GIÓNG TRỐNG PHÁP BẤT TỬ
							Khắp nơi nắng hạn, khí trời hanh hao. Những cơn lốc khô xả lá rác và tung bụi 
								mịt mù…Chỉ còn non tháng nữa là mùa mưa đến, sông suối sẽ tràn bờ, những con 
								đường đất sẽ lầy lội, ngập lụt trở ngại cho việc bộ hành từ phương này sang 
								phương khác. Thời gian thuận tiện cho việc đi lại cũng chẳng còn mấy ngày nữa; 
								ngài phải lên đường chuyển bánh xe pháp. Đức Phật hướng mặt về phía Đông nam 
								kinh thành Rājagaha, tự nghĩ: “Ai là người đầu tiên khả dĩ có trí tuệ để 
									nghe Như Lai giảng nói giáo pháp thậm thâm vi diệu này? Ai là người có thể lãnh 
									hội mau chóng một loại giáo pháp đi ngược dòng đời? Có thể là Ālāra Kālāma 
									chăng? Vị đạo sư đã cặn kẽ chỉ dẫn cho ta những nấc thiền đầu tiên này là bậc 
									thiện trí thức, nhiều kiến văn, căn cơ thông tuệ, đã lâu rồi sống không nhiễm 
									bụi đời, chỉ còn rất ít bụi cát trong mắt…Hay là ta sẽ tuyên giảng giáo pháp hy 
									hữu, sâu mầu nầy cho đạo sư, là người đầu tiên, nghe được và tức khắc 
									thấu hiểu giáo pháp bất tử của Như Lai?” 
							
							Một vị trời có năng lực đọc được ý nghĩ của đức Phật, hiện ra, chấp tay thưa 
								rằng: “ Bạch đức Thế Tôn, đạo sư Ālāra Kālāma đã từ bỏ cõi đời cách nay vừa đúng 
									bảy ngày”. Đức Phật liền hướng tâm đến, ngài xác nhận đúng là như vậy 
								rồi nghĩ đến đạo sư Uddaka Rāmaputta. Vị trời cũng cho ngài biết là đấng 
								đạo sư ấy cũng đã từ trần đêm hôm trước. Sau khi đức Phật hướng tâm để biết rõ 
								sự thật, ngài lại nghĩ đến năm người bạn đồng tu. Là những đạo sĩ rất mực tinh 
								tấn, đã từng theo sát bên ngài, ưu ái, quan tâm săn sóc hầu hạ ngài rất mực chu 
								đáo. Họ là những người có trí, ít bụi cát trong mắt, lại đã khổ công và tha 
								thiết tầm cầu con đường thoát khổ. Chỉ vì tưởng ngài trở lại đời sống lợi dưỡng 
								nên họ đã  bỏ đi với sự hiểu lầm đáng tiếc. Đức Phật liền hướng tâm và 
								biết họ đang ở tại Vườn Nai (Migadāya) - Isipatana - cách Bārāṇasī 
								chừng một do-tuần; thế là ngài lại chuẩn bị một cuộc bộ hành quay ngược về 
								hướng Tây bắc khá gian lao vất vả.
							
							Đến Bārāṇasī có hai con đường. Một là hướng lên phía Bắc đi dọc theo sông Gaṅgā
								mãi về phía Tây, theo đường giao thông thương mãi, dễ đi, nhưng rất xa, ước 
								chừng hai mươi lăm do tuần. Lối thứ hai, đi dọc theo dãy núi Gayā, qua các đồng 
								ruộng, thôn làng, ao chuôm, đầm lầy… thì ước chừng chỉ mười lăm do-tuần (bây giờ
								thực tế là 230 km), phải mất trên mười ngày bộ hành. Đức Phật chọn lộ 
								trình gần. Do đã quá quen thuộc với đời sống khổ hạnh, lại nữa, ngài thường trú 
								cận định để nuôi dưỡng phỉ lạc nên thân tâm thường mát mẻ, dễ dàng chịu đựng 
								cái nắng nóng khắc nghiệt lúc thời tiết giao mùa.
							
