• Nền Tảng Phật Giáo - Quyển VII - Tập 1

    PHÁP HÀNH THIỀN ĐỊNH

  • Tác giả: Hộ Pháp

 

4- Đề-mục Vô-lượng (Appamaññā)

 

1- Đề-mục niệm rải tâm-từ (Mettā) đến chúng-sinh vô-lượng,

2- Đề-mục niệm rải tâm-bi (Karuṇā) đến chúng-sinh vô-lượng,

3- Đề-mục niệm rải tâm-hỷ (Muditā) đến chúng-sinh vô-lượng,

4- Đề-mục niệm rải tâm-xả (Upekkhā) đến chúng-sinh vô-lượng.

 

Đó là 4 đề-mục vô-lượng-tâm (appamaññā) là pháp-hành-thiền-định.

                         
Appamaññā
 
Định nghĩa:
 

Appamāṇesu sattesu bhavāti: appamaññā.

 

Thiện-tâm phát triển đến chúng-sinh vô-lượng, không có giới hạn, gọi là appamaññā.

 
Hành-giả thực-hành đề-mục tứ vô-lượng-tâm:
 

* Đề-mục niệm rải tâm-từ đến chúng-sinh vô-lượng,

* Đề-mục niệm rải tâm-bi đến chúng-sinh vô-lượng,   

* Đề-mục niệm rải tâm-hỷ đến chúng-sinh vô-lượng.

* Đề-mục niệm rải tâm-xả đến chúng-sinh vô-lượng.

 

Đề-mục tứ vô-lượng-tâm, khi bắt đầu thực-hành, hành-giả chỉ có thể chọn 1 trong 3 đề-mục vô-lượng-tâm đề-mục niệm rải tâm-từ đến chúng-sinh vô-lượng hoặc đề-mục niệm rải tâm-bi đến chúng-sinh vô-lượng hoặc đề-mục niệm rải tâm-hỷ đến chúng-sinh vô-lượng, dẫn đến chứng đắc từ đệ nhất thiền sắc-giới cho đến đệ tứ thiền sắc-giới xong, rồi tiếp theo thực-hành đề-mục niệm rải tâm-xả đến chúng-sinh vô-lượng, để chứng đắc

đệ ngũ thiền sắc-giới.
 

Nếu khi hành-giả thực-hành niệm rải tâm-từ, hoặc niệm rải tâm-bi, hoặc niệm rải tâm-hỷ, hoặc niệm rải tâm-xả đến chúng-sinh có giới hạn, đến nơi chốn có giới hạn thì không gọi là thực-hành đề-mục tứ vô-lượng-tâm, không thể chứng đắc các bậc thiền sắc-giới, chỉ gọi là niệm rải tâm-từ, niệm rải tâm-bi, niệm rải tâm-hỷ, niệm rải tâm-xả bình thường mà thôi.

 

Mặc dù hành-giả niệm rải tâm-từ, tâm-bi, tâm-hỷ, tâm-xả như vậy cũng có được quả báu lớn lao trong kiếp-hiện-tại, hành-giả thân tâm thường được an-lạc, được các chúng-sinh yêu mến. 

 

Kiếp vị-lai, hành-giả sau khi chết, dục-giới thiện- nghiệp ấy sẽ cho quả tái sinh kiếp sau trong cõi thiện- giới, cõi người hoặc cõi trời dục-giới, hưởng mọi sự an-lạc cao quý.

 

 Appamaññā: Đề-mục tứ vô-lượng-tâm có tên gọi là Brahmavihāra, bởi vì hành-giả nào đang thực-hành đề-mục vô-lượng-tâm nào, hành-giả ấy có thiện-tâm như vị phạm-thiên. Định nghĩa:

 

“Brahmānaṃ vihāro’ti Brahmavihāro.”

 

Thực-hành đề-mục vô-lượng-tâm nào, hành-giả có thiện-tâm như vị phạm-thiên. Vì vậy, đề-mục vô-lượng-tâm ấy gọi là brahmavihāra.

 
Ý nghĩa khác như:
 

Brahmavihāra: Sự thực-hành của bậc cao thượng.    

Định nghĩa: “Brahmānaṃ (seṭṭhānaṃ) vihāro (seṭṭhabhūto)’ti Brahmavihāro.”

 Đời sống cao thượng với vô-lượng-tâm của bậc cao thượng, gọi là brahmavihāra.

 

Giảng Giải 4 Đề-Mục Vô-Lượng-Tâm (Appamaññā)

 

4-1 Đề-Mục Niệm Rải Tâm-Từ (Mettā)

 

Đề-mục niệm rải tâm-từ là đề-mục-thiền-định chỉ có khả năng dẫn đến chứng đắc từ đệ nhất thiền sắc-giới cho đến đệ tứ thiền sắc-giới mà thôi, bởi vì đề-mục-thiền-định niệm rải tâm-từ cần có chi thiền lạc (sukha), nên không có thể chứng đắc đệ ngũ thiền sắc-giới,

 

Mettā: Tâm-từ thương yêu chúng-sinh

 

Định nghĩa: “Mejjati sinehatī’ti mettā.”

 

Thiện-tâm nào thương yêu chúng-sinh, mong ước điều an lành đến tất cả chúng-sinh, thiện-tâm ấy gọi là mettā: tâm-từ, có chi pháp là adosacetasika: vô-sân tâm-sở đồng sinh với thiện-tâm có đối-tượng là piyamanāpa-sattapaññatti: chúng-sinh đáng yêu, đáng kính.

 

Piyamanāpapuggala: Người đáng yêu, đáng kính có 2 nhóm người:

 

1- Nhóm người đáng yêu, đáng kính bình thường,

2- Nhóm người đáng yêu, đáng kính làm đối-tượng của pháp-hành-thiền-định đề-mục niệm rải tâm-từ.

 

Ban đầu hành-giả thực-hành niệm rải tâm-từ đến đối-tượng nhóm người đáng yêu, đáng kính bình thường, khi tiến triển đến tâm-hành cận-định (upacārabhāvanā), rồi hành-giả tiếp tục thực-hành niệm rải tâm-từ đến đối-tượng tất cả chúng-sinh không thương không ghét gồm cả những kẻ thù cũng được ghép chung vào nhóm người đáng yêu, đáng kính bình thường ấy, tâm sân không phát sinh, mà chỉ có tâm-từ vô sân (adosacetasika) phát sinh mà thôi.

 

*Nếu trường hợp vô-sân tâm-sở (adosacetasika) đồng sinh với dục-giới đại-thiện-tâm trong khi lễ bái Tam-Bảo, tụng kinh, nghe pháp, làm các phước-thiện, v.v… không có đối-tượng piyamanāpasattapaññatti:chúng-sinh đáng yêu, đáng kính thì không gọi là tâm-từ (mettā).

 

Tâm-từ (mettā): Thương yêu, quý mến mọi người, mong ước những điều an lành đến mọi người, có 2 loại tâm-từ:

 

1- Mettā adosa: Tâm-từ vô-sân là thương yêu, quý mến, mong ước những điều an lành với thiện-tâm trong sạch không chấp thủ rằng:“Người này là cha tôi, mẹ tôi, thầy, cô giáo, anh chị em, vợ, chồng, con cái, bà con thân quyến, bạn hữu, người thân của tôi, v.v… nào cả.”

Dù người ấy đi nơi khác, hoặc chết, người có tâm-từ vô sân cũng không phát sinh tâm thương tiếc, buồn khổ. 

 
Đó là tâm-từ thật có chi pháp là vô-sân tâm-sở (adosacetasika).
 

2- Taṇhāpema: Tham-ái yêu thương là yêu thương, quý mến đến mọi người với tâm tham-ái chấp thủ rằng:   “Người này là cha tôi, mẹ tôi, thầy, cô giáo, anh chị em, vợ, chồng, con cái, bà con thân quyến, bạn hữu, người thân của tôi, v.v…”

 Khi người thân ấy đi nơi khác, hoặc chết, người có tham-ái yêu thương phát sinh tâm thương tiếc, buồn khổ, khóc than thảm thiết.

Đó là tâm-từ giả, có chi pháp là tham tâm-sở (lobhacetasika).
 

Taṇhāpema: Tham-ái yêu thương dùlà tâm-từ giả vẫn có năng lực bảo vệ sinh-mạng khỏi mọi điều nguy hiểm.

 

Như trong bộ Visuddhimagga, Một con bò mẹ đang cho bê con bú sữa với tâm-từ yêu thương con của mình, ở trong rừng sâu. Một người thợ săn dùng giáo phóng mạnh đến con bò mẹ ấy, lưỡi giáo không bay đến con bò mẹ, mà găm xuống đất, do năng lực tâm-từ của con bò mẹ yêu thương con của mình.

 

* Hành-giả có ý nguyện muốn giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài, nếu có taṇhāpema thìsẽ bị trở ngại trong việc thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ, không dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, không chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn, không thể giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài.

 

Như trường hợp Ngài Đại-đức Channataṇhā-pema, yêu thươngtha thiết nơi Đức-Thế-Tôn. Khi Đức-Thế-Tôn còn hiện hữu trên thế gian, Ngài Đại-đức Channa thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ không chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả nào, nhưng sau khi Đức-Thế-Tôn tịch diệt Niết-bàn rồi, Ngài không còn có taṇhāpema nơi Đức-Thế-Tôn nữa,nên thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán.

 

Sau đó, Ngài tịch diệt Niết-bàn, chấm dứt khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài. 

 
Như vậy, người có taṇhāpema làm cản trở chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn.
 

Thận Trọng Đến 6 Hạng Người

 
Hành-giả thực-hành đề-mục niệm rải tâm-từ, cần phải thận trọng trong 6 hạng người:
 

A- Không nên niệm rải tâm-từ trước tiên đến 4 hạng người:

 

1- Appiyapuggala: Hạng người không thương yêu,  

2- Atipiyapuggala: Hạng người thương yêu nhiều,

3- Majjhattapuggala: Hạng người không thương không ghét,

4- Verīpuggala: Hạng người là kẻ thù của mình.

 

Đó là 4 hạng người mà hành-giả không nên thực-hành niệm rải tâm-từ trước tiên, bởi vì tâm-từ khó phát sinh, chỉ làm cho tâm hành-giả cảm thấy không hài lòng, thậm chí còn làm cho tâm sân dễ phát sinh mà thôi.

 

* Nếu niệm rải tâm-từ đến appiyapuggala trước tiên thì hành-giả cảm thấy không hài lòng, bởi vì hạng người ấy là người không thương yêu.

 

* Nếu niệm rải tâm-từ đến atipiyapuggala trước tiên, khi người ấy đang bị đau khổ thì hành-giả phát sinh khổ tâm lo âu, bởi vì hạng người ấy là người thương yêu quý mến nhiều.

 

* Nếu niệm rải tâm-từ đến majjhattapuggala trước tiên thì hành-giả cảm thấy không hài lòng, bởi vì hạng người ấy là người không thương không ghét.

 

* Nếu niệm rải tâm-từ đến verīpuggala trước tiên thì hành-giả dễ phát sinh tâm sân, bởi vì hạng người ấy là kẻ thù của mình.

 

B- Không nên niệm rải tâm-từ đến 1 hạng người:

 

5- Liṅgavisabhāgapuggala: Hạng người khác phái với hành-giả.

 

Nếu hành-giả là người nam thì không nên niệm rải tâm-từ đến người nữ nào; hoặc nếu hành-giả là người nữ thì không nên niệm rải tâm-từ đến người nam nào, bởi vì người khác phái tâm-từ không sinh, tâm tham phát sinh.

 

C- Không nên niệm rải tâm-từ đến người đã chết.

 

6- Kālaṅkatapuggala: Hạng người đã chết rồi.

 

Nếu hành-giả niệm rải tâm-từ đến hạng người đã chết thì tâm-từ không phát sinh, cận-định và an-định cũng không thể phát sinh được, bởi vì hạng người đã chết rồi.

 

Hạng Người Cần Phải Niệm Rải Tâm-Từ Trước Tiên

 

Muốn thực-hành đề-mục niệm rải tâm-từ (mettā), để mong chứng đắc từ đệ nhất thiền sắc-giới cho đến đệ tứ thiền sắc-giới, hành-giả cần phải niệm rải tâm-từ cho chính mình trước tiên, bởi vì tâm-từ thương yêu người khác dù nhiều bao nhiêu đi nữa, chắc chắn cũng không bằng tâm-từ thương yêu mình.

 
Thật vậy, Đức-Phật dạy rằng:

“Natthi attasamaṃ pemaṃ.([1])” 

 Không có tâm-từ thương yêu ai bằng thương yêu chính mình. 

 

Niệm Rải Tâm-Từ Cho Mình

 
Hành-giả thực-hành đề-mục niệm rải tâm-từ cho chính mình trước tiên với 4 pháp như sau:
 

1- Ahaṃ avero homi: Xin cho tôi không có oan trái với tất cả chúng-sinh.

 

2- Ahaṃ abyāpajjo homi: Xin cho tôi không có khổ tâm sầu não, 

 

3- Ahaṃ anīgho homi: Xin cho tôi không có khổ thân, 

 

4- Ahaṃ sukhī attānaṃ pariharāmi: Xin cho tôi giữ gìn thân tâm thường được an-lạc.

 

Sau khi tâm-từ phát sinh, tiến triển có nhiều năng lực đối với chính mình, rồi hành-giả nên suy xét rằng:

 

“Tâm-từ mong ước những điều an lành đối với chính mình như thế nào, tâm-từ đối với tất cả chúng-sinh khác dù lớn dù nhỏ cũng như thế ấy.”

 

Đó là tâm-từ cơ bản làm nền tảng hỗ trợ cho tâm-từ dễ dàng phát sinh lên đối với các chúng-sinh khác.

 
Đức-Phật dạy rằng: 
 

Sabbā disā anuparigamma cetasā,

Nevajjhagā piyataramattanā kvaci.

Evaṃ piyo puthu attā paresaṃ,

Tasmā na hiṃse paramattakāmo.”([2])  

 

Bậc thiện trí xem xét,

Tất cả mọi phương hướng,

Không thấy một ai cả,

Yêu người hơn yêu mình,

Bất cứ trường hợp nào,

Chính mình yêu quý nhất,

Chúng-sinh khác cũng vậy,

Cho nên, tự yêu mình,

chớ nên gây đau khổ,

chúng-sinh lớn nhỏ khác.

 

Cách Niệm Rải Tâm-Từ Đến Chúng-sinh    

 

* Nếu hành-giả thực-hành đề-mục niệm rải tâm-từ đến một người (số ít) với 4 pháp như sau:

 

1- So avero hotu: Xin cho người ấy không có oan trái với tất cả chúng-sinh,

 

2- So abyāpajjo hotu: Xin cho người ấy không có khổ tâm sầu não, 

 

3- So anīgho hotu: Xin cho người ấy không có khổ thân,

 

4- So sukhī attānaṃ pariharatu: Xin cho người ấy giữ gìn thân tâm thường được an-lạc.

 

* Nếu hành-giả thực-hành đề-mục niệm rải tâm-từ đến 2 người trở lên (số nhiều) với 4 pháp như sau:

 

1- Te averā hontu: Xin cho những người ấy không có oan trái với tất cả chúng-sinh.

 

2- Te abyāpajjā hontu: Xin cho những người ấy không có khổ tâm sầu não. 

 

3- Te anīghā hontu: Xin cho những người ấy không có khổ thân.

 

4- Te sukhī attānaṃ pariharantu: Xin cho những người ấy giữ gìn thân tâm thường được an-lạc.

 

 Niệm Rải Tâm-Từ Đến 4 Hạng Người Theo Tuần Tự

 

Sau khi thực-hành đề-mục niệm rải tâm-từ cho chính mình, tâm-từ phát triển tốt, có nhiều năng lực vững vàng, hành-giả có thể tiếp tục thực-hành niệm rải tâm-từ đến 4 hạng người theo tuần tự như sau:

 

1- Piyapuggala: Hạng người thương yêu,

2- Atipiyapuggala: Hạng người thương yêu nhiều,

3- Majjhattapuggala: Hạng người không thương không ghét,

4- Verīpuggala: Hạng người là kẻ thù của mình.

 

1- Piyapuggala: Hạng người thương yêu.

 

Hạng người thương yêu đó là những người bạn thân, những người thương yêu nhau, những người bạn cùng làm chung công việc với nhau, những người cùng sống chung với nhau,

 

Đó là những hạng người mà hành-giả nên thực-hành niệm rải tâm-từ trước tiên.

 

Hành-giả thực-hành niệm rải tâm-từ đến một người hoặc nhiều người với 4 pháp như vậy, được lặp đi lặp lại nhiều lần trở nên thuần thục, tâm-từ phát triển có nhiều năng lực. 

 

Tiếp theo, hành-giả thực-hành niệm rải tâm-từ đến một người hoặc nhiều người đã từng là những người bạn thân, đã từng là những người thương yêu nhau, đã từng là những người bạn cùng làm chung công việc với nhau, đã từng là những người cùng sống chung với nhau, … với 4 pháp như vậy, được lặp đi lặp lại nhiều lần trở nên thuần thục, tâm-từ phát triển có nhiều năng lực.  

 

2- Atipiyapuggala: Hạng người thương yêu nhiều.

 

Hạng người thương yêu nhiều đó là cha mẹ, thầy cô giáo, anh chị em, bà con thân quyến, bạn hữu thân thiết, ... đólà những người thương yêu, kính yêu nhiều mà hành-giả nên thực-hành niệm rải tâm-từ tiếp theo sau hạng người thương yêu.

 

Phương-pháp thực-hành niệm rải tâm-từ đến một người hoặc nhiều người với 4 pháp như vậy, được lặp đi lặp lại nhiều lần trở nên thuần thục, tâm-từ phát triển có nhiều năng lực. 

 

3- Majjhattapuggala: Hạng người không thương  

     không ghét.

 

Hạng người không thương, không ghét đó là những người quen biết bình thường không ân không oán với nhau, mà hành-giả nên thực-hành niệm rải tâm-từ tiếp theo sau hạng người thương yêu nhiều.

 

Phương-pháp thực-hành niệm rải tâm-từ đến một người hoặc nhiều người với 4 pháp như vậy, được lặp đi lặp lại nhiều lần trở nên thuần thục, tâm-từ phát triển có nhiều năng lực. 

 

4- Verīpuggala:Hạng người là kẻ thù của mình.

 

Hạng người là kẻ thù của mình đó là người đã từng làm khổ mình, gây tai hại đến cho mình hoặc đến gia đình bà con thân quyến của mình, đến những thân yêu, kính mến nhất của mình.

 

Nay hành-giả thực-hành niệm rải tâm-từ, để mong chứng đắc các bậc thiền sắc-giới, nên cần phải niệm rải tâm-từ đến hạng người là kẻ thù của mình cuối cùng, sau hạng người không thương, không ghét.

 

Nếu khi hành-giả thực-hành niệm rải tâm-từ đến hạng người là kẻ thù của mình, tâm-từ không phát sinh, mà tâm sân phát sinh thì hành-giả nên suy xét đến lời giáo huấn trong tích Kāḷayakkhinīvatthu([3]) Đức-Phật dạy:  

 
“Na hiverena verāni, sammatī’dha kudācanaṃ.

Averena ca sammanti, esa dhammo sanantano.”

 

Sự thật trong đời này,

Chẳng bao giờ oan trái,

Dập tắt bằng oan trái,

Oan trái dập tắt được,

Bằng sự không oan trái,

Đó thật sự là pháp,

Bậc trí từ ngàn xưa.

 

* Suy xét rằng: “Chúng-sinh sau khi chết, rồi bị sa vào trong cõi địa ngục không phải do kẻ thù, mà sự thật là do tâm-sân của chúng-sinh ấy. Nếu ta vẫn còn phát sinh tâm sân thù ghét đối với kẻ thù thì sau khi ta chết, tâm-sân có ác-nghiệp cho quả khó tránh khỏi sa vào trong cõi địa ngục.”

 

Suy xét như vậy, nên hành-giả phát sinh thiện-tâm-biết hổ thẹn tội lỗi, biết ghê sợ tội lỗi, hoặc suy ngẫm lời giáo huấn của Đức-Phật về 5 điều tai hại của tâm-sân không nhẫn-nại và 5 quả báu lợi ích của pháp nhẫn-nại vô-sân như sau:

 

 - Này chư Tỳ-khưu! 5 điều tai hại đối với người không có pháp nhẫn-nại:

 

1- Là người không được phần đông yêu mến,

2- Là người gây oan trái với người khác,

3- Là người tạo nên nhiều tội ác,

4- Là người mê muội lúc lâm chung,

5- Sau khi chết, ác-nghiệp cho quả tái sinh kiếp sau trong cõi ác-giới: địa ngục, a-tu-la, ngạ-quỷ, súc sinh.

 

- Này chư Tỳ-khưu! 5 quả báu lợi ích đối với người có pháp nhẫn-nại vô-sân:

 

1- Là người được phần đông yêu mến,

2- Là người không gây oan trái với người khác,

3- Là người tạo nên nhiều phước-thiện,

4- Là người không mê muội, có tâm sáng suốt minh mẫn lúc lâm chung,

5- Sau khi chết, thiện-nghiệp cho quả tái sinh kiếp sau trong cõi thiện giới: cõi người, cõi trời dục-giới.  

 

* Suy xét một cách khác theo Saṃyuttanikāyapāḷi, bộ Nidānavagga, phần Anamataggasaṃyutta,

 
Đức-Phật dạy rằng:
 

“Na so bhikkhave, satto sulabharūpo yo na mātā bhūtapubbo, ….. yo na pitā bhūtapubbo,….. yo na bhātā bhūtapubbo,… yo na bhaginī bhūtapubbā,… yo na putto bhūtapubbo, … yo na dhītā bhūtapubbo, …”

 

“- Này chư Tỳ-khưu! Người nào không từng là mẹ, …người nào không từng là cha;… người nào không từng là anh;… người nào không từng là chị;… người nào không từng là con trai; … người nào không từng là con gái của mình; … Chúng-sinh ấy như vậy không dễ có được, bởi vì kiếp tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài, từ vô thủy trải qua vô số kiếp cho đến kiếp hiện-tại này.”

 

Như vậy, hạng người gọi là kẻ thù của mình cũng có thể vốn là người thân, thậm chí là mẹ, cha, … ân nhân của ta trong những tiền kiếp.

 

Vậy, ta không nên chấp lỗi, thù hận người ấy nữa.

 

Sau khi suy xét đúng đắn như vậy, hành-giả phát sinh thiện-tâm thực-hành niệm rải tâm-từ đến hạng người gọi là kẻ thù ấy một cách tự nhiên, tâm-từ phát triển tốt, có nhiều năng lực.

 

* Tuy hành-giả đã cố gắng suy xét bằng nhiều cách như vậy, để thực-hành niệm rải tâm-từ đến hạng người gọi là kẻ thù của mình, nhưng tâm-từ không phát sinh, mà chỉ có tâm sân phát sinh mà thôi. 

 

Nếu như vậy thì hành-giả nên tạm ngưng thực-hành niệm rải tâm-từ đến hạng người gọi là kẻ thù của mình, nên bắt đầu thực-hành niệm rải tâm-từ lại theo tuần tự đến hạng người thương yêu, đến hạng người thương yêu nhiều, đến hạng người không thương không ghét, để cho tâm-từ phát triển tốt, có nhiều năng lực, rồi mới tiếp theo thực-hành niệm rải tâm-từ đến hạng người gọi là kẻ thù của mình, một cách tự nhiên, để cho tâm-từ phát triển tốt, có nhiều năng lực.

 

Sīmāsambheda: Xóa Ranh Giới Tâm-Từ

 

Sở dĩ hành-giả cần phải cố gắng bằng mọi cách, để thực-hành niệm rải tâm-từ đến hạng người gọi là kẻ thù của mình, là vì hành-giả muốn cho tâm-từ của mình đạt đến sīmāsambheda: xóa bỏ ranh giới tâm-từ, đểcho tâm-từđồng đều nhau, không nhiều không ít đối với 4 hạng người, tâm-từ trở nên samacittatā: tâm-từ đồng đều dẫn đến chứng đắc 4 bậc thiền sắc-giới.

 

Trạng-Thái Của Tâm-Từ Sīmāsambheda

 

 Ví dụ: Hành-giả thực-hành niệm rải tâm-từ đang ngồi

chung với 3 hạng người: piyapuggala, hạng người thương yêu, majjhattapuggala, hạng người không thương không ghét, verīpuggala, hạng người gọi là kẻ thù của mình. Khi ấy, bọn cướp đến bắt buộc hành-giả phải chỉ cho chúng bắt 1 trong 3 hạng người ấy, để chúng giết chết, lấy máu tế thần lửa.

 

Gặp trường hợp như vậy, nếu hành-giả còn có tâm thiên vị chỉ cho bọn cướp bắt verīpuggala hoặc majjhatta-puggala hoặc piyapuggala thì tâm-từ của hành-giả chưa đạt đến sīmāsambheda: xóa bỏ ranh giới tâm-từ, thậm chí hành-giả chịu hy sinh sinh-mạng của mình cho bọn cướp bắt giết chết, lấy máu tế thần lửa, để cho 3 hạng người kia được an toàn sinh-mạng.

 

Như vậy, tâm-từ của hành-giả cũng chưa đạt đến sīmāsambheda: xóa bỏ ranh giới tâm-từ, bởi vì tâm-từ của hành-giả vẫn còn phân biệt ranh giới.

 

Nếu khi hành-giả có tâm-từ đồng đều với 3 hạng người kia và cả chính mình nữa thì tâm-từ của hành-giả mới đạt đến sīmasāmbheda: xóa bỏ ranh giới tâm-từ.

 

Trong bộ Visuddhimagga: Thanh-tịnh-đạo trình bày 3 bài kệ rằng:

“Attani hitamajjhatte, ahite ca catubbidhe.

Yadā passati nānattaṃ, hitacittova pāṇinaṃ…” ([4])

* Khi nào hành-giả còn thấy khác biệt 4 hạng người là chính mình, người thương yêu, người không thương không ghét, và kẻ thù,

 

Hành-giả nói rằng: Chỉ có thiện-tâm mong ước sự lợi ích, sự tiến hoá, đến tất cả chúng-sinh mà thôi. Khi ấy, chưa dám nói rằng: Hành-giả có tâm-từ phát sinh theo ý của mình và thuần thục niệm rải tâm-từ đến 4 hạng người.

 

* Khi nào tâm-từ trong 4 hạng người của vị tỳ-khưu hành-giả đồng đều nhau, không còn có ranh giới của tâm-từ, vị tỳ-khưu hành-giả niệm rải tâm-từ đến tất cả chúng-sinh vô-lượng trong toàn thế giới chúng-sinh, gồm cả chư-thiên phạm-thiên cả thảy, không còn có ranh giới tâm-từ nữa. Khi ấy, vị tỳ-khưu hành-giả là người đặc biệt cao thượng hơn vị tỳ-khưu ở trên chưa xóa được ranh giới của tâm-từ.

 

* Khi nào tâm-từ phát sinh rộng rãi đến piyapuggala, majjhattapuggala đồng đều với chính mình, khi ấy tâm-từ của hành-giả có đối-tượng trung-dung, xóa được ranh giới tâm-từ trong verīpuggala, bởi vì thiện-tâm của hành-giả đặt trung-dung trong hạng người là kẻ thù của mình, nên verīpuggala không còn nữa.”

 

Hành-giả thực-hành niệm rải tâm-từ đến hạng người nào, hạng người ấy hiện rõ trực tiếp đến thiện-tâm của hành-giả, làm cho tâm-từ phát sinh trong đối-tượng hạng người ấy.

 

Vì vậy, phương-pháp thực-hành niệm rải tâm-từ không chỉ niệm rải tâm-từ bằng tâm, mà còn phải định-tâm niệm tưởng biết rõ đối-tượng, rồi hành-giả niệm rải tâm-từ đến hạng người ấy.

 

Cho nên, hành-giả là người có đầy đủ 5 pháp-chủ: tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ có nhiều năng lực, mới dễ dàng thực- hành đề-mục niệm rải tâm-từ này được.

 

Để cho tâm-từ phát sinh và tiến triển tốt, hành-giả cần phải theo phương-pháp thực-hành niệm rải tâm-từ cho chính mình trước tiên làm nền tảng, rồi tiếp theo thực- hành niệm rải tâm-từ theo tuần tự 3 hạng người: piyapuggala, majjhattapuggala, verīpuggala cho đến khi đạt đến sīmāsambheda: xóa bỏ ranh giới tâm-từ, khi tâm-từ đồng đều đối với 4 hạng người (chính mình và 3 hạng người theo tuần tự).

 

Niệm Rải Tâm-Từ Theo Paṭisambhidāmagga

 

Hành-giả tiếp tục thực-hành niệm rải tâm-từ với 4 pháp-từ đến 12 loại chúng-sinh trong 10 phương hướng, theo phương-pháp trong bộ Paṭisambhidāmagga.

 

4 Pháp Rải Tâm-Từ

 

1- Sabbe sattā averā hontu: Xin cho tất cả chúng-sinh  không có oan trái lẫn nhau.

 

2- Sabbe sattā abyāpajjā hontu: Xin cho tất cả chúng- sinh không có khổ tâm sầu não. 

 

3- Sabbe sattā anīghā hontu: Xin cho tất cả chúng-sinh không có khổ thân.

 

4- Sabbe sattā sukhī attānaṃ pariharantu: Xin cho tất cả chúng-sinh giữ gìn thân tâm thường được an-lạc.

 

Hành-giả thực-hành niệm rải tâm-từ với 4 pháp-từ đến 12 loại chúng-sinh. 

