KỆ NGÔN II
HẠNH PHÚC IV
Patirūpadesa vāso: Ở trong xứ nên ở
(Ở trú xứ thích hợp)
Đức Phật đã dạy 38 pháp hạnh phúc chia ra từng giai đoạn
rải rác trong nhiều câu kệ và đôi khi trong mỗi câu kệ
có 3 hay 4 pháp hạnh phúc. Chúng ta chỉ xem qua vội vàng
không quan tâm đến dụng ý của đức Phật, nên ta không
nhận thấy cái thâm thúy trong sự sắp đặt mỗi giai đoạn
của từng câu kệ. Đó không phải là
sự ngẫu nhiên mà là sự dụng tâm cấu tứ trong phương pháp
giảng huấn, căn cứ vào kinh nghiệm của ngài và tâm lý
của chúng sanh. Cho nên khi hành theo 38 pháp hạnh phúc
thì ta phải đi đúng theo từng giai đoạn, như câu kệ ngôn
I dạy:
1. Xa kẻ ác.
2. Thân cận với bậc trí thức.
3. Cúng dường đến các bậc đáng
cúng dường.
(Không gần gũi kẻ ác,
Thân cận bậc trí hiền,
Đảnh lễ người đáng lễ,
Là phúc lành cao thượng)[i]
Thì ta phải hành theo những điều tuần tự như thế mới
hoàn toàn đem sự an vui đến cho ta.
Câu kệ ngôn II cũng có 3 điều hạnh phúc. Có điều ta cần
chú ý là nội dung kệ ngôn I và nội dung kệ ngôn II nhằm
hai đối tượng khác nhau. Câu kệ ngôn I dạy tổng quát về
phần vật chất hay bên ngoài; còn câu kệ ngôn II dạy về
phần tâm hay bên trong. Câu kệ ngôn thứ I ví như người
nông phu biết quan sát coi đất nầy có thuận lợi không?
Có nước không? Coi mùa này phải trồng cây thứ giống nào?
Rồi mới gieo trồng.
Chúng ta có thể đem so sánh ba
điều hạnh phúc trong câu kệ ngôn thứ I với ba điều của
nhà nông nhận định về việc gieo trồng đó.
+ Trong kệ ngôn II Phật dạy thêm 3 hạnh phúc số 4 -5 -6
chúng ta cũng phải tuần tự thực hành ba pháp nầy, không
thể bỏ một pháp nào. Ba pháp hạnh phúc 4-5-6 ấy là:
4. Ở trong xứ nên ở.
5. Người đã làm những việc lành để dành khi trước.
6. Giữ mình theo lẽ chánh.
( Ở trú xứ thích hợp,
Công đức trước đã làm,
Chơn chánh hướng tự tâm,
Là phúc lành cao thượng)[ii]
+ Theo chú giải về 38 điều hạnh phúc - thì ở trong xứ
nên ở là ở trong xứ nào có đủ ba điều kiện:
a) Có các hàng trí thức là tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni, thiện
nam và tín nữ.
b) Có “puññakiriyāvatthu”[iii],
nghĩa là có nơi thuận tiện cho mình làm được 10 điều
phước thiện như bố thí, trì giới...
c) Có lời giảng giải của chư Phật, nghĩa là có Pháp bảo,
nếu trong thời kỳ không có Phật pháp - thì ít ra cũng
phải có lời giảng giải của các bậc trí thức.
Suy nghĩ rộng, thì câu hạnh phúc nầy có ý dạy rằng: Xứ
nào mà có bậc trí thức dạy chúng ta tìm được hạnh phúc
trong kiếp nầy và vị lai, hoặc giả khi ta ở xứ ấy, ta có
thể gặp được sáu điều cao thượng sau đây:
1-.Dassanānuttariya:
Thấy cao thượng, thấy đây không phải là thấy
những vật lạ như bạch tượng, hoặc vật trân quý như hột
xoàn ... mà, thấy cao thượng ở đây chính là thấy
rõ pháp vô thường, khổ não, vô ngã, rồi ráng lo tu hành
để mau giải thoát.
Đến đây tôi xin nhắc lại một tích khi đức Phật còn tại
thế để suy gẫm về sự thấy cao thượng và sự thực
hành chánh pháp - như trong kinh Pháp cú:
“- Khi đức Phật còn tại thế,
có một thầy bà-la-môn tên là Vakali - thấy đức Thế Tôn
có thân hình rất đẹp, ông cứ lẻo đẽo theo bên để ngắm
nhìn ngài cho thỏa lòng ưa thích. Nhưng rồi cũng không
được thỏa mãn, vì vậy nên ông đã xin xuất gia để có
nhiều thì giờ và nhiều cơ hội ngắm nhìn hơn. Một ngày
nọ, đức Thế Tôn mới dạy rằng:
- Nầy Vakali! Ngươi xuất gia
để giải thoát, chứ không phải để đi theo ngắm nhìn sắc
thân của Như Lai. Người gần Như lai để ngắm nhìn sắc
thân nầy không phải là cao quý đâu. Phải thực hành theo
pháp mà Như Lai đã dạy bảo mới là cao quý.
Mặc dầu đức Thế Tôn dạy thế,
thầy không lấy đó để sửa mình, lại còn giận Phật, nên
leo lên núi cao để tự tử - vì thầy nghĩ rằng: Mình bỏ cả
gia đình xin xuất gia, những mong chiêm ngưỡng kim thân
của ngài, mà ngài lại còn rầy la mình, tủi thân ta quá!
Thôi, sống làm gì nữa, chết quách cho xong!
Khi ông vừa gieo mình tự vẫn,
thì đức Thế Tôn hiện ra, dùng thần thông làm cho ông ta
không bị rơi xuống; rồi bảo rằng:
- Như Lai nói vậy mà ông lại
giận Như Lai chăng?
Thầy Vakali nghe vậy lấy làm
cảm động, trong lòng hỉ lạc phát sanh.
