka phát sinh rõ trong tâm.

 

Khi đối-tượng uggahanimitta đã phát sinh, hành-giả không nên hướng tâm đến đối-tượng đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh vikkhittaka bên ngoài nữa, mà chỉ hướng tâm đến đối-tượng uggahanimitta của đề-mục-thiền-định

tử-thi bất-tịnh vikkhittaka ấy bên trong tâm mà thôi, tiến triển dần dần trở thành đối-tượng paṭibhāganimitta là quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh vikkhittaka phát sinh rõ trong tâm với upacāra-bhāvanā: tâm-hành cận bậc thiền sắc-giới, có upacāra-samādhi: cận-định gần bậc thiền sắc-giới.

 

Hành-giả tiếp tục thực-hành hướng tâm đến đối-tượng vikkhittakapaṭibhāganimitta là quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh vikkhittaka ấy với tâm-hành tiến triển dần đến appanābhāvanā: tâm-hành chứng đắc bậc thiền sắc-giới trong sắc-giới lộ-trình-tâm, chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm, có appanā-samādhi: an-định trong đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm.  

 

3 Loại Nimitta Của Đề Mục Tử-Thi Vikkhittaka

 

* Đối-tượng parikammanimtta đólà đề-mục-thiền-định tử-thibất-tịnh vikkhittaka như tay, chân, đầu, mình, … bị vất bỏ rải rác mọi hướng,

 

* Đối-tượng uggahanimitta đólà thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh vikkhittaka như tay, chân, đầu, mình, … bị vất bỏ rải rác mọi hướng phát sinh rõ trong tâm. 

 

* Đối-tượng paṭibhāganimitta đó là tử-thi bất-tịnh vikkhittaka  như tay, chân, đầu, mình, … bị vất bỏ rải rác mọi hướngphát sinh rõ trong tâm, không còn đáng ghê tởm nữa, bởi vì tử-thi bất-tịnh vikkhittaka ấy giống như tượng hình sạch sẽ trong sáng.

 

Mặc dù vậy, hành-giả vẫn cảm thấy tử-thi bất-tịnh vikkhittaka ấy thật là đáng ghê tởm.

 Tử-thi bất-tịnh vikkhittaka là đề-mục-thiền-định có tính chất thô, nên chỉ có khả năng dẫn đến chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới mà thôi, không thể chứng đắc đệ nhị thiền sắc-giới, v.v… được, bởi vì đề-mục-thiền-định tử-thibất-tịnh vikkhittaka này cần đến chi-thiền vitakka: hướng tâm đến đối-tượng.

 

Muốn chứng đắc đệ nhị thiền sắc-giới, v.v…, hành-giả cần phải thay đổi đề-mục-thiền-định khác có khả năng chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới.  

 

 2.7- Đề-Mục-Thiền-Định Tử-Thi Hatavikkhittaka

 

Hành-giả có ý nguyện muốn thực-hành pháp-hành- thiền-định với đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh hata-vikkhittaka bị đâm bằng giáo, bị chặt bằng dao ra thành nhiều mảnh bỏ rải rác khắp mọi nơi.

 

Hành giả cần phải tìm tử-thi hatavikkhittaka đồng tính với mình, nghĩa là nam hành-giả tìm tử-thi hatavikkhittaka nam hoặc nữ hành-giả tìmtử-thihata-vikkhittaka nữ làm đối-tượng đề-mục-thiền-định của mình.

 

Hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định, với đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh hatavikkhittaka bất tịnh bị đâm bằng giáo, bị chặt bằng dao ra thành nhiều mảnh bỏ rải rác khắp mọi nơi gọi là đối-tượng parikammanimitta đề-mục-thiền-định ban đầu với  parikammabhāvanā: tâm-hành ban đầu trong lộ-trình-tâmtác-hành-tâm (javanacitta) dục-giới-đại-thiện-tâm niệm thầm trong tâm rằng:

  

Hatavikkhittakaṃpaṭikūḷaṃ,… Hatavikkhittakaṃ paṭikūḷaṃ, ... Hatavikkhittakaṃpaṭikūḷaṃ, ... hoặc Tử-thi Hatavikkhittakanày thật là đáng ghê tởm, … Tử-thi Hatavikkhittaka này thật là đáng ghê tởm, …” như vậy.

Định-tâm đồng sinh với dục-giới-đại-thiện-tâm gọi parikammasamādhi: sơ-định trong đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh hatavikkhittaka là đối-tượng parikamma-nimitta ban đầu ấy tiến triển dần dần trở thành đối-tượng uggahanimitta là thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh hatavikkhittaka phát sinh rõ trong tâm.

 

Khi đối-tượng uggahanimitta đã phát sinh, hành-giả không nên hướng tâm đến đối-tượng đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh hatavikkhittaka bên ngoài nữa, mà chỉ hướng tâm đến đối-tượng uggahanimitta của đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh hatavikkhittaka ấy bên trong tâm mà thôi, tiến triển dần dần trở thành đối-tượng paṭibhāganimitta là quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh hatavikkhittaka phát sinh rõ trong tâm với upacārabhāvanā: tâm-hành cận bậc thiền sắc-giới, có upacārasamādhi: cận-định gần bậc thiền sắc-giới.