 

12 Loại Chúng-sinh 

 
12 loại chúng-sinh được chia ra làm 2 nhóm:
 

A- Anodhisapuggala: Hạng chúng-sinh chung không có chỉ định, có 5 loại chúng-sinh.

 
Niệm rải tâm-từ đến 5 loại chúng-sinh:
 

1- Sabbe sattā: Tất cả chúng-sinh,

2- Sabbe paṇā: Tất cả chúng-sinh có sinh-mạng,

3- Sabbe bhūtā: Tất cả chúng-sinh hiện hữu,

4- Sabbe puggalā: Tất cả hạng chúng-sinh,

5- Sabbe attabhāvapariyāpannā: Tất cả chúng-sinh có sắc thân ngũ uẩn.
 

5 loại chúng-sinh này có danh từ riêng gọi khác nhau, nhưng ý nghĩa chung giống nhau, bởi vì tất cả đều là chúng-sinh như nhau cả.

 

B- Odhisapuggala: Hạng chúng-sinh riêng có chỉ định, có 7 loại chúng-sinh.

 
Niệm rải tâm-từ đến 7 loại chúng-sinh:
 

1- Sabbā itthiyo: Tất cả nữ giới,

2- Sabbe purisā: Tất cả nam giới,

3- Sabbe ariyā: Tất cả bậc Thánh-nhân,

4- Sabbe anariyā: Tất cả hạng phàm-nhân,

5- Sabbe devā: Tất cả chư-thiên,

6- Sabbe manussā: Tất cả nhân-loại,

7- Sabbe vinipātikā: Tất cả nhóm ngạ-quỷ, a-tu-la.

 

10 Phương Hướng

 
Niệm rải tâm-từ đến chúng-sinh trong 10 phương:
 

1- Puratthimāya disāya: Hướng Đông,

2- Pacchimāya disāya: Hướng Tây,

3- Dakkhināya disāya: Hướng Nam,

4- Uttarāya disāya: Hướng Bắc,

5- Puratthimāya anudisāya: Hướng Đông Nam,

6- Pacchimāya anudisāya: Hướng Tây Bắc,

7- Dakkhināya anudisāya: Hướng Tây Nam,

8- Uttarāya anudisāya: Hướng Đông Bắc,

9- Heṭṭhimāya disāya: Hướng Dưới,

10- Uparimāya disāya: Hướng Trên.

 

Phương-pháp Thực-hành Niệm Rải Tâm-Từ Đến 12   

Loại Chúng-sinh  

 
5 Loại Chúng-sinh (Anodhisapuggala)
 

Hành-giả thực-hành niệm rải tâm-từ theo tuần tự đến mỗi loại chúng-sinh như sau:

 

1- Sabbe sattā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu. 

 

2- Sabbe paṇā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu. 

 

3- Sabbe bhūtā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu. 

 

4- Sabbe puggalā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu. 

 

5- Sabbe attabhāvapariyāpannā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu.

 

 7 Loại Chúng-sinh (Odhisapuggala)

 

Hành-giả thực-hành niệm rải tâm-từ theo tuần tự đến mỗi loại chúng-sinh như sau:

 

1- Sabbā itthiyo averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu. 

 

2- Sabbe purisā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu. 

 

3- Sabbe ariyā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu. 

 

4- Sabbe anariyā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu. 

 

5- Sabbe devā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu.

 

6- Sabbe manussā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu. 

 

7- Sabbe vinipātikā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu.

 

10 Phương Hướng

 

Hành-giả thực-hành niệm rải tâm-từ đến mỗi loại chúng-sinh trong mỗi phương hướng như sau:

 

1.1- Puratthimāya disāya, sabbe sattā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu.

 

Mong cho tất cả chúng-sinh trong hướng Đông, không có oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, giữ gìn thân tâm thường được an-lạc.

 

1.2-10- Puratthimāya disāya, sabbe paṇā,… sabbe bhūtā,… sabbe puggalā,… sabbe attabhāvapariyāpannā, … sabbā itthiyo, … sabbe purisā, … sabbe ariyā, … sabbe anariyā,… sabbe devā,… sabbe manussā,… sabbe vinipātikā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu. 

 

2.1- Pacchimāya disāya, sabbe sattā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu.

 

Mong cho tất cả chúng-sinh trong hướng Tây, không có oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, giữ gìn thân tâm thường được an-lạc…

 

2.2-10- Pacchimāya disāya, sabbe paṇā,… sabbe bhūtā,… sabbe puggalā,… sabbe attabhāvapariyāpannā, … sabbā itthiyo, … sabbe purisā, … sabbe ariyā, … sabbe anariyā,… sabbe devā,… sabbe manussā,… sabbe vinipātikā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu. 

 

3.1- Dakkhināya disāya, sabbe sattā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu. 

Mong cho tất cả chúng-sinh trong hướng Nam, không có oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, giữ gìn thân tâm thường được an-lạc.

 

3.2-10- Dakkhināya disāya, sabbe paṇā,… sabbe bhūtā,… sabbe puggalā,… sabbe attabhāvapariyāpannā, … sabbā itthiyo, … sabbe purisā, … sabbe ariyā, … sabbe anariyā,… sabbe devā,… sabbe manussā,… sabbe vinipātikā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu. 

 

4.1- Uttarāya disāya, sabbe sattā averā hontu, abyā-pajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu.

 

Mong cho tất cả chúng-sinh trong hướng Bắc, không có oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, giữ gìn thân tâm thường được an-lạc.

 

4.2-10- Uttarāya disāya, sabbe paṇā,… sabbe bhūtā, … sabbe puggalā,… sabbe attabhāvapariyāpannā, … sabbā itthiyo, … sabbe purisā, … sabbe ariyā, … sabbe anariyā,… sabbe devā,… sabbe manussā,… sabbe vinipātikā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu.

 

5.1- Puratthimāya anudisāya, sabbe sattā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ parihantu. 

 

Mong cho tất cả chúng-sinh trong hướng Đông Nam, không có oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, giữ gìn thân tâm thường được an-lạc.

 

5.2-10- Puratthimāya anudisāya, sabbe paṇā,… sabbe bhūtā,… sabbe puggalā,… sabbe attabhāva-pariyāpannā, …sabbā itthiyo, … sabbe purisā, …sabbe ariyā, … sabbe anariyā,… sabbe devā,… sabbe manussā,… sabbe vinipātikā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu. 

 

6.1- Pacchimāya anudisāya, sabbe sattā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu.

 

Mong cho tất cả chúng-sinh trong hướng Tây Bắc, không có oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ  thân, giữ gìn thân tâm thường được an-lạc.

 

6.2-10- Pacchimāya anudisāya, sabbe paṇā,… sabbe bhūtā,… sabbe puggalā,… sabbe attabhāvapariyāpannā, … sabbā itthiyo, … sabbe purisā, … sabbe ariyā, … sabbe anariyā,… sabbe devā,… sabbe manussā,… sabbe vinipātikā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu.

 

7.1- Dakkhināya anudisāya, sabbe sattā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu.

 

Mong cho tất cả chúng-sinh trong hướng Tây Nam, không có oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, giữ gìn thân tâm thường được an-lạc.

 

7.2-10- Dakkhināya anudisāya, sabbe paṇā,… sabbe bhūtā,… sabbe puggalā,… sabbe attabhāvapariyāpannā, … sabbā itthiyo, … sabbe purisā, … sabbe ariyā, … sabbe anariyā,… sabbe devā,… sabbe manussā,… sabbe vinipātikā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu. 

 

8.1- Uttarāya anudisāya, sabbe sattā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu

 

Mong cho tất cả chúng-sinh trong hướng Đông Bắc, không có oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, giữ gìn thân tâm thường được an-lạc.

 

8.2-10- Uttarāya anudisāya, sabbe paṇā,… sabbe bhūtā,… sabbe puggalā,… sabbe attabhāvapariyāpannā, … sabbā itthiyo, … sabbe purisā, … sabbe ariyā, … sabbe anariyā,… sabbe devā,… sabbe manussā,… sabbe vinipātikā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu.

 

9.1- Heṭṭhimāya disāya, sabbe sattā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu.

 

Mong cho tất cả chúng-sinh trong hướng Dưới, không có oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, giữ gìn thân tâm thường được an-lạc.

 

9.2-10- Heṭṭhimāya disāya, sabbe paṇā,… sabbe bhūtā,… sabbe puggalā,… sabbe attabhāvapariyāpannā, … sabbā itthiyo, … sabbe purisā, … sabbe ariyā, … sabbe anariyā,… sabbe devā,… sabbe manussā,… sabbe vinipātikā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu. 

 

10.1- Uparimāya disāya, sabbe sattā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu.

 

Mong cho tất cả chúng-sinh trong hướng Trên, không có oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, giữ gìn thân tâm thường được an-lạc.

 

10.2-10- Uparimāya disāya, sabbe paṇā,… sabbe bhūtā,… sabbe puggalā,… sabbe attabhāvapariyāpannā, … sabbā itthiyo, … sabbe purisā, … sabbe ariyā, … sabbe anariyā,… sabbe devā,… sabbe manussā,… sabbe vinipātikā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu.

 

Hành-giả niệm rải tâm-từ với 4 pháp-từ đến 12 chúng-sinh từ sabbe sattā, v.v… cho đến sabbe vinipātikā trong 10 phương hướng từ hướng Puratthimāya disāya: hướng Đông, v.v… cho đến hướng Uparimāya disāya: hướng Trên.  

 

Như vậy, niệm rải tâm-từ với 4 pháp-từ đến 12 loại chúng-sinh trong 10 phương hướng tổng cộng như sau:  

 

* Puggalavārapharaṇāmettā có 4 x 12=48 phương-pháp niệm rải tâm-từ với 4 pháp-từ đến 12 loại chúng-sinh.

 

* Disāpharaṇāmetttā có 10 x 48 = 480 phương-pháp niệm rải tâm-từ với 4 pháp-từ đến 48 loại chúng-sinh trong 10 phương hướng.

 

Tổng cộng 2 phương-pháp niệm rải tâm-từ 48 + 480= 528 pharaṇāmettā phương-pháp niệm rải tâm-từ.

 

3 Loại Nimitta, 3 Loại Bhāvanā, 3 Loại Samādhi

 

Đề-mục niệm rải tâm-từ là đề-mục-thiền-định có khả năng dẫn đến chứng đắc 4 bậc thiền sắc-giới: từ đệ nhất thiền sắc-giới cho đến đệ tứ thiền sắc-giới (trừ đệ ngũ thiền sắc-giới), cho nên đề-mục niệm rải tâm-từ3 loại nimitta, 3 loại bhāvanā, 3 loại samādhi.

 

3 Loại Nimitta

 

* Khi hành-giả ban đầu thực-hành niệm rải tâm-từ cho atta: chính mình làm nền tảng, tiếp theo niệm rải tâm-từ theo tuần tự đến piyapuggala: hạng người thương yêu, majjhattapuggala: hạng người không thương không ghét, verīpuggala: hạng người là kẻ thù của mình gồm có 4 hạng người gọi là đối-tượng parikammanimitta.

 

* Khi tâm-từ của hành-giả phát triển tốt, có năng lực, trong 4 hạng người: atta, piyapuggala, majjhattapuggala, verīpuggala, nhưng chưa đạt đến sīmāsambheda: xoá bỏ ranh giới tâm-từ, gọi là đối-tượng uggahanimitta.

 

* Khi hành-giả thực-hành niệm rải tâm-từ đến 4 hạng người: atta, piyapuggala, majjhattapuggala, verīpuggala,đãđạt đến sīmāsambheda: xóa bỏ ranh giới tâm-từ, nên tâm-từ đồng đều đối với chính mình và 3 hạng người, gọi là đối-tượng paṭibhāganimitta.

 

Trong 3 loại đối-tượng nimitta ấy, đối-tượng uggaha-nimittađối-tượng paṭibhāganimitta là đối-tượng nimitta gián tiếp, bởi vì đề-mục niệm rải tâm-từ này là đề-mục-thiền-định mà hành-giả thực-hành chỉ niệm biết bằng tâm mà thôi, không thể dùng mắt để nhìn, hoặc dùng thân tiếp xúc, nên đối-tượng uggahanimittađối-tượng paṭibhāganimitta thuộc đối-tượng nimitta gián tiếp.

 

3 Loại Bhāvanā 3 Loại Samādhi

 

* Khi hành-giả ban đầu thực-hành đề-mục niệm rải tâm-từ cho chính mình với dục-giới đại-thiện-tâm niệm rải tâm-từ rằng:

“Ahaṃ avero homi, abyāpajjo homi, anīgho homi, sukhī attānaṃ pariharāmi.” 

 

* Niệm rải tâm-từ theo tuần tự đến hạng người piyapuggala, hạng người majjhattapuggala, hạng người verīpuggala rằng: 

 

 “Sabbe sattā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu, v.v… ” Như vậy, gọi là parikammabhāvanā: tâm-hành ban đầu, định-tâm đồng sinh vớidục-giới đại-thiện-tâm ấy gọi là parikammasamādhi.

 

* Khi hành-giả tiếp tục thực-hành niệm rải tâm-từ với dục-giới đại-thiện-tâmđối-tượng uggahanimitta và đối-tượng paṭibhāganimitta, chưa đạtđến sīmā-sambheda: xóa bỏ ranh giới tâm-từ, vẫn còn dục-giới đại-thiện-tâm, nên gọi là upacārabhāvanā: tâm-hành cận đến gần bậc thiền sắc-giới, định-tâm đồng sinh vớidục-giới đại-thiện-tâm ấy gọi là upacārasamādhi.

 

Khi hành-giả thực-hành niệm rải tâm-từ đối-tượng paṭibhāganimitta đãđạt đến sīmāsambheda: xóa bỏ ranh giới tâm-từ, chứng đắc bậc thiền sắc-giới thiện-tâm, nên gọi là appanābhāvanā: tâm-hành chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm định-tâm đồng sinh vớiđệ nhất thiền-sắc-giới thiện-tâm ấy gọi là appanāsamādhi.

* Phương pháp thực-hành để chứng đắc từ đệ nhị thiền sắc-giới cho đến đệ tứ thiền sắc-giới hầu hết giống như đề-mục-thiền-định đất pathavīkasiṇa đã trình bày phần trước.

 

Nên Biết 8 Điều Về Đề-Mục Niệm Rải Tâm-Từ

 

Hành-giả thực-hành đề-mục niệm rải tâm-từ, nên biết 8 điều về đề-mục niệm rải tâm-từ:

 

1- Lakkhaṇa: Tâm-từ có trạng-thái biểu hiện bằng hành động, lời nói, ý nghĩ đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc đến tất cả chúng-sinh.

2- Rasa: Tâm-từ có phận sự làm cho chúng-sinh được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc.

3- Paccupaṭṭhāna: Sự hiện hữu của tâm-từ làm tiêu diệt tâm sân-hận.

4- Padaṭṭhāna: Chỉ thấy những điều tốt, điều thiện của chúng-sinh mà thôi, không quan tâm đến điều xấu của chúng-sinh là nguyên nhân gần của tâm-từ.

5- Sampatti: Sự thành tựu của tâm-từ là sự lắng dịu tâm thù-hận.

6- Vippatti: Sự thất bại của tâm-từ là sự phát sinh tâm tham-ái say mê.

7- Āsannapaccatthika: Thù nghịch gần của tâm-từ là tham-dục.

8- Dūrapaccatthika: Thù nghịch xa của tâm-từ là tâm sân hận.

 

Quả Báu Của Đề-Mục Niệm Rải Tâm-Từ

 

Hành-giả thực-hành đề-mục niệm rải tâm-từ, có được 11 quả báu:

 

1- Sukhaṃ supati: Ngủ được an-lạc,

2- Sukhaṃ paṭibujjhati: Thức dậy được an-lạc,

3- Na pāpaṃ supinaṃ passati: Không thấy ác mộng,

4-Manussānaṃ piyo hoti: Được mọi người thương yêu 

5- Amanussānaṃ piyo hotu: Được các hàng phi nhân thương yêu,  

6- Devatā rakkhati: Được Chư-thiên hộ trì,

7- Nassa aggi vā visaṃ vā satthaṃ vā kamati: Lửa hoặc chất độc hoặc các loại khí giới không thể làm hại được,  

8- Tuvaṭaṃ cittaṃ samādhiyati: Tâm dễ dàng an-định,

9- Mukhavaṇṇo vippasīdati: Gương mặt tươi sáng,

10- Asammuḷho kālaṃ karoti: Lúc lâm chung không mê muội, tâm sáng suốt.

11- Uttarimappaṭivijjhanto brahmalokupago hoti:

 

Đề-mục niệm rải tâm-từ có khả năng dẫn đến chứng đắc từ đệ nhất thiền sắc-giới cho đến đệ tứ thiền sắc-giới (trừ đệ ngũ thiền sắc-giới), nếu chưa trở thành bậc Thánh-A-ra-hán thì sau khi chết, sắc-giới thiện-nghiệp cho quả tái sinh kiếp sau trên cõi trời sắc-giới phạm-thiên, tùy theo sắc-giới quả-tâm của bậc thiền sở đắc của hành-giả. 

                     

(Xong đề-mục niệm rải tâm-từ)

 

4-2 Đề-Mục Niệm Rải Tâm-Bi (Karuṇā)

 

 Đề-mục niệm rải tâm-bi là đề-mục-thiền-định chỉ có khả năng dẫn đến chứng đắc từ đệ nhất thiền sắc-giới cho đến đệ tứ thiền sắc-giới mà thôi, bởi vì đề-mục-thiền-định này khôngchi thiền xả (upekkhā), nên không có thể chứng đắc đệ ngũ thiền sắc-giới,

 

Karuṇā: Tâm-bi thương xót chúng-sinh

 

Định nghĩa: “Paradukkhe sati sādhūnaṃ hadaya-kampanaṃ karotī’ti karuṇā.”

 

Khi thấy chúng-sinh khác đang bị đau khổ, thiện-tâm nào của bậc thiện trí cảm thấy thương xót chúng-sinh, thiện-tâm ấy gọi là karuṇā: tâm-bi.

 

“Kiṇāti vā paradukkhaṃ hiṃsati vināsetī’ti karuṇā.”

 

Thiện-tâm nào muốn cứu giúp chúng-sinh khác thoát khỏi cảnh khổ, thiện-tâm ấy gọi là karuṇā: tâm-bi, có chi pháp là karuṇācetasika: bi tâm-sở đồng sinh với thiện-tâm có đối-tượng dukkhitasattapaññatti: chúng-sinh đang khổ.

 
 Karuṇā: Tâm-bi có 2 loại:
 

1- Tâm-bi thật vô lượng,

2- Tâm-bi giả.

 
 Tâm-bi thật vô-lượng như thế nào?
 

 Tâm-bi thật vô-lượng là tâm-bi thương xót chúng-sinh đang bị đau khổ do bịnh hoạn ốm đau, bị tai nạn, v.v… trong hiện-tại, hoặc chúng-sinh sẽ gặp cảnh đau khổ trong tương lai.

 

Hành-giả có tâm-bi đồng sinh với thiện-tâm trong sạch thương xót, dù có cứu giúp chúng-sinh ấy thoát khỏi cảnh khổ, dù không thể cứu giúp chúng-sinh ấy thoát khỏi cảnh khổ, cũng không hề phát sinh tâm lo âu sầu não, không làm cho tâm của mình bị ô nhiễm bởi phiền-não nào cả.

 

Khi ấy, chỉ có tâm-bi đồng sinh với thiện-tâm trong sạch đối với chúng-sinh đang bị khổ mà thôi.

 

Đó là trạng-thái của tâm-bi thật vô-lượng (karuṇā appamaññā).

 

Tâm-bi giả như thế nào?

 

Tâm-bi giả là tâm-bi thương xót chúng-sinh đang bị đau khổ do bịnh hoạn ốm đau, bị tai nạn, v.v… trong hiện-tại, hoặc chúng-sinh sẽ gặp cảnh đau khổ trong tương lai.

 

Hành-giả có tâm-bi thương xót, cứu giúp chúng-sinh ấy thoát khỏi cảnh khổ, nếu không thể cứu giúp chúng-sinh ấy thoát khỏi cảnh khổ thì phát sinh tâm lo lắng, nóng nảy, sầu não, làm cho tâm bị ô nhiễm bởi phiền-não. 

 
Đó là trạng-thái của tâm-bi giả.   
 
Hành-giả thực-hành đề-mục niệm rải tâm-bi vô-lượng có đối-tượng dukkhitapuggala: người đang bị đau khổ, có 2 nhóm:
 

1- Người ấy đang bị đau khổ do gặp phải 1 trong 5 điều thiệt hại (byasana):

 

- Ñātibyasana: Sự thiệt hại thân quyến, như cha, mẹ chết, vợ, chồng chết, con cái chết, v.v…

- Bhogabyasana: Sự thiệt hại của cải tài sản do bị thiêu hủy, mất mát, mất danh lợi, v.v…

- Rogabyasana: Sự thiệt hại vì mắc bệnh nan y, gặp phải tai nạn, …

- Sīlabyasana: Sự thiệt hại vì phá giới, đứt giới, …

- Diṭṭhibyasana: Sự thiệt hại do tà-kiến thấy sai, chấp lầm, làm mất chánh kiến,…

 

2- Người ấy sẽ bị đau khổ do gặp phải 1 trong 5 điều thiệt hại (byasana) trong thời vị-lai, hoặc bị khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài, chắc chắn phải chịu khổ sinh, lão, bệnh, tử mà không thể tránh khỏi được. 

 

Hành-giả thực-hành đề-mục niệm rải tâm-bi, nếu không gặp đối-tượng dukkhitapuggala, người bị đau khổ nhóm thứ nhất thì thực-hành niệm rải tâm-bi đến đối-tượng dukkhitapuggala, người bị đau khổ nhóm thứ nhì cũng được.

 

Hành-giả nên nghĩ rằng: “Hiện-tại, tuy người ấy đang hưởng mọi sự an-lạc do nhờ của cải tài sản, quyền cao chức trọng trong đời, nhưng chắc chắn sẽ gặp phải 1 trong 5 điều thiệt hại trong thời vị-lai, hoặc sẽ phải chịu cảnh khổ sinh, lão, bệnh, tử trong kiếp-hiện-tại và kiếp vị-lai không sao tránh khỏi được.”

 

Phương-Pháp Thực-Hành Đề-Mục Niệm Rải Tâm-Bi

 

Hành-giả thực-hành đề-mục niệm rải tâm-bi đến 4 hạng người theo tuần tự như sau:

 

1- Thực-hành niệm rải tâm-bi cho chính mình,

2- Dukkhitapuggala nhóm thứ nhất và nhóm thứ nhì thuộc hạng người majjhattapuggala, 

3- Dukkhitapuggala nhóm thứ nhất và nhóm thứ nhì thuộc hạng người piyapuggala, 

4- Dukkhitapuggala nhóm thứ nhất và nhóm thứ nhì thuộc hạng người verīpuggala. 

 

Hành-giả không nên niệm rải tâm-bi đến người khác phái với mình và người chết.

 

Hành-giả ban đầu thực-hành đề-mục niệm rải tâm-bi cho chính mình trước tiên, bởi vì mình hiện-tại là người đang bị khổ thân, khổ già, khổ bệnh và cuối cùng khổ chết không sao tránh khỏi được, và chắc chắn cũng sẽ gặp phải điều thiệt hại, cho nên, chính mình là người đáng thương xót, mong thoát khỏi khổ.

 

Sau khi thực-hành niệm rải tâm-bi cho chính mình, tâm-bi phát sinh, rồi tiến triển tốt, có nhiều năng lực.

 

Khi ấy, tiếp theo hành-giả nên thực-hành đề-mục niệm rải tâm-bi đến hạng người majjhattapuggala: người không thương không ghét, tâm-bi thật dễ dàng phát sinh, rồi tiến triển tốt, có nhiều năng lực.

 

* Nếu hành-giả thực-hành đề-mục niệm rải tâm-bi đến hạng người piyapuggala: người đáng thương yêu trướcthì tâm-bi thật không phát sinh, tâm-bi giả phát sinh, bởi vì tâm nóng nảy lo lắng mong sao cho người đáng thương yêu ấy mau chóng khỏi đau khổ.

 

* Nếu hành-giả thực-hành đề-mục niệm rải tâm-bi đến hạng người verīpuggala: người là kẻ thù của mình trướcthì tâm-bi sẽ không phát sinh, mà phát sinh tham-tâm đồng sinh với hỷ hài lòng thấy kẻ thù của mình đang khổ.

 

Vì vậy, hành-giả nên thực-hành đề-mục niệm rải tâm-bi theo tuần tự 3 hạng người: majjhattapuggala: người không thương không ghét trước,tiếp theo piyapuggala: người đáng thương yêu, cuối cùng verīpuggala: người là kẻ thù của mình, cho đến khi đạt đến sīmāsambheda: xóa bỏ ranh giới tâm-bi.  

 

Khi hành-giả thực-hành đề-mục niệm rải tâm-bi đến hạng người verīpuggala đang bị đau khổ nhóm thứ nhất, không để cho tham-tâm đồng sinh với hỷ hài lòng phát sinh, và hạng người verīpuggala sẽ bị đau khổ nhóm thứ nhì, không để cho tâm-sân phát sinh.

 

Phương-pháp thực-hành đề-mục niệm rải tâm-bi phần lớn cũng tương tự như phương-pháp thực-hành đề-mục niệm rải tâm-từ đã trình bày, chỉ có khác nhau về đối tượng và các phần nhỏ khác mà thôi.

 

Hạng Người Cần Phải Niệm Rải Tâm-Bi Trước Tiên

 

Muốn thực-hành đề-mục niệm rải tâm-bi (karuṇā), để mong chứng đắc từ đệ nhất thiền sắc-giới-tâm cho đến đệ tứ thiền sắc-giới-tâm, hành-giả cần phải niệm rải tâm-bi cho chính mình trước tiên, bởi vì tâm-bi thương xót người khác dù nhiều bao nhiêu đi nữa, chắc chắn cũng không bằng tâm-bi thương xót chính mình. 

 

1- Niệm Rải Tâm-Bi Cho Mình

 

Hành-giả thực-hành đề-mục niệm rải tâm-bi cho chính mình trước tiên như sau:

 

“Ahaṃ dukkhā muccāmi.”

Mong cho tôi thoát khỏi khổ tâm khổ thân.

 

Sau khi tâm-bi phát sinh, rồi tiến triển có năng lực nhiều, hành-giả nên suy xét rằng: “Tâm-bi mong muốn giải thoát khỏi khổ đối với ta như thế nào thì tâm-bi mong muốn giải thoát khỏi khổ đối với tất cả chúng-sinh khác dù lớn dù nhỏ cũng như thế ấy.” ,

 

Đó là tâm-bi cơ bản làm nền tảng hỗ trợ cho tâm-bi có thể phát sinh lên đối với các chúng-sinh khác.

 

Cách Niệm Rải Tâm-Bi Đến Người Khác

 

* Nếu hành-giả thực-hành đề-mục niệm rải tâm-bi đến một người (số ít) thì như sau:

“So dukkhā muccatu”

Mong cho người ấy thoát khỏi khổ tâm khổ thân. 

Nếu hành-giả thực-hành đề-mục niệm rải tâm-bi đến 2 người trở lên (số nhiều) thì niệmnhư sau:

“ Te dukkhā muccantu.”

Mong cho những người ấy thoát khỏi khổ tâm khổ thân. 

 

Niệm Rải Tâm-Bi Đến 3 Hạng Người Theo Tuần Tự

 

Sau khi thực-hành đề-mục niệm rải tâm-bi cho chính mình, tâm-bi phát triển tốt, có năng lực vững vàng, hành-giả tiếp tục thực-hành niệm rải tâm-bi đến 3 hạng người theo tuần tự như sau:

 

1- Dukkhitapuggala nhóm thứ nhất và nhóm thứ nhì thuộc hạng người majjhattapuggala, 

2- Dukkhitapuggala nhóm thứ nhất và nhóm thứ nhì thuộc hạng người piyapuggala, 

3- Dukkhitapuggala nhóm thứ nhất và nhóm thứ nhì thuộc hạng người verīpuggala.

 

1- Majjhattapuggala: Hạng người không thương không ghét.

 

Hành-giả thực-hành niệm rải tâm-bi đến một người hoặc nhiều người thuộc hạng người không thương không ghét, được lặp đi lặp lại nhiều lần trở nên thuần thục, tâm-bi phát triển có nhiều năng lực. 

 

2- Piyapuggala: Hạng người đáng thương xót

 

Tiếp theo, hành-giả thực-hành niệm rải tâm-bi đến một người hoặc nhiều người thuộc hạng người đáng thương xót, được lặp đi lặp lại nhiều lần trở nên thuần thục, tâm-bi phát triển có nhiều năng lực.

 

3- Verīpuggala: Hạng người là kẻ thù

 

Tiếp theo cuối cùng, hành-giả thực-hành niệm rải tâm-bi đến một người hoặc nhiều người thuộc hạng người là kẻ thù, được lặp đi lặp lại nhiều lần trở nên thuần thục, tâm-bi phát triển có nhiều năng lực, để đạt đến sīmā-sambheda: xóa ranh giới tâm-bi, như đã trình bày trong đề-mục niệm rải tâm-từ.

Hành-giả thực-hành niệm rải tâm-bi đến hạng người nào, hạng người ấy hiện rõ trực tiếp đến thiện-tâm của hành-giả, làm cho tâm-bi phát sinh trong đối-tượng hạng người ấy. Vì vậy, phương-pháp thực-hành niệm rải tâm-bi không chỉ niệm rải tâm-bi bằng tâm, mà còn phải định-tâm niệm tưởng biết rõ đối-tượng, rồi hành-giả niệm rải tâm-bi đến hạng người ấy.