Đức Phật lại dạy minh sát tuệ
cho ông rồi đọc kệ ngôn với ý rằng:
- Người nắm lấy chéo y của
Như Lai mà không hành theo chánh pháp, là ở xa Như Lai
muôn dặm. Người dẫu ở xa Như Lai nhưng hành theo pháp
của Như Lai là người ở sát bên Như Lai vậy.
Thầy tỳ-khưu Vakali sau đó
đắc đạo quả A-la-hán”.
Tích nầy cho thấy rõ ràng dầu người ở gần Phật cả đời,
mà không hành đạo cũng vô ích. Cần nhất phải hành theo
chánh pháp, mới gọi là thấy cao thượng.
2- Sotānuttariya:
Nghe cao thượng, không phải là nghe lời ca, tiếng
hát, đờn kèn thánh thót mê ly - vì sự nghe ấy không đưa
ta đến nơi giải thoát mà trái lại càng làm cho ta chìm
đắm, mê man trong âm hưởng mộng mị ấy. Nghe cao
thượng là nghe Pháp bảo, mới là tiếng lời chân
chính, đúng đắn đưa người thoát khỏi luân hồi. Nếu không
được là vậy, thì ít nhất, tiếng lời của Pháp bảo cũng
làm cho ta kinh sợ tội lỗi, nhứt thời không dám làm điều
ác, không dám phạm đến nghiệp dữ.
Tôi xin nhắc sơ lược chuyện của cha con ông tiều phu
đang đốn củi, nghe câu hát của cô gái hái hoa sen mà
tỉnh ngộ, đắc quả Phật Độc Giác - để hiểu đâu là tiếng
lời ẩn chứa sự vi diệu của Pháp bảo:
“- Có một cô gái đang lội bùn
để hái sen, vừa hái, cô ta vừa hát rằng:
- Hoa sen sớm nở chiều tàn.
Sắc hương phai nhạt, nhụy vàng rụng rơi!
Gẫm hoa nào khác kiếp người.
Mong manh thân phận, rã rời diệt sinh!
Hai cha con ông tiều phu đang
đốn củi gần đấy, nghe được câu hát, xúc động sâu xa -
cảm nhận thấm thía và sâu sắc rằng: Cái thân mình đây
cũng không bền vững, sống rồi chết, sanh rồi diệt, diệt
rồi sanh, luân hồi mãi mãi trong cõi đời đầy đau khổ
nầy. Vì suy nghĩ như vậy, chiêm
nghiệm như vậy, quán tưởng như vậy - nên giây khắc ấy,
cả hai cha con đoạn tuyệt tất thảy mọi phiền não, đắc
quả Phật Độc Giác”.
Tích nầy cho ta thấy rõ rằng, nếu nghe được chân lý hoặc
ý nghĩa nào đó liên hệ đến sự thật - rồi chiêm nghiệm,
quán xét bằng trí tuệ là có thể chấm dứt phiền não, giải
thoát được.
Nghe như hai cha con vị tiều phu mới được gọi là nghe
cao thượng. Ta ở xứ nào mà nghe được những
lời lành, những lời làm cho tâm ta kinh sợ tội lỗi, lánh
xa điều ác, nhất tâm hướng thiện - thì nơi ấy là xứ ta
nên ở.
3- Labhānuttariya:
Được cao thượng. Được tiền của, châu ngọc, người
đời cho là quý báu, nhưng đối với Phật giáo thì đó không
phải là cao thượng; vì những vật ấy sẽ đem lại sự cực
lòng, phải lo chăm sóc, cất giữ, lo sợ mất mác hoặc sợ
bị cướp bóc... Nếu không lo sợ
những điều ấy, thì ta vẫn còn một điều lo sợ nhất, là ta
mến tiếc nó, lưu luyến nó - khiến cho tâm ta bao giờ
cũng phiền não, bất an, dính mắc. Vì
vậy nên tiền của, châu ngọc không phải là cái đem đến an
lành, hạnh phúc thật sự. An lành, hạnh phúc chơn chính
là không còn lo sợ, bất an, hay thao thức, trằn trọc
nữa...
Được cao thượng là có được đức tin.
Người đời ít ai có được đức tin
chân chánh (Tin Tam Bảo, tội phước, nhân quả, nghiệp
báo) nên không biết làm việc thiện, không biết bố
thí giúp đỡ kẻ nghèo; mà trái lại, chỉ muốn thâu góp,
tích trử, vơ vét thêm cho nhiều, cho đầy kho, đầy lẫm,
đầy hòm, đầy rương! Nhưng đáng thương thay, những người
ấy khi chết không đem theo cho mình được gì cả! Những
người ấy khó thấy được thiện pháp,
khó đắc được đạo quả; cứ sống mãi trong chốn mê lầm tăm
tối, luân hồi tử sinh thống khổ mãi. Người có được
đức tin, mới gọi là được cao
thượng. Đức tin là chiếc thuyền đưa một người từ bờ
mê đến bờ giác, đức tin là căn bản của người tu, nhờ có
đức tin con người mới hành đạo được.
Vì vậy đức Phật dạy chúng ta, xứ nên ở là
xứ nào có thể làm cho ta có được đức tin.
4- Sikkhānuttariya: Học cao thượng,
tức là học các pháp hành, như học cách thức trì giới,
tham thiền, niệm Phật, niệm Pháp, hoặc học tu chỉ tịnh,
quán minh... Nói tóm lại, học cao thượng là học những
phương pháp để đánh đuổi phiền não ra khỏi tâm. Còn tất
thảy mọi pháp học của thế gian chỉ để tích lũy bản ngã,
tham vọng, danh lợi... nên không được gọi là học cao
thượng vậy.
