Trung Tâm Hộ Tông  Trang Chủ


Hành Hương Tâm Linh

Tác giả: Minh Đức Triều Tâm Ảnh



BÊN BỜ SUỐI

Để lại nơi thị trấn những tiếng cười tăng thượng mạn của đám môn sinh minh triết giáo, Triết Hựu lần theo phía ngoại ô, đi mãi, đi mãi. Với một cõi lòng đầy ứ, ngột ngạt, buồn nản - chàng nghĩ. Khi ta bị quẫn trí về một định mệnh, đã nỗ lực cắt đứt mọi tương hệ với định mệnh ấy - thì lại rơi vào một hiện hữu khác, định mệnh khác! Định mệnh mới này, xem chừng thì trọng lượng khổ đau cũng nặng nề không kém. Định mệnh mới này là: không còn gì trên trần gian, không biết mình sẽ thành tựu gì, hướng đến mục đích nào. Vẫn chưa đi được một bước, chàng nghĩ - trên lộ trình về chân phúc. Vẫn còn nguyên vẹn mọi cá tính trần gian, trần ai, tham sân, phiền não. Cẩm nang mang theo có ích gì không? Cái linh quang sáng suốt mầu nhiệm vẫn thường trực chiếu sáng, rỡ rỡ, hằng hằng - nhưng tại sao, vẫn từ trong ấy, vẫn gọi kêu âm ỉ, đòi vươn ra, đòii bước tới? Vươn đến đâu, bước đến đâu khi toàn bộ vận hành của pháp giới đều là màyà . Một bên là thần Vichnou bảo tồn, một bên là thần Shìva hủy diệt -  thì có cái gì gọi là thực hữu? Đã không có cái gọi là tồn tại ngoài không thời gian thì sao ta không chịu dừng lại? Nhưng dừng lại ở đâu? Ở cái vùng trống không hoang liêu điêu tàn thê thảm này à? Dừng lại mà không phải là lắng dứt, yên nghỉ thật sự thì chỉ là sự đầu hàng, thua cuộc, sự thu rút, quánh đặc lại của một cái ao hồ tù đọng. Phải là sự dừng lại của bão tố. Phải là sự im lặng mênh mông của đại dương. Phải là sự yên nghỉ sau cuộc ra đi dài. Như voi chúa ra trận mạc: ngửng đầu và tiến lên.

Triết Hựu nằm lả người bên bờ suối. Xa kia thung lũng là trang trại của Vọng Việt. Bây giờ, Vọng Việt đã quá xa cách chàng. Y đã nghiễm nhiên tách rời, nhảy vọt lên cao với hào quang danh vọng tỏa rộng xung quanh. Người bạn từ một thuở ấu thơ đã chết. Những giờ luận đạo, những lúc tham thiền, những khi ngoạn du, biết bao kỷ niệm đã đầy ắp giữa hai người. Và chỉ có Vọng Việt mới xứng đáng là đối thủ của chàng trong kiếp lạc đà thâu lượm và chở mang kiến thức. Giờ y đang làm gì, nghĩ gì, phía sau cái tiểu giang san ngà ngọc kia? Y đã đạt “cái ấy”? và đã thật sự dừng lại? Hay đang dừng lại nơi ngôi cao và danh vị để hưởng thụ thân xác trong ý nghĩa cụ thể nhất? Và cũng là người nhất? Một đầu óc minh triết như vậy, với dáng người trầm tĩnh và tự chủ như vậy, một đời sống tuổi thơ  thánh  thiện như vậy - có le nào lại tự phản bội lấy mình để ôm níu, dính mắc vào những cái - mà đã một thời, hai người từng khinh bỉ và chế nhạo?

Triết Hựu chưa khẳng định, nhưng đã hai lần, từ Vọng Việt, cái bóng tối ấy hiện ra: Một lần bóp nát những đọt lá bên bờ suối và một lần tự đắc, thỏa mãn trên diễn đàn. Một bên thì thò cánh tay ra để bóp nát ngoại giới, một bên thì thò cánh tay ra để chiếm hữu ngoại giới: cánh tay của bóng-tối-vô-thức ấy. Đã một thời chàng thấy rõ cánh tay ấy của mẹ và của cha. Bây giờ là Vọng Việt. Chàng có thể lầm lẫn không?

Triết Hựu còn nhớ thuở xưa, một lần, tại Bénarès, trên bờ sông Jumma, cả hai đi theo sau cuộc lễ Durga-puja xem đám rước thần huyền mẫu Kàlì. Từng gia đình, từng đoàn, từng lũ đều bưng những tấm hình thần Kàlì rồi đem ném xuống sông, sau đó trở về hoan hỷ múa hát tưng bừng.

- Kàlì là vợ của Thần Shìva- thần hủy diệt. “Một tượng trưng của hủy diệt, quẳng xuống dòng trôi chảy hủy diệt, có nghĩa là gì?

Vọng Việt đưa mắt dò hỏi chàng.

- Hủy  diệt  của  hủy-diệt  tức  sinh hóa,  sáng  tạo

(shakti) - một tượng trưng thứ hai của thần Shìva. Nên Kàlì không những là thần chết mà còn là thần sanh đẻ nữa. Ngài có bốn tay, hai tay tử, hai tay sanh! Có khác gì âm dương luận của dịch kinh Trung Hoa - Âm dương lưỡng cực trong nhau, xung đối để tạo nên sự hòa điệu, sinh thành tứ tượng, bát quái?

- Chỉ khác danh từ, kiến giải hoặc kiến luận là khác thôi. Và còn tùy thuộc ở trình độ thẩm thấu và lãnh hội.

Im lặng hồi lâu, Vọng Việt lại hỏi:

- Thiện hữu ơi! Sinh rồi tử. Tử rồi sanh. Đấy là định luật tất yếu. Khi thiện hữu thấy người ta quẳng thần hủy diệt xuống dòng trôi chảy hủy diệt, rồi hoan ca, rồi hát ca trên đường trở về nhà - thiện hữu có tìm ra được một mật nghĩa nào để tạo một thái độ sống cho đời mình?

Triết Hựu không trả lời được cho đến khi cả hai đứng trong đám đông xem cuộc hỏa thiêu người trên sông.

- Sự chết chỉ là một lớp tro tàn, như bạn thấy đó. Thân xác này có thể quẳng vứt trên nghĩa địa, trên rừng cho dã thú, trên bãi hoang cho kên kên thì cũng giống nhau. Vậy thì thái độ sống không phải là thái độ thân xác, sự chết - mà phải là thái độ tinh thần, sự sống. Sự sống, chính là sống hợp lẽ đạo đời đời vậy.

Vọng Việt thở dài xa xôi:

- Thiện Hữu ơi! Sống hợp lẽ đạo đời đời là sống thế nào? Đạo là thăng trầm, doanh hư, là đắc thất, là sự tương hỗ vận hành của nghịch lý âm dương… Cái ấy nó tạo   sự xuống  lên, tử  sinh  nhịp  nhàng cho vạn hữu. Vậy sống hợp lẽ đạo là cũng phải xuống lên, tử sinh nhịp nhàng như chúng, hay là bước ra ngoài, khoanh tay thiên cổ nhìn hoa nở rồi tàn, đông khứ xuân lai?

- Phải rồi. - Triết Hựu lại hăng say nói, đạo là Brµhman, là phạm thể, là thái cực, là Thượng đế, là thực tại tuyệt đối nhất nguyên. Sống hợp lẽ đạo là trở về với Thượng đế nhất nguyên trong lòng mình, từ bỏ sự phân ly sai biệt, chia cắt, nhị nguyên. Vì “vô, danh thiên địa chi thủy; hữu, danh vạn vật chi mẫu”. Cho nên, "thường vô”  mới thấy được cái sơ thủy, cái đầu tiên, cái đạo. Mà “thường hữu” là vào dòng, là trôi lăn, là trôi chảy, là chia lìa, là làm Adam và Eva để lưu đày vĩnh kiếp! Nhưng cũng nh “thường hữu” mới có sự sinh thành của sum la van tượng.

Bây giờ, nhớ lại lần đối thoại đó, Triết Hựu hổ thẹn vô cùng. Chàng tưởng đâu chàng hiểu biết nhiều lắm. Bao nhiêu hiểu biết rồi cuối cùng cũng không giải quyết được gì. Vọng Việt cũng như chàng đều là kẻ mù lòa trên đường về với Thượng đế. Con đường vô danh có phải là âm lý, vì âm là co rút lại. Con đường hữu danh có phải là dương lý, vì dương là giản nở, là phát triển ra. Nhưng thái độ âm hay dương đều ở trên hai cực của xung khí, mâu thuẫn và khổ đau cả. Chàng nhớ trên đường về nhµ, Vọng Việt nói:

- Hủy diệt hủy diệt tức sinh hóa, vậy vào dòng vào dòng tức lộ trình sáng tạo.

Một câu nói của Vọng Việt đã mù xa trong ký ức bây giờ hiện bật lên, trở thành lời giải cho thái độ sống của Vọng Việt bây giờ. Y vào dòng, tức chọn con đường hữu vi, hữu danh, nhập thế. Tức là đối nghịch lại con đường của chàng: vô vi, vô danh, xuất thế. Một bên: vô, danh thiên địa chi thủy. Một bên: hữu, danh vạn vật chi mẫu. Nhưng: “thử lưỡng giả đồng xuất nhi dị danh. Đồng vị chi huyền, huyền chi hựu huyền, chúng diệu chi môn” (Lão Tử Đạo Đức Kinh: Hai cái đó đồng một chỗ mà đi ra nhưng tên gọi khác nhau. Vì đồng nên gọi huyền. Huyền rồi lại huyền nữa. Đó là cửa vào ra của mọi huyền diệu.)

Triết Hựu chợt run bắn người lên, tưởng như đã thâm ngộ lẽ huyền vi của Đạo. Nhưng một lúc sau như một gáo nước lạnh tạt vào mặt chàng: “thường hữu, dục dĩ quan kỳ kiếu”. “Kiếu” có ngĩa là vi tế, cũng có nghĩa là chia lìa! Không thể biện minh gì được nữa rồi. Triết Hựu cương quyết phủ nhận con đường hữu danh của Vọng Việt.

Trên bờ sông, Triết Hựu đã suy nghĩ lan man như vậy, rối loạn như vậy, bế tắc như vậy. Khi tất cả những sợi thần kinh trong các tế bào óc tạm thời lắng dịu thì những tế bào ruột lại gọi kêu: Đói. Đói. Triết Hựu lại tò mò lắng nghe chúng. Và chµng chợt mỉm một nụ cười chế nhạo, khinh bỉ. Thế gian, suốt một đời, vạn cuộc đời, chỉ lo đáp ứng cho chúng, giải quyết chúng. Còn chàng thì không. Không bao giờ! Chúng là c¸i cđa con người thân xác. Ta là con người tinh thần. Ta cứ là không đói xem thử mày làm gì ta, thân xác? Triết Hựu lại mỉm cười đầy vẻ ngạo mạn và thách thức. Nếu ngươi trang bị bằng rắn cobra hoặc nàga, tay ôm cái thây ma, những chuỗi hột bằng sọ người, tay cầm thanh gươm, tay cầm đầu người máu me vừa mới chặt - như nữ thần Kàlì thì ta có ngán gì đâu?

Thuở xưa - Triết Hựu mơ màng nghĩ - có một chàng thanh niên ®ạo sĩ trong cuộc chạy đua về Thượng đế, y ngồi nghỉ dưới một gốc cây. Chàng ta cũng mệt, cũng đói, và cũng bị “cái ấy” săn đuổi chạy thất điên bát đảo. Ngồi đây thật là diễm phúc và kỳ thú nếu cây biết tỏa ra mùi trầm hay hương hoa của bốn phương trời. Đạo sĩ nghĩ như vậy và gốc cây chợt cho hương và trầm. Nếu có một mâm cơm ngon lành, thanh niên ®¹o sĩ ước tiếp. Thượng đế biết sự thối thất của ®¹o sĩ, ngài bèn sai một sứ giả thiên thần hóa dạng một thiếu nữ diễm kiều, trên tay bưng một mâm cơm, dĩ nhiên là đầy những sơn hào hảo vị, đến dâng lên đạo sĩ:

- Đây là giang sơn của nữ vương khoái lạc - Thiếu nữ nói - Và thiếp là nô tì của người. Xin dâng chàng vật thực mọn mảy này để nói lên tấm lòng của nữ chúa đối với khách đạo sĩ hào hoa.

- Ta là sa-môn - Đạo sĩ nhướng mày đáp - Ta là kẻ sống đời tinh thần cao khiết, từ bỏ dục, từ bỏ ái, từ bỏ sắc, từ bỏ những đam luyến của khoái lạc ngũ trần. Thâm tạ tấm thịnh tình của nữ vương khoái lạc. Dù thế nào ta vẫn chối từ. Ta chẳng bao giờ còn bị vòng tay của mµyµ quyến dụ nữa!

Thiếu nữ vẫn mỉm cười và đưa mắt trữ tình mời mọc. Đạo sĩ quay phắt mình và bước đi. Nhưng mùi thơm của thức ăn, của kỳ nữ chợt kéo trì chân chàng lại. Và chàng ngã quỵ xuống. Không còn dậy được nữa…

Triết Hựu cất tiếng cười to lên. Yếu quá. Yếu quá. Thượng đế thật là đấng toàn tri, biết rằng y sẽ gục ngã. Còn ta? Con sư tử bên trong chàng rống to lên: “Không. Không bao giờ”. Và chàng lại mỉm cười, bỏ bờ suối, men theo con đường nhỏ dẫn về rừng, ở đấy là những sườn núi dựng đứng cao chớn chở, phía trên đổ xuống một làn nước bạc nom như dải lụa trắng, như chiếc sari hoặc khaddar vắt trên vai của các  thiếu  nữ.  Sau xa nữa là khu rừng già. Trong tâm hồn của Triết Hựu, từ thuở ấu thơ cũng có hình ảnh một khu rừng lý tưởng: khu rừng có những tảng đá liền lạc dựng đứng chênh vênh hướng tới đỉnh trời xanh. Và  từng  con  suối  lượn  quanh  lặng  lờ,  những dòng thác ồ ạt ngàn năm từ hoang nguyên tuôn xuống. Ở đấy, sau từng động đá cổ quái âm u, dưới những gốc cổ thụ lâu đời, trên sườn núi cheo leo - có những sa-môn, đạo sĩ đem thân kim cương mà tạc tượng với đất trời, ngồi trầm tư bất động cô liêu lạnh lùng như đỉnh tuyết - nói lên ý chí bất khuất, hướng thượng để đạt quyền năng tạo hóa - hay nhô thân phận hữu hạn của mình lên trời cao vô h¹n. Thế giới ấy, hình ảnh một khu rừng như vậy chỉ là mơ tưởng hay có thể hiện thực?

Có tiếng cười của những cô gái từ phía rừng vọng ra. Chàng không muốn đi đến hướng ấy nữa. Chàng ngồi lại. Chẳng biết có định mệnh nào chờ ta vào ngày mai? Phải chăng, những thăm dò, dự định, dự tưởng chỉ như là những mũi tên hữu hạn bắn vào tương lai mịt mù phía trước? Vô ích thôi. Có thể chàng sẽ đói và chết ở đây. Nhưng sự việc như vậy cũng vừa tầm thường vừa kỳ lạ quá. Lại giản dị nữa. Chàng có thể nhịn đói và chết nhưng chắc chắn là với nụ cười bình lặng. Chàng cũng có thể ăn cỏ, rễ cây, lá cây, củ rừng và nhiều thứ tương tự khác để sống. Chàng biết rằng mình  có thể thích ứng với những đời sống thật đơn giản. Đơn giản như một sa-môn khổ hạnh. Chết sống không vấn đề. Mà vấn đề là sống để làm gì và chết để làm gì. Sự sống vốn bất khả hủy diệt thì đời sống  mới chỉ là sự kéo dài của đời sống cũ - rồi có khác gì với những khổ đau và vô vọng hiện giờ không? Hay qua một cuộc tái sanh, sự khổ đau còn mịt mù hơn vậy nữa, cộng thêm một lớp thời gian, chủng nghiệp và vô minh?

Ta sẽ thí nghiệm thỏng tay buông thả đời mình, Triết Hựu nghĩ. Và chàng lại nằm dài xuống gốc cây.

Có tiếng vó ngựa. Hựu nom thấy một thiếu nữ đang rẽ cương tiến về phía rừng. Dáng dấp quen thuộc của thiếu nữ đập vào trí tò mò chàng. Triết Nguyệt! Thiếu chút nữa chàng la lớn. Triết Nguyệt đi ngựa, đấy là một điều kỳ lạ. Lại một mình vào rừng, đấy là một kỳ lạ khác.

Một chiếc xe hai ngựa từ chân đồi đi ra. Thoáng thấy xe, Triết Nguyệt buông cương cho ngựa dừng lại. Nàng buộc ngựa rồi đến ngồi trên một tảng đá. Xe đã

đến gần. Và khi ấy, Triết Nguyệt cất giọng hát:

“Khi nàng đến, Thượng đế chợt che mặt sau làn lụa trắng,

Và dòng sông thì trải mình bằng tấm thảm xanh,

Cả vũ trụ nín hơi rồi cất lời ca thánh linh,

Đấng ngôn và lời ngủ quên trong đôi mắt biếc,

Ta thổi linh khí pràna thành mưa bụi nhỏ rải lên mái tóc nàng,

Thành hạt ngọc màni

Ta hiến dâng nàng, ôi thần nữ...

Em chàng sao lại thuộc cả thơ của tu sĩ Chandi Das? Ôi! Nhà thơ trữ tình lãng mạn xứ Bengali đó đã nhập thể vào tâm hồn Triết Nguyệt rồi chăng? Tiếng ca ấy rõ ràng đã làm cho nàng ly thoát khỏi trần gian hạn hẹp để bay bổng lên mấy tầng trời cao vút. Triết Hựu lặng lẽ nhìn đôi mắt Triết Nguyệt lim nhim, hai tay ngửa ra như muốn ôm choàng cả vũ trụ vào lòng. Và chính chàng cũng thấy tâm hồn mình lâng lâng, như rơi hẫng vào một cõi miền khói sương, nửa hư nửa thực, có âm nhạc lời ca, vũ khúc nghê thường và tiên nữ. Lời ca ấy cũng có mãnh lực làm cho chiếc xe hai mã dừng lại, bất động. Phía sau xe hai thiếu nữ bước ra, cũng đưa mắt nhìn Triết Nguyệt, lặng lẽ…

Lời ca đã dứt mà âm hưởng hình như còn véo von, lên cao mãi, len lõi qua mấy từng mây. Hựu chưa một lần dám nghĩ rằng, một bài ca tình ái mà có mãnh lực đưa tâm hồn người lên cao như vậy, lại có thể giải thoát trong một vài phút giây nữa… Ôi, nhưng đấy cũng chỉ là một trạng thái vong ngã thôi, dù là vong ngã tuyệt vời! Nó cũng là một hình thức của khoái lạc đấy, nhưng chỉ là khoái lạc phù du! Không ngờ em chàng mà cũng có đời sống tình cảm vời vợi như vậy. Từ lâu, trong mắt chàng, Triết Nguyệt chỉ là sự kết tinh của một khối thuần chất hồn nhiên, một cái gì ở bên kia của cõi thánh thiện và cao khiết. Hình ảnh của một viên ngọc pha lê trắng tinh, trong suốt thường hiện lên trong óc chàng mỗi khi nghĩ đến em. Viên ngọc ấy, bây giờ, có cái gì đây, như là những hạt cát vi ti dính lên ở đấy bởi một chất keo cuộc đời? Có cái gì ở đấy nữa, hình như là những sợi mỏng của tháng năm, niềm vui, nỗi buồn, yêu thương và đau khổ? Như vậy, có nghĩa là Triết Nguyệt đã đánh mất thiên đường tuổi thơ. Có nghĩa là bắt đầu làm một hiện sinh để đi vào dòng trôi chảy cát lửa của trần gian. Triết Hựu lại thở dài, đăm chiêu, tư lự.

Lúc ấy, một thanh niên bà-la-môn bước ra khỏi xe: Vọng Việt. Lại một lần nữa, Triết Hựu suýt buột miệng kêu lên. Chàng hầu như không còn tin ở mắt mình nữa. Có thể như vậy được sao? Cái thế giới thường được coi là nhất thể mà nó phức tạp muôn chiều như vậy à? Sự biến hóa đa dạng của nó lại tạo nên những tao ngộ đến không lường ước được.

- Sao nàng lại biết ta ở đây mà tìm đến?

Triết Nguyệt không trả lời Vọng Việt mà đưa mắt nhìn hai thiếu nữ với đôi mắt buồn hoang dại.