 

Cho nên, hành-giả là người có đầy đủ 5 pháp-chủ: tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ có nhiều năng lực, mới dễ dàng thực-hành đề-mục niệm rải tâm-bi này được.

 

Để cho tâm-bi phát sinh và tiến triển tốt, hành-giả cần phải theo phương-pháp thực-hành niệm rải tâm-bi cho chính mình trước tiên làm nền tảng, rồi tiếp theo thực- hành niệm rải tâm-bi theo tuần tự 3 hạng người: majjhattapuggala, piyapuggala, verīpuggala cho đến khi đạt đến sīmāsambheda: xóa bỏ ranh giới tâm-bi, khi tâm-bi đồng đều đối với 4 hạng người (chính mình và 3 hạng người theo tuần tự).

 

Niệm Rải Tâm-Bi Theo Paṭisambhidāmagga

 

Tiếp theo, hành-giả tiếp tục thực-hành niệm rải tâm-bi với 1 pháp-bi đến 12 loại chúng-sinh trong 10 phương hướng, theo phương-pháp trong bộ Paṭisambhidāmagga.

 

1 Pháp Niệm Rải Tâm-Bi

 

Sabbe sattā dukkhā muccantu

Mong cho tất cả chúng-sinh thoát khỏi khổ tâm khổ thân.

 

Hành-giả thực-hành niệm rải tâm-bi với 1 pháp-bi đến 12 loại chúng-sinh. 

12 Loại Chúng-sinh 

 
12 loại chúng-sinh được chia ra làm 2 nhóm:

A- Anodhisapuggala: Hạng chúng-sinh chung không có chỉ định, có 5 loại chúng-sinh.

 
Niệm rải tâm-bi đến 5 loại chúng-sinh:
 

1- Sabbe sattā: Tất cả chúng-sinh,

2- Sabbe paṇā: Tất cả chúng-sinh có sinh-mạng,

3- Sabbe bhūtā: Tất cả chúng-sinh hiện hữu,

4- Sabbe puggalā: Tất cả hạng chúng-sinh,

5- Sabbe attabhāvapariyāpannā: Tất cả chúng-sinh có sắc thân ngũ uẩn.

 

5 loại chúng-sinh này có danh từ riêng gọi khác nhau, nhưng ý nghĩa chung giống nhau, bởi vì tất cả đều là chúng-sinh như nhau cả.

 

 B- Odhisapuggala: Hạng chúng-sinh riêng có chỉ định, có 7 loại chúng-sinh.

Niệm rải tâm-bi đến 7 loại chúng-sinh:
 

1- Sabbā itthiyo: Tất cả nữ giới,

2- Sabbe purisā: Tất cả nam giới,

3- Sabbe ariyā: Tất cả bậc Thánh-nhân,

4- Sabbe anariyā: Tất cả hạng phàm-nhân,

5- Sabbe devā: Tất cả chư-thiên,

6- Sabbe manussā: Tất cả nhân-loại,

7- Sabbe vinipātikā: Tất cả nhóm ngạ-quỷ, a-tu-la.

 

10 Phương Hướng

 
Niệm rải tâm-từ đến chúng-sinh trong 10 phương:
 

1- Puratthimāya disāya: Hướng Đông,

2- Pacchimāya disāya: Hướng Tây,

3- Dakkhināya disāya: Hướng Nam,

4- Uttarāya disāya: Hướng Bắc,

5- Puratthimāya anudisāya: Hướng Đông Nam,

6- Pacchimāya anudisāya: Hướng Tây Bắc,

7- Dakkhināya anudisāya: Hướng Tây Nam,

8- Uttarāya anudisāya: Hướng Đông Bắc,

9- Heṭṭhimāya disāya: Hướng Dưới,

10- Uparimāya disāya: Hướng Trên.

 

Phương-pháp Thực-Hành Niệm Rải Tâm-Bi Đến 12

          Loại Chúng-sinh  
 

5 Loại Chúng-sinh (Anodhisapuggala)

 

Hành-giả thực-hành niệm rải tâm-bi theo tuần tự đến mỗi loại chúng-sinh như sau:

1- Sabbe sattā dukkhā muccantu. 

2- Sabbe paṇā dukkhā muccantu. 

3- Sabbe bhūtā dukkhā muccantu. 

4- Sabbe puggalā dukkhā muccantu. 

5- Sabbe attabhāvapariyāpannā dukkhā muccantu. 

 
7 Loại Chúng-sinh (Odhisapuggala)
 

Hành-giả thực-hành niệm rải tâm-bi theo tuần tự đến mỗi loại chúng-sinh như sau:

1- Sabbā itthiyo dukkhā muccantu.

2- Sabbe purisā dukkhā muccantu.

3- Sabbe ariyā dukkhā muccantu.

4- Sabbe anariyā dukkhā muccantu.

5- Sabbe devā dukkhā muccantu.

6- Sabbe manussā dukkhā muccantu.

7- Sabbe vinipātikā dukkhā muccantu.

 

10 Phương Hướng

 

Hành-giả thực-hành niệm rải tâm-bi đến mỗi loại chúng-sinh trong mỗi phương hướng như sau:

 

1.1- Puratthimāya disāya, sabbe sattā dukkhā muccantu.

 

Mong cho tất cả chúng-sinh trong hướng Đông, thoát khỏi khổ tâm khổ thân.  

 

1.2-10- Puratthimāya disāya, sabbe paṇā,… sabbe bhūtā,… sabbe puggalā,… sabbe attabhāvapariyāpannā, … sabbā itthiyo, … sabbe purisā, … sabbe ariyā, … sabbe anariyā,… sabbe devā,… sabbe manussā,… sabbe vinipātikā dukkhā muccantu. 

 
2.1- Pacchimāya disāya, sabbe sattā dukkhā muccantu.
 

Mong cho tất cả chúng-sinh trong hướng Tây, thoát khỏi khổ tâm khổ thân.   

 

2.2-10- Pacchimāya disāya, sabbe paṇā,… sabbe bhūtā,… sabbe puggalā,… sabbe attabhāvapariyāpannā,

… sabbā itthiyo, … sabbe purisā, … sabbe ariyā, … sabbe anariyā,… sabbe devā,… sabbe manussā,… sabbe vinipātikā dukkhā muccantu.  

 
3.1- Dakkhināya disāya, sabbe sattā dukkhā muccantu.     
 

Mong cho tất cả chúng-sinh trong hướng Nam, thoát khỏi khổ tâm khổ thân.      

 

3.2-10- Dakkhināya disāya, sabbe paṇā,….sabbe bhūtā,… sabbe puggalā,… sabbe attabhāvapariyāpannā, … sabbā itthiyo, … sabbe purisā, … sabbe ariyā, … sabbe anariyā,… sabbe devā,… sabbe manussā,… sabbe vinipātikā dukkhā muccantu.

 

4.1- Uttarāya disāya, sabbe sattā dukkhā muccantu. 

 

Mong cho tất cả chúng-sinh trong hướng Bắc, thoát khỏi khổ tâm khổ thân.   

 

4.2-10- Uttarāya disāya, sabbe paṇā,… sabbe bhūtā,… sabbe puggalā,… sabbe attabhāvapariyāpannā, … sabbā itthiyo, … sabbe purisā, … sabbe ariyā, … sabbe anariyā,… sabbe devā,… sabbe manussā,… sabbe vinipātikā dukkhā muccantu.

 

5.1- Puratthimāya anudisāya, sabbe sattā dukkhā muccantu.

 

Mong cho tất cả chúng-sinh trong hướng Đông Nam, thoát khỏi khổ tâm khổ thân.    

 

5.2-10- Puratthimāya anudisāya, sabbe paṇā,… sabbe bhūtā,… sabbe puggalā,… sabbe attabhāva-pariyāpannā, … sabbā itthiyo, … sabbe purisā, … sabbe ariyā,… sabbe anariyā,… sabbe devā,… sabbe manussā,… sabbe vinipātikā dukkhā muccantu.

 

 6.1- Pacchimāya anudisāya, sabbe sattā dukkhā muccantu.

 

Mong cho tất cả chúng-sinh trong hướng Tây Bắc, thoát khỏi khổ tâm khổ thân.       

 

6.2-10- Pacchimāya anudisāya, sabbe paṇā,… sabbe bhūtā,… sabbe puggalā,… sabbe attabhāvapariyāpannā, … sabbā itthiyo, … sabbe purisā, … sabbe ariyā, … sabbe anariyā,… sabbe devā,… sabbe manussā,… sabbe vinipātikā dukkhā muccantu.

 

7.1- Dakkhināya anudisāya, sabbe sattā dukkhā muccantu.

 

Mong cho tất cả chúng-sinh trong hướng Tây Nam, thoát khỏi khổ tâm khổ thân. 

 

7.2-10- Dakkhināya anudisāya, sabbe paṇā,… sabbe bhūtā,… sabbe puggalā,… sabbe attabhāvapariyāpannā, … sabbā itthiyo, … sabbe purisā, … sabbe ariyā, … sabbe anariyā,… sabbe devā,… sabbe manussā,… sabbe vinipātikā dukkhā muccantu. 

 
8.1- Uttarāya anudisāya, sabbe sattā dukkhā muccantu. 
 

Mong cho tất cả chúng-sinh trong hướng Đông Bắc, thoát khỏi khổ tâm khổ thân.

8.2-10- Uttarāya anudisāya, sabbe paṇā,… sabbe bhūtā,… sabbe puggalā,… sabbe attabhāvapariyāpannā, … sabbā itthiyo, … sabbe purisā, … sabbe ariyā, … sabbe anariyā,… sabbe devā,… sabbe manussā,… sabbe vinipātikā dukkhā muccantu. 

 
9.1- Heṭṭhimāya disāya, sabbe sattā dukkhā muccantu.
 

Mong cho tất cả chúng-sinh trong hướng Dưới, thoát khỏi khổ tâm khổ thân.

 

9.2-10- Heṭṭhimāya disāya, sabbe paṇā,… sabbe bhūtā,… sabbe puggalā,… sabbe attabhāvapariyāpannā, … sabbā itthiyo, … sabbe purisā, … sabbe ariyā, … sabbe anariyā,… sabbe devā,… sabbe manussā,… sabbe vinipātikā dukkhā muccantu.  

 
10.1- Uparimāya disāya, sabbe sattā dukkhā muccantu
 

 Mong cho tất cả chúng-sinh trong hướng Trên, thoát khỏi khổ tâm khổ thân.

 

10.2-10- Uparimāya disāya, sabbe paṇā,… sabbe bhūtā,… sabbe puggalā,… sabbe attabhāvapariyāpannā, … sabbā itthiyo, … sabbe purisā, … sabbe ariyā, … sabbe anariyā,… sabbe devā,… sabbe manussā,… sabbe vinipātikā dukkhā muccantu..

 

Hành-giả niệm rải tâm-bi với 1 pháp-bi đến 12 chúng-sinh từ sabbe sattā, v.v… cho đến sabbe vinipātikā trong 10 phương hướng từ hướng Puratthimāya disāya: hướng Đông, v.v… cho đến hướng Uparimāya disāya: hướng Trên.  

 

Như vậy, niệm rải tâm-bi với 1 pháp-bi đến 12 loại chúng-sinh trong 10 phương hướng tổng cộng như sau:  

 

* Puggalavārapharaṇāmettā có 12 phương-pháp niệm rải tâm-bi với 1 pháp-bi đến 12 loại chúng-sinh. 

 

* Disāpharaṇāmetttā có 10 x 12 = 120 phương-pháp niệm rải tâm-bi với 1 pháp-bi đến 12 loại chúng-sinh trong 10 phương hướng.

 

Tổng cộng 2 phương-pháp niệm rải tâm-từ 12 + 120= 132 pharaṇāmettā phương-pháp niệm rải tâm-bi.

 

3 Loại Nimitta, 3 Loại Bhāvanā, 3 Loại Samādhi

 

Đề-mục niệm rải tâm-bi là đề-mục-thiền-định có khả năng dẫn đến chứng đắc 4 bậc thiền sắc-giới: từ đệ nhất thiền sắc-giới cho đến đệ tứ thiền sắc-giới (trừ đệ ngũ thiền sắc-giới), cho nên đề-mục niệm rải tâm-bi3 loại nimitta, 3 loại bhāvanā, 3 loại samādhi.

 

3 Loại Nimitta

 

* Khi hành-giả ban đầu thực-hành niệm rải tâm-bi cho atta: chính mình làm nền tảng, tiếp theo niệm rải tâm-bi theo tuần tự đến majjhattapuggala: hạng người không thương không ghét, piyapuggala: hạng người thương yêu, verīpuggala: hạng người là kẻ thù của mình gồm có 4 hạng người gọi là đối-tượng parikammanimitta.

 

* Khi tâm-bi của hành-giả phát triển tốt, có năng lực, trong 4 hạng người: atta, majjhattapuggala, piyapuggala,  verīpuggala, nhưng chưa đạt đến sīmāsambheda: xóa bỏ ranh giới tâm-bi, gọi là đối-tượng uggahanimitta.

 

* Khi hành-giả thực-hành niệm rải tâm-bi đến 4 hạng người: atta, majjhattapuggala, piyapuggala, verīpuggala,đãđạt đến sīmāsambheda: xóa bỏ ranh giới tâm-bi, nên tâm-bi đồng đều đối với chính mình và 3 hạng người, gọi là đối-tượng paṭibhāganimitta

 

Trong 3 loại đối-tượng nimitta ấy, đối-tượng uggaha-nimittađối-tượng paṭibhāganimitta là đối-tượng nimitta gián tiếp, bởi vì đề-mục niệm rải tâm-bi này là đề-mục-thiền-định mà hành-giả thực-hành chỉ niệm biết bằng tâm mà thôi, không thể dùng mắt để nhìn, hoặc dùng thân tiếp xúc, nên đối-tượng uggahanimittađối-tượng paṭibhāganimitta thuộc đối-tượng nimitta gián tiếp.

 

3 Loại Bhāvanā, 3 Loại Samādhi

 

* Khi hành-giả ban đầu thực-hành đề-mục niệm rải tâm-bi cho chính mình với dục-giới đại-thiện-tâm niệm rải tâm-bi rằng:

 

“Ahaṃ dukkhā muccāmi.”

 

* Niệm rải tâm-bi theo tuần tự đến hạng người majjhatta-puggala, hạng người piyapuggala, hạng người verī-puggala rằng: 

 

 “Sabbe sattā dukkhā muccantu, v.v…” Như vậy, gọi là parikammabhāvanā: tâm-hành ban đầu, định-tâm đồng sinh vớidục-giới đại-thiện-tâm ấy gọi là parikammasamādhi. 

 

* Khi hành-giả tiếp tục thực-hành niệm rải tâm-bi với dục-giới đại-thiện-tâmđối-tượng uggahanimitta và đối-tượng paṭibhāganimitta, chưa đạtđến sīmāsambheda:

xóa bỏ ranh giới tâm-bi, vẫn còn dục-giới đại-thiện-tâm, nên gọi là upacārabhāvanā: tâm-hành cận đến gần bậc thiền sắc-giới, định-tâm đồng sinh vớidục-giới đại-thiện-tâm ấy gọi là upacārasamādhi.

 

* Khi hành-giả thực-hành niệm rải tâm-bi đối-tượng paṭibhāganimitta đãđạt đến sīmāsambheda: xóa bỏ ranh giới tâm-bi, chứng đắc bậc thiền sắc-giới thiện-tâm, nên gọi là appanābhāvanā: tâm-hành chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm)định-tâm đồng sinh vớiđệ nhất thiền-sắc-giới thiện-tâm ấy gọi là appanāsamādhi.

 

* Phương pháp thực-hành để chứng đắc từ đệ nhị thiền sắc-giới cho đến đệ tứ thiền sắc-giới hầu hết giống như đề-mục-thiền-định đất pathavīkasiṇa đã trình bày phần trước.

 

Nên Biết 8 Điều Về Đề-Mục Niệm Rải Tâm-Bi 

 

Hành-giả thực-hành đề-mục niệm rải tâm-bi, nên biết 8 điều về đề-mục niệm rải tâm-bi:

 

1- Lakkhaṇa: Tâm-bi có trạng-thái biểu hiện bằng thân hành động, lời nói, ý nghĩ cứu giúp chúng-sinh thoát khỏi khổ thân, khổ tâm.

 

2- Rasa: Tâm-bi có phận sự cứu giúp chúng-sinh thoát khỏi cảnh khổ.

 

3- Paccupaṭṭhāna: Sự hiện hữu của tâm-bi không làm khổ chúng-sinh.

 

4- Padaṭṭhāna: Xét thấy chúng-sinh đang rơi vào trong cảnh khổ không nơi nương tựa.

 

5- Sampatti: Sự thành tựu của tâm-bi là sự lắng dịu được tâm sân làm khổ chúng-sinh. 

 

6- Vippatti: Sự thất bại của tâm-bi là sự phát sinh tâm sầu não.

 

7- Āsannapaccatthika: Thù nghịch gần của tâm-bi liên hệ đến gia đình.

 

8- Dūrapaccatthika: Thù nghịch xa của tâm-bi là làm khổ chúng-sinh.

 

Quả Báu Của Đề-Mục Niệm Rải Tâm-Bi

 

Đề-mục niệm rải tâm-bi có 11 quả báu tương tự như 11 quả báu của đề-mục niệm rải tâm-từ.

 
                  (Xong đề-mục niệm rải tâm-bi)
 
 4-3 Đề-Mục Niệm Rải Tâm-Hỷ (Muditā)
 

Đề-mục niệm rải tâm-hỷ là đề-mục-thiền-định chỉ có khả năng dẫn đến chứng đắc từ đệ nhất thiền sắc-giới cho đến đệ tứ thiền sắc-giới mà thôi, bởi vì đề-mục-thiền-định niệm rải tâm-hỷ cần có chi thiền lạc (sukha), nên không có thể chứng đắc đệ ngũ thiền sắc-giới.

 

Muditā: Tâm-hỷ vui mừng sự an-lạc của chúng-sinh.

 
Định nghĩa:
 

“Taṃ samaṅgino modanti etāyā’ti muditā”

 

Bậc thiện-trí phát sinh thiện-tâm hoan hỷ vui mừng sự an-lạc sung túc của chúng-sinh, gọi là muditā: tâm-hỷ, có chi pháp là muditācetasika: hỷ tâm-sở đồng sinh với thiện-tâm có đối-tượng sukhitasattapaññatti: chúng-sinh an-lạc.

 
 Muditā: Tâm-hỷ có 2 loại:
 

1- Tâm-hỷ thật vô lượng,

2- Tâm-hỷ giả.

 

Tâm-hỷ thật vô-lượng như thế nào?

 

 Tâm-hỷ thật vô-lượng là thiện-tâm hoan hỷ vui mừng đối với chúng-sinh đang hưởng mọi sự an-lạc sung túc, hoặc chúng-sinh sẽ được mọi sự an-lạc sung túc trong thời vị-lai, hành-giả phát sinh thiện-tâm không chấp nhất, không khoe khoang, chỉ có đại-thiện-tâm đồng sinh với hỷ trong sáng mà thôi.

 
Đó là trạng-thái của tâm-hỷ thật vô-lượng (muditā appamaññā).
 

Tâm-hỷ giả như thế nào?

 

Tâm-hỷ giả là thiện-tâm vui mừng hoan hỷ đối với chúng-sinh đang hưởng mọi sự an-lạc sung túc, hoặc chúng-sinh sẽ được mọi sự an-lạc trong thời vị-lai, có tham-tâm hoan hỷ chấp nhất, muốn được hãnh diện đối với mọi người.  

 

Tâm-hỷ giả phát sinh do thấy, biết tin cha mẹ, anh em được chức trọng quyền cao, được giàu sang phú quý, hoặc con trai, con gái học hành giỏi, thi đậu bằng cấp cao, v.v… chấp nhất, khoe khoang rằng: “Người ấy là cha của tôi, mẹ của tôi, con của tôi,…” 

 
Đó là trạng-thái của tâm-hỷ giả.
 
Hành-giả thực-hành đề-mục niệm rải tâm-hỷ thật vô-lượng có đối-tượng sukhitapuggala: người đang hưởng sự an-lạc có2 nhóm:
 

1- Người đang hưởng mọi sự an-lạc, hoặc sẽ được mọi an-lạc trong thời vị-lai.

 

2- Người đã từng hưởng mọi sự an-lạc trong quá-khứ. Trong hiện-tại, nếu người ấy đang gặp phải sự thiệt hại thì hành-giả nên nghĩ về quá-khứ của người ấy.

 

Hành-giả thực-hành đề-mục niệm rải tâm-hỷ, nếu không gặp đối-tượng sukhitapuggala, người đang hưởng mọi sự an-lạc nhóm thứ nhất thì thực-hành niệm rải tâm-hỷ đến đối-tượng sukhitapuggala, người đã từng hưởng mọi sự an-lạc nhóm thứ nhì cũng được.

 

Hành-giả nên suy xét rằng: “Hiện-tại, tuy người ấy đang gặp phải sự thiệt hại, nhưng trong quá-khứ, người ấy đã từng là người có chức trọng quyền cao, giàu sang phú quý, đã từng hưởng mọi sự an-lạc trong đời.”

 

Phương-pháp Thực-Hành Đề-Mục Niệm Rải Tâm-hỷ

 

Hành-giả thực-hành đề-mục niệm rải tâm-hỷ đến các hạng người theo tuần tự như sau:

 

1- Thực-hành niệm rải tâm-hỷ đến chính mình,

2- Sukhitapuggala nhóm thứ nhất và nhóm thứ nhì thuộc hạng người atipiyapuggala, 

3- Sukhitapuggala nhóm thứ nhất và nhóm thứ nhì thuộc hạng người piyapuggala, 

4- Sukhitapuggala nhóm thứ nhất và nhóm thứ nhì thuộc hạng người majjhattapuggala,

5- Sukhitapuggala nhóm thứ nhất và nhóm thứ nhì thuộc hạng người verīpuggala. 

 

Hành-giả không nên niệm rải tâm-hỷ đến người khác phái với mình và người chết.

 

Hành-giả ban đầu thực-hành đề-mục niệm rải tâm-hỷ cho chính mình trước tiên, bởi vì mình hiện-tại là người đang hưởng sự an-lạc.

 

Sau khi thực-hành niệm rải tâm-hỷ cho chính mình, tâm-hỷ phát sinh, rồi tiến triển tốt, có nhiều năng lực,

 

* Tiếp theo hành-giả thực-hành đề-mục niệm rải tâm-hỷ đến hạng người atipiyapuggala: người thương yêu nhiều, tâm-hỷ thật dễ dàng phát sinh, rồi tiến triển tốt, có nhiều năng lực.

 

* Tiếp theo, hành-giả thực-hành đề-mục niệm rải tâm-hỷ đến hạng người piyapuggala: người thương yêu, tâm-hỷ thật phát sinh, rồi tiến triển tốt, có nhiều năng lực.

 

* Tiếp theo, hành-giả thực-hành đề-mục niệm rải tâm-hỷ đến hạng người majjhattapuggala: người không thương không ghét, tâm-hỷ thật phát sinh, rồi tiến triển tốt, có nhiều năng lực.

 

* Tiếp theo cuối cùng, hành-giả thực-hành đề-mục niệm rải tâm-hỷ đến hạng người verīpuggala: người là kẻ thù của mình, để cho tâm-hỷ thật phát sinh, rồi tiến triển tốt, có nhiều năng lực. 

 

Vì vậy, hành-giả cần phải thực-hành đề-mục niệm rải tâm-hỷ theo tuần tự 4 hạng người: atipiyapuggala, piyapuggala, majjhattapuggala, vàcuối cùngđến hạng người verīpuggala: người là kẻ thù của mình, đểđạt đến sīmāsambheda: xóa bỏ ranh giới tâm-hỷ, giốngnhư đã trình bày trong đề-mục niệm rải tâm-từ.

 

Khi hành-giả thực-hành đề-mục niệm rải tâm-hỷ đến hạng người verīpuggala đang hưởng sự an-lạc nhóm thứ nhất, không để cho tâm-sân phát sinh, và hạng người verīpuggala đã từng hưởng sự an-lạc nhóm thứ nhì, không để cho tâm ganh tỵ phát sinh.

 

Phương-pháp thực-hành đề-mục niệm rải tâm-hỷ phần lớn cũng tương tự như phương-pháp thực-hành đề-mục niệm rải tâm-từ đã trình bày, chỉ có khác về đối-tượng và các phần nhỏ mà thôi.

 

Hạng Người Cần Phải Niệm Rải Tâm-Hỷ Trước Tiên

 

Muốn thực-hành đề-mục niệm rải tâm-hỷ (muditā), để mong chứng đắc từ đệ nhất thiền sắc-giới cho đến đệ tứ thiền sắc-giới, hành-giả cần phải niệm rải tâm-hỷ cho chính mình trước tiên, bởi vì tâm-hỷ vui mừng người khác dù nhiều bao nhiêu đi nữa, chắc chắn cũng không bằng tâm-hỷ vui mừng chính mình.

 

1- Niệm Rải Tâm-Hỷ Cho Mình

 

Hành-giả thực-hành đề-mục niệm rải tâm-hỷ cho chính mình trước tiên như sau:

 

“Ahaṃ yathā laddhasampattito mā vigacchāmi.”

Mong cho tôi đừng mất đi sự an-lạc, sự tiến hóa đã có được. 

 

Sau khi tâm-hỷ phát sinh, rồi tiến triển có nhiều năng lực, hành-giả suy xét rằng: “Tâm-hỷ mong muốn đừng mất đi sự an-lạc, sự tiến hóa mà đã có được, đối với ta như thế nào, thì tâm hỷ mong muốn đừng mất đi sự an-lạc, sự tiến hóa đối với tất cả chúng-sinh khác dù lớn dù nhỏ cũng như thế ấy.”

 

Đó là tâm-hỷ cơ bản của mình làm nền tảng hỗ trợ cho tâm-hỷ phát sinh lên đối với các chúng-sinh khác.

 

Cách Niệm Rải Tâm-Hỷ 

 

* Nếu hành-giả thực-hành đề-mục niệm rải tâm-hỷ đến một người (số ít) thì như sau:

 

“Yathā laddhasampattito mā vigacchatu.” 

Mong cho người ấy đừng mất đi sự an-lạc, sự tiến hóa đã có được. 

 

* Nếu hành-giả thực-hành đề-mục niệm rải tâm-hỷ đến 2 người trở lên (số nhiều) thì như sau:

 
 “Yathā laddhasampattito mā vigacchantu.” 

Mong cho những người ấy đừng mất đi sự an-lạc, sự tiến hóa đã có được.

 

Niệm Rải Tâm-Hỷ Đến 4 Hạng Người Theo Tuần Tự

 

Sau khi thực-hành đề-mục niệm rải tâm-hỷ cho atta: chính mình, tâm-hỷ phát triển tốt, có năng lực vững vàng, hành-giả có thể tiếp tục thực-hành niệm rải tâm-hỷ đến 4 hạng người theo tuần tự như sau:

 

1- Sukhitapuggala nhóm thứ nhất và nhóm thứ nhì thuộc hạng người atipiyapuggala, 

2- Sukhitapuggala nhóm thứ nhất và nhóm thứ nhì thuộc hạng người piyapuggala, 

3- Sukhitapuggala nhóm thứ nhất và nhóm thứ nhì thuộc hạng người majjhattapuggala,

4- Sukhitapuggala nhóm thứ nhất và nhóm thứ nhì thuộc hạng người verīpuggala. 

 

1- Atipiyapuggala: Hạng người thương yêu nhiều: 

 

Hành-giả thực-hành niệm rải tâm-hỷ đến một người hoặc nhiều người thuộc hạng người thương yêu nhiều như vậy, được lặp đi lặp lại nhiều lần trở nên thuần thục, tâm-hỷ phát triển có nhiều năng lực.

 

2- Piyapuggala: Hạng người thương yêu:

 

Tiếp theo hành-giả thực-hành niệm rải tâm-hỷ đến một người hoặc nhiều người thuộc hạng người thương yêu như vậy, được lặp đi lặp lại nhiều lần trở nên thuần thục, tâm-hỷ phát triển có nhiều năng lực. 

 

3- Majjhattapuggala: Hạng người không thương, không ghét:

 

Tiếp theo, hành-giả thực-hành niệm rải tâm-hỷ đến một người hoặc nhiều người thuộc hạng người không thương, không ghét như vậy, được lặp đi lặp lại nhiều lần trở nên thuần thục, tâm-hỷ phát triển có nhiều năng lực.

 

4- Verīpuggala: Hạng người là kẻ thù:

 

 Cuối cùng tiếp theo, hành-giả thực-hành niệm rải tâm-hỷ đến một người hoặc nhiều người thuộc hạng người là kẻ thù như vậy, được lặp đi lặp lại nhiều lần trở nên thuần thục, tâm-hỷ phát triển có nhiều năng lực.

 

Hành-giả thực-hành niệm rải tâm-hỷ đến hạng người nào, hạng người ấy hiện rõ trực tiếp đến thiện-tâm của hành-giả, làm cho tâm-hỷ phát sinh trong đối-tượng hạng người ấy. Vì vậy, phương-pháp thực-hành niệm rải tâm-hỷ không chỉ niệm rải tâm-hỷ bằng tâm, mà còn phải định-tâm niệm tưởng biết rõ đối-tượng, rồi hành-giả niệm rải tâm-hỷ đến hạng người ấy.

 

Cho nên, hành-giả là người có đầy đủ 5 pháp-chủ: tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ có nhiều năng lực, mới dễ dàng thực-hành đề-mục niệm rải tâm-hỷ này được.

