• Ngũ Giới là Thường Giới
  • Tác giả: Hộ Pháp

 

Ngũ-Giới Là Thường-Giới

 (Pañcasīla Niccasīla)

* Ngũ-giới (pañcasīla) thường-giới (nicca- sīla) chung của tất cả mọi người trong đời, không ngoại trừ một ai cả, không phân biệt già trẻ, trai gái, dân tộc. Tất cả mọi người đều phải có bổn phận giữ gìn ngũ-giới của mình được trong sạch và trọn vẹn, bất luận là người có thọ-trì ngũ-giới hoặc không thọ-trì ngũ-giới, cũng đều phải có bổn phận giữ gìn ngũ-giới của mình được trong sạch và trọn vẹn, bởi vì ngũ-giới thường-giới của tất cả mọi người trong đời.

* Nếu người nào giữ gìn ngũ-giới được trong sạch và trọn vẹn thì người ấy tạo được phước-thiện giữ giới, nên đại-thiện-nghiệp giữ giới ấy có cơ-hội cho quả tốt, quả an-lạc, đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai.

* Nếu người nào phạm một điều-giới nào trong ngũ-giới thì người ấy đã tạo ác-nghiệp điều-giới ấy, có cơ-hội cho quả xấu, quả khổ, đem lại sự bất lợi, sự thoái hoá, sự khổ não trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai.

5 quả-báu của người giữ gìn giới

Người giữ gìn giới của mình được trong sạch và trọn vẹn có được 5 quả-báu là:

1- Người ấy có nhiều của cải lớn lao, do nhờ nhân không dể duôi (có trí-nhớ biết mình).

2- Người ấy có danh thơm tiếng tốt được lan truyền khắp mọi nơi.

3- Người ấy có đại-thiện-tâm dũng cảm, không rụt rè e thẹn khi đi vào nơi các hội đoàn.

4- Người ấy có đại-thiện-tâm tỉnh táo sáng suốt lúc lâm chung.

5- Người ấy sau khi chết, đại-thiện-nghiệp giữ giới cho quả tái-sinh kiếp sau trong 7 cõi thiện dục-giới (cõi người, 6 cõi trời dục-giới) hưởng mọi sự an-lạc trong cõi thiện-giới ấy.

Đó là 5 quả-báu của người giữ gìn giới của mình được trong sạch và trọn vẹn.

5 quả-xấu, quả khổ của người phạm giới

Người phạm giới của mình, không có giới có 5 quả xấu, quả khổ là:

1- Người ấy làm tiêu hao của cải tài sản lớn lao, do nhân dể duôi.

2- Người ấy có tiếng xấu bị lan truyền khắp mọi nơi.

3- Người ấy có ác-tâm e ngại, sợ sệt khi đi vào nơi các hội đoàn.

4- Người ấy có ác-tâm mê muội lúc lâm chung.

5- Người ấy sau khi chết, ác-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau trong 4 cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh), chịu quả khổ trong cõi ác-giới ấy. 

Đó là 5 quả xấu, quả khổ của người phạm giới của mình, người không có giới.

Như vậy, quả báu tốt lành của người giữ gìn giới của mình được trong sạch và trọn vẹn có 5 điều, mà quả-báu thứ 4 quả-báu thứ 5 là:

- Người giữ gìn giới trong sạch và trọn vẹn có đại-thiện-tâm tỉnh táo sáng suốt lúc lâm chung.

- Người giữ gìn giới trong sạch và trọn vẹn, sau khi chết, đại-thiện-nghiệp giữ giới cho quả tái-sinh kiếp sau trong 7 cõi thiện dục-giới (cõi người, cõi 6 trời dục giới), hưởng mọi sự an-lạc trong cõi thiện-giới ấy.

* Quả xấu, quả khổ của người phạm giới của mình có 5 điều, mà quả-khổ thứ 4 quả-khổ thứ 5 là:

- Người phạm giới, không có giới có ác-tâm mê muội lúc lâm chung.

- Người phạm giới, không có giới sau khi chết, ác-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi 4 ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh), chịu quả khổ trong cõi ác-giới ấy.

Như vậy, sự thật mỗi người sinh ra trong đời này, chắc chắn tiền-kiếp của người ấy có ít nhất là ngũ-giới trong sạch và trọn vẹn.

Thật vậy, nếu tiền-kiếp của người phạm giới của mình, không có giới thì làm sao tái-sinh đầu thai làm người trong cõi người này được?

Cho nên, tất cả mọi người đã sinh làm người đều vốn có ít nhất ngũ-giới trong sạch và trọn vẹn.

Kiếp hiện-tại người có đại-thiện-tâm biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi, biết giữ gìn ngũ-giới được trong sạch và trọn vẹn, đó là người biết tự trọng, biết giữ gìn nhân phẩm quý báu vốn có trong con người của mình từ khi đầu thai làm người.

Những người cận-sự-nam, cận-sự-nữ có đức tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, nhận thức rõ được 5 quả-báu của người có giới trong sạch và trọn vẹn, và 5 quả khổ của người phạm giới, không có giới như vậy.

Cho nên, những người cận-sự-nam, cận-sự-nữ khi thọ phép quy-y Tam-bảo cùng với thọ-trì ngũ-giới, rồi giữ gìn ngũ-giới của mình được trong sạch và trọn vẹn, và khuyến khích, tác động những người khác cũng nên giữ gìn ngũ-giới của họ cho được trong sạch trọn vẹn, tạo phước-thiện giữ giới, là tạo đại-thiện-nghiệp giữ giới, có cơ-hội cho quả an-lạc trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai.

Nghi Thức Xin Thọ Phép Quy-Y Tam-Bảo Và

Thọ-Trì Ngũ-Giới 

Theo truyền thống Phật-giáo Theravāda, người cận-sự-nam, cận-sự-nữ đến hầu đảnh lễ Ngài Trưởng-lão, kính xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ-trì ngũ-giới.

Trước khi thọ phép quy-y Tam-bảo, người cận-sự-nam, cận-sự-nữ xin làm lễ xin sám hối Tam-bảo:sám hối Đức-Phật-bảo, sám hối Đức-Pháp-bảo, sám hối Đức-Tăng-bảo, v.v…

* Lễ Sám Hối Tam-Bảo                                                             

* Lễ Sám Hối Đức-Phật-Bảo

Uttamaṅgena vande’haṃ,

pādapaṃsuṃ varuttamaṃ.

Buddhe yo khalito doso,

buddho khamatu taṃ mama.

Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ,

Bụi trần dưới bàn chân cao thượng Đức-Phật.

Lỗi lầm nào con đã phạm đến Phật-bảo,

Cúi xin Phật-bảo xá tội ấy cho con.

                                              (đảnh lễ một lạy)

* Lễ Sám Hối Đức-Pháp-Bảo

Uttamaṅgena vande’haṃ,

dhammañca duvidhaṃ varaṃ.

Dhamme yo khalito doso,

dhammo khamatu taṃ mama.

Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ,

Hai hạng Pháp-bảo: pháp học và pháp hành.

Lỗi lầm nào con đã phạm đến Pháp-bảo,

Cúi xin Pháp-bảo xá tội ấy cho con.

                                               (đảnh lễ một lạy)

* Lễ Sám Hối Đức-Tăng-Bảo

Uttamaṅgena vande’haṃ,

saṃghañca duvidhuttamaṃ.

Saṃghe yo khalito doso,

saṃgho khamatu taṃ mama.

Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ,

Hai bậc Tăng-bảo: Thánh-Tăng và phàm-Tăng.

Lỗi lầm nào con đã phạm đến Tăng-bảo,

Cúi xin Tăng-bảo xá tội ấy cho con.

                                              (đảnh lễ một lạy)

Bài Kệ Cầu Nguyện

Iminā puññakammena,

sabbe bhayā vinassantu.

Nibbānaṃ adhigantuṃ hi,

sabbadukkhā pamuccāmi.

Do nhờ năng lực thiện-tâm sám hối này,

Cầu xin mọi tai-hại hãy đều tiêu diệt.

Mong chứng đắc Thánh-đạo,Thánh-quả Niết-bàn,

Cầu mong giải thoát mọi cảnh khổ tái-sinh.

Xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ-trì ngũ-giới 

Ahaṃ([1]) Bhante, tisaraṇena saha pañcasīlaṃ dhammaṃ yācāmi([2]), anuggahaṃ katvā, sīlaṃ detha me.([3])Bhante.

Dutiyampi, ahaṃ Bhante, tisaraṇena saha pañcasīlaṃ dhammaṃ yācāmi, anuggahaṃ katvā, sīlaṃ detha me,  Bhante.

Tatiyampi, ahaṃ Bhante, tisaraṇena saha, pañcasīlaṃ dhammaṃ yācāmi, anuggahaṃ katvā, sīlaṃ detha me,  Bhante.

Nghĩa:

- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, con xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ-trì ngũ-giới. 

 Kính bạch Ngài Trưởng-lão, kính xin Ngài có tâm từ tế độ hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ-trì ngũ-giới cho con. Bạch Ngài.

- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, con xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ-trì ngũ-giới. 

 Kính bạch Ngài Trưởng-lão, kính xin Ngài có tâm từ tế độ hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ-trì ngũ-giới cho con, lần thứ nhì. Bạch Ngài.

 - Kính bạch Ngài Trưởng-lão, con xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ-trì ngũ-giới. 

 Kính bạch Ngài Trưởng-lão, kính xin Ngài có tâm từ tế độ hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ-trì ngũ-giới cho con, lần thứ ba. Bạch Ngài.

Đảnh Lễ Đức-Phật

Ngài Trưởng-lão hướng dẫn đảnh lễ Đức-Thế-Tôn rằng:

     Namo Tassa  Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa.      (3 lần) 

Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức-Thế-Tôn ấy, Đức A-ra-hán, Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.  (3 lần)   

Thọ Phép Quy-Y Tam-Bảo

Sau khi đảnh lễ Đức-Phật xong, Ngài Trưởng-lão hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo: 

- Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

  Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật.

- Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

  Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp.

- Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

  Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng.

- Dutiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

 Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật, lần thứ nhì.

- Dutiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

 Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp, lần thứ nhì.

- Dutiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

 Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng, lần thứ nhì.

- Tatiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

 Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật, lần thứ ba.

- Tatiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

 Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp, lần thứ ba.

- Tatiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

 Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng, lần thứ ba.

NTL(1): Tisaraṇagamanaṃ paripuṇṇaṃ.

   (Phép quy-y Tam-bảo trọn vẹn bấy nhiêu!)

CSN : Āma! Bhante.

         (Dạ, xin vâng! Kính bạch Ngài).

Thọ-Trì Ngũ-Giới

Sau khi thọ phép quy-y Tam-bảo xong, tiếp theo thọ-trì ngũ-giới:

1- Pāṇātipātā veramaṇisikkhāpadaṃ  samādiyāmi.

    Con xin thọ-trì điều-giới, có tác ý tránh xa sự sát-sinh.

2- Adinnādānā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

    Con xin thọ-trì điều-giới, có tác ý tránh xa sự trộm-cắp.

3- Kāmesu micchācārā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

   Con xin thọ-trì điều-giới, có tác ý tránh xa sự tà-dâm.

4- Musāvādā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

    Con xin thọ-trì điều-giới, có tác ý tránh xa sự nói-dối.

5- Surā meraya majjap pamādaṭṭhānā  veramaṇisikkhapadaṃ samādiyāmi.

Con xin thọ-trì điều-giới, có tác ý tránh xa sự uống  rượu, bia và các chất say là nhân sinh sự dể duôi.

NTL:Tisaraṇena saha pañcasīlaṃ dhammaṃ sādhukaṃ katvā appamādena sampādehi (sampādetha).([4])

(Phép quy-y Tam-bảo và ngũ-giới xong rồi, con (các con) nên cố gắng giữ gìn cho được trong sạch trọn vẹn, bằng pháp không dể duôi, để làm nền tảng cho mọi thiện-pháp phát sinh).

CSN: Āma! Bhante.

(Dạ, xin vâng. Kính bạch Ngài).

NTL: Sīlena sugatiṃ yanti,

sīlena bhogasampadā.

Sīlena nibbutiṃ yanti,

tasmā sīlaṃ visodhaye.

Chúng-sinh tái-sinh cõi trời, nhờ giữ giới.

Chúng-sinh đầy đủ của cải, nhờ giữ giới.

Chúng-sinh giải thoát Niết-bàn, nhờ giữ giới.

Vậy, các con giữ giới, cho được trong sạch!

CSN: Sādhu! Sādhu!

(Lành thay! Lành thay!).

Sau khi đã thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ-trì ngũ-giới, tiếp theo cận-sự-nam, cận-sự-nữ nên  đọc 3 bài kệ khẳng định không có quy-y nương nhờ nơi nào khác, chỉ có quy-y nơi Đức-Phật-bảo, nơi Đức-Pháp-bảo, nơi Đức-Tăng-bảo mà thôi, để làm cho tăng thêm đức-tin như sau:

Bài Kệ Khẳng Định Quy-Y Tam-Bảo

Natthi me saraṇaṃ aññaṃ,

Buddho me saraṇaṃ varaṃ.

Etena saccavajjena,

hotu me jayamaṅgalaṃ.

Natthi me saraṇaṃ aññaṃ,

Dhammo me saraṇaṃ varaṃ.

Etena saccavajjena,

hotu me jayamaṅgalaṃ.

Natthi me saraṇaṃ aññaṃ,

Saṃgho me saraṇaṃ varaṃ.

Etena saccavajjena,

hotu me jayamaṅgalaṃ.

Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,

Đức-Phật nơi nương nhờ cao-thượng của con,

Do nhờ năng lực của lời chân thật này,

Cầu mong cho con được hạnh phúc cao-thượng.

Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,

Đức-Pháp nơi nương nhờ cao-thượng của con,

Do nhờ năng lực của lời chân thật này,

     Cầu mong cho con được hạnh phúc cao-thượng.

Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,

Đức-Tăng nơi nương nhờ cao-thượng của con,

Do nhờ năng lực của lời chân thật này,

Cầu mong cho con được hạnh phúc cao-thượng.

Hoàn thành xong lễ thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ-trì ngũ-giới của người cận-sự-nam, người cận-sự-nữ.

 

Giảng Giải Về Ngũ-Giới

Chi-pháp Của Mỗi Điều-Giới

Mỗi điều-giới có những chi-pháp riêng biệt, muốn biết mình có phạm-giới hoặc không phạm-giới, cần phải căn cứ vào những chi-pháp của mỗi điều-giới ấy. Nếu người nào hội đủ các chi-pháp của điều-giới ấy thì người ấy đã phạm điều-giới ấy, nếu thiếu chi-pháp nào trong các điều-giới ấy thì không gọi là phạm điều-giới ấy.

1- Điều-Giới Tránh Xa Sự Sát-sinh

Pāṇātipātā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Nghĩa từng chữ:

- Pāṇātipātā: Pāṇā + atipātā.

- Pāṇā: Chúng-sinh, tất cả mọi chúng-sinh lớn nhỏ có sinh-mạng.

- Atipātā: Rơi mau, lìa mau.

- Veramaṇisikkhāpadaṃ: Veramaṇī + sikkhāpadaṃ.

- Veramaṇī: Tác-ý tránh xa.

- Sikkhāpadaṃ: Điều-giới, giới.

- Samādiyāmi: Con xin thọ-trì.

- Pāṇātipātā: Hành động làm cho chúng-sinh lìa bỏ sinh-mạng trước thời gian hạn định hết tuổi thọ của chúng-sinh ấy, nghĩa là giết hại chúng-sinh ấy chết trước thời gian hạn định tuổi thọ của chúng-sinh ấy.

Thật ra, tất cả chúng-sinh đều chết cả thảy, không ngoại trừ một ai cả. Mỗi chúng-sinh chết do hết tuổi thọ, do mãn nghiệp hỗ trợ, do hết tuổi thọ và mãn nghiệp hỗ trợ, đó gọi là chết đúng thời (kālamaraṇa).

Trường hợp chúng-sinh có thể duy trì, kéo dài sinh-mạng thêm cho đến hết tuổi thọ, đến mãn nghiệp hỗ trợ…nhưng chúng-sinh ấy bị người khác giết hại, cắt đứt dòng sinh-mạng trước thời gian hạn định tuổi thọ của chúng-sinh ấy, gọi là pāṇātipātā: giết hại chúng-sinh.

Nếu người nào có tác-ý tâm-sở đồng sinh với bất-thiện-tâm giết hại chúng-sinh hợp đủ chi-pháp của điều-giới sát-sinh, thì người ấy phạm điều-giới sát-sinh.

Nghĩa toàn câu:

Con xin thọ-trì điều-giới, có tác ý tránh xa sự sát-sinh.

Chi-Pháp Phạm Điều-Giới Sát-Sinh

Phạm điều-giới sát-sinh hợp đủ 5 chi-pháp:

1- Chúng-sinh có sinh-mạng (pāṇo).

2-Biết rõ chúng-sinh có sinh-mạng (pāṇasaññitā).

3- Tâm nghĩ giết hại chúng-sinh (vadhakacittaṃ).

4- Cố gắng giết hại chúng-sinh (payogo).

5- Chúng-sinh ấy chết do sự cố gắng  (tena maraṇaṃ).

Nếu người nào có đầy đủ 5 chi-pháp này thì người ấy phạm điều-giới sát-sinh. Nếu không đủ 5 chi-pháp thì không phạm điều-giới sát-sinh.

Giảng Giải:

 Sát hại chúng-sinh nghĩa là gì?

Chúng-sinh còn có sinh-mạng, có nhiều loại chúng-sinh khác nhau, dù lớn dù nhỏ mỗi  chúng-sinh cũng đều có sinh-mạng.

Sinh-mạng này phát sinh do nghiệp, còn các loài thực vật, cây cỏ, núi non, v.v… đều không có sinh-mạng.