 

Hành-giả tiếp tục thực-hành hướng tâm đến đối-tượng hatavikkhittakapaṭibhāganimitta là quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh hata-vikkhittaka ấy với tâm-hành tiến triển dần đến appanābhāvanā: tâm-hành chứng đắc bậc thiền sắc-giới trong sắc-giới lộ-trình-tâm, chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm, có appanā-samādhi: an-định trong đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm.  

 

3 Loại Nimitta Của Đề Mục Tử-Thi  Hatavikkhittaka

 

* Đối-tượng parikammanimitta đólà đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh hatavikkhittaka bị đâm bằng giáo, bị chặt bằng dao ra thành nhiều mảnh bỏ rải rác khắp nơi.

* Đối-tượng uggahanimitta đólà thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnhhatavikkhittaka bị đâm bằng giáo, bị chặt bằng dao ra thành nhiều mảnh bỏ rải rác khắp mọi nơi phát sinh rõ trong tâm. 

 

* Đối-tượng paṭibhāganimitta đó là tử-thi bất-tịnhhatavikkhittaka bị đâm bằng giáo, bị chặt bằng dao ra thành nhiều mảnh bỏ rải rác khắp mọi nơiphát sinh rõ trong tâm, không còn đáng ghê tởm nữa, bởi vì tử-thi bất-tịnhhatavikkhittaka ấy giống như tượng hình sạch sẽ trong sáng.

 

Mặc dù vậy, hành-giả vẫn cảm thấy tử-thi bất-tịnh  hatavikkhittaka ấythật là đáng ghê tởm.

 

 Tử-thi bất-tịnh hatavikkhittaka là đề-mục-thiền-định có tính chất thô, nên chỉ có khả năng dẫn đến chứng đắc  đệ nhất thiền sắc-giới mà thôi, không thể chứng đắc đệ nhị thiền sắc-giới, v.v… được, bởi vì đề-mục-thiền-định tử-thibất-tịnh hatavikkhittaka này cần đến chi-thiền vitakka: hướng tâm đến đối-tượng.

 

Muốn chứng đắc đệ nhị thiền sắc-giới, v.v…, hành-giả cần phải thay đổi đề-mục-thiền-định khác có khả năng chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới.

 

2.8- Đề-Mục-Thiền-Định Tử-Thi Lohitaka

 

Hành-giả có ý nguyện muốn thực-hành pháp-hành- thiền-định với đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnhlohitakacó máu chảy từ các phần của tử-thi thấm ướt đầy máu.

 

Hành giả cần phải tìm tử-thilohitaka đồng tính với mình, nghĩa là nam hành-giả tìm tử-thilohitaka nam hoặc nữ hành-giả tìmtử-thilohitaka nữ làm đối-tượng đề-mục-thiền-định của mình.

 

Hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định, với đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnhlohitakacó máu chảy từ các phần của tử-thi thấm ướt đầy máu gọi là đối-tượng parikammanimitta là đề-mục-thiền-định ban đầu với  parikammabhāvanā: tâm-hành ban đầu trong lộ-trình-tâmtác-hành-tâm (javanacitta) dục-giới-đại-thiện-tâm niệm thầm trong tâm rằng:

Lohitakaṃpaṭikūḷaṃ, … Lohitakaṃ paṭikūḷaṃ, ...

Lohitakaṃpaṭikūḷaṃ,… hoặc Tử-thi Lohitaka này thật là đáng ghê tởm, … Tử-thi Lohitaka này thật là đáng ghê tởm, …” như vậy.

 

Định-tâm đồng sinh với dục-giới-đại-thiện-tâm gọi parikammasamādhi: sơ-định trong đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh lohitaka là đối-tượng parikammanimitta ban đầu ấy tiến triển dần dần trở thành đối-tượng uggahanimitta là thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh lohitakaphát sinh rõ trong tâm.

Khi đối-tượng uggahanimitta đã phát sinh, hành-giả không nên hướng tâm đến đối-tượng đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh lohitakabên ngoài nữa, mà chỉ hướng tâm đến đối-tượng uggahanimitta của đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh lohitakaấy bên trong tâm mà thôi, tiến triển dần dần trở thành đối-tượng paṭibhāganimitta là quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh lohitakaphát sinh rõ trong tâm với upacārabhāvanā: tâm-hành cận bậc thiền sắc-giới, có upacārasamādhi: cận-định gần bậc thiền sắc-giới. 

 

Hành-giả tiếp tục thực-hành hướng tâm đến đối-tượng lohitakapaṭibhāganimitta là quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh lohitakaấy với tâm hành tiến triển dần đến appanābhāvanā: tâm-hành chứng đắc bậc thiền sắc-giới trong sắc-giới lộ-trình-tâm, chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm, có appanā-samādhi: an-định trong đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm.  