 

Để cho tâm-hỷ phát sinh và tiến triển tốt, hành-giả cần phải theo phương-pháp thực-hành niệm rải tâm-hỷ cho chính mình trước tiên làm nền tảng, rồi tiếp theo thực-hành niệm rải tâm-hỷ theo tuần tự tới 4 hạng người: atipiyapuggala: hạng người thương yêu nhiều, piya-puggala: hạng người thương yêu, majjhattapuggala: hạng người không thương, không ghét, verīpuggala: hạng người là kẻ thù cho đến khi đạt đến sīmā-sambheda: xóa bỏ ranh giới tâm-hỷ.

 

Như vậy tâm-hỷ đồng đều đối với 5 hạng người (chính mình và 4 hạng người theo tuần tự).

 

Niệm Rải Tâm-Hỷ Theo Paṭisambhidāmagga

 

Tiếp theo, hành-giả tiếp tục thực-hành niệm rải tâm-hỷ với 1 pháp-hỷ đến 12 loại chúng-sinh trong 10 phương hướng, theo phương-pháp trong bộ Paṭisambhidāmagga.

 

1 Pháp Niệm Rải Tâm-Hỷ

 
 “Yathā laddhasampattito mā vigacchantu.” 

Mong cho tất cả chúng-sinh đừng mất đi sự an-lạc, sự tiến hóa đã có được.

 

Hành-giả thực-hành niệm rải tâm-hỷ với 1 pháp-hỷ đến 12 loại chúng-sinh. 

 

12 Loại Chúng-Sinh 

 
12 loại chúng-sinh được chia ra làm 2 nhóm:
 

A- Anodhisapuggala: Hạng chúng-sinh chung không có chỉ định, có 5 loại chúng-sinh.

 
Niệm rải tâm-hỷ đến 5 loại chúng-sinh:
 

1- Sabbe sattā: Tất cả chúng-sinh,

2- Sabbe paṇā: Tất cả chúng-sinh có sinh-mạng,

3- Sabbe bhūtā: Tất cả chúng-sinh hiện hữu,

4- Sabbe puggalā: Tất cả hạng chúng-sinh,

5- Sabbe attabhāvapariyāpannā: Tất cả chúng-sinh có sắc thân ngũ uẩn.

 

5 loại chúng-sinh này có danh từ riêng gọi khác nhau, song ý nghĩa chung giống nhau, bởi vì tất cả đều là chúng-sinh như nhau cả.

 

 B- Odhisapuggala: Hạng chúng-sinh riêng có chỉ định, có 7 loại chúng-sinh.

 
Niệm rải tâm-hỷ đến 7 loại chúng-sinh:
 

1- Sabbā itthiyo: Tất cả nữ giới,

2- Sabbe purisā: Tất cả nam giới,

3- Sabbe ariyā: Tất cả bậc Thánh-nhân,

4- Sabbe anariyā: Tất cả hạng phàm-nhân,

5- Sabbe devā: Tất cả chư-thiên,

6- Sabbe manussā: Tất cả nhân-loại,

7- Sabbe vinipātikā: Tất cả nhóm ngạ-quỷ, a-tu-la.

 

10 Phương Hướng

 
Niệm rải tâm-hỷ đến chúng-sinh trong 10 phương:
 

1- Puratthimāya disāya: Hướng Đông,

2- Pacchimāya disāya: Hướng Tây,

3- Dakkhināya disāya: Hướng Nam,

4- Uttarāya disāya: Hướng Bắc,

5- Puratthimāya anudisāya: Hướng Đông Nam,

6- Pacchimāya anudisāya: Hướng Tây Bắc,

7- Dakkhināya anudisāya: Hướng Tây Nam,

8- Uttarāya anudisāya: Hướng Đông Bắc,

9- Heṭṭhimāya disāya: Hướng Dưới,

10- Uparimāya disāya: Hướng Trên.

 

Phương-pháp Thực-Hành Niệm Rải Tâm-Hỷ Đến

12 Loại Chúng-sinh  

 

5 Loại Chúng-Sinh (Anodhisapuggala)

 

Hành-giả thực-hành niệm rải tâm-hỷ theo tuần tự đến mỗi loại chúng-sinh như sau:

 

1- Sabbe sattā yathā laddhasampattito mā vigacchantu,

2- Sabbe paṇā yathā laddhasampattito mā vigacchantu.   

3- Sabbe bhūtā yathā laddhasampattito mā vigacchantu.  

4- Sabbe puggalā yathā laddhasampattito mā vigacchantu.  

5- Sabbe attabhāvapariyāpannā yathā laddha-sampattito mā vigacchantu.       

 

7 Loại Chúng-Sinh (Odhisapuggala)

 

Hành-giả thực-hành niệm rải tâm-hỷ đến mỗi loại chúng-sinh như sau:

 

1- Sabbā itthiyo yathā laddhasampattito mā vigacchantu.   

   

2- Sabbe purisā yathā laddhasampattito mā vigacchantu.   

3- Sabbe ariyā yathā laddhasampattito mā vigacchantu.

4- Sabbe anariyā yathā laddhasampattito mā vigacchantu.

5- Sabbe devā yathā laddhasampattito mā vigacchantu.

6- Sabbe manussā yathā laddhasampattito mā vigacchantu. 

7- Sabbe vinipātikā yathā laddhasampattito mā vigacchantu. 

 

10 Phương Hướng

 

Hành-giả thực-hành niệm rải tâm-hỷ đến mỗi loại chúng-sinh ở trong mỗi phương hướng như sau:

 

1.1- Puratthimāya disāya, sabbe sattā yathā laddha-sampattito mā vigacchantu. 

 

Mong cho tất cả chúng-sinh trong hướng Đông, đừng mất đi sự an-lạc, sự tiến hóa đã có được.

 

1.2-10- Puratthimāya disāya, sabbe paṇā,… sabbe bhūtā,… sabbe puggalā,… sabbe attabhāvapariyāpannā, … sabbā itthiyo, … sabbe purisā, … sabbe ariyā, … sabbe anariyā,… sabbe devā,… sabbe manussā,… sabbe vinipātikā yathā laddhasampattito mā vigacchantu.

 

2.1- Pacchimāya disāya, sabbe sattā yathā laddha-sampattito mā vigacchantu.

 

Mong cho tất cả chúng-sinh trong hướng Tây, đừng mất đi sự an-lạc, sự tiến hóa đã có được.

 

2.2-10- Pacchimāya disāya, sabbe paṇā,… sabbe bhūtā,… sabbe puggalā,… sabbe attabhāvapariyāpannā, … sabbā itthiyo, … sabbe purisā, … sabbe ariyā, … sabbe anariyā,… sabbe devā,… sabbe manussā,… sabbe vinipātikā yathā laddhasampattito mā vigacchantu.

 

3.1- Dakkhināya disāya, sabbe sattā yathā laddha-sampattito mā vigacchantu. 

 

Mong cho tất cả chúng-sinh trong hướng Nam, đừng mất đi sự an-lạc, sự tiến hóa đã có được.

 

3.2-10- Dakkhināya disāya, sabbe paṇā,… sabbe bhūtā,… sabbe puggalā,… sabbe attabhāvapariyāpannā, … sabbā itthiyo, … sabbe purisā, … sabbe ariyā, … sabbe anariyā,… sabbe devā,… sabbe manussā,… sabbe vinipātikā yathā laddhasampattito mā vigacchantu. 

 

4.1- Uttarāya disāya, sabbe sattā yathā laddhasam-pattito mā vigacchantu.   

 

Mong cho tất cả chúng-sinh trong hướng Bắc, đừng mất đi sự an-lạc, sự tiến hóa đã có được.

 

4.2-10- Uttarāya disāya, sabbe paṇā,… sabbe bhūtā,… sabbe puggalā,… sabbe attabhāvapariyāpannā, … sabbā itthiyo, … sabbe purisā, … sabbe ariyā, … sabbe anariyā,… sabbe devā,… sabbe manussā,… sabbe vinipātikā yathā laddhasampattito mā vigacchantu.

 

5.1- Puratthimāya anudisāya, sabbe sattā yathā laddhasampattito mā vigacchantu.

 Mong cho tất cả chúng-sinh trong hướng Đông Nam, đừng mất đi sự an-lạc, sự tiến hóa đã có được.

 

5.2-10- Puratthimāya anudisāya, sabbe paṇā,…sabbe bhūtā,… sabbe puggalā,… sabbe attabhāvapariyāpannā, … sabbā itthiyo, … sabbe purisā, … sabbe ariyā, … sabbe anariyā,… sabbe devā,… sabbe manussā,… sabbe vinipātikā yathā laddhasampattito mā vigacchantu.

 

6.1- Pacchimāya anudisāya, sabbe sattā yathā laddhasampattito mā vigacchantu.

Mong cho tất cả chúng-sinh trong hướng Tây Bắc, đừng mất đi sự an-lạc, sự tiến hóa đã có được.

 

6.2-10- Pacchimāya anudisāya, sabbe paṇā,… sabbe bhūtā,… sabbe puggalā,… sabbe attabhāvapariyāpannā, … sabbā itthiyo, … sabbe purisā, … sabbe ariyā, … sabbe anariyā,… sabbe devā,… sabbe manussā,… sabbe vinipātikā yathā laddhasampattito mā vigacchantu.

 

7.1-Dakkhināya anudisāya, sabbe sattā yathā laddha-sampattito mā vigacchantu. 

Mong cho tất cả chúng-sinh trong hướng Tây Nam, đừng mất đi sự an-lạc, sự tiến hóa đã có được.

 

7.2-10- Dakkhināya anudisāya, sabbe paṇā,… sabbe bhūtā,…sabbepuggalā,… sabbe attabhāvapariyāpannā, … sabbā itthiyo, … sabbe purisā, … sabbe ariyā, … sabbe anariyā,… sabbe devā,… sabbe manussā,… sabbe vinipātikā yathā laddhasampattito mā vigacchantu.

 

8.1- Uttarāya anudisāya, sabbe sattā yathā laddha-sampattito mā vigacchantu.

Mong cho tất cả chúng-sinh trong hướng Đông Bắc, đừng mất đi sự an-lạc, sự tiến hóa đã có được.

 

8.2-10- Uttarāya anudisāya, sabbe paṇā,… sabbe bhūtā,… sabbe puggalā,… sabbe attabhāvapariyāpannā, … sabbā itthiyo, … sabbe purisā, … sabbe ariyā, … sabbe anariyā,… sabbe devā,… sabbe manussā,… sabbe vinipātikā yathā laddhasampattito mā vigacchantu.

 

9.1- Heṭṭhimāya disāya, sabbe sattā yathā laddha-sampattito mā vigacchantu. 

 

Mong cho tất cả chúng-sinh trong hướng Dưới, đừng mất đi sự an-lạc, sự tiến hóa đã có được.

 

9.2-10- Heṭṭhimāya disāya, sabbe paṇā,… sabbe bhūtā,… sabbe puggalā,… sabbe attabhāvapariyāpannā, … sabbā itthiyo, … sabbe purisā, … sabbe ariyā, … sabbe anariyā,… sabbe devā,… sabbe manussā,… sabbe vinipātikā yathā laddhasampattito mā vigacchantu.

 

10.1- Uparimāya disāya, sabbe sattā yathā laddha-sampattito mā vigacchantu.

Mong cho tất cả chúng-sinh trong hướng Trên, đừng mất đi sự an-lạc, sự tiến hóa đã có được.

 

10.2-10- Uparimāya disāya, sabbe paṇā,… sabbe bhūtā,… sabbe puggalā,… sabbe attabhāvapariyāpannā, … sabbā itthiyo, … sabbe purisā, … sabbe ariyā, … sabbe anariyā,… sabbe devā,… sabbe manussā,… sabbe vinipātikā yathā laddhasampattito mā vigacchantu. 

 

Như vậy, niệm rải tâm-hỷ với 1 pháp-hỷ đến 12 loại chúng-sinh trong 10 phương hướng tổng cộng như sau:  

 

* Puggalavārapharaṇāmettā có 12 phương-pháp niệm rải tâm-hỷ với 1 pháp đến 12 loại chúng-sinh. 

 

* Disāpharaṇāmetttā có 10 x 12 = 120 phương-pháp niệm rải tâm-hỷ với 1 pháp đến 12 loại chúng-sinh trong 10 phương hướng.

Tổng cộng 2 phương-pháp niệm rải tâm-hỷ 12 + 120= 132 pharaṇāmettā phương-pháp niệm rải tâm-hỷ.

 

3 Loại Nimitta, 3 Loại Bhāvanā, 3 Loại Samādhi

 

Đề-mục niệm rải tâm-hỷ là đề-mục-thiền-định có khả năng dẫn đến chứng đắc 4 bậc thiền sắc-giới: từ đệ nhất thiền sắc-giới cho đến đệ tứ thiền sắc-giới (trừ đệ ngũ thiền sắc-giới), cho nên đề-mục niệm rải tâm-hỷ 3 loại nimitta, 3 loại bhāvanā, 3 loại samādhi.

 

3 Loại Nimitta

 

* Khi hành-giả ban đầu thực-hành niệm rải tâm-hỷ cho atta: chính mình làm nền tảng, tiếp theo niệm rải tâm-hỷ theo tuần tự đến atipiyapuggala: hạng người thương yêu nhiều, piyapuggala: hạng người thương yêu, majjhattapuggala: hạng người không thương không ghét, verīpuggala: hạng người là kẻ thù của mình gồm có 4 hạng người gọi là đối-tượng parikammanimitta.

 

* Khi tâm-hỷ của hành-giả phát triển tốt, có năng lực, trong 5 hạng người: atta, atipiyapuggala piyapuggala, majjhattapuggala, verīpuggala, nhưng chưa đạt đến sīmāsambheda: xóa bỏ ranh giới tâm-hỷ, gọi là đối-tượng uggahanimitta.

* Khi hành-giả thực-hành niệm rải tâm-hỷ đến 4 hạng người: atta, atipiyapuggala piyapuggala, majjhatta-puggala, verīpuggala, đãđạt đến sīmāsambheda: xóa bỏ ranh giới tâm-hỷ, nên tâm-hỷ đồng đều giữa mình với 4 hạng người, gọi là đối-tượng paṭibhāganimitta.

 

Trong 3 loại đối-tượng nimitta ấy, đối-tượng uggaha- nimittađối-tượng paṭibhāganimitta là đối-tượng nimitta gián tiếp, bởi vì đề-mục niệm rải tâm-hỷ này là đề-mục-thiền-định mà hành-giả thực-hành chỉ niệm biết bằng tâm mà thôi, không thể dùng mắt để nhìn, hoặc dùng thân tiếp xúc, nên đối-tượng uggahanimittađối-tượng paṭibhāganimitta thuộc đối-tượng nimitta gián tiếp.

 

3 Loại Bhāvanā, 3 loại samādhi, 

 

* Khi hành-giả ban đầu thực-hành đề-mục niệm rải tâm-hỷ cho chính mình với dục-giới đại-thiện-tâm niệm rải tâm-hỷ rằng:

“Ahaṃ yathā laddhasampattito mā vigacchāmi.”  

 

* Niệm rải tâm-hỷ theo tuần tự đến hạng người majjhatta-puggala, hạng người piyapuggala, hạng người verī-puggala rằng: 

 

“Sabbe sattā yathā laddhasampattito mā vigacchantu, v.v… ” Như vậy, gọi là parikammabhāvanā: tâm-hành ban đầu, định-tâm đồng sinh vớidục-giới đại-thiện-tâm ấy gọi là parikammasamādhi. 

 

* Khi hành-giả tiếp tục thực-hành niệm rải tâm-hỷ với dục-giới đại-thiện-tâmđối-tượng uggahanimitta và đối-tượng paṭibhāganimitta, chưa đạtđến sīmāsambheda: xóa bỏ ranh giới tâm-hỷ, vẫn còn dục-giới đại-thiện-tâm, nên gọi là upacārabhāvanā: tâm-hành cận đến gần bậc thiền sắc-giới, định-tâm đồng sinh vớidục-giới đại-thiện-tâm ấy gọi là upacārasamādhi.

 

* Khi hành-giả thực-hành niệm rải tâm-hỷ đối-tượng paṭibhāganimitta đãđạt đến sīmāsambheda: xóa bỏ ranh giới tâm-hỷ, chứng đắc bậc thiền sắc-giới thiện-tâm, nên gọi là appanābhāvanā: tâm-hành chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm  định-tâm đồng sinh với đệ nhất thiền-sắc-giới thiện-tâm ấy gọi là appanāsamādhi

 

* Phương pháp thực-hành để chứng đắc từ đệ nhị thiền sắc-giới cho đến đệ tứ thiền sắc-giới hầu hết giống như đề-mục-thiền-định đất pathavīkasiṇa đã trình bày phần trước.

 

Nên Biết 8 Điều Về Đề-Mục Niệm Rải Tâm-Hỷ

 

Hành-giả thực-hành đề-mục niệm rải tâm-hỷ, nên biết 8 điều về đề-mục niệm rải tâm-hỷ:

 

1- Lakkhaṇa: Tâm-hỷ có trạng-thái vui mừng hoan hỷ trong mọi sự an-lạc, chức trọng quyền cao, giàu sang phú quý, … của người khác.

 

2- Rasa: Tâm-hỷ có phận sự không ganh ghét với mọi sự an-lạc, chức trọng quyền cao, giàu sang phú quý của người khác. 

 

3- Paccupaṭṭhāna: Sự hiện hữu của tâm-hỷ làm tiêu diệt tâm ganh ghét.

 

4- Padaṭṭhāna: Thấy mọi sự tiến hóa, sự an-lạc của người khác là nguyên nhân gần của tâm-hỷ. 

 

5- Sampatti: Sự thành tựu của tâm-hỷ là sự lắng dịu tâm ganh ghét. 

 

6- Vippatti: Sự thất bại của tâm-hỷ là sự phát sinh tâm tham hãnh diện, kheo khoang. 

 

7- Āsannapaccatthika: Thù nghịch gần của tâm-hỷ là tâm hoan hỷ liên quan đến gia đình,

 

8- Dūrapaccatthika: Thù nghịch xa của tâm-hỷ là tâm không hài lòng thấy mọi sự tiến hóa, mọi sự an-lạc của người khác.

 

Quả Báu Của Đề-Mục Niệm Rải Tâm-Hỷ

 

Đề-mục niệm rải tâm-hỷ có 11 quả báu tương tự như 11 quả báu của đề-mục niệm rải tâm-từ.

     
                 (Xong đề-mục niệm rải tâm-hỷ)
 

4.4- Đề-Mục Niệm Rải Tâm-Xả (Upekkhā)

 

 Đề-mục niệm rải tâm-xả là đề-mục-thiền-định có khả năng đặc biệt chỉ dẫn đến chứng đắc đệ ngũ thiền sắc-giới bậc cao nhất mà thôi, bởi vì đề-mục niệm rải tâm-xả này cần có 2 chi thiềnupekkhā và ekaggatā, nên không thể chứng đắc 4 bậc thiền sắc-giới bậc thấp.

 

Như vậy, đề-mục niệm rải tâm-xả là đề-mục-thiền-định mà hành-giả không thể thực-hành ban đầu, mà chỉ có thể thực-hành đề-mục niệm rải tâm-xả này sau khi đã chứng đắc đệ tứ thiền sắc-giới với 1 trong 3 đề-mục-thiền-định là niệm rải tâm-từ, hoặc niệm rải tâm-bi, hoặc niệm rải tâm-hỷ mà thôi, bởi vì đề-mục niệm rải tâm-xả cùng có đối-tượng chúng sinh giống như 3 đề-mục niệm rải tâm từ, bi, hỷ. (chắc chắn không phải từ các đề-mục-thiền-định khác.)   

 

Upekkhā: Tâm xả trung-dung giữa tâm-từ, tâm-bi, tâm-hỷ đối với tất cả chúng-sinh. 

Định nghĩa:
 

“Averā hontū’ti ādibyāpārappahānena majjhatta-bhāvūpagamanena ca upekkhatī’ti upekkhā.”

 

Thiện-tâm nào đặt trung-dung giữa tâm-từ, tâm-bi, tâm-hỷ đối với tất cả chúng-sinh, không quan tâm đến niệm tâm-từ với “averā hontu,…,” niệm tâm-bi với “dukkhā muccantu”, niệm tâm-hỷ với “yathā laddha-sampattito mā vigacchantu”, có trạng-thái trung-dung đối với tất cả chúng-sinh.

 

Thiện-tâm ấy gọi là upekkhā: tâm-xả, có chi pháp là tattaramajjhattatācetasika: trung-dung tâm-sở đồng sinh với thiện-tâm có đối-tượng là majjhattasattapaññatti: chúng-sinh trung-dung không thương không ghét.

 
Majjhattapuggalalà đối-tượng của upekkhā tâm xả,   có 2 nhóm:
 

1- Nhóm người bình thường là những người không thương không ghét, nên có tâm trung-dung.

 

2- Nhóm người làm đối-tượng-thiền-định của đề-mục niệm rải tâm-xả đó là hạng người piyapuggala và hạng người verīpuggala mà hành-giả vẫn có tâm trung-dung đối với 2 hạng người ấy.

 
Trạng-thái trung-dung có 2 loại:
 

1- Trạng-thái trung-dung do năng lực Tuần Tự của tattara-majjhattatācetasika: trung-dung tâm-sở đồng sinh với thiện-tâm không liên quan với tâm-từ (mettā), tâm-bi (karuṇā), tâm-hỷ (muditā), có đối-tượng majjhattasattapaññatti: chúng-sinh trung-dung không thương không ghét.

 

Đó là trạng-thái của tâm xả thật.

 

2- Trạng-thái trung-dung do năng lực của si tâm-sở (mohacetasika), như khi gặp vật quý giá mà không biết vật quý giá, gặp bậc đáng tôn kính mà không biết bậc đáng tôn kính.

 

Ví dụ: Tam-Bảo là nơi đáng tôn kính, nên có đức tin trong sạch nơi Tam-Bảo mà không biết tôn kính Tam- Bảo, không có đức tin trong sạch nơi Tam-Bảo, v.v… do năng lực của tâm si-mê, nên có trạng-thái trung-dung không nhận thức được sự thật cao thượng.

 

Đó là trạng-thái của tâm xả giả, còn gọi là añāṇa upekkhā: si-mê tâm-xả.

 

Hành-giả thực-hành đề-mục niệm rải tâm-xảthật đến tất cả chúng-sinh thuộc đối-tượng majjhattapuggala: hạng người không thương không ghét.

 

Tính Chất Đặc Biệt Của Đề-Mục Niệm Rải Tâm-Xả   

 

Đề-mục niệm rải tâm-xả là đề-mục-thiền-định có những tính chất đặc biệt như sau:

 

* Đề-mục niệm rải tâm-xả có khả năng đặc biệt chỉ dẫn đến chứng đắc được đệ ngũ thiền sắc-giới bậc cao nhất mà thôi, không thể chứng đắc được 4 bậc thiền sắc-giới bậc thấp.

Cho nên, đề-mục niệm rải tâm-xả này hạn chế hành-giả và còn hạn chế đề-mục-thiền-định.

 

Hạn chế hành-giả và đề-mục-thiền-định như thế nào?

 

Hành-giả thực-hành đề-mục niệm rải tâm-xả này phải là hành-giả đã chứng đắc đầy đủ 4 bậc thiền sắc-giới bậc thấp: đệ nhất thiền sắc-giới, đệ nhị thiền sắc-giới, đệ tam thiền sắc-giới, đệ tứ thiền sắc-giới với 1 trong 3 đề-mục-thiền-định là niệm rải tâm-từ, hoặc niệm rải tâm-bi, hoặc niệm rải tâm-hỷ mà thôi, chắc chắn không phải là các đề-mục-thiền-định khác như 10 đề-mục-thiền-định kasiṇa, đề-mục-thiền-định ānāpānassati.

  

Tại sao đề-mục niệm rải tâm-xả bị hạn chế hành-giả và còn bị hạn chế đề-mục-thiền-định nữa?

 

Hành-giả thực-hành đề-mục niệm rải tâm-xả, chắc chắn phải là hành-giả đã chứng đắc đệ tứ thiền sắc-giới với 1 trong 3 đề-mục-thiền-định: niệm rải tâm-từ hoặc niệm rải tâm-bi hoặc niệm rải tâm-hỷ mà thôi, mới có thể tiếp tục thực-hành đề-mục niệm rải tâm-xả, để chứng đắc đệ ngũ thiền sắc-giới, bởi vì đề-mục niệm rải tâm-xả cùng có một loại đối-tượng chúng-sinh (sattapaññatti) với 3 đề-mục niệm rải tâm-từ, niệm rải tâm-bi, niệm rải tâm-hỷ. 

 

Thật vậy, đề-mục niệm rải tâm-xả có đối-tượng majjhattasattapaññatti, đề-mục niệm rải tâm-từ có đối-tượng piyamanāpasattapaññatti, đề-mục niệm rải tâm-bi có đối-tượng dukkhitasattapaññatti, đề-mục niệm rải tâm-hỷ có đối-tượng sukhitasattapaññatti. Đề-mục-thiền-định tứ vô-lượng-tâm này đều có đối-tượng chúng-sinh chế-định (sattapaññatti).

 

Nếu hành-giả đã chứng đắc đệ tứ thiền sắc-giới với 10 đề-mục-thiền-định kasiṇa có đối-tượng kasiṇapaññatti, hoặc đề-mục-thiền-định ānāpānassati, có đối-tượng ānāpāna-paññatti thì không thể tiếp tục thực-hành đề-mục niệm rải tâm-xả, để chứng đắc đệ ngũ thiền sắc-giới được, bởi vì đối-tượng kasiṇapaññatti, đối-tượng ānāpānapaññatti của đệ tứ thiền sắc-giới hoàn toàn khác với đối-tượng majjhattasattapaññatti của đề-mục niệm rải tâm-xả.  

Vì vậy, đề-mục niệm rải tâm-xả bị hạn chế hành-giả và bị hạn chế đối-tượng thiền-định.

 

Phận Sự Trước Khi Hành Đề-Mục Niệm Rải Tâm-Xả

 

Trước khi thực-hành đề-mục niệm rải tâm-xả này, hành-giả cần phải tập luyện 5 pháp-thuần-thục (vasī-bhāva) trong đệ tứ thiền sắc-giới trước, rồi suy xét thấy tính chất thô đệ tứ thiền sắc-giới của đề-mục niệm rải tâm-từ, hoặc niệm rải tâm-bi, hoặc niệm rải tâm-hỷ, và suy xét thấy tính chất vi tế đệ ngũ thiền sắc-giới của đề-mục niệm rải tâm-xả rằng:

Đệ tứ thiền sắc-giới của đề-mục niệm rải tâm-từ, hoặc niệm rải tâm-bi, hoặc niệm rải tâm-hỷ, có chi thiền sukha thô, và có sự thương yêu đến tất cả chúng-sinh, gần với phiền-não.

 

Đệ ngũ thiền sắc-giới của đề-mục niệm rải tâm-xảchi thiền upekkhā rất vi tế, có tâm trung-đung đối với tất cả chúng-sinh, không thương không ghét trong tất cả chúng-sinh, nên xa với phiền-não.”

 

Sau khi hành-giả suy xét thấy điều bất lợi của đệ tứ thiền sắc-giới của đề-mục niệm rải tâm-từ, hoặc niệm rải tâm-bi, hoặc niệm rải tâm-hỷ, và suy xét thấy điều lợi của đệ ngũ thiền sắc-giới của đề-mục niệm rải tâm-xả.

 

Tiếp theo, hành-giả suy xét về tử sinh luân hồi của chúng-sinh do nghiệp của mỗi chúng-sinh rằng:

 

 “Mỗi chúng-sinh được sinh ra trong đời này như thế nào là hoàn toàn do quả của nghiệp mà họ đã tạo trong kiếp quá-khứ, và sẽ tái sinh kiếp sau thuộc hạng chúng-sinh nào trong 4 loài, cõi nào trong tam giới cũng chỉ tuỳ thuộc vào quả của nghiệp mà họ đã tạo trong kiếp hiện-tại hoặc kiếp quá-khứ của họ mà thôi.

 

Chính ta cũng như vậy, ta được sinh ra trong đời này là do quả thiện-nghiệp của ta, và sẽ tái sinh kiếp sau như thế nào cũng chỉ do quả của nghiệp của ta mà thôi.

 

Như vậy, ta mong cho họ thân tâm thường được an-lạc, hoặc mong cho họ thoát khỏi khổ tâm khổ thân, đó là điều không thể làm được, bởi vì, tất cả chúng-sinh đều có nghiệp là của riêng họ, và họ thừa hưởng quả của nghiệp của họ.”

 

Phương-Pháp Thực-Hành Đề-Mục Niệm Rải Tâm-Xả

 
Hành-giả thực-hành đề-mục niệm rải tâm-xả đến các hạng người theo tuần tự như sau:
 

1- Thực-hành niệm rải tâm-xả cho chính mình,

2- Hạng người majjhattapuggala,

3- Hạng người piyapuggala,

4- Hạng người atipiyapuggala, 

5- Hạng người verīpuggala.

 

Hành-giả ban đầu thực-hành đề-mục niệm rải tâm-xả cho chính mình trước tiên, bởi vì ta có nghiệp là của riêng ta.

 

Sau khi thực-hành niệm rải tâm-xả cho chính mình, tâm xả phát sinh, rồi tiến triển tốt, có năng lực, khi ấy, tiếp theo hành-giả thực-hành đề-mục niệm rải tâm-xả đến hạng người majjhattapuggala: người không thương không ghét, tâm-xả phát sinh, rồi tiến triển tốt, có nhiều năng lực.