Mỗi loài chúng-sinh được gọi tên, được biết qua những danh từ chế-định thuộc về chế-định-pháp (paññattidhamma) bằng mỗi danh từ ngôn ngữ, tiếng nói khác nhau, nhưng đúng theo sự-thật chân-nghĩa-pháp (paramatthasacca), thì chỉ có 3 pháptâm, tâm-sở, sắc-pháp mà thôi.

Danh từ gọi chúng-sinh còn sinh-mạng do căn cứ vào ngũ-uẩn: sắc-uẩn, thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn của mỗi chúng-sinh ấy, nhưng đúng theo sự-thật chân-nghĩa-pháp thì chỉ có sắc-pháp (rūpadhamma) danh-pháp (nāmadhamma) mà thôi.

* Sắc-uẩn thuộc về sắc-pháp đó là phần thân.

* Thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn thuộc về danh-pháp đó là phần tâm.

Chúng-sinh còn sinh mạng có đủ thân tâm, trong thânsắc-mạng-chủ (jīvitarūpa) và trong tâm danh-mạng-chủ (jīvitanāma).

* Sắc-mạng-chủ (jīvitarūpa) thuộc về sắc-pháp có trạng-thái sinh rồi diệt liên tục không ngừng, có phận-sự bảo hộ, duy trì thân trong mỗi kiếp chúng-sinh.

Sắc-mạng-chủ bị hạn định trong mỗi kiếp chúng-sinh, không liên quan với kiếp sau.

* Danh-mạng-chủ (jīvitanāma) thuộc về tâm-sở đồng sinh với tâm có trạng-thái sinh rồi diệt liên tục không ngừng theo các lộ-trình-tâm, có phận-sự bảo hộ danh-pháp (tâm và tâm-sở) từ kiếp này sang kiếp khác, từ vô thuỷ trải qua vô số kiếp quá-khứ đến kiếp-hiện-tại, dù cho mỗi kiếp thay đổi do năng-lực của nghiệp và quả của nghiệp, thì danh-mạng-chủ vẫn có phận-sự bảo hộ danh-pháp (tâm và tâm-sở) của  chúng-sinh ấy.

* Nếu chúng-sinh ấy chết thì tâm cũng không còn nữa, trong thân không có sắc-mạng-chủ,  nên thân trở thành thi-thể, xác chết.

Như vậy, người sát hại chúng-sinh đúng theo sự thật chân-nghĩa-pháp (paramatthasacca) đó chỉ là cắt đứt sắc-mạng-chủ (jīvitarūpa) thuộc về sắc-pháp của kiếp chúng-sinh ấy mà thôi.

Còn danh-mạng-chủ (jīvitanāma) thuộc về danh-pháp có trạng-thái sinh rồi diệt liên tục không ngừng, từ kiếp này sang kiếp khác, thay đổi do năng-lực nghiệp và quả của nghiệp trong mỗi kiếp, nên danh-mạng-chủ không thể bị cắt đứt được.

* Tuy nhiên, khi bậc Thánh A-ra-hán tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới, thì đồng thời danh-mạng-chủ tâm-sở đồng diệt với tâm, chấm dứt phận-sự bảo hộ danh-pháp (tâm và tâm-sở), bởi vì bậc Thánh A-ra-hán không còn tái-sinh kiếp sau nữa.

Thật vậy, Đức-Phật ngự đến bên bờ hồ Gaggarā thuyết-pháp tế độ dân chúng Campā.

* Một con ếch sống dưới hồ Gaggarā nhảy lên nghe giọng phạm âm của Đức-Phật. Khi ấy, một người chăn bò đến đứng chống cây lắng nghe pháp, vô ý đụng phải ngay cái đầu con ếch chết tại chỗ.

Con ếch sau khi chết, phước-thiện hoan-hỷ giọng phạm âm của Đức-Phật, đại-thiện-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau làm vị thiên-nam tên Maṇḍūkadevaputta([5])có hào quang sáng ngời trên cõi trời Tam-thập-tam-thiên, trong lâu đài nguy nga tráng lệ có các thiên-nữ hầu hạ, hưởng mọi sự an-lạc trong cõi trời ấy, cho đến khi mãn quả của đại-thiện-nghiệp ấy.

* Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna bị bọn cướp đánh tan xương nát thịt, chúng tưởng Ngài Đại-Trưởng-lão đã chết, đem ném Ngài vào bụi cây, rồi bỏ đi. Ngài Đại-Trưởng-lão vận dụng phép thần thông gắn thân thể lại, rồi bay đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, xin phép tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

Như vậy, người sát-hại chúng-sinh là người cắt đứt sắc-mạng-chủ thuộc về sắc-pháp trong thân của kiếp chúng-sinh ấy. Còn danh-mạng-chủ thuộc về danh-pháp vẫn sinh rồi diệt liên tục kiếp kế-tiếp, rồi từ kiếp này sang kiếp kia trong vòng tử sinh luân-hồi trong 3 giới 4 loài, tuỳ theo nghiệp và quả của nghiệp của mỗi  chúng-sinh.

Đối với chư bậc Thánh A-ra-hán tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới, nên tất cả mọi thiện-nghiệp và mọi ác-nghiệp từ vô thuỷ đến kiếp hiện-tại đều trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp (ahosikamma), bởi vì không còn tái-sinh kiếp sau nữa.

Tác-ý ác-tâm giết hại chúng-sinh có 2 cách:

- Bằng thân: Tự chính mình giết hại chúng-sinh ấy.

- Bằng khẩu: Sai khiến người khác giết hại chúng-sinh ấy.

Cố gắng giết hại chúng-sinh có 6 cách:

1- Tự mình giết hại chúng-sinh.

2- Sai khiến người khác giết hại chúng-sinh bằng lời nói, bằng chữ viết, hoặc bằng cách ra hiệu, v.v…

3- Phóng lao, ném dao, bắn tên, bắn súng v.v… làm cho chúng-sinh ấy chết.

4- Người làm ra những thứ vũ khí để giết hại chúng-sinh có tính cách lâu dài như đào hầm, đặt bẫy, rèn gươm giáo, đúc súng đạn, bom, thuốc độc, v.v… Hễ khi nào có người sử dụng những thứ vũ khí ấy, thuốc độc ấy để giết hại chúng-sinh, thì người làm ra những thứ vũ khí ấy, thuốc độc ấy phạm điều-giới sát-sinh, bởi vì, người ấy có tác-ý trong ác-tâm giết hại chúng-sinh có tính cách lâu dài.

5- Sử dụng bùa chú, phù phép, trù ếm, v.v… làm cho chúng-sinh ấy chết.

6- Sử dụng phép thuật của mình giết hại chúng-sinh.

Ác-Nghiệp Nặng - Nhẹ Của Điều-Giới Sát-Sinh

Ác-nghiệp nặng hoặc ác-nghiệp nhẹ của điều-giới sát-sinh được căn cứ vào chúng-sinh lớn hoặc nhỏ; có giới đức hoặc không có giới đức; giới đức nhiều hoặc giới đức ít, v.v…

* Chúng-Sinh Có Thân Hình Lớn - Nhỏ:

- Nếu người giết hại chúng-sinh có thân hình to lớn như con voi, con trâu, con bò, v.v… thì tạo ác-nghiệp nặng, vì cần phải cố gắng nhiều.

- Nếu người giết hại chúng-sinh có thân hình nhỏ như con kiến, con muỗi, con ruồi, v.v… thì tạo ác-nghiệp nhẹ, vì cần phải cố gắng ít.

* Chúng-Sinh Có Giới Đức - Không Giới Đức:

- Nếu người giết hại con người thì tạo ác-nghiệp nặng hơn giết hại loài súc vật.

- Nếu người giết hại người có giới thì tạo ác-nghiệp nặng hơn giết hại người không có giới.

- Nếu người giết hại bậc Thánh-nhân, thì tạo ác-nghiệp nặng hơn giết hại hạng phàm-nhân.

- Nếu người giết hại Thánh-nhân bậc cao thì tạo ác-nghiệp nặng hơn giết hại Thánh-nhân bậc thấp.

- Nếu người nào giết bậc Thánh A-ra-hán, giết cha, giết mẹ của mình, thì người ấy tạo ác-nghiệp nặng nhất vì thuộc về ác-nghiệp vô-gián trọng-tội (ānantariyakamma).

Người ấy sau khi chết, chắc chắn ác-nghiệp vô-gián trọng-tội ấy cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci, (không có nghiệp nào có thể ngăn cản được), chịu khổ thiêu đốt suốt thời gian lâu dài, cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy mới mong thoát khỏi cõi địa-ngục.

* Tự Sát

Người tự-sát có phạm điều-giới sát-sinh hay không?

Người phạm điều-giới sát-sinh hay không phạm điều-giới sát-sinh cần phải xét theo 5 chi-pháp của điều-giới sát-sinh.

1- Chúng-sinh có sinh-mạng (pāṇo)(mình).

2- Biết rõ chúng-sinh có sinh-mạng (pāṇa-saññitā) (Chi-pháp này ám chỉ đến chúng-sinh khác, không phải chính mình).

3- Tâm nghĩ giết hại chúng-sinh (vadhakacitta).

4- Cố gắng giết hại chúng-sinh (payogo). (Cố gắng tự sát, tự giết mình).

5- Chúng-sinh ấy chết do sự cố gắng ấy (tena maraṇaṃ) (Mình chết do sự cố gắng của mình).

Xét trong 5 chi-pháp của điều-giới sát-sinh này, chi pháp thứ nhì “paṇasaññitā”: “biết rõ chúng-sinh ấy có sinh-mạng” này ám chỉ đến chúng-sinh khác, không phải chính mình.

Trong trường hợp người tự giết mình (tự-sát) thì thiếu chi-pháp paṇasaññitā này. Cho nên, người tự giết mình (tự-sát) không đủ 5 chi-pháp phạm điều-giới sát-sinh.

Cho nên, người tự sát không phạm điều-giới sát-sinh.

Ví dụ: Trường hợp Ngài Trưởng-lão Channa dùng dao cắt cổ tự-sát, trước khi chết Ngài Trưởng-lão thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt-đoạn-tuyệt được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, đồng thời tịch diệt Niết-bàn, gọi là bậc Thánh A-ra-hán Jīvitasamasīsi (A-ra-hán Thánh-quả đồng thời tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới).

Như trong bài kinh Channasutta([6]) được tóm lược như sau:

Một thuở nọ, Đức-Thế-Tôn đang ngự tại ngôi chùa Veḷuvana gần kinh thành Rājagaha. Khi ấy, Ngài Trưởng-lão Channa bị lâm bệnh nặng trầm trọng, vô cùng đau đớn không thể kham nhẫn nổi.

Vào buổi chiều, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta và Ngài Trưởng-lão Mahācunda đến thăm hỏi bệnh tình của Ngài Trưởng-lão Channa.

Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta hỏi rằng:

 - Này hiền đệ Channa! Hiền đệ có kham nhẫn nổi thọ khổ không?

Tứ đại của hiền đệ có điều hòa được không?

Thọ khổ của hiền đệ giảm bớt, chứ không tăng có phải không?

Bệnh tình giảm rõ ràng, chứ không tăng có phải không?

Ngài Trưởng-lão Channa thưa rằng:

- Kính thưa Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta, đệ không thể kham nhẫn nổi thọ khổ.

Tứ đại của đệ không điều hòa được.

Thọ khổ của bệnh không thuyên giảm, mà lại tăng lên.

Bệnh tình tăng lên rõ ràng, mà không giảm bớt. Bạch Ngài Đại-Trưởng-lão.

- Kính thưa Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta:

Ví như một người đàn ông mạnh mẽ dùng cây sắt nhọn bén đâm vào đầu như thế nào, bệnh phong (gió) cực kỳ khủng khiếp đâm xoáy vào đầu của đệ cũng như thế ấy.

Ví như một người đàn ông lực lưỡng dùng sợi dây bằng da dẻo dai, bền chắc, siết chặt cái đầu như thế nào, bệnh phong cực kỳ khủng khiếp siết chặt cái đầu của đệ cũng như thế ấy.

Ví như người giết bò hoặc người phụ của người giết bò, dùng con dao mổ bụng con bò như thế nào, bệnh phong cực kỳ khủng khiếp đâm xoáy vào bụng của đệ cũng như thế ấy.

Ví như hai người đàn ông lực lưỡng, mỗi người

một bên nắm tay chân của người ốm yếu đặt lên hầm lửa đang cháy, nướng người ấy nóng bỏng như thế nào, sự nóng trong thân của đệ còn hơn thế ấy.

- Kính thưa Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta, đệ không thể kham nhẫn nổi thọ khổ.

Tứ đại của đệ không điều hòa được.

Thọ khổ của bệnh không thuyên giảm mà lại tăng lên.

Bệnh tình tăng lên rõ ràng, mà không giảm bớt. Bạch Ngài Đại-Trưởng-lão.

Ngài Trưởng-lão Channa thưa tiếp rằng:

- Kính thưa Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta, đệ sẽ đem con dao để tự cắt cổ giết hại mình, đệ không còn muốn sống để phải chịu nỗi đau đớn khủng khiếp như thế này nữa.

Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta khuyên rằng:

- Này hiền đệ Channa! hiền đệ nên dùng thuốc chữa trị. Hiền đệ dùng thuốc chữa trị để duy trì sinh-mạng, chúng tôi muốn hiền đệ dùng thuốc chữa trị để duy trì sinh-mạng.

Nếu vật thực không thích hợp với hiền đệ thì tôi sẽ tìm vật thực thích hợp.

Nếu thuốc trị bệnh không thích hợp với hiền đệ thì tôi sẽ tìm thứ thuốc thích hợp.

Nếu người nuôi bệnh không thích hợp với hiền đệ thì tôi sẽ làm người nuôi bệnh lo săn sóc hiền đệ.

Xin hiền đệ chớ nên dùng dao tự sát.

Tiếp theo Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta nhắc nhở Ngài Trưởng-lão Channa về các pháp như 6 thức-tâm với 6 đối-tượng và liên quan đến các pháp: tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến chấp-thủ và không chấp-thủ do bởi tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến.

Ngài Trưởng-lão Mahācunda cũng nhắc nhở Ngài Trưởng-lão Channa rằng:

 “Đối với người không còn có tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến, thì tâm của bậc ấy không bao giờ bị lay chuyển,…”

Sau khi nhắc nhở khuyên dạy Ngài Trưởng-lão Channa xong, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta và Ngài Trưởng-lão Mahācunda trở về chỗ ở của quý Ngài.

Khi ấy, Ngài Trưởng-lão Channa vẫn còn là hạng phàm-nhân không thể kham nhẫn nổi sự đau đớn vô cùng khủng khiếp của bệnh phong ấy, nên Ngài Trưởng-lão dùng con dao tự cắt cổ giết chết mình để thoát khỏi nỗi thọ khổ ấy.

Vốn Ngài Trưởng-lão là người có giới trong sạch và trọn vẹn, nên trước khi chết, Ngài Trưởng-lão thực-hành pháp-hành thiền-tuệ liền dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt-đoạn-tuyệt được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, đồng thời tịch diệt Niết-bàn gọi là “Bậc Thánh A-ra-hán Jīvitasamasīsi” (nghĩa là khi chứng đắc A-ra-hán Thánh-quả đồng thời tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới).

Sau khi Ngài Trưởng-lão Channa đã tự mình cắt cổ chết, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta đến hầu Đức-Thế-Tôn tại ngôi chùa Veḷuvana bạch hỏi về kiếp sau của Ngài Trưởng-lão Channa như thế nào?

Đức-Phật dạy rằng:

“Tỳ-khưu Channa đã chứng đắc A-ra-hán Thánh-quả đồng thời tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.”

Tích Ngài Trưởng-lão Channa đã chứng minh

“Tự sát không phạm điều-giới sát-sinh.”

Nếu tự-sát là phạm điều-giới sát-sinh, thì Ngài Trưởng-lão Channa không thể chứng đắc thành bậc Thánh A-ra-hán. Sự thật, Ngài Trưởng lão Channa đã trở thành bậc Thánh A-ra-hán, thì chắc chắn Ngài Trưởng-lão phải có giới trong sạch và trọn vẹn.

Người tự-sát không phạm điều-giới sát-sinh, bởi vì thiếu chi-pháp thứ nhì “pāṇasaññitā: biết rõ chúng-sinh có sinh-mạng (nghĩa là chính mình biết rõ chúng-sinh khác có sinh-mạng).

Như vậy, chi-pháp này không ám chỉ mình, mà ám chỉ chúng-sinh khác. Cho nên, người tự-sát không phạm điều-giới sát-sinh.

* Tuy người tự-sát không phạm điều-giới sát-sinh, nhưng nếu người tự-sát do sân-tâm chán đời, tuyệt vọng không muốn sống trên đời này nữa thì sau khi người ấy chết, nếu ác-nghiệp sân-tâm ấy có cơ-hội cho quả thì tái-sinh trong cõi ác-giới: địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh, chịu quả khổ cho đến khi mãn quả của nghiệp ấy, mới thoát khỏi cõi ác-giới ấy.

Như Đức-Phật dạy:

“Evameva kho bhikkhave citte saṅkiliṭṭhe duggatiṃ paṭikaṅkhā.”([7])

- Này chư Tỳ-khưu! Như vậy, khi lâm chung ác-tâm do phiền-não ô nhiễm sẽ tái-sinh trong cõi ác-giới: địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh.

Những Trường Hợp Liên Quan Đến Sự Chết

Người hy sinh sinh-mạng vì một mục đích cao thượng, với đại-thiện-tâm thiện chí của mình.

Ví dụ: Trong bộ Visuddhimagga: Thanh-Tịnh-Đạo phần Sīlaniddesa, Ngài Trưởng-lão hành đạo sống ở trong rừng.