Vọng Việt hôn tay nàng:

- Đấy là hai người hầu nữ thường đi theo ta mỗi lúc đi dạo - do lệnh của cha. Nàng đừng có ý nghĩ nào khác. Hỡi thần nữ! Vũ trụ này trong mắt ta, chỉ có nàng thôi.

- Hầu nữ mà cũng quốc sắc thiên hương nhỉ. - Triết Nguyệt lơ đãng nói.

Vọng Việt ngồi xuống một bên, ôm bờ vai nàng.

- Địa vị của ta bây giờ nó rắc rối như vậy đó. Hình như mỗi người đều có một hiện hữu với những tương quan nhất định. Nói một cách minh triết là: tương quan xác định cho hiện hữu. Cắt đứt tương quan, hiện hữu không thực tại. Nàng có đồng ý với ta như vậy không?

Triết Nguyệt quay mặt đi, cười lạt:

- Thưa giáo chủ! Nơi đây chẳng phải là diễn đàn của minh triết để giáo chủ trổ tài với môn đệ. Nói chuyện với môn đệ thì chỉ cần đao to búa lớn chứ không cần đúng sai. Nói chuyện với môn đệ thì chỉ cần nói sao cho kêu, cho bay bướm văn hoa chứ không cần một lý luận chặt chẽ. Nhưng thưa giáo chủ, khi nói chuyện với người khác thì nên chú trọng đến sự sơ hở và sai lầm của lý luận.

Vọng Việt vẫn ôn tồn:

- Ta lý luận sai ư? Nàng hãy chỉ cho ta nhé?

- Vũ  trụ  này  chỉ có  nàng thôi! Sao mà nịnh nọt

ngon ngọt đến thế. Khi vũ trụ mà chỉ có một, thì không là một hiện hữu độc lập đứng ngoài mọi tương quan đó sao? Mà hiện hữu độc lập đứng ngoài mọi tương quan vốn không thực tại.

Vọng Việt không hề lúng túng, vuốt mái tóc nàng, mỉm cười:

- Có chứ, thưa thần nữ! Có cái hiện hữu mà độc lập tuyệt đối ở ngoài mọi tương quan so sánh đối đãi: đấy là vẻ đẹp toàn bích và toàn mỹ, đấy là Thượng đế của tâm hồn ta, thần nữ ạ!

Hắn là một kẻ nhồi bóp được nghịch lý mà, Triết Hựu nghĩ. Chàng lại không ngờ trên tình trường, hắn còn là một con cáo già nhiều thủ đoạn ma mị nữa. Em chàng lại là một con nai tơ trên bước đường tình ái cũng như suy tưởng và lý luận, thì làm gì thoát khỏi được cái bẫy tròng êm ái đó? Hắn còn một lợi khí nữa là vẻ đẹp nam tính cùng danh vọng. Chẳng thể cứu gỡ được nữa rồi. Cắt đứt tương quan nghĩa là chấm dứt hiện hữu. Đấy là trường hợp của em chàng chứ không phải là Vọng Việt. Nàng ở ngoài tương quan với Vọng Việt, nàng sẽ không sống nổi.

Họ nói chuyện với nhau rất nhỏ, một lúc lại đề cập đến chàng:

- Thế ra em không tìm ra ảnh ư?

- Vừa trở về nhà thì em nghe mẹ kể lại sự xung đột. Ảnh bảo là sẽ bỏ gia đình mà vĩnh viễn ra đi để làm một hoang tử vô quy. Hoang tử vô quy, ôi, biết làm sao gặp ảnh để nói một lời!

Triết Nguyệt lại hỏi Vọng Việt:

- Hình như Triết Hựu không còn thân với anh nữa? Tình bạn cũng đoạn tuyệt luôn?

- Có lẽ vậy. Y chọn con đường vô danh. Nhưng y không hiểu rằng vô cũng là hình thức khác của hữu. Con đường đã đối nghịch thì làm sao còn gặp được nhau như thuở “vô phân biệt” của tuổi thơ?

- Anh ấy sẽ về đích trước anh.

Vọng Việt có vẻ trầm ngâm:

- Ảnh cao thượng và thánh thiện quá. Kẻ còn tìm kiếm. Ta thì dừng lại rồi.

Triết Nguyệt cười rúc rích:

- Dừng lại ở cái địa vị giáo chủ minh triết giáo? Dừng lại ở cái chức hàn lâm đại học sĩ của quốc vương trao? Dừng lại ở nơi tòa lâu đài, bạc tiền, ngựa xe và hầu nữ?

Im lặng.

- Nàng “không thấy” được ta đâu, đừng nghĩ lầm mà trở ngại cho tình yêu thương. Dù sao, ngoài Triết Hựu, ta chẳng còn một người bạn nào! Một người bạn đúng nghĩa: thiện – trí – thức và chân tình.

Y tỏ vẻ cao thượng, chung thủy, tự chủ và hiểu biết. Ôi! Dối trá đến thế là cùng!

Lại im lặng.

- A! hồi nãy em định gặp Triết Hựu để nói một lời gì?

- Để hỏi rằng trên lộ trình thành tựu đấng ấy, có phải là quay lưng luôn với tình mẹ? Sự khổ đau của người mẹ?

- Nó vượt qua. Nhưng mà lại dung chứa. Đây là sự mâu thuẫn trên sự tướng nhưng lý tánh thì không. Em chưa thể hiểu được đâu.

- Còn Triết Hựu?

- Hiểu.

Hựu quay mặt đi cố tránh nhìn hình ảnh âu yếm giữa hai người, nhưng thật ra là không muốn xác minh một sự thực: tâm hồn trong trắng pha lê của em chàng đã có tỳ vết. Và con người tinh thần của Vọng Việt đã bị hoen ố bởi con người thân xác.

Một xót xa nào đó dâng tràn lên mắt Hựu. Và chàng thấy mình chảy nước mắt. Con người không còn gì đáng tin cậy nữa. Thế giới đã sụp đổ trước mắt chàng. “Không có cái phi thường, chỉ có cái tầm thường thôi sao?” Cái ấy nó ẩn kín ở phần thâm sâu nhất của tự ngã con người, khi duyên ngoại cảnh thì nó hiện hình ra và chi phối mọi lãnh vực sinh hoạt đời sống. Chàng có thể sờ mó được, nắm bắt được, ở nơi đây, ở nơi này…!

Vọng Việt và Triết Nguyệt đã dẫn nhau đi dạo. Hai chiếc bóng quấn quít bên nhau như một tương quan đồng hiện hữu, không có cái này thì không có cái kia và ngược lại!  Rồi chuyện gì sẽ xảy ra? Đấy là luân

hồi, chàng lẩm bẩm. Đấy là tử sinh, chàng thở dài. Họ đã bị cuốn trôi trong dòng ái dục xấu xa và hèn mọn. Họ đã buông trôi đời mình, đã thỏa hiệp với ma vương, đã nằm lại và không còn lên đường nữa. Ta chẳng thể như họ.

Hai người tì nữ của Vọng Việt nói chuyện với nhau: câu chuyện về tình ái. Hựu đã không muốn nghe nhưng tiếng nói cứ lọt vào tai chàng. Và chàng cũng tự thú nhận rằng, sự từ chối của chàng không trọn vẹn. Chàng vẫn đồng lõa ngấm ngầm ở phía bên trong. Ta vẫn có một con thú luôn luôn tìm cơ hội để tuôn vọt ra bên ngoài…!

- Từ khi ăn trái cấm đến nay - một người nói - Em cảm thấy mình luôn luôn thiếu thốn. Luôn luôn muốn nếm, muốn sờ, muốn lặp lại cái kinh nghiệm vượt ngoài ngôn ngữ ấy.

- Cho nên khổ đau! - Người khác trả lời.

- Đấy chỉ là lý luận. Hoặc chỉ là kiến thức hoặc kinh nghiệm của người khác. Vệ-đà, Kỳ-na, Phật giáo cũng từng nói như vậy.

- Các truyền thống tâm linh họ nói lên cái sự thực, không phải sao? Sau khoái lạc là đau khổ. Hay nói cho đúng hơn, khoái lạc là hình thức thứ hai của đau khổ. Mặt bên này và mặt bên kia, cực bên này và cực bên kia, đồng thời chúng ở trong nhau, là một. Toàn  bộ  vận  hành của  cõi  mµyµ đều là sự đong đưa giữa hai cực, không bao giờ dừng nghỉ ở cái quân bình, cái trung tính. Do vậy, cũng gọi là bất toàn, rỗng không, bất khả đắc, bất khả trụ, bất khả thủ… Sinh và tử là nhịp độ qua lại đều đặn khắp hai chiều kích không thời gian. Minh triết dạy rằng: các hiện tượng ngoại giới hoặc các trạng thái nội tâm đều là cái sinh diệt, như huyễn chứ không phải là cái đời đời, cái vĩnh phúc!

Có tiếng cười lạt.

- Hiền tỷ, em xin nói với hiền tỷ một điều có được không?

- Cứ nói!

- Cái gì mình thật biết thì hãy nói. Không biết hoặc là chưa thật biết thì nên lắng nghe và học hỏi. Kinh điển, sách vở là cái chìa khóa, nhờ đó ta tìm mở kho tàng của chính mình, cánh cửa tâm linh mình. Chẳng bao giờ  cái chìa khóa là cứu cánh cả, nó chỉ có giá trị khai mở, dẫn lối. Và con đường, cánh cửa là tự ta lên đường, tìm đến và gõ cửa…

Có tiếng cười lạt khác:

-Phải mà! Nghĩa là em khuyên chị cũng phải biết ăn trái cấm như em? Để khổ đau? Nghĩa là đem thân xác mà thí nghiệm các thỏa mãn thân xác? Đem thân xác mà kinh nghiệm những dơ dáy và uế trược? Ôi, minh triết đã từng dạy rằng, chúng là cái gì mà ta chẳng bao  giờ  ôm  nắm  được,  thỏa  mãn được. Ta sẽ săn đuổi nó hoặc nó sẽ săn đuổi ta chạy khắp cả ba cõi sáu đường. Em ơi, chỉ có kẻ ngu mới làm vậy còn kẻ trí thì không. Kẻ trí thì biết dừng lại, kẻ ngu thì bị cuốn vào dòng…

Triết Hựu hồi hộp lắng nghe và chàng cảm thấy kính phục người chị vô cùng tuy rằng luận cứ của người em không phải là vô lý.

- Hiền tỷ ơi! Hiền tỷ đã không chân thật với lòng mình.

Im lặng.

- Hiền tỷ chỉ đọc trong kinh sách, chưa có lời nào là của chính hiền tỷ. Hiền tỷ luôn luôn dùng cái hiểu biết không phải của mình rồi tạm thời trấn an, ám thị. Không trấn an, ám thị thì chạy trốn, đào tẩu bằng lý luận, kiến thức mà không như thực thấy rõ sự bất an, xung đột, khát vọng thường hằng ở phía bên trong…

Im lặng.

- Em hãy nói nữa đi?

- Hiền tỷ luôn luôn cảm thấy mình bị dồn nén lại. Dù kiến thức về con đường, về chân phúc, về Thượng đế có đầy ắp trong chị thì chị vẫn thấy mình bị dồn nén lại. Và vẫn tò mò, khao khát. Vẫn muốn ăn trái cấm mà vẫn sợ khổ đau, hoặc sợ dư luận, đạo đức, luân lý, tiếng tăm. Hiền tỷ ơi, hiền tỷ sợ bị đẩy ra khỏi thiên  đường  trong  lúc chưa một lần nào hiền tỷ cảm

thấy mình thật sự ở trong thiên đường. Nếu Adam và Eva thật sự thấy mình ở trong thiên đường thì chẳng bao giờ họ lại dại dột ăn trái cấm…

Có tiếng thở dài của người chị. Và bên này, Triết Hựu cũng thở dài!

- Thành thử, vấn đề không phải là ăn trái cấm hay không ăn trái cấm, mà vấn đề là giải quyết khổ đau…

- Và là tìm kiếm hạnh phúc nữa chứ?

- Không phải vậy. Giải quyết khổ đau chứ không phải tìm kiếm hạnh phúc. Chị ơi, em xin lỗi chị nhé! Cái gì chị cũng viện dẫn về minh triết, minh triết dạy như thế này, minh triết dạy như thế kia, mà thật sự, chị chẳng hiểu gì về minh triết cả. Chị hiểu minh triết theo truyền thống kinh viện, từ chương, danh và lời - chứ chị chưa hiểu minh triết ở trong sự sống nóng bỏng, hiện tiền, từng tế bào và từng hơi thở…

- Sao em nói nặng lời vậy?

- Chị có giận em không?

- Không. Vì chị muốn học hỏi.

Im lặng.

- Hiền tỷ ơi, em kính trọng hiền tỷ lắm!

- Em hãy trở lại vấn đề đi!

- Dạ.  Chị  ơi,  đặt  vấn đề tìm kiếm hạnh phúc là sai.

Tìm kiếm hạnh phúc là ta đã phản bội truyền thống tâm linh giải thoát Ấn Độ. Tại sao vậy? Chị hãy nhìn vào thế gian: Rượu, các chất say cũng hạnh phúc; cờ bạc, những giải trí vô ích, vô bổ cũng hạnh phú; hăng say hoạt động xã hội, chính trị cũng hạnh phúc; ái ân, tình tự cũng hạnh phú; ngủ yên, ăn ngon, mặc sướng, xe cộ, võng lọng, tiền tài, địa vị, danh vọng cũng hạnh phúc; vào non cao rừng vắng cũng hạnh phúc; ngồi một mình với tâm an tĩnh, vắng lặng cũng hạnh phúc… Tất cả cái ấy đều là quan niệm hạnh phúc của người đời, theo mỗi hạng người cả đấy chứ?

- Em nói rõ hơn?

- Bởi hạnh phúc của mỗi người vốn khác nhau. Hạnh phúc của nhà thơ là nhìn ngắm mây trôi, nguyệt tà, hoa nở... Hạnh phúc của đạo sĩ là sống đời tịch mịch, thanh tịnh. Hạnh phúc của tuổi trẻ là hoạt động, là tình ái, là mạo hiểm, là phong sương gió bụi... Hạnh phúc của kẻ đa dục, vật chất, thân xác là rượu nồng, dê béo, gái đẹp… Do vậy, chị ơi, do cái hạnh phúc của người này chẳng phải là của người kia nên bắt người tuổi trẻ mà sống đời của vị đạo sĩ thì chắc họ khổ đau lắm. Và trái lại.

Chị ơi! Chỉ cái việc tìm kiếm hạnh phúc thôi mà thế gian đã hiện hữu, nào là vô thần luận, hư vô luận, khoái  lạc  chủ  nghĩa,  cá  nhân chủ nghĩa, duy lý, duy danh, duy thực, duy nghiệm, duy tâm, duy vật… Ai cũng muốn bắt mọi người đi theo cái quan niệm hạnh phúc chủ quan của mình. Ôi! Hỗn độn ở đấy. Đảo điên ở đấy. Chiến tranh ở đấy. Máu lệ ở đấy…!

Chị ơi! Cái sự thật hầu như cưỡng lý, nghịch lý này mà nó vẫn tồn tại từ ngàn xưa đến ngàn sau trên sân khấu cuộc đời: Đời sống sở dĩ bị đánh mất hạnh phúc, không phải vì không có ai lo cho hạnh phúc con người, mà vì có quá nhiều người lo cho hạnh phúc con người…

Chị ơi! Đấy không phải là sự thật cười ra nước mắt sao? Cái sự thật mình không còn dám tin là sự thật nữa. Sao con người lại ngu xuẩn đến độ: bắt tôi sống theo quan niệm hạnh phúc này trong lúc hạnh phúc tôi là cái khác? Xã hội cũng giải quyết ngu si như vậy, triết học cũng giải quyết tối tăm như vậy, tôn giáo cũng giải quyết điên rồ như vậy…!

Chị ơi! Đừng bao giờ khởi lên một câu hỏi tương tự như vậy - làm thế nào để đạt được hạnh phúc? Mà chính khi giải quyết được khổ đau thì hạnh phúc sẽ hiển lộ. Cái hạnh phúc này sẽ không còn tên gọi nữa, tạm gọi là chân phúc…!

Đây là tư duy biết vượt ra ngoài tư duy! Thật kỳ lạ. Một người tỳ nữ mà sự lãnh hội đến dường ấy ư? Không những chỉ lãnh hội qua kiến thức mà còn cả tâm chứng nữa. Triết Hựu  bần  thần suy nghĩ. Chàng nhớ từ lâu lắm, chàng và Vọng Việt có thảo luận về vấn đề này. Cuộc thảo luận không đi đến đâu sau  khi  dẫn   nhau   đến   kết   luận   như   vậy. Hôm  đó, VọngViệt đã cười xòa:

- Này thiện hữu ơi! Nếu mỗi người có một hạnh phúc chủ quan riêng thì vấn đề khổ đau cũng tương tự. Tôi giải quyết khổ đau của tôi theo hiểu biết của tôi, sở thích của tôi, kinh nghiệm của tôi, sở trường của tôi - can cớ gì mà các anh xen vào? Anh chỉ hợp lý với riêng anh thôi.

- Vậy giải quyết khổ đau cũng sai ư?

- Giải quyết khổ đau là phản ứng, là thái độ tự phát của mỗi người, làm sao lại gọi là sai lầm được. Anh kia uống rượu quá độ sinh ra nôn mửa, đầu váng mắt hoa, lần sau anh uống ít lại - Đấy là lối giải quyết khổ đau của anh. Chúng ta thao thức về tuyệt đối, về Thượng đế, rồi không mỏi công săn cầu, tìm kiếm - đấy cũng là một lối giải quyết hạnh phúc theo quan niệm của chúng ta…

- Có phân biệt cao thượng và hạ liệt ở đây không?

- Không thành lập vì khổ đau vốn bình đẳng.

- Một người làm việc thiện để dành phước phần cho mai sau - là lối giải quyết hạnh phúc của họ. Một kẻ nghèo đói, túng thiếu, sanh tâm trộm cắp để chi dùng - đấy cũng là cách giải quyết khổ đau của hắn ta!

- Có giá trị thiện ác ở đây không?

- Khổ   đau   vốn  bình  đẳng  nên  đạo  đức cũng không thành lập.

- Cho chí một kẻ sanh tâm tà dâm vợ người cũng là cách giải quyết khổ đau…

- Đúng vậy, ở đây, luân lý cũng không được thành lập.

- Nói tóm lại, một triệu người có một triệu khổ đau khác nhau thì phải có một triệu lối giải quyết khác nhau… Than ôi! Bóng tối, địa ngục, bi thảm cũng do vậy mà phát sanh - mà nguy nga, hoằng viễn, muôn màu muôn sắc cũng từ đó khởi phát. Tử có thì sinh cũng đồng hiện hữu.

- Dĩ nhiên cũng phải có người tìm ra được lối giải quyết phổ biến, nền tảng, đã tìm ra được mẫu số chung giữa những cái thiên sai ngàn khác chứ? Vô lẽ có riêng chứ không có chung? Có dị chứ không có đồng?

- Thiện hữu ơi! Thiện hữu có khảo sát lại cái kiến thức của tôi không đây? Cái biết của tôi cũng giống với cái biết của thiện hữu mà!

- Hãy nói đi! Chúng ta nên tìm kiếm cùng nhau.

- Thiện hữu cũng đã hiểu rằng Phật giáo và Kỳ-na giáo đã tìm ra mẫu số chung ấy, cái chung ấy, cái đồng ấy, cái một ấy.

- Đúng vậy, nó chính là ái dục. Nguyên nhân của vô lượng khổ đau sai khác đều do tâm ái dục không chịu ngừng nghỉ. Nhưng than ôi, đó cũng chỉ là một lối

giải quyết của Phật giáo, của Kỳ-na giáo thôi. Nghĩa là mới tìm ra được cái chung của cái riêng chứ không thể tìm ra cái chung của cái chung! Và rồi, vấn đề vẫn còn nguyên vẹn ở đấy, chưa đi được bước nào! Và rồi, trên thế gian, mỗi người cứ giải quyết khổ đau theo cách thức của người ấy, theo cái chủ quan của người ấy. Chuyện gì sẽ xảy ra? Đó là tranh luận, là xung đột, là chiến tranh, là nước mắt. Cái đã xưa nhưng vẫn là cái rất mới: khổ đau vẫn hiện hữu bất động, vô địch và bất khả xâm! Vọng Việt ơi! Bạn tính lẽ nào, hãy giúp tôi chứ?

Vọng Việt cười tư lự:

- Tôi cũng chỉ nghĩ được có thế, thiện hữu ạ!

- Vậy thì vấn đề bạn nêu ra từ đầu chưa xê dịch  được một phần mười sáu ly!

- Thế là đã khá lắm - Vọng Việt cười to - Vì từ xưa đến nay, chưa ai xê dịch được nhiều như thế!