 

* Tiếp theo, hành-giả tiếp tục thực-hành đề-mục niệm rải tâm-xả đến hạng người piyapuggala: người thương yêu, tâm-xả phát sinh, rồi tiến triển tốt, có nhiều năng lực.

 

* Tiếp theo, hành-giả tiếp tục thực-hành đề-mục niệm rảitâm-xả đến hạng người atipiyapuggala: người thương yêu nhiều, tâm-xả phát sinh, rồi tiến triển tốt, có nhiều năng lực.

 
* Tiếp theo cuối cùng, hành-giả thực-hành đề-mục niệm rải tâm-xả đến hạng người verīpuggala: người là kẻ thù của mình, để cho tâm-xả phát sinh, rồi tiến triển tốt, có nhiều năng lực. 

Để tâm-xả phát sinh, hành-giả nên thực-hành đề-mục niệm rải tâm-xả theo tuần tự 5 hạng người: atta, majjhattapuggala, piyapuggala, atipiyapuggala, vàcuối cùngđến hạng người verīpuggala: người là kẻ thù của ta,cho đến khi đạt đến sīmāsambheda: xóa bỏ ranh giới tâm-xả, như đã trình bày trong đề-mục niệm rải tâm-từ.

 

Khi hành-giả thực-hành đề-mục niệm rải tâm-xả đến hạng người verīpuggala, không để cho tâm sân tâm ganh ghét phát sinh.

 

Phương-pháp thực-hành đề-mục niệm rải tâm-xả phần lớn cũng tương tự như phương-pháp thực-hành đề-mục niệm rải tâm-từ đã trình bày phần trước, chỉ có khác biệt về đối-tượng và phần nhỏ mà thôi.

 

Cách Thực-Hành Niệm Rải Tâm-Xả

 

Muốn thực-hành đề-mục niệm rải tâm-xả (upekkhā), để mong chứng đắc từ đệ ngũ thiền sắc-giới, hành-giả cần phải niệm rải tâm-xả cho chính mình trước tiên, bởi vì tâm-xả phát sinh với mình làm nền tảng, rồi niệm rải tâm-xả đến người khác.

 
1- Niệm Rải Tâm-Xả Cho Mình
 

Hành-giả thực-hành đề-mục niệm rải tâm-xả cho chính mình trước tiên như sau:

 
 “Ahaṃ kammassako”
 “Tôi có nghiệp là của riêng tôi.”
 

Sau khi tâm xả thật phát sinh lên với ta, rồi tiến triển có năng lực, hành-giả suy xét rằng:“Tâm xả đối với ta như thế nào, thì tâm xả đối với tất cả chúng-sinh khác dù lớn dù nhỏ cũng như thế ấy.”

 

Đó là tâm-xả cơ bản làm nền tảng hỗ trợ cho tâm-xả phát sinh lên đối với các chúng-sinh khác.

 

Cách Niệm Rải Tâm-Xả Đến Người Khác

 

* Nếu hành-giả thực-hành đề-mục niệm rải tâm-xả đến một người (số ít) thì như sau:

“So kammassako” 

“Người ấy có nghiệp là của riêng họ,”

 

 * Nếu hành-giả thực-hành đề-mục niệm rải tâm-xả đến 2 người trở lên (số nhiều) thì như sau:

 

“Te kammassakā” 

“Những người ấy có nghiệp là của riêng họ.” 

 

Niệm Rải Tâm-Xả Đến 4 Hạng Người Theo Tuần Tự

 

Sau khi thực-hành đề-mục niệm rải tâm-xả cho chính mình, tâm-xả phát triển tốt, có năng lực vững vàng, hành-giả có thể tiếp tục thực-hành niệm rải tâm-xả đến 4 hạng người theo tuần tự như sau:

 

1- Hạng người majjhattapuggala:Người không thương không ghét, 

2- Hạng người piyapuggala: Người thương yêu,        

3- Hạng người atipiyapuggala: Người thương yêu nhiều,    

4- Hạng người verīpuggala: Người là kẻ thù của mình.

 

1- Majjhattapuggala: Hạng người không thương không ghét.

 

* Tiếp theo, hành-giả tiếp tục thực-hành niệm rải tâm-xả đến một người hoặc nhiều người thuộc hạng người không thương, không ghét (majjhattapuggala) như vậy, được lặp đi lặp lại nhiều lần trở nên thuần thục, tâm-xả phát triển có nhiều năng lực.

 

2- Piyapuggala: Hạng người thương yêu

 

* Tiếp theo, hành-giả tiếp tục thực-hành niệm rải tâm-xả đến một người hoặc nhiều người thuộc hạng người thương yêu (piyapuggala) như vậy, được lặp đi lặp lại nhiều lần trở nên thuần thục, tâm-xả phát triển có nhiều năng lực. 

 

3- Atipiyapuggala: Hạng người thương yêu nhiều.

 
* Tiếp theo, hành-giả tiếp tục thực-hành niệm rải tâm-

xả đến một người hoặc nhiều người thuộc hạng người thương yêu nhiều (atipiyapuggala) như vậy, được lặp đi lặp lại nhiều lần trở nên thuần thục, tâm-xả phát triển có nhiều năng lực.

 

4- Verīpuggala: Hạng người là kẻ thù.

 

Cuối cùng tiếp theo, hành-giả tiếp tục thực-hành niệm rải tâm-xả đến một người hoặc nhiều người thuộc hạng người là kẻ thù như vậy, được lặp đi lặp lại nhiều lần trở nên thuần thục, tâm-xả phát triển có nhiều năng lực.

 

Hành-giả thực-hành niệm rải tâm-xả đến hạng người nào, hạng người ấy hiện rõ trực tiếp đến thiện-tâm của hành-giả, làm cho tâm-xả phát sinh trong đối-tượng hạng người ấy. Vì vậy, phương-pháp thực-hành niệm rải tâm-xả không chỉ niệm rải tâm-xả bằng tâm, mà còn phải định-tâm niệm tưởng biết rõ đối-tượng, rồi hành-giả niệm rải tâm-xả đến hạng người ấy.

 

Cho nên, hành-giả là người có đầy đủ 5 pháp-chủ: tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ có nhiều năng lực, mới dễ dàng thực- hành đề-mục niệm rải tâm-xả này được.

 

Để cho tâm-xả phát sinh và tiến triển tốt, hành-giả cần phải theo phương-pháp thực-hành niệm rải tâm-xả cho chính mình trước tiên làm nền tảng, rồi tiếp theo thực- hành niệm rải tâm-xả theo tuần tự đến 4 hạng người: majjhattapuggala, piyapuggala, atipiyapuggala, verī-puggala: hạng người là kẻ thù cho đến khi đạt đến sīmāsambheda: xóa bỏ ranh giới tâm-xả: khicó tâm-xả đồng đều đối với 5 hạng người (chính mình và 4 hạng người theo tuần tự).

 

Niệm Rải Tâm-Xả Theo Paṭisambhidāmagga

 

Tiếp theo, hành-giả tiếp tục thực-hành niệm rải tâm-xả với 1 pháp-xả đến 12 loại chúng-sinh trong 10 phương hướng, theo phương-pháp trong bộ Paṭisambhidāmagga.

 

1 Pháp Niệm Rải Tâm-Xả

 

 “Kammassakā”  

“Nghiệp là của riêng họ”

 
Hành-giả thực-hành niệm rải tâm-xả với 1 pháp-xả đến 12 loại chúng-sinh. 
 

12 Loại Chúng-sinh 

 
12 loại chúng-sinh được chia ra làm 2 nhóm:
 

A- Anodhisapuggala: Hạng chúng-sinh chung không có chỉ định, có 5 loại chúng-sinh.

 
Niệm rải tâm-xả đến 5 loại chúng-sinh:
 

1- Sabbe sattā: Tất cả chúng-sinh,

2- Sabbe paṇā: Tất cả chúng-sinh có sinh-mạng,

3- Sabbe bhūtā: Tất cả chúng-sinh hiện hữu,

4- Sabbe puggalā: Tất cả hạng chúng-sinh,

5- Sabbe attabhāvapariyāpannā: Tất cả chúng-sinh có sắc thân ngũ uẩn.

 

5 loại chúng-sinh này có danh từ riêng gọi khác nhau, song ý nghĩa chung giống nhau, bởi vì tất cả đều là chúng-sinh như nhau cả.

 

B- Odhisapuggala: Hạng chúng-sinh riêng có chỉ định, có 7 loại chúng-sinh.

 
Niệm rải tâm-xả đến 7 loại chúng-sinh:
 

1- Sabbā itthiyo: Tất cả nữ giới,

2- Sabbe purisā: Tất cả nam giới,

3- Sabbe ariyā: Tất cả bậc Thánh-nhân,

4- Sabbe anariyā: Tất cả hạng phàm-nhân,

5- Sabbe devā: Tất cả chư-thiên,

6- Sabbe manussā: Tất cả nhân loại,

7- Sabbe vinipātikā: Tất cả nhóm ngạ-quỷ, a-tu-la.

 

10 Phương Hướng

 
Niệm rải tâm-xả đến chúng-sinh trong 10 phương:
 

1- Puratthimāya disāya: Hướng Đông,

2- Pacchimāya disāya: Hướng Tây,

3- Dakkhināya disāya: Hướng Nam,

4- Uttarāya disāya: Hướng Bắc,

5- Puratthimāya anudisāya: Hướng Đông Nam,

6- Pacchimāya anudisāya: Hướng Tây Bắc,

7- Dakkhināya anudisāya: Hướng Tây Nam,

8- Uttarāya anudisāya: Hướng Đông Bắc,

9- Heṭṭhimāya disāya: Hướng Dưới,

10- Uparimāya disāya: Hướng Trên.

 

Phương-pháp Thực-Hành Niệm Rải Tâm-Xả Đến 12

Loại Chúng-Sinh  

 

5 Loại Chúng-Sinh (Anodhisapuggala)

 

Hành-giả thực-hành niệm rải tâm-xả đến mỗi loại chúng-sinh như sau:

 

1- Sabbe sattā kammassakā.  

2- Sabbe paṇā kammassakā.

3- Sabbe bhūtā kammassakā.

4- Sabbe puggalā kammassakā.

5- Sabbe attabhāvapariyāpannā kammassakā.

 

7 Loại Chúng-Sinh (Odhisapuggala)

 

Hành-giả thực-hành niệm rải tâm-xả đến mỗi loại chúng-sinh như sau:

 

1- Sabbā itthiyo kammassakā.

2- Sabbe purisā kammassakā.

3- Sabbe ariyā kammassakā.

4- Sabbe anariyā kammassakā.

5- Sabbe devā kammassakā. 

6- Sabbe manussā kammassakā.

7- Sabbe vinipātikā kammassakā.

 

10 Phương Hướng

 

Hành-giả thực-hành niệm rải tâm-xả đến mỗi loại chúng-sinh ở trong mỗi phương hướng như sau:

 

1.1- Puratthimāya disāya, sabbe sattā kammassakā.

 

Tất cả chúng-sinh trong hướng Đông, có nghiệp là của riêng họ.

 

1.2-10- Puratthimāya disāya, sabbe paṇā,… sabbe bhūtā,… sabbe puggalā,… sabbe attabhāvapariyāpannā, … sabbā itthiyo, … sabbe purisā, … sabbe ariyā, … sabbe anariyā,… sabbe devā,… sabbe manussā,… sabbe vinipātikā kammassakā.

 

2.1- Pacchimāya disāya, sabbe sattā kammassakā. 

 

Tất cả chúng-sinh trong hướng Tây, có nghiệp là của riêng họ.

 

2.2-10- Pacchimāya disāya, sabbe paṇā,… sabbe bhūtā,… sabbe puggalā,… sabbe attabhāvapariyāpannā, … sabbā itthiyo, … sabbe purisā, … sabbe ariyā, … sabbe anariyā,… sabbe devā,… sabbe manussā,… sabbe vinipātikā kammassakā.

 

3.1- Dakkhināya disāya, sabbe sattā kammassakā.

 

Tất cả chúng-sinh trong hướng Nam, có nghiệp là của riêng họ.

 

3.2-10- Dakkhināya disāya, sabbe paṇā,… sabbe bhūtā,… sabbe puggalā,… sabbe attabhāvapariyāpannā, … sabbā itthiyo, … sabbe purisā, … sabbe ariyā, … sabbe anariyā,… sabbe devā,… sabbe manussā,… sabbe vinipātikā kammassakā.

 

4.1- Uttarāya disāya, sabbe sattā kammassakā.

 

Tất cả chúng-sinh trong hướng Bắc, có nghiệp là của riêng họ.

 

4.2-10- Uttarāya disāya, sabbe paṇā,… sabbe bhūtā, … sabbe puggalā,… sabbe attabhāvapariyāpannā, … sabbā itthiyo, … sabbe purisā, … sabbe ariyā, … sabbe anariyā,… sabbe devā,… sabbe manussā,… sabbe vinipātikā kammassakā.

 
5.1- Puratthimāya anudisāya, sabbe sattā kammassakā.
 

Tất cả chúng-sinh trong hướng Đông Nam, có nghiệp là của riêng họ.  

 

5.2-10- Puratthimāya anudisāya, sabbe paṇā,… sabbe bhūtā,… sabbe puggalā,… sabbe attabhāvapariyāpannā, … sabbā itthiyo, … sabbe purisā, … sabbe ariyā, … sabbe anariyā,… sabbe devā,… sabbe manussā,… sabbe vinipātikā kammassakā.

 

6.1- Pacchimāya anudisāya, sabbe sattā kammassakā.

 

Tất cả chúng-sinh trong hướng Tây Bắc, có nghiệp là của riêng họ.

 

6.2-10- Pacchimāya anudisāya, sabbe paṇā,… sabbe bhūtā,… sabbe puggalā,… sabbe attabhāvapariyāpannā, … sabbā itthiyo, … sabbe purisā, … sabbe ariyā, … sabbe anariyā,… sabbe devā,… sabbe manussā,… sabbe vinipātikā kammassakā.

 

7.1- Dakkhināya anudisāya, sabbe sattā kammassakā

 

Tất cả chúng-sinh trong hướng Tây Nam, có nghiệp là của riêng họ. 

 

7.2-10- Dakkhināya anudisāya, sabbe paṇā,… sabbe bhūtā,… sabbe puggalā,… sabbe attabhāva-pariyāpannā, … sabbā itthiyo, … sabbe purisā, … sabbe ariyā, … sabbe anariyā,… sabbe devā,… sabbe manussā,… sabbe vinipātikā kammassakā.

 

8.1- Uttarāya anudisāya, sabbe sattā kammassakā.

 

Tất cả chúng-sinh trong hướng Đông Bắc, có nghiệp là của riêng họ.  

 

8.2-10- Uttarāya anudisāya, sabbe paṇā,… sabbe bhūtā,… sabbe puggalā,… sabbe attabhāvapariyāpannā, … sabbā itthiyo, … sabbe purisā, … sabbe ariyā, … sabbe anariyā,… sabbe devā,… sabbe manussā,… sabbe vinipātikā kammassakā.

 

9.1- Heṭṭhimāya disāya, sabbe sattā kammassakā.

 

Tất cả chúng-sinh trong hướng Dưới, có nghiệp là của riêng họ.

 

9.2-10- Heṭṭhimāya disāya, sabbe paṇā,… sabbe bhūtā,… sabbe puggalā,… sabbe attabhāvapariyāpannā, … sabbā itthiyo, … sabbe purisā, … sabbe ariyā, … sabbe anariyā,… sabbe devā,… sabbe manussā,… sabbe vinipātikā kammassakā.

 

10.1- Uparimāya disāya, sabbe sattā kammassakā.

Tất cả chúng-sinh trong hướng Trên, có nghiệp là của riêng họ. 

 

10.2-10- Uparimāya disāya, sabbe paṇā,… sabbe bhūtā,… sabbe puggalā,… sabbe attabhāvapariyāpannā, … sabbā itthiyo, … sabbe purisā, … sabbe ariyā, … sabbe anariyā,… sabbe devā,… sabbe manussā,… sabbe vinipātikā kammassakā.

 

Như vậy, niệm rải tâm-xả với 1 pháp-xả đến 12 loại chúng-sinh trong 10 phương hướng tổng cộng như sau:  

 

* Puggalavārapharaṇāmettā có 12 phương-pháp niệm rải tâm-xả với 1 pháp đến 12 loại chúng-sinh. 

 

* Disāpharaṇāmetttā có 10 x 12 = 120 phương-pháp niệm rải tâm-xả với 1 pháp đến 12 loại chúng-sinh trong 10 phương hướng.

 

Tổng cộng 2 phương-pháp niệm rải tâm-xả 12 + 120= 132 pharaṇāmettā phương-pháp niệm rải tâm-xả.

 

3 Loại Nimitta, 3 Loại Bhāvanā, 3 Loại Samādhi

 

Đề-mục niệm rải tâm-xả là đề-mục-thiền-định có khả năng đặc biệt chỉ dẫn đến chứng đắc đệ ngũ thiền sắc-giới mà thôi, cho nên đề-mục niệm rải tâm-xả 3 loại nimitta, 3 loại bhāvanā, 3 loại samādhi.

 

3 Loại Nimitta

 

* Khi hành-giả ban đầu thực-hành niệm rải tâm-xả cho atta: chính mình làm nền tảng, tiếp theo niệm rải tâm-xả theo tuần tự đến majjhattapuggala: hạng người không thương không ghét, piyapuggala: hạng người thương yêu, atipiyapuggala: hạng người thương yêu nhiều, cho đến cuối cùng hạng người verīpuggala: hạng người là kẻ thù của mình gồm có 5 hạng người gọi là đối-tượng parikammanimitta.

 

* Khi tâm-xả của hành-giả phát triển tốt, có năng lực, trong 5 hạng người: atta, majjhattapuggala, piyapuggala, atipiyapuggala, verīpuggala, nhưng chưa đạt đến sīmāsambheda: xóa bỏ ranh giới tâm-xả, gọi là đối-tượng uggahanimitta.

 

* Khi hành-giả thực-hành niệm rải tâm-xả đến 5 hạng người: atta, majjhattapuggala, piyapuggala, atipiya-puggala, verīpuggala, đãđạt đến sīmāsambheda: xóa bỏ ranh giới tâm-xả, nên tâm-xả đồng đều giữa mình với 4 hạng người, gọi là đối-tượng paṭibhāganimitta.

 

Trong 3 loại đối-tượng nimitta ấy, đối-tượng uggaha- nimittađối-tượng paṭibhāganimitta là đối-tượng nimitta gián tiếp, bởi vì đề-mục niệm rải tâm-xả này là đề-mục-thiền-định mà hành-giả thực-hành chỉ niệm biết bằng tâm mà thôi, không thể dùng mắt để nhìn, hoặc dùng thân tiếp xúc, nên đối-tượng uggahanimittađối-tượng paṭibhāganimitta thuộc đối-tượng nimitta gián tiếp.

 

3 Loại Bhāvanā, 3 loại samādhi, 

 

* Khi hành-giả ban đầu thực-hành đề-mục niệm rải tâm-xả cho chính mình với dục-giới đại-thiện-tâm niệm rải tâm-xả rằng:

 “Ahaṃ kammassako”    
 

* Niệm rải tâm-xả theo tuần tự đến hạng người majjhatta-puggala, hạng người piyapuggala, hạng người verī-puggala rằng: 

 

“Sabbe sattā kammassakā” v.v… Như vậy, gọi là parikammabhāvanā: tâm-hành ban đầu, định-tâm đồng sinh vớidục-giới đại-thiện-tâm ấy gọi là parikamma-samādhi. 

 

Khi hành-giả tiếp tục thực-hành niệm rải tâm-xả với dục-giới đại-thiện-tâmđối-tượng uggahanimitta và đối-tượng paṭibhāganimitta, chưa đạtđến sīmāsambheda: xóa bỏ ranh giới tâm-xả, vẫn còn dục-giới đại-thiện-tâm, nên gọi là upacārabhāvanā: tâm-hành cận đến gần bậc thiền sắc-giới, định-tâm đồng sinh vớidục-giới đại-thiện-tâm ấy gọi là upacārasamādhi.

 

* Khi hành-giả thực-hành niệm rải tâm-xả đối-tượng paṭibhāganimitta đãđạt đến sīmāsambheda: xóa bỏ ranh giới tâm-xả, chứng đắc bậc thiền sắc-giới thiện-tâm, nên gọi là appanābhāvanā: tâm-hành chứng đắc đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm định-tâm đồng sinh vớiđệ ngũ thiền-sắc-giới thiện-tâm ấy gọi là appanāsamādhi.  

 

* Phương pháp thực-hành để chứng đắc từ đệ nhị thiền sắc-giới cho đến đệ tứ thiền sắc-giới hầu hết giống như đề-mục-thiền-định đất pathavīkasiṇa đã trình bày phần trước.

 

Nên Biết 8 Điều Về Đề-Mục Niệm Rải Tâm-Xả

 

Hành-giả thực-hành đề-mục niệm rải tâm-xả, nên biết 8 điều về đề-mục niệm rải tâm-xả:

1- Lakkhaṇa: Tâm xả có trạng-thái trung-dung trong tất cả chúng-sinh.

2- Rasa: Tâm xả có phận sự thấy tất cả chúng-sinh đồng đều nhau.

3- Paccupaṭṭhāna: Sự hiện hữu của tâm xả là lắng dịu tâm thương, tâm ghét trong tất cả chúng-sinh.

4- Padaṭṭhāna: Trí-tuệ suy xét thấy tất cả chúng-sinh rằng: “Tất cả chúng-sinh có nghiệp là của riêng của họ”, sự an-lạc hoặc sự thoát khỏi khổ thân khổ tâm, hoặc đừng mất đi sự an-lạc, sự tiến hóa do tâm mong muốn của người khác, đó là điều không thể được, là nguyên nhân gần của tâm-xả.   

5- Sampatti: Sự thành tựu của tâm-xả là sự lắng dịu tâm thương và tâm ghét .

6- Vippatti: Sự thất bại của tâm-xả là sự phát sinh tâm-xả si mê do liên quan đến gia đình. 

7- Āsannapaccatthika: Thù nghịch gần của tâm-xả là tâm-xả si mê do liên quan đến gia đình,

8- Dūrapaccatthika: Thù nghịch xa của tâm-xả là tâm tham và tâm sân.

 

Tâm-Xả Vô-Lượng Khác Với Tâm-Xả Ba-La-Mật

 

* Hành-giả thực-hành niệm tâm-xả vô-lượng, đặt thiện-tâm trung-dung đối với tất cả chúng-sinh, không liên quan đến tâm-từ, tâm-bi, tâm-hỷ. 

 

* Hành-giả thực-hành pháp-hạnh tâm-xả ba-la-mật đặt thiện-tâm trung-dung với người dù đối xử tốt dù đối xử xấu với mình, hành-giả vẫn không thương người đối xử tốt, vẫn không ghét người đối xử xấu, vẫn giữ thiện-tâm trung-dung đối với hai hạng người ấy, để thực-hành pháp hạnh tâm-xả ba-la-mật.

 

Quả Báu Của Đề-Mục Niệm Rải Tâm-Xả

 

Đề-mục niệm rải tâm-xả có 11 quả báu tương tự như 11 quả báu của đề-mục niệm rải tâm-từ.     

 

                         (Xong đề-mục niệm rải tâm-xả)

 

Nhận Xét Về Tứ Vô-Lượng-Tâm

 

Tứ vô-lượng-tâm là 4 đề-mục-thiền-định: niệm rải tâm-từ (mettā), niệm rải tâm-bi (karuṇā), niệm rải tâm-hỷ (muditā), niệm rải tâm-xả (upekkhā) có khả năng dẫn đến chứng đắc các bậc thiền sắc-giới, cách thực-hành như đã trình bày ở phần trước.

Tứ vô-lượng-tâm là 4 đức tính cao thượng mà các bậc thiện-trí thực-hành trong đời sống cao thượng, bởi vì 4 đức tính cao thượng là đức-tính tâm-từ, đức-tính tâm-bi, đức-tính tâm-hỷ, đức-tính tâm-xả là thiện pháp có khả năng diệt được 4 ác-phápthù-hận (byāpāda), làm-hại (vihiṃsā), ganh-ghét (arati), tham-dục (rāga).

 

4 Ác Pháp Bị Diệt Bằng 4 Đức Tính Cao Thượng

 

* Người có ác-tâm thù-hận đối với chúng-sinh, làm cho tâm ô nhiễm, tâm thù-hận này bị diệt bằng pháp niệm rải tâm-từ mong sự an-lạc, sự tiến hoá cho mình và người, làm cho thiện-tâm trở nên trong sạch thanh tịnh.

 

* Người có ác-tâm làm-hại người (vihiṃsā), làm cho tâm ô nhiễm, tâm làm-hại này bị diệt bằng pháp niệm rải tâm-bi (karuṇā) mong cho mình và người thoát khỏi khổ tâm khổ thân, làm cho thiện-tâm trở nên trong sạch thanh tịnh.

 

* Người có ác-tâm ganh-ghét (arati) làm cho tâm ô nhiễm, tâm ganh-ghét này bị diệt bằng pháp niệm rải tâm-hỷ (muditā) mong cho mình và người đừng mất đi sự an-lạc, sự tiến hóa đã có được, làm cho thiện-tâm trở nên trong sạch thanh tịnh.

 

* Người có ác-tâm tham-dục (rāga) làm cho tâm ô nhiễm, tâm tham-dục này bị diệt bằng pháp niệm rải tâm-xả (upekkhā) đặt thiện-tâm trung-dung không thương không ghét đối với tất cả chúng-sinh, làm cho thiện-tâm trở nên trong sạch thanh tịnh.

 

Tứ Vô-Lượng-Tâm Đối Với Tất Cả Chúng-Sinh:

 

* Pháp niệm rải tâm-từ (mettā) đối-tượng piyamanāpa-puggala: người đáng yêu, đáng mến, mong sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an-lạc lâu dài đến tất cả chúng-sinh vô lượng.

 

* Pháp niệm rải tâm-bi (karuṇā) có đối-tượng duk-khitapuggala: người đang khổ, mong cho tất cả chúng-sinh vô lượng thoát khỏi khổ tâm khổ thân.

 

* Pháp niệm rải tâm-hỷ (muditā) có đối-tượng sukhitapuggala: người đang hưởng mọi an-lạc, mong cho tất cả chúng-sinh vô lượng đừng mất đi sự an-lạc, sự tiến hóa đã có được.

 

* Pháp niệm rải tâm-xả (upekkhā) có đối-tượng majjhattapuggala: người không thương không ghét, đặt thiện-tâm trung-dung không thương không ghét đối với tất cả chúng-sinh vô lượng, bởi vì mỗi chúng-sinh có nghiệp là của riêng mình.

 

Như vậy, tâm-từ, tâm-bi, tâm-hỷ, tâm-xả, mỗi tâm phát sinh đều có đối-tượng riêng biệt chúng-sinh chế-định (sattapaññatti) của mỗi tâm, cho nên 4 tâm này không thể đồng sinh với nhau được.

 

Cha Mẹ Có 4 Đức Tính Từ, Bi, Hỷ, Xả

 

Cha mẹ có 4 đức tính từ, bi, hỷ, xả đối với các con.

 

* Khi đứa con còn nhỏ dễ thương, cha mẹ có tâm-từ thương yêu nuôi dưỡng các con nên người tốt.

 

* Khi đứa con bị bệnh hoạn ốm đau, cha mẹ có tâm-bi thương xót, lo săn sóc chữa bệnh cho đứa con ấy chóng khỏi bệnh hoạn ốm đau.

 

* Khi đứa con khôn lớn nên người, học hành đỗ đạt, công thành danh toại, cha mẹ có tâm-hỷ vui mừng hoan hỷ đối với con.

 

* Nếu khi có đứa con nào bị hư hỏng, thì cha mẹ tìm mọi cách khuyên răn dạy dỗ đứa con ấy trở nên người tốt. 

 

* Nếu đứa con nào ngỗ nghịch không chịu vâng lời khuyên dạy thì cha mẹ không thể có tâm-từ, cũng không thể có tâm-bi, cũng không có tâm-hỷ đối với đứa con hư hỏng ấy, cha mẹ chỉ còn có tâm xả đối với đứa con hư hỏng ấy mà thôi, với trí-tuệ suy xét rằng: “Sabbe sattā kammassakā.” Tất cả chúng-sinh đều có nghiệp là của riêng họ.  

 

Thật ra, mỗi người con sinh ra đời là do nghiệp của nó, còn cha mẹ chỉ là nơi nương nhờ của người con mà thôi, cho nên người con trở nên tốt hoặc xấu phần lớn là do nghiệp và quả nghiệp của của nó, cha mẹ hổ trợ chỉ là phần phụ mà thôi.

 

Nếu cha mẹ có 4 đức tính từ, bi, hỷ, xả thật hiểu biết rõ như vậy thì chắc chắn cha mẹ chẳng bao giờ có khổ tâm vì con.

 

Cách Niệm Rải Tâm-Từ, Bi, Hỷ, Xả Tóm Tắt

 

Đề-mục niệm rải tâm-từ, tâm-bi, tâm-hỷ, tâm-xả tóm tắt mà hành-giả nên thực-hành hằng ngày.

 

* Cách niệm rải tâm-từ, tâm-bi, tâm-hỷ, tâm-xả tóm tắt cho chính mình trước như sau:  

 

“Ahaṃ avero homi, abyāpajjo homi, anīgho homi, sukhī attānaṃ pariharāmi, dukkhā muccāmi, yathā laddhasampattito mā vigacchāmi, kammassako.”