Một hôm, bọn cướp gặp Ngài Trưởng-lão tại khu rừng, chúng cho là điều xui xẻo sẽ xảy đến với chúng, nên chúng bắt trói Ngài Trưởng-lão bằng một đoạn đầu dây rừng tươi còn dính gốc, đặt Ngài nằm tại nơi ấy, rồi bỏ đi.

Khu rừng chẳng may xảy ra vụ hỏa hoạn, đám cháy dần dần lan đến chỗ Ngài Trưởng-lão, Ngài suy xét rằng:

“Nếu ta muốn lánh khỏi nạn chết thiêu thì phải làm cho sợi dây rừng bị đứt, ta sẽ bị phạm điều-giới pācittiya.

Sự chết là điều chắc chắn sẽ xảy đến với ta, không sao tránh khỏi được (nghĩa là tránh khỏi chết hôm nay, sau này cũng phải chết).

Thà rằng, hôm nay ta chịu hy sinh sinh-mạng, quyết giữ gìn giới mà Đức-Phật đã chế định đến tỳ-khưu.”

Sau khi quyết định như vậy, Ngài Trưởng-lão vốn có giới-đức hoàn toàn trong sạch và trọn vẹn làm nền tảng, làm nơi nương nhờ, nên Ngài Trưởng-lão thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt-đoạn-tuyệt được mọi tham-ái, mọi phiền-não, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, đồng thời đám cháy lan đến thiêu đốt Ngài Trưởng-lão tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

* Để trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác cần phải tạo đầy đủ 30 pháp-hạnh ba-la-mật: 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc thường, 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc trung và 10 pháp-hạnh bậc thượng.

Để thành tựu pháp-hạnh ba-la-mật bậc thượng nào, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác cần phải hy sinh sinh-mạng của mình để thành-tựu pháp-hạnh ba-la-mật ấy.  

Sự hy sinh sinh-mạng của chư Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác vì mục đích cao thượng, để thành đạt ý nguyện trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác với đại-thiện-tâm thiện chí trong sạch và cao cả, thì không thể gọi là phạm điều-giới sát-sinh.

Như vậy, dù là người tự-sát, hoặc Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác hy sinh sinh-mạng, vẫn không phạm điều-giới sát-sinh, bởi vì không hợp đủ 5 chi-pháp của điều-giới sát-sinh.

Trường Hợp Phạm Điều-Giới Sát-Sinh,

Không Phạm Điều-Giới Sát-sinh

Vấn: Một người đi chợ mua thịt hay cá chết đem về làm đồ ăn có phạm điều-giới sát-sinh hay không?

Đáp: Căn cứ theo 5 chi-pháp phạm điều-giới sát-sinh, thì không có một chi-pháp nào cả.

Vậy người ấy không phạm điều-giới sát-sinh.

Vấn: Trong 2 trường hợp sau đây, người mua thịt cá có phạm điều-giới sát-sinh hay không?

* Một người đi chợ đến hàng bán tôm, cá; người ấy không chịu mua những con tôm, cá đã chết, mà chọn lấy những con tôm, cá còn sống, bảo người bán hàng làm thịt những con tôm, cá ấy, rồi mua đem về làm đồ ăn.

* Một người đi chợ đến hàng bán thịt gà, người ấy không chịu mua thịt gà đã làm sẵn, mà chỉ vào con gà đang còn sống, bảo với người bán hàng rằng:

Ông (bà) hãy làm thịt con gà kia bán cho tôi.

Đáp: Căn cứ theo 5 chi-pháp phạm điều-giới sát-sinh, thì hội đủ cả 5 chi-pháp. Cho nên, 2 trường hợp này, người bán phạm điều-giới sát-sinh và người mua cũng phạm điều-giới sát-sinh.

Vấn: Một người làm bếp đi chợ mua những con cá còn sống, con gà còn sống, đem về làm món ăn cho ngon miệng người chủ.

Vậy, người làm món ăn, và người chủ dùng món ăn, người nào phạm điều-giới sát-sinh, tạo ác-nghiệp ?

Đáp: Căn cứ theo 5 chi-pháp phạm điều-giới sát-sinh, người làm bếp giết cá, giết gà làm món ăn cho chủ; người làm bếp ấy phạm điều-giới sát-sinh, tạo ác-nghiệp sát-sinh, vì hội đầy đủ 5 chi-pháp phạm điều-giới sát-sinh.

* Trường hợp người chủ bảo người làm bếp phải mua cá còn sống, gà còn sống về làm món ăn cho mình, thì người chủ cũng phạm điều-giới sát-sinh, tạo ác-nghiệp sát-sinh.

* Trường hợp người chủ chẳng hay biết gì về người làm bếp giết cá, giết gà, chỉ có biết dùng những món ăn mà người làm bếp dọn lên bàn mà thôi, thì người chủ không phạm điều-giới sát-sinh, vì không có chi-pháp nào trong 5 chi phạm điều-giới sát-sinh. 

Vấn: Một người vô ý đóng cửa làm chết một con thằn lằn nằm ngay ngạch cửa. Người ấy có phạm điều-giới sát-sinh hay không?

Đáp: Người ấy không phạm điều-giới sát-sinh, vì thiếu chi-pháp tác-ý tâm-sở trong ác-tâm giết hại chúng-sinh.

Vấn: Một người tức giận con chó, có tác-ý tâm-sở đồng sinh với ác-tâm muốn đánh chết con chó, nhưng nó không chết mà chỉ bị thương nặng mà thôi.

Lần sau, người ấy lại đánh đuổi con chó ấy, có tác-ý tâm-sở đồng sinh với bất-thiện-tâm làm cho nó sợ bỏ đi, nhưng chẳng may đụng nhằm vào vết thương cũ, làm cho con chó ấy chết.

Vậy, người ấy phạm điều-giới sát-sinh trong lần thứ nhất hay lần thứ nhì?

Đáp: Người ấy đã phạm điều-giới sát-sinh trong lần thứ nhất, không phải ở lần thứ nhì, bởi vì, lần thứ nhì người ấy đánh đuổi con chó, có tác-ý tâm-sở đồng sinh với ác-tâm làm cho con chó sợ bỏ chạy đi, mà không có tác-ý tâm-sở đồng sinh với ác-tâm giết hại con chó, v.v…

Phạm Điều-Giới Sát-Sinh Tạo Ác-Nghiệp

Trọng-Tội

Người nào phạm điều-giới sát-sinh như giết cha, giết mẹ, giết bậc Thánh A-ra-hán, người ấy đã tạo ác-nghiệp trọng-tội thuộc về loại nghiệp ānantariyakamma: ác-nghiệp vô-gián trọng-tội. Người ấy sau khi chết, chắc chắn ác-nghiệp vô-gián trọng-tội ấy cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci, chịu khổ suốt thời gian lâu dài, mà không có một nghiệp nào có khả năng ngăn cản, làm gián đoạn được ác-nghiệp ấy.

Những trường hợp giết cha, giết mẹ, giết bậc Thánh A-ra-hán

* Trong đêm tối, người con không phân biệt được cha (hoặc mẹ) của mình, tưởng nhầm rằng kẻ trộm lén vào nhà lấy trộm của cải, người con giết kẻ trộm ấy, nhưng sự thật, người bị giết ấy chính là cha (hoặc mẹ) của mình.

Mặc dù vậy, người con vẫn phạm tội giết cha (giết mẹ), bởi vì người con luôn luôn ân hận vì đã giết nhầm cha (mẹ) của mình.

* Người con bị bỏ rơi từ khi mới sinh ra đời, được cô nhi viện, hoặc người khác nuôi dưỡng..

Khi trưởng thành, người ấy không biết ai là cha, ai là mẹ của mình. Nếu người ấy giết một người đàn bà, mà người ấy không biết bà ấy là mẹ của mình, hoặc giết một người đàn ông, mà người ấy không biết ông ấy là cha của mình, nhưng về sau, người con được biết người đàn ông ấy là cha, người đàn bà ấy là mẹ của mình, thì người con vẫn phạm tội giết cha (giết mẹ), bởi vì người con luôn luôn ân hận vì đã giết nhầm cha (mẹ) của mình.

* Người cha biến đổi trở thành nữ giới, người mẹ biến đổi trở thành nam giới. Nếu người con giết người đàn bà (trước kia là cha) hoặc giết người đàn ông (trước kia là mẹ), thì người con vẫn phạm tội giết cha hoặc giết mẹ.

Những trường hợp như:

- Người con là loài người, còn cha là loài súc- sinh và mẹ là loài người (trường hợp công tử Sīhabāhu xứ Srilankā, là con của một Công-chúa và một Sư tử chúa).

- Người con là loài người, còn mẹ là loài súc- sinh và cha là loài người (trường hợp Đạo-sĩ Migasinga là con của con nai và một vị Đạo-sĩ).

- Con là loài súc-sinh, cha mẹ là loài súc-sinh.

Trong 3 trường hợp trên, người con giết cha là loài súc-sinh, giết mẹ là loài súc-sinh; và con là loài súc-sinh giết cha mẹ cũng là loài súc- sinh; cả 3 trường hợp này người con đã tạo ác-nghiệp nặng sát-sinh, mà không gọi ác-nghiệp vô-gián trọng-tội.

* Một người đánh đập hành hạ một hành-giả còn là phàm-nhân đang thực-hành pháp-hành thiền-tuệ bị thương nặng. Hành-giả ấy tiếp tục thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán đồng thời tịch diệt Niết-bàn, bởi vì bị thương nặng.

Người đánh đập hành hạ ấy phạm tội giết bậc Thánh A-ra-hán, thuộc về ác-nghiệp vô-gián trọng-tội.

 Người ấy sau khi chết, chắc chắn ác-nghiệp vô-gián trọng-tội ấy cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci, chịu khổ suốt thời gian lâu dài.

* Người dùng thuốc diệt muỗi, diệt trừ sâu bọ, v.v… đều phạm điều-giới sát-sinh, bởi vì hội đầy đủ 5 chi-pháp của điều-giới sát-sinh.

Thuốc diệt vi-khuẩn – vi-trùng

Dùng thuốc để diệt vi-khuẩn, vi-trùng không phạm điều-giới sát-sinh; bởi vì vi-khuẩn, vi-trùng không có sinh-mạng cũng không có tâm-thức. Các vật ấy chỉ có tứ-đại (đất, nước, lửa, gió) phát sinh do thời tiết nóng lạnh, bên trong, bên ngoài, được phát triển tăng trưởng do hỏa-đại, di chuyển do phong-đại. Cũng như các loài thực vật (cây, cỏ,…) cũng không có sinh-mạng, không có tâm-thức.

Trong số 28 sắc-pháp; sắc-mạng-chủ (jīvitin-driyarūpa) phát sinh do nghiệp. Các loài vi- khuẩn, vi-trùng, các loài cây cỏ phát sinh do utu: thời tiếtāhāra: vật thực,… Do đó, diệt vi-khuẩn, diệt vi-trùng, chặt cây, cỏ không phạm điều-giới sát-sinh.

Trường hợp đàn bà uống thuốc ngừa thai, diệt tinh-trùng của đàn ông… không phạm điều-giới sát-sinh. Nhưng nếu trường hợp người đàn bà uống thuốc có tác-ý trong ác-tâm phá thai, thì người đàn bà ấy phạm điều-giới sát-sinh, phạm tội giết con; bởi vì thai-nhi sẽ là một đứa con.

Thật ra, khi tái-sinh đầu thai vào lòng mẹ đầu tiên, có đại-quả-tâm tái-sinh đầu thai cùng với 3 sắc-pháp là sắc-thân (kāya), sắc-nam-tính hoặc sắc-nữ-tính (bhava)sắc-ý-căn (hadaya-vatthu) nơi nương nhờ của đại-quả-tâm.

Như vậy, ngay khi đầu thai đã hình thành một chúng-sinh còn rất nhỏ, có đủ ngũ-uẩn (3 sắc-pháp thuộc sắc-uẩn, đại-quả-tâm tái-sinh gồm có 4 danh-uẩn), thai nhi có đủ ngũ-uẩn.

Còn trường hợp người mẹ bị sẩy thai ngoài ý muốn, thì người mẹ không bị phạm điều-giới sát-sinh, vì thiếu chi-pháp tác-ý trong ác-tâm giết hại chúng-sinh.

Phạm điều-giới sát-sinh này rất vi tế, cũng rất đa dạng, nên tìm hiểu trong Tạng-Luật phần giới pārājika: bất cộng trụ của tỳ-khưu.

2- Điều-Giới Tránh Xa Sự Trộm-Cắp

Adinnādānā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Nghĩa phân tích chữ:

- Adinnādānā: A + dinna + ādānā

- A: Không, không được phép.

- Dinna: Của cải, tài sản mà chủ nhân cho.

- Ādānā: Lấy, chiếm đoạt.

- Veramaṇisikkhāpadaṃ: Veramaṇī + sikkhāpadaṃ

- Veramaṇī: Tác-ý tránh xa.

- Sikkhāpadaṃ: Điều-giới, giới.

- Samādiyāmi: Con xin thọ-trì.

Adinnādānā: Lấy, chiếm đoạt của cải, tài sản mà chủ nhân không cho phép hoặc chủ nhân đang giữ gìn.

Người lấy, chiếm đoạt của cải, tài sản mà người chủ không cho, bằng cách trộm-cắp, cướp giật, lường gạt, đánh tráo, v.v… đều bị phạm điều-giới trộm-cắp.

Nghĩa toàn câu:

 Con xin thọ-trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự trộm-cắp.

Chi-Pháp Phạm Điều-Giới Trộm-Cắp

Người phạm điều-giới trộm-cắp khi hợp đủ 5 chi-pháp:

1- Của cải có chủ giữ gìn    (parapariggahitaṃ).

2- Biết rõ của cải có chủ giữ gìn (parapariggahitasaññitā).

3- Tâm nghĩ trộm-cắp (theyyacittaṃ).

4- Cố gắng trộm-cắp (payogo).

5- Lấy được của cải ấy do sự cố gắng (avahāro).

 Nếu người nào có đầy đủ 5 chi-pháp này thì người ấy phạm điều-giới trộm-cắp. Nếu không đủ 5 chi-pháp thì không phạm điều-giới trộm-cắp.

Giảng Giải Về Giới Trộm-Cắp

Của cải: Đó là các thứ tài sản tiền của, vàng bạc châu báu,…; các thú vật như voi, ngựa, trâu, bò,…; các thứ sở hữu trí tuệ,…là những thứ của cải giá trị có chủ.

Tác-ý bất-thiện-tâm trộm-cắp có 2 cách:

Bằng thân: tự mình chiếm đoạt của cải người khác.

Bằng khẩu: dùng lời nói lường gạt, hoặc sai khiến người chiếm đoạt của cải người khác đem về cho mình.

Cố gắng trộm-cắp có 6 cách:

1- Do chính mình trộm-cắp của cải người khác.

2- Sai khiến người trộm-cắp của cải người khác.

3- Ném hàng hóa, đồ đạc qua các trạm thu thuế, cửa khẩu, … để trốn thuế.

4- Sai khiến người rằng: “Chờ có cơ hội hãy trộm-cắp của cải ấy” không hạn định thời gian.

5- Dùng bùa chú, thuốc mê làm cho người chủ mê muội, rồi chiếm đoạt của cải.

6- Dùng thần thông lấy nước hồ để uống (trường hợp vị sa-di xin nước hồ để uống, Long-vương giữ hồ không cho; vị sa-di này dùng thần thông để lấy nước hồ uống).

Trường hợp này không gọi là trộm-cắp, vì người chủ là Long-vương giữ hồ, và lượng nước hao tốn không đáng kể.

Ác-Nghiệp Nặng - Nhẹ Của Điều-Giới Trộm-cắp

Ác-nghiệp nặng hoặc ác-nghiệp nhẹ của điều-giới trộm-cắp được căn cứ vào giá trị của cải, tài sản nhiều hoặc ít; và căn cứ vào chủ nhân có giới đức hoặc không có giới đức.

- Nếu người trộm-cắp của cải, tài sản có giá trị nhiều thì ác-nghiệp nặng.

- Nếu người trộm-cắp của cải, tài sản có giá trị ít thì ác-nghiệp nhẹ.

- Nếu người trộm-cắp của cải, tài sản của bậc xuất gia sa-di, tỳ-khưu thì ác-nghiệp nặng.

- Nếu người trộm-cắp của cải, tài sản của người tại gia cư sĩ thì ác-nghiệp nhẹ.

- Nếu người trộm-cắp của cải, tài sản của cá nhân thì ác-nghiệp nhẹ.

- Nếu người trộm-cắp của cải, tài sản của chung, của nhà nước thì ác-nghiệp nặng.

- Nếu người trộm-cắp tài sản của bậc Thánh-nhân thì ác-nghiệp nặng.

- Nếu người trộm-cắp tài sản của hạng phàm-nhân thì tội nhẹ.

- Nếu người trộm-cắp của cải, tài sản của chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng thì tội nặng hơn cả.

25 Cách Trộm-Cắp

25 cách trộm-cắp được chia ra làm 5 phần, mỗi phần có 5 cách.

1- Nānābhaṇḍa pañcaka: Trộm-cắp các của cải, tài sản nhiều loại có 5 cách:

1.1- Ādiyana adinnādāna: Một người muốn chiếm đoạt của cải, tài sản như đất đai, nhà cửa, …. của người khác, bằng cách thưa kiện ra tòa.

Trường hợp này người có mưu đồ chiếm đoạt tài sản của người chủ mà không liên quan đến nợ nần, tài sản thế chấp, mà đó chỉ là mưu đồ muốn làm chủ đất đai tài sản hoặc nhà cửa người khác.