5- Paricaraṇānuttariya:
Sự hầu hạ cao thượng, nghĩa là nên thân cận Tam
Bảo nhứt là Tăng bảo để nghe các ngài dạy điều hay lẽ
thiệt, đâu phải, đâu không phải, phân biệt đâu tà, đâu
chánh, đâu khổ, đâu vui để tu tập mang đến hạnh phúc cho
mình và cho người khác. Ta cũng nên tìm cách gần gũi,
hầu hạ các bậc có gới đức, định đức, tuệ đức, các bậc
thiện trí thức để có thêm phước báu và hoạch đắc nhiều
lợi lạc tinh thần.
6- Anussatānuttariya: Niệm (tùy niệm) cao
thượng - Tức là niệm cái gì, niệm pháp nào để cho
tâm ta khắng khít với pháp lành làm cho phiền não không
len thấm vào được. Ngoài ra, lúc tâm ta niệm niệm liên
tục - sẽ có hai lợi ích. Một là, tâm ta sẽ lắng dịu sự
ham muốn ngũ trần, các tội lỗi và ác nghiệp không thể
nẩy sanh được. Hai là có thể đạt đến cận hành định -
những cáu bợn phiền não, kiết sử không có cơ hội đâm
chồi, mọc rễ được - đồng thời, ta sẽ đạt được hạnh phúc
lạc định rất là thù thắng vậy. Nếu không được như thế
thì ta cũng có được phước báu sanh về các cõi trời,
người với hạnh phúc sang cả.
Đức Phật có dạy sáu điều niệm, tùy niệm cao thượng
[iv]:
* Buddhānussati:
Niệm ân đức Phật (Niệm Phật). Có thể lựa chọn 01
trong 09 hồng danh của đức Phật để niệm, ví dụ: Buddho,
Arahaṃ... Cũng có thể niệm tưởng những ân đức của đức
Phật như giải thoát đức, tuệ đức, định đức, giới đức, từ
đức, bi đức... của ngài.
* Dhammānussati:
Niệm ân đức Pháp (Niệm Pháp). Pháp có 5 đặc tính,
cần phải niệm tưởng, ví dụ như: Thiết thực hiện tại, đến
để mà thấy...[v]
* Saṅghānussati:
Niệm ân đức Tăng (Niệm Tăng). Tăng có 4 đức tính
cần phải niệm tưởng, ví dụ như: Thiện hạnh, chánh hạnh,
trực hạnh, phạm hạnh...
* Silānussati:
Niệm tưởng giới luật (Niệm giới). Niệm tưởng giới
của mình thọ trì, coi có trong sạch hay không và nếu
không trong sạch, cố làm cho trong sạch; bằng đã trong
sạch, càng làm cho trong sạch thêm lên, không xao lãng,
không để cho nó bị lủng, bị rỗ, bị đứt, bị vá...
* Cāgānussati:
Niệm tưởng bố thí (Niệm thí). Luôn luôn quan sát
coi trong ngày chúng ta có làm được việc lành nào chưa,
nhứt là sự bố thí; vì bố thí là hạnh dễ làm nhất của
người tại gia cư sĩ. Ngoài ra, ta còn cần phải niệm
tưởng rằng, bố thí là phước điền, bố thí năng sanh thiện
pháp, bố thí nhằm để đối trị bỏn xẻn, xan tham; bố thí
nhằm để xả ly, dứt bỏ, bố thí làm cho tâm ta càng ngày
càng vắng lặng, trong sạch...
* Devatānusati: Niệm tưởng chư thiên
(Niệm thiên); vì chư thiên có năm thiện pháp, mà
chúng ta nên thực hành theo là:
- Saddhā
: Đức tin
- Sīla
: Giới đức
- Suta
: Đa văn (nghe pháp, đọc kinh sách)
- Cāga
: Bố thí (dứt bỏ)
- Paññā
: Trí tuệ
Đó là năm pháp (Tín, giới, văn, thí, tuệ)
làm cho các vị được sanh làm chư thiên. Khi ta hành động
theo các vị thì ta được sanh về cõi trời, bằng ta thực
hành cao thượng hơn năm pháp ấy, hành trì thâm sâu và
miên mật hơn - nhất là chỉ tịnh và quán minh thì chúng
ta có thể đắc các tầng thiền hoặc tứ đạo, tứ quả và
Niết-bàn.
Tóm lại, xứ nên ở là xứ có Phật pháp,
nếu không có Phật pháp, ít nhất cũng phải có các bậc
thiện trí thức chỉ dạy con đường lành cho mọi người, có
điều kiện thuận tiện cho ta thực hành được bảy điều hạnh
phúc căn bản:
1. Có dịp để mình làm
việc lành.
2. Được học ba pháp (Pháp học, pháp hành và
pháp thành)
3. Được sáu điều cao thượng (Như đã nói ở
trên)
4. Được trở nên người không dễ duôi, không
giải đãi, buông lung, phóng dật...
5. Được chỗ nương nhờ cao quý cho bản thân
mình.
6. Được hưởng “Thất
bảo”[vi]
của nhà Phật.
HẠNH PHÚC V
Pubbe ca katapuññatā
Tánh cách người có việc lành để dành từ trước
(Công đức trước đã làm)
Câu này dạy rằng: Người đã làm phước trong
kiếp trước, ngày hôm nay được thọ hưởng phước ấy.
Khi được lợi lộc hay thoát khỏi một tai nạn,
người ta thường cho rằng đó chỉ là tình cờ, hay là sự
may mắn. Sự thật, ấy là quả báo
của việc lành mà người ấy đã làm trong nhiều kiếp trước,
nay đến lúc trổ quả. Người có ít
nhiều đức tin và tâm đạo thì cho rằng đó là do phước.
Phước
là gì? Phước là những thành tựu đưa đến những lạc thú ở
đời, kinh gọi là hỹ mãn ngũ dục như giàu sang, quyền
quý, chức tước, danh vọng...