 

Mong cho tôi không có oan trái với tất cả chúng-sinh, không có khổ tâm, không có khổ thân, giữ gìn thân tâm thường được an-lạc; mong cho tôi thoát khỏi khổ tâm, khổ thân; mong cho tôi đừng mất đi sự an-lạc, sự tiến hóa đã có được; tôi có nghiệp là của riêng tôi.  

 

* Tiếp theo cách niệm rải tâm-từ, tâm-bi, tâm-hỷ, tâm-xả tóm tắt đến 12 loại chúng-sinh trong 10 phương hướng tóm tắt như sau:

 

“Puratthimāya disāya, puratthimāya anudisāya, dakkhināya disāya, dakkhināya anudisāya, pacchimāya disāya, pacchimāya anudisāya, uttarāya disāya, uttarāya anudisāya, puratthimāya disāya, heṭṭhimāya disāya, uparimāya disāya, sabbe sattā, sabbe paṇā, sabbe bhūtā, sabbe puggalā, sabbe attabhāva-pariyāpannā, sabbā itthiyo, sabbe purisā, sabbe ariyā, sabbe anariyā, sabbe devā, sabbe manussā, sabbe vinipātikā, averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu; dukkhā muccantu; yathā laddhasampattito mā vigacchantu; kammassakā.”

 

Mong cho tất cả chúng-sinh, tất cả chúng-sinh có sinh-mạng, tất cả chúng-sinh hiện hữu, tất cả hạng chúng-sinh, tất cả chúng-sinh có sắc thân ngũ uẩn; tất cả nữ giới, tất cả nam giới, tất cả bậc Thánh-nhân, tất cả hạng phàm-nhân, tất cả Chư-thiên, tất cả nhân-loại, tất cả nhóm ngạ-quỷ, a-tu-la, trong hướng Đông, trong hướng Đông Nam, trong hướng Nam, trong hướng Tây Nam, trong hướng Tây, trong hướng Tây Bắc, trong hướng Bắc, trong hướng Đông Bắc, trong hướng Đông, trong hướng Dưới, trong hướng Trên, không có oan trái với tất cả chúng-sinh, không có khổ tâm, không có khổ thân, giữ gìn thân tâm thường được an-lạc; mong cho thoát khỏi khổ tâm, khổ thân; mong cho đừng mất đi sự an-lạc, sự tiến hóa đã có được; họ có nghiệp là của riêng họ.  

 

Đây là cách niệm rải tâm-từ, tâm-bi, tâm-hỷ, tâm-xả tổng hợp lại chính mình và đến 12 loại chúng-sinh trong 8 phương hướng khép kín và hướng trên hướng dưới mà hành-giả nên thực-hành hằng ngày, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an-lạc lâu dài cho mình và tất cả mọi chúng-sinh cả thảy.

 

(Xong đề-mục-thiền-định tứ-vô-lượng-tâm)

 
5- Đề-Mục Vật Thực Đáng Nhờm Gớm
      (Āhārepaṭikkūlasaññā)
 

 Āhārepaṭikkūlasaññā: Suy tưởng trong vật thực phát sinh tâm nhờm gớm vật thực.

Āhārepaṭikkūlasaññā là một đề-mục-thiền-định có chi pháp là tưởng tâm-sở (saññācetasika) đồng sinh với dục-giới đại-thiện-tâm.

 

Trong bộ Visuddhimagga trình bày cách thực-hành đề-mục-thiền-định āhārepaṭikkūlasaññā, hành-giả ở nơi thanh vắngsuy tưởng trong vật thực, để phát sinh tâm ghê tởm trong vật thực có 10 cách như sau:

 

1- Gamanato: Do đi đến nơi có vật thực,

2- Pariyesanato: Do đi tìm kiếm vật thực,

3- Paribhogato: Do dùng vật thực,

4- Āsayato: Do chỗ vật thực nương nhờ,

5- Nidhānato: Do bao tử chứa đựng vật thực,

6- Aparipakkato: Do vật thực chưa tiêu hóa,

7- Paripakkato: Do vật thực đã tiêu hóa rồi,

8- Phalato: Do hiệu quả của vật thực trong cơ thể, 

9- Nissandato: Do thải trừ chất cặn bã ra khỏi cơ thể

10- Sammakkhanato: Do dính bẩn.

 
Giải thích:
 

1- Gamanato: Suy tưởng vật thực đáng nhờm gớm do đi đến nơi có vật thực:

 

* Hành-giả là tỳ-khưu, sa-di thường trú nơi thanh vắng, mỗi ngày đến giờ đi khất thực, hành-giả mặc y, mang bát đi vào xóm làng để khất thực vất vả, phải tiếp xúc với đủ hạng người, cho đủ một bữa ăn.

 

* Đối với người tại gia cần phải đi làm lụng cực nhọc vất vả mới có đầy đủ ăn đủ mặc.

 

Vậy, để có được vật thực nuôi sống hằng ngày là điều khổ cực. Thật đáng nhàm chán.

 

2- Pariyesanato: Suy tưởng vật thực đáng nhờm gớm do đi tìm kiếm vật thực:

 

* Khi đến xóm nhà, hành-giả đi khất thực xin ăn từ nhà này sang nhà khác, từ con đường này sang con đường khác, chỉ tìm kiếm vật thực cho đủ một bữa ăn trong ngày hôm ấy mà thôi. 

 

* Đối với người tại gia cần phải đi mua sắm đem về nấu nướng để có được một bữa ăn cũng vất vả không kém.

 

Vậy, tìm kiếm được vật thực nuôi sống hằng ngày là điều khổ cực. Thật đáng nhàm chán.

 

3- Paribhogato: Suy tưởng vật thực đáng tởm do dùng vật thực:

 

* Khi dùng vật thực, hành-giả bỏ vào miệng, 2 hàm răng nhai nhỏ vật thực, món ăn bị nhai nhỏ lẫn với nước bọt, thật đáng tởm, do không nhìn thấy nên nuốt vào bụng. 

 

Nếu trước khi nuốt miếng ăn ấy vào bụng, hành-giả nhả ra trên bàn tay sạch hoặc cái đĩa sạch, để nhìn thấy rõ ràng miếng ăn ấy, thì hành-giả có thể nuốt lại miếng ăn ấy vào bụng được hay không?

 
Vậy, vật thực là thật đáng ghê tởm.
 

4- Āsayato: Suy tưởng vật thực đáng nhờm gớm do xét chỗ vật thực nương nhờ:

 

Vật thực được nuốt vào bên trong, nương nhờ nước mật, nước đàm, nước mủ, máu. Nếu người nào có thứ nước nào nhiều thì vật thực trộn lẫn với nước ấy nhiều.

 
Vậy, vật thực là thật đáng nhờm gớm.
 

5- Nidhānato: Suy tưởng vật thực đáng nhờm gớm do vật thực chứa đựng trong bao tử:

 

Những món ăn được nuốt vào gọi là vật thực mới trộn lẫn với mật, đàm, mủ, máu chứa chất chung trong bao tử đầy hôi thối. Người sống bao nhiêu năm tháng, thì vật thực cũng chứa đựng bấy nhiêu, mà không hề làm sạch.

 

Vậy, vật thực mới chứa đựng trong bao tử thật đáng nhờm gớm.

 

6- Aparipakkato: Suy tưởng vật thực đáng nhờm gớm do vật thực chưa tiêu hóa:

 

Vật thực mới từ ngày hôm qua và hôm nay chứa đựng trong bao tử, chất lửa (pācakatejo) chưa kịp tiêu hóa vật thực ấy, nên có trạng-thái sình lên.

 

Vậy, vật thực mới chứa đựng trong bao tử, chưa kịp tiêu hóa thật đáng nhờm gớm.

 

7- Paripakkato: Suy tưởng vật thực đáng nhờm gớm do vật thực đã tiêu hóa rồi:

 

Vật thực mới được tiêu hóa do chất lửa trong bao tử, (pācakatejo) một phần bổ dưỡng đem nuôi cơ thể, phần thải ra biến thành phân chứa trong bọc phân, và biến thành nước tiểu chứa trong bọc nước tiểu,

 

Vậy, vật thực đã tiêu hóa rồi, phần thải ra chất cặn bã thành phân, nước tiêu thật đáng nhờm gớm.

 

8- Phalato: Suy tưởng vật thực đáng nhờm gớm do biết hiệu quả của vật thực trong cơ thể, 

 

Vật thực mới đã tiêu hóa do chất lửa trong bao tử, rồi đem lại hiệu quả cho máu, thịt, xương, tóc, lông, móng, răng, da, v.v… 

Nếu phần vật thực nào không tiêu hóa được thì sẽ sinh ra các thứ bệnh. Đó là hậu quả do vật thực.     

 

Vậy, hiệu quả của vật thực có lợi và cũng có hại, thật đáng nhờm gớm.

 

9- Nissandato: Suy tưởng vật thực đáng nhờm gớm do thải trừ các chất cặn bã ra khỏi cơ thể

 

Vật thực được nuốt vào chỉ có một đường là cửa miệng. Sau khi vật thực được tiêu hóa, phần thải trừ các chất cặn bã ra khỏi cơ thể bằng 9 môn (cửa) và lỗ chân lông như sau:

- 2 nhãn môn (mắt) là nơi chảy ra nước mắt, ghèn,

- 2 nhĩ môn (tai) là nơi chảy ra ráy tai, mủ tai,

- 2 tỷ môn (mũi) là nơi chảy ra nước mũi,

- Khẩu môn (miệng) là nơi chảy ra nước bọt, đàm,…

- Hậu môn (lỗ đít) là nơi chảy ra phân,
- Đường tiểu là nơi chảy ra nước tiểu,
- Lỗ chân lông là nơi chảy ra mồ hôi ...
 

Vật thực là những món ăn ngon hoặc dở nuốt vào miệng, sau khi vật thực đã tiêu hóa xong, rồi thải trừ chất cặn bã ra qua các môn (cửa) đều là những chất ô trọc, hôi thối, thật đáng nhờm gớm.

 

10- Sammakkhanato: Suy tưởng vật thực đáng nhờm gớm do vật thực dính bẩn:

 

Vật thực là các món ăn, khi dùng các món ăn dính bàn tay, bỏ vào miệng dính lưỡi, răng, … sau khi ăn xong, cần phải súc miệng, đánh răng bằng những thứ kem có mùi thơm, để tránh mùi hôi tanh.

 

Khi thải trừ các chất cặn bã ra khỏi cơ thể bằng 9 môn (cửa) và các lỗ chân lông toàn thân đầy hôi hám.

 

Hằng ngày, người ta cần phải tắm rửa sạch sẽ bằng những thứ nước thơm, để làm cho dễ chịu đối với chính mình và mọi người. Vật thực vốn thật là đáng nhờm gớm.

 

Nimitta, Bhāvanā Của Đề-Mục-Thiền-Định   

Āhārepaṭikkūlasaññā
 

Thực-hành đề-mục-thiền-định āhārepaṭikkūlasaññā: suy tưởng trong vật thực phát sinh tâm ghê tởm vật thực, sau khi hành-giả suy tưởng vật thực đáng nhờm gớm bằng 10 cách như đã trình bày.

 
* 3 Loại Nimitta
 

Đề-mục-thiền-định āhārepaṭikkūlasaññāđối-tượng thật-tánh kabaḷīkārāhāra: món vật-thực thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma), nên chỉ có parikam-manimitta: đối-tượng ban đầu thực-hành mà thôi, đó là các món vật thực liên quan đến saññā suy tưởng vật-thực thật đáng nhờm gớm.

 

Đề-mục-thiền-định nàykhông thể phát sinh đối-tượng uggahanimitta và đối-tượng paṭibhāganimitta.

 
 3 Loại Bhāvanā, 3 Loại Samādhi
 

Đề-mục-thiền-định āhārepaṭikkūlasaññā chỉ có 2 loại bhāvanā, 2 loại samādhiparikammabhāvanā: tâm- hành ban đầu, parikammasamādhi: sơ-định ban đầu,   upacārabhāvanā: tâm-hành cận bậc thiền, upacāra- samādhi mà thôi, không có khả năng dẫn đến appanā-bhāvanā: tâm-hành chứng đắc bậc thiền sắc-giới, appanāsamādhi: an-định trong bậc thiền sắc-giới.

 

Đề-mục-thiền-định āhārepaṭikkūlasaññā này chỉ có khả năng dẫn đạt đến upacārasamādhi: cận định mà thôi, mà không có khả năng chứng đắc appanāsamādhi: an định chứng đắc bậc thiền sắc-giới nào cả, bởi vì đề-mục-thiền-định này không có đối-tượng uggahanimitta đối-tượng paṭibhāganimitta.

 

Cho nên, hành-giả thực-hành đề-mục-thiền-định āhārepaṭikkūlasaññā này tâm vẫn còn là dục-giới đại-thiện-tâm, có dục-giới thiện-nghiệp.

 

Tính Chất Của Đề-Mục-Āhārepaṭikkūlasaññā

 

Hành-giả thực-hành đề-mục-thiền-định āhārepaṭik-kūlasaññā này có khả năng đặc biệt diệt tâm tham-ái trong vị món ăn (rasataṇhā).

 

Khi hành-giả dùng vật thực, các món ăn như thế nào?

 

Chuyện kể rằng: Hai vợ chồng ẵm đứa con nhỏ yêu quý đi lánh nạn, giữa đường trên bãi sa mạc, hết sạch lương khô đi đường, đứa con nhỏ đói khát không chịu nổi, nên bị chết, hai vợ chồng vô cùng đau khổ vì thương tiếc đứa con yêu quý.

 
Khi ấy, hai vợ chồng bàn bạc với nhau rằng:

Đứa con yêu quý đã chết, chúng ta hết sạch lương khô, khoảng đường còn xa, dù cố gắng hết sức chúng ta cũng chỉ đi được một đoạn đường nữa mà thôi, rồi chắc chắn chúng ta sẽ ngã gục chết ở phía trước, vì đói khát.

Bây giờ, đứa con yêu quý đã chết rồi, chúng ta nên dùng thịt của đứa con, để có thể tiếp tục đi khoảng đường còn lại.”

 

Sau khi bàn bạc như vậy, hai vợ chồng đành phải ăn thịt đứa con yêu quý đã chết ấy, không ham thích chút nào cả, nhưng phải ăn để duy trì sinh-mạng tiếp tục đi vượt qua khỏi sa mạc như thế nào.

 

Cũng như vậy, hành-giả thực-hành đề-mục-thiền-định āhārepaṭikkūlasaññā phát sinh trí-tuệ sáng suốt suy tưởng thấy rõ, biết rõ vật thực, các món ăn thật đáng ghê tởm, nên diệt được tâm tham-ái trong vị (rasataṇhā) của vật thực, nhưng cũng phải dùng vật thực để duy trì sinh-mạng tiếp tục thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ, mong giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài, giống như trường hợp hai vợ chồng đành phải ăn thịt đứa con yêu quý đã chết như thế ấy.

 

Hành-giả thực-hành đề-mục-thiền-định āhārepaṭik-kūlasaññā suy tưởng vật thực thật đáng ghê tởm cũng như thực-hành đề-mục-thiền-định kāyagatāsati, trí-tuệ thấy rõ, biết rõ 32 thể trọc (trược) trong thân thể, hoặc thực-hành đề-mục-thiền-định asubha tử-thi, trí-tuệ thấy rõ, biết rõ tử-thi thật đáng ghê tởm như vậy.

 

Hành-giả thực-hành đề-mục-thiền-định āhārepaṭik-kūlasaññā này, nếu chưa chứng đắc thành bậc Thánh-A-ra-hán thì sau khi chết, dục-giới thiện-nghiệp của đề-mục-thiền-định này sẽ cho quả tái sinh kiếp sau trong cõi thiện-giới là cõi người hoặc 1 trong 6 cõi trời dục-giới.  

     

 (Xong đề-mục-thiền-định āhārepaṭikkūlasaññā)

 

6- Đề-Mục Phân Tích Tứ-Đại 

    (Catudhātuvavatthāna)    
 

 Catudhātuvavatthāna: Phân tích tứ-đại trong thân thể để trí-tuệ thấy rõ, biết rõ chỉ có tứ-đại (đất, nước, lửa, gió) mà thôi, thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramattha-dhamma), không phải người, không phải người nam, người nữ, không phải chúng-sinh nào cả.

 

Catudhātuvavatthāna là một đề-mục-thiền-định, có chi pháp là paññācetasika: trí-tuệ tâm-sở đồng sinh với dục-giới đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ.

 

Hành-giả thực-hành đề-mục-thiền-định catudhātu-vavatthāna: phân tích tứ-đại trong thân thể.

Trong thân thể con người có tứ đại (catudhātu):  
 

1- Pathavīdhātu: Địa-đại là chất đất,

2- Āpodhātu: Thủy-đại là chất nước,

3- Tejodhātu: Hỏa-đại là chất lửa,

4- Vāyodhātu: Phong-đại là chất gió.

 

Tứ-đại trong thân thể con người, nếu tính theo chi tiết thì tổng cộng gồm có 42 sắc-pháp.

 

1- Pathavīdhātu: Địa-đại có 20 sắc-pháp,

2- Āpodhātu: Thủy-đại có 12 sắc-pháp,

3- Tejodhātu: Hỏa-đại có 4 sắc-pháp,

4- Vāyodhātu: Phong-đại có 6 sắc-pháp.

  

Tứ-đại: địa-đại, thuỷ-đại, hoả-đại, phong-đại này luôn luôn nương nhờ lẫn nhau, không thể tách rời nhau. Trong 4 đại này, nếu đại nào có số lượng nhiều thì gọi tên đại ấy.   

 

1- Pathavīdhātu: Địa-đại chất đất trạng-thái cứng hoặc mềm.

 

Trạng-thái cứng: Nếu địa-đại có lượng nhiều trong vật nào thì vật ấy có cảm giác cứng như xương, đá, sắt, ..

 

Trạng-thái mềm: Nếu địa-đại có lượng ít trong vật nào thì vật ấy có cảm giác mềm như da, thịt, bông gòn, …

 

Địa-đại nương nhờ nơi thủy-đại, hỏa-đại, phong-đại, cũng làm nơi nương nhờ của tất cả các sắc-pháp.  

 
Địa-đại trong thân thể có 20 thể trọc (trược) là:
 

Kesā, lomā, nakhā, dantā, taco; maṃsaṃ, nahāru, aṭṭhi, aṭṭhimiñjaṃ, vakkaṃ; hadayaṃ, yakanaṃ, kilomakaṃ, pīhakaṃ, papphāsaṃ; antaṃ, antaguṇaṃ udariraṃ, karīsaṃ, mattaluṅgaṃ.

 

Tóc, lông, móng, răng, da; thịt, gân, xương, tủy, thận; tim, gan, màng phổi, bao tử, buồng phổi; ruột già, ruột non, vật thực mới, phẩn, óc.

 

2- Āpodhātu: Thủy-đại chất nước trạng-thái chảy hoặc đông đặc:

 

Trạng-thái chảy: Nếu một vật nào có nhiều chất nước thì vật ấy có thể chảy được.

 

Khi nhìn thấy vật chảy không phải là āpodhātu: chất nước, mà chính là chất đất chảy, do chất nước làm cho chất đất ấy chảy, bởi vì sự thật chất nước không thể nhìn thấy bằng mắt, cũng không thể tiếp xúc bằng thân được.

 

Thật vậy, khi nhìn thấy lượng đất ít trong nước chảy, khi tắm rửa, thân tiếp xúc chất mềm đó là đất mềm, thân có xúc giác nóng hoặc lạnh đó là chất lửa. Còn thủy-đại, chất nước chỉ được biết bằng ý thức tâm mà thôi.

 

Nếu một vật nào có ít chất nước có nhiều chất đất thì chất nước làm cho vật ấy kết dính lại với nhau.

 

Trạng-thái đông đặc: Nếu chất nước có nhiều ở trong nhiệt độ bình thường thì chất nước chảy qua lại được, nhưng gặp nhiệt độ lạnh dưới 0.C thì chất nước ấy bị đông đặc biến thành nước đá.

 

Nếu chất nước ít ở trong chất sáp, chất chì, chất đồng, khi gặp nhiệt độ cao thì chất sáp, chất chì, chất đồng ấy chảy tan ra thành nước, khi gặp nhiệt độ thấp bình thường trở lại đông đặc như trước.

 
Thủy-đại trong thân thể có 12 thể trọc (trược) là:
 

Pittaṃ, semhaṃ, pubbo, lohitaṃ, sedo, medo; assu, vasā, khelo, singhāṇikā, lasikā, muttaṃ.

 

Mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ đặc; nước mắt, mỡ lỏng, nước miếng, nước mũi, nước nhớt, nước tiểu.

 

3- Tejodhātu:Hỏa-đại có trạng-thái nóng hoặc lạnh:

 

Hơi nóng hoặc hơi lạnh là trạng-thái của hỏa-đại (tejodhātu). Hơi nóng, hơi lạnh làm chín các món ăn, thức uống, làm cho thân thể tăng trưởng và suy giảm.

 

Tejodhātu: Hỏa-đại trong thân thể con người có 4 sắc-pháp là:  

 

1- Santappanatejo: Hỏa-đại hơi nóng làm tăng nhiệt độ trong thân thể,

2- Dahanatejo: Hỏa-đại hơi nóng làm tăng cao nhiệt độ trong thân thể.

3- Jīraṇatejo: Hỏa-đại hơi nóng làm cho thân thể trở  nên già yếu dần.

4- Pācakatejo: Hỏa-đại hơi nóng làm phận sự tiêu hóa vật thực.

 

Còn Usmātejo: Hỏa-đại hơi nóng ở trong thân thể của tất cả chúng-sinh này ghép chung vào 3 loại hỏa-đại là santappanatejo, dahanatejo, jīraṇatejo nên không kể riêng biệt.

 

4- Vāyodhātu: Phong-đại có trạng-thái căng phồng hoặc di chuyển:

 

Trạng-thái căng phồng: Chất gió trong quả bóng tròn, trong bánh xe, làm căng phồng lên.

 

Trạng-thái di chuyển: Chất gió trong thân thể làm cho thân cử động, đi, đứng, nằm, ngồi, v.v…

 

Vāyodhātu: Phong-đại trong thân thể con người có 6 pháp là:

 

1- Uddhaṅgamavāyo: Phong-đại bốc lên phía trên,

2- Adhogamavāyo: Phong-đại đẩy xuống phía dưới,

3- Kucchiṭṭhavāyo: Phong-đại ở trong bụng,

4- Koṭṭhāsayavāyo: Phong-đại ở trong ruột già,

5- Aṅgamaṅgānusārīvāyo:Phong-đại ở khắp thân thể,

6- Assāsapassāsavāyo:Phong-đại hơi thở vào,hơi thở ra.

 

 Thân thể của mỗi chúng-sinh nói chung, con người nói riêng chỉ có tứ-đại: địa-đại, thủy-đại, hỏa-đại, phong-đại đều có trạng-thái giống nhau mà thôi, song chỉ có khác nhau về hình thể thô hoặc vi tế phát sinh do nghiệp riêng của mỗi chúng-sinh ấy mà thôi.

 

Nhìn thấy thân thể của mỗi chúng-sinh mà gọi rằng:

 

“Ta, người, đàn ông, đàn bà, loài gia súc, chư-thiên, phạm-thiên, v.v…”

 

Theo sự thật chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) đó chỉ là sắc-pháp tứ-đại mà thôi, còn hình thể tứ-đại khác nhau phát sinh do nghiệp của riêng mỗi chúng-sinh ấy.

 

Thực-Hành Đề-Mục-Thiền-Định Catudhātuvavatthāna

 

Hành-giả thực-hành đề-mục-thiền-định catudhātu-vavatthāna: phân tích tứ-đại trong thân thể của mình có 2 hạng hành-giả:

 

1- Nếu hành-giả là hạng người tikkhapuggala có trí-tuệ sắc bén nhanh nhạy, khi thực-hành đề-mục catu-dhātuvavatthāna, hành-giả cótrí-tuệ sắc bén suy xét phân tích tứ-đại theo 4 dhātu: pathavīdhātu (địa-đại), āpodhātu (thủy-đại), tejodhātu (hỏa-đại), vāyodhātu (phong-đại) là sắc-pháp tứ-đại thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma), trí-tuệ thấy rõ, biết rõthật-tánh của sắc-pháp tứ-đại (địa-đai, thuỷ-đại, hoả-đại, phong-đại) là pháp-vô-ngã, nên diệt được tà-kiến thấy sai, chấp lầm rằng:

 

“Ta, người, người nam, người nữ, chúng-sinh, …”   

 

2- Nếu hành-giả là hạng người mandapuggala có trí-tuệ chậm, khi thực-hành đề-mục catudhātuvavatthāna, hành-giả có trí-tuệ suy xét phân tích tứ-đại theo 4 dhātu chi tiết gồm có 42 pháp: 

 

1- Pathavīdhātu: Địa-đại có 20 thể trọc (trược),

2- Āpodhātu: Thủy-đại có 12 thể trọc (trược),

3- Tejodhātu: Hỏa-đại có 4 sắc-pháp,

4- Vāyodhātu: Phong-đại có 6 sắc-pháp.

 

Hành-giả thực-hành đề-mục catudhātuvavatthāna suy xét phân tích tứ-đại theo chi tiết gồm có 42 sắc-pháp tứ-đại thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma), trí-tuệ thấy rõ, biết rõthật-tánh của sắc-pháp tứ-đại (địa-đai, thuỷ-đại, hoả-đại, phong-đại) là pháp-vô-ngã, nên diệt được tà-kiến thấy sai, chấp lầm rằng:

“Ta, người, người nam, người nữ, chúng-sinh, …”   

  

* Phương-Pháp Thực-Hành Tứ-Đại

 

Hành-giả là hạng người tikkhapuggala có trí-tuệ sắc bén nhanh nhạy, khi thực-hành đề-mục catudhātu-vavtthāna này, hành-giả có trí-tuệ sắc bénsuy xét phân tích tứ-đại (địa-đai, thuỷ-đại, hoả-đại, phong-đại) trong thân nàynhư sau:

 

1- Đại nào trong thân thể có trạng-thái cứng hoặc mềm, đại ấy gọi là địa-đại (pathavīdhātu).

2- Đại nào trong thân thể có trạng-thái chảy hoặc đông đặc, đại ấy gọi là thủy-đại (āpodhātu).

3- Đại nào trong thân thể có trạng-thái nóng hoặc lạnh, đại ấy gọi là hỏa-đại (tejodhātu).

4- Đại nào trong thân thể có trạng-thái căng phồng hoặc làm cho thân thể cử động, đại ấy gọi là phong-đại (vāyodhātu).

 

Trí-tuệ phân tích trong thân này, thấy rõ, biết rõ thật-tánh của tứ-đại (địa-đai, thuỷ-đại, hoả-đại, phong-đại) là sắc-pháp tứ-đại thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramattha-dhamma), sắc-pháp tứ-đại ấylà pháp-vô-ngã, không phải ta, người, người nam, người nữ, chúng-sinh, v.v…

 

Ví dụ: gọi là “Chiếc xe

 

Trong chiếc xe, nếu người ta tháo rời bánh xe, sườn xe, mui xe, v.v … , ra từng phần thì không còn gì gọi là chiếc xe nữa.

 

Cũng như vậy, nếu hành-giả có trí-tuệ sắc bén nhanh nhạy phân tích trong thân này ra thành mỗi đại thuộc về mỗi sắc-pháp có trạng-thái khác nhau, trong thân này chỉ có 4 đại mà thôi, thì không phải là ta, cũng không phải là người, cũng không phải là người nam, người nữ, chúng-sinh, v.v…, nào cả.

 

Trong Chú giải Pāḷi giải rằng: thân này ví như chiếc xe, tâm ví như người lái xe.

 

Thật ra, chiếc xe không thể chạy nhanh, chạy chậm, chạy tới, chạy lui, rẽ trái, rẽ phải được, sở dĩ chiếc xe chạy nhanh, chạy chậm, … là nhờ người lái xe.

 

Cũng như vậy, sở dĩ thân này đi, đứng, ngồi, nằm, cử động, nói năng được là do nhờ tâm điều khiển.

 
Hành-giả có trí-tuệ suy xét rằng: 
 

“Iti ayaṃ kāyo acetano abyākato suñño nissatto nijjīvo dhātusamūhoyeva, …”

 

Thân này không có tâm thức, không phải pháp thiện, ác,([5]) không phải là ta, không phải là người, không phải là chúng-sinh, không có jīva đấng thiêng liêng điều khiển, chỉ là tứ-đại hợp thành mà thôi.

 

* Phương-pháp Thực-Hành Tứ-Đại 42 Sắc-Pháp

 

 Hành-giả là hạng người mandapuggala có trí-tuệ chậm, khi thực-hành đề-mục catudhātuvavatthāna này, hành-giả có trí-tuệ suy xét phân tích tứ-đại trong thân này theo chi tiết gồm có 42 sắc-pháp:

 

1- Pathavīdhātu: Địa-đại có 20 thể trọc (trược),

2- Āpodhātu: Thủy-đại có 12 thể trọc (trược),

3- Tejodhātu: Hỏa-đại có 4 sắc-pháp,

4- Vāyodhātu: Phong-đại có 6 sắc-pháp.

 

1- Pathavīdhātu: Địa-đạicó 20 thể trọc (trược) là:

 

Kesā, lomā, nakhā, dantā, taco; maṃsaṃ, nahāru, aṭṭhi, aṭṭhimiñjaṃ, vakkaṃ; hadayaṃ, yakanaṃ, kilomakaṃ, pīhakaṃ, papphāsaṃ; antaṃ, antaguṇaṃ, udariraṃ, karīsaṃ, mattaluṅgaṃ.