Việc ra tòa xét xử lâu ngày, khiến cho người chủ nản lòng, có ý nghĩ buông bỏ tài sản ấy rằng:

 “Tài sản của ta, chắc chắn sẽ thuộc về của người khác rồi”.

Như vậy, người có mưu đồ chiếm đoạt của cải, tài sản (đất đai, nhà cửa,…) của người khác hợp đủ 5 chi-pháp phạm điều-giới trộm-cắp.

1.2- Haraṇa adinnādāna: Một người làm thuê mang của cải người khác đến một nơi đã định. Trong khi đang mang của cải đi trên đường, người ấy phát sinh tâm tham, muốn chiếm đoạt làm của mình. Khi tâm nghĩ trộm-cắp phát sinh, người ấy chỉ cần di chuyển của cải ấy rời khỏi chỗ cũ chút đỉnh, ví dụ như từ vai phải sang vai trái, hoặc từ tay phải sang tay trái.

Như vậy, người làm thuê mang của cải ấy hợp đủ 5 chi-pháp phạm điều-giới trộm-cắp.

1.3- Avaharaṇa adinnādāna: Ông A nhận giữ hộ của cải của ông B; về sau, ông B đến gặp ông A xin lấy lại những thứ của cải mà trước đây ông B đã gửi gắm nhờ ông A giữ hộ. Ông A có tâm tham muốn chiếm đoạt của cải của ông B, nên ông A đã phủ nhận rằng:

 “Tôi chưa bao giờ nhận giữ hộ của cải của ông”.

Khi ông B, người chủ của cải không còn hy vọng lấy lại của cải của mình, và nghĩ rằng:

 “Của cải mà ta đem gởi cho ông A giữ hộ trước kia, bây giờ xem như đã mất rồi”.

Như vậy, ông A nhận giữ hộ của cải của ông B, rồi chiếm đoạt của cải ấy, ông A hội đủ 5 chi-pháp phạm điều-giới trộm-cắp.

1.4- Iriyāpatha vikopana adinnādāna: Chủ nhân đang ngồi hoặc đang nằm, hoặc đang đứng,… tại nơi của cải, tài sản của mình. Người trộm cướp muốn chiếm đoạt số của cải, tài sản ấy, nên đã hăm dọa người chủ nhân phải rời khỏi nơi ấy, để y chiếm đoạt của cải ấy.

Khi bắt buộc chủ nhân phải rời khỏi nơi ấy, dù 1- 2 bước, thì người trộm cướp ấy hội đủ 5 chi-pháp phạm điều-giới trộm-cắp.

1.5- Ṭhānācāvana adinnādāna: Các báu vật mà chủ nhân đặt để một nơi, kẻ trộm cướp nhìn thấy, phát sinh tâm tham, muốn trộm-cắp báu vật ấy.

Kẻ ấy chỉ cần di chuyển báu vật ấy rời khỏi vị trí chỗ cũ chút ít, thì kẻ ấy hợp đủ 5 chi-pháp phạm điều-giới trộm-cắp.

2- Ekabhanda pañcaka: Trộm-cắp những sinh vật có sinh-mạng, có 5 cách:

2.1- Ādiyana adinnādāna: Người muốn chiếm đoạt những sinh vật có sinh-mạng như các loài gia súc của người khác, bằng cách thưa kiện.

Đến khi chủ nhân của các loài gia súc kia nản lòng buông bỏ và nghĩ rằng:

“Đàn gia súc của ta chắc chắn sẽ thuộc về người khác”.

Như vậy, người chiếm đoạt hợp đủ 5 chi-pháp phạm điều-giới trộm-cắp.

2.2- Haraṇa adinnādāna: Một người làm thuê dắt con bò đi đến một nơi đã định. Trên đường đi, người ấy phát sinh tâm tham, muốn chiếm đoạt con bò ấy trở thành của mình.

Sau khi suy nghĩ xong, người ấy chỉ cần dắt bò đi theo con đường khác hoặc có ý trao từ tay này sang tay khác.

Như vậy, người làm thuê ấy đã hợp đủ 5 chi-pháp phạm điều-giới trộm-cắp.

2.3- Avaharaṇa adinnādāna: Ông A nhận giữ hộ con bò của ông B. Về sau, ông B đến gặp ông A xin nhận lại con bò mà trước đây ông đã nhờ ông A giữ hộ, nhưng ông A có tâm tham, muốn chiếm đoạt con bò của ông B, nên ông A đã phủ nhận rằng:

“Tôi chưa bao giờ nhận giữ hộ con bò của ông.”

Khi ông B không còn hy vọng nhận lại con bò của mình được nữa, thì nghĩ rằng:

“Chắc chắn ta không thể lấy lại con bò được”.

Như vậy, ông A đã nhận giữ hộ con bò mà không chịu trả lại, hợp đủ 5 chi-pháp phạm điều-giới trộm-cắp.

2.4- Iriyāpatha vikopana adinnādāna: Người, hoặc trâu, bò, … đang đi, đứng, nằm, tại một địa điểm nào đó; người có tâm tham muốn bắt cóc người để vụ lợi, hoặc bắt trộm trâu, bò dắt đi bán.

Khi người, hoặc trâu, bò chỉ cần bị di chuyển 1- 2 bước khỏi nơi ấy mà thôi, người ấy đã hợp đủ 5 chi-pháp phạm điều-giới trộm-cắp.

2.5- Ṭhānācāvana adinnādāna: Chủ nhân đang nhốt trâu, bò ở trong chuồng. Người có tâm tham, muốn dắt trộm trâu, bò ra khỏi chuồng.

Khi trâu, bò bị dắt ra khỏi chuồng 1-2 bước mà thôi, là người ấy đã hợp đủ 5 chi-pháp phạm điều-giới trộm-cắp.

3- Sahatthika pañcaka: Chính tự mình trộm-cắp, có 5 cách:

3.1- Sahatthika adinnādāna: Chính tự mình trộm-cắp của cải, tài sản của người khác.

Như vậy, người ấy hợp đủ 5 chi-pháp phạm điều-giới trộm-cắp.

3.2- Āṇattika adinnādāna: Sai khiến người khác đi trộm-cắp của cải, tài sản của người khác. Và người bị sai đi đã trộm-cắp của cải, tài sản ấy.

Như vậy, người sai khiến hợp đủ 5 chi-pháp phạm điều-giới trộm-cắp, và người bị sai cũng phạm điều-giới trộm-cắp.

3.3- Nissaggiya adinnādāna: Giấu hàng hóa để trốn thuế.

Như vậy, người giấu hàng hóa ấy hợp đủ 5 chi-pháp phạm điều-giới trộm-cắp.

3.4- Atthasādhaka adinnādāna: Người ra lệnh cho nhóm thuộc hạ tay sai đi trộm-cắp của cải của người khác, nếu khi có cơ hội, không hạn định thời gian. Và nhóm thuộc hạ đã đi trộm-cắp của cải ấy.

Như vậy, người ra lệnh phạm điều-giới trộm-cắp, và nhóm thuộc hạ cũng phạm điều-giới trộm-cắp.

3.5- Dhuranikkhepa adinnādāna: Người vay mượn tiền của người khác, hoặc nhận lãnh cất giữ tài sản của cải của người khác. Khi người chủ nhân đến đòi nợ, hoặc xin nhận lại tài sản của cải đã gửi gắm. Người vay mượn (con nợ) hoặc người nhận lãnh cất giữ của cải từ chối rằng:

 “Tôi không hề vay mượn tiền của của ông, hoặc tôi không hề nhận lãnh cất giữ tài sản của cải cho ông.”

Người chủ nhân quyết định buông bỏ rằng:

“Tiền của, hoặc tài sản của cải của ta chắc chắn đã bị người ấy chiếm đoạt rồi.”

Ngay khi ấy, người vay mượn tiền của, hoặc người nhận lãnh cất giữ của cải mà không trả lại, hợp đủ 5 chi-pháp phạm điều-giới trộm-cắp.

4- Pubbapayoya pañcaka: Phạm điều-giới trộm-cắp trước khi lấy trộm tài sản, của cải của người khác, có 5 cách:

4.1- Pubbapayoya adinnādāna: Người ra lệnh cho người khác đi trộm-cắp rằng:

Bằng mọi cách ngươi phải trộm-cắp cho được của cải ấy.

Khi ra lệnh xong, người ấy phạm điều-giới trộm-cắp ngay khi ấy.

4.2- Sahapayoya adinnādāna: Người nào phát sinh tâm trộm-cắp tài sản, của cải của người khác, đồng thời cố gắng di chuyển tài sản, của cải ra khỏi chỗ cũ. Người ấy phạm điều-giới trộm-cắp.

Người nào phát sinh tâm gian lận, lấn chiếm đất đai của người khác, đồng thời cố gắng dời

cột mốc ranh giới sang phần đất của người bên cạnh. Người ấy phạm điều-giới trộm-cắp.

4.3- Saṃvidāvahāra adinnādāna: Một nhóm người (từ 2 người trở lên) hợp thành nhóm cùng nhau đi trộm cướp. Trong nhóm người ấy, nếu có một người nào trộm cướp được của cải, tài sản của người khác, thì cả nhóm người ấy đều phạm điều-giới trộm-cắp.

4.4- Saṅketakamma adinnādāna: Người sai khiến bọn thuộc hạ đi trộm-cắp, có quy định thời gian rõ ràng, ví dụ vào lúc nửa đêm 24 giờ chẳng hạn.

- Nếu bọn thuộc hạ thực hiện hành động trộm-cắp đúng theo giờ quy định (24 giờ), thì người sai khiến phạm điều-giới trộm-cắp, và bọn thuộc hạ cũng phạm điều-giới trộm-cắp.

Nếu bọn thuộc hạ thực hiện hành động trộm-cắp vào lúc thời gian sớm hoặc muộn hơn thời gian quy định (trước hoặc sau 24 giờ) thì người sai khiến không phạm điều-giới trộm-cắp, chỉ có bọn thuộc hạ phạm điều-giới trộm-cắp mà thôi.

4.5- Nimittakamma adinnādāna: Người sai khiến bọn thuộc hạ đi trộm-cắp, theo hiệu lệnh như vỗ tay, huýt gió… để thực hiện hành động trộm-cắp.

- Nếu bọn thuộc hạ thực hiện hành động trộm-cắp đúng theo hiệu lệnh, thì người sai khiến phạm điều-giới trộm-cắp, và bọn thuộc hạ cũng phạm điều-giới trộm-cắp.

- Nếu bọn thuộc hạ thực hiện hành động trộm-cắp mà không theo hiệu lệnh đã quy định, thì người sai khiến không phạm điều-giới trộm-cắp, chỉ có bọn thuộc hạ phạm điều-giới trộm-cắp mà thôi.

5- Theyyāvahāra pañcaka: Trộm-cắp bằng cách lừa bịp, có 5 cách:

5.1- Theyyāvahāra adinnādāna: Người bán hàng cân hàng hóa thiếu, bán đồ giả, buôn bán hàng lậu, trốn thuế, … người ấy phạm điều-giới trộm-cắp.

5.2- Pasayhāra adinnādāna: Người dùng vũ khí (súng, dao, …) để hăm dọa người khác, bắt buộc người khác phải trao của cải, vàng bạc, … Người ấy phạm điều-giới trộm-cắp.

5.3- Parikappāvahāra adinnādāna: Người muốn trộm-cắp một thứ nào đó, dù đã được thứ ấy, hoặc được một thứ nào khác, mà vẫn hài lòng, thì người ấy phạm điều-giới trộm-cắp.

5.4- Paṭicchannāvahāra adinnādāna: Một người vào nhà người khác nhìn thấy món đồ quý giá (nhẫn kim cương, hột xoàn, v.v…) mà người chủ để trên bàn. Người ấy phát sinh tâm tham, muốn chiếm đoạt món đồ ấy trở thành của mình, nên đã lấy món đồ ấy đem giấu kín một nơi khác, chờ cơ hội người chủ đi khỏi nơi đó, mới lấy món đồ ấy đem đi.

Trong khi lấy món đồ ấy đem giấu kín một nơi, người ấy chưa phạm điều-giới trộm-cắp.

Đến khi người chủ tìm không thấy món đồ của mình, do công việc gấp phải đi khỏi nơi đó và có ý định sau khi xong công việc sẽ trở lại tìm kỹ hơn.

Khi người chủ rời khỏi nơi đó rồi, người trộm-cắp lấy món đồ ấy, người ấy phạm điều-giới trộm-cắp.

5.5- Kusāvahāra adinnādāna: Trộm-cắp lấy món đồ quý giá của người khác rồi thay thế vào đó món đồ không giá trị của mình.

Ví dụ: Một người lấy chiếc đồng hồ đắt giá của người khác, rồi thay thế vào đó một chiếc đồng hồ xấu, rẻ tiền của mình; hoặc có hai gói quà, một gói có tên của mình và một gói là tên của người khác. Người ấy nhìn thấy gói quà có tên của người khác gồm các món đồ quý giá, còn gói quà có tên của mình gồm các món đồ tầm thường, nên người ấy liền bóc miếng giấy ghi tên của mình gắn vào gói quà của người khác, và bóc miếng giấy ghi tên của người khác gắn vào gói quà của mình, v.v…

Người có tâm tham thay đổi món đồ xấu lấy đồ tốt, hoặc thay đổi tên của mình thế vào chỗ tên của người khác, … người ấy phạm điều-giới trộm-cắp.

Phạm Điều-giới - Không Phạm Điều-giới

Trộm-cắp

Để biết có phạm điều-giới trộm-cắp hay không phạm điều-giới trộm-cắp thì căn cứ vào tác-ý (cetanā).

- Nếu người có tác-ý trong bất-thiện-tâm hợp đủ 5 chi-pháp của điều-giới trộm-cắp thì phạm điều-giới trộm-cắp. Nếu có tác-ý trong bất-thiện-tâm mà không đủ chi-pháp của điều-giới trộm-cắp thì không phạm điều-giới trộm-cắp.

Ví dụ: Nhìn thấy con mèo cắn chết  con gà của người khác, người ấy bắt buộc con mèo thả con gà ra để cho y ăn thịt.

Vậy, người ấy đã phạm điều-giới trộm-cắp.

Nhưng khi nhìn thấy con mèo bắt con gà còn sống, người ấy bắt buộc con mèo thả con gà ra, để cứu mạng con gà, không cho con mèo ăn thịt con gà.

Vậy, người ấy không phạm điều-giới trộm-cắp, mà còn tạo được phước-thiện cứu mạng.

Trường hợp ông Bà-la-môn Doṇa là người đứng ra làm trung gian phân chia Xá-lợi của Đức-Phật Gotama cho các nước lớn; Đức-vua mỗi nước thỉnh Xá-lợi Phật đem về, rồi tạo ngôi Bảo-tháp để tôn thờ Xá-lợi Đức-Phật.

Trong khi phân chia Xá-lợi Đức-Phật, ông Bà-la-môn Doṇa thỉnh ‘Xá-lợi Răng-nhọn’ giấu kín trên đầu tóc của mình, để tôn thờ.

Đức-vua-trời Sakka trên cõi trời Tam-thập-tam-thiên nhìn thấy, suy xét rằng:

 “Ông Bà-la-môn Doṇa không thể có một ngôi Bảo-tháp xứng đáng để tôn thờ Xá-lợi Răng-nhọn của Đức-Phật. Ta nên hiện xuống thỉnh Xá-lợi Răng-nhọn về cõi trời này.”

Suy nghĩ xong, Đức-vua-trời Sakka([8]) hiện xuống cõi người, thỉnh ‘Xá-lợi Răng-nhọn’ từ trên đầu tóc của ông Bà-la-môn Doṇa, mà ông chẳng hề hay biết. Đức-vua-trời Sakka thỉnh về tôn thờ trong ngôi Bảo-tháp Cūḷāmaṇī tại cung trời Tam-thập-tam-thiên, để cho toàn thể chư-thiên lễ bái cúng-dường.

Như vậy, Đức-vua-trời Sakka không phạm điều-giới trộm-cắp, bởi vì Đức-vua-trời là bậc Thánh Nhập-lưu có tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm cung-kính, có giới-đức hoàn toàn trong sạch trọn vẹn, nên chỉ có nhiều phước-thiện cung-kính mà thôi.

Như vậy, người phạm điều-giới trộm-cắp hay không phạm điều-giới trộm-cắp do căn cứ vào tác-ý (cetanā) là chính. Nếu người có tác-ý tâm-sở đồng sinh với bất-thiện-tâm, rồi tạo ác-nghiệp trộm-cắp do thân hoặc khẩu thì phạm điều-giới trộm-cắp; nhưng nếu người có tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm, rồi tạo đại-thiện-nghiệp do thân hoặc khẩu thì không phạm điều-giới, mà chỉ tạo đại-thiện-nghiệp mà thôi.

Cho nên, để biết người nào có phạm điều-giới hoặc không phạm điều-giới, thì nên hỏi rõ người ấy có tác-ý như thế nào, rồi mới quyết định phạm điều-giới hay không phạm.

3- Điều-Giới Tránh Xa Sự Tà-Dâm

Kāmesumicchācārā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Nghĩa phân tích chữ:

- Kāmesumicchācāra: Kāmesu + micchā + cāra.

- Kāmesu có nghĩa là trong sự hành-dâm (Kāmesu’ ti methunasamācāresu: Kāmesu có nghĩa là hành-dâm).

- Micchā: Tà, bất chính.

- Cāra: Hành vi.

- Veramaṇisikkhāpadaṃ: Veramaṇī + sikkhāpadaṃ

- Veramaṇī: Tác-ý tránh xa.

- Sikkhāpadaṃ: Điều-giới, giới.

- Samādiyāmi: Con xin thọ-trì.

- Kāmesumicchācāra: Hành vi tà, bất-chính xấu xa trong sự hành-dâm, mà chư bậc thiện-trí đều chê trách.