[vii] Theo quan niệm
thông thường, nếu đem phước ra phân tách thì chúng ta
thấy nó có ba nhân tố, ba yếu tố cần và đủ; đấy là:
1- Nhân của phước: Là điều, là việc mà mình đã làm với sự trong sạch của
thiện tâm, tức là do vô tham, vô sân, vô si; mà sau khi
làm xong, mình không hề ăn năn hối tiếc, trái lại thấy
trong lòng hân hoan, vui vẻ, thỏa thích.
2- Quả của phước:
Là sự đầy đủ, thỏa mãn từ vật chất đến tinh thần mà mình
đang hưởng thụ như giàu sang, quyền chức, danh vọng, địa
vị...
3- Lý của phước:
Là sự may mắn thoắt đến, chợt đến cho ta, và khiến ta
tránh khỏi tai nạn hoặc thoát được một hoàn cảnh hiểm
nghèo. Cái lý ấy, người không tu
Phật thường không suy gẫm sâu về nhân quả nên họ gọi là
sự tình cờ, ngẫu nhiên. Thí dụ như mình đi trễ chuyến xe
sáng, nhưng sau đó, chiếc xe ấy bị tai nạn giữa đường.
Chuyện này chỉ như là tình cờ, ngẫu nhiên mà mình thoát
khỏi tai nạn; nhưng thật ra, đấy là do phước, do phước
bảo trợ nên nó xúi ta đi trễ chuyến xe. Phước này không
có được từ hiện tại, mà do ta đã để dành sẵn từ kiếp
trước. Tạm coi như đấy là lý của phước
[viii].
+ Có ba nguyên nhân sanh phước:
- Tâm trong sạch.
- Ba cửa (thân, khẩu, ý) thanh tịnh.
- Tâm biết rung động, biết kinh sợ tội lỗi
[ix]
1- Tâm trong sạch:
Là tâm không lẫn lộn với tội ác như tham lam, sân hận,
si mê, và tâm hằng nhớ đến ân đức Tam Bảo.
“- Trong kinh Pháp cú có chuyện thanh niên Maṭṭakuṇḍali
là con của một ông trưởng giả, có tiếng là keo kiệt nhất
trong xứ. Khi Maṭṭakuṇḍali bệnh, ông trưởng giả không
rước thầy coi bệnh cho thuốc, mà lại hỏi thầy thuốc bệnh
thế ấy uống thuốc gì? Thầy thuốc biết ông ta bỏn xẻn,
keo kiệt không chịu bỏ tiền mua thuốc, muốn tự tay mình
lên rừng kiếm thuốc cho đỡ tốn kém, nên ghét, chỉ thuốc
không đúng căn bệnh làm cho con ông càng ngày càng đau
nặng. Ông trưởng giả thấy con bệnh nặng, sắp chết, sợ để
trong nhà quyến thuộc đến thăm phải tốn kém này nọ, nên
ông đem cho con ông nằm ngoài hàng ba. Vì thanh niên
Maṭṭakuṇḍali là người đã tạo nhiều duyên lành để lại từ
kiếp trước, nên đêm ấy đức Thế Tôn dùng tuệ quan sát
thấy chàng có duyên; nên sáng ngày mai, ngài ngự đến
ngay trước nhà của ông trưởng giả. Lúc ấy, Maṭṭakuṇḍali
lại nằm quay mặt vào trong nên đức Phật lại hiện hình
trên vách. Trông thấy đức Thế Tôn tướng hảo quang minh,
chàng thanh niên Maṭṭakuṇḍali lấy làm trong sạch và nghĩ
rằng: Ta vô phước sanh làm con của người keo kiệt không
được làm việc lành. Hôm nay ta không thể ngồi dậy, đứng
lên hoặc chấp tay đảnh lễ Phật được. Thôi chỉ có tấm
lòng thành kính, trong sạch này, con xin làm lễ đức Thế
Tôn.
Hướng đến đức Phật, suy nghĩ thế xong thì tắt hơi,
thanh niên Maṭṭakuṇḍali được sanh
về cõi trời do nhờ tâm ông kính thành và trong sạch”.
2- Ba cửa thanh tịnh: Là thân, khẩu, ý thanh tịnh. Thân thanh tịnh
là không sát sanh, không trộm cướp và không tà dâm. Khẩu
thanh tịnh là không nói dối, không nói đâm thọc, không
chửi rủa mắng nhiếc và không nói lời vô ích. Ý thanh
tịnh là không oán thù, không tham lam, không tà kiến.
Nói tóm lại, ba cửa thanh tịnh chính là 10 nghiệp lành.
3- Tâm biết rung động, biết kinh sợ tội lỗi:
Nguyên chúng sanh còn say mê
theo tài sắc, danh lợi; tâm ác của họ không bao giờ biết
rung động, biết ghê sợ, biết kinh sợ trước tội lỗi mà
chính mình đã làm. Trong lúc say mê theo tài sắc, lợi,
danh; họ đâu biết, đâu nghĩ rằng, khi tử thần gõ cửa, họ
sẽ ra đi với hai bàn tay trắng! Thậm chí như khi cha,
mẹ, anh em thân bằng quyến thuộc, người này, người kia
bỏ họ ra đi về cảnh giới khác, họ cũng chẳng hề nao
núng và chẳng thể nghĩ rằng: Ngày nào đây họ cũng sẽ bỏ
những gì mà họ đã có, ra đi với hai bàn tay không cùng
một khối tội lỗi nặng nề đè trên tâm hồn họ. Người không
biết rung động, biết kinh sợ tội lỗi thì không hề biết
tu hành, vì vậy nên không bao giờ có được một giây phút
thoải mái, những khoảnh khắc an lành.
Vậy ta nên để tâm rung động, ghê sợ trước những việc
ác, những nhân tố đưa đến đau khổ; ráng lo tu hành để
được hạnh phúc trong kiếp này và sẽ được giải thoát muôn
vạn phiền não trong ngày vị lai.
Theo đây tôi xin nhắc tích của đại đức Yasa,
người biết ghê sợ, kinh tởm đời sống ngũ dục.