- Vậy ra, chúng ta tuyệt vọng hoàn toàn ư? Vấn đề là sai ư? Giải quyết là sai ư?

- Đấy. Đấy. Vấn đề! Vấn đề! Giải quyết. Giải quyết! Khổ đau ở đấy!

Triết Hựu còn nhớ là sau khi Vọng Việt nói như vậy chàng đâm ra bối rối. Tuy thế, chàng lại dùng lý luận:

- Bạn ơi! Dù thế nào bạn cũng không vượt qua được bạn đâu. Nhận thức chính là giải quyết! Bất lực, im lặng, tuyệt vọng hoặc không giải quyết cũng là một hình thức của giải quyết thôi!

Đến lượt Vọng Việt bối rối, chàng tiếp:

- Hạnh phúc là hình thức khác của khổ đau. Giải quyết khổ đau cũng khổ đau. Không giải quyết khổ đau cũng khổ đau. Từ xưa đến nay, và còn mãi mãi sau này một hiện hữu duy nhất thôi: Khổ đau!

Vọng Việt cười lớn, đồng tình:

- Phải rồi. Vì khổ đau là chân lý!

Cuộc thảo luận đã đi đến chỗ cuối cùng, cái hố thẳm, cái đỉnh cao vô lượng hay vực thẳm không đáy thì cũng vậy. Mà than ôi! Cái cuối cùng cũng chính là cái đầu tiên: khổ đau. Không trách gì đức Gotama đã nêu ra chân lý thứ nhất là khổ đế và tượng trưng cuộc sinh tử và sự tương quan phát sanh bằng cái vòng tròn vô thỉ vô chung. Làm sao để vượt ra? Mà vượt ra là vượt ra đâu? Bế tắc.

Triết Hựu nằm suy nghĩ lan man như vậy. Đã biết là suy tưởng không đi đến đâu mà vẫn suy tưởng. Suy tưởng cũng là một khát vọng? Cũng là hình thức khác của khổ đau thôi. Bế tắc!




CẠM BẪY THÂN XÁC

Trong lúc Triết Hựu nửa tỉnh nửa mê, hai người tỳ nữ vẫn tiếp tục câu chuyện. Chàng nghe không chính xác lắm, người em nói rằng, sự thực không phải là suy và tưởng, lý và luận mà phải thể nghiệm trọn vẹn con người mình. Phải nhảy vào dòng mới bơi qua được bờ kia, đừng như kẻ nọ đứng bên bờ này mà gọi: bờ kia ơi, hãy đến! Có tiếng thở dài rất khẽ của người chị. Em ơi! Trước đây chị tưởng là chị hiểu nhiều, nhưng bây giờ chị mới biết rằng, đối với đời sống trăm vạn ngõ ngách, chị chưa hề khám phá cho mình một điều gì mới mẻ. Vậy chị phải sống đi. Sống đi nghĩa là thế nào? Nghĩa là làm sao như thực biết rằng, đây là hạnh phúc, đây là đau khổ, đây là bóng tối, đây là ánh sáng, đây là tử sinh, đây là giải thoát. Em hãy nói rõ hơn. Nghĩa là sống như em đã từng sống vậy. Nghĩa là tập phạm tội như em ư?

Đôi mắt Triết Hựu đã nặng trĩu. Chàng không còn nghe gì nữa. Người chị kia sẽ bị sa-tăng cám dỗ, chàng nghĩ. Y sẽ sống  đời  thân xác như em, rồi sẽ lao vào dòng cuồng lưu ái dục ngàn đời. Có những vấn đề mà chỉ cần suy tưởng cũng đúng chứ. Ta chưa hề gãy tay gãy chân mà vẫn biết rằng gãy tay gãy chân là đau khổ chứ. Các bậc tâm linh, đạo sư đã khai mở, chứng nghiệm con đường viễn ly ái dục để thành tựu cái thanh tịnh và an lạc tôi thắng chưa đủ để tin ư? “Ai có tai, hãy nghe!” Chúng đã không nghe mà còn sống ngược lại? Cái bản năng, thân xác, nhục dục là cái thú vật, mà sao còn học đòi thú vật, biến mình thành thú vật? Mặc kệ chúng ở trong bóng tối. “Hãy để kẻ chết chôn người chết, còn ngươi, hãy đi rao giảng nước đức Chúa trời”.

Thế rồi… chàng thấy mình lạc vào một quốc độ pha lê. Chàng ngơ ngác thấy từng đoàn người cao lớn, trong suốt bay đi vun vút. Rồi họ nhòa tan (hay biến mất?) trong những đám mây ngũ sắc. Chàng cũng muốn bay theo nhưng thấy không có khí lực và đôi chân nặng nề không nhấc lên nổi. Khi ước muốn “muốn bay” thúc hối quá mãnh liệt trong chàng, chàng chợt thấy một phần trong cơ thể mình hóa hiện thành một cánh chim đen và bay theo.

- Một  cánh  chim “đêm” lạc vào xứ “ban ngày” của chúng ta. Hãy tiêu diệt nó!

Tiếng nói từ nơi mấy tầng cao vẳng xuống. Và chàng liền bị hằng ngàn con chim trắng bủa vây. Chúng thổi  ra  những  đám mây lớn, dày đặc làm cho chàng chẳng thấy đâu là phương hướng. Như va chạm bởi một bức tường thành kiên cố, chim đen lảo đảo rơi xuống, lại rớt bên chân chàng!

Một vì tiên ông tóc trắng - khi nhìn lại, lại hóa ra là sa-môn đầu-đà - đến bên chàng, ôm chim đen trong tay khóc nức nở:

- Con tôi! Sao con lại đi vào thế giới này: thế giới của ban ngày, của tinh thần đầy ánh sáng. Tinh thần và ánh sáng đã hủy diệt con.

Chim đen mở mắt ra: đôi mắt tròn to và trong xanh vời vợi, phía bên trong lại hiện ra mấy sợi gân đỏ như máu. Chim chợt nói tiếng người:

- Con thèm bầu trời rộng, thèm cái trên cao, đâu ngờ rằng trên ấy lại có loài chim trắng hung dữ đã lấy mây trời làm vũ khí để tấn công con. Ở đây, than ôi, lại thiếu không khí quen thuộc của mình nữa.

- Phải rồi, con ạ - ở đấy, - vị sa-môn đầu-đà đưa tay chỉ vùng mây loãng - họ có đời sống khác, không khí khác, thân xác khác. Còn con chỉ là cái thân ô trược nặng nề. Con là cái vật chất, con không thấy sao? Cái vật chất ấy nó sẽ bị hủy diệt nơi cõi tinh thần sáng láng.

Chim gật đầu:

- Phải. Có cả cạm bẫy nữa. Vậy thì ta hãy trở về…

Nói  xong,  chim  vươn  cánh  bay  nhưng  lại  rơi xuống một vực thẳm tối đen; chợt từ trên cao, một con chim trắng đáp xuống và cắp chim đen vào mỏ. Rồi cả hai lại sa xuống, lần này chim đen thấy mình đang ở trên một bờ biển.

- Bên kia là xứ sở của ta - chim trắng chỉ vùng sáng láng bên kia đại dương và nói - nhưng ta chẳng thể đem ngươi qua bên ấy được, ta không có năng lực.

- Ta muốn qua bên ấy lắm, nhưng sao ta không nhấc đôi cánh lên nổi.

Chim trắng nhìn chim đen gật đầu:

- Sao ngươi nặng thế? Sao ngươi không rủ bỏ bộ lông đen của ngươi để biến thành bộ lông trắng nhẹ nhàng như ta? Dù đại vương ta cũng không thể cứu ngươi được đâu.

- Đại vương của ngươi là ai?

- Là Điểu vương.

- Chắc y lớn lắm, lại có nhiều phép lạ?

- Ta không rõ. Nhưng quả là có nhiều phép biến hóa.

- Hãy kể cho ta nghe.

- Đại vương của ta có thể làm chim đen, có thể là chim trắng, có thể hai màu, có thể trộn lẫn hai màu, có thể lớn mà cũng có thể bé. Thiệt là không lường nổi.

- Kỳ nhỉ.

- Vậy mới làm vua. Ô kìa! Đại vương ta!

Chim trắng đưa tay chỉ về phía biển xa: Vị tiên ông tóc trắng đang cỡi trên lưng cánh đại bàng bay vút lên mấy từng mây xanh thẳm.

- Vì tiên ông và con đại bàng, ai là thầy ngươi? Là đại vương ngươi?

- Ta không biết.

“Hãy bay!” Một cái gì bên trong thúc hối và chàng phóng mình ra phía biển. Chàng rơi xuống và chìm nghỉm. Chàng la chới với… cứu tôi, cứu tôi… Giữa vùng đen dầy đặc, chàng vùng vẫy một cách tuyệt vọng. Một lúc, vùng đen ấy sáng dần… Mặt nước lung linh từng gợn sóng li ti… Từng vòng từng vòng xoay tròn, từ to đến nhỏ dần… nhỏ dần cho đến khi còn lại một hạt đen như hạt nhãn. Hạt nhãn lại biến thành trong xanh vời vợi và phía bên trong lại hiện ra mấy sợi gân đỏ như lửa. À! Đôi mắt con chim đen! Chàng chú mục nhìn rõ thì đằng sau chim có một đám mây phủ xuống - đám mây từng sợi nhỏ chảy dài! Trong ánh sáng nhờ nhợ đúc kết lại thành hình…

- A! Một thiếu nữ.

Chàng tỉnh dậy nhưng vẫn nằm yên, đưa mắt lặng lẽ nhìn  thiếu  nữ.  Một  chiếc khăn mát đang đắp nơi trán chàng và trên tay thiếu nữ đang còn cầm một ly nước. Chiếc sari vắt từ trên vai xuống trễ tràng để lộ một vùng ngực trắng ngà. Thiếu nữ hơi thở dồn dập,  đôi  mắt  long  lanh nhìn chàng như âu yếm, như đắm đuối, như khát khao. Nàng lặng lẽ để bát nước xuống một bên, lật ngửa bàn tay chàng rồi để úp bàn tay của mình vào đó - dấu hiệu gọi tình - rồi cúi xuống, ôm chàng trong vòng tay dịu dàng. Vùng ngực mềm, mịn và mát của thiếu nữ phủ dập êm ái lên người chàng.

Trong lúc thiếu nữ đã hiện thành bà Eva trong vòng tay chàng, trong lúc cả người chàng là một khối lửa dục nóng hừng hực, trong lúc chàng sắp sửa thử nghiệm cái giây phút khoái lạc, bóng tối và tử sinh - thì phía sau xa hút vùng cảm thức mênh mông, chợt hiện ra một chút ánh sáng tinh thần le lói, tiếng một con sư tử khản giọng gầm vào tai chàng: “Hãy từ chối nó, đấng tinh thần đang nguyền rủa ngươi, hỡi thân xác.”

Cả một trời tuyết băng đổ ập xuống cơn nóng lửa của chàng, Triết Hựu xô thiếu nữ ra và bỏ chạy. Mùi hương kỳ lạ nơi thiếu nữ dậy thì cứ phảng phất theo chàng qua suốt mấy dặm dài. Trong ánh sáng nhờ nhợ của hoàng hôn, bất kể phương hướng, bất kể bụi bờ, gai gốc, chàng chạy mãi…

Chàng cố quên, cố xua  đuổi qua một bên, lùi lại đằng sau sự ám ảnh của giây phút kề bên vực thẳm ấy - vực thẳm tử sinh hay đỉnh cao ngất của hoan lạc? - chàng cũng không biết nữa. Chàng không xác định được, quả thật, lý trí chàng, con sư tử chàng  đã gọi đó là tội lỗi, sa đọa. Một bên thân xác thì gật đầu, một bên tinh thần thì lên án. Bên nào cũng hữu lý cả? Cuộc chiến tranh thầm lặng mà khốc liệt này xé con người chàng ra làm hai, chưa ngã ngũ ra sao nhưng hiện giờ ánh sáng đang làm chủ tình thế. Ánh sáng không phát quang đủ cả vùng tâm thức chàng, nên ở đấy thỉnh thoảng lại hiển hiện lên đôi mắt kia. Đôi mắt tròn, to và đen như hạt nhãn điểm một sợi gân đỏ như máu. Đôi mắt ấy xuất hiện từ thế giới nào? Thực hay hư? Nó ở bên ngoài hay bên trong chàng? Đôi mắt ấy là của chim đen hay của thiếu nữ? Chim đen là mộng mà thiếu nữ là thực? Chim đen hiển hiện từ vùng vô thức câm nín và thiếu nữ hiện thực ở cõi ý thức bình phàm? Ôi, đôi mắt ấy, có một cái gì như trần lao mà cũng có cái gì như lạc phúc. Nó vừa thiên đường vừa địa ngục. Từ chối nó, xua đuổi nó, nghĩa là từ chối và xua đuổi cả hai lối về? Có đúng chăng? Hựu nghĩ, chàng sẽ không bao giờ chạy thoát, bước ra khỏi, hết thắc mắc và khổ đau nếu chưa tìm thấy một lời giải thuộc thẩm quyền tâm linh này!

Hựu lại vấp té. Lồm cồm bò dậy. Lại chạy. Lý trí  chàng  vẫn  không  ngừng  làm  việc. Ngươi không được quyền nghỉ ngơi lý trí ạ! Phải làm việc. Phải lên đường. Dừng lại là chìm, là đắm. Và mày cũng phải biết bay xuống để cứu vớt cánh chim đen kia, rồi bay lên. Dù một lần nữa rơi xuống, phải bay lên. Đây là sứ mạng mà điểu vương đã giao phó. Điểu vương kia ở đâu? Vùng trời biển rộng ở bên kia phía ánh sáng? Ở đó có đấng Guru ta cỡi cánh đại bàng bay lên mây xanh. Ta đã bay theo nhưng đã rơi xuống biển. Ôi! Thân xác, sao ngươi nặng nề đến như vậy, ngươi phải bị hủy diệt tại xứ ban ngày ánh sáng ấy. Chim trắng ơi, ngươi phải có bổn phận cứu nó, đấy là thiên chức mà Thượng đế đã giao phó cho ngươi. Phải cưu mang nó. Phải cõng nó qua suốt dặm dài sinh tử xuống lên. Rồi đến một lúc nào đó mày cũng phải cõng cái trần gian này nữa, trần gian đau khổ, tương tranh và hệ phược này. Nhưng ở nơi ấy cũng có sự lạc phúc và sự an nghỉ nữa chứ, dù là an nghỉ giai đoạn? Nhưng trong ba ngàn cõi hữu vi có nơi đâu được gọi là an nghỉ vĩnh viễn? Niềm phúc lạc đời đời ở cõi đức Chúa trời, nơi đấng ấy - được khải thị, được hiểu biết, được nuôi dưỡng từ thuở ấu thơ, từ tuổi bình minh kiếm tìm của chàng - phải chăng là ở ngoài cõi diệt sinh hữu hạn? Cái mà ta thường gọi là định mệnh, có thật sự cột trói ta được, chi phối trọn vẹn hiện thể này như là một tất yếu, một định phận tiền căn? Và ai là kẻ ở ngoài  định  mệnh?  Nếu Chrits ở ngoài định mệnh thì ngài đã không bị người Hê-brơ ném đá, không bị bắt tại vườn Ghết-sê-ma-nê, bị quân lính làm nhục rồi đóng đinh ngài trên thập tự giá? Nếu đức Phật ở ngoài định mệnh thì đức Phật đã không bị nàng Cinca (Chinh-cha) vu khống, Devadatta não hại, ăn thịt rừng (hay một loài nấm độc) của chàng Cunda rồi thọ bệnh, không chống được cơn khát phải ba lần năn nỉ ngài Ànanda đi kiếm nước? Nếu Krishna (hóa thân của thần Vichnou) ở ngoài định mệnh thì đã không bị bắn tên mà chết, bị đóng đinh lên thân cây? Hay tất cả những hiện tướng ấy đều mang một ẩn nghĩa huyền nhiệm? Một bài học vô ngôn tối thượng cho chúng sanh? Hay định mệnh và ở ngoài định mệnh theo nghĩa khác? Nghĩa là vẫn an lạc và tự do và tự tại trong định mệnh? Mang thân sinh diệt tại thế hữu hạn khổ đau mà tâm vẫn an trú ở cõi miền bất động hoặc được tắm mát phỉ lạc ở các tầng tịnh quang và tịnh thiên? Hoặc ở trong phiền não mà vẫn bồ-đề du hí và thần thông tam muội? Vậy là những nhân cách siêu việt tuy ở bờ này mà tâm trú bờ kia? Và bờ kia cũng chính là bờ này? Một tiếng gọi đò mà hai bờ đều đến? Cho nên giải thoát, vô hạn, bờ kia chỉ là sự chuyển hướng của một cái nhìn đảo lộn toàn bộ sự vận hành của pháp giới?

Ôi! Chàng than dài, ta không còn biết gì cả. Lưới màyà  vẫn  vây  phủ  ở  đó.  Địa ngục  có ở đó. Tử sinh

nữa. Tinh thần sáng láng ở nơi chàng, nhất là phút giây bị chạy đuổi nhưng tỉnh thức trọn vẹn này, vốn không bao giờ muốn thỏa hiệp với cái có sẵn ngàn đời của  thế gian, của đám đông.  Chúng ô  trược và  xuẩn ngốc nữa. Những người như mẹ và cha, Vọng Việt, em gái chàng và thiếu nữ là hiện thân của những sa đọa bi thảm làm sao. Họ ở trong cái ngập ngụa sền sệt đen đúa của vô minh ái dục. Cha chàng chưa bước ra ngoài mọi âu lo rất tục, rất đời, rất người. Là kẻ suốt đời lăng xăng kiếm tìm danh và lợi, bon chen từng thế đứng cách ngồi, nhân danh là một nhà thông thái để rồi quẩn quanh mãi trong cái ù lì trây mốc của vật chất - vốn chẳng thông thái sáng sủa chút nào. Một lớp bụi vẫn đục, đê hạ lợn cợn trong hơi thở và trong máu huyết của cha chàng. Mẹ chàng là cá tính thứ hai, bóng dáng thứ hai của quỷ dữ. Một bên là đại biểu cho một tinh thần sa đọa, một bên là đại biểu cho một vật chất sa đọa - hai hiện tướng thô lậu có mặt đầy tràn trên trần gian. Nó đánh mất nhân tính và đọa làm thú vật. Em gái chàng cũng vậy nữa, thêm một kẻ tình nguyện vào dòng và thả trôi mình theo con sóng lũ. Vọng Việt cũng không ngoài thông lệ. Y nói về Thượng đế, về nhất thể trong lúc y sống với sa-tăng trong thế giới đa thể màyà. Y không chịu lên đường, chỉ tư duy về việc lên đường, rồi nằm an nghỉ trên chiếc giường thất bảo của ma vương. Còn chàng?

Kẻ chối từ hữu hạn thì đang một mình cô độc với đêm, tuyệt vọng, không chân trời, không phương xứ“Vĩnh vi lãng đãng phong trần khách, nhật viễn gia hương vạn lý trình?(Thơ Trần Thái Tông - tạm dịch: "Vĩnh viễn làm người khách lênh đênh gió bụi. Quê nhà vạn dặm mỗi ngày mỗi xa.") có phải vậy không, quê hương mỗi ngày mỗi xa? Cựu lý mờ sau bóng biệt ngàn, ngựa phi thiên lý đã quan san, áo hàn cho kín thân gầy guộc, da tuyết bao quanh dáng võ vàng. Có phải vậy không? Rừng phơi tóc mộ phơi từng lớp, biển đắm xương mây đắm mấy hàng. Có phải vậy không? Nhìn mông tám hướng màu tro đọng, cát lấp đồi tây đá trở vàng… Đột nhiên Triết Hựu nằm lăn ra giữa đường rồi cười sằng sặc. Rồi lại ngâm thơ. Rồi chàng lại nghĩ: “Con cáo có hang, chim trời có tổ, song con người không có chỗ mà gối đầu”. Ôi! Đức Kitô dạy thế mà đúng thay!Triết Hựu đã bị trọng thương, chàng biết. Máu đang tuôn ra xối xả từ trái tim trinh nguyên. Cuộc đời này chúng đã vô lễ đối với chàng! Con cái ngài đã phản bội ngài rồi đó, Thượng đế ơi! Trên đồi Gô-gô-tha, Đức KiTô đã chuộc tội cho trần gian, chịu khổ đau và tội lỗi cho con người đó mà chúng có biết đâu? Ngài Krishna vào tù ra khám, khi làm ăn xin, khi làm kẻ tôi tớ cũng cho chúng đó mà chúng có hiểu gì đâu? Hãy chất hằng triệu địa ngục và bóng tối lên trần gian này! Lũ sa-tăng đang ngồi kia, đang vỗ tay nhăn răng cười! Chúng cười hoài, cười nghiêng ngửa cái bất lực của Thượng đế hay đã thắng ngài trong cuộc chạy đua về địa ngục? Lửa đã cháy đỏ tự bên trong, cháy đỏ nghi ngút, rồi chúng sẽ phóng hiện ra bên ngoài để thiêu đốt vũ trụ. Khi ấy, chàng sẽ ở đâu, trong cuộc tận thế ấy để tránh được cơn “đại hồng hỏa” phẫn nộ của Thượng đế? Chàng có được như Noe nhưng không phải là cỡi một chiếc thuyền - mà cỡi con hạc trắng để lênh đênh trên vùng khói bạc. Noe đem theo mỗi thứ mỗi loại mỗi giống để lập lại một thế giới mới, còn chàng thì một mình bay ra cõi ngoài. Noe nhận chịu trần gian và điều hòa lại những quy định, những phạm trù - đến một lúc nào đó sẽ biến thành nhà tù lớn - để cho con cái ngài sinh sát lẫn nhau, nuốt chửng nhau, cười cợt vỗ tay trên những nghĩa địa và những xác chết. Rồi lại là những cuộc xây dựng mới, cải tổ mới, cải thiện mới, từ chối mới, Thượng đế mới. Mới tất cả. “Cùng tắc biến, cực tắc phản”. Mới tức cũ, cũ tức mới. Tới cùng là lui, lui cùng là tới. Sống là chết. Chết là sống. Chết sống. Sống chết…

Triết Hựu gục xuống một lúc, khi tỉnh lại, chàng thấy mình đang ở giữa một cánh đồng hoang, chân thấp chân cao chàng lê đến một trang trại nằm trên một vùng đất cao.