Bậc thiện-trí chê trách những người đàn ông hoặc người đàn bà nào có hành vi tà, bất chính xấu xa trong quan hệ tình-dục, mà không phải là vợ, là chồng của nhau, những người ấy bị phạm điều-giới tà-dâm.

Nếu hai người là vợ, là chồng của nhau đúng theo phong tục tập quán, được sự công nhận của hai bên cha mẹ, bà con dòng họ, và cũng được chính quyền chấp thuận, mọi người công nhận… thì sự quan hệ tình-dục giữa hai vợ chồng với nhau là việc bình thường của người đời, không bị chê trách, không phạm điều-giới tà-dâm.

Người phạm điều-giới tà-dâm chỉ tạo thân ác-nghiệp hoặc thân hành ác mà thôi, không liên quan đến khẩu và ý.

Nghĩa toàn câu: Con xin thọ-trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự tà-dâm.

Chi-Pháp Phạm Điều-Giới Tà-Dâm

Người phạm điều-giới tà-dâm khi hợp đủ 4 chi-pháp:

1- Đối-tượng người nữ không được quan hệ tình-dục (agamaniyavatthu).

2- Tâm tham muốn quan hệ tình-dục  (tasmiṃ sevanacittaṃ).  

3- Sự cố gắng hành-dâm (payogo).

4- Tâm thỏa thích trong sự tiếp xúc giữa hai bộ phận sinh-dục nam với nữ với nhau

  (maggenamaggapaṭipatti addhivāsaṃ).

Nếu người nào có đầy đủ 4 chi-pháp này thì người ấy phạm điều-giới tà-dâm. Nếu không đủ 4 chi-pháp thì không phạm điều-giới tà-dâm.

Giảng Giải Về Điều-Giới Tà-dâm

Con trai, đàn ông không được quan hệ tình-dục với 20 người con gái, đàn bà sau đây:

1- Con gái có mẹ trông nom (cha chết hay ở xa).

2- Con gái có cha trông nom (mẹ chết hay ở xa).

3- Con gái có mẹ cha trông nom.

4- Con gái có chị hoặc em gái trông nom.

5- Con gái có anh hoặc em trai trông nom.

6- Con gái có bà con trông nom.

7- Con gái có dòng họ trông nom (nếu con gái sống ở ngoại quốc thì có người cùng dân tộc trông nom).

 8- Con gái tu hành phạm hạnh có thầy, bạn trông nom.

9- Con gái đã có người quyền thế đến làm mai mối rồi. 

10- Con gái đã nhận lễ hứa hôn của đằng trai.

11- Con gái được một người đàn ông chuộc về làm vợ.

12- Con gái đã ưng thuận đi theo người mình yêu làm vợ.

13- Con gái đã ưng thuận làm vợ của một người đàn ông với hy vọng có được của cải.

14- Con gái đã ưng thuận làm vợ của một người đàn ông với hy vọng có được đồ trang sức.

15- Con gái đã làm lễ thành hôn với một người đàn ông đúng theo phong tục tập quán.

16- Con gái nghèo buôn bán đã được một người đàn ông thương yêu, rồi đem về nuôi để làm vợ.  

17- Con gái là tù nhân đã được người đàn ông lấy làm vợ.

18- Con gái làm trong công sở đã được người chủ sở lấy làm vợ.

19- Con gái tôi tớ trong nhà đã được người chủ nhà lấy làm vợ.

20- Con gái chịu làm vợ trong thời gian ngắn. (như các cô kỹ-nữ).

Nếu người con trai, đàn ông nào xúc phạm quan hệ bất chính hành-dâm với 1 trong 20 người con gái, đàn bà ấy thì người đàn ông ấy phạm điều-giới tà-dâm. 

Tuy nhiên trong 20 hạng con gái ấy, 8 hạng con gái phần đầu kể từ “con gái có mẹ trông nom” cho đến “con gái là người tu hành phạm-hạnh” tuy có người thân trông nom bảo vệ, nhưng những người thân này không phải là chủ cuộc đời của họ. 8 hạng con gái này là người chưa có chồng, chưa có người đàn ông nào làm chủ cuộc đời của họ.

Vì vậy, nếu 8 người con gái này tự ý lén lút yêu thương một người con trai còn độc-thân khác, và hai người này đã có quan hệ tình-dục với nhau.

Nếu xét về điều-giới tà-dâm thì người con gái ấy không phạm điều-giới tà-dâm, chỉ có người con trai phạm điều-giới tà-dâm mà thôi, bởi vì người con trai ấy đã xúc phạm đến người con gái mà người thân của cô ấy chưa cho phép.

Tuy người con gái không phạm điều-giới tà-dâm, nhưng đó là hành vi xấu xa không đúng theo phong tục tập quán, đáng bị mọi người chê trách, cha mẹ, bà con dòng họ bị mang tiếng xấu.

Cho nên, người con gái ấy cảm thấy hổ-thẹn tội-lỗi, ăn năn hối-hận, đó là phiền-não làm cho tâm bị ô nhiễm.

Người con gái ấy sau khi chết, nếu ác-nghiệp hối hận ấy có cơ-hội cho quả tái-sinh kiếp sau thì sinh trong cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh).

12 hạng con gái còn lại, kể từ hạng con gái thứ 9 cho đến hạng con gái thứ 20, là người đã có chồng, đã có người đàn ông làm chủ cuộc đời của họ (cô kỹ-nữ ưng thuận làm vợ của một người đàn ông trong thời gian ngắn, cô vẫn được xem như đã có chồng).

Trong 12 hạng con gái này, nếu người con gái nào tự ý ngoại tình và có quan hệ tình-dục với một người đàn ông nào khác (không phải là chồng của mình), thì người con gái, đàn bà ấy phạm điều-giới tà-dâm.

Như vậy, người con trai, đàn ông không được phép quan hệ tình-dục với 20 hạng con gái ấy. Nếu người con trai, đàn ông nào có quan hệ tình-dục với 1 trong 20 người con gái ấy, thì người con trai, đàn ông ấy phạm điều-giới tà-dâm.

* Và nếu người con gái, đàn bà nàoquan hệ tình-dục với người đàn ông, con trai đã có vợ hoặc có vợ mà chưa cưới thì người con gái, đàn bà ấy phạm điều-giới tà-dâm, bởi vì người đàn ông, con trai ấy đã có vợ làm chủ.

Ác-Nghiệp Nặng - Nhẹ Của Điều-Giới Tà-Dâm

- Nếu người nào phạm điều-giới tà-dâm với người có giới đức thì người ấy tạo ác-nghiệp nặng.

- Nếu người nào phạm điều-giới tà-dâm với người không có giới đức, thì người ấy tạo ác-nghiệp nhẹ.

- Nếu người nào phạm điều-giới tà-dâm bằng cách hiếp-dâm, dù với người không có giới, thì người ấy vẫn tạo ác-nghiệp nặng.

- Nếu người nào phạm điều-giới tà-dâm giữa hai bên nam nữ cùng thỏa thuận với nhau, thì người ấy tạo ác-nghiệp nhẹ.

- Nếu người nào phạm điều-giới tà-dâm với bậc Thánh-nhân, thì người ấy tạo ác-nghiệp nặng hơn phạm điều-giới tà-dâm với hạng phàm-nhân.

- Nếu người nào phạm điều-giới tà-dâm với bậc Thánh-nhân càng cao, thì người ấy tạo ác-nghiệp càng nặng.

- Nếu người nào hiếp-dâm bậc Thánh nữ A-ra-hán thì người ấy tạo ác-nghiệp nặng nhất.

Như trường hợp tên Nanda hiếp-dâm Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Uppalavaṇṇā, là bậc Thánh A-ra-hán. Tên Nanda đã phạm tội nặng làm cho mặt đất nứt nẻ ra hút y vào sâu trong lòng đất.

Tên Nanda sau khi chết, ác-nghiệp tà-dâm ấy cho quả tái-sinh vào cõi đại-địa-ngục Avīci, chịu quả khổ suốt thời gian lâu dài.

Vấn Đề Liên Quan Đến Tà-Dâm

Người đàn bà nào đã có chồng, nghĩa là người đàn bà đã có người đàn ông làm chủ và cũng đã chấp nhận làm vợ của người đàn ông ấy rồi. Như vậy, phần thân xác của cô đã có chủ, cô có phận-sự giữ gìn thân xác của mình, chỉ dành cho người chồng của cô mà thôi.

Nếu cô ấy ngoại tình, yêu một người đàn ông khác, và có quan hệ tình-dục với người đàn ông ấy, thì cô đã tự trộm-cắp thân xác đã có chủ đem trao cho người đàn ông khác, cho nên cô ấy phạm điều-giới tà-dâm.

Cũng tương tự như vậy, người đàn ông đã có vợ, nghĩa là người đàn ông đã có một người đàn bà làm chủ và cũng đã chấp nhận làm chồng của cô ấy rồi.

Như vậy, phần thân xác của ông ấy đã có chủ, ông ấy có phận-sự giữ gìn thân xác của mình, chỉ dành cho người vợ của mình mà thôi.

Nếu ông ấy ngoại tình, yêu một người đàn bà nào khác, và có quan hệ tình-dục với người đàn bà ấy, thì ông đã tự trộm-cắp thân xác đã có chủ đem trao cho người đàn bà khác, cho nên ông ấy phạm điều-giới tà-dâm.

Vấn: Trong đời, nếu đàn ông đã có người vợ cả rồi, còn có thêm người vợ lẽ nữa. Như vậy, người đàn ông ấy có phạm điều-giới tà-dâm hay không?

Đáp: Người đàn ông ấy phạm điều-giới tà-dâm, và cũng có thể không phạm điều-giới tà-dâm.

Trường hợp phạm điều-giới tà-dâm:

Người đàn ông đã có vợ, rồi lén lút ngoại tình, yêu một người đàn bà khác như một nhân tình hoặc như người vợ lẽ, và có quan hệ tình-dục bất chính, nên người đàn ông ấy đã tự trộm-cắp thân xác của mình đã có vợ cả làm chủ, đem trao cho người đàn bà khác.

Vì vậy, người đàn ông ấy phạm điều-giới tà-dâm.

Trường hợp không phạm điều-giới tà-dâm:

Người đàn ông đã có vợ rồi, người vợ không có con để nối dòng dõi. Người đàn ông ấy muốn có người vợ lẽ. Chính người vợ sẽ đi hỏi cưới người đàn bà khác đem về cho chồng mình làm người vợ lẽ.

Như vậy, người vợ cả đã đồng ý chia quyền làm chủ thân xác của người chồng cho người vợ lẽ.

Cho nên, người chồng được phép quan hệ tình-dục với người vợ lẽ, mà không phạm điều-giới tà-dâm.

Vấn: Trường hợp đồng tính luyến ái có phạm điều-giới tà-dâm hay không?

Đáp: Đối với người tại gia cư sĩ, nếu hai người đàn ông độc thân với nhau, hoặc hai người đàn bà độc thân với nhau, thì họ không phạm điều-giới tà-dâm, nhưng đó là hành vi không thuận theo lẽ tự nhiên trong đời mà bậc thiện-trí chê trách.

 Còn đối với bậc xuất-gia, nếu có hành vi đồng tính luyến ái như vậy thì chắc chắn phạm điều-giới hành-dâm, không còn phẩm-hạnh của bậc xuất-gia nữa.

Vấn: Người đàn bà hoặc người đàn ông có quan hệ tình dục với loài gia súc (chó, khỉ,…) có phạm điều-giới tà-dâm hay không?

Đáp: Trong trường hợp ấy, có thể phạm điều-giới tà-dâm và cũng có thể không phạm điều-giới tà-dâm.

Trường hợp phạm điều-giới tà-dâm:

Nếu người đàn bà nào đã có chồng, hoặc người đàn ông nào đã có vợ rồi, mà có quan hệ tình-dục với loài gia súc (chó, khỉ…), thì người đàn bà ấy hoặc người đàn ông ấy phạm điều-giới tà-dâm.

Ví dụ: Trong thời kỳ Đức-Phật còn hiện hữu trên thế gian, bà Mallikā([9]) chánh-cung hoàng-hậu của Đức-vua Pasenadi Kosala phạm điều-giới tà-dâm với con chó trong phòng tắm. Đức-vua nhìn thấy nhưng bà nói-dối là không có làm như vậy.

Bà chánh-cung hoàng-hậu Mallikā vốn là người cận-sự-nữ có đức tin trong sạch nơi Tam-bảo, có trí-tuệ, hết lòng thành kính làm phước bố-thí cúng-dường đến Đức-Phật cùng chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng.

Thế mà, sau khi bà chết, do giới không trong sạch, ác-nghiệp ấy có cơ hội cho quả tái-sinh trong cõi đại-địa-ngục suốt 7 ngày.

Đến ngày thứ 7 mới mãn quả của ác-nghiệp, rồi được tái-sinh lên cõi trời Tusita (Đâu-xuất đà-thiên là cõi trời thứ 4 trong 6 tầng trời dục giới) hưởng mọi sự an-lạc của cõi trời ấy.

Và trong Tạng-Luật, phần giới tỳ-khưu có một tỳ-khưu phạm điều-giới hành-dâm với con khỉ cái.

Do đó, Đức-Phật chế định thêm vào điều-giới thứ nhất như sau:

“Tỳ-khưu nào hành-dâm với người hoặc loài súc-sinh, tỳ-khưu ấy bị phạm điều-giới pārājika mất phẩm-hạnh tỳ-khưu.”

Đối với người tại gia cư sĩ độc thân (không có vợ hoặc không có chồng), mà hành-dâm với loài gia súc (chó, khỉ, …) có chủ, là phạm điều-giới tà-dâm.

Trường hợp không phạm điều-giới tà-dâm:

Người tại gia cư sĩ độc thân (không có vợ hoặc không có chồng) nếu hành-dâm với loài gia-súc (chó, khỉ, …) vô chủ, thì không phạm điều-giới tà-dâm. Nhưng đó là một hành vi đáng xấu hổ, trái với luân thường đạo lý, đáng chê trách; bởi vì không phù hợp với phong tục tập quán trong đời.

Sự hành-dâm là sự quan hệ tình-dục giữa nam và nữ, đó là việc bình thường xảy ra đối với một số người tại gia trong đời.

Người thiện-trí hành phẩm-hạnh cao quý có tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm tránh xa sự hành-dâm.

Nếu người cận-sự-nam, cận-sự-nữ nào thọ-trì bát-giới uposathasīla trong những ngày giới hằng tháng thì người cận-sự-nam, cận-sự-nữ ấy  tránh xa sự hành-dâm với vợ hoặc chồng của mình trong những ngày giới ấy.

Những tu-nữ hoặc những người sống trong chùa thực-hành phẩm-hạnh cao quý thọ-trì bát-giới uposathasīla thì họ tránh xa sự hành-dâm suốt đời.

Những bậc xuất-gia là vị sa-di, vị tỳ-khưu thực-hành phẩm-hạnh cao-quý đều tránh xa sự hành-dâm trọn đời xuất gia.

4- Điều-Giới Tránh Xa Sự Nói-Dối

Musāvādā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Nghĩa từng chữ:

- Musāvāda: Musā + vāda

- Musā: Chuyện dối trá, điều không thật, vật không có,

- Vāda: Lời nói.

Ví dụ: tôi biết chuyện ấy mà nói tôi không biết; tôi không biết chuyện ấy mà nói tôi biết,… như vậy “chuyện ấy” là chuyện musā: lừa dối.

Tôi có tiền mà nói tôi không có tiền; tôi không có tiền mà nói tôi có tiền, … như vậy “tiền” là vật musā: lừa dối.

- Veramaṇisikkhāpadaṃ: Veramaṇī + sikkhāpadaṃ

- Veramaṇī: tác-ý tránh xa.

- Sikkhāpadaṃ: điều-giới, giới.

- Samādiyāmi: Con xin thọ-trì.

Điều không thật, vật không có, v.v… người ta có tác-ý tâm-sở đồng sinh với bất-thiện-tâm muốn lừa dối người khác, nên nói rằng: “điều ấy là thật, vật ấy là có.”

Như vậy, gọi là nói-dối (musāvāda) cốt để cho người khác tin là thật.

Sự nói-dối này phát sinh phần nhiều do khẩu nói bằng lời nói, và đôi khi cũng phát sinh do thân bằng cử động lắc đầu phủ định, gật đầu khẳng định, … mặc dù vậy, vẫn gọi là nói-dối (musāvāda).

Nghĩa toàn câu:

Con xin thọ-trì điều-giới, có tác ý tránh xa sự nói-dối.

Chi-Pháp Của Điều-Giới Nói-Dối

Người phạm điều-giới nói-dối hợp đủ 4 chi-pháp:

1- Điều không thật, vật không có (atthavatthu).

2- Tâm nghĩ lừa dối (visaṃvādanacittatā).

3- Cố gắng lừa dối bằng lời nói hoặc bằng thân cử động theo tâm nghĩ lừa dối của mình (payoga).

4- Người nghe tin theo sự lừa dối ấy (tadattha vijānanaṃ).

 Nếu người nào có đầy đủ 4 chi-pháp này thì người ấy phạm điều-giới nói-dối. Nếu không đủ 4 chi-pháp thì không phạm điều-giới nói-dối.

Giảng Giải Về Sự Nói-Dối

Những điều không thật như:

- Điều mình không thấy, nói rằng: tôi thấy.

- Điều mình không nghe, nói rằng: tôi nghe.

- Điều mình không biết, nói rằng: tôi biết.

- Điều mình thấy, nói rằng: tôi không thấy.

- Điều mình nghe, nói rằng: tôi không nghe.

- Điều mình biết, nói rằng: tôi không biết, …

Những vật không có như:

- Vật ấy mình không có, nói rằng: tôi có.