(Tóc, lông, móng, răng, da; thịt, gân, xương, tủy, thận; tim, gan, màng phổi, bao tử, buồng phổi; ruột già, ruột non, vật thực mới, phẩn, óc.)

 

2- Āpodhātu : Thủy-đạicó 12 thể trọc (trược) là:

 

Pittaṃ, semhaṃ, pubbo, lohitaṃ, sedo, medo; assu, vasā, khelo, singhāṇikā, lasikā, muttaṃ.

 

(Mật, đàm, mũ, máu, mồ hôi, mỡ đặc; nước mắt, mỡ lỏng, nước miếng, nước mũi, nước nhớt, nước tiểu.)

 
 3- Tejodhātu: Hỏa-đạicó 4 pháp là: 
 

1- Santappanatejo: Hỏa-đại hơi nóng làm tăng nhiệt độ trong thân thể,

2- Dahanatejo: Hỏa-đại hơi nóng làm tăng cao nhiệt độ trong thân thể.

3- Jīraṇatejo: Hỏa-đại hơi nóng làm cho thân thể trở nên già yếu dần.

4- Pācakatejo: Hỏa-đại hơi nóng làm phận sự tiêu hóa vật thực.

 

4- Vāyodhātu: Phong-đạicó 6 loại là:

 

1- Uddhaṅgamavāyo:Phong-đại bốc lên phía trên,

2- Adhogamavāyo: Phong-đại đẩy xuống phía dưới,

3- Kucchiṭṭhavāyo: Phong-đại ở trong bụng,

4- Koṭṭhāsayavāyo: Phong-đại ở trong ruột già,

5- Aṅgamaṅgānusārīvāyo: Phong-đại ở khắp thân thể,

6- Assāsapassāsavāyo:Phong-đại hơi thở vào-hơi thở ra.

 

Suy Xét Phân Tích Tứ-Đại

 

1- Hành-giả suy xét phân tích 20 địa-đại theo tuần tự từng mỗi sắc-pháp từ kesa: tóc cho đến mattaluṅgaṃ: ócnhư sau:

 

Kesa: Tócmọc trên da đầu, không biết mình mọc trên da đầu, và da đầu cũng không biết có tóc mọc trên mình.

Tóc chỉ thuộc về địa-đại (pathavīdhātu) mà thôi, tóc có hình dáng sợi.

 

Tóc thuộc về địa-đại là nơi nương nhờ của thủy-đại, hỏa-đại, phong-đại và còn có vaṇṇa (màu sắc), gandha (mùi), rasa (vị), ojā (chất bổ) gồm có 8 sắc-pháp này gọi là avinibbhogarūpa: đó là 8 sắc-pháp không tách rời nhau được. 

 

Tuần tự lomā: lông cho đến mattaluṅgaṃ: óc thuộc về địa-đại, suy xét phân tích tương tự như kesa: tóc mỗi địa-đại gồm có 8 sắc-pháp gọi là avinibbhogarūpa: đó là 8 sắc-pháp không tách rời nhau được. 

 

2- Hành-giả suy xét phân tích 12 thủy-đại theo tuần tự từng mỗi sắc-pháp từ pittaṃ: mật cho đến muttaṃ: nước tiểu thuộc về thủy-đại, suy xét phân tích mỗi thủy-đại gồm có 8 sắc-pháp gọi là avinibbhogarūpa: đó là 8 sắc-pháp không tách rời nhau được. Suy xét phân tích tương tự như kesa: tóc vậy.

 

 3- Hành-giả suy xét phân tích 4 hỏa-đại theo tuần tự từng mỗi sắc-pháp từ santappanatejo: hỏa-đại hơi nóng làm tăng nhiệt độ trong thân thể cho đến pācakatejo: hỏa-đại hơi nóng làm phận sự tiêu hóa vật thực thuộc về hỏa-đại, suy xét phân tích mỗi hỏa-đại gồm có 8 sắc-pháp gọi là avinibbhogarūpa: đó là 8 sắc-pháp không tách rời nhau được. Suy xét phân tích tương tự như kesa: tóc vậy.

 

4- Hành-giả suy xét phân tích 6 phong-đại theo tuần tự từng mỗi sắc-pháp từ uddhaṅgamavāyo: phong-đại bốc lên phía trên cho đến assāsapassāsavāyo: phong-đại hơi thở vào, hơi thở ra thuộc về phong-đại, suy xét phân tích mỗi phong-đại gồm có 8 sắc-pháp gọi là avinib-bhogarūpa: đó là 8 sắc-pháp không tách rời nhau được. Suy xét phân tích tương tự như kesa: tóc vậy.

 

Như vậy, hành-giả suy xét phân tích trong thân gồm có 42 sắc-pháp, có 8 sắc-pháp là địa-đại (pathavī), thủy-đại (āpo), hỏa-đại (tejo), phong-đại (vāyo), màu sắc (vaṇ-ṇa), mùi (gandha), vị (rasa), chất bổ (ojā) gọi là avinibhoga-rūpa: đó là 8 sắc-pháp không tách rời nhau được.

 
Hành-giả suy xét phân tích biết 8 sắc-pháp gọi là avinibbhogarūpa như sau:
 

* Biết 3 đại là địa-đại (pathavī), hỏa-đại (tejo), phong-đại (vāyo) bằng thân-thức-tâm xúc giác cứng, mềm, nóng, lạnh, căng phồng, cử động, …

 

* Biết thủy-đại (āpo) bằng ý-thức-tâm biết,

 

* Biết màu sắc (vaṇṇa) bằng nhãn-thức-tâm thấy sắc,

 

* Biết mùi (gandha) bằng tỷ-thức-tâm ngửi mùi,

 

* Biết vị (rasa) bằng thiệt-thức-tâm nếm vị,

 

* Biết chất bổ (ojā) bằng ý-thức-tâm biết.

 

Suy Xét Phân Tích 42 Sắc-Pháp Bằng 13 Cách

 

Nếu thực-hành suy xét phân tích tứ-đại gồm có 42 sắc-pháp theo tuần tự mỗi sắc-pháp như đã trình bày, thế mà trí-tuệ vẫn chưa thấy rõ, biết rõ thật-tánh của tứ-đại thì hành-giả cần phải suy xét phân tích thêm 13 cách như sau:

 

1- Vacanatthato: Ý nghĩa của mỗi đại,

2- Kalāpato: Nhóm sắc-pháp vi tế,

3- Cuṇṇato: Tế bào vi tế,

4- Lakkhaṇādito: Trạng-thái v.v…

5- Samuṭṭhānato: Nơi phát sinh,

6- Nānattekattato:Trạng-thái riêng, trạng-thái chung,

7- Vinibbhogāvinibbhogato: Tách rời, không tách rời,

8- Sabhāgavisabhāgato: Hợp nhau, không hợp nhau,

9- Ajjhattikabāhiravisesato: Bên trong, bên ngoài,

10- Saṅgahato: Gom vào,

11- Paccayato: Làm duyên với nhau,

12- Asamannāhārato: Không biết đối-tượng,

13- Paccayavibhāgato: Phân chia nhân duyên hợp mỗi đại.

 

Giải Thích

 
1- Vacanatthato: Ý nghĩa của mỗi đại:
 

Địa-đại (Pathavīdhātu) có nghĩa là rộng lớn, thủy-đại (āpo) có nghĩa là lưu chuyển, thấm ướt, hỏa-đại (tejo) có nghĩa là nóng, lạnh, hơi ấm; phong-đại (vāyo) có nghĩa là chuyển động, căng phồng. Mỗi đại đều có thật-tánh riêng của mình.

 

Toàn thân của mình phần lớn là địa-đại, phần lưu chuyển, thấm ướt là thủy-đại, phần nóng, lạnh ấm áp là hỏa-đại, phần căng phồng, chuyển động là phong-đại.  

 
2- Kalāpato: Nhóm sắc-pháp vi tế:
 

Nhóm sắc-pháp gồm có 11 sắc-pháp: avinibbhoga-rūpa 8+kāya + bhāva+jīvitarūpa.

 

* Pācakatejo có nhóm 9 sắc-pháp: avinibbhogarūpa 8+ jīvitarūpa.

 

* Tejodhātuvāyodhātu có nhóm 8 sắc-pháp: avinibbhogarūpa có 8 sắc-pháp.

Thân này chỉ có các nhóm sắc-pháp mà thôi.
 
3- Cuṇṇato: Tế bào vi tế:
 

Thân này nếu tán nhỏ thành bột pathavīdhātu tế bào vi

tế thì có được bao nhiêu cân, sở dĩ thân này hiện hữu là nhờ có āpodhātu kết dính lại với nhau, có tejodhātu nuôi dưỡng, giữ gìn, có vāyodhātu bảo vệ thân này.

 

4- Lakkhaṇādito: Trạng-thái, phận sự, quả hiện hữu:

 
* Pathavīdhātu có trạng-thái cứng, mềm, có phận sự

làm nơi nương nhờ của 3 đại khác, tiếp nhận 3 đại khác là quả hiện hữu.

 

* Āpodhātu có trạng-thái lưu chuyển và đông đặc, có phận sự làm cho 3 đại khác phát triển, gom 3 đại khác thành hình dáng là quả hiện hữu.

 

* Tejodhātu có trạng-thái hơi ấm, nóng, lạnh, có phận sự làm cho 3 đại khác già dặn, làm cho 3 đại khác mềm mại là quả hiện hữu.

 

* Vāyodhātu có trạng-thái nâng đỡ 3 đại khác bền vững, có phận sự làm tác động 3 đại khác, làm cử động, đi lại 3 đại khác là quả hiện hữu.

 
5- Samuṭṭhānato: Nơi phát sinh sắc-pháp:
 

Sắc-pháp phát sinh do 4 pháp là kamma: nghiệp, citta: tâm, utu: thời tiết, āhāra: vật thực.

 
Sắc tứ-đại gồm có 42 sắc-pháp:
 
* Một số sắc-pháp phát sinh từ 1 trong 4 duyên: nghiệp, tâm, thời tiết, vật thực.
 
* Một số sắc-pháp phát sinh do tâm hoặc thời tiết.
 
* Một số sắc-pháp phát sinh do tâm.
 
* Một số sắc-pháp phát sinh do thời tiết.
 

 6- Nānattekattato:Trạng-thái-riêng, trạng-thái-chung:

 

Mỗi đại của sắc tứ-đại này đều có trạng-thái-riêng, phận sự, quả hiện hữu riêng biệt khác nhau.

 

Sắc tứ-đại là sắc-pháp có sự sinh, sự diệt, nên có 3 trạng-thái-chung là trạng-thái-vô-thường, trạng-thái-khổ, trạng-thái-vô-ngã giống nhau.

 

7- Vinibbhogāvinibbhogato: Phân tách được, phân tách không được:

 

 Sắc tứ-đại này chỉ có thể phân tách mỗi đại theo trạng-thái, phận sự, quả hiện hữu, nên gọi là vinibbhogarūpa.

 

Sắc tứ-đại luôn luôn liên kết với nhau, nên không thể phân tách rời được gọi là avinibbhogarūpa.

 

8- Sabhāgavisabhāgato: Hợp nhau, không hợp nhau:

 

* Pathavīdhātu với āpodhātu là 2 đại nặng hợp với nhau 

 

* Tejodhātu với vāyodhātu là 2 đại nhẹ hợp với nhau. 

 

* Pathavīdhātu và āpodhātu với tejodhātu và vāyo-dhātu là 2 nhóm đại không hợp với nhau, bởi vì, nhóm đại nặng với nhóm đại nhẹ.

 

9- Ajjhattikabāhiravisesato: Bên trong, bên ngoài:

 

* Sắc tứ-đại phát sinh bên trong thân thể của tất cả chúng-sinh và phát sinh đủ 4 duyên sinh sắc-pháp: kamma, citta, utu, āhāra thuộc về ajjhattikavisesa.  

 

* Sắc tứ-đại phát sinh bên ngoài thân thể của tất cả chúng-sinh và phát sinh chỉ có 1 duyên sinh sắc-pháp là utusamuṭṭhāna: nguồn gốc utu mà thôi, thuộc về bāhiravisesa.

 
10- Saṅgahato: Gom vào nhau:  
 

* Pathavīdhātu phát sinh do kamma thì gom vào với āpodhātu, tejodhātu, vāyodhātu cũng phát sinh do kamma.

 

* Pathavīdhātu phát sinh do citta, utu, āhāra thì gom vào với āpodhātu, tejodhātu, vāyodhātu cũng phát sinh do citta, utu, āhāra.

 
11- Paccayato: Làm duyên với nhau:
 

* Pathavīdhātu là nền tảng của 3 đại khác: āpodhātu liên kết không tách rời; tejodhātu giữ gìn; vāyodhātu giúp nâng đỡ do năng lực của các duyên như sahajāta-paccaya, aññamaññapaccaya, nissayapaccaya, v.v…

 

* Āpodhātu liên kết 3 đại khác không tách rời: pathavīdhātu làm nền tảng, tejodhātu giữ gìn; vāyodhātu giúp nâng đỡ do năng lực của các duyên như sahajāta-paccaya, aññamaññapaccaya, nissayapaccaya, v.v…

 

 * Tejodhātu làm cho 3 đại khác già dặn, mềm mại: pathavīdhātu làm nền tảng, āpodhātu liên kết không tách rời; vāyodhātu giúp nâng đỡ do năng lực của các duyên như sahajātapaccaya, aññamaññapaccaya, nissaya-paccaya, v.v…

 

* Vāyodhātu giúp nâng đỡ cho 3 đại khác: pathavī-dhātu làm nền tảng, āpodhātu liên kết không tách rời; tejodhātu giữ gìn do năng lực của các duyên như sahajāta-

paccaya, aññamaññapaccaya, nissayapaccaya, v.v.…

 

12- Asamannāhārato: Không biết đối-tượng:

 

* Pathavīdhātu không biết mình là địa-đại, và cũng không biết mình làm nền tảng cho 3 đại khác.

 

* Āpodhātu không biết mình là thủy-đại, và cũng không biết mình liên kết 3 đại khác không tách rời.

 

* Tejodhātu không biết mình là hỏa-đại, và cũng không biết mình làm cho 3 đại khác già dặn, mềm mại.

 

* Vāyodhātu không biết mình là phong-đại, và cũng không biết mình giúp nâng đỡ cho 3 đại khác.

 

Mỗi đại có tự-tánh-riêng của mình đều là pháp-vô-ngã, không phải ta, không phải người, không phải người nam, không phải người nữ, không phải chúng-sinh, v.v…

 

13- Paccayavibhāgato: Phân chia nhân duyên hợp mỗi đại:

 

Thân thể của tất cả chúng-sinh được hiện hữu đều do 4 nhân-duyên phát sinh là kamma (nghiệp), citta (tâm), utu (thời tiết), āhāra (vật thực).

 

* Một số sắc-pháp phát sinh do nghiệp (kamma) gọi là kammajarūpa, còn citta, utu, āhāra theo giúp hỗ trợ sự sinh của kammajarūpa ấy. 

 

* Một số sắc-pháp phát sinh do utu, āhāra gọi là utujarūpa, āhārajarūpa, còn kamma, citta, theo giúp hỗ trợ sự sinh của utujarūpa, āhārajarūpa ấy.

 

* Một số sắc-pháp phát sinh do citta gọi là cittajarūpa, còn kamma, utu, āhāra theo giúp hỗ trợ sự sinh của cittajarūpa ấy.

 

* Pathavīdhātu (địa-đại) phát sinh do kamma làm duyên hỗ trợ cho 3 đại khác cũng phát sinh do nghiệp với nhau do năng lực của các duyên như sahajāta-paccaya, aññamaññapaccaya, nissayapaccaya, atthi-paccaya, avigatapaccaya,… làm nền tảng cho 3 đại khác.

 

* Āpodhātu (thủy-đại) phát sinh do kamma làm duyên hỗ trợ cho 3 đại khác cũng phát sinh do nghiệp với nhau do năng lực của các duyên như sahajātapaccaya, añña-maññapaccaya, nissayapaccaya, atthipaccaya, avigata-paccaya,… liên kết không tách rời.

 

* Tejodhātu (hỏa-đại) phát sinh do kamma làm duyên hỗ trợ cho 3 đại khác cũng phát sinh do nghiệp với nhau do năng lực của các duyên như sahajātapaccaya, añña-maññapaccaya, nissayapaccaya, atthipaccaya, avigata-paccaya, … làm cho già dặn, mềm mại.

 

* Vāyodhātu (phong-đại) phát sinh do kamma làm duyên hỗ trợ cho 3 đại khác cũng phát sinh do nghiệp với nhau do năng lực của các duyên như sahajāta-paccaya, aññamaññapaccaya, nissayapaccaya, atthi-paccaya, avigatapaccaya, giúp hỗ trợ cho được vững chắc.

 

* Pathavīdhātu (địa-đại) phát sinh do citta, utu, āhāra làm duyên hỗ trợ cho 3 đại khác cũng phát sinh do citta, utu, āhāra với nhau … 

 

* Āpodhātu (thủy-đại) phát sinh do citta, utu, āhāra làm duyên hỗ trợ cho 3 đại khác cũng phát sinh do citta, utu, āhāra với nhau … 

 

* Tejodhātu (hỏa-đại) phát sinh do citta, utu, āhāra làm duyên hỗ trợ cho 3 đại khác cũng phát sinh do citta, utu, āhāra với nhau …  

 

* Vāyodhātu (phong-đại) phát sinh do citta, utu, āhāra

 làm duyên hỗ trợ cho 3 đại khác cũng phát sinh do citta, utu, āhāra với nhau do năng lực của các duyên như sahajātapaccaya, aññamaññapaccaya, nissayapaccaya, atthipaccaya, avigatapaccaya.

 

Trong sắc tứ-đại này, khi chân bước tới, bước lui, thì phong-đại với hỏa-đại làm nhân duyên của sự dở chân lên, bước tới, bước lui, và thủy-đại với địa-đại làm nhân duyên của sự thả chân xuống. 

 

Khi tay đưa lên, tay thả xuống, sắc tứ-đại cũng cử động tương tự như chân vậy.

 

Nimitta, Bhāvanā, Samādhi Và Magga, Phala

 

Đề-mục-thiền-định catudhātuvavatthāna này có đối-tượng sắc-pháp tứ-đại thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma).

 
* 3 Loại Nimitta
 

Đề-mục-thiền-định catudhātuvavatthānađối-tượng sắc-pháp tứ-đại thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramattha-dhamma), nên chỉ có parikammanimitta: đối-tượng ban đầu là tứ-đại (địa-đại, thuỷ-đại, hoả-đại, phong-đại) mà thôi.

Đề-mục-thiền-định nàykhông thể phát sinh đối-tượng uggahanimitta và đối-tượng paṭibhāganimitta.

 

3 Loại Bhāvanā, 3 Loại samādhi

 

Đề-mục-thiền-định catudhātuvavatthāna chỉ có 2 loại bhāvanāparikammabhāvanā: tâm-hành ban đầu với dục-giới đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ, định-tâm đồng sinh với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ ấy gọi là parikam-masamādhi: sơ-định trong đề-mục tứ-đại ấy, vàupacāra-bhāvanā: tâm-hành cận bậc thiền, định-tâm đồng sinh với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ ấy gọi là upacāra-samādhi: cận-định trong đề-mục tứ-đại ấy.

 

Đề-mục-thiền-định nàykhông có khả năng dẫn đến appanābhāvanā: tâm-hành chứng đắc bậc thiền sắc-giới, và không thể đạt đến appanāsamādhi: an-định chứng đắc bậc thiền sắc-giới nào, bởi vì đề-mục-thiền-định này không có đối-tượng uggahanimitta đối-tượng paṭibhāganimitta.Cho nên, tâm vẫn còn là dục-giới đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ .

 

Magga, Phala

 
Hành-giả thực-hành đề-mục-thiền-định catudhātu-vavatthāna này có đối-tượng sắc-pháp tứ-đại thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma).
 

Nếu hành-giả chuyển sang thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ với đối-tượng-thiền-tuệ là sắc-pháp tứ-đại  này, trí-tuệ phát sinhthấy rõ biết rõ thật-tánh của sắc-pháp tứ-đại, tiếp tục trí-tuệ-thiền-tuệ phát sinh thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp tứ-đại, hiện rõ 3 trạng-thái-chung: trạng-thái-vô-thường, trạng-thái-khổ, trạng-thái-vô-ngã, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.

 

Hành-giả trở thành Thánh-nhân bậc nào là hoàn toàn tuỳ thuộc vào các pháp hạnh Ba-la-mật và 5 pháp-chủ của hành-giả.

 

Quả Báu Của Đề-Mục Catudhātuvavatthāna

 

Hành-giả thực-hành đề-mục-thiền-định catudhātu-vavatthāna có đối-tượng sắc-pháp tứ-đạiđối-tượng thiền-định và cũng là đối-tượng-thiền-tuệ, nên có được 9 quả báu ([6]) đặc biệt như sau:  

 

1- Suññataṃ avagāhati: Trí-tuệ thấy rõ, biết rõ trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, danh-pháp.

 

2- Sattasaññaṃ samugghāteti: Diệt được tâm tưởng sai, chấp lầm rằng:“Chúng-sinh, ta, người, người nam, người nữ, v.v…

 

3- Sattasaññāya samūhatattā: Diệt được tưởng sai lầm cho là chúng-sinh,…

 

4- Vāḷamigayakkharakkhasādivikappaṃ anāpajjamāno, …. Không xảy đến những tai hoạ từ các loài thú dữ, dạ-xoa, v.v… nên chế ngự được tai hoạ lớn nhỏ.

 

5- Aratiratisaho hoti: Chế ngự được sự say mê trong ngũ-dục, ham thích thực-hành pháp-hành-thiền-định, pháp-hành-thiền-tuệ.

 

6- Iṭṭhāniṭṭhesu ugghātanigghātaṃ na pāpuṇāti: Không coi trọng đối-tượng tốt, cũng không coi khinh đối tượng xấu

 

7- Mahāpañño ca hoti: Có đại trí-tuệ.

 

8- Amatapariyosāno vā hoti: Hoặc cuối cùng sẽ chứng ngộ Niết-bàn.

 

9- Sugatiparāyano vā hoti: Hoặc nếu kiếp hiện-tại chưa trở thành bậc Thánh-A-ra-hán thì sau khi chết sẽ tái sinh kiếp sau trong cõi thiện giới.

 
 (Xong đề-mục-thiền-định catudhātuvavatthāna)
        
7- 4 Đề-Mục-Thiền Vô-Sắc-Giới (Āruppa)
 

Đề-mục-thiền-định vô-sắc-giới có 4 đề-mục, mà mỗi đề-mục-thiền-định vô-sắc-giới chỉ có khả năng dẫn đến chứng đắc mỗi bậc thiền vô-sắc-giới riêng biệt mà thôi như sau: 

 

1- Đề-mục-thiền-định vô-sắc-giới thứ nhất gọi là ākāsapaññatti chỉ có thể dẫn đến chứng đắc đệ nhất thiền vô-sắc-giới gọi là ākāsānañcāyatanakusalacitta: không-vô-biên-xứ thiện-tâm mà thôi.

 

2- Đề-mục-thiền-định vô-sắc-giới thứ nhì gọi là paṭhamāruppaviññāṇa chỉ có thể dẫn đến chứng đắc đệ nhị thiền vô-sắc-giới gọi là viññāṇañcāyatanakusalacitta: thức-vô-biên-xứ thiện-tâm mà thôi.

 

3- Đề-mục-thiền-định vô-sắc-giới thứ ba gọi là natthibhāvapaññatti chỉ có thể dẫn đến chứng đắc đệ tam thiền vô-sắc-giới gọi là ākiñcaññāyatanakusala-citta: vô-sở-hữu-xứ thiện-tâm mà thôi.

 

 4- Đề-mục-thiền-định vô-sắc-giới thứ tư gọi là tatiyāruppaviññāṇa chỉ có thể dẫn đến chứng đắc đệ tứ thiền vô-sắc-giới gọi là nevasaññānāsaññāyatanakusala-citta: phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ thiện-tâm mà thôi.

 

Phương-Pháp Thực-Hành 4 Đề-Mục-Thiền-Định

Vô-Sắc-Giới

 

Sau khi đã chứng đắc đệ ngũ thiền sắc-giới xong, hành-giả có ý nguyện muốn tiếp tục chứng đắc 4 bậc thiền vô-sắc-giới 

 

Ví dụ: Hành-giả đã chứng đắc đệ ngũ thiền sắc-giới với đề-mục-thiền-định đất “pathavīkasiṇa xong, rồi tiếp tục thực-hành pháp-hành-thiền-định với 4 đề-mục-thiền-định vô-sắc-giới, để chứng đắc 4 bậc thiền vô-sắc-giới.Hành-giả có 2 nhóm, mà mỗi nhóm suy xét khác nhau như sau:

 

* 1- Nhóm thứ nhất trong thời kỳ không có Phật giáo trên thế gian, những hành-giả sau khi đã chứng đắc đệ ngũ thiền sắc-giới với đề-mục-thiền-định đất“pathavī-kasiṇa suy xét rằng:

 

Các thứ bệnh hoạn ốm đau đều phát sinh từ sắc- thân này, sự đói khát cũng phát sinh từ sắc-thân này, thậm chí mọi sự tranh giành lẫn nhau cũng phát sinh từ sắc-thân này.

 

Vả lại, sắc-thân này vốn sinh từ máu huyết của cha mẹ, ô trọc (trược) đáng ghê tởm. Còn cõi trời vô-sắc-giới, chư phạm-thiên không có sắc-thân, chỉ có tâm mà thôi, mọi sự khổ thân là hoàn toàn không có, cho nên, chỉ có tâm an-lạc mà thôi.” 

 

Do suy xét như vậy, nên hành-giả phát sinh tâm nhàm chán sắc-thân này, chỉ mong muốn được tái sinh kiếp sau trên cõi trời vô-sắc-giới, không có sắc-thân mà thôi.

 

Hành-giả cảm thấy nhàm chán đối-tượng pathavī-paṭibhāganimitta: quang-ảnh-trong-sáng đề-mục-thiền-định đất của đệ ngũ thiền sắc-giới, hành-giả cố gắng tinh tấn tiếp tục thực-hành 4 đề-mục-thiền-định vô-sắc-giới, để chứng đắc 4 bậc thiền vô-sắc-giới.

 

* Nhóm thứ nhì trong thời kỳ có Phật giáo trên thế gian, những hành-giả nhóm này sau khi đã chứng đắc đệ ngũ thiền sắc-giới với đề-mục-thiền-định đất pathavī-kasiṇa”, không suy xét thấy lỗi nào của sắc-thân cả, mà chỉ suy xét rằng: 

 

“Định-tâm (ekaggatā) trong đệ ngũ thiền sắc-giới có ít năng lực, còn định-tâm trong 4 bậc thiền vô-sắc-giới có nhiều năng lực và vô cùng vi tế, có khả năng luyện các phép-thần-thông (abhiññā) được; hoặc nếu là bậc Thánh Bất-lai (Anāgāmī) hoặc bậc Thánh-A-ra-hán (Arahanta) có khả năng nhập diệt-thọ-tưởng (nirodhasamāpatti) được.”

 

Do suy xét như vậy, nên hành-giả tiếp tục cố gắng tinh tấn thực-hành 4 đề-mục-thiền-định vô-sắc-giới, để chứng đắc 4 bậc thiền vô-sắc-giới.

 

7.1- Thiền Vô-Sắc-Giới Không-Vô-Biên-Xứ-Thiền

 

Để chứng đắc đệ nhất thiền vô-sắc-giới gọi là ākāsā-nañcāyatanakusalacitta: không-vô-biên-xứ-thiện-tâm,  hành-giả cả 2 nhóm đều bắt đầu thực-hành 5 pháp thuần-thục (vasībhāva) liên quan đến đệ ngũ thiền sắc-giới-thiện-tâm có đầy đủ năng lực, cho đến giai đoạn chót, nhập đệ ngũ thiền sắc-giới-thiện-tâm, rồi xả đệ ngũ thiền sắc-giới-thiện-tâm ra, nếu thấy đối-tượng pathavī-paṭibhāganimitta: quang-ảnh-trong-sáng đề-mục-thiền-định đất của đệ ngũ thiền sắc-giới-thiện-tâm nhỏ thì hành-giả nên khai triển rộng lớn bao nhiêu theo năng lực samādhi của mình.

 

Nếu thấy đối-tượng pathavīpaṭibhāganimitta lớn quá thì thâu nhỏ lại cho vừa cũng được.

 

Khi ấy, hành-giả thực-hành không quan tâm nhiều đến đối-tượng pathavīpaṭibhāganimitta màcó ý buông bỏ đối-tượng pathavīpaṭibhāganimitta, hướng định-tâm đến đề-mục ākāsapaññatti: hư-không chế-định để thay thế đối-tượng pathavīpaṭibhāganimitta với tâm nghĩ rằng:  “không có đối-tượng pathavīpaṭibhāganimitta mà chỉ có đề-mục hư-không chế-định ākāsapaññatti” mà thôi, đồng thời parikammabhāvanā: tâm-hành ban đầu với dục-giới đại-thiện-tâm niệm tưởng rằng:

 
Ākāso ānanto, Ākāso ānanto, Ākāso ānanto,…” “Hư không vô biên, Hư không vô biên…”
 
Ākāso ānanto: Hư-không vô-biên.
 

* Ākāso nghĩa là Hư không không phải chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) mà thuộc về chế-định-pháp (paññattidhamma), nên không có bắt đầu sự sinh, và cũng không có cuối cùng sự diệt,

 
 * Ānanto: vô-biên.
 