Đèn  đã lên.  Triết Hựu hiện đến nhà người như một oan hồn lạc loài trong đêm vắng. Mỗi linh hồn rồi cũng lạc loài vô trú xứ như chàng? Đến bên cửa nhà người dù thiếu thốn vật chất hay tinh thần đều là dấu hiệu cưu mang một định mệnh trần ai. Còn trường hợp chàng, định mệnh săn đuổi hay “cái ấy” săn đuổi?

- Chị ơi chị! Ma!

Một người con gái thấy bóng chàng,sợ hãi, bỏ chạy vào phía bên trong.

- Ma nào? Làm gì mà rộn thế?

Ma thật sao? Triết Hựu chợt nhìn lại mình: quần áo xác xơ rách rưới, dơ bẩn, chân tay mặt mày bê bết bùn đất trộn lẫn với máu ở các vết sây sứt - ở đó không tìm thấy một bóng dáng nào là con nhà giàu sang quý phái. Phải rồi. Ta là một bóng ma trên cuộc đời, vất vưởng, vô định, “không một chỗ để gối đầu”.

Ngọn đèn được vặn sáng và có tiếng dép kéo lê về phía cửa. Hai người con gái hiện ra: đẹp não nùng, đẹp như liêu trai!

Triết Hựu cố trấn tỉnh ngửng đầu lên nhìn một lúc rồi cúi đầu nói:

- Phải rồi - giọng chàng chậm rãi, đều đặn và xa xôi - Tôi là một bóng ma đi bên lề cuộc đời, một bóng ma bất thực giữa thế giới mà cái gì cũng tưởng như thực hữu, một bóng ma trần trụi mọi thứ của cải, bạc tiền, áo cơm, sự nghiệp; một bóng ma không còn một mảnh đất, một  trú  xứ để nương gá, dù bên ngoài hay bên trong…

Hai người con gái đăm đăm nhìn Triết Hựu. Người chị, ý chừng lớn tuổi hơn một tí, nhìn sâu vào mắt chàng, lắng nghe chàng nói với sự im lặng đầy hiểu biết…

- Tôi đang chạy trốn mọi ám ảnh hãi hùng, tôi đang tuyệt đối cô đơn trên đường chạy đua về Thượng đế. Xung quanh tôi không còn ai. Tất cả đều bị bắt giữ lại. Bây giờ tôi đang đói, lại mệt, xin các người cho tôi một bữa ăn mọn, được nghỉ ngơi một lúc rồi hẳn lên đường…

Người em nhìn chị một cách tò mò:

- Y đang thiếu sự an ủi? Y không nhà, không cửa, lại thiếu cả tình thương chăng?

Người chị quay qua em trừng mắt rồi nghiêng người một bên, đưa đèn ra phía trước cho sáng:

- Tiện thiếp không những có nghĩa vụ với Thượng đế là phải phân chia đồng đều cơm bánh trần gian; mà đây còn là một đặc ân, một diễm phúc cho chị em thiếp nữa - xin hân hạnh mời chàng.

Sau đó, thiếu nữ lấy cho Triết Hựu một bộ y phục, chàng tắm rửa rồi đắp thuốc vào những vết thương. Dưới ánh đèn chàng đã trở thành một mỹ nam tử.

- Ai tin lành, kẻ ấy có Thượng đế. Hai nàng tuy là kẻ ở lại nhưng cũng là đang ra đi, đang về với ngài.

Bên mâm cơm, chàng vừa ăn vừa nghe người chị tâm sự:

-Thiếp trước đây cũng có một người chồng, nom hao hao giống chàng vậy. Y là kẻ luôn luôn săn đuổi, kiếm tìm, lên đường. Y không khác chàng lắm đâu. Vòng tay thiếp đã không giữ chàng lại được. Rừng thẳm, tuyết lãnh, non cao đã vĩnh viễn cướp mất của chị em thiếp một người chồng khả kính và khả ái. Chàng cô độc trên đường về với Thượng đế thì nào đã có nghĩa gì, chị em thiếp cô độc giữa cuộc đời, giữa tuổi xuân hoa mộng…

Thiếu nữ đã có chồng, chàng nghĩ. Nỗi buồn đau kia được ẩn kín phía trong đôi mắt xanh sâu dịu dàng, ít ra không có sợi gân đỏ như máu. Chàng lại rùng mình. Phải có một cái gì để quên đi sự ám ảnh cùng để an ủi thiếu phụ - bây giờ gọi là thiếu phụ:

- Đời là bể khổ. Tôi khổ. Anh khổ. Chị khổ. Chúng nó khổ. Tôi vẫn muốn nói một điều gì đó để chia xẻ hoặc cảm thông sâu xa sự cô độc của đời nàng. Nhưng có thừa không? Có đầu môi chót lưỡi không? Cả thế giới đang sụp đổ. Ngôn ngữ cũng đã sụp đổ, đã hết sứ mạng truyền thông tuyệt đối. Tất cả đều đang đi về hủy diệt. Kẻ lên đường là kẻ chiến đấu với hư vô và hủy diệt. Chồng nàng lên đường, bỏ lại đời xuân của nương tử, nếu không là kẻ hát bài ca chiến thắng trên đỉnh đầu  tử vong, thì  cũng  là một chiến sĩ thiên tài với ngạo khí ngút ngụt chín tầng mây. Y là một trong những  kẻ  cứu  vớt  sự  sa  đọa cho thế giới này.

Nương tử ơi! Nương tử phải biết hãnh diện chứ?

Thiếu phụ mở lớn đôi mắt nhìn chàng. Nàng nói là nàng không nghĩ tới những điều ấy, không cần nghĩ đến những điều ấy thì đúng hơn. Nàng là đàn bà, nàng chỉ có trái tim, chỉ có lý lẽ của con tim. Chỉ có điều ấy là thực, là sự sống, còn ngoài ra tất cả không ý nghĩa gì. Thượng đế, tổ quốc, tự do, chân lý đều là cái rỗng không. Con tim nàng đang thổn thức, đang rỉ máu - thì giá trị mà chàng gọi là vĩnh cửu, là đứng trên đỉnh đầu tử vong kia, có hàn gắn được vết thương này không? Trong chân lý của Thượng đế, nơi cõi của đức Chúa trời, chẳng biết người ta có phản bội tình yêu thương không, mà chồng nàng đã phản bội, dù nhân danh cái gì cao cả nhất thì cũng là kẻ phản bội…

Thiếu phụ cầm bàn tay chàng run run đầy xúc động. Nàng kể cho chàng nghe về tuổi xuân của đời nàng - giọng nói xa xăm, buồn diệu vợi - về một gia đình quý tộc sa sút, vỡ nợ, sống ăn xin sự khinh bỉ của mọi người, may nhờ gia đình Thiếu Quang bảo bọc, cứu vớt - Thiếu Quang là tên của chồng nàng. Cảm vì nghĩa, nặng vì tình cha nàng đem giao hai người con gái làm tì nữ hầu hạ để đáp ơn. Nhưng vì vai vế, sự tương kính, việc này biến thành chuyện hứa hôn giữa hai họ. Đám cưới được cử hành tốt đẹp khi thiếp vừa tròn mười tám và em thiếp vừa đủ mười lăm. Ôi! Hai chị em cùng lấy một chồng -  nàng  nhấn mạnh ở điểm này và trong giọng nói có một cái gì như xót xa, như đau đớn - nhưng chỉ ba tháng sau, chàng nghe theo tiếng gọi của cái gì như là hư vô, như là bất thực - trong cái hư vô, cái bất thực kia có Thượng đế, có đức Chúa trời, có chân phúc không thì thiếp không biết nữa - để lên đường đi theo đoàn du sĩ! Thiếp cũng không đau lòng lắm đâu chàng ơi, vì thiếp còn biết được tuổi xuân hoa bướm là gì, ái ân lạc thú ra sao, nhưng còn em thiếp, mang tiếng là gái có chồng mà chưa hề biết đến hương vị gối chăn…

Thiếu phụ kể xong gục đầu xuống trong đôi cánh tay dấu đôi mắt lệ đỏ.

- Tỷ tỷ, sao tỷ tỷ lại khóc? Sao tỷ tỷ không mời công tử ở lại cho vui? Ở lại chứ đừng đi đâu nữa? Mình cũng có ruộng vườn, gia súc, tôi tớ đủ để sống với nhau một đời an nhàn, hạnh phúc?

Ôi, sự ngây thơ thần thánh, chàng nói thầm. “Nếu con không được biến thành như trẻ thơ thì con chẳng thể vào được nước đức Chúa trời đâu”. Vị thánh vô vi của Trung Hoa kia cũng gọi là “xích tử chi tâm”, có phải là chỉ một trạng thái tâm mà cuộc đời chưa nhiễm độc, chưa vấy lên đấy những kinh nghiệm, kỷ niệm, quá khứ, kiến thức, truyền thông, lễ nghi, giáo điều? Và tâm hồn đang trong sáng như pha lê, trắng tinh như mảnh lụa mới? Thiếu nữ có đau khổ đâu, chỉ có thiếu phụ mới đau  khổ. Chỉ  có  kẻ  ăn trái cấm rồi mới đau khổ, mới bị đày ra khỏi miền vĩnh phúc. Thiếu phụ còn mong được phạm tội nữa, nàng đang nuối tiếc bóng tối và tử sinh!

Triết Hựu chợt đứng dậy, cương quyết và dứt khoát, vòng tay xá hai người con gái:

- Tôi được nhị vị công nương cho y phục, cơm nước, thuốc men và chỗ nghỉ. Công đức ấy tôi xin được thành kính dâng lên đấng Cao cả. Một đêm hội ngộ, một khắc tương phùng, tôi xin được kết cỏ ngậm vành bao giờ tìm ra đạo lớn…

Chàng xá mình thật sâu. Thiếu phụ ngước lên nhìn, không nói năng, không ngạc nhiên nhưng đôi mắt là như ẩn chứa cả nỗi buồn thiên cổ.

- Không được đâu công tử ơi, công tử phải ở lại - thiếu nữ chợt chạy đến nắm tay chàng như van lơn - Vì công tử mà tỷ tỷ động đến vết thương lòng mà từ lâu tưởng như đã lành lặn. Vì công tử mà tỷ tỷ phải khóc. Công tử phải ở lại.

Thiếu phụ chợt quay qua nói với chàng:

- Rồi ai cũng phải lên đường cả, không ai có thể ở lại. Thiếp cũng đã lên đường, từ một cuộc đời tuổi xuân đầy nhựa thắm để bây giờ thành người mùa thu cô phụ võ vàng. Rồi thiếp cũng còn phải lên đường nữa để đến cõi miền già nua tuổi xế. Rồi cứ thế lên đường nữa cho đến nấm mồ. Và phải chăng, như vậy là đã  được  dừng nghỉ,  hay lại  phải bắt đầu một cuộc ra đi mới? Một cuộc lên đường mới? Sinh rồi diệt? Diệt rồi sinh? Sinh cực vi diệt dã, diệt cực vi sinh dã?

Đêm đã khuya lắm. Thiếu nữ đã đi nghỉ. Và thiếu phụ vẫn còn nói, nói mãi. Hình như những nỗi niềm u uẩn chất chứa bấy lâu, bây giờ có môi trường thuận lợi là chàng - một bóng dáng nào đó của người tình cũ - nên đã đổ đầy lai láng như cơn mưa lớn vào lòng trường giang. Chàng yên lặng lắng nghe với thái độ nghiêm trang, thành kính. Chàng tự nghĩ, nhân duyên nào đưa ta đến đây chỉ để ngồi nghe những chuyện tầm thường như vậy, những chuyện nhi nữ thường tình như vầy? Tâm sự này là tâm sự ngàn đời hay là của một vài hoàn cảnh chủ quan riêng lẻ. Bỏ đi thì sợ thất kính, mà ngồi lại thì càng lúc chàng càng cảm thấy tâm mình đâm ra mềm yếu. Hình như có cái gì đó từ nỗi cô đơn ngút ngụt trong lòng người thiếu phụ truyền lây qua chàng. Ôi! Nàng là một con chim nhỏ mà cuộc đời là một mùa đông lạnh lẽo, nàng là một chiếc thuyền con mà cuộc đời là một đại dương bão tố hãi hùng…

Thiếu phụ đã không còn nói nữa, chàng nghe một hơi thở dài. Ngoài kia có tiếng vạc đi ăn sương. Đây là ngọn đèn dầu lạc nửa mờ nửa tỏ. Kia là kiếp người và canh tàn tháng lụn… Những tiếng xào xạc của  lá,  tiếng  dế nỉ  non  vọng  vào  trong  tim  chàng.

Thiếu phụ đã ngồi đối diện với chàng từ bao giờ.

Chàng cúi xuống để tránh đôi mắt ân tình mời gọi và hơi thở phập phồng của thiếu phụ. Con sư tử trong chàng đang khản giọng gọi không ra hơi. Chàng nuốt nước bọt:

- Hãy cùng lên đường với tôi, hiền tỷ! Hãy cùng tôi mạnh dạn bước ra ngoài thời gian hạn cuộc và những buồn đau thúc phược của kiếp người. Hãy từ chối bóng tối và sinh mà lên đường với tôi, hiền tỷ!

Thiếu phụ lắc đầu:

- Biết bao sa-môn, đạo sĩ đã thất bại, đã thất điên bát đảo trên lộ trình. Đã gục xuống. Đã đứng lên. Rồi lại gục xuống. Những cánh chim non tản loạn giữa bầu trời. Vô ích thôi, công tử. Có kẻ, cuối cùng, lại tìm cái chết thơ mộng hơn, cực lạc hơn là chết trong suối tóc của mỹ nhân, trong vòng tay tình ái.

- Tôi không gục, chàng nói - đồng thời gọi thầm tên sư tử - Tôi đã thắng một lần! Nàng cũng vậy, nàng ơi! Hãy như sư tử chúa và ra đi “xin đừng, xin đừng mọi sự”

Thiếu phụ đã cầm hai bàn tay chàng:

- Thiếp yếu lắm chàng ơi! Thiếp yếu lắm. Trong thiếp bao giờ cũng phục tùng, nô lệ - "Xin vâng, xin vâng đủ mọi sự”. Ngay đêm nay, nếu chàng muốn, thiếp cũng xin … vâng chàng, vì chàng ơi, thiếp cô đơn quá!

Không có tiếng sư  tử vọng  lại  mặc dù chàng đã gọi “sư tử ơi, cứu ta”! Bất thần, một đám mây phủ chụp xuống, cả người chàng chợt như ngộp đầy hương, rồi chàng bị siết chặt lại trong đôi tay mềm mại của thiếu phụ…

… Những hơi thở nóng hổi nồng nàn, những kiếm tìm cuồng bạo, những chiếm hữu dã thú, những đê mê, những chết chóc, địa ngục, những ngất ngây, những lạc thú… Tất cả cái ấy đồng đến với chàng, chúng đến một lúc…!

“Chưa bao giờ chàng thấy bóng tối và tử sinh có giá trị kinh khiếp như vậy.”




CẠM BẪY TINH THẦN

Triết Hựu đứng bất động trước sân ngôi đại tự. Đôi chân nhức mỏi, chàng đứng như vậy cho đến lúc hết nhức mỏi. Trong cơn nóng như đổ lửa, mồ hôi chảy ra như tắm; chàng đứng như vậy cho đến lúc khô ráo mồ hôi. Đôi mắt chàng nhìn thấy những ảnh tượng quay cuồng, chàng trừng trừng nhìn mãi cho đến lúc ảnh tượng hết quay cuồng.

Cơn nhức buốt nội tâm đến một lúc nào đó cũng vọng bặt, chỉ còn tượng đá, chân không và chàng!

Sự chìm đắm không thể cưỡng lại của một đêm ngủ hoang trong căn nhà lạ với thiếu phụ đang xuân là dấu hiệu sa đọa tột cùng, không thể nào tha thứ được. Con sư tử trong chàng sau đó mới thức dậy, đã lên án chàng mãnh liệt: “Xin đừng, xin đừng”. Xin đừng làm chi nữa, muộn lắm rồi. Bùn đen đã ngập sâu phía bên này khối óc; còn một nửa bên kia đang còn tỉnh thức đây; tỉnh thức để miệt thị, khinh bỉ. Và rồi để tê tái đến tận cùng da thịt. Còn đâu niềm tự hào và hãnh  diện  đầu  đời?  Còn  đâu  sự  trong  sáng của những thiên  thần  cánh  trắng; đã  biết  bao  lần tung bay trên cõi trời tinh thần cao đại, xanh mây và hoằng viễn? Ôi! Thiên thần đã gãy cánh, hay đôi cánh đã gởi lại trên kia, đành đoạn cho thân xác rơi tuột vào lòng hố thẳm để cùng vọng âm với vô thức tăm tối ngàn đời?

… Hình như đã lâu xa lắm rồi, buổi sáng thức dậy kinh hoàng, … rằng thế là hết, rằng thế là đã đánh mất thiên đàng, rằng thế là đã ăn trái cấm. Và thế là Thượng đế trong chàng đã xua đuổi chàng xuống trần gian để tạo tác, để lao lực, để khổ, để vui…!

- Tôi cân lường được giá trị hữu tính và hư vô của một đêm vui thú với nàng. Tôi sẽ không chạy trốn trách nhiệm - chàng nhấn mạnh, trịnh trọng và chân thành - Bởi vậy, nàng hãy cho tôi biết nguyện vọng thiết tha nhất của đời nàng, dĩ nhiên là trong khả năng mà tôi có thể đáp trả. Nàng hỡi, là nam nhi đại trượng phu, tôi sòng phẳng và minh bạch về nhân quả. Tôi đang sẵn sàng, hãy nói đi, nàng hỡi!

Thiếu phụ lại đến bên chàng, nhỏ nhẹ, âu yếm, hơi thở thơm như mùi hoa lan. Chàng rùng mình, tất cả đều như mới.  Như mới.  Khuôn  mặt kiều mị, diễm lệ, sạch như một tấm gương, rạng rỡ như đã qua đi ngày tháng đông dài. Đang xuân. Chàng lại rùng mình, lách ra xa người thiếu phụ.

- Xin  nàng  hãy  ban  cho  tôi  một  đặc  ân: một khoảng cách để tôi có đủ sự khôn ngoan, tỉnh trí, sáng suốt. Thú thật, bên nàng, sự ngạo nghễ của lý trí phải đầu hàng, sự kiêu hãnh của trí năng phải khuất phục. Nàng đừng so kiếm với một chiến sĩ đã ngã ngựa. Hãy thương hại tôi, nàng hỡi…!

Triết Hựu van lơn. Ôi, yếu đuối quá. Sỉ nhục quá. Canh bài này chàng đã thua đến láng tẩy. Đã trắng túi. Một cuộc đời đã rụng. Ôi sao mai! Ôi bình minh! Ôi sương sớm!

- Chàng sợ? - lại cười, nụ cười chết người - Thiếp cũng sợ. Thiếp phạm tội với Thượng đế là đã trở ngăn chàng giữa đường, làm chiếc lồng son để nhốt con chim xanh. Kia là bầu trời, kia là thượng giới… Chàng hãy bay!