- Vật ấy mình có, nói rằng: tôi không có, v.v…

Tâm nghĩ lừa dối người nghe có 2 trường hợp:

1- Tâm nghĩ lừa dối người nghe, nhưng không gây thiệt hại đến cho người tin theo, thì chỉ phạm điều-giới nói-dối không cho quả tái-sinh trong cõi ác-giới.

2- Tâm nghĩ lừa dối người nghe, để gây thiệt hại đến cho người tin theo, thì thật là lừa dối, cho nên phạm điều-giới nói-dối, cho quả tái-sinh trong cõi ác-giới.

Sự cố gắng lừa dối bằng lời nói hoặc bằng thân cử động có 4 cách:

1- Tự mình cố gắng lừa dối bằng lời nói-dối hoặc bằng thân cử động lắc đầu phủ định điều có thật, hoặc gật đầu khẳng định điều không có thật.

2- Sai khiến người khác lừa dối bằng khẩu nói-dối, hoặc bằng thân ra hiệu.

3- Viết chuyện không thật trên báo, trong thư, nói điều không thật trên đài phát thanh, … lan truyền lừa dối độc giả, thính giả, … tin theo cho là thật.

4- Viết sách nội dung không có thật, ghi âm thanh điều không thật vào băng đĩa, … có tính cách lâu dài, để lừa dối độc giả, thính giả tin theo.

Người nào có tác-ý trong bất-thiện-tâm lừa dối người khác, nếu người khác tin theo sự lừa dối của mình, nên hội đầy đủ 4 chi-pháp thì người ấy phạm điều-giới nói-dối, tạo ác-nghiệp nói-dối. Nhưng nếu người khác không tin theo sự lừa dối ấy, nên không hội đủ 4 chi-pháp thì người ấy không phạm điều-giới nói-dối.

Ác-Nghiệp Nặng - Nhẹ Của Điều-Giới Nói-Dối

Người phạm điều-giới nói-dối tạo ác-nghiệp nặng hoặc ác-nghiệp nhẹ căn cứ vào sự thiệt hại nhiều hoặc ít đến cho người tin theo sự nói-dối ấy.

- Nếu người nào phạm điều-giới nói-dối đã gây ra sự thiệt hại nhiều đến cho người tin theo sự nói-dối, thì người nói-dối ấy đã tạo ác-nghiệp nói-dối nặng, ác nghiệp này có cơ-hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi ác-giới.

- Nếu người nào phạm điều-giới nói-dối nhưng không gây ra sự thiệt hại nào đáng kể đến cho người tin theo sự nói-dối, thì người nói-dối ấy đã tạo ác-nghiệp nói-dối nhẹ, ác nghiệp này không có cơ-hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi ác-giới, mà có cơ-hội cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh.

Tính Chất Của Sự Nói-dối

* Đối với người cận-sự-nam, cận-sự-nữ:

Nói-dối là 1 giới cấm trong ngũ-giới, trong bát-giới uposathasīla, trong cửu giới uposatha-sīla, … mà người tại gia nói chung cần phải giữ gìn cho được trong sạch, thì được nhiều phước-thiện cao quý.

Nếu người nào phạm điều-giới nói-dối thì người ấy đã tạo ác-nghiệp nói-dối nặng hoặc nhẹ tùy theo sự thiệt hại đã gây ra đối với người tin theo sự lừa dối ấy.

Ngay kiếp hiện-tại người phạm điều-giới nói-dối ấy bị mất uy tín đối với nhiều người, nếu tạo ác-nghiệp nói-dối nặng thì ác-nghiệp nói-dối ấy có cơ-hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi ác-giới.

* Đối với bậc xuất-gia là vị sa-di, tỳ-khưu:

Đối với vị Sa-di:

Nói-dối là 1 điều-giới cấm trong 10 sa-di giới, nếu vị sa-di nào phạm điều-giới nói-dối thì vị sa-di ấy bị mất phẩm-hạnh sa-di, không còn là vị sa-di nữa.

Nếu vị sa-di ấy biết mình không còn phẩm-hạnh sa-di nữa, thì nên biết cách phục hồi phẩm-hạnh sa-di trở lại, bằng cách tìm đến vị Thầy tế-độ hoặc Ngài Trưởng-lão đảnh lễ Ngài, kính xin Ngài hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo trở lại.

Sau khi vị Thầy hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo và vị sa-di ấy lặp lại phép quy-y Tam-bảo đúng theo ṭhāna, karaṇa, payatana của văn phạm Pāḷi và đúng theo 10 byañjanabuddhi, đến lần thứ ba. Ngay khi ấy, vị sa-di được phục hồi phẩm-hạnh sa-di trở lại như trước,

Đối với vị tỳ-khưu:

Tỳ-khưu phạm điều-giới nói-dối có nhiều mức độ nhẹ, nặng khác nhau.

Trong khi hành Tăng-sự tụng giới bổn của tỳ-khưu (bhikkhupātimokkhasīla) một vị tỳ-khưu luật sư tụng xong mỗi phần giới, hỏi nhóm tỳ-khưu hội họp tại Sīmā đều có điều-giới này trong sạch phải không?

* Nếu vị tỳ-khưu nào có giới không trong sạch mà vẫn ngồi im lặng, không nói, đó cũng là một cách lừa dối thì vị tỳ-khưu ấy phạm điều-giới dukkaṭa (tác-ác).

* Nếu vị tỳ-khưu nào nói lời không đúng sự thật thì vị tỳ-khưu ấy phạm điều-giới pācittiya.

* Nếu vị tỳ-khưu nào nói lời vu khống vị tỳ-khưu khác phạm điều-giới Pārājika thì vị tỳ-khưu ấy bị phạm điều-giới Saṃghādisesa.

* Nếu vị tỳ-khưu nào tự nói khoe khoang pháp của bậc Thánh-nhân như chứng đắc bậc thiền-định, đắc phép thần-thông, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn mà chính mình không có, thì vị tỳ-khưu ấy bị phạm điều-giới Pārājika mất hẳn phẩm-hạnh tỳ-khưu, không còn là tỳ-khưu nữa.

Đối với vị tỳ-khưu phạm điều-giới nói-dối có nhiều mức độ nhẹ, nặng khác nhau, tùy theo lời nói-dối.

Nói-Dối, Lừa Dối Vô Tội

Người nói-dối bằng khẩu hoặc lừa dối bằng thân, nếu không gây ra sự thiệt hại nào đến cho người tin theo lời nói-dối, sự lừa dối ấy, thậm chí còn đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài cho người tin theo lời nói-dối, sự lừa dối ấy, thì người ấy tuy phạm điều-giới nói-dối mà không có tội, lại còn có phước-thiện nữa.

 * Tích tiền-kiếp của Đức-Phật GotamaĐức-Bồ-tát Pañcāvudhakumāra([10]) bị Dạ xoa Silesa-loma bắt để ăn thịt. Đức-Bồ-tát Pañcāvudha-kumāra bảo Dạ-xoa rằng:

- Này Dạ-xoa! Trong thân của ta có khí giới, nếu ngươi ăn thịt ta, thì khí giới của ta sẽ giết hại sinh-mạng của ngươi luôn.

Dạ-xoa nghe Đức-Bồ-tát nói như vậy, tin theo lời của Đức-Bồ-tát, nên Dạ-xoa không dám ăn thịt, mà thả Đức-Bồ-tát trở về.

Đức-Bồ-tát Pañcāvudhakumāra nói trong thân của mình có vũ khí, danh từ khí giới Đức-Bồ-tát sử dụng ở đây là khí giới trí-tuệ (ñāṇāvudha), nhưng Dạ-xoa lại tin và hiểu rằng khí giới ở đây là khí giới giết hại.

Đức-Bồ-tát nói lời lẽ khó hiểu, khiến Dạ-xoa tin theo và hiểu sai, nhưng không gây ra sự thiệt hại đến cho Dạ-xoa. Cho nên, Đức-Bồ-tát nói- dối nhưng không có tội.

* Tích tiền-kiếp của Đức-Phật GotamaĐức-Bồ-tát khỉ chúa([11]) sống trong rừng. Một hôm, con cá sấu bò lên bờ gặp khỉ chúa, nói-dối lừa gạt khỉ chúa rằng:

- Này chú khỉ! Bên bờ sông bên kia có nhiều thứ trái cây ngon, nếu chú muốn qua bên kia thì chú lên ngồi trên lưng, tôi sẽ chở chú qua.

Khỉ chúa tin theo lời của cá sấu, nên leo lên ngồi trên lưng, con cá sấu bơi ra giữa dòng sông định lặn xuống, thì khỉ chúa bèn hỏi rằng:

- Này anh cá sấu! Anh định cho tôi chìm trong nước để anh được lợi ích gì?

Cá sấu nói thật rằng:

- Này chú khỉ! Tôi nói-dối lừa gạt chú để ăn trái tim của chú.

Khỉ chúa bảo rằng:

- Này anh cá sấu! Trái tim của tôi không có trong thân này, tôi đã gỡ trái tim ra và đem treo lủng lẳng trên cành cây kia kìa.

Vừa nói, khỉ chúa vừa đưa tay chỉ cho cá sấu thấy chùm trái cây gần bờ sông và bảo với cá sấu rằng:

- Nếu anh muốn ăn trái tim của tôi thì anh hãy chở tôi trở lại bờ sông có chùm trái cây kia.

Nghe như vậy, cá sấu tin theo lời của Đức-Bồ-tát khỉ chúa, bơi vào gần bờ sông, Đức-Bồ-tát khỉ chúa liền nhảy lên cành cây, sinh-mạng được an toàn.

Như vậy, Đức-Bồ-tát khỉ chúa nói-dối lừa gạt cá sấu, nhưng không gây sự thiệt hại nào đến cá sấu. Cho nên, Đức-Bồ-tát khỉ chúa nói-dối nhưng không có tội.

Một người làm cử chỉ đuổi chim, bằng cách giả bộ ném một vật gì, hoặc giương cung mà không có mũi tên ra hăm dọa, … làm cho chim tưởng ném thật, hoặc bắn thật, chúng hoảng sợ bay đi, …

Đó là hành vi cử chỉ lừa dối bằng thân, nhưng không gây ra sự tai-hại nào đến đối tượng bị lừa dối. Cho nên, sự lừa dối ấy vô tội.

Như vậy, nói-dối bằng lời nói, hoặc hành vi lừa dối bằng thân, mà không gây ra sự thiệt hại nào đến cho người tin theo, đều là vô tội, không thể cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi ác-giới.

5- Điều-Giới Tránh Xa Uống Rượu, Bia Và Các Chất Say

Surā meraya majjap pamādaṭṭhānā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Nghĩa từng chữ:

Surā meraya majjap pamādaṭṭhānā:

Surā+meraya+ majja + pamāda + ṭhānā.

- Surā: Rượu, bia,… là nhân sinh bạo dạn, liều lĩnh,…

- Meraya: Chất say gồm có chất say loại nước, thuốc phiện, ma tuý, cần sa, thuốc lá, … làm cho say ngất ngưởng, không biết tự chủ, là chất gây nghiện.

- Majja: Say sưa, say mê, ngất ngưởng.

- Pamāda: Sự dể duôi (thất niệm) trong mọi  thiện-pháp

- Ṭhānā: Nhân sinh.

- Veramaṇisikkhāpadaṃ: Veramaṇī +  sikkhāpadaṃ

- Veramaṇī: Tác-ý tránh xa.

- Sikkhāpadaṃ: Điều-giới, giới.

- Samādiyāmi: Con xin thọ-trì.

Rượu, bia và các chất say là nhân sinh sự dể duôi (thất niệm) trong mọi thiện-pháp nói chung; cũng là nhân sinh sự bạo dạn, liều lĩnh dám tạo mọi ác-nghiệp bằng thân, khẩu, ý.

Nghĩa toàn câu:

Con xin thọ-trì điều-giới, có tác-ý tránh xa uống rượu, bia và các chất say là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện-pháp.

Chi-Pháp Của Điều-Giới Uống Rượu Và Các

Chất Say

Người phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say hợp đủ 4 chi-pháp:

1- Rượu, bia hoặc các chất say  (surā merayabhāvo).

2- Tâm muốn uống rượu, bia và các chất say (pivitukāmatā).

3- Cố gắng uống rượu, bia hoặc các chất say (pivanaṃ).

4- Uống rượu, bia và các chất say qua khỏi cổ (maddanaṃ).

 Nếu người nào có đầy đủ 4 chi-pháp này thì người ấy phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say. Nếu không đủ 4 chi-pháp thì không phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say.

 

Giảng Giải Về Sự Uống Rượu, Bia Và Các

Chất Say

* Surā: Rượu, bia là một chất nước được làm bằng cơm gạo, trái cây, v.v…

Mỗi khi uống rượu, bia vào say sưa, mất tự chủ, làm kích thích tâm tham, tâm sân, tâm si,… trở nên người hung hăng, bạo dạn, liều lĩnh, … không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê-sợ tội-lỗi, nên dám tạo mọi ác-nghiệp bằng thân, khẩu, ý.

Rượu (surā) có 5 loại:

1- Rượu, bia được làm từ gạo (gạo tẻ, gạo nếp).

2- Rượu, bia được làm từ cơm như cơm rượu.

3- Rượu, bia được làm từ các trái cây (trái nho, táo…).

4- Rượu, bia được làm từ bánh.

5- Rượu, bia được làm từ các chất có men …

 

* Meraya: Chất say loại nước do ngâm các thứ trái cây, hoa, lâu ngày trở thành chất say, thuốc phiện, ma tuý, cần sa, thuốc lá,….

Chất say loại nước có 5 loại:

1- Chất say do ngâm các loại hoa,… lâu ngày.

2- Chất say do ngâm các loại trái cây, lâu ngày.

3- Chất say do ngâm các trái nho lâu ngày.

4- Chất say do ngâm nước mía lâu ngày.

5- Chất say do ngâm các trái cây làm thuốc lâu ngày.

Mỗi khi người uống chất say vào, cảm thấy say sưa ngất ngưởng không còn biết mình, không còn tự chủ, không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê-sợ tội-lỗi, nên tạo mọi ác-nghiệp bằng thân, khẩu, ý.

Thuốc phiện, ma tuý, cần sa, thuốc lá, … là  loại chất say rất nguy hiểm khi người nào dùng đến các loại ấy lâu ngày trở thành bệnh nghiện, rất khó từ bỏ.

* Majja: Làm cho say, có 2 loại:

1- Rượu, bia và các chất say làm cho người uống say sưa, không còn biết tự chủ, trở nên người hung hăng, bạo dạn, liều lĩnh không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê-sợ tội-lỗi, dám làm mọi ác-nghiệp bằng thân, khẩu, ý.

2- Người dùng thuốc-phiện, ma-túy, cần-sa, thuốc-lá, v.v… thành thói quen, trở nên nghiện rồi khó từ bỏ. Khi đến cơn nghiện làm như người mất trí dám làm mọi tội-lỗi mà không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê-sợ tội-lỗi.

* Pamāda: Sự dể duôi (thất niệm) quên mình trong mọi thiện-pháp, đắm trong mọi ác-pháp.

Ṭhāna: Nhân sinh, nguyên nhân.

Nghĩa gom surā-meraya-majjappamādaṭ-ṭhānā: Rượu, bia và các chất say… là nhân sinh sự dể duôi (thất niệm) trong mọi thiện-pháp.

Nghĩa toàn câu: Con xin thọ-trì điều-giới, có tác-ý tránh xa uống rượu, bia và các chất say là nhân phát sinh sự dể duôi (thất niệm) trong mọi thiện-pháp.

4 Hạng Người Dùng Rượu

1- Dùng rượu trộn trong thuốc, trong vật thực.

2- Dùng rượu làm thuốc trị bệnh.

3- Uống rượu, bia để thưởng thức hương vị của rượu.

4- Uống rượu, bia làm cho tâm trở nên bạo dạn, liều lĩnh, để tạo mọi ác-nghiệp bằng thân, khẩu, ý.

Trong 4 trường hợp người dùng rượu này, hạng người nào phạm điều-giới uống rượu và các chất say?

Tạo ác-nghiệp nhẹ, ác-nghiệp nặng như thế nào?

1- Trường hợp thứ nhất: Khi rượu được trộn trong thuốc để trị bệnh, hoặc trộn trong vật thực,… chất rượu hoàn toàn bị biến chất không còn mùi rượu, không có khả năng làm say nữa, nên người dùng thuốc ấy hoặc dùng vật thực ấy không phạm điều-giới uống rượu và các chất say, không có tội.

2- Trường hợp thứ hai: Dùng thuốc nước có pha với rượu để trị bệnh (còn có mùi rượu, có khả năng làm choáng váng chút đỉnh).

* Nếu người dùng biết rõ thuốc nước có rượu, nhưng với mục đích trị bệnh, không phải muốn hưởng hương vị rượu, thì phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say, tạo ác-nghiệp rất nhẹ.

* Nếu người dùng thuốc nước không biết rõ có rượu, chỉ dùng với mục đích trị bệnh mà thôi, thì không phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say, không tạo ác-nghiệp.

3- Trường hợp thứ ba: Người uống rượu để thưởng thức hương vị của rượu, bia rồi say túy lúy, hoàn toàn không còn biết gì nữa; người ấy đã phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say, vì say mê trong hương vị của rượu, nên tạo ác-nghiệp nặng.

Đức-Phật dạy:

- Này chư Tỳ-khưu! Người thường uống rượu, bia và các chất say, uống nhiều rượu, bia và các chất say, uống nhiều lần, ác-nghiệp này có cơ-hội cho quả tái-sinh trong cõi địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh.