“- Sau khi chuyển pháp luân tại vườn Lộc uyển Bārāṇasī,
Đức Thế Tôn tạm ở với 5 vị Kiều Trần Như. Lúc ấy tại
thành Bārāṇasī có chàng thanh niên Yasa, con của một vị
trưởng giả, được cưng chiều như viên ngọc quý. Chàng ở
trong ba tòa lầu để trong ba mùa, ngày đêm yến tiệc linh
đình, tiếng ca hát không bao giờ dứt. Đêm nọ, Yasa đang
xem mỹ nhân múa hát, chàng phát chán rồi bỏ đi ngủ.
Khuya lại, tỉnh giấc, Yasa thấy những mỹ nhân đang ngủ,
mồ hôi xông ra mùi khó thở, có cô nước miếng chảy ra, có
cô ngáy om sòm, chàng cảm thấy đó là những tử thi và
tưởng như mình đang đứng giữa bãi tha ma. Lấy làm kinh
sợ, Yasa thốt rằng: “Thế gian bẩn thỉu quá”! Ý chàng
muốn nói thế gian nầy toàn là những vật nhơ nhớp, người
bị nhốt trong vòng tỏa của sự đau khổ, không biết nương
tựa vào đâu được. Rồi Yasa bỏ lầu ra đi về hướng vườn
Lộc Giả. Đức Thế Tôn biết duyên lành của Yasa đã đến,
nên ngồi chờ chàng tại một nơi. Nơi đó, Yasa vừa đi vừa
lập lại câu: “Thế gian bẩn thỉu quá!”. Đức Thế Tôn gọi
Yasa và nói rằng: “Đây không bẩn thỉu, không bực bội,
ngươi hãy đến đây". Yasa mới đến gần và đảnh lễ đức Thế
Tôn. Đức Thế Tôn mới thuyết về Anupubba cho ông nghe.
Sau khi nghe xong thời pháp, Yasa đắc quả Tu-đà-hoàn đến
sáng ngày chàng đắc A-la-hán quả sau 5 thầy Kiều Trần
Như. Và thanh niên Yasa là vị A-la-hán thứ sáu trong
Phật giáo”.
Nhơn đó đức Phật dạy cho đệ tử nghe rằng: Kiếp
trước Yasa là người làm nghề thiêu tử thi. Có ngày nọ
ông thiêu tử thi của một người đàn bà có thai. Khi đốt
tử thi cháy, ông thấy đứa trẻ lòi ra trông rất ghê tởm.
Ông phát tâm chán sợ về sự nhơ nhớp của xác thân, đó là
cái nhân. Đến kiếp nầy ông thấy mỹ
nữ là những tử thi.
+ Đây tôi xin nói tóm về pháp Anupubba (thuận thứ) của
đức Phật đã thuyết cho đại đức Yassa là pháp hành theo
tuần tự 5 điều:
1. Dāna:
Dạy về bố thí
2. Sīla:
Dạy về trì giới
3. Sagga:
Nói về sự an vui trong các cõi trời
4. Kāmādīnava:
Nói về tội ngũ trần
5. Nekkhammanissanda: Dạy về cái quả của sự xuất gia
Sở dĩ pháp đó gọi là pháp đi theo tuần tự (thuận
thứ), từ thấp lên cao - là vì trước hết đức
Phật dạy về bố thí, thứ nhì là trì giới, sau ngài mới
nói về an lạc cõi trời, tiếp theo là nói đến cái hại của
ngũ trần sau đó mới nói đến kết quả của sự xuất gia, là
con đường chấm dứt tất cả mọi khổ ách.
Nếu ta hành được pháp tuần tự đó thì tạo được nhân sanh
phước và ta tạo được phước lành trong kiếp trước, thì
chắc chắn chúng ta sẽ được hưởng phước trong ngày vị
lai.
Có người hỏi: Có ai có thể cướp được hạnh phước báu của
ta chăng?
Đức Thế Tôn dạy: Phước ấy theo ta như bóng với hình,
không ai có thể trộm cắp hay cưỡng bách hoặc lập mưu kế
gì để cướp giật phước báu ấy được, chẳng khác gì hột
ngọc Siri trong sự tích sau đây.
“- Khi đức Thế Tôn còn tại
thế, ông trưởng giả Cấp Cô Độc làm phước bố thí cho đến
khi nghèo. Ông làm chùa Kỳ Viên, mua vườn xoài của hoàng
thân Kỳ-đà bằng cách trải vàng đầy mặt đất. Vì vậy chùa
Kỳ Viên cũng có tên là Bố Kim Tự (Chùa trải vàng). Ngoài
ra ông còn làm phước bố thí nhiều không kể hết. Ông làm
phước cho đến lúc chỉ còn cháo tấm và bột chua. Nhưng về
sau ông giàu trở lại. Có thầy
bà-la-môn tìm hiểu coi tại sao ông giàu, rồi lại nghèo,
trở lại giàu! Sau nhiều lần quan sát, thầy bà-la-môn
thấy trên đầu một con gà trống ở nhà ông trưởng giả có
viên ngọc Siri. Biết đây là nguyên nhân sanh phước, ông
bà-la-môn liền đến xin con gà ấy và thầy tin chắc rằng
ông trưởng giả sẽ cho vì thầy viện lẽ rằng, nhà thầy có
gà, nhưng toàn là gà gáy sai canh, cần một con gà gáy
đúng canh để học trò dậy học bài. Ông trưởng giả vốn là
người giàu lòng bố thí, thì con gà đối với ông không có
nghĩa lý gì, nên ông cho liền. Khi
ông trưởng giả bằng lòng cho con gà thì cái Siri lại bay
qua đậu trên cây gậy của ông trưởng giả; thầy bà-la-môn
xin luôn cây gậy, ông cũng cho, thì Siri bay lên đậu
trên đầu của bà trưởng giả.