Triết Hựu đưa mắt nhìn với vẻ biết ơn, đầy cảm kích.

- Nhưng chàng ơi! - Thiếu phụ lại tiếp - Cả trần gian này có sự lỡ lầm nào mà không làm cho ta khôn lớn và trưởng thành? Sự ban ân nào mà không nhằm vị ngã? Niềm vui nào mà không có nước mắt? Chàng là một thanh niên ưu tú, trí thức há không chiêm nghiệm  rằng, nhờ  tối mới biết sáng? Nhờ tử sinh mới có niết-bàn? Nhờ nếm lạc thú ái ân mới biết được sự thanh cao của người thoát tục? Ôi, “nếu chẳng có địa ngục thì thiên đàng buồn tẻ biết bao nhiêu?” Thiếp cảm ơn chàng đã cho thiếp một đêm xuân trọn vẹn. Chàng thấy đó, chàng đã không mất mát gì mà còn được lợi. Cho đi ít, nhận về nhiều; chàng còn than thở, hối hận cái nỗi gì?

Ta không mất mát gì ư? Có thật thế không? Một sự đổi chác mà cả hai bên đều là kẻ có lợi? Nàng được sưởi ấm giấc xuân, còn tôi, nhận biết thêm cái cuồng dục cảm giác làm nền tảng cho mọi cuộc sinh tồn? Triết Hựu thấy mình không thể trả lời cho ổn thỏa về điểm này. Nhưng chắc chắn là phía thân xác đang gật đầu đồng ý mà bên tinh thần thì đang khẳng khái và cường liệt phủ nhận. Cả đúng sai lưỡng nghịch đồng hiện hữu trong chàng. Chúng làm một cuộc chiến tranh. Và tôi là một bãi sa trường. Ai sống, ai chết không biết, nhưng tôi khổ đau. Điều này là thực nhất. Nàng lợi hay tôi lợi, cái đó không biết; nhưng nàng đang rạng rỡ, đã thỏa mãn. Điều này cũng thực nhất.

Triết Hựu trình bày điều đó cho thiếu phụ nghe. Nàng ôm chàng thân yêu rồi cười ròn rã:

- Ôi, sự ngây thơ của lý trí! Chàng vì hiểu quá cao nên thành ấu trỉ, thiếp nhờ hiểu thấp cho nên đã nói đúng với sự thật đời thường. Có phải chàng nhờ nếm  trải  được  lạc  thu  ái ân nên mới biết thế nào là sinh tồn và địa ngục. Cả sự huyễn hoá của màyà nữa. Vậy có phải là nhờ đau khổ - ví dụ vậy - mà chàng sẽ thành tựu được hạnh phúc to lớn sau này sao? Còn thiếp có phải  vì  hạnh phúc một chút - hạnh phúc phù du -  mà  sau  này  phải  vò  võ  năm  canh  để nhớ, để thương, để hờn, để tủi? Đây là chưa kể phải kiêng, phải cữ để bảo dưỡng thai nhi chín tháng mười ngày, nếu lỡ…!

Ừ! Quả thật như vậy thì sao? Ta đau khổ đồng thời ta cũng hiểu rõ sức mạnh cuả bản năng. Còn nàng? Phải. Nàng đã thiệt thòi quá nhiều, đau khổ quá dài ngày.

- Đã biết vậy sao nàng còn bày ra chi chuyện…?

- Vì nghiệp chướng - thiếu phụ bình thản trả lời - Vì không sợ quả cho nên cứ thích gieo nhân. Thiếp có đủ can đảm để chấp nhận hậu quả. Ồ, Giản dị quá!

- Đừng lý luận “địa ngục” với tôi - chàng tức giận nói - Ôi thuyền quyên! Ôi thục nữ! Nàng đừng làm cho tôi nhìn cuộc đời bằng đôi mắt ghê tởm…

Thiếu phụ khẽ thở dài:

- Thôi, chàng hãy ra đi đi, đừng nói đến bổn phận và trách nhiệm nữa. Bổn phận và trách nhiệm  hãy để cho những người ở trong cuộc đời... May ra...

Thiếu phụ bỏ lửng câu nói. Dù chàng đã gặn hỏi mấy lượt, thiếu phụ vẫn không trả lời. Nàng chỉ cười, yên vui, bình tịnh, trong sáng! Cuộc tiễn đưa rồi cũng xảy ra giữa ba người. Một chén rượu say… để nhớ. Lại cười! Triết Hựu thảng thốt nhận chân rằng, không còn dấu vết gì ở nơi thiếu phụ cả. Dấu vết là ở nơi chàng  thôi,  chàng  mang  theo  bên  mình  không  rời phút giây ấy,  hình  ảnh ấy, nụ cười ấy, hơi thở ấy. Tất cả. Tất cả. Kể cả ám ảnh tội lỗi nữa. Chàng không đi mà chàng chạy. Cánh tay lụa trắng vẫy vẫy sau hàng dậu xanh. Ôi, một đêm bằng cả cuộc đời. Chàng học được nhiều quá. Nhưng còn điều gì thiếu phụ chưa nói hết? Sao lại là... trong cuộc đời? Và may ra là gì? Chàng sẽ bằng lòng ở trong cuộc đời với những tầm thường và vô vị ấy ư? Chàng  sẽ thỏa hiệp với đời sống mà nếu lặp đi lặp lại mãi sẽ đọa làm thú vật? Dĩ nhiên, là một con người với ánh sáng trong tâm, chàng đã cương quyết lễ độ chối từ. Và ra đi. Khi ra đi chàng cũng đã không dám hứa hẹn điều gì nhưng nguyện thầm với lòng là bao giờ tìm ra con đường, chàng sẽ nghĩ đến hai nàng.

Những nơi đã đi qua, những thánh tích, những hang động, những rừng già - không hề thấy bóng dáng các bậc chân sư. Cuộc đời chỉ có hai hạng người:  Danh và lợi. “Người xin lửa”, đấng Guru của chàng cũng đã du hành về phương trời nào mất hút. Cuối cùng chỉ còn lại một mình chàng, giữa cuộc đời, lộ trình vô định và vô vọng trước mặt cùng với Thượng đế trên cao.

May mắn thay, ý chí chàng vẫn còn tồn tại. Nhờ ý chí kiêu hùng và kiên định này chàng sẽ nhảy qua được hố thẳm của kiếp người.

Một ngày kia chàng đến một ngôi đại tự, nhìn nụ Cười bình an, che chở và bao  dung  của  đức Phật, chàng nẩy ra ý định xuất gia. Vết nhơ tâm hồn và thể xác may ra nhờ đời sống thanh cao phạm hạnh sẽ tẩy sạch đi chăng? Đấng Guru của chàng không xuất thân là sa-môn Thích tử đó sao? … Với ý định như vậy, bây giờ chàng đứng đây, chàng xin nhập viện. Chàng hy vọng lập lại cuộc đời trong sạch và thánh thiện.

Một ngày lên. Mặt trời đỏ hừng hực từ phương đông, thiêu đốt chàng khi lên hướng chánh nam và làm chàng như bốc lửa trên quỹ đạo về phương tây. Đêm xuống, cơn lạnh tràn vào thấm dần từng lớp da thịt bên ngoài rồi len lỏi vào xương tủy. Chừng nửa khuya thì bên ngoài bên trong là một: một khối băng duy nhất. Tuy thế, vị sư già không cho chàng nhập viện.

Từ lâu xa rồi, những du tăng muốn xin nhập chúng, họ ngồi khom lưng với khăn gói tay nải suốt ngày này qua ngày khác ngoài huyền quan, mặc dầu bị cự tuyệt, nhưng những vị sư hành cước ấy vẫn ngồi mãi trong tư thế “đình cật” (Ngồi cúi gập đầu xuống) như vậy; với cái kiên cố bất động như vậy, không ăn, không uống, không nắng, không mưa, không ngày, không đêm, không nóng, không lạnh… Có một lúc nào đó họ thắng được vị chủ trì, giám viện chăng? 

- Người tuổi trẻ còn đợi đến bao giờ? 

Vị tri khách ái ngại hỏi.

- Cho đến bao giờ ngài phương trượng đổi ý.

- Nếu ngài không đổi ý?

- Thì đệ tử còn đứng nữa.

Vị tri khách gật gật đầu:

- Hy vọng cái hữu hạn của ý chí người thắng được cái cương quyết vô hạn của đức phương trượng.

Tiếng chuông công phu sáng đổ hồi. Tiếng kinh vẳng vào tai chàng tưởng như kéo dài đến vô tận. Từng vùng sáng từ các cửa sổ nhảy túa ra tràn lan trên bực thềm.

Cửa chánh điện được mở ra trong màu sắc huy hoàng: Đại sư phương trượng khoan thai từng bước một đi ra, dáng dấp to lớn của ngài chiếm một khoảng lớn trong mắt chàng. Đến sân, đại sư đưa mắt nhìn ra bóng đêm: người tuổi trẻ vẫn còn đứng bất động ở đấy.

Đại sư lạnh lùng hỏi:

- “Ngài” có lạnh không?

- Đệ tử chiến thắng được cái lạnh.

- Đói?

- Đệ tử coi thường.

- Mệt mỏi?

- Chúng chỉ là pháp sanh diệt.

- Một nhân cách phi thường. Tốt lắm.

Nói xong, đại sư phương trượng quay lưng đi thẳng sau  khi  ra  dấu  đóng cửa chánh điện lại. Bóng ngài khuất hút trên hành lang dẫn về hậu điện. Và Triết Hựu còn lại một mình. Rồi một ngày mới lại lên. Mặt trời lại bắt đầu thiêu đốt. Đến trưa, chàng cơ hồ không còn nước để bốc hơi nữa. Đã khô kiệt.

Một chú tiểu chạy ra mang theo một đĩa cơm. Triết Hựu liếc mắt nhìn rồi nghe bụng đói cồn cào. Đã ba ngày ba đêm rồi chàng chưa ăn gì cả, lại không có một giọt nước. Chắc là đại sư phương trượng sai người đem đến cho ta chăng? Ngài cho ta ăn, thế nghĩa là ngài đã đổi ý? Ý chí ta đã chiến thắng được ngài? Chợt dưng chàng nghe hân hoan vô cùng. Ta sẽ được nhập chúng. Ta sẽ được ngày ngày y bát trang nghiêm đi theo vết chân của đấng Guru ta, làm một sa-môn khổ hạnh cao thượng, đồng thời lại được sống dưới bóng dáng đại bi, bao dung của đức Phật. Và ta sẽ dần dần soi thủng được bóng tối nội tâm kinh khiếp.

- Ngộ Không! Ngộ Không!

Chú tiểu đã đến bên chàng với đĩa cơm trên tay. Chàng vừa định mở miệng hỏi thì một con chó đen lù lù từ lùm cây chạy ra - sủa ăng ẳng rồi quấn quít bên chân chú tiểu.

- Ngộ Không  là  không  cả  tiếng  kêu  nữa nghe mày?

Chú tiểu một tay để  đĩa cơm xuống đất, một tay cầm chiếc roi nhỏ đưa lên cao. Con chó đen vẫy đuôi nhưng thấy bóng dáng chiếc roi lại dợm chân thối lui, vừa vẫy vẫy vừa kêu ăng ẳng.

- Ngộ Không là không vẫy đuôi, không kêu, không chạy tới, không chạy lui, không roi, không gậy, không cơm, không đói, không ăn. Không cái gì hết nghe mày. “Ngay chữ không cũng không luôn”.

Chú tiểu chăm chăm nhìn vào mặt chó, nhịp nhịp roi dặn dò. Chó nằm phục xuống, bò từng bước ngắn.

- Cả không nằm, không bò, không lết, nghe không? Đồ chó! Mày chẳng Ngộ Không gì ráo trọi.

Chó nằm im. Thè lưỡi ngước mắt nhìn chú tiểu. Thở. Yên lặng.

- Ờ, được đó. Coi được đó. Mày đã nhận được “tâm ấn” của tao rồi. Ngay khi mày “ngộ không tất cả” là mày sẽ có “được tất cả”. Đây, cơm đây, canh đây, ăn đi nào!

Triết Hựu quay mặt đi và nuốt nước bọt, nhưng chàng chỉ nuốt được hơi và cái gì chát đắng như muối làm ran rát cả cổ họng.  Họ  muốn làm cụn nhụt ý chí

của ta đây. Nhưng ta sẽ thắng, chàng tự nhủ. Đồng thời con sư tử bên trong chàng lại rống lên: “Hãy kiên cường. Hãy cứng. Hãy mạnh.”

Và chàng lại nhìn bất động về phía trước.

Ngộ  Không  ăn  xong,  chú  tiểu  liếc  nhìn Triết Hựu nở nụ cười dí dỏm rồi chạy khuất vào bên trong.

Loáng thoáng bên tai chàng, hai vị sư nói chuyện với nhau:

- Y không đói chăng?

- Chắc không.

- Y có khát không?

- Chắc không.

- Đố đại huynh, cái gì giống hình người mà không đói, không khát?

- Dễ ợt - cái tượng đá.

- Sai rồi, sai rồi. - Giọng cười ha hả rồi hinh hích đầy đắc ý - Cái vị du hành giả kia!

Không sao. Chàng nghĩ. Làm một tượng đá bất động giữa trời cao cũng ngạo nghễ lắm chớ. “Trong tiếng nói vô ngôn của tượng đá chứa đựng tám muôn bốn nghìn tòa sư tử, và nơi này là cõi tráng lệ, tịch mặc của đạo ca, của huyền tính” Triết Hựu mỉm cười thầm lặng. Các người biết gì về cái tượng đá đó không? Mây chiều nắng sớm ru ta ngủ. Ngàn năm trước, ngàn năm sau ta chưa một lần chợp mắt nhìn cuộc thiên diễn bể dâu, hoa tàn, nguyệt khuyết, thu úa, lệ dòng...

“Bên ni bờ đá đứng, lệ dòng trôi,

Cánh bèo non héo hắt đường ra khơi…”

Cái tĩnh là mẹ, là người tình mẫu của muôn vật.

 Đá bơ ngơ ủ mộng đứng bên lề,Cầu cũ nhớ một lần qua vĩnh biệt."

(”Tảo mộ lênh đênh” thơ của Trần Đới.)

Nguy nga ở đó, hoằng viễn ở đó. Nhưng trong cõi mê mung này, ai một lần thâm ngộ rằng “mình đã là tượng đá tự bao giờ?” - Từ chữ "tượng" của kinh dịch, từ chữ "atman" của Vệ-đà, từ chữ "dhamma" của Gotama – cõi linh thiêng của mỗi người - từ tượng xuất, tượng sinh, từ tượng hữu! “Hốt hề hoảng hề kỳ trung hữu tượng” (Lão Tử  Đạo Đức Kinh.). Trong không có tượng. Vì thế nên Lão Tử cỡi ngược con trâu xanh về rừng. Về rừng là không muôn làm một đám bèo trôi trên sông, không làm một “anh hùng rơm” với thời cuộc, vỗ tay hát ca với phường ma say chén tục…

“Vô bồn ca những chuyện vong tình,

Tương ngộ hỡi, anh hùng tứ chiếng,

Kiếm so tài đoạn tóc mỹ nhân.”

Chàng đã không đoạn được, bây giờ phải đoạn. Trò chơi đó không thể lặp lại nhiều lần. Thời gian qua, tử vong đến, ai thương cho ta tuổi già, tóc bạc? Ôi cái tượng đá thân yêu. Chàng gọi thầm. “Gõ tượng trời vô ngã ca hoang”, chàng lại cười.

Đã mấy lần đầu gối chàng sắp khuỵu xuống, nhưng nhờ nụ cười thầm lặng ấy nó tạo thành một nội lực  sung  mãn, nó  tạo  nên ý chí bất khuất nhấc bỗng thân xác chàng lên. Ta phải là “con-người-tinh-thần” với đầy đủ tất cả mọi đức tính cao quý và khiêm hư của nó. Chỉ có trang bị bằng cái tinh thần thiêng liêng ấy mới bay lên được với miền cao, mới hội diện được với chân phúc. Còn thân xác là cái nặng nề trì kéo ta ở lại. Đã một lần ở lại rồi. Đã một lần làm đạo sĩ yếu đuối trong câu chuyện Nữ vương khoái lạc. Dù chết, ta cũng không ở lại nữa. Cái chết ấy là cái chết quang vinh, chết cho chân lý, chết cho Thượng đế. Dù chết nhưng tinh thần ta vẫn đến được bên ngài nhờ khát vọng hướng thượng không nguôi đó. Ôi, ý chí của ta còn đây; còn tràn trề sinh lực, nó đang bò rần rật, đang hiện hữu khắp nơi: trong dòng máu, trong tủy, trong xương, cả ngoài làn da, cả trên đầu những sợi tóc. Ôi, ta còn đang giàu có quá!

- Phúc thay cho kẻ nghèo. Chỉ có kẻ nghèo mới vào được nước đức Chúa trời.

Câu kinh của Tân ước, đâu từ trên cao chợt rơi xuống như một gáo nước lạnh dội tắt ý chí chàng. Phải nghèo toàn triệt mới về được với nhất thể. Ta còn giàu ý chí quá. Giàu toàn triệt chính là rỗng không nội tâm. Ý chí chính là khát vọng thành tựu. Nó  là  tham  dục  và  tử vong.  Nó tạo ra biến động và chiến tranh đẫm máu thế gian. Ý chí luôn luôn chống đối, xung đột cái hiện thể để hắt cái bóng tối tham dục của nó  đến  các  đối  tượng chiếm  hữu, ở tha thể.

Nó đóng kín cục bộ các chân lý đối tượng, chân lý ước lệ, chân lý giả định. Ý chí đánh mất tự quy. Là đại ngã mà vong ngã. Ý chí phản bội hiện tính, ôm chữ “da” trong Dasein của Đức triết, ôm vật mà quên tâm, ôm phương mà quên viên trong Trung triết, chạy theo sự sa đọa vật dục của nhị nguyên luận tây phương.

Còn gì nữa không, ý chí? Ngươi đã làm cho con trâu đen rừng rú bản năng thú vật nguyên thủy trong “thập mục ngưu đồ” phải tối tăm, xấu xí. Trên bến cội quê nguồn, có biết rằng “trâu người cùng quên”?

“Tiên sách nhân ngưu tận thuộc không

Bích thiên liêu quách tín nan thông

Hồng lô diệm thượng tranh dung tuyệt

Đáo thử phương năng hiệp tổ tông.”

(Thập mục ngưu đồ – Tuệ Sỹ dịch :

Người trâu roi vọt đều không

Trời xanh vời vợi mù trông chốc mòng

Tuyết khoe trắng giữa than hồng

Cội nguồn quê quán tao phùng một phen.).

"Tạn thuộc không" chính là rỗng không, tánh không. Có “tận thuộc không” mới thấy được “trời xanh vời vợi”, mới “tuyết khoe trắng giữa than hồng”, mới “hiệp tổ tông”, mới về được “cội nguồn quê quán”, với nhất thể, bên chân Thượng đế.

Ngộ Không! Tên con chó đen rừng rú nguyên thủy đó nó đã thấy được tên gọi của nó chưa? “Chính danh vô danh tướng” đó chưa? Cái “bản lai diện mục” đó  chưa? Ngộ  được  rồi, ngộ không rồi là có được tất

cả. Được ăn, nghĩa là được nhập chúng.

Nghĩ đến đây chàng như một thân chuối đổ, ngã xuống đất. Rồi mê man. Ý chí chàng không kiệt quệ, nhưng đã bị tánh không đánh một đòn cuối cùng, kiệt quệ. Ý chí chàng đã bị cái “chiêu vô chiêu” vô hình, vô ảnh của tánh không vỗ một đòn chí tử và không còn dậy được nữa. Con sư tử bên trong chàng cũng im thin thít luôn.

“Ngay giây phút ấy, thể xác lẫn tinh thần đều vắng bóng nhưng không phải là hoại diệt, là hư vô.”




PHÁP MÔN TRI NGÃ

“Con đã có áo cà sa và bình bát rồi. Và đây là bài học đầu tiên: đi khất thực và thực hành pháp tri ngã. Ba tháng hãy trở về. Nếu không tri ngã được thì đừng có trở về nữa.”

Thế là Triết Hựu từ giã tháng ngày hành điệu cực nhọc gian lao, từ giã ngôi đại tự, từ giã thầy và huynh đệ - làm một cuộc lên đường mới, dấn thân mới, đấu tranh mới! Chẳng biết còn định mệnh nào chờ đợi chàng không, ở phía trước?