Người uống rượu, bia và các chất say, tạo ác-nghiệp nhẹ sau khi chết, ác-nghiệp uống rượu, bia và các chất say không có cơ-hội cho quả tái-sinh kiếp sau, nếu có đại-thiện-nghiệp khác có cơ-hội cho quả được tái-sinh kiếp sau làm người, thì người ấy sẽ là người điên cuồng mất trí (ummattakasaṃvattiko).([12])

4- Trường hợp thứ tư: Người uống rượu, bia làm cho tâm trở nên bạo dạn, liều lĩnh dám tạo mọi ác-nghiệp bằng thân, khẩu, ý.

Một người bình thường có tính hay nhút nhát, biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi, không dám làm mọi ác-nghiệp, nhưng một khi người ấy uống rượu, bia và các chất say vào làm kích thích, không còn tự chủ, trở thành người hung hăng, bạo dạn, liều lĩnh dám làm mọi ác-nghiệp như sát-sinh, trộm-cắp, tà-dâm, nói năng chửi rủa gây gỗ lung tung, v.v... Người nào đã phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say, rồi tạo ác-nghiệp nào, người ấy sau khi chết, nếu ác-nghiệp ấy có cơ-hội cho quả tái-sinh kiếp sau, thì sinh trong cõi ác-giới: địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh, chịu quả khổ do ác-nghiệp ấy.

Tính Chất Của Điều-Giới Uống Rượu, Bia Và

Các Chất Say

Phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say đối với người tại gia cư-sĩ và đối với bậc xuất-gia tỳ-khưu, sa-di có tính chất nhẹ - nặng khác nhau.

* Đối với hàng tại gia cư-sĩ là cận-sự-nam, cận-sự-nữ phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say là 1 điều-giới cấm trong ngũ-giới, trong bát-giới uposathasīla, trong cửu-giới uposathasīla, …

Nếu người cận-sự-nam, cận-sự-nữ nào đã phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say, thì người cận-sự-nam, cận-sự-nữ ấy xem như bị phạm ngũ-giới, phạm bát-giới, phạm cửu-giới.

Người cận-sự-nam, cận-sự-nữ ấy cần phải thọ-trì lại ngũ-giới, hoặc bát-giới, hoặc cửu-giới để cho mình là người có giới trở lại.

* Đối với vị sa-di phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say là 1 điều-giới cấm trong sa-di thập-giới.

Nếu vị sa-di nào phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say thì vị sa-di ấy bị mất phẩm-hạnh sa-di, không còn là sa-di. Dù hình thức bên ngoài còn mặc y, nhưng nội tâm bên trong không còn phẩm-hạnh sa-di nữa.

Biết mình bị phạm giới, mất phẩm-hạnh sa-di, vị sa-di ấy cần phải đến hầu vị Thầy tế-độ, hoặc một Ngài Trưởng-lão hiểu rõ giới luật, xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ-trì sa-di thập-giới trở lại.

Sau khi thọ phép quy-y Tam-bảo đúng theo luật xong, vị sa-di ấy được phục hồi lại phẩm-hạnh sa-di như trước.

* Đối với vị tỳ-khưu phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say là 1 điều-giới cấm trong 227 điều-giới bổn của tỳ-khưu.

Nếu vị tỳ-khưu nào phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say thì vị tỳ-khưu ấy phạm điều-giới pācittiya.

Vị tỳ-khưu dù biết, dù không biết rượu, bia và các chất say, khi uống vào khỏi cổ vẫn bị phạm điều-giới pācittiya.

Đã phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say ấy rồi, vị tỳ-khưu cần phải tìm đến một vị tỳ-khưu khác không uống rượu, bia và các chất say, để làm lễ xin sám hối đúng theo nghi thức trong luật mà Đức-Phật đã chế định, ban hành đến chư tỳ-khưu.

Sau khi sám hối xong, vị tỳ-khưu ấy có giới trở lại.

 Một người thường uống rượu, bia và các chất say đã trở thành thói quen nghiện rượu, nghiện thuốc phiện, nghiện thuốc lá, v.v… không dễ dàng từ bỏ; bởi vì, cảm thấy chưa biết no đủ, vẫn còn thèm khát mãi mãi.

Đức-Phật dạy trong kinh Atittasutta([13]) có 3 điều không biết no đủ, vẫn thèm muốn mãi mãi như sau:

- Không biết no đủ trong sự nằm ngủ.

    - Không biết no đủ trong sự uống rượu, bia và các chất say.

- Không biết no đủ trong sự hành-dâm.

Thật ra, 3 điều này thường phát sinh do phiền não tham muốn, mà tâm tham là nhân sinh khổ cả trong kiếp hiện-tại lẫn vô số kiếp vị-lai.

Sự uống rượu, bia và các chất say là một thói hư tật xấu, do phiền-não tham muốn là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện pháp, say mê trong mọi ác-pháp, phát sinh các bệnh nan y.

Người thiện-trí có giới, có tác-ý tránh xa sự uống rượu, bia và các chất say là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện-pháp, còn tránh được các thứ bệnh nghiện rượu và các chất say nữa.

Vấn: Uống rượu, bia và các chất say thuộc về ác-nghiệp nào trong 10 ác-nghiệp?

Đáp: 10 ác-nghiệp phát sinh do nương nhờ nơi thân, khẩu, ý:

- Thân ác-nghiệp gọi thân hành-ác có 3 loại ác-nghiệp:

1- Ác-nghiệp sát-sinh.

2- Ác-nghiệp trộm-cắp.

3- Ác-nghiệp tà-dâm.

- Khẩu ác-nghiệp gọi khẩu nói-ác có 4 loại ác-nghiệp:

1- Ác-nghiệp nói-dối.

2- Ác-nghiệp nói lời chia rẽ.

3- Ác-nghiệp nói lời thô tục.

4- Ác-nghiệp nói lời vô ích.

- Ý ác-nghiệp gọi ý nghĩ ác có 3 loại ác-nghiệp:

1- Ác-nghiệp nghĩ tham lam của người khác.

2- Ác-nghiệp nghĩ thù hận người khác.

3- Ác-nghiệp nghĩ tà-kiến thấy sai chấp lầm.

Uống rượu, bia và các chất say1 điều-giới cấm trong ngũ-giới, bát-giới uposathasīla, cửu-giới uposathasīla v.v... mà trong 10 ác-nghiệp này, uống rượu và các chất say không có tên gọi ác-nghiệp riêng biệt như những ác-nghiệp khác.

Vì sao vậy?

Uống rượu, bia và các chất say chắc chắn thuộc về ác-nghiệp, nhưng ác-nghiệp này có tính chất bất định, nên không có tên gọi ác-nghiệp riêng biệt.

Ác-nghiệp uống rượu, bia và các chất say này tùy thuộc vào ác-nghiệp nào mà nó liên quan, thì nó có tên gọi chung với ác-nghiệp ấy.

Xét Trong Những Trường Hợp Sau:

* Trường hợp người nào phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say để thoả mãn cơn thèm muốn thưởng thức đối-tượng vị của rượu, bia hoặc chất say, rồi say túy lúy, hoàn toàn không còn biết mình, nằm ngủ cho đến khi tỉnh say.

Như vậy, người ấy phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say đã tạo ác-nghiệp, ác-nghiệp này được ghép vào ác-nghiệp tà-dâm.

Trong điều-giới tà-dâm có danh từ kāmesu-micchācāra hành bất chánh trong ngũ-dục nghĩa là hành-dâm bất chánh với người không phải là vợ, là chồng của mình.

Ngũ-dục là sắc-dục, thanh-dục, hương-dục, vị-dục, xúc-dục.

* Người phạm điều-giới tà-dâm để thoả mãn tâm tham muốn thưởng thức đối-tượng ngũ-dục trong thân của người khác.

* Người phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say để thoả mãn cơn thèm muốn, thưởng thức ngũ-dục đó là đối-tượng vị, đối-tượng hương của chất rượu, bia hoặc chất say, cũng như người phạm điều-giới tà-dâm để thoả mãn tâm tham muốn, thưởng thức đối-tượng ngũ-dục trong thân của người khác, tạo ác-nghiệp tà-dâm. Vì vậy, 2 điều-giới này có đối-tượng tương tự với nhau.

 Cho nên, người phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say đã tạo ác-nghiệp, ác-nghiệp này được ghép chung vào ác-nghiệp tà-dâm.

* Trường hợp một người vốn có tính hay nhút nhát, biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi, không dám làm mọi ác-nghiệp. Khi người ấy uống rượu, bia hoặc chất say vào, phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say. Chất rượu, bia hoặc chất say kích thích tâm tham, sân, si, người ấy không còn tự chủ, trở nên người hung hăng, bạo dạn, liều lĩnh không còn biết hổ-thẹn tội-lỗi, không còn biết ghê-sợ tội-lỗi, dám tạo 10 ác-nghiệp.

Nếu người nào phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say, rồi say mê không còn tự chủ, không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê- sợ tội-lỗi, hung hăng, dám liều lĩnh tạo ác-nghiệp nào, thì người phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say ấy đã tạo ác-nghiệp, ác-nghiệp này được ghép chung vào ác-nghiệp ấy.

* Nếu như người nào phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say, rồi hung hăng dám liều lĩnh tạo ác-nghiệp sát-sinh thì người ấy phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say đã tạo ác-nghiệp, ác-nghiệp này được ghép chung vào ác-nghiệp sát-sinh.

Tương tự như vậy:

* Nếu người nào phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say, rồi hung hăng dám liều lĩnh tạo ác-nghiệp trộm-cắp thì người phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say ấy đã tạo ác-nghiệp, ác-nghiệp này được ghép chung vào ác-nghiệp trộm-cắp.

* Nếu người nào phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say, rồi hung hăng dám liều lĩnh tạo ác-nghiệp tà-dâm thì người phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say ấy đã tạo ác-nghiệp, ác-nghiệp này được ghép chung vào ác-nghiệp tà-dâm.

* Nếu người nào phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say, rồi hung hăng dám liều lĩnh tạo ác-nghiệp nói-dối, thì người phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say ấy đã tạo ác-nghiệp, ác-nghiệp này được ghép chung vào ác-nghiệp nói-dối.

* Nếu người nào phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say, rồi hung hăng dám liều lĩnh tạo ác-nghiệp nói lời chia rẽ thì người phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say ấy đã tạo ác-nghiệp, ác-nghiệp này được ghép chung vào ác-nghiệp nói lời chia rẽ.

* Nếu người nào phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say, rồi hung hăng dám liều lĩnh tạo ác-nghiệp nói lời thô-tục (chửi rủa, mắng nhiếc) thì người phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say ấy đã tạo ác-nghiệp, ác-nghiệp này được ghép chung vào ác-nghiệp nói lời thô-tục.

* Nếu người nào phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say, rồi hung hăng dám liều lĩnh tạo ác-nghiệp nói lời vô ích, thì người phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say ấy đã tạo ác-nghiệp, ác-nghiệp này được ghép chung vào ác-nghiệp nói lời vô ích.

* Nếu người nào phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say, rồi hung hăng dám liều lĩnh tâm nghĩ tham lam của cải của người khác thì người phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say ấy đã tạo ác-nghiệp, ác-nghiệp này được ghép chung vào ác-nghiệp tham lam của cải của người khác.

* Nếu người nào phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say, rồi hung hăng dám liều lĩnh tâm nghĩ thù oán người khác thì phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say ấy đã tạo ác-nghiệp, ác-nghiệp này được ghép chung vào ác-nghiệp thù oán người khác.

* Nếu người nào phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say, rồi hung hăng dám liều lĩnh phát sinh tà-kiến thấy sai chấp lầm thì người phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say ấy đã tạo ác-nghiệp, ác-nghiệp này được ghép chung vào ác-nghiệp tà-kiến thấy sai chấp lầm.

 Vì vậy, phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say là nhân tạo 10 ác-nghiệp. Cho nên, phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say tạo ác-nghiệp, thuộc về ác-nghiệp bất-định, nên không chế định ra ác-nghiệp riêng biệt.

Thật vậy, Ngài Trưởng-lão Ānanda (lớp người hậu sinh) biên soạn bộ Mūlaṭīkā giải rằng:

“Tassa sabhāgattena micchācāre, upakāra-kattena dasasu pi kammapathesu anuppaveso hoti.”

Phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say đã tạo ác-nghiệp, ác-nghiệp này được ghép chung vào ác-nghiệp tà-dâm, bởi vì điều-giới này có đối tượng tương tự như điều-giới tà-dâm. Và phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say đã tạo ác-nghiệp, ác-nghiệp này cũng được ghép chung vào trong 10 ác-nghiệp, bởi vì điều-giới uống rượu, bia và các chất say này là nhân tạo 10 ác-nghiệp.

Tính Chất Nghiêm Trọng Của Người Phạm

Điều-Giới Uống Rượu, Bia Và Các Chất Say

Người phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say, có thể hung hăng dám liều lĩnh tạo mọi ác-nghiệp nghiêm trọng:

Nếu người nào uống rượu, bia lên cơn say thì người ấy không còn tự chủ, trở nên người hung hăng, tàn bạo, không còn biết hổ-thẹn tội-lỗi, không còn biết ghê-sợ tội-lỗi, dám liều lĩnh tạo mọi ác-nghiệp nghiêm trọng mà lúc tỉnh không dám làm.

Khi người nào thường dùng các chất say như thuốc-phiện, ma-túy, cần-sa, v.v... trở thành bệnh nghiện nặng, đến khi người ấy lên cơn thèm khát các chất say ấy mà không có sẵn, khiến cho người ấy lên cơn điên loạn, hung hăng dám liều lĩnh tạo mọi ác-nghiệp nghiêm trọng mà lúc tỉnh không dám làm.

Như vậy, phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say là nguyên nhân dẫn đến tạo mọi ác-nghiệp nghiêm trọng, có nguy hại trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai.

Trong Chú-giải Suttanipātaṭṭhakathā, giải về tội-ác của sự uống rượu, bia và các chất say: 

“Yasmā pana majjapāyī aṭṭhaṃ na jānāti, dhammaṃ na jānāti, mātupi antarāyaṃ karoti, pitupi antarāyaṃ karoti, Buddhapaccekabuddha-tathāgatasāvakānampi antarāyaṃ karoti, diṭṭheva dhamme ca garahaṃ, samparāye duggatiṃ, aparāpariyāye ummādañca pāpuṇāti.”([14])

Người thường uống rượu, bia và các chất say,

không biết quả, không biết nhân, gây ra sự tai-hại sinh-mạng của mẹ của cha, gây ra sự tai-hại đến Đức-Phật, Đức-Phật Độc-Giác, các hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật.

 Trong kiếp hiện-tại, người uống rượu, bia và các chất say thường bị chư thiện-trí chê trách.

Người uống rượu, bia và các chất say sau khi chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh trong cõi ác-giới: địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh.

Đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy trong cõi ác-giới, nếu có dục-giới đại-thiện-nghiệp khác cho quả tái-sinh kiếp sau làm người thì người ấy sẽ là người mất trí, người điên cuồng.

Ngài Đại-Trưởng-lão Mahābuddhaghosa dạy về tội-ác của sự uống rượu, bia và các chất say là nhân sinh sự dể duôi (thất niệm) trong mọi thiện pháp, dám liều lĩnh tạo mọi ác-nghiệp, có hậu quả rất nghiêm trọng như sau:

“Apicettha surāmerayamajjappamādaṭṭhānameva mahāsāvajjaṃ na tathā pāṇātipātādayo. Kasmā manussabhūtassapi ummattakabhavasaṃvattanena ariyadhammantarāya karaṇato.”

Sự thật, trong ngũ-giới ấy, phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say là nhân sinh sự dể duôi (thất niệm) trong mọi thiện-pháp, tạo ác-nghiệp trọng tội hơn 4 điều-giới còn lại là phạm điều-giới sát-sinh, phạm điều-giới trộm-cắp, phạm điều-giới tà-dâm, phạm điều-giới nói-dối, bởi vì 4 điều-giới này gây hậu quả ít nghiêm trọng hơn phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say.

Phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say này còn là nhân làm cho người ấy mắc phải chứng bệnh điên, mất trí, làm tai hại cho sự chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả.

Thật vậy, trong ngũ-giới, dù người phạm điều-giới sát-sinh như giết cha, giết mẹ, giết bậc Thánh A-ra-hán, … đã tạo ác-nghiệp trọng-tội (akusalagarukakamma) gọi là ānantariyakamma: ác-nghiệp vô-gián trọng-tội.

Người ấy sau khi chết, chắc chắn ác-nghiệp vô-gián trọng-tội ấy cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci, chịu quả khổ trong suốt thời gian lâu dài nhiều đại-kiếp trái đất trong cõi đại-địa-ngục, cho đến khi mãn quả ác-nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi cõi địa-ngục.

Nếu có đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau làm người, thì người ấy có thể là hạng người tam-nhân có trí-tuệ sáng suốt, có khả năng thực-hành pháp-hành thiền-định, thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn được.

Như trường hợp Đức-vua Ajātasattu giết Đức Phụ-vương là Đức-vua Bimbisāra (bậc Thánh Nhập-lưu).

Về sau, Đức-vua Ajātasattu biết ăn năn hối lỗi, ngự đến hầu đảnh lễ Đức-Phật xin sám hối tội-lỗi. Đức-Phật thuyết-pháp tế độ, Đức-vua có đức tin trong sạch nơi Tam-bảo, xin thọ phép quy-y Tam-bảo, hết lòng hộ độ Tam-bảo.

Sau khi Đức-Phật tịch diệt Niết-bàn, Đức-vua Ajātasattu là người hộ độ 500 chư Trưởng-lão trong kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ nhất, thời gian sau khi Đức-Phật tịch diệt Niết-bàn khoảng 3 tháng 4 ngày, do Ngài Đại-Trưởng-lão Mahākassapa chủ trì gồm có 500 chư Trưởng-lão đều là bậc Thánh A-ra-hán, tại động Sattapaṇṇi gần kinh thành Rājagaha đất nước Māgadha, suốt 7 tháng mới hoàn thành xong trọn bộ Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi.