 

3 Loại Nimitta Của Đề Mục Tử-Thi Lohitaka

 

* Đối-tượng parikammanimtta đólà đề-mục-thiền-định tử-thibất-tịnh lohitakacó máu chảy từ các phần của tử-thi thấm ướt đầy máu, 

 

* Đối-tượng uggahanimitta đólà thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnhlohitakacó máu chảy từ các phần của tử-thi thấm ướt đầy máu phát sinh rõ trong tâm

 

* Đối-tượng paṭibhāganimitta đó là tử-thi bất-tịnhlohitakacó máu chảy từ các phần của tử-thi thấm ướt đầy máu phát sinh rõ trong tâm, không còn đáng ghê tởm nữa, bởi vì tử-thi bất-tịnhlohitakaấy giống như tượng hình sạch sẽ trong sáng.

 Mặc dù vậy, hành-giả vẫn cảm thấy tử-thi bất-tịnh lohitaka ấythật là đáng ghê tởm.

 

 Tử-thi bất-tịnhlohitaka là đề-mục-thiền-định có tính chất thô, nên chỉ có khả năng dẫn đến chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới mà thôi, không thể chứng đắc đệ nhị thiền sắc-giới, v.v… được, bởi vì đề-mục-thiền-định tử-thibất-tịnh lohitaka này cần đến chi-thiền vitakka: hướng tâm đến đối-tượng.

 

Muốn chứng đắc đệ nhị thiền sắc-giới, v.v…, hành-giả cần phải thay đổi đề-mục-thiền-định khác có khả năng chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới.

 

2.9- Đề-Mục-Thiền-Định Tử-Thi Puḷuvaka

 

Hành-giả có ý nguyện muốn thực-hành pháp-hành- thiền-định với đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh puḷuvaka có nhiều giòi bò ra từ tử-thi.

 

Hành-giả cần phải tìm tử-thi puḷuvaka đồng tính với mình, nghĩa là nam hành-giả tìm tử-thi puḷuvaka nam hoặc nữ hành-giả tìmtử-thipuḷuvaka nữ làm đối-tượng đề-mục-thiền-định của mình. 

 

Hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định, với đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh puḷuvaka có nhiều giòi bò ra từ tử-thi gọi là đối-tượng parikammanimitta là đề-mục

thiền-định ban đầu với  parikammabhāvanā: tâm-hành ban đầu trong lộ-trình-tâmtác-hành-tâm (javanacitta) dục-giới-đại-thiện-tâm niệm thầm trong tâm rằng:

  

Puḷuvakaṃpaṭikūḷaṃ, … Puḷuvakaṃ paṭikūḷaṃ, ... Puḷuvakaṃpaṭikūḷaṃ,… hoặc Tử-thi Puḷuvaka này thật là đáng ghê tởm, … Tử-thi Puḷuvaka này thật là đáng ghê tởm, …” như vậy.

 

Định-tâm đồng sinh với dục-giới-đại-thiện-tâm gọi parikammasamādhi: sơ-định trong đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh puḷuvaka đối-tượng parikammanimitta ban đầu ấy tiến triển dần dần trở thành đối-tượng uggahanimitta là thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh puḷuvaka phát sinh rõ trong tâm.

 

Khi đối-tượng uggahanimitta đã phát sinh, hành-giả không nên hướng tâm đến đối-tượng đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh puḷuvaka bên ngoài nữa, mà chỉ hướng tâm đến đối-tượng uggahanimitta của đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh puḷuvaka ấy bên trong tâm mà thôi, tiến triển dần dần trở thành đối-tượng paṭibhāganimitta là quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh puḷuvaka phát sinh rõ trong tâm với upacārabhāvanā: tâm-hành cận bậc thiền sắc-giới, có upacārasamādhi: cận-định gần bậc thiền sắc-giới. 

 

Hành-giả tiếp tục thực-hành hướng tâm đến đối-tượng puḷuvakapaṭibhāganimitta là quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh puḷuvaka ấy với tâm- hành tiến triển dần đến appanābhāvanā: tâm-hành chứng đắc bậc thiền sắc-giới trong sắc-giới lộ-trình-tâm, chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm, có appanāsamādhi: an-định trong đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm.

 

3 Loại Nimitta Của Đề Mục Tử-Thi Puḷuvaka

 

* Đối-tượng parikammanimtta đólà đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh puḷuvakacó nhiều giòi bò ra từ tử-thi,  

 

* Đối-tượng uggahanimitta đólà thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh puḷuvakacó nhiều giòi bò ra từ tử-thi phát sinh rõ trong tâm. 

 

* Đối-tượng paṭibhāganimitta đó là tử-thi bất-tịnh puḷuvakacó nhiều giòi bò ra từ tử-thi phát sinh rõ trong tâm, không còn đáng ghê tởm nữa, bởi vì tử-thi bất-tịnh lohitaka ấy giống như tượng hình sạch sẽ trong sáng.

 

Mặc dù vậy, hành-giả vẫn cảm thấy tử-thi bất-tịnh puḷuvaka ấy thật là đáng ghê tởm.