Một ngày hừng đông chàng đến một thôn làng ven chân núi. Ở đây có con sông nhỏ lượn khúc, có cây lành trái ngọt, vật thực nuôi mạng sẽ được tìm kiếm dễ dàng. Tá túc nơi một miếu hoang, không gần mà cũng không xa xóm, chàng chuẩn bị một chương trình chu đáo để hành đạo.

“Ba tháng dành cho pháp môn tri ngã, nếu không tri ngã được thì đừng có trở về”. Sư phụ nghiêm khắc và khinh thường ta quá. Bài học thật là dễ dàng. Hình như có  câu  hỏi  là  có câu trả lời ngay. Những tích lũy của hơn mười năm học đạo đã cho chàng những kiến thức bao la về tri ngã, rốt ráo ở chặng đầu, rốt ráo ở chặng giữa, rốt ráo ở chặng cuối. Nhưng chính những kiến thức hoàn hảo đó ta cũng đã từng xét lại, tra hỏi, cật vấn. Ta gay gắt với từng niệm khởi, ta từng đối thoại tự tâm nội, ta đã từng gạn lọc từng tư tưởng tế vi, như đãi cát tìm vàng, ta đã từng dò tìm và đào bới vào tận cõi miền sâu thẳm nhất của tự ngã, ta đã từng hoài nghi về chính những sở tri, ta đã từng ngồi quên đêm dài chỉ để tìm căn nguyên một niệm bất thiện, một ác pháp. Trên tất cả, ta cũng đã từng viễn ly chúng, đoạn tuyệt chúng bằng cái tuệ giác siêu việt - để đạt những trạng thái thiền định không tầm, không tứ, phỉ lạc, nhất tâm, tắm mát thư thái, no đầy trong cơn ngây ngất tuyệt trần vô hạn của vô duy. Cái "hữu" ta đã từng đầy ắp. Cái "vô" ta cũng đã từng chứng nghiệm. Tất cả nó là gia tài của ta về tri ngã.

Nhưng tất cả những hiểu biết ấy không giải thoát ta ra khỏi những khổ đau và những ràng buộc hữu hạn, Triết Hựu nghĩ. Ta cần phải kiểm soát lại một lượt từ đâu, trước khi bắt đầu đi theo một hệ thống giáo lý khác.  Cái  biết bấy lâu của ta là cái biết tổng hợp, ta đã đọc quá nhiều kinh sách, nghiên cứu  quá nhiều tông giáo; ta đã học quá nhiều ở những chân sư, đạo sư, rồi cuối cùng ta đã đứng giữa ngã ba đường; và trên cái điểm gặp  gỡ  tổng  hợp  đó, ta ngồi một chỗ để lý luận rằng, con đường nào cũng giống nhau. Đây là một sai lầm lớn, bây giờ ta phải ôn lại cái kho tri thức Vệ-đà trước khi thực hành giáo lý khác, ôn lại một cách chín chắn, khách quan hơn.

Triết Hựu vươn vai đứng dậy. Đêm rất đỗi dịu dàng. Chàng ngước lên trời nhìn vì sao vừa xuất hiện đầu tiên treo giữa nền xanh ngọc bích. Hương hoa rừng thoảng nhẹ. Một cánh chim đêm vụt tung cánh bay lên cao... Chàng bỗng bần thần trong dạ. Một tình cảm nào đó cũng vừa tung cánh bay lên trong chàng? Từ một thế giới câm lặng, tịch mịch - một cái gì đó chợt nhô lên - như từ chối nhất thể và cũng vừa để gọi kêu nhất thể. Sự hiện hữu của nó vừa phủ định mà cũng vừa xác nhận trong tương quan sinh tồn và hủy diệt. Sự tìm kiếm của con người từ sơ thủy về những nguyên nhân vô hình, ẩn mật, đại đồng tính hoặc phổ biến tính, chân phúc, hoặc trường cửu - chỉ là dấu hiệu sa đọa, phân ly giữa mình  và nhất thể. Thế giới ấy chẳng phải được nhận biết từ một tự ngã mà phải được ở yên, vô thức như đứa con nằm trong lòng mẹ... Ý nghĩ ấy thật là vô danh trong lòng chàng, hoặc  như  là  một  trực  giác  xẹt  qua  không gian rồi chìm khuất, vô tăm... Chàng thấy mình như vừa nhận biết một cái gì không rõ nét, một cái gì vừa thoáng hiện trong màn sương rồi mất đi. Và chàng rơi vào một trạng  thái  như  lao đao, hụt hẫng, đánh mất một cái gì, tiếc rẻ...!

Bất giác, chàng đưa tay với mạnh và chụp được một cọng hoa, vò nát trong tay rồi đưa lên mũi ngửi. Một mùi thơm tươi hoang dã được các đầu giây thần kinh tiếp nhận chuyền sâu vào lục phủ ngũ tạng. Chàng ngây ngất và khoan khoái vô cùng.

“Vô thức hủy diệt”, chàng chợt rùng mình lẩm bẩm, rồi chợt nhớ lại trường hợp của Vọng Việt bên bờ suối dạo nào. Ở yên trong nhất thể - nghĩa là giao phó trọn vẹn mọi sinh hoạt cho một sự câm lặng vô thức, không xác định sự hiện hữu của mình, không tri giác sự hiện hữu của mình - thì có khác gì giao phó sự vận hành cho bản ngã, bản năng điều động? Nhưng nếu phê phán hành động dường như tự nhiên và vô tâm ấy của vô thức thì đánh mất sự an bình linh thánh của tâm hồn? Chàng đang an nhàn giữa trời đất đầy ơn triệu này thì “ý thức” chẳng biết ở đâu lại xen vào, cắt đứt dòng trôi chảy hòa bình của tâm nội?

Có một ngụ ngôn Thiền về trường hợp này, chuyện Cóc hỏi Rết bò chân nào trước, chân nào sau. Nếu Cóc không có hỏi cắc cớ như vậy, thì dù có một trăm  chân  hay  nhiều  hơn  thế  nữa, Rết vẫn bò một cách nhịp nhàng, tuần tự, thứ lớp và suông sẻ biết bao. Nhưng khi mà Cóc đã hỏi, Rết chợt thấy mình lúng túng một cách kỳ lạ, “ừ nhỉ, dĩ nhiên khi bò như vậy hẳn  phải  có chân  nào trước, chân nào sau chứ?”

Sự vận hành nhuần nhuyễn, nhịp nhàng bấy lâu chợt ngưng tắt, Rết thấy mình hiện hữu của một đời sống phân tích, hữu lý, hợp lý, phân biệt - nghĩa là khi mà vô thức hoàn toàn giao phó nhiệm vụ cho ý thức - và nhất là sự nhiệt tình, tha thiết với mọi tương quan đồng loại, đồng chủng và sự sinh tồn - thì chắc chắn chị Rết ta sẽ nằm kềnh ra đấy chứ không còn bò vào đâu được nữa. Ý thức đã hiện diện thì có trăm vạn ngõ ngách cho nó lưu lộ, lần tìm. Nó là cái tạo tác thế gian mà đồng thời cũng là cái hủy diệt thế gian. Nó chính là sinh tử và cũng chính là tên dẫn đầu đi ra khỏi cuộc sinh tử. Đồng ý là “ý thức phải im đi”, nhưng phải im đi theo kiểu nào đó, chứ chẳng phải im đi nghĩa là nhường quyền thao túng cho bản năng. Bản năng là cái thú vật. Ta không thể tìm kiếm thú vật. Bản ngã vừa thần thánh vừa dã nhân, nhưng là hai cái gì thường xung đột - cái đẹp, điều thiện và cái xấu, cái ác - chúng thường hiện hữu thì làm sao chứng đạt trạng thái an bình bằng cách chấm dứt trọn vẹn sự tương tranh của chúng? Bình an đích thực là một cái gì khác thế? Vệ-đà có câu trả lời nào cho trường hợp này không,  bằng  con  đường  thực  sự  chứ không phải luận lý hay mặc khải?

Đêm thứ nhất như vậy là đã qua đi. Chàng chưa có một ánh sáng nào về tri ngã. Buổi  sáng, Triết  Hựu  trở dậy  hít  thở  khí trời tinh sương sau cơn nhập định dài. Chàng thú nhận sự bất lực và yếu đuối của mình khi ẩn trốn trong trạng thái chân không của tâm hồn. Sự quân bình chỉ trở lại khi dứt bặt tất cả mọi câu hỏi - nói đúng hơn là mọi tư duy, tư tưởng. Như vậy, cái bình an kia là cái sinh diệt, trạng thái chân không là cái sinh diệt!

Đêm thứ hai, Triết Hựu ngồi ôn lại các kinh nghiệm và hiểu biết quá khứ về tri ngã. Trí nhớ chàng cũng thật là tinh vi, bài học đầu tiên về tri ngã - hay là không khí, khung cảnh được ghi đậm rõ nét trong ký ức không phai lạt, lần xảy ra câu chuyện liên hệ đến vấn đề tri ngã ấy - đến với chàng gần gũi và linh động làm sao… Nơi khu vườn mùa thu khi tất cả lá cây đã ngả màu vàng úa, thì cây tùng, cây hạt dẻ trước cổng vẫn còn xanh um - là nơi mà chim chóc mười phương tụ về, hát ca và rộn rịp tung lượn. Nơi ấy một thời là của chàng, của một chú bé biết buồn sớm và khóc sớm, biết lặng lẽ, âm thầm với những câu hỏi vẩn vơ, vô căn và quá nhiều trọng lượng. Sự khổ đau đến với chàng từ mọi phía, đôi khi chỉ một lời nói nhẹ nhàng, nhưng như là một cơn gió xao, đi qua mặt hồ tự ngã,  là   có thể nguyên  do  những buổi đi thơ thẩn, tìm sự cảm thông, chia xẻ với cội cây, góc vườn, chim, hoa và bướm. Có thể là những khoảng không mênh mông thu hút chàng hơn, bao la, dịu dàng và thân thiết nữa. Tất cả chúng,  như kết hợp bởi một tình mẹ bao dung, êm đềm xiết bao! Cá tính này như một cố tật - và Vọng Việt thường nhạo báng chàng là một con người “lãng mạn”. Tại sao thế chứ? Tại sao y dám nói ta là mơ mộng, hão huyền? Ngồi một mình để cho tâm hồn được mở rộng, tung tăng bay nhảy khắp mấy từng trời, là đánh mất thực tế? Trọn đời để tâm loay hoay với những cái trước mặt, những cái nhỏ nhoi ti tiểu như thế gian là kẻ sống thực ư? Lãng mạn cũng là một hình thức “hư vô hóa cuộc đời”, y bảo thế, nhưng ta chưa một lần thấy mình sống với cái không tưởng, mà ta bao giờ cũng sống thực với những tâm niệm của ta. Kẻ tri ngã là kẻ thấy mình tương quan với thực tại, chứ không phải là kẻ chia lìa, cô lập - bạn là kẻ muốn tách lìa ra ngoài thế giới - Y lại còn bảo như thế nữa chứ! Mọi giá trị nhân bản đã nằm khuất sau cánh cửa khi tự ngã được đóng lại. Y lại còn bảo thế nữa chứ! Nhưng quả thật thì ta lúc nào cũng đang mở rộng, có thể là ta mở quá rộng để đón nhận những cái cao viễn hơn mà y không thấy chăng?

Thế nhưng, ta đã tranh luận không thắng nổi y. Và y cũng đã tranh luận không thắng nổi ta. Để giảng hòa, vị thầy khả kính của chúng ta đã bảo rằng:

-“Vọng Việt có cái thực của Vọng Việt. Triết Hựu có cái thực của Triết Hựu. Ai cũng thực cả kia mà! Nhưng nếu đã là thực cả, thì tại sao hai cái thực lại phủ quyết nhau? Ôi! Để mười năm sau các con mới hiểu rằng, cả hai nhận thức cũng không đi ra ngoài tự ngã. Cả hai nhận thức đều tự một huyền môn!”

Cái huyền môn ấy vẫn là đóng kín cửa từ bao lâu. Nhưng lúc đó, khi trở về trong khu vườn thầm lặng của mình, chàng đã buồn xiết bao, buồn như thử thầy đã không cho chàng một ánh sáng nào để rọi chiếu vào tự ngã. Câu trả lời vẫn là một cái gì thâm u và đầy bí mật. Câu trả lời đã trả chàng lại với nguyên vị bế tắc và khổ đau. Và như mọi lần, chàng lại tìm đến khu vườn màu xanh muôn thuở ấy:

“Tiếng vỗ cánh chim đêm dạ trường,

Tiếng vỗ cánh chim đêm triêu dương,

Vĩnh cửu giăng tay thiên địa tuyệt,

Mênh mang hề… mênh mang hề… thiên địa hoàn lương.”

Tiếng vỗ ấy chàng đã bao năm chờ đợi, thiên địa ấy chàng đã bao năm chờ mong! Có một sức quay nào đó đã đẩy bật chàng ra khỏi khu vườn màu xanh và nhiều chim bướm ấy. Nhưng sự huyền nhiệm đôi khi cũng xuất hiện đúng lúc - sự huyền nhiệm tưởng như là một ân sủng cao cả cứu vớt, bởi đức Krishna cũng đã  không  thường  hằng vác thập tự giá chuộc tội cho

chúng sanh trong từng khoảnh khắc đó sao? Chàng cũng đã từng hoài nghi một hiện thân siêu thế, những năng lực hoặc bí thuật cho thấy sự vô hạn của xác thân sinh diệt, vì ở đó, tuy là tự ngã hữu hạn trần gian vẫn ẳm ắp ngài, đầy tràn ngài, thở ra hơi thở chân ngã, tuôn ra cái thông linh và thông huyền của vĩnh cửu. Và ngay chính lúc chàng chờ đợi như vậy, thì Đấng ấy đã đến bên chàng trong vóc dáng một dị nhân tóc dài, hoang sơ và đầy quyền lực. Ôi, thật là hoang sơ và nguyên thủy làm sao là con người ấy, lịch sử không hề lưu dấu trên xác thân y - cả văn minh và hiểu biết nữa - nếu gọi được như thế - vào ngay chính nơi “khu vườn mùa thu” của chàng. Y ngồi đó, như từ bao giờ, trong thế kiết già, bụi đỏ, suối khe, thung lũng, dã thú, gió sương, không có đêm, không có ngày - ta có thể ngửi được ở xung quanh y mà không sợ lầm lẫn - ngửi được tất cả những thứ đó. Chàng run lẩy bẩy và hai chân như sắp khuỵu xuống - khi đôi mắt y chiếu thoáng qua chàng. Như một gợn sóng xao rồi mất - đôi mắt y chăm chú nhìn một con bướm từ phía xa - hình như có một tia lửa xanh vô hình - ít nhất là chàng cảm nhận thế - đến vây bọc bướm và kéo bướm về phía y với một đường chỉ thẳng. Qua ánh nắng mặt trời, một đám bụi phấn từ đôi cánh bướm vương vãi ra - như một dấu hiệu bất lực, thua cuộc trước một gọi  kêu  vô  danh  bất  khả  cưỡng chế. Bướm nằm im giữa không gian, đôi cánh đập mệt mỏi, nhưng khoảng cách giữa bướm và người không thể thay đổi. Chàng ngạc nhiên quá, há hốc mồm ra không còn ngậm lại được  nữa. Những quyền lực siêu nhiên đã có

thật. Chàng sững sờ và kính phục xiết bao.

- Chú nhỏ! Hẳn là chú thích trò chơi này lắm?

Vị dị nhân đã thu tia mắt lại, bướm đảo một vòng rồi lượn mất ra phía bờ rào.

- Trò chơi ư? Chẳng phải thế đâu. Đấy là cả một cái gì huyền nhiệm. Phải chăng ngài là Đấng đã làm chủ được ngoại giới, hoặc là đã tìm ra được bí quyết siêu nhiên của tự ngã, đã nhiếp phục tự ngã hay là một cái gì tương tự như thế?

- Hay lắm, chú nhỏ. Ta sẽ thảo luận với nhau ở điểm này. Làm chủ ngoại giới và nhiếp phục tự ngã nó liên hệ với nhau đến thế ư?

- Tôi không biết một tí gì về những điều tương tự - nhưng những khêu gợi từ nơi kinh điển, thầy học, cha tôi và bằng hữu - cho tôi một chút tư duy như vậy. Ồ! Điều đó sai ư? Hay cả là một sự huyền nhiệm?

- Hay lắm. Thế thì lại khác. Ta lại nói đến huyền nhiệm: Ngoại giới, tự ngã đều là Đấng ấy.

- Quả là điều mới mẻ. Vậy thì Đấng ấy có thể làm được mọi sự. Và là tất cả. Tôn giả là một kẻ đã được biểu hiện từ ngài, nên tôn giả cũng là kẻ làm được mọi sự?

- Không phải ta làm đâu. Khi tiểu ngã linh thông được với đại ngã thì vĩnh cửu, năng lực và chân phúc sẽ đến cho y.

- Vậy là tôn giả đã thành tựu được Đấng ấy?

- Đừng nói thế mà phạm đến ngài. Ta không có. Tự ngã ta không có. Tất cả đều là Đấng ấy.

- Thưa Tôn giả, hình như có một cái gì mâu thuẫn ở đây, vì Thầy tôi nói rằng: “Có vọng tưởng mới sáng hóa trần gian. Đấng ấy không vọng tưởng.” Khi Tôn giả điều khiển bướm hoặc biểu thị những năng lực siêu nhiên qua các hình tướng thế gian - Tôn giả có một mảy may tư niệm, vọng tưởng nào chăng?

Vị dị nhân cau mày, nói khẽ:

- Chú chưa hiểu được, chú nhỏ. Nhưng chú có đồng ý với ta rằng, những việc làm như vừa rồi, chẳng phải thường nhân mà làm được?

- Phải. Đấy là một cái gì không phải người, một cái gì ưu việt và tối thắng.

- Hơn thế nữa, đấy là kẻ mà tự ngã đã làm một với ngài.

- Tự ngã! Tự ngã! Bây giờ ngài hãy nói đến điều ấy: Tự ngã. Tôi thích đề tài này lắm. Vả chăng, tất cả những cái gọi là vĩnh cửu, chân phúc, đấng ấy, năng lực siêu nhiên đều có sự tham dự của tự ngã? Tôn giả ơi! Từ lâu tôi chưa được học, được hiểu nhiều về điều này: Tôi là ai? Tự ngã là gì?  Tôn giả  có thể có những

câu trả lời minh bạch về điều ấy?

- Thầy ngươi chưa dạy cho ngươi ư?

- Phải chăng đây là điều quá trọng đại so với một đầu óc nhỏ bé  và  đần  độn  như  tôi? Thầy tôi thường

nói thế. Cha tôi cũng bảo thế nữa. Và hầu như ở nơi cha tôi, vấn đề tự ngã phải để dành cho những ngôi sao diễm phúc hơn. Nhưng nếu tôi không học được nhiều lắm nơi thầy, nơi cha, thì tôi học nơi bằng hữu, nơi những vị sa-môn, du sĩ, đạo sĩ thường gặp trong rừng, trong miếu, nơi thành phố, hoặc tại đây… nơi “khu vườn mùa thu” thân thiết của tôi! Thưa tôn giả! Tôi không còn bé nữa đâu, quả thật tôi không còn bé nữa đâu!

- Ngươi hãy nói tất cả những điều tương tự như vậy cho ta nghe, những cái gì nó thúc hối bên trong ngươi, để ngươi biết rằng ngươi đã là người lớn!