Đức-vua Ajātasattu sau khi băng hà, ác-nghiệp giết Phụ-vươngác-nghiệp vô-gián trọng-tội cho quả, thay vì phải tái-sinh trong cõi đại-địa-ngục Avīci, thì chỉ bị tái-sinh kiếp kế-tiếp trong địa-ngục Lohakumbhī chịu khổ suốt thời gian 60.000 (sáu mươi ngàn) năm thôi.

Sau khi mãn quả ác-nghiệp ấy, sẽ được thoát ra khỏi địa-ngục, do nhờ dục-giới đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh làm hạng người tam-nhân trong thời kỳ không có Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác và giáo-pháp của Đức-Phật.

Hậu-kiếp của Đức-vua Ajātasattu sẽ trở thành Đức-Phật Độc-Giác có danh hiệu Đức-Phật Độc-Giác Vijitāvi.([15]) (Đó là lời thọ ký của Đức-Phật Gotama).

* Trong thời kỳ Đức-Phật Gotama, có Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna là bậc Thánh Tối-thượng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật.

Tiền-kiếp xa xưa của Ngài Đại-Trưởng-lão là một người con chí hiếu đối với mẹ cha già đui mù.

Về sau, người con vâng lời mẹ cha, chịu lấy vợ. Người vợ không muốn sống chung với mẹ cha chồng, vì chiều theo ý vợ, nên người con bày mưu đánh xe chở mẹ cha già đui mù đi thăm bà con, đến khu rừng, người con xuống xe, giả làm tên cướp đến đánh đập cha mẹ chết, bỏ xác trong rừng, đã tạo ác-nghiệp vô-gián trọng-tội giết mẹ cha.

Tiền-kiếp của Ngài Đại-Trưởng-lão sau khi chết, do ác-nghiệp vô-gián trọng-tội giết mẹ cha ấy cho quả tái-sinh trong cõi đại-địa-ngục Avīci, trong suốt thời gian lâu dài cho đến khi mãn quả ác-nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi địa-ngục.

* Trong thời kỳ Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, hậu kiếp của người con giết mẹ cha, sinh vào trong dòng Bà-la-môn có tên Kolita, xuất gia trở thành tỳ-khưu nơi Đức-Phật, có tên là tỳ-khưu Mahāmoggallāna trở thành bậc Thánh A-ra-hán, Tối-thượng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama, có phép thần-thông xuất sắc nhất trong hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama.

Những dẫn chứng trên để chứng tỏ rằng: 

Mặc dù ác-nghiệp vô-gián trọng-tội như ác-nghiệp giết cha, giết mẹ, … thuộc về ác-nghiệp vô-gián trọng-tội chắc chắn phải tái-sinh trong cõi đại-địa-ngục Avīci, chịu quả khổ suốt thời gian lâu dài cho đến khi mãn quả ác-nghiệp ấy, mới thoát khỏi địa-ngục.

Thế mà, sau khi thoát khỏi địa-ngục, do nhờ dục-giới đại-thiện-nghiệp khác cho quả tái-sinh kiếp sau làm hạng người tam-nhân có khả năng thực-hành pháp-hành thiền-định, thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.

Còn như người phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say sau khi chết, nếu ác-nghiệp này có cơ-hội cho quả tái-sinh trong cõi ác-giới: địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy suốt thời gian lâu cho đến khi mãn quả ác-nghiệp ấy mới mong thoát khỏi cõi ác-giới ấy.

Sau khi thoát khỏi cõi ác-giới rồi, nếu có dục-giới đại-thiện-nghiệp khác cho quả tái-sinh kiếp sau làm người, thì người ấy sẽ là người mắc bệnh điên cuồng, mất trí, không có khả năng thực-hành pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ, không có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn.

Người nào phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say là nhân sinh sự dể duôi (thất niệm) trong mọi thiện-pháp, dám liều lĩnh tạo mọi ác-nghiệp, sẽ đem lại những hậu quả tai-hại  nghiêm trọng trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai.

Những bậc thiện-trí tiền bối từ ngàn xưa đã chế định ngũ-giớithường-giới (niccasīla) của mọi người trong đời, không ngoại trừ một ai cả, bất luận là người thọ-trì ngũ-giới hoặc không thọ-trì ngũ-giới, hễ người nào giữ gìn ngũ-giới được trong sạch và trọn vẹn thì người ấy đã tạo đại-thiện-nghiệp giữ-giới, đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an-lạc trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai.

Nếu người nào phạm điều-giới nào trong ngũ-giới thì người ấy đã tạo ác-nghiệp phạm-giới, đem lại sự bất lợi, sự thoái hoá, sự khổ đau trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai.

* Đức-Phật Gotama cũng thừa nhận ngũ-giới thường-giới của mọi người trong đời, nên Đức-Phật đã đem ngũ-giới vào trong lời giáo huấn của Đức-Phật, truyền dạy các người tại gia cư-sĩ là người cận-sự-nam, cận-sự-nữ cần phải có bổn phận giữ gìn ngũ-giới của mình cho được trong sạch và trọn vẹn, không nên để cho giới bị đứt, giới bị thủng, giới bị đốm, giới bị đứt lan.

Sự Tai Hại Của Sự Uống Rượu, Bia

Và Các Chất Say

Trong ngũ-giới5 điều-giới từ điều-giới thứ nhất đến điều-giới thứ tư, người nào lỡ phạm điều-giới thứ nhất tạo ác-nghiệp, thậm chí tạo ác-nghiệp vô-gián trọng-tội giết mẹ cha.

Người ấy sau khi chết, chắc chắn ác-nghiệp vô-gián trọng-tội ấy cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci, chịu quả khổ lâu dài trong cõi đại-địa-ngục ấy, cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, được thoát ra khỏi cõi ác-giới, nếu có đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau làm người, thì người ấy vẫn có khả năng tạo mọi thiện-nghiệp từ 8 dục-giới đại-thiện-nghiệp, 5 sắc-giới thiện-nghiệp, 4 vô-sắc-giới thiện-nghiệp cho đến 4 siêu-tam-giới thiện-nghiệp trong 4 Thánh-đạo-tâm liền cho quả là 4 Thánh-quả-tâm, trở thành bậc Thánh A-ra-hán sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân- hồi trong tam-giới.

* Còn điều-giới thứ năm điều-giới tránh xa sự uống rượu, bia và các chất say Nếu người nào đã phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say là nhân sinh sự dể duôi (thất niệm) trong mọi thiện-pháp này rồi, đã tạo ác-nghiệp uống rượu, bia và các chất say thì có hậu quả vô cùng nghiêm trọng, không chỉ trong kiếp hiện-tại trở thành người nghiện rượu, bia, nghiện thuốc-phiện, nghiện ma-túy, nghiện cần-sa, nghiện thuốc lá, v.v… mắc nhiều chứng bệnh nan y, mà còn kiếp vị-lai lại càng tồi tệ hơn nữa.

Người phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say ấy, đã tạo ác-nghiệp uống rượu, bia và các chất say ấy sau khi chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh), chịu quả khổ trong cõi ác-giới cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi cõi ác-giới.

Nếu có đại-thiện-nghiệp nào cho quả tái-sinh kiếp sau làm người thì người ấy là người mắc phải chứng bệnh điên, mất trí, làm tai hại cho sự chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn.

Cho nên, rượu, bia và các chất say có sự tai hại vô cùng nghiêm trọng như vậy, thế mà có một số người sử dụng rượu, bia và các chất say như là thức uống xã giao trong đời.

Khi hai người bạn cũ gặp lại nhau, dẫn nhau vào quán để uống rượu, bia, trong các buổi tiệc mừng không thể thiếu món rượu, bia để đãi khách quý, v.v…

Một số người lạm dụng uống rượu, bia và sử dụng các chất say hằng ngày, nên trở thành người nghiện rượu, bia, nghiện thuốc-phiện, nghiện ma-túy, nghiện cần-sa, nghiện thuốc lá, v.v… thường xảy ra tai nạn, mắc nhiều chứng bệnh nan y, tự làm khổ mình và làm khổ những người thân trong gia đình, bà con thân quyến.

Vì vậy, nếu người nào phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say thì người ấy ắt có hậu quả tai hại vô cùng nghiêm trọng, ngay trong kiếp hiện-tại tự làm khổ mình và những kiếp vị-lai sẽ trở thành người điên cuồng, mất trí, si mê thật là cuộc đời thê thảm biết dường nào!

Cho nên, người thiện-trí tự biết thương yêu mình, biết thương yêu mọi người, mọi chúng-sinh khác như thương yêu chính mình, biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi, biết tự trọng, nên biết giữ gìn ngũ-giới được trong sạch và trọn vẹn, nhất là điều-giới tránh xa uống rượu, bia và các chất say là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện-pháp, đó là người thiện-trí biết giữ gìn nhân-phẩm quý báu vốn có trong con người của mình từ khi đầu thai làm người, và người thiện-trí còn khuyên bảo người khác cũng biết giữ gìn ngũ-giới cho được trong sạch và trọn vẹn nữa. 

Tội-Ác Từ Say Rượu

Đức-Phật đang ngự tại ngôi chùa Jetavana gần kinh-thành Sāvatthi, khi ấy, Đức-Phật thuyết về tích tiền-kiếp của Đức-Phật là Đức-Bồ-tát Dhammadhaja([16]) có một đoạn giảng giải về tội-ác phát sinh từ say rượu, được tóm lược như sau:

Đức-Bồ-tát Dhammadhaja là quan cận thần của Đức-vua Yasapāni, có một người bạn thân tên Chattapānī. 

Ông Chattapāni là người thợ cắt tóc, sửa râu của Đức-vua Yasapāni. Ông Chattapāni có bản tính tự nhiên do lời chân thật phát nguyện không bao giờ uống rượu trong suốt mỗi kiếp cho đến khi trở thành bậc Thánh A-ra-hán, bởi vì, ông nhận thức thấy rõ tội-ác từ uống rượu, say rượu…

Một hôm, người thợ cắt tóc Chattapāni tâu lên Đức-vua Yasapāni rằng:

- Muôn tâu Đại-vương, trong tiền-kiếp kẻ hạ thần đã từng ăn thịt con của mình bởi vì say rượu. Sau khi tỉnh say rượu, kẻ hạ thần vô cùng sầu não, khổ tâm cùng cực, vì thương nhớ đến đứa con yêu quý nhất. Rồi từ kiếp đó về sau, hạ thần đã phát nguyện trong suốt mỗi kiếp không bao giờ uống rượu nữa.

Người thợ cắt tóc Chattapāni thuật lại câu chuyện xảy ra rằng:

- Muôn tâu Đại-vương, tiền-kiếp của hạ thần cũng làm vua trị vì xứ Bārāṇasī, khi hạ thần là Đức-vua, hằng ngày không thể thiếu món rượu, và trong mỗi bữa ăn không thể thiếu món thịt.

Trong kinh-thành Bārāṇasī thời ấy, vào ngày giới hằng tháng, người ta không sát-sinh, cho nên người đầu bếp phải mua thêm thịt vào trước ngày giới, để dành phần cho ngày hôm sau. Do sơ suất, ông cất giữ món thịt ấy không cẩn thận, nên bị con chó ăn mất hết.

Sáng hôm ấy, nhằm vào ngày giới, người đầu bếp đi tìm mua thịt khắp mọi nơi, mà không có món thịt nào cả.

Ông đã cố gắng làm những món ăn thơm tho ngon lành xong, mà chưa dám đem dâng lên Đức-vua đang ở trên lâu đài. Ông vào tâu với bà chánh-cung hoàng-hậu rằng:

- Tâu Chánh-cung Hoàng-hậu, hôm nay, kẻ hạ thần đi tìm mua thịt khắp mọi nơi mà không có món thịt nào.

Bữa ăn hôm nay không có món thịt, nên kẻ hạ thần chưa dám dâng lên Đức-vua. Bây giờ, kẻ hạ thần phải làm thế nào? Tâu lệnh bà.

- Này ngươi! Hoàng-tử của ta được Đức-vua thương yêu quý mến nhất, khi Đức-vua đang thương yêu, âu yếm ôm hoàng-tử vào lòng, chắc Đức-vua không còn quan tâm đến bữa ăn có món thịt hay không.

Bà Chánh-cung Hoàng-hậu trang điểm cho hoàng-tử thật đáng yêu, rồi bồng hoàng-tử đặt ngồi trên vế của Đức-vua. Đức-vua say mê vui đùa với hoàng-tử. Khi ấy, người đầu bếp đem vật thực vào dâng lên Đức-vua. Khi đang say rượu, Đức-vua nhìn trong mâm thức ăn không thấy món thịt, bèn phán rằng:

Tại sao hôm nay không có món thịt?

Người đầu bếp hoảng sợ tâu rằng:

- Muôn tâu Bệ-hạ, hôm nay là ngày giới, nên kẻ hạ thần đi tìm khắp mọi nơi, mà cũng không mua được món thịt nào cả.

Đức-vua đang trong lúc say ngất ngưởng phán rằng:

Tìm thịt làm món ăn cho Trẫm, khó đến như vậy sao?

Đức-vua bèn nắm đầu hoàng-tử vặn cổ chết tươi, rồi ném xuống trước mặt người đầu bếp, mà phán tiếp rằng:

Ngươi hãy mau đem đi làm món ăn cho Trẫm!

Người đầu bếp tuân theo lệnh của Đức-vua, làm món ăn bằng thịt của hoàng-tử, rồi đem lên dâng Đức-vua dùng trong bữa ăn tối hôm ấy.

Chánh-cung Hoàng-hậu và tất cả những người hầu chẳng có một ai dám khóc than, phản đối gì cả, bởi vì họ rất sợ Đức-vua.

Đức-vua dùng bữa ăn tối xong, nằm ngủ cho đến sáng ngày hôm sau mới thức dậy. Đã tỉnh cơn say, Đức-vua truyền lệnh rằng:

Hãy bồng hoàng-tử yêu quý của ta đến đây!

Bà Chánh-cung Hoàng-hậu đến chầu, cúi lạy dưới chân Đức-vua mà than khóc.

Đức-vua bèn truyền hỏi rằng:

- Này ái-khanh! Ái-khanh khóc vì chuyện gì?

Tại sao ái-khanh không bồng hoàng-tử yêu quý của Trẫm đến đây?

Chánh-cung Hoàng-hậu tâu rằng:

- Muôn tâu Hoàng-thượng, chiều hôm qua Hoàng-thượng đã vặn cổ hoàng-tử chết tươi, rồi trao cho người đầu bếp bảo làm món ăn dâng lên Hoàng-thượng. Hoàng-thượng đã dùng bữa ăn với món thịt của hoàng-tử từ tối hôm qua rồi.

Lắng nghe Chánh-cung Hoàng-hậu tâu như vậy, Đức-vua vô cùng hối hận, khổ tâm sầu não, vì hương tiếc hoàng-tử yêu quý.

Khi đã nhận thức rõ tội-ác khủng khiếp phát sinh từ uống rượu, say rượu, Đức-vua bèn chắp chặt đôi tay đưa lên trán, rồi phát nguyện rằng:

“Kể từ kiếp này về sau, và những kiếp sau kế- tiếp cho đến kiếp chót trở thành bậc Thánh A-ra-hán, Trẫm nguyện sẽ không bao giờ uống rượu nữa, để không còn thấy cảnh tự làm khổ mình và làm khổ những người thân yêu của trẫm nữa.”

Thật vậy, kể từ đó cho đến trọn kiếp và trải qua vô số kiếp tử sinh luân-hồi, kiếp nào hạ thần cũng không bao giờ uống một chút rượu nào cả.

(Trích đoạn tiền-kiếp Đức-Bồ-tát Dhammadhaja)



[1] Nếu có nhiều người thì thay chữ “ahaṃ” bằng chữ “mayaṃ”.

[2] Nếu có nhiều người thì thay chữ “yācāmi” bằng chữ “yācāma”.

[3] Nếu có nhiều người thì thay chữ “me” bằng chữ “no”.

1 NTL: Ngài Trưởng-Lão. CSN: Cận-sự-nam, cận-sự-nữ.

[4] Nếu có 2 người trở lên thì dùng chữ sampādetha.

[5] Khu. Vimānavatthu, tích Maṇḍūkadevaputta vimānavatthu.

[6] Saṃyuttanikāya, Saḷāyatanavagga, kinh Channasutta. (Ngài Trưởng-lão Channa trùng tên với tỳ-khưu Channa, vốn là vị quan đánh ngựa đưa Đức-Bồ-tát Siddhattha đi xuất gia).

[7] M.Mūlapaṃṇāsa, kinh Vatthasutta.

[8] Đức-vua trời Sakka đã là bậc Thánh Nhập-lưu trong thời-kỳ Đức-Phật đang còn hiện hữu trên thế gian.

[9] Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, chuyện Mallikādevīvatthu.

[10] Bộ Jātaka tích Pañcāvudhajātaka.

[11] Bộ Jātaka tích Saṅsumārajātaka.

[12] Bộ Aṅguttaranikāya. Aṭṭhakanipātapāḷi, Duccarittavipākasutta.

[13] Bộ Aṅguttaranikāya, Tikanipāta, Atittasutta.

[14] Khu. Suttanpātaṭṭhakathā. Maṅgalasuttavaṇṇanā.

[15] Dī, Sīlakkhandhavaggaṭṭhakathā, Sāmaññaphalasuttavaṇṇanā.

[16] Bộ Jātaka, phần Dukanipāta, tích Dhammadhajajātaka.

 





[ Ðầu trang][Trở về mục lục ][ Trở về trang Thư Viện ]

updated: 2024