 

 Tử-thi bất-tịnh puḷuvaka là đề-mục-thiền-định có tính chất thô, nên chỉ có khả năng dẫn đến chứng đắc  đệ nhất thiền sắc-giới mà thôi, không thể chứng đắc đệ nhị thiền sắc-giới, v.v… được, bởi vì đề-mục-thiền-định tử-thibất-tịnh puḷuvakanày cần đến chi-thiền vitakka: hướng tâm đến đối-tượng.

 

Muốn chứng đắc đệ nhị thiền sắc-giới, v.v…, hành-giả cần phải thay đổi đề-mục-thiền-định khác có khả năng chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới.

 

2.10- Đề-Mục-Thiền-Định Tử-Thi Aṭṭhika

 

Hành-giả có ý nguyện muốn thực-hành pháp-hành- thiền-định với đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh aṭṭhika chỉ còn bộ xương mà thôi.

Hành-giả cần phải tìm tử-thi aṭṭhika làm đối-tượng đề-mục-thiền-định . 

 

Hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định, với đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnhaṭṭhika chỉ còn bộ xương mà thôigọi là đối-tượng parikammanimitta là đề-mục-thiền-định ban đầu với parikammabhāvanā: tâm-hành ban đầu trong lộ-trình-tâmtác-hành-tâm (javanacitta) dục-giới-đại-thiện-tâm niệm thầm trong tâm rằng:

  

Aṭṭhikaṃ paṭikūḷaṃ, … Aṭṭhikaṃ paṭikūḷaṃ, ... Aṭṭhikaṃ paṭikūḷaṃ,… hoặc Tử-thi Aṭṭhika này thật là đáng ghê tởm, … Tử-thi Aṭṭhika này thật là đáng ghê tởm, …” như vậy.

Định-tâm đồng sinh với dục-giới-đại-thiện-tâm gọi parikammasamādhi: sơ-định trong đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh aṭṭhika đối-tượng parikammanimitta ban đầu ấy tiến triển dần dần trở thành đối-tượng uggahanimitta là thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh aṭṭhikaphát sinh rõ trong tâm. 

 

Khi đối-tượng uggahanimitta đã phát sinh, hành-giả không nên hướng tâm đến đối-tượng đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh aṭṭhikabên ngoài nữa, mà chỉ hướng tâm đến đối-tượng uggahanimitta của đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh aṭṭhikaấy bên trong tâm mà thôi, tiến triển dần dần trở thành đối-tượng paṭibhāganimitta là quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh aṭṭhikaphát sinh rõ trong tâm với upacārabhāvanā: tâm-hành cận bậc thiền sắc-giới, có upacārasamādhi: cận-định gần bậc thiền sắc-giới. 

 

Hành-giả tiếp tục thực-hành hướng tâm đến đối-tượng aṭṭhikapaṭibhāganimitta là quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh aṭṭhika ấy với tâm-hành tiến triển dần đến appanābhāvanā: tâm hành chứng đắc bậc thiền sắc-giới trong sắc-giới lộ-trình-tâm, chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm, có appanāsamādhi: an-định trong đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm.  

 

3 Loại Nimitta Của Đề Mục Tử-Thi Aṭṭhika

 

* Đối-tượng parikammanimtta đólà đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh aṭṭhikachỉ còn bộ xương mà thôi,

 

* Đối-tượng uggahanimitta đólà thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh aṭṭhikachỉ còn bộ xương mà thôi phát sinh rõ trong tâm. 

 

* Đối-tượng paṭibhāganimitta đó là tử-thi bất-tịnh aṭṭhikachỉ còn bộ xương mà thôi phát sinh rõ trong tâm,   không còn đáng ghê tởm nữa, bởi vì tử-thi bất-tịnh  aṭṭhika ấy giống như tượng hình sạch sẽ trong sáng.

 
Mặc dù vậy, hành-giả vẫn cảm thấy tử-thi bất-tịnh aṭṭhika ấy thật là đáng ghê tởm.
 

 Tử-thi bất-tịnh aṭṭhika là đề-mục-thiền-định có tính chất thô, nên chỉ có khả năng dẫn đến chứng đắc đệ nhất

thiền sắc-giới mà thôi, không thể chứng đắc đệ nhị thiền sắc-giới, v.v… được, bởi vì đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh aṭṭhika này cần đến chi-thiền vitakka: hướng tâm đến đối-tượng.

 

Muốn chứng đắc đệ nhị thiền sắc-giới, v.v…, hành-giả cần phải thay đổi đề-mục-thiền-định khác có khả năng chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới.  

 

Tính-Chất Của Đề-Mục-Thiền-Định Tử-Thi Bất-Tịnh 

 

 10 đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh (Asubha) này là những đối-tượng có tính-chất thô, nên chỉ có khả năng dẫn đến chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới mà thôi.