- Phải rồi! Chắc chắn tôi không còn nhỏ bé nữa. Tôi đã từng lớn với đêm, với ngày. Tôi đã từng lớn lên với sự kêu gọi giục giã của hư vô đi qua thân xác, tế bào, tóc xanh và tuổi tác. Tôi không còn nhỏ bé nữa - khi nhìn những cơn gió viễn du mỗi lần tình cờ lang thang qua ngôi vườn này; qua rặng trúc đầy lá lục; để lại vài cành khô rơi, mùi hương hoang dã, sa mạc, núi lớn và sông hồ…! Chắc chắn là tôi không còn nhỏ nữa, khi đã biết bâng khuâng một ngày sao hoàng hôn lại đến  quá  sớm, bầu trời sao lại quá đỗi bao la, mùa thu sao lại quá đỗi dịu dàng… và tại sao những thiếu phụ lại nhìn mơ màng bên ngoài cửa sổ? Như thế đó, tôi không còn nhỏ bé nữa, nếu không muốn nói là đời tôi không có  sự  nhỏ  bé,  không  có  tuổi  thơ  và  sự  hồn nhiên, chỉ có khổ đau, màu vàng, ưu tư và bất hạnh - khu vườn trong tôi là khu vườn mùa thu khẳng khiu và gầy trơ những xác lá, không có một con chim nào, và hoàn toàn không có một tiếng hát bình minh vui tươi nào của chúng! Tôn giả có thể tưởng tượng đi.Ôi! Đìu hiu và thê lương làm sao, - như một nghĩa địa, như một địa cư cỏ dại mọc đầy, vô chủ và không có cả một vết chân người, một sinh vật sống, dù là một hơi thở dế giun, tĩnh vật…! Tôn giả ơi! Hãy cho tôi được học tự ngã, để tôi được biết tôi là ai, từ cõi hư vô nào mà đến, vì nguyên nhân nào mà có mặt? Lại có mặt ở đây chứ không ở một nơi nào khác, một định mệnh khác? Rồi có mặt để làm gì? Có ích cho ai không? Có hữu dụng hơn một loài rơm rác? Rồi sao lại phải bệnh, phải tử, phải già? Tôn giả ơi! Sách vở, kinh điển không trả lời rõ ràng, dứt khoát. Thầy tôi thì cứ trả lời ởm ờ, hàng hai. Cha tôi cũng thế. Những Đấng, những Vị mà tôi đã từng gặp cũng không trả lời khác hơn. Hay là vì chính họ cũng không biết họ là ai, hoặc là nguyên nhân của mọi hiện hữu! Ôi, tôi tha thiết biết là bao nhiêu về vấn đề tự ngã? Ngài, tôn giả là đấng  có  nhiều  quyền  lực,  hay  là  đã  linh  thông với Đấng ấy, hẳn là tôn giả hiểu rõ hơn ai hết cả chứ? Tôn giả là đấng không phải người, đã ở trên hết, thần thông quảng đại xiết bao, tôn giả hãy cho tôi rõ những điều trên,  vì  chưng, nó chính là cái hư vô kinh hoàng

và khủng khiếp; nó nuốt chửng tôi, và sinh thực cả thiên địa này! Hỡi ngài, hãy cho tôi hiểu tự ngã để tôi chạy thoát hư vô…

- Ngươi đã đem hư vô đến. Quả thật vậy, một ngọn gió hư vô lạnh lùng! - Vị dị nhân dịu dàng nói - Kẻ biết về tự ngã không còn những ưu tư như vậy. Chính những ý thức như vậy tách rời ngưưi ra khỏi vô biên!

- Thưa tôn giả, bởi vậy, tôi muốn tìm về ngài, về với Đấng vô biên ấy.

- Không được. Kẻ nào “dùng tự ngã” để tìm hiểu ngài là tăng thượng mạn. Tự ngã tìm kiếm Thượng đế là tự ngã đã lôi đấng linh thánh trong sạch, thanh tịnh về trong cái trần tục, nhiễm ô của tự ngã. Ngươi thật là phạm thượng!

- Ô hay! Tôi có phạm thượng bao giờ? Tôi chẳng mảy may nào tỏ ra là mình khinh mạn. Tôi thành kính tìm kiếm ngài. Vả chăng, kinh điển cũng dạy rằng, tự ngã là Đấng ấy? Vậy thì muốn tìm kiếm ngài phải cần biết tự ngã hoặc dùng tự ngã chứ!?

- Phải nói ngược lại: “Đánh mất tự ngã thì Đấng ấy mới hiển lộ.”

- Đánh mất tự ngã? Thượng đế ôi! Làm thế nào để đánh mất tự ngã, khi ý niệm đánh mất đã là tự ngã rồi?

- Cái trò  lý  luận  trẻ  con. Đây không  là lý luận mà là cái gì siêu việt hơn thế. Là thực chứng. Chú nhỏ! Chú có cần thấy rõ cái kinh nghiệm đánh mất tự ngã không?

- Ôi! Tuyệt vời xiết bao! Muốn lắm chứ!

… Triết Hựu chợt rùng mình rồi nhìn ra màn đêm. Và bây giờ thì đêm đã khuya lắm rồi. Những hồi tưởng của chàng bị đứt đoạn do một cái rùng mình từ quá khứ hiện khởi về. Cái rùng mình đã gần mười năm mà cường độ như còn rung động mãnh liệt cả châu thân. Như còn tiếp diễn mãi, vận hành liên lỉ theo dòng trôi chảy ngấm ngầm của vô thức. Chàng không còn nhớ rõ vị dị nhân đã làm gì sau khi bắt chàng ngồi kiết già trước mặt… Rồi đột nhiên, như một luồng điện cực mạnh truyền khắp các tế bào, rồi chàng bất tỉnh - bất tỉnh trong một trạng thái sáng suốt - Và khi ấy, có phải là kinh nghiệm đánh mất tự ngã chăng mà mọi ý thức về ngoại giới hoàn toàn vắng mặt, chỉ có một cơ quan nào đó ở phía bên trong, bật hé một cánh cửa để phát lộ vùng câm nín ngàn đời của vô thức… Một thứ ánh sáng trong và vàng pha rọi trên những hình ảnh những khuôn mặt, những cảnh đời… Thứ lớp, thứ lớp từng chiếc ảnh được trải ra, bức khác kế tiếp, tuần tự thay đổi nhau đi qua, đi qua… Đây là một cuộc đời. Đây là hai cuộc đời… Khi là người cùng đinh, khi vua quan, trưởng giả, con gái, con trai, giữa chiến trường, trong lò thiêu súc vật, trong ngục hình, hoan lạc, tử biệt sinh ly, đầu rơi máu chảy… Mỗi cuộc đời mỗi khác. Mỗi hình thể mỗi khác. Giàu sang, hạ liệt có khác. Nhưng vẫn có một cái gì chung chung, nền tảng, như chỉ từ một chiếc khuôn duy nhất nhưng sự sơn phết, bồi đắp mà dị biệt… Cái ấy nó không hề hủy hoại qua các cuộc diệt sinh, thăng trầm. Cái ấy là gì? Là cái thâm sâu nhất, cái linh hồn, cái chủ tể, hoặc là tự ngã nguyên vẹn sơ thủy chăng?

Sau giây phút ấy, chàng đã ngồi yên, bất động, bàng hoàng… Một tình cảm mâu thuẫn, nửa sợ hãi, nửa bình an - nửa xót đau, nửa hoan lạc trộn lẫn trong đám sa mù hỗn mang. Tuy thế, có cái gì đổi khác và mới lạ quá. Ôi, cái kinh nghiệm ấy quý giá làm sao - nếu không do quyền năng hoặc huyền nhiệm - thì làm sao chàng tìm ra được dù lặn lội một đời?

- Hình ảnh nào cũng là ngươi cả, có phải vậy không? Nhưng không thể xác định rõ ràng cái nào là ngươi cả! Điều ấy xác nhận ngươi không thật hữu - ngươi là những cái gì bao che, cái gì vay mượn từ lục đại, đóng vai các vở tuồng, gỡ khuôn mặt này khoác khuôn mặt khác, có phải thế không? Nhưng trong sự đổi thay, sinh diệt ấy; vẫn có một tồn tại tính; vô diệt, vô sinh, thường hằng, bất biến - cái ấy cũng là tự ngã nhưng không còn tên là tự ngã nữa. Ngươi là cái ấy, là Atman, là chân như !(Tat tưan asi) Vị dị nhân sau tiếng nói  thoảng  đã đi mất. Triết

Hựu bần thần như vừa ra khỏi cơn mơ. Phải, chỉ như là cơn mơ thôi. Y đã đến, đã đi, hiện hữu ở đây, hữu hình, hữu thanh - mà vẫn như chưa hề có mặt! Không còn dấu vết gì ở nơi này cả: khu vườn mùa thu vẫn chim và lá xanh, ngôi nhà nằm khuất phía sau vẫn tịch mịch, lặng lẽ. Không có gì khác. Có gì vừa xảy ra trong tâm chàng, với kinh nghiệm thoáng thấy như thực như hư kia - là khác với cuộc đời cũ xưa trước mặt? Tuy chưa giải đáp cho chàng hết mọi nguyên nhân khổ đau, nhưng ít nhất chàng đã thấy rõ mình: phải bị đày ải qua các kiếp sống, phải chịu luân hồi trong các cõi, trong những xác thân trần tục, phải nhận chịu định luật nhân quả nghiệp báo đắng cay. Niềm tin đã đến với chàng - nhưng là niềm tin xót đau quá! Nếu sự thoát ra, bước ra hoặc cởi bỏ được định mệnh kia là trở về với nhất thể - thì tại sao, trước đó, từ một sơ thủy xa xăm nào, y lại từ chối nhất thể và ra đi? Y phải cần học điều gì, trải qua kinh nghiệm nào, hay chỉ ở trong một thời gian lưu đày hạn lượng? Và mỗi sinh mệnh, trên lộ trình thống khổ kia, có tự chuyển hóa mình một cách tức khắc, quy hồi trong một  sát-na quê  hương  xưa, từ đó y lưu lạc? Cái vọng tưởng nào lôi kéo y ra đi? Hay y bị đẩy bật ra từ sức ly tâm vũ cuồng của dục tính? Nếu đừng đi, đừng về thì có hơn không? Trải qua một cuộc hành trình vào viễn  mộng  vô ích, vô vọng và đầy máu  xương để  rồi cuối cùng - lại tìm về sự nghỉ ngơi và an lạc ngay từ điểm mà nó ra đi! Kinh nghiệm mà vị dị nhân cho chàng quý báu quá, nhưng đồng thời lại bóc trần truồng, trải ra trước mặt chàng những sự thật không dám nhìn nhận, tủi hổ, khôi hài và bi thảm làm sao! Nếu bảo Thượng đế sáng hóa trần gian - hàm nghĩa là Thượng đế đã vọng tưởng - thì quả thật, ngài đã bày ra cái trò chơi “bất khả tư nghị”. Cái trò chơi gì kỳ lạ quá! Sáng hóa trần gian rồi lại phải mất công đi cứu chuộc, lặn lội tử sinh để đem cháu con lưu lạc trở về! Khi trở về hết, và có lẽ không có việc gì làm, ngài lại cho chúng ra đi? Và cứ thế, cứ thế - đấy là trí tuệ của ngài, là đại bi của ngài? Cái công của ngài không đủ đền bù cái tội, cái tội là để cho cháu con ăn nuốt nhau, chém giết nhau, thù hận nhau! Cứ thế - cứ thế - và là cái trò luẩn quẩn loanh quanh làm sao?

… Những đêm tiếp theo, Triết Hựu đắm mình trong những câu hỏi tương tự. Rồi Tri Ngã là biết về tự ngã như vậy, biết là nó có vô biên tính, Thượng đế tính, biết là nó vừa diệt sinh vừa trường cửu. Là Atman và Bràhman. Nhưng cái biết này không do luận lý, suy lý - không do tri thức mà do cảm nhận của trực giác. Câu chuyện hạt muối bỏ trong nước của Áo-nghĩa-thư nhằm giải thích trường hợp này, nhưng sự giả thích ấy thiếu sót làm sao, nếu không muốn nói là ngây thơ nữa. Muối  bỏ  trong nước, muối tan. Muối vẫn có đấy nhưng ta không lấy ra được: Đấng ấy cũng có đấy nhưng ta không tri nhận được. Nhưng khi ta không tri nhận được bằng cảm giác thì ta tri nhận được bằng tri giác. Nếu ta không tri nhận được bằng tri giác thì ta tri nhận được bằng cảm giác. Tri giác và cảm giác chúng có từ một chủ năng. Ta không tri nhận được muối nhưng ta cảm giác được muối: Ta nếm được muối nghĩa là ta vẫn cảm giác được Đấng ấy! Ngay khi chàng thấy rõ mình đi qua từng cuộc đời trong những hình thức khác nhau, quả thật mọi ý thức quan năng đều vắng mặt - thì cái biết ấy là gì? Phải chăng là của một cái gì siêu việt hơn cả lý trí, là trực giác, đôi mắt thứ ba, đôi mắt tâm linh, đôi mắt vô thức? Nhưng dù là đôi mắt nào đi nữa cũng không thoát ra được ngoài tự ngã. Vẫn có sự tham dự của tôi, của tự-ngã-tôi! Sự tìm kiếm của chàng, nỗ lực của chàng rồi để hoàn trả về với chính chàng: Cái tôi, cái tự ngã lung linh, chập chờn, không biết là thực, không biết là hư, ở đây mà không biết là ở đâu, chụp bắt không được, sờ mó không được!

Bao tháng bao ngày tiếp theo, chàng cũng không ngớt kiếm tìm tự ngã.  Vị Thầy khả kính của chàng ân cần trả lời:

- Làm sao mà tìm ra được tự ngã hở con, như muối tan trong nước, con có thể lấy ra được đâu!

 - Con không tin là con không thể tìm ra được tự ngã, khi biết rằng nó có ở trong con! Vẫn có cái gì như là tự ngã chứ?

Chàng lại lẩn thẩn hỏi. Vị Thầy vẫn nhẫn nại trả lời:

- Cái mà con gọi là tự ngã - đấy là cái mà con vay mượn được của màyà: Nhận thức, ý thức, tư tưởng, trí khôn, kinh nghiệm, thói quen, ký ức, tập quán… Đã là vay mượn thì chẳng phải là cái chân thật, cái có sẵn, đến một lúc nào đó con phải hoàn trả lại. Của màyà thì phải trả lại cho màyà. Của César thì phải trả lại cho César. Địa, thủy, hỏa, phong, hư không và thức là cái cần phải trả về trước khi đến quê hương. Cái mà con không hề trả về, cái ấy là của con, là sơ thủy của chính con.

- Vậy thì vẫn có tự ngã. Cái ấy gọi là tự ngã đó chứ!

- Tùy ý con. Nhưng cái ấy không tên gọi, nó phải được thể hội trong im lặng và vô ngôn. Nó ở ngoài thế giới danh ngôn, biểu tượng.

- Nó phải ở trong cái biết không hở thầy?

- Phải nói như thế này: Cả cái biết và cái không biết cũng không ở ngoài cái ấy.

- Sao kỳ vậy, kể cả cái “không biết” ư? Có ví dụ nào để minh thị điều này không hở thầy?

- Có chứ. Này, con hãy nghe!...

“Có một người con trai bà-la-môn ham muốn sự hiểu biết. Hôm nọ, người cha thông thái, hiền triết gọi y đến rồi cho y mười hai năm lương thực để đi tầm sư học đạo. Người con trai đôi mắt mở rộng, vừng trán sáng ngời tin tưởng, hớn hở lên đường. Và sau mười hai năm, y trở về.

- Sao con? Thế là con đã học hết tất cả mọi trí khôn của nhân loại?

Người con trai từ tốn trả lời:

- Thưa cha! Quả thật, con chẳng dám vọng ngôn để trả lời rằng là không phải.

- Ôi! Quý hóa thay, hiền nam tử. Vậy ra con đã thu trí khôn của nhân loại vào “trong cái biết” của con!

- Thưa cha! Quả thật vậy!

Người cha là bà-la-môn thông thái chợt mỉm cười rồi cất giọng trịnh trọng:

- Nay ta cũng cho con thêm mười hai năm lương thực nữa, để đem “cái biết” ấy - cái biết quán thông kim cổ của con - để học “cái không biết”!

Người con trai ngạc nhiên, lắp bắp:

- Học cái không biết? Thưa cha, đúng là học cái không biết đấy chứ?

- Đầu óc cha cũng chưa đến nỗi lầm lẫn để không biết ý mình muốn nói gì. Phải rồi, đem “cái biết để học cái không biết”, cha cũng cho con thời hạn mười hai năm!Người con trai thông thái im lặng giây lâu rồi trả lời:

- Không những con mà cho chí cả nhân loại này, những đầu óc thiên tài, vĩ đại nhất, uyên thâm nhất hoặc bác học, mẫn tuệ nhất - thưa cha - cũng đành chịu thôi - chẳng thể học cái không biết.

- Thật vậy sao, con trai yêu quý?

- Quả thật vậy, thưa cha, xin cha hãy dạy con. Cha hình như muốn dạy con điều gì?

Bây giờ người cha mới cất giọng ôn tồn, nhỏ nhẹ hỏi con:

- Con học để làm gì? Ý cha muốn hỏi về cứu cánh của sự học?

- Để biết về tự ngã. Để tìm về ngài.

- Vậy thì con hãy ra vườn hái một trái sung!  Người con trai y lời.

- Con hãy bổ trái sung ấy ra.

Người con vâng theo.

- Con thấy gì trong đó?

- Những hạt nhỏ lăn tăn.

- Bây giờ con lấy một lưỡi dao nhỏ hơn rồi bổ cái hạt lăn tăn ấy ra làm hai nữa.

Người con ngạc nhiên làm theo.

- Con thấy gì trong đó?

- Con không thấy gì. Chỉ là cái “trống rỗng”.

Người cha hiền triết nhìn con thật là âu yếm:

- Con ơi! Cái ấy! Con chính là cái ấy!”

… Vị thầy kể xong câu chuyện, im lặng. Triết Hựu cũng im lặng. Hồi lâu, chàng dè dặt hỏi:

- Như vậy, cái ấy ở ngoài cái biết?

- Hơn thế nữa, ở ngoài cả cái không biết.

… Câu chuyện được ôn lại của mười năm học đạo đã đưa chàng đến bờ tường, đến vực thẳm! Chàng cứ loay hoay mãi về “cái biết” của mình, về tri ngã, trong lúc cái ấy, Đấng ấy, chân ngã ở ngoài mọi cuộc đuổi bắt. Hầu như cả trọn ngày, trọn đêm - chàng treo sinh mệnh mình ở nơi cái mốc điểm tối hậu đó - ở nơi sợi chỉ mỏng manh không có một điểm tựa nào còn lại giữa hư không. Vật thực chàng dùng rất ít. Và hình như ở giai đoạn này, nhu cầu ăn uống không còn cần thiết cho chàng lắm. Chàng đã đầy ứ ở bên trong. Đã ngột ngạt. Tri ngã là tri cái gì? Câu hỏi vừa là đầu tiên vừa là tối hậu đó, cần phải được lưu thông, cần phải được khai dẫn, không thì chàng sẽ bị vỡ tung ra, như một quả bong bóng mà sức căng đã đến độ chót. Trọn vẹn kinh điển Vệ-đà không có tia sáng nào để chọc thủng qua bức tường đen nghịt tối tăm kia, để chàng liễu thông cái ấy, tìm ra chính mình, tri ngã. Tất cả mọi kho tàng trí khôn của nhân loại đều thuộc về cái biết, cái phải bị trả về, nghĩa là cái tử sinh, luân hồi, vay mượn trong các kiếp đọa đày. Thể hội chân ngã, nghĩa là tri  ngã  trọn vẹn, phải vượt qua cái biết và cả cái không biết, rồi dung  nhiếp  hài hòa  luôn cả hai thực tại tương xung ấy!

Ôi! Thế  nhưng, những  điều ấy nó có nằm ngoài cái biết đâu!

Triết Hựu xả thiền và đứng dậy. Thật ra là chàng xả tư duy. Đầu óc chàng lùng bùng khó chịu. Bên trong hình như sắp bung ra, vỡ ra, nứt ra. Chàng thở một hơi dài và theo thói quen, chàng lại tìm về sự an trú trong cõi vô duy. Chàng để tâm nhẹ nhàng trôi chảy, không cố gắng, không tập trung tư tưởng, không phản kháng, không cưỡng bức mình, kiếm tìm, phê phán… Chàng để cho những tâm niệm tuần tự đi qua. Rồi chàng hướng ra phía con đường, bước đi, dưới ánh trăng lung linh. Chàng đi. Thế thôi. Không hề chuẩn bị, mục đích, tác ý. Chàng đi, như một chiếc xác mộng du. Không có một ý chí nào. Cơn gió núi mát lạnh thổi qua, rì rào, rì rào. Chàng hầu như biết mà không biết. Hay có thể là cái biết ấy cũng trôi đi ngay như đám mây đi qua mặt hồ. Cái giây phút vô duy trong chân không khác với cái vô duy của ý thức. Chân không thì toàn vẹn là vắng bặt, ngưng dứt ý thức. Vô duy của ý thức là cái hoàn toàn không có chủ tâm, không có ý thức tư duy về đối tượng, ngoại cảnh và nội tâm đều hiện hữu, nhưng là hiện hữu hòa bình, không phân biệt, nhận thức có duyên cảnh, hiện lên. Nhưng  hiện  lên  rồi diệt, không thử hỏi vì sao, không hề nghĩ đến nguyên nhân và hậu quả. Cả cái biết và cả cái không biết đồng có mặt nhưng nó không kích bác  nhau,  xâm  lăng  nhau.  Ôi! Chắc  chúng đã nhìn nhận ra là chúng cùng một mẹ, một cha, cùng tổ tông, gốc gác. A, kinh nghiệm gì đây, ngay giây phút này, trong chàng có đầy đủ cả cái biết và cái không biết! Chàng ngồi lại. Như một cái gì lóe sáng lên, sáng làm sao, sáng lạ lùng. Màu xanh biếc xẹt qua tâm thức. Cái gì đây? Bầu trời như đổi khác, trong, xanh và cao hơn? Cây cối, vạn vật huy hoàng, rõ nét và gần gũi hơn? Chúng hiện hữu như là “chúng là”, nguyên vẹn, trinh tuyền, sơ khai, không bao che bên ngoài một nhãn hiệu nào cả, chưa ai phết lên đấy một lớp sơn - lớp sơn tên gọi và chữ nghĩa, ý nghĩa - nguyên thủy “như thời tượng”, bởi sau thời tượng là tử sinh:

Ngàn xưa ai gọi danh

Thân gầy con nước trôi

Ngàn xưa ai gọi danh

Bến vàng sinh tử trôi...