Thấy hiện tượng ấy, thầy bà-la-môn biết rằng, vật ấy,
viên ngọc Siri, viên ngọc may mắn ấy thường đi liền với
chủ, không ai có thể xin mượn hay cướp giật được, bèn
thú nhận: “Tôi xin trả lại con gà trống trắng và
cây gậy lại cho ông. Thật ra tôi thấy cái Siri của gia
đình ông ở trên đầu con gà, nên tôi mới xin nó, không dè
ngọc Siri lại bay đậu trên cây gậy của ông, rồi tôi xin
cây gậy thì cái Siri ấy lại bay đậu trên đầu bà. Cái
viên ngọc Siri may mắn và quý báu ấy là vật sở hữu của
ông, thật không ai có thể lấy được”.
+ Vậy khi có phước thì không ai làm thể nào cướp lấy
được phước của ta. Muốn tạo ra phước, ta có ba pháp phải
hành:
- Bố thí trừ tham lam.
- Từ bi để diệt lòng sân hận.
- Tham thiền theo hai pháp: Chỉ tịnh (định) và
quán minh (tuệ, minh sát tuệ) để trừ si mê và tà
kiến.
Nhưng phải hành ba pháp đó bằng tâm trong sạch, sốt
sắng, quyết định, thì quả phước đến cho ta mau lẹ. Trái
lại nếu ta làm chần chờ, giải đãi, dụ dự thì quả lành
cũng đến chậm chạp. Lẽ cố nhiên, mỗi khi ta muốn làm một
việc gì quấy, thì cả trăm tâm ác xô đẩy xúi giục ta mau
thi hành việc quấy ấy; còn khi nào ta muốn làm lành như
bố thí, thì hằng ngày cái tâm ác kéo lại không cho ta
thực hành.
+ Phước đem lại rất nhiều lợi ích
an lành cho ta như là:
1. Ajeyya:
Không ai dành lấy được - vì không gì có thể thắng nổi
phước.
2. Anugaminī:
Theo dính bên mình ta, nó theo vào, đi liền với ta như
bóng không lìa hình.
3. Etaṃ adaya gacchati:
Khi người bỏ xác thân này không đem gì theo được, ngoài
nghiệp nhân mà mình đã gieo.
4. Asādhāraṇa:
Riêng biệt, không phải công cộng. Nghĩa là, phước không
phải là của chung, của ai tạo thì người ấy hưởng, chớ
không phải của người này tạo mà người kia hưởng được,
cho dù là quyến thuộc.
5. Acoro:
Kẻ trộm không thể trộm được.
6. Sabbakammaddā:
Phước ấy trả quả cho người đã tạo được an vui và đắc kỳ
sở nguyện. Được thọ lãnh trọn vẹn kết quả nghiệp lành mà
mình đã tạo.
7. Yaṃ yaṃ devahipatthanni
(?)
[x]:
Nguyện vọng gì đều được kết quả như ý.
8. Suvaṇṇatā:
Có làn da đẹp
9. Sussaratā:
Có tiếng nói dịu dàng, nghe rất hay.
10. Susaṇṭhāna:
Có tướng tốt.
11. Surūpatā:
Có thân hình đẹp, sắc tướng tuyệt mỹ.
12. Adhipaccam:
Được chức phận lớn
13. Parivāro:
Được nhiều người tâm phúc, nhiều kẻ tùy tung, hầu hạ.
14. Padesarajjam:
Được quyền uy trong một xứ, một địa phận.
15. Issariyam:
Được độc lập, nghĩa là không dưới quyền ai; nhiều của
cải, tài sản.
16. Cakkavattī:
Được làm vua Chuyển luân vương.
17. Devarajjampi:
Được làm Thiên vương
18. Manussika:
Được sanh làm người giàu sang
19. Devaloke:
Được sanh vào cõi trời
20. Nibbānasampatti:
Đắc được quả vô thượng là Niết-bàn
21. Mittasampadamagamma:
Được có nhiều bạn lành
22. Vijjāvimutti:
Đắc giải thoát do nhờ trí minh
23. Paṭisambhidā:
Đắc tuệ phân tích
24. Vimokkha:
Được giải thoát
25. Savakaparamī:
Đắc được Ba-la-mật của bậc Thanh văn đệ tử Phật
26. Paccekabodhi:
Đắc được quả Độc Giác Phật
27. Buddhabhūmi:
Được căn bản của trí Phật
28. Sukhanaṃ nidānaṃ:
Có được phương tiện (nhân) để đưa đến hạnh phúc,
an vui.
29. Sampattinaṃ mūlam:
Là gốc rễ của sự may mắn, thành tựu, an vui, giác ngộ,
giải thoát.
30. Bhoganaṃ mūlaṃ:
Là nguồn gốc có được những sở hữu tài sản.
31. Visamagatassatnam (?)
: Phước là vật vô tri cho người còn luân hồi.
32. Dānasadiso avassayo:
Phước giống như sự nương nhờ.
33. Sīhasadisaṃ
: Phước giống như (hang) sư tử, nghĩa là nơi mà
các con thú khác không dám leo đến, người có phước không
bao giờ gặp tai nạn của kẻ ác gây nên.
34. Papahapaṭhavī sadisaṃ:
Phước giống như quả địa cầu chở người có phước.
35. Rajjudisaṃ:
Phước giống như sợi dây cột tâm lại không cho đi lầm
đường.
36. Navasadisaṃ:
Phước giống
[xi] như thuyền chở người qua bể khổ.
37. Saṅgāmasuro:
Phước ví như vị tướng tài can đảm đánh tan quân thù nơi
trận địa
[xii].
38. Susaṅkhatanagaraṃ:
Phước ví như kinh thành hay phố thị mà người ta trang
điểm huy hoàng.
39. Padumasadisaṃ:
Phước giống như hoa sen - không hôi tanh mùi bùn, nghĩa
là không hề đưa người đi vào đường tội lỗi, xấu ác.
40. Aggisadisaṃ:
Phước ví như lửa - đốt cháy phiền não trong tâm
41. Asīvissadisaṃ:
Phước ví như rắn độc vì nó cắn chết tội.