 

Tiền Kiếp Chứng Đắc Thiền Sắc-Giới 

 

* Nếu hành-giả là người đã từng chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới với đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh này  trong tiền kiếp gần kiếp hiện-tại, thì khi hành-giả hướng tâm đến tử-thi bất-tịnh nào làm đối-tượng đề-mục-thiền-định gọi là parikammanimitta: đối-tượng đề-mục-thiền-định ban đầu, với parikammabhāvanā: tâm-hành ban đầu trong lộ-trình-tâmtác-hành-tâm (javanacitta) dục-giới-đại-thiện-tâm niệm thầm trong tâm đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh ấy, thì đối-tượng uggaha-nimitta: thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh ấy mau chóng phát sinh rõ trong tâm. 

 

Khi đối-tượng uggahanimitta đã phát sinh, hành-giả không nên hướng tâm đến đối-tượng đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh ấy bên ngoài nữa, mà chỉ hướng tâm đến đối-tượng uggahanimitta của đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh ấy bên trong tâm mà thôi, tiến triển dần dần trở thành đối-tượng paṭibhāganimitta là quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh ấy phát sinh rõ trong tâm với upacārabhāvanā: tâm-hành cận bậc thiền sắc-giới, có upacārasamādhi: cận-định gần bậc thiền sắc-giới.

 

Hành-giả tiếp tục thực-hành hướng tâm đến đối-tượng paṭibhāganimitta là quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh ấy với tâm-hành tiến triển dần đến appanābhāvanā: tâm-hành chứng đắc bậc thiền sắc-giới trong sắc-giới lộ-trình-tâm, chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm, có appanāsamādhi: an-định trong đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm với đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh ấy một cách dễ dàng.

 

Ngoài ra, đối với các hành-giả khác thực-hành pháp-hành-thiền-định khi hướng tâm đến đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh nào thì đối-tượng uggahanimitta và đối-tượng paṭibhāganimitta của đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh ấy cũng có thể chậm phát sinh rõ trong tâm, nhưng không chắc chắn.

* Nếu trường hợp hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định với đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh nào trong một thời gian lâu, mà chưa thấy đối-tượng uggaha-nimitta của đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh ấy phát sinh rõ trong tâm, thì hành-giả nên quán xét đề mục tử-thi bất-tịnh ấy bằng 6 cách như sau:

 

1- Vaṇṇato: Quán xét màu sắc: Nên biết rõ tử-thi ấy là người da vàng, da trắng, da đen.

 

2- Liṅgato: Quán xét 3 thời: Nên biết rõ tử-thi ấy thuộc thời ấu niên hoặc thời trung niên hoặc thời lão niên.

 

3- Saṇṭhānato: Quán xét bộ phận: Nên biết rõ mỗi bộ phận của tử-thi ấy: đầu, cổ, ngực, tay, chân, v.v…

 

4- Disato: Quán xét về hướng: Nên biết rõ tử-thi ấy từ lỗ rún trở lên là phần trên, từ lỗ rún trở xuống là phần dưới. Hoặc biết rõ rằng: “Ta đứng phía này, tử-thi nằm phía kia”.

 

5- Okāsato: Quán xét nơi chốn: Nên biết rõ tử-thi ấy rằng: đầu, mình, tay, chân, v.v… ở nơi ấy. Hoặc biết rõ rằng: “Ta đứng nơi này, tử-thi nằm nơi kia”.

 

6- Paricchedato: Quán xét mỗi phần: Nên biết rõ phần trên đỉnh tử-thi ấy đến tóc, phần dưới cùng tử-thi ấy đến bàn chân, toàn phần tử-thi có da bao bọc.

 

Dù hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định với đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh ấy, đã quán xét về 6 cách như vậy, vẫn chưa thấy đối-tượng uggahanimitta và đối-tượng paṭibhāganimitta của đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh ấy phát sinh rõ trong tâm.

 

Vậy, hành-giả nên quán xét đề mục tử-thi bất-tịnh ấy bằng 5 cách nữa như sau:

 

1- Sandhito: Quán xét chỗ kết nối: Nên biết rõ rằng: tử-thi ấy có 14 chỗ kết nối chính là tay phải có 3 chỗ, tay trái có 3 chỗ, chân phải có 3 chỗ, chân trái có 3 chỗ, cổ 1 chỗ, và eo 1 chỗ.

 

2- Vivarato: Quán xét nơi có lỗ: Nên biết rõ rằng: đó là lỗ mắt, lỗ tai, lỗ mủi, lỗ miệng, mở miệng, ngậm miệng, v.v…

 

3- Ninnato: Quán xét chỗ lõm: Nên biết rõ rằng: đó là chỗ lõm sâu mắt, chỗ lõm sâu cổ, chỗ lõm sâu miệng,... Hoặc biết rõ rằng: Ta đứng chỗ cao, tử-thi nằm chỗ thấp.

 

4- Thalato: Quán xét bề mặt: Nên biết rõ rằng: chỗ lồi ấy là đầu gối, trán, ngực, … Hoặc biết rõ rằng: Ta đứng chỗ cao, tử-thi nằm chỗ thấp.