Triết Hựu chợt run bắn người lên khi thấy tất cả đều đổi mới, như sau một cơn mưa, mọi sự đều tạnh ráo - câu hỏi, tư duy và sự khổ đau - tất cả đều tạnh ráo. Cả pháp giới đều sạch trơn, bóng lộn. Màn đen của đêm cũng bóng lộn. Các vì sao pha thêm lân tinh, nhấp nháy, mỉm cười, mời gọi… A! Cái gì đây chứ? Kinh  nghiệm  gì  đây  chứ? Phải chăng chàng vừa thể hội được cái vẹn toàn?

Triết Hựu mỉm cười sáng láng rồi ngồi im, đầy tròn, no  đủ. Chàng  nhắm  mắt  lại. Nhắm mắt lại rất lâu. Rất lâu. Cái gì đây chứ? Mới lạ làm sao? Ta đã thật sự tri ngã chăng? Hay là đã thể ngộ cái ấy? Và cái ấy là trọn vẹn con người chàng? Những thao thức, đau khổ, bất an đầu đời, những thánh thiện, tội lỗi, hối hận… kể cả những giọng nói, tiếng cười, những khuôn mặt khác nhau, kỷ niệm, thói quen… Tất cả như những giọt nước kế tiếp nhau trôi chảy. Và chúng lại liên kết với nhau thành một dòng liên tục. Thế nhưng, ngay giây phút này đây, chúng không mảy may liên hệ gì đến chàng hết, đến chân ngã thâm sâu. Chúng qua lại như đám khách trần. Chúng ở trọ vội vã rồi ra đi. Rồi người khách khác lại đến, phong trần có, phong lưu có, hiệp khách có, thi nhân có, đạo sĩ có, sa-môn có, thiên đường có, địa ngục có, súc sanh có, ngạ quỷ có, hân hoan có, hớt hải có, trầm mặc có, nghiêm trang có… Họ đến rồi họ lại lên đường, vô định và không dấu tích. Đôi khi còn lưu lại một vài giọt lệ, vài tiếng cười, nhưng rồi cũng mất, cũng quên. Chàng là quán trọ bên cầu, chứng nhân còn lại, bất động giữa những bể dâu, an nhiên giữa bão tố, im lặng giữa những loạn động hãi hùng. Như một chứng nhân đời đời vô địch, lạnh lùng như một đỉnh núi đá - thu dọn,  vun  quén  lại  chiếc  sân đổ nát, sửa sang lại con đường - rồi chờ người khách khác đến. Rồi họ lại ra đi. Chàng đã từng nghe người ta kể - trong đám khách giang  hồ ấy - về  từng  cuộc  đời, chí  lớn, thành bại, mối tình thiên thu, chén rượu, cuộc cờ, niềm tin, thủy chung và sự phản trắc… - đôi khi cũng ngậm ngùi một chút, chia xẻ với họ một vài cái nhìn cảm thông, cạn với họ một vài chén trà giữa những đêm trường khuya khoắt…

Họ đến rồi họ đi. Chỉ riêng chàng là kẻ chưa hề đến chưa hề đi! Chúng sinh chúng diệt nhưng chàng là kẻ chưa hề sinh, chưa hề diệt! chân ngã chàng vốn đã vĩnh cửu và bất tử từ bao giờ!

Bình minh cũng vừa mới lên. Suốt đêm chàng đã

không ngủ được. Không cần ngủ. Chàng hân hoan hướng đến mặt trời, hít mạnh một hơi thanh khí vào buồng phổi… “Ta hít cả phương đông vào cơ thể nầy. Ta hít một hơi là ta đã thu gọn hằng hà sa số nền minh triết, mặt trời và mặt trăng vào trong một hạt trần vi. Vô lượng hạt trần vi ta kết tụ lại vào trong một mảnh lân hư trần. Và ngay cả một phần triệu của mảnh lân hư trần này cũng không còn dính trong buồng phổi của ta. Ta thổi chúng. Ta thở ra. Ta quẳng hất chúng về với pháp giới như thị. Ta rỗng rang. Ta phản bổn hoàn nguyên. Ta còn lại cái không hề trả về. Ta tự do tối thượng và hoàn toàn giải thoát.”

Và rồi chàng hát.  Hát  về  cái  giờ  tìm gặp lại cái quê hương đã từng lưu lạc. Hát về cái giờ "hội quy nhất thể" ấy.

Lạc thú thay vũ trụ này dừng lại

Lạc thú thay nỗi tịch mịch khôn cùng

Tiếng hát nay đưa ta về với nhất thể vô chung

Ta hóa hiện thành vô lượng vi trần cõi Phật

Dòng sông lớn chảy trong ta

Cả đại hà ngưng tịch

Sát na tâm hóa hiện chắp tay chào

Ta quỳ xuống và chiêm ngưỡng ngôi sao

Ôi! Vạn trần nguy nga bừng thánh thể

Trái đào tiên cắn say và nhạc trời thiên nữ

Bừng mắt xanh rọi suốt cõi vô cùng

Ôi Phật quang và Như lai hóa thân

Từ không luân về nhất điểm

Từ huyền hữu tuyệt diễm

Có ta chờ thắp sáng cõi trần sa

Nam thiệm bộ châu

Bắc cu lưu châu

Tây ngưu hóa châu

Đông thắng thần châu

Quỳ cả xuống

Nhạc hoa đàm suối sao lưu ly

Ta đã kinh hành qua tám vạn địa ngục a tỳ

Cũng đã kinh hành qua hằng sa thiên đảo

Nơi nào cũng diễm ảo

Nơi nào cũng bồng lai ngọc nữ khúc nghê thường

Hoan lạc trong ta

Mặt trời và triêu dương.

Lớn dậy từng hàng hiện thân Bồ tát

Ta thuyết pháp ở cung trời vô sắc

Tượng đá thành nước mắt

Và hư vô thành lá xanh

Ta xâu ý tưởng thành chuỗi ngọc châu, anh lạc

Cúng dường cúng dường tam thân

Cúng dường cúng dường vô lượng vi trần

Và tam thiên Phật sát

Trời sắc giới ta làm con thuyền nhỏ

Chở mấy triệu kim cang

Về xây thành Phật trí

Ta đã vô ngại dạo chơi trong thánh đế

Rồi cũng vô ngại giã từ

Ta vượt mây chạy qua đông hải thăm diệu âm

Chạy về Đẩu-suất cười Di Lặc

Vũ trụ hãy nghe ta

Giờ là giờ huy hoàng Phật nhật

Ta chống tích trượng gõ cửa Diêm đình

Tuyết làm tan lửa đỏ

Vũ trụ hãy nghe ta

Giờ là giờ ngọ

Từ hội quy để đi đến vô quy

Vô lượng nghĩa cũng là vô lượng bất tư nghì

Bến diệu trạm

Thuyền không tải nguyệt…

Hát xong, chàng cất tiếng hú dài. Tiếng hú như được kết tụ từ vô lượng kiếp tích uất, tăm tối, si mê, đảo điên - nay đã phóng vọt, tuôn trào – thành một cơn lốc mạnh, rì rào… rì rào, xa dần… xa dần… chạy qua rừng, qua suối, qua núi, qua khe - xuống bình nguyên, làng mạc, đại dương - rồi mất tích. Vô thanh. Rồi nhập thể vào mười phương cõi.

Rồi chàng hòa tan. Hòa tan. Không còn một trọng lượng nào về chân không. Những đốm sáng của chân không bắt đầu thu nhỏ lại. Chỉ còn như đầu mũi kim. Rồi mất. Ý thức chìm dần vào vô thức. Một  trạng thái ngây ngất từ trung tâm điểm của thần kinh hệ tỏa ra, lan ra, thấm lần đến từng chân tơ kẻ tóc. “Một trạng thái tịch diệt niết-bàn”. Chàng xuất thần, nhập đại định.

Triết Hựu đứng bất động như vậy trước cửa miếu rất lâu. Rồi kéo dài cả hai hôm. Khi chàng mở mắt ra thì một ngày mới đã lên. Tri giác và cảm giác bắt đầu trở lại. Bây giờ, cả vũ trụ như chỉ hiện hữu có một mình chàng. Núi Tu Di nằm dưới thấp. Chân chàng được mọc từ địa ngục a- tỳ mà đầu chàng đụng đến cõi trời phi tưởng. Hai tay chàng sờ Tây cực bên này và Đông cực bên kia… Chàng cao chớn chở, cao uy nghi! Chàng to lớn đứng chật cả ba ngàn cõi!

Chàng nghĩ là mình đã về đến đích, xôn xao đã lắng dứt, tử sinh đã yên nghỉ. Triết Hựu định quay vào miếu để an hưởng trạng thái “giải thoát” thì nghe tiếng gọi liên hồi từ đồi cao đổ xuống…

-Bràhman ơi… ơi! Bràhman ơi… ơi!

Bràhman! Tại sao ai lại gọi Đấng ấy như vậy? Phút chốc, một người thanh niên vận khố, tóc rủ xuống vai, hàm râu quai nón, tay cầm một chiếc roi sồng sộc chạy đến.

- Tỷ-kheo! Người có thấy con Bràhman của ta chạy qua đây không?

Triết Hựu há hốc mồm:

- Con Bràhman? Tôn huynh muốn nói gì?

Gã thanh niên đập mạnh cây roi xuống đất, mắt nhướng lên, hét lớn vào tai chàng:

- Con Brahman! Tỷ-kheo, người có điếc không?

- Nghe rồi. Tôi nghe rồi, thưa tôn huynh. Nhưng tôi chưa hiểu rõ tôn huynh muốn ám chỉ gì khi gọi là con Bràhman?

- Ám chỉ cái gì đâu. Con Bràhman thì ta gọi là con Bràhman...

Nghĩ mình là một con người đã giác ngộ, nên Triết Hựu ôn tồn hỏi lại:

- Tôi hiểu là tôn huynh đã gọi đúng tên con Bràhman không lầm lẫn và chẳng ám chỉ gì. Nhưng tôi xin thưa là, tôi không biết con Bràhman là con gì, vì người ta thường hiểu theo tính cách tượng trưng, quy  ước  với  nhau  tự  ngàn xưa thì Bràhman là Đấng ấy, Đấng sáng tạo chủ, hóa sanh chủ…

- A! Vậy hả? Vậy hả? - Người thanh niên chợt cười ồ ề - Xin lỗi, xin lỗi ngài tỷ-kheo!

Triết Hựu cũng cười:

- Vậy ra tôn huynh cũng là đạo sĩ, đang đi tìm Đấng ấy, đang gọi kêu Đấng ấy?

Người đàn ông cau mặt lại giận dữ:

-  Đấng ấy à, Đấng Bràhman ấy à? Nó đã hành hạ ta khổ sở hơn nửa cuộc đời... Ta giận quá nên ta đã đặt tên cho con cừu của ta...

Triết Hựu lại một lần nữa há hốc mồm ra.

Người thanh niên huơ mạnh chiếc roi giữa không khí:

Ngài tỷ-kheo! Đừng nói tiếng Đấng ấy với ta.  Ta không có Đấng ấy. Đấng ấy chính là ta. Ta không cần Đấng ấy. Thôi, ngài tỷ kheo! Ta không nói nữa. Đấng ấy đã làm ta thành nửa điên, nửa dại...

Triết Hựu nhủ thầm: tự chủ, tự chủ. Rồi nói:

- Xin tôn huynh hãy nói nữa đi! Tôi xin rửa lòng để lắng nghe tất cả những điều ấy.

Chợt nhiên người thanh niên cười ha hả, cười hinh hích rồi lại cười khà khà. Cười đến chảy nước mắt.

- Ôi chao ôi, ngài tỷ-kheo, người tốt lắm! Ôi chao ôi, ngài tỷ-kheo, người tốt lắm. Nhưng để ta coi như thế nào đã...

Người thanh niên đứng dậy, chậm rãi phủi những vết dơ dính dưới khố, sau lưng - rồi đến gần bên Triết Hựu. Y đưa  mắt  nhìn  ngắm  chàng, từ đầu đến chân.... Sau đó, thân thiện kéo chàng ngồi xuống, cặn kẽ hỏi về tất cả mọi kiến thức, tư duy mà chàng đã tích luỹ được... Người thanh niên lại càng chăm chú hơn khi nghe đến những sở đắc mà chàng đã chứng nghiệm...

- Bạn lành! Bạn đã đi lầm đường!

Người thanh niên đột ngột cất tiếng, giọng nói không có vẻ gì là bỡn cợt cả.

- Xin tôn huynh cho biết cao kiến? Triết Hựu dịu dàng hỏi.

Người thanh niên lại xẵng giọng:

- Thật may cho ngài đã gặp được tôi... Nhưng bây giờ thì ngài hãy bỏ đi những từ kiểu cách như cái “tôn huynh” và cái “cao kiến” ấy đi!

Triết Hựu lặng người, quả thật là chàng đã sử dụng những từ có vẻ quá khách sáo... Bèn nói:

- Vâng! Vậy thì xin huynh đài chỉ giáo? Huynh đài bảo tiểu đệ đi lầm đường? Quả thật là có thể biết rõ có con đường không lầm và có con đường để lầm?

- Dẹp đi! Xưa lắm rồi. Đừng nhai lại cái luận điệu ấy nữa. Đừng bắt chước cái luận điệu ấy nữa. Thiệt là xưa như trái đất!

- Xin huynh đài…

- Dẹp đi! Cái đó cũng dẹp đi nữa! Nào là huynh ông, huynh đài, tệ sĩ, tiện sĩ, hiền sĩ, tôn giả… Những cái kiểu cách ấy! Những đống phân chữ nghĩa, văn vẻ, khách sáo ấy - vứt đi! Quí nhau lắm thì dùng huynh huynh đệ đệ là được rồi. Nói đi! Muốn nói chi thì nói. Tất cả đều được phép nói, được quyền nói. Nhưng nói sao cho nó dễ nghe, cho nó thảnh thơi, đừng gò bó trong danh từ, chữ nghĩa. Đừng lý luận. Mà nói thật, nói thăng, nói từ trong ruột nói ra. Nói từ tim từ óc. Nói đầy tràn. Nói chất ngất. Nói chân thật. Nói chân tình. Nói tuốt luốt. Nói đi. Nói đi. Ngài tỷ-kheo! Người bạn lành!

Người thanh niên nở nụ cười thật hiền. Triết Hựu nghe mát lòng mát dạ vô cùng. Và cũng gần gũi, thân thiết người thanh niên kỳ lạ này vô cùng. Gần gũi, thân thiết, yêu thương nhau đâu từ trong vô lượng kiếp.

- Huynh bảo rằng tiểu đệ đi lầm đường?

Người thanh niên kéo chàng ngồi xuống:

- Phải. Lầm đường thì chắc chắn rồi... nhưng để đó rồi hẵng hay...

Nói xong y đưa mắt nhìn quanh quất:

- Mà này bạn lành ơi! Đã đến giờ ngọ của tỷ -kheo rồi đấy. Chắc không có gì ăn cả đấy chứ?

- Tiểu đệ nhập định chẳng biết.. đã mấy hôm nay rồi.

Người thanh niên cười lớn:

- Phải mà. Phải mà. Ta nói có sai đâu! Nhập đại định, chứng ngộ nhất thể, thể nhập cái ấy chớ gì? Hỏng. Hỏng. Cái ấy có “xơ múi” gì đâu? Tàn đom đóm mà tưởng mặt trời. Hỏng!

Triết Hựu tuy ngạc nhiên nhưng cũng chỉ mỉm cười thầm thôi, chàng nghĩ “ai ăn, người ấy mới biết no!”

- Người em! Đợi một chút nghe. Để lão huynh đi kiếm cái ăn. Một lát thôi. Cái “ghê gớm” kia chẳng “ghê gớm” gì đâu!

Triết Hựu rùng mình, chưa kịp hỏi thì y đã phóng nhanh vào rừng, khỏe như một loài thú núi. Một hồi sau y mang về rất nhiều trái cây và củ rừng.

- Ăn đi, người em, lão đệ! Những thứ này ở “Cuồng phong lâm” của ta đều có sẵn! A! mà này, lão đệ! Con Bràhman của ta đã trở về, ta đã xiềng nó lại. Ta đã xiềng “Đấng ấy” lại!

Cả hai vừa ăn vừa nói chuyện.

- Thế nào là con Bràhman? Và thế nào là “Cuồng phong lâm”? Lão huynh giải thích đi chứ?

- Í à! Xin lỗi! Xin lỗi người em thật tình - y xuýt xoa - Ta có một con cừu, và ta đang dạy cho nó cách làm sư tử, và ta đặt tên cho nó là Bràhman. Ồ! Giản dị vậy thôi! Giản dị xiết bao! Vả chăng, Đấng ấy cũng có hai bản tính, vừa cừu non vừa sư tử? Trong sư tử có cừu non và trong cừu non có sư tử. A! Mà sao ta triết lý ba xu làm gì vậy cà? Ồ! Con cừu của ta, mỗi lần ta dạy  cho  nó  cách  làm sư tử trông nó ngô nghê không chịu được. Ngô nghê quá xá cỡ! Ồ! Là cừu thì y cũng chỉ là cừu thôi, mỗi thứ, mỗi loại vẫn “có cái gì là của chính hắn chứ” Ồ! Sao ta không để cho “hắn là chính hắn?” Đây là chuyện Bràhman. Còn chuyện “Cuồng phong lâm” nữa nhỉ. Người ta thường gọi lão huynh đây là Quái-đầu-đà. “Quái” thì phải ở với “Cuồng” thôi, có phải? Giản dị thế thôi!

- Gọi cừu bằng tên của Đấng ấy là điều khiếm nhã, nếu không muốn nói là xúc phạm đến ngài. Tại sao lão huynh không dùng một cái tên khác?

Triết Hựu thấy mình cũng thích dùng chữ “lão huynh”, “lão đệ”, và dùng lúc nào không hay.

- Tại lão đệ chết nơi danh từ, chữ nghĩa. Còn lão huynh là kẻ đã vượt qua, đã bỏ chúng mà đi. Tại lão đệ còn dính kẹt nơi hình danh và sắc tướng, còn ta là kẻ đã ở ngoại mọi chân trời! Thôi. Mà khoan đã. Chuyện ấy để sau. Lão đệ hãy ăn đi, ăn một bụng cho thiệt no. Cái rồi còn đi tắm nữa. Lão đệ có ngán tắm không? Tắm cho nó sạch sẽ mát mẻ. Mà tắm cũng là tự “tướt mình ra khỏi mối tình đất” hoặc là để cho lỗ chân lông tiếp nhận nguyên khí của trời đất. Tắm không? Bên kia có một con suối. Ồ! Thần tiên làm sao.  Ngọt lịm.  Ngọt  không  chịu  nổi. Mà  trong cũng không chịu nổi. Ồ. Đẹp cũng khiếp đảm. Cứ tưởng tượng là những khi trí óc loạn xà ngầu không chịu ở yên, cứ hỏi và  đáp, cứ Thượng đế và nhất thể, cứ tiểu ngã và đại ngã, cứ tinh thần và thân xác, cứ địa ngục và thiên đường, cứ… ỏm tỏi như vậy thì ô-lô-hô... ùm! Đấy! Chúng sẽ đi đời nhà ma!

Lòng của Triết Hựu cũng cảm thấy như mở hội:

- Rồi sau đó, lão huynh còn gỡ giúp cái kẹt cho tiểu đệ với nhé!

- Ồ. Gỡ ngay. Gỡ cứ nhắc nụi chứ lị? Tắm không? Đi tắm một “phát”. Lão huynh cũng có một người em, suýt soát như lão đệ vậy, cuộc đời tầm đạo của y cũng ly kỳ gay cấn thiên địa trăng sao không chịu được. Ồ thiệt là “hậu sinh khả uý” làm sao! Tìm đạo? Ồ! Cứ như là ngao du trong viễn mộng lãng đãng khói sương vậy thôi. Rồi ta sẽ kể cho nghe. Hay lắm. Hay khiếp đảm!

Tiếp theo


[Ðầu trang][Trở về trang Mục Lục][Trở về trang Thư Viện]

updated: 2007