42. Sīhasadisaṃ:
Phước ví như sư tử rất can đảm khi đứng trước kẻ thù là
tội lỗi
[xiii].
43. Seta-usabhasadisaṃ:
Phước ví như bò Usabha, vì bò này quý nhứt thế gian
[xiv].
44. Hatthīsadisaṃ:
Phước ví như bạch tượng - là thú quý nhứt.
45. Vahassarāja:
Phước ví như thiên lý mã
[xv] chở người bay qua bể khổ luân
hồi.
46. Gatamaggaṃ:
Phước là con đường đi của các bậc thánh nhơn.
47. Buddhavansaṃ:
Phước là dòng của Phật, nghĩa là muốn đắc quả Phật thì
phải tạo nhiều phước.
Phước còn đem lại cho ta nhiều hạnh phúc, như là: Phước
là vật thực trong đời vị lai của người chưa đi đến
Niết-bàn.
Phước là nguyên nhân cho chúng ta được ba điều an lạc
là: Nhân, thiên, và Niết-bàn.
HẠNH PHÚC VI
Attasammāpaṇīdhi: Giữ mình theo lẽ chánh
(Chơn chánh hướng tự tâm)
Atta nghĩa là mình, là ta,
và ngụ ý sâu rộng hơn là chữ tâm, vậy câu này nghĩa là:
Hướng tâm mình theo lẽ chánh.
Câu này dạy rằng: Giữ mình theo lẽ chánh, vì ngụ ý có
chánh, là có tà, mà tà là ác. Mà ác là phiền não, mà
phiền não thì đưa ta vào vòng luân hồi mãi mãi, vì vậy
nên đức Phật dạy: “Người nên giữ mình theo lẽ chánh,
đem tâm mình ra khỏi các pháp phiền não là tham lam, sân
hận và si mê - để ra khỏi vòng luân hồi.”
Từ vô số kiếp đến giờ phút này, tâm ta không ở trong
thiện pháp, nghĩa là không ở trong lẽ chánh, dầu có
chăng cũng chỉ là thoáng qua; trong một phần rất lớn của
những ngày luân hồi của chúng ta, tâm ta thường mải miết
trong ác pháp, làm những điều tội lỗi xấu xa; vì vậy hôm
nay chúng ta vẫn còn luân hồi trong vòng thống khổ. Cho
nên đức Phật dạy, hãy đưa ta, hay tâm ta thoát khỏi vòng
trầm luân, nghĩa là cho tâm ta giải thoát khỏi tam độc,
đưa tâm vào pháp bố thí, trì giới và tham thiền.
Ý câu này đức Phật dạy ta phải uốn nắn dạy tâm, hay chùi
rửa, sửa trị tâm theo chánh đạo.
Theo bộ chú giải, giảng về điều hạnh phúc thứ VI
nầy thì mình phải để tâm mình vào những pháp là: Đức
tin, trì giới, nghe pháp, bố thí, trí tuệ
[xvi]. Năm pháp này gọi là
Saradhamma nghĩa là pháp có lõi, ngụ ý nói pháp này
cứng rắn, có khả năng đối trị với phiền não - giúp cho
người thọ trì, hành theo năm pháp ấy là người đang tạo
cho mình một thành trì kiên cố chống kẻ thù địch là
phiền não, không có phiền não xâm nhập vào mình được. Là
người đã ở một nơi rất kiên cố, tránh khỏi kẻ thù phiền
não.
Giữ mình (hay hướng tâm mình) theo lẽ chánh còn
có nghĩa là dẫn dắt tâm hành theo minh sát tuệ. Khi
người nào thường thiền quán, tu tập minh sát, thì chắc
chắn tâm người ấy cứng rắn, không bị xao động vì phiền
não; và đó là một pháp đưa ta ra khỏi luân hồi, chống
đối phiền não khi chưa hoàn toàn giải thoát. Vì chăng,
xưa nay tâm ta thường cột oan trái oán thù làm hại kẻ
khác. Khi ta đã hiểu đạo, nhận thấy đó là những điều ác,
là nguyên nhân đưa vào đường sanh tử luân hồi, thì ta
phải đưa tâm ta ra khỏi những điều tội lỗi ấy và để tâm
ta vào nơi trong sạch, tức là giữ mình theo lẽ chánh.
Người vì không để tâm theo lẽ
chánh, nên hằng bị luân hồi, trái lại để mình theo lẽ
chánh, thì người được những quả báo sau đây:
1. Là nhân đưa sự an lành đến.
2. Là người không dễ duôi
3. Là người thực hành theo lẽ chánh pháp
3. Là người không có lỗi, nghĩa là người không bị chi
phối vì hoàn cảnh bên ngoài.
5. Là người có tam học trong tâm (Giới, định, huệ).
6. Là người đã chuẩn bị mọi việc trước khi chết, ý nói
là người đã chuẩn bị sẵn những phương tiện để đi đến nơi
an lạc.
7. Là người hộ trì Pháp bảo.
8. Là người đi đến đâu cũng đến được sự an lành.
9. Là người có hy vọng được sanh về cõi người, trời và
đắc quả Niết-bàn.
10. Đáng gọi là người cúng dường cao quý Tam Bảo.
11. Là lương dân của chánh phủ.
12. Là người đang làm khuôn mẫu cho người đời noi theo.
13. Là người đóng cửa ác đạo.
Sự tích dưới đây cho thấy rằng người biết hướng tâm theo
lẽ chánh thì được an lành và đắc đạo quả.
“- Khi đức Thế Tôn ngự tại
Xá-vệ, có thầy bà-la-môn tên Bharadvājagotra là người tà
kiến, khi nào y nghe tới tiếng Phật pháp, thì y bịt tai
lại lập tức. Vợ y là vị Tu-đà-hoàn đệ tử Phật; khi nào
bà nhảy mũi hay làm gì giựt mình, thì bà niệm Phật.