 

5- Samantato: Quán xét toàn thể: Nên biết rõ toàn phần tử-thi, nếu nhận thấy rõ tử-thi thuộc loại nào thì hướng tâm đến loại tử-thi ấy.

 

Ví dụ: tử-thi Uddhumātaka, hoặc tử-thi Vinīlaka, hoặc tử-thi Vipubbaka, v.v… với parikammabhāvanā: tâm- hành ban đầu trong lộ-trình-tâmtác-hành-tâm (javanacitta) dục-giới-đại-thiện-tâm niệm thầm trong tâm   rằng: Uddhumātakaṃ paṭikūḷaṃ,… hoặc Vinīlakaṃ paṭikūḷaṃ, …. hoặc Vipubbakaṃ paṭikūḷaṃ, v.v….

 

Xem Xét Tử-Thi Bất-Tịnh

 

Hành-giả khi đứng xem xét tử-thi bất-tịnh, không nên đứng dưới gió, cũng không nên đứng trên gió, và cũng không nên đứng phía trên đầu tử-thi hoặc đứng phía dưới chân tử-thi. Hành-giả nên đứng giữa cách tử-thi một khoảng, không nên gần hoặc xa tử-thi bất-tịnh ấy.

 

Nếu hành-giả có tánh hay sợ tử-thi khi thực-hành pháp-hành-thiền-định đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh, thì đối-tượng uggahanimitta dễ phát sinh hơn hành-giả không có tánh sợ tử-thi.

 

Vì vậy, nếu muốn sắp đặt hoặc di chuyển tử-thi ấy thì hành-giả nên nhờ những người khác đến giúp làm việc ấy. Còn hành-giả tuyệt nhiên không đụng chạm đến tử-thi ấy, bởi vì thường đụng chạm đến tử-thi thì tánh sợ tử-thi không còn nữa.

Nếu không sợ tử-thi thì đối-tượng uggahanimitta khó phát sinh rõ trong tâm. Ví như những người làm nghề liên quan đến tử-thi, thường tiếp xúc với tử-thi trải qua thời gian lâu, nhưng không hề có đối-tượng uggaha-nimitta phát sinh trong tâm của họ.

 

Uggahanimitta Có Hại Đối Với Người Hay Sợ

 

Đối với hành-giả có tánh hay sợ “ma”([20]) và không hiểu biết rõ về đối-tượng uggahanimitta thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh như thế nào, nên sau khi đối-tượng uggahanimitta của đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh phát sinh rõ trong tâm, khi hành-giả đi, đứng, ngồi, nằm lúc nào cũng thấy rõ tử-thi ấy phát sinh trong tâm như dính liền với mắt.

 

Thật ra, đó là kết quả tốt của pháp-hành-thiền-định với đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh ấy của mình, nhưng vì tự mình không hiểu biết đúng đắn như vậy, nên hành-giả phát sinh tâm sợ hãi nghĩ rằng: “Ta đang bị ‘ma’ theo bên mình”. Do đó, hành-giả ngủ không được, phát sinh bệnh.

 

Để tránh sự tai hại, hành-giả có tánh hay sợ “ma”, nếu có ý nguyện muốn thực-hành pháp-hành-thiền-định đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh nàothì hành-giả cần phải gần gũi, thân cận với vị Thiền sư chỉ dạy cho hiểu biết rành rẽ về 3 loại nimitta là đối-tượng parikammanimitta, đối-tượng uggahanimitta và đối-tượng paṭibhāganimittacủa mỗi đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh ấy. 

 

Dù vậy, đối với hành-giả có tánh hay sợ “ma”, khi thực-hành pháp-hành-thiền-định đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh ấy, hành-giả cũng nên gần gũi, thân cận với vị Thiền sư, nếu khi đối-tượng uggahanimitta thô-ảnh-tương-tự của đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh ấy phát sinh rõ trong tâm thì hành-giả nên thưa trình pháp ấy cho vị Thiền sư biết, để được chỉ dạy phương-pháp tiếp tục thực-hành làm cho đối-tượng uggahanimitta tiến triển tốt trở nên đối-tượng paṭibhāganimitta để chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới.      

 

* Sự khác biệt giữa đối-tượng parikammanimitta với đối-tượng uggahanimitta của đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh như thế nào?

 

* Hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh dễ nhầm lẫn giữa đối-tượng parikammanimitta với đối-tượng uggahanimitta của đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh ấy như sau:

 

* Đối-tượng parikammanimitta đề-mục-thiền-định ban đầu mà hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định với đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh ấy, hành-giả đứng mở mắt nhìn xem xét kỹ lưỡng từng các bộ phận của đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh ấy, rồi ghi nhớ rõ ràng toàn bộ phận tử-thi bất-tịnh trong tâm, đó chưa phải là đối-tượng uggahanimitta của đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh ấy, mà chỉ là tưởng tâm-sở (saññācetasita) ghi nhớ đến đối-tượng quá-khứ của đề-mục-thiền-định tử-thi bất-

tịnh ấy mà thôi, nên còn là đối tượng parikammanimitta. 