*Định-tâm đồng sinh với dục-giới-đại-thiện-tâm gọi parikammasamādhi: sơ-định ban đầu thực-hành pháp- hành-thiền-định còn cách xa bậc thiền vô-sắc-giới.

 

Khi hành-giả (có đệ ngũ thiền sắc-giới-thiện-tâm) thực-hành hướng tâm niệm tưởng Ākāso ānanto”(Hư-không vô-biên) như vậy, cho đến khi nào tâm của hành-giả nhàm chán đệ ngũ thiền sắc-giới-thiện-tâm, không còn tham muốn trong đệ ngũ thiền sắc-giới-thiện-tâm ấy nữa, khi ấy, tâm-hành của hành-giả tiến triển đến upacārabhāvanā: tâm-hành cận bậc thiền vô sắc-giới, đạt đến upacārasamādhi: cận-định gần bậc thiền vô-sắc-giới.

 

Hành-giả tiếp tục thực-hành với tâm-hành niệm tưởng Ākāso ānanto”(Hư-không vô-biên) như vậy, thì đối-tượng pathavīpaṭibhāganimitta của đệ ngũ thiền sắc-giới-thiện-tâm mất dần đi, đề-mục hư-không chế-định ākāsapaññatti hiệnrõthay thế đối-tượng pathavī-paṭibhāganimitta ấy.

 

Ví dụ như người nhìn một cách chăm chú tấm vải màn che nơi cửa sổ, khi tấm vải bị gió thổi bay mất, chỉ còn nhìn khung cửa sổ trống không mà thôi.

 

Cũng như vậy, hành-giả buông bỏ đối-tượng pathavī-paṭibhāganimitta ra khỏi tâm, nhưng không giống như tấm vải bị gió thổi bay mất khỏi khung cửa, mà sự thật, hành-giả không còn quan tâm, không còn ham muốn đối-tượng pathavīpaṭibhāganimitta nữa, mà chỉ ham thích định-tâm đến đề-mục hư-không chế-định ākāsa-paññatti mà thôi.

 

Nếu khi nào hành-giả có khả năng buông bỏ hẳn đối-tượng pathavīpaṭibhāganimitta khỏi tâm, thì ngay khi ấy đề-mục hư-không chế-định ākāsapaññatti liền phát sinh lên thay thế ngay tức thì tiến triển đến appanābhāvanā: tâm-hành chứng đắc đệ nhất thiền vô-sắc-giới-thiện-tâm gọi là ākāsānañcāyatanakusalacitta: không-vô-biên-xứ thiện-tâm đầu tiên phát sinh, có appanāsamādhi: an-định vững chắc trong vô-sắc-giới lộ-trình đệ nhất thiền thiện-tâm đầu tiên, các tâm sinh rồi diệt theo tuần tự như sau:

 

Bhavaṅgacitta, bhavaṅgacalana, bhavaṅgupaccheda,

tiếp theo Manodvāravajjana, parikamma,([7]) upacāra, anuloma, gotrabhū, ākāsānañcāyatanakusalacitta (1 sát-na tâm), bhavaṅgacitta. chấm dứt vô-sắc-giới lộ-trình đệ nhất thiền thiện-tâm đầu tiên.

 

Đệ nhất thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là ākāsā-nañcāyatanakusalacitta có 2 chi thiền là upekkhā và ekaggatā.

 
Tiếp theo các lộ-trình-tâm quán-triệt (paccavekkhaṇa-vīthicitta) mỗi chi thiền là upekkhā, ekaggatā.
 

Như vậy, hành-giả đã chứng đắc đệ nhất thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là ākāsānañcāyatanakusalacitta: không-vô-biên-xứ thiện-tâm.

 
Ākāsānañcāyatanakusalacitta có 3 tên
 

*Arūpajjhāna: Thiền vô-sắc-giới bởi vì, thiền-tâm này không có sắc, do đó gọi là arūpajjhāna.

 

*Ākāsānañcāyatanakusalacitta: Không-vô-biên-xứ thiện-tâm bởi vì, bậc thiền vô-sắc-giới này rất vững chắc, không lay chuyển phát sinh do đề-mục ākāsa-paññatti không có bắt đầu sự sinh, và cũng không có cuối cùng sự diệt, dođó gọi là Ākāsānañcāyatanakusalacitta.

 

* Paṭhamāruppajjhāna: Đệ nhất thiền vô-sắc-giới:bởi vì,bậc thiền vô-sắc-giới này có đề-mục ākāsa-paññatti: hư-không chế-định là bậc thiền vô-sắc-giới  phát sinh trước tiên trong 4 bậc thiền vô-sắc-giới, do đó gọi là Paṭhamāruppajjhāna.

 

7. 2- Thiền Vô-Sắc-Giới Thức-Vô-Biên-Xứ-Thiền

 

Sau khi đã chứng đắc đệ nhất thiền vô-sắc-giới gọi là ākāsānañcāyatanakusalacitta: không-vô-biên-xứ-thiện-tâm xong, hành-giả muốn tiếp tục thực-hành để chứng đắc đệ nhị thiền vô-sắc-giới gọi là viññāṇañcāyatana-kusalacitta: thức-vô-biên-xứ-thiện-tâm.

 

Trước tiên, hành-giả thực-hành 5 pháp thuần-thục (vasībhāva) liên quan đến đệ nhất thiền vô-sắc-giới ākāsānañcāyatanakusalacitta có đầy đủ năng lực, cho đến giai đoạn chót, nhập đệ nhất thiền vô-sắc-giới thiện-tâm, rồi xả đệ nhất thiền vô-sắc-giới thiện-tâm ra, suy xét thấy nhược điểm của đệ nhất thiền vô-sắc-giới ākāsānañcāyatanakusalacitta rằng:

 

“Đệ nhất thiền vô-sắc-giới, ākāsānañcāyatanakusala-citta này là bậc thiền vô-sắc-giới gần với đệ ngũ thiền sắc-giới. Nếu không thường nhập đệ nhất thiền vô-sắc-giới này thì bậc thiền vô-sắc-giới này dễ bị mất, trở xuống đệ ngũ thiền sắc-giới như trước. Hơn nữa định-tâm của đệ nhất thiền vô-sắc-giới này là còn thô so sánh với định-tâm của đệ nhị thiền vô-sắc-giới viññāṇañ-cāyatanakusalacitta: thức-vô-biên-xứ thiện-tâm”.

 

Sau khi suy xét thấy nhược điểm của đệ nhất thiền vô-sắc-giới ākāsānañcāyatanakusalacitta như vậy, nên hành giả thực-hành làm cho đệ nhất thiền vô-sắc-giới  ākāsā-nañcāyatanakusalacitta này mất đi khỏi tâm của mình, bằng cách cố gắng buông bỏ đề-mục ākāsapaññatti: hư-không chế-định ấy đi, rồi trở lại cố gắng hướng tâm đến đệ nhất thiền vô-sắc-giới ākāsānañcāyatanakusalacitta làm đề-mục thay thế đề-mục ākāsapaññatti: hư-không chế-định, đồng thời parikammabhāvanā: tâm-hành ban đầu với dục-giới đại-thiện-tâm  niệm tưởng rằng:

 

Viññāṇaṃ anantaṃ, ... Viññāṇaṃ anantaṃ, ... Viññāṇaṃ anantaṃ,…. Thức-vô-biên, Thức-vô-biên, Thức-vô-biên,…”

 

* Viññāṇaṃ đó là đệ nhất thiền vô-sắc-giới ākāsān-añcāyatanakusalacitta.

 

* Anantaṃ là vô-biên.

 

*Định-tâm đồng sinh với dục-giới-đại-thiện-tâm gọi parikammasamādhi: sơ-định ban đầu thực-hành pháp- hành-thiền-định còn cách xa bậc thiền vô-sắc-giới.

 

Khi hành-giả cố gắng tinh tấn thực-hành với tâm-hành niệm tưởng “Viññāṇaṃ anantaṃ: Thức-vô-biên” như vậy, cho đến khi nào tâm của hành-giả nhàm chán đệ nhất thiền vô-sắc-giới ākāsānañcāyatanakusalacitta, không còn tham muốn trong đệ nhất thiền vô-sắc-giới, ākāsānañcāyatanakusalacitta ấy nữa. Khi ấy, tâm-hành của hành-giả tiến triển đến upacārabhāvanā:tâm-hành cận với đệ nhị thiền vô-sắc-giới viññānañcāyatana-kusalacitta: thức-vô-biên-xứ thiện-tâm, đạt đến upacāra--samādhi: cận-định gần bậc thiền vô-sắc-giới.

 

Hành-giả tiếp tục thực-hành với tâm-hành niệm tưởng “Viññāṇaṃ anantaṃ: Thức-vô-biên” như vậy, thì đề-mục ākāsapaññatti: hư-không chế-định mất dần đi, rồi mất hẳn trong tâm khi nào, khi ấy, đề-mục ākāsā-nañcāyatanakusalacitta hiện rõ thay thế đề-mục ākāsa-paññatti ngay tức thì tiến triển đến appanābhāvanā: tâm hành chứng đắc đệ nhị thiền vô-sắc-giới-thiện-tâm gọi là viññānañcāyatanakusalacitta: thức-vô-biên-xứ thiện-tâm đầu tiên phát sinh, có appanāsamādhi: an-định vững chắc trong vô-sắc-giới lộ-trình đệ nhị thiền thiện-tâm đầu tiên, các tâm sinh rồi diệt theo tuần tự như sau:

 

Bhavaṅgacitta, bhavaṅgacalana, bhavaṅgupaccheda, tiếp theo Manodvāravajjana, parikamma,([8]) upacāra, anuloma, gotrabhū, viññānañcāyatanakusalacitta (1 sát-na tâm), bhavaṅgacitta. chấm dứt vô-sắc-giới lộ-trình đệ nhị thiền thiện-tâm đầu tiên.

 

Đệ nhị thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là viññānañcā-yatanakusalacitta có 2 chi thiền là upekkhā và ekaggatā.

 
Tiếp theo các lộ-trình-tâm quán-triệt (paccavekkhaṇa-vīthicitta) mỗi chi thiền là upekkhā, ekaggatā.
 

Như vậy, hành-giả đã chứng đắc đệ nhị thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là viññānañcāyatanakusalacitta: thức- vô-biên-xứ thiện-tâm.

 

Vấn: Tại sao hành-giả suy xét thấy nhược điểm của đệ nhất thiền vô-sắc-giới ākāsānañcāyatanakusalacitta, nhưng lại sử dụng đệ nhất thiền vô-sắc-giới, ākāsānañcā- yatanakusalacitta làm đề-mục-thiền-định của đệ nhị thiền vô-sắc-giới thiện-tâm, viññānañcāyatanakusalacitta?

 

Đáp: Bởi vì, để chứng đắc đệ nhị thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là viññānañcāyatanakusalacitta chỉ có đề-mục đệ nhất thiền vô-sắc-giới ākāsānañcāyatanakusala-citta mà thôi. Vì vậy, dù suy xét thấy nhược điểm của đệ nhất thiền vô-sắc-giới ākāsānañcāyatanakusalacitta, mà vẫn phải sử dụng làm đề-mục thiền vô-sắc-giới, để chứng đắc đệ nhị thiền vô-sắc-giới thiện-tâm, viññā-nañcāyatanakusalacitta.

 

7. 3- Thiền Vô-Sắc-Giới Vô-Sở-Hữu-Xứ-Thiền

 

Sau khi đã chứng đắc đệ nhị thiền vô-sắc-giới gọi là viññānañcāyatanakusalacitta: thức-vô-biên-xứ thiện-tâm xong, hành-giả muốn tiếp tục thực-hành để chứng đắc đệ tam thiền vô-sắc-giới gọi là ākiñcaññāyatanakusala-citta: vô-sở-hữu-xứ thiện-tâm.

 

Trước tiên, hành-giả thực-hành 5 pháp thuần-thục (vasībhāva) liên quan đến đệ nhị thiền vô-sắc-giới, viññānañcāyatanakusalacitta có đầy đủ năng lực, cho đến giai đoạn chót, nhập đệ nhị thiền vô-sắc-giới, rồi xả đệ nhị thiền vô-sắc-giới ra, suy xét thấy nhược điểm của đệ nhị thiền vô-sắc-giới viññānañcāyatanakusalacitta rằng:

 

Đệ nhị thiền vô-sắc-giới, viññānañcāyatanakusala-citta này là bậc thiền vô-sắc-giới gần với đệ nhất thiền vô-sắc-giới ākāsānañcāyatanakusalacitta. Nếu không thường nhập đệ nhị thiền vô-sắc-giới này thì bậc thiền vô-sắc-giới này dễ bị mất, trở xuống đệ nhất thiền vô-sắc-giới ākāsānañcāyatanakusalacitta như trước. Hơn nữa định-tâm của đệ nhị thiền vô-sắc-giới này là còn thô so với định-tâm của đệ tam thiền vô-sắc-giới ākiñcañ-ñāyatanakusalacitta: vô-sở-hữu-xứ thiện-tâm.”

 

Sau khi suy xét thấy nhược điểm của đệ nhị thiền vô-sắc-giới viññānañcāyatanakusalacitta như vậy, nên hành-giả thực-hành hướng tâm đến ākāsānañcāyatana-kusalacitta đã diệt rồi khỏi tâm của hành-giả một cách không còn dư sót nữa. Dù tối thiểu chỉ sát-na diệt của 

thiền-tâm ấy cũng không còn sót lại.

 

Hành-giả cố gắng tinh tấn hướng tâm ra khỏi đề-mục ākāsānañcāyatanakusalacitta ấy, rồi cố gắng tinh tấn hướng tâm đến đề-mục natthibhāvapaññatti xuất hiện thay thế đề-mục ākāsānañcāyatanakusalacitta ấy, đồng thời parikammabhāvanā: tâm-hành ban đầu với dục-giới đại-thiện-tâm niệm tưởng rằng:

 

Natthi kiñci, Natthi kiñci, Natthi kiñci,… Không còn gì cả, Không còn gì cả, ...”

 

Natthi kiñci:” đó là ākāsānañcāyatanakusalacitta dù ít nhất 1 sát-na-tâm cũng không còn dư sót lại nữa, nghĩa là không nói đến upādakhaṇa: sát-na-sinh, ṭhīti-khaṇa: sát-na-trụ của ākāsānañcāyatanakusalacitta mà       chỉ nói đến bhaṅgakhaṇa: sát-na-diệt của ākāsānañcā-yatanakusalacitta cũng không còn dư sót lại nữa. Cho nên gọi là “Natthi kiñci: Không còn gì cả”.

 

* Định-tâm đồng sinh với dục-giới-đại-thiện-tâm gọi là parikammasamādhi: sơ-định ban đầu thực-hành pháp-hành-thiền-định còn cách xa bậc thiền vô-sắc-giới.  

 

Khi hành-giả cố gắng tinh tấn thực-hành với tâm-hành niệm tưởng “Natthi kiñci” (Không còn gì cả) như vậy, cho đến khi nào tâm của hành-giả nhàm chán đệ nhị thiền vô-sắc-giới viññānañcāyatanakusalacitta, không còn tham muốn trong đệ nhị thiền vô-sắc-giới viññānañ-cāyatanakusalacitta ấy nữa, khi ấy, tâm của hành-giả tiến triển đến upacārabhāvanā:tâm-hành cận với đệ tam thiền vô-sắc-giới ākiñcaññāyatanakusalacitta: vô-sở-hữu-xứ thiện-tâm đạt đến upacārasamādhi: cận-định gần bậc thiền vô-sắc-giới.

 

Hành-giả tiếp tục thực-hành với tâm-hành niệm tưởng “Natthi kiñci” (Không còn gì cả) như vậy, thì đề-mục ākāsānañcāyatanakusalacitta mất dần đi, rồi mất hẳn trong tâm khi nào, khi ấy, đề-mục natthibhāvapaññatti hiện rõ thay thế đề-mục ākāsānañcāyatanakusalacitta ngay tức thì tiến triển đến appanābhāvanā: tâm-hành chứng đắc đệ tam thiền vô-sắc-giới-thiện-tâm gọi là ākiñcaññāyatanakusalacitta: vô-sở-hữu-xứ thiện-tâm đầu tiên phát sinh, có appanāsamādhi: an-định vững chắc trong vô-sắc-giới lộ-trình đệ tam thiền thiện-tâm đầu tiên, các tâm sinh rồi diệt theo tuần tự như sau:

 

Bhavaṅgacitta, bhavaṅgacalana, bhavaṅgupaccheda, tiếp theo Manodvāravajjana, parikamma,([9]) upacāra, anuloma, gotrabhū, ākiñcaññāyatanakusalacitta (1 sát-na tâm), bhavaṅgacitta chấm dứt vô-sắc-giới lộ-trình đệ nhị thiền thiện-tâm đầu tiên.

 

Đệ tam thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là ākiñcañ-ñāyatanakusalacitta có 2 chi thiền là upekkhā và ekaggatā.

 
Tiếp theo các lộ-trình-tâm quán-triệt (paccavekkhaṇa-vīthicitta) mỗi chi thiền là upekkhā, ekaggatā.
 

Như vậy, hành-giả đã chứng đắc đệ tam thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là ākiñcaññāyatanakusalacitta: vô-sở-hữu-xứ thiện-tâm.

 

7.4-Thiền Vô-Sắc-Giới Phi-Tưởng-Phi-Phi-Tưởng-Xứ-Thiền

 

Sau khi đã chứng đắc đệ tam thiền vô-sắc-giới gọi là ākiñcaññāyatanakusalacitta: vô-sở-hữu-xứ thiện-tâm rồi, hành-giả muốn tiếp tục thực-hành để chứng đắc đệ tứ thiền vô-sắc-giới gọi là nevasaññānāsaññāyatanakusala-citta: phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ thiện tâm.

 

Trước tiên, hành-giả thực-hành 5 pháp thuần-thục (vasībhāva) liên quan đến đệ tam thiền vô-sắc-giới ākiñcaññāyatanakusalacitta có đầy đủ năng lực, cho đến giai đoạn chót, nhập đệ tam thiền vô-sắc-giới, rồi xả đệ tam thiền vô-sắc-giới ra, suy xét thấy nhược điểmrằng:

 

Đệ tam thiền vô-sắc-giới ākiñcaññāyatanakusala-citta này là bậc thiền vô-sắc-giới gần với đệ nhị thiền vô-sắc-giới viññānañcāyatanakusalacitta. Nếu không thường nhập đệ nhị thiền vô-sắc-giới này thì bậc thiền vô-sắc-giới này dễ bị mất, trở xuống đệ nhị thiền vô-sắc-giới viññānañcāyatanakusalacitta như trước. Hơn nữa định-tâm của đệ tam thiền vô-sắc-giới này là không thanh tịnh, không vi tế như định-tâm của đệ tứ thiền vô-sắc-giới nevasaññānāsaññāyatanakusalacitta: phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ thiện-tâm. 

 

Xét về saññā: tưởng, v.v… trong bậc thiền vô-sắc-giới nevasaññānāsaññāyatanakusalacitta thật là vô cùng thanh tịnh, vô cùng vi tế, cho nên đệ tứ thiền vô-sắc-giới này là bậc thiền vô-sắc-giới vô cùng thanh tịnh, vô cùng vi tế bậc nhất.”

 

Khi suy xét thấy nhược điểm của đệ tam thiền vô-sắc-giới ākiñcaññāyatanakusalacitta như vậy, để phát sinh tâm nhàm chán ākiñcaññāyatanakusalacitta. Thật ra, đệ tam thiền vô-sắc-giới cũng có vi tế, có vắng lặng, tuy không bằng đệ tứ thiền vô sắc, nhưng đệ tam thiền vô sắc, ākiñcaññāyatanakusalacitta có khả năng nhận biết được đề-mục natthibhāvapaññatti.

 

Khi suy xét như vậy, hành-giả tưởng đến ākiñcaññā-yatanakusalacitta đã diệt rồi không còn trong tâm của mình, bằng cách buông bỏ đề-mục natthibhāvapaññatti ấy, cố gắng tinh tấn hướng tâm trở lại ākiñcaññāyatana-kusalacitta hiện rõ thay thế đề-mục natthibhāvapaññatti ấy, đồng thời parikammabhāvanā: tâm-hành ban đầu với dục-giới đại-thiện-tâm niệm tưởng rằng:

 

Santametaṃ paṇītametaṃ, Santametaṃ paṇīta-metaṃ, Santametaṃ paṇītametaṃ, …” “Bậc thiền ấy vô cùng thanh tịnh, vô cùng vi tế, Bậc thiền ấy vô cùng thanh tịnh, vô cùng vi tế,… ” 

 
 Santametaṃ paṇītametaṃ
 

* Santametaṃđó là ākiñcaññāyatanakusalacitta có định-tâm vô cùng thanh tịnh,

 

* Paṇītametaṃ: ākiñcaññāyatanakusalacitta có định-tâm vô cùng vi tế. 

 

* Định-tâm đồng sinh với dục-giới-đại-thiện-tâm gọi parikammasamādhi: sơ-định ban đầu thực-hành pháp- hành-thiền-định còn cách xa bậc thiền vô-sắc-giới.  

 

Khi hành-giả cố gắng tinh tấn thực-hành với tâm-hành niệm tưởng “Santametaṃ paṇītametaṃ”“Bậc thiền ấy vô cùng thanh tịnh, vô cùng vi tế,...” như vậy, cho đến khi nào tâm của hành-giả nhàm chán đệ tam thiền vô-sắc-giới ākiñcaññāyatanakusalacitta, không còn tham muốn trong đệ tam thiền vô-sắc-giới ākiñcaññāyatana-kusalacitta ấy nữa, khi ấy, tâm của hành-giả tiến triển đến upacārabhāvanā: tâm-hành cận với đệ tứ thiền vô-sắc-giới nevasaññānāsaññāyatanakusalacitta: phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ thiện-tâm, đạt đến upacārasamādhi: cận-định gần bậc thiền vô-sắc-giới.

 

Hành-giả tiếp tục thực-hành với tâm-hành niệm tưởng Santametaṃ paṇītametaṃ”“Bậc thiền ấy vô cùng thanh tịnh, vô cùng vi tế,…” như vậy, thì đề-mục natthi-bhāvapaññatti mất dần đi, rồi mất hẳn trong tâm khi nào, khi ấy, đề-mục ākiñcaññāyatanakusalacitta hiện rõ thay thế đề-mục natthibhāvapaññatti ngay tức thì tiến triển đến appanābhāvanā: tâm-hành chứng đắc đệ tứ thiền vô-sắc-giới-thiện-tâm gọi là nevasaññānāsaññāyatana-kusalacitta: phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ thiện-tâm đầu tiên phát sinh, có appanāsamādhi: an-định vững chắc trong vô-sắc-giới lộ-trình đệ tam thiền thiện-tâm đầu tiên, các tâm sinh rồi diệt theo tuần tự như sau:

 

Bhavaṅgacitta, bhavaṅgacalana, bhavaṅgupaccheda, tiếp theo Manodvāravajjana, parikamma,([10]) upacāra, anuloma, gotrabhū, nevasaññānāsaññāyatanakusalacitta (1 sát-na tâm), bhavaṅgacitta. chấm dứt vô-sắc-giới lộ-trình đệ tứ thiền thiện-tâm đầu tiên.

 

Đệ tứ thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là nevasaññā-nāsaññāyatanakusalacitta có 2 chi thiền là upekkhā và ekaggatā.

 
Tiếp theo các lộ-trình-tâm quán-triệt (paccavekkhaṇa-vīthicitta) mỗi chi thiền là upekkhā, ekaggatā.
 

Như vậy, hành-giả đã chứng đắc đệ tứ thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là nevasaññānāsaññāyatanakusala-citta:phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ thiện-tâm.

 

Vấn: Hành-giả suy xét thấy nhược điểm của đệ tam thiền vô-sắc-giới ākiñcaññāyatanakusalacitta, khi bắt đầu thực-hành để chứng đắc đệ tứ thiền vô-sắc-giới nevasaññānāsaññāyatanakusalacitta, thì hành-giả lại thấy ưu-điểm của đề-mục ākiñcaññāyatanakusalacitta, nên tán dương ca tụng với tâm-hành niệm tưởng rằng:   

“Santametaṃ paṇītametaṃ, Bậc thiền ấy vô cùng thanh tịnh, vô cùng vi tế,…Bậc thiền ấy rất vắng lặng, rất vi tế,..” 

 

Tại sao hành-giả thực-hành như vậy ?

 

 Đáp: Để chứng đắc đệ tứ thiền vô-sắc-giới thiện-tâm nevasaññānāsaññāyatanakusalacitta, thì chỉ có đề-mục ākiñcaññāyatanakusalacitta mà thôi. Cho nên, hành-giả dù chothấy nhược điểm của đề-mục ākiñcaññāyatana-kusalacitta, khi thực-hành để chứng đắc đệ tứ thiền vô-sắc-giới thiện-tâm nevasaññānāsaññāyatanakusalacitta, thì hành-giả cũng phải thấy ưu-điểm của đề-mục ākiñcaññāyatanakusalacitta, nên tán dương ca tụng với tâm-hành niệm tưởng rằng: “Santametaṃ paṇītametaṃ,..” không phải muốn nhập trở lại đệ tam thiền vô-sắc-giới ấy, mà sự thật, hành-giả chỉ muốn vượt lên trên đệ tam thiền vô-sắc-giới ấy mà thôi, để chứng đắc đệ tứ thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là nevasaññānāsaññāyatana-kusalacitta: phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ thiện-tâm.

 

Thật vậy, ngoài đề-mục đệ tam thiền vô sắc, ākiñcañ-ñāyatanakusalacitta ra, không có đề-mục nào kháccó khả năng dẫn đến chứng đắc đệ tứ thiền vô-sắc-giới, nevasaññānāsaññāyatanakusalacitta được.

 

Nhận Xét 5 Thiền Sắc-Giới Và 4 Thiền Vô Sắc-Giới

 

5 bậc thiền sắc-giới thấp hoặc cao căn cứ theo chi thiền như sau: 

 

1- Đệ nhất thiền sắc-giới có 5 chi thiền: vitakka, vicāra, pīti, sukha, ekaggatā.

 

2- Đệ nhị thiền sắc-giới có 4 chi thiền: vicāra, pīti, sukha, ekaggatā.

 

 3- Đệ tam thiền sắc-giới có 3 chi thiền: pīti, sukha, ekaggatā.

 

4- Đệ tứ thiền sắc-giới có 2 chi thiền: sukha, ekaggatā.

 

5- Đệ ngũ thiền sắc-giới có 2 chi thiền: upekkhā và ekaggatā.

4 bậc thiền vô-sắc-giới đều có 2 chi thiền: upekkhā và ekaggatā giống nhau, nên 4 bậc thiền vô-sắc-giới thấp hoặc cao căn cứ cách thực-hành theo tuần tự mỗi đối-tượng riêng biệt của mỗi bậc thiền vô sắc-giới ấy. Bậc thiền vô-sắc-giới bậc trên vi tế hơn bậc thiền vô-sắc-giới bậc dưới theo tuần tự như sau:


 

1- Đệ nhất thiền vô sắc-giới gọi là ākāsānañcā- yatanakusalacitta có 2 chi thiền: upekkhā ekaggatā.

 

2- Đệ nhị thiền vô sắc-giới gọi là viññānañcāyatana- kusalacitta có 2 chi thiền: upekkhā ekaggatā.

 

3- Đệ tam thiền vô sắc-giới gọi là ākiñcaññāyatana-kusalacitta có 2 chi thiền: upekkhā ekaggatā.

 

4- Đệ tứ thiền vô sắc-giới gọi là nevasaññānāsaññā-yatanakusalacitta có 2 chi thiền: upekkhā ekaggatā.

 

Nhận Xét 40 Đề-Mục-Thiền-Định

 

Trong 40 đề-mục-thiền-định, một số đề-mục-thiền-định có trong Phật giáo và có ngoài Phật giáo. Song đề-mục niệm-niệm 9 ân-Đức-Phật, đề-mục niệm-niệm 6 ân-Đức-Pháp, đề-mục niệm-niệm 9 ân-Đức-Tăng, đề-mục niệm-niệm về trạng-thái tịch tịnh an-lạc Niết-bàn (upasamānussati), đề-mục kāyagatāsati, đề-mục catudhātu-vavatthāna là những đề-mục-thiền-định chỉ có trong Phật giáo mà thôi, hoàn toàn không có ngoài Phật giáo.

 

                     (Xong 40 đề-mục-thiền-định)



[1] Saṃ. Bộ Sagāthāvaggapāḷi, Phần Devatāsaṃyutta

[2] Saṃ. Bộ Sagāthāvaggapāḷi, Kosalasaṃyutta, Mallikāsutta

[3] Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, tích Kāḷayakkhinīvatthu, câu kệ thứ 5

[4] Bộ Visuddhimagga, phần Mettābhāvanākathā

[5] Thân là sắc-pháp sinh từ thiện-nghiệp hoặc ác nghiệp 

[6] Bộ Visuddhimagga, đề-mục Catudhātuvavatthānabhāvanā

[7] Nếu là tikkhapuggala thì không có parikamma, chỉ còn lại 3 phận sự .

[8] Nếu là tikkhapuggala thì không có parikamma, chỉ còn lại 3 phận sự .

[9] Nếu là tikkhapuggala thì không có parikamma, chỉ còn lại 3 phận sự .

[10] Nếu là tikkhapuggala thì không có parikamma, chỉ còn lại 3 phận sự.





[ Ðầu trang][Trở về mục lục ][ Trở về trang Thư Viện ]

updated: 2024