Ngày kia ông chồng muốn làm
lễ cúng dường 500 vị bà-la-môn, mới yêu cầu bà đừng niệm
Phật trong khi cúng dường cho các thầy; vì họ không ưa
nghe tiếng niệm Phật, và không bao giờ chịu thọ thực tại
nhà của Phật tử.
Bà vợ nói: “Ông muốn cúng
dường ai cũng được, tôi vui lòng làm cho, nhưng xin
thưa, là tôi không thể không niệm Phật được”.
Ông ấy nói: “Nếu bà không
nghe tôi, thì tôi sẽ chặt cổ bà bằng cây đao này”.
Bà liền đáp: “Nếu ông có bằm
nhỏ tôi ra thì tôi cũng chẳng màng. Thật ra, dù chỉ một
khoảnh khắc, tôi cũng không thể lãng quên hay lìa xa Tam
Bảo được”.
Sáng ngày các thầy bà-la-môn
đến thọ thực nơi nhà họ. Bà vợ vâng lời chồng đi dâng
cúng cho các vị bà-la-môn, chẳng may bị vấp bà liền niệm
Phật. Mấy thầy bà-la-môn nghe được lấy làm tức giận bỏ
ra về, sau khi mắng chửi thí chủ.
Thầy bà-la-môn gia chủ tà
kiến ấy lấy làm tức giận, muốn giết vợ nhưng không giết
được, nên vào chùa gây sự với đức Phật. Thầy mới hỏi:
“Người diệt được gì mới ngủ yên giấc? Người diệt được gì
mới không sầu? Này thầy Cồ Đàm! Thầy thích diệt pháp
gì?”
Đức Phật đáp: “Người diệt
được lòng sân hận mới không sầu khổ.
Nầy thầy bà-la-môn! Các bậc thánh nhơn thường diệt lòng
sân hận, vì lẽ lòng sân hận có chất thật độc (là sự
khổ), ngọn nó có vị ngọt (ý nói khi làm hại kẻ thù được
thì lòng rất vui vẻ, thỏa mãn). Khi người diệt được lòng
sân hận xong thì không bị sầu khổ nữa”.
Khi nghe xong câu kệ, thầy bà-la-môn liền phát sanh
trong sạch, có đức tin xin xuất gia theo Phật và ráng lo
hành đạo đắc quả thánh”.
Tích này chỉ cho quý vị thấy con người sầu khổ cũng vì
lòng sân hận, khi đã diệt được lòng sân hận thì được an
lạc gọi là người được nhiều sự an lành cũng nhờ để tâm
theo lẽ chánh hay là giữ mình theo lẽ chánh.
Xin nhắc lại một lần nữa rằng: “Chúng ta là Phật tử,
tức là người mong được giải thoát, hãy xin quan sát tâm,
coi tâm ta ở trong chánh pháp hay tà pháp và nên đem tâm
mình ra khỏi tà pháp để vào chánh pháp”.
[i] Đại sư Viên Minh dịch - in trong Kinh
tụng Huyền Không, phát hành nội bộ.
[iii] Nơi, chỗ, xứ để làm việc phước thiện.
[iv] Thật ra , nếu nói đầy đủ thì phải là
thập tùy niệm: Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng,
niệm giới, niệm thí, niệm thiên, niệm sự chết,
niệm tịch tịnh (Niết-bàn), niệm thân, niệm hơi
thở.( 8 đề mục đầu chỉ đưa đến cận định, 2 đề
mục sau thì có khác - như niệm thân có thể đắc
đến tứ thiền; niệm hơi thở thì đến tứ thiền, đạo
quả và Niết-bàn). Tuy nhiên, trong một buổi
giảng nói, có lẽ pháp sư không đi sâu vào chi
tiết, chỉ nói những cái khái quát.
[v] Cho đầy đủ là: Sandiṭṭhiko: Thiết thực
hiện tại; Akāliko: Vượt thời gian; Ehipassiko:
Đến để mà thấy; Opanāyiko: Có khả năng hướng
thượng (chú tâm, chánh niệm); Paccattaṃ
veditabbo viññūhi: Bậc trí tự mình giác hiểu.
[vi] Chưa rõ “thất bảo”hàm chỉ vật trân quý
gì. Có thể là 7 thánh sản : Tín, giới, tàm, quý,
văn, thí, tuệ? Hay là thất giác chi: Niệm, trạch
pháp, tấn, hỷ, an, định, xả? Theo tôi, có lẽ là
7 thánh sản.
[vii] Trong Nikāya, Hòa thượng Minh Châu dịch
là “ngũ dục công đức”, do phước báu thù thắng
nên thọ hưởng sắc, thanh, hương, vị, xúc hơn
người.
[viii] Đây là sự phân tích, kiến giải riêng của
Pháp sư!
[ix] Có lẽ Pháp sư muốn giảng rộng cho đại
chúng hiểu; chứ thật ra, tâm trong sạch chính là
thân khẩu ý trong sạch; và câu cuối có lẽ là nói
phải có tàm (hổ thẹn tội lỗi) và quý (biết ghê
sợ tội lỗi).
[x] Những dấu hỏi này (cả quyển sách) là do
người hiệu chính chưa tìm ra nghĩa, có lẽ trước
đây đánh máy sai hoặc pháp sư trích quá tóm tắt.
Thành thật xin cáo lỗi.
[xi] Các câu 33, 34, 35, 36 đều có từ
Sadisa, có nghĩa là giống nhau, như nhau, ngang
bằng nhau.
[xii] Sura còn có nghĩa là vị thần, vị thiên.
[xiii]
Câu 42 này và câu 33 - giống nhau.
[xiv] Seta là màu trắng, Usabha là bò chúa;
vậy có lẽ là ngưu vương, bạch ngưu.
[xv] Assarāja: Vua của loài ngựa.
[xvi] Tức là tín, giới, văn, thí, tuệ.
(Tiếp theo)
|