 

* Đối-tượng uggahanimitta là đối-tượng thô-ảnh-tương-tự của đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh ấy phát sinh rõ trong tâm, dù hành-giả đi, đứng, ngồi, nằm lúc nào đối-tượng thô-ảnh-tương-tự của đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh ấy cũng hiện rõ trong tâm mà không phải nhớ tưởng đến đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh ấy.

 

Đề-Mục Tử-Thi Bất-Tịnh Với Đối-tượng Uggahanimitta

 

Trong 10 đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh chia ra 2 loại:

 

1- Tử-thi bất-tịnh thật đáng ghê tởm nhiều,

2- Tử-thi bất-tịnh thật đáng ghê tởm ít.

 

* Đối với hành-giả, nếu đề-mục-thiền-định tử-thi bất tịnh nào thật đáng ghê tởm nhiều thì đối-tượng uggaha-nimitta dễ phát sinh rõ trong tâm.

 

* Đối với hành-giả, nếu đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh nào thật đáng ghê tởm ít thì đối-tượng uggaha-nimitta khó phát sinh rõ trong tâm.

 
Một cách khác, đề-mục bất-tịnh (asubha) có 2 loại:
 

* Đề-mục bất-tịnh (asubha) không có sinh-mạng đó là 10 đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh dễ phát sinh đối-tượng uggahanimitta.

 

* Đề-mục bất-tịnh (asubha) có sinh-mạng đó là thân thể của mình và của người khác khó phát sinh đối-tượng uggahanimitta. Ví dụ như:

 

* Khi bộ phận trong thân thể bị sưng lên do nguyên nhân nào đó, hành-giả niệm tưởng rằng: Đó là đề-mục-thiền-định bất-tịnh uddhumātaka.

 

* Khi bộ phận trong thân thể bị thương chảy máu hoặc bị nổi ung nhọt máu mủ chảy ra, hành-giả niệm tưởng rằng: Đó là đề-mục-thiền-định bất-tịnh vipubbaka.

 

* Khi thân thể bị đứt chân, đứt tay, … do nguyên nhân nào đó, hành-giả niệm tưởng rằng: Đó là đề-mục-thiền-định bất-tịnh vicchiddaka.

* Khi bị tai nạn có nhiều thương tích làm cho máu chảy thấm ướt thân thể, hành-giả niệm tưởng rằng: Đó là đề-mục-thiền-định bất-tịnh lohitaka, v.v…

 

Hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định với đề-mục-thiền-định bất-tịnh (asubha) có sinh-mạng đó là thân thể của mình và của người khác khi đang còn sống, tuy khó phát sinh đối-tượng uggahanimitta, nhưng chư bậc thiện trí thường thực-hành những đề-mục-thiền-định bất-tịnh này. Cho nên, đề-mục-thiền-định bất-tịnh này không chỉ con người sau khi chết, mà còn khi con người đang sống cũng làm đề-mục-thiền-định bất-tịnh được.

 

Thật vậy, thân thể con người vốn là bất-tịnh, không tốt đẹp, đầy ô trọc, thật đáng nhàm chán. Sở dĩ không nhìn thấy thân thể con người bất-tịnh như vậy, là vì nhìn thấy bên ngoài thân hình con người bị che kín bởi y phục, đồ trang sức quý giá.

 

Nếu có trí-tuệ thấu suốt lộn ngược bên trong thân ra bên ngoài, bên ngoài thân vào bên trong thì thân thể con người này sẽ như thế nào? 

 

Vì vậy, bậc thiện trí có trí-tuệ sáng suốt thấy rõ, biết rõ sự thật của thân này bất-tịnh, đầy ô trọc, ngay khi thân này còn sinh-mạng.

 

Nhận Xét Về Đề-Mục-Thiền-Định Tử-Thi Bất-Tịnh

 

Đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh chỉ có khả năng dẫn

đến chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới mà thôi, bởi vì đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh này là đối-tượng thô, luôn luôn cần đến chi-thiền vitakka: hướng tâm đến đề-mục-thiền-định, nên hành-giả sau khi đã chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới rồi, muốn chứng đắc đệ nhị thiền sắc-giới, hành giả cần phải thay đổi đề-mục-thiền-định khác có khả năng dẫn đến chứng đắc đệ nhị thiền sắc-giới, v.v….

Nếu hành-giả sau khi chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới với đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh này rồi, không muốn thay đổi sang đề-mục-thiền-định khác, thì hành-giả xem xét đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh ấymàu sắc nào hiện rõ ràng nhất, sử dụng màu sắc ấy trở thành đề-mục-thiền-định vaṇṇakasiṇa. Ví dụ: màu xanh.…

 

Hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định với đề-mục-thiền-định màu xanh gọi là nīlakasiṇamàphương-pháp thực-hành để chứng đắc các thiền sắc-giới bậc cao giống như đề-mục-thiền-định nīlakasiṇa đã trình bày trong phần vaṇṇakasiṇa.

 

Đề-Mục-Tử-Thi Bất-Tịnh Có 2 Pháp Hành

 

 Tử-thi bất-tịnh (asubha) là đối-tượng của 2 pháp hành: Pháp-hành-thiền-định pháp-hành-thiền-tuệ

 

* Pháp-hành-thiền-định: Tử-thi bất-tịnh (asubha)10 đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh như đã được trình bày trong phần trước.

 

* Pháp-hành-thiền-tuệ: Tử-thi bất-tịnh (asubha) có 9 đối-tượng được Đức-Phật thuyết giảng trong phần thân- niệm-xứ trong bài kinh Mahāsatipaṭṭhānasutta (kinh Đại-tứ-niệm-xứ) phần Kāyānupassanā navasivathikapabba.  

 

Chín đối-tượng tử-thi bất-tịnh (asubha) trong phần thân-niệm-xứ thuộc về sắc-pháp có khả năng dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt-đoạn-tuyệt được mọi phiền-não, mọi tham-ái, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán sẽ tịch diệt Niết-bàn, chấm dứt khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài.

 

(Xong 10 đề-mục-thiền-định tử-thi bất-tịnh)



[1] Cô gái Puṇṇā vốn là người tớ gái, sáng nay cô được nâng lên trở thành con gái của nàng Sujātā.

[2] Cây Assattha này chính là Cây Đại-Bồ-Đề đồng sinh cùng một lúc với Đức-Bồ-Tát Siddhattha tại khu rừng Lumbhinī. Đúng 35 năm sau, Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha ngự đến ngồi tại cội cây Đại-Bồ-Đề này, để trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama, đúng theo lời thọ ký của 24 Đức-Phật quá-khứ. Cho nên, cây Assattha này trở thành cây Đại-Bồ-Đề của Đức-Phật Gotama .

[3] Tiền-kiếp-minh này, đối với Đức-Phật Độc-Giác và Thanh-văn-Giác có giới hạn.

[4] Dưới cội cây nào mà mỗi Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, cây ấy được gọi là Mahābodhirukkha: Cây Đại- Bồ-Đề. Mỗi Đức-Phật có mỗi cây Đại-Bồ-Đề khác nhau.

Cây Assattha này là cây Đại-Bồ-Đề đồng sinh cùng một lúc với Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha 35 năm trước đây.

[5] Bậc Thánh-A-ra-hán thuộc hạng Sukkhavipassaka, không có bậc thiền sắc-giới làm nền tảng, nghĩa là hành giả chỉ thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt-đoạn-tuyệt mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán mà thôi.

[6] Duy-tác-tâm chỉ là tâm của bậc Thánh-A-ra-hán mà thôi.

[7] Xem quyển “Tìm hiểu pháp-hành-thiền-tuệ” cùng soạn giả.

[8] 22 đề-mục trực tiếp là 4 bhūtakasiṇa + 4 vaṇṇakasiṇa + ākāsakasiṇa + āloka-kasiṇa + 10 asubha + kāyāgatāsati + ānāpānassati.

[9]18 đề-mục gián tiếp là 6 anussati + upasamānussati + maraṇānussati + 4 appamaññā + āhārepaṭikūlasaññā + catudhātuvavatthāna + 4 āruppakammaṭṭhāna.

[10] 4 appamaññā+4 āruppakammaṭṭhāna

[11] Duy-tác-tâm chỉ là tâm của bậc Thánh-A-ra-hán mà thôi. 

[12] 10 đề-mục là 8 đề-mục anussati (trừ kāyagatāsati và ānāpānassati) + āhārepaṭikkūlasaññā + catudhātuvavatthāna

[13] 30 đề-mục là 10 đề-mục kasiṇa + 10 đề-mục asubha + kāyagatāsati + ānāpānassati + 4 appamaññā + 4 āruppakammaṭṭhāna.

[14] *Đối với hành-giả thuộc về mandapuggala có trí-tuệ chậm, có 4 sát-na-tâm này.

   * Đối với hành-giả thuộc về hạng tikkhapuggala có trí-tuệ sắc bén nhanh nhạy, chỉ có 3 sát-na-tâm mà thôi, không có sát-na-tâm parikamma. 

[15]Nếu là tikkhapuggala thì không có parikamma, chỉ còn lại 3 phận sự.

[16] Nếu là tikkhapuggala thì không có parikamma, chỉ còn lại 3 phận sự.

[17]Nếu là tikkhapuggala thì không có parikamma, chỉ còn lại 3 phận sự.

[18]Nếu là tikkhapuggala thì không có parikamma, chỉ còn lại 3 phận sự.

[19] 10 đề-mục kasiṇa, 10 đề-mục asubha, 4 đề-mục appamaññā, 1 đề-mục ānāpānassati, 1 đề-mục kāyagatāsati, 4 đề-mục āruppa

[20]Ma” là ám chỉ một loại phi nhân ác hay quấy nhiễu người tầm thường. 





[ Ðầu trang][Trở về mục lục ][ Trở về trang Thư Viện ]

updated: 2024