							Khi đang chậm rãi bước đi ven theo dãy núi
								
									
										Gayā
								
								thì đức Phật gặp một du sĩ thuộc phái Ājivika, tên là Upaka trên 
								đường ngược chiều. Gặp ngài, Upaka nhìn sững, tự nghĩ: Ông sa-môn này rất 
									cao lớn, phương phi, chẳng phải gầy, chẳng phải mập, mà đầy đặn. Y áo chẳng 
									phải cũ, chẳng phải mới nhưng sạch sẽ, thanh sáng và dịu hòa. Tất cả cái gì ở 
									nơi ông ta đều toát ra cái vừa phải, cái chừng mực nhưng đẹp, uy nghi và gợi 
									cảm một cách lạ lùng! Thế rồi, Upaka bước tới, bước lui nhìn 
								ngắm mê mải. Có một thứ ánh sáng sáu màu khi đậm, khi nhạt, khi loang rộng như 
								hòa lẫn giữa hư không, lúc thì thu nhỏ lại; rồi chợt rực rỡ, tỏa hắt ra, lung 
								linh, chập chờn, chập chờn một lát thì yên lặng, phẳng lặng như mặt nước hồ thu 
								không gợn sóng. Đến gần hơn tí nữa thì Upaka hoàn toàn bị nhiếp phục bởi 
								sự trầm tĩnh, ổn định, an lạc toát ra từ đôi mắt, từ bước đi. Có một sự khôn 
								ngoan vượt ngoài thế giới, sự minh triết sáng ngời, một trí tuệ siêu đẳng ở ẩn 
								đâu đó, không chỉ nơi vừng trán bát ngát thông minh, mà còn có thể ở cả nơi 
								từng sợi tóc, lông mi, từng ngón tay, lóng tay và cả ngón chân nữa… Người này, 
									đấng này, vị sa-môn trẻ tuổi đẹp trai này chắc chắn không phải là người, là… 
									phạm thiên chăng? Nghĩ vậy nên   Upaka bước gần lại, 
								cất tiếng chào:
							
							- Chào bạn thân mến! Bạn đẹp quá, đẹp lạ lùng – Upaka mở lời tán thưởng 
								rồi tiếp - Lục căn của bạn an ổn và thanh tịnh làm sao! Ồ, không phải, nói vậy 
								cũng chưa đúng! Nó làm cho sự an ổn và thanh tịnh cũng bị nhiếp phục! Hào quang 
								sáu màu từ nơi bạn làm cho một vị đại phạm thiên cũng phải ganh tỵ. Nước da của 
								bạn chói ngời như mạ vàng ròng. Chắc sức khỏe của bạn dồi dào lắm? Chẳng hay 
								bạn tên chi? Bạn ở đâu? Xuất gia với ai? Đấng đạo sư của bạn là vị nào? Bạn tin 
								tưởng vào giáo pháp nào?
							
							Đức Phật hướng tâm, biết vị du sĩ này chưa có duyên bây giờ nhưng lại có duyên 
								mai sau, nên ngài muốn gieo một hạt giống:
							
							- Này Upakājivika! Đức Phật gọi đích danh chàng và kèm theo cả tên giáo 
								phái làm cho Upaka lạnh người – Như Lai là kẻ đã vô nhiễm giữa trần 
								cảnh, đã đoạn tận ác pháp, đã tịch tịnh, vô dục, đã bước ra khỏi mọi chấp trước 
								ở bản thân và thế gian điên đảo kiến. Như Lai đã chiến thắng tam giới, chứng 
								đạo quả Vô thuợng Bồ-đề thì còn ai là thầy của Như Lai nữa? Giữa 
								chúng nhân loại, chư thiên, phạm thiên, Như Lai đứng một mình, là thầy của họ. 
								Nay Như Lai đang trên đường về Vườn Nai, tại Isipatana, gần Bārāṇasī 
								để quay bánh xe pháp, gióng tiếng trống bất tử cho chúng sanh tỉnh giấc mộng 
								trường.
							
							Upaka nghĩ rằng: Vị đạo sĩ này ăn nói dễ nghe, dễ thương đến vậy? Chà, cái 
									óc và cái lỗ tai của ta nó được hỷ lạc làm sao! Bèn nói:
							
							- Mong rằng sự việc sẽ như bạn nói. Bạn thật xứng đáng được gọi là bậc Chiến 
									thắng bất diệt! 
							
							- Này Upaka! Kẻ giải thoát ra khỏi mọi trói buộc trần gian xứng đáng được 
								gọi như vậy. Kẻ mà ma quân, phiền não không còn tìm thấy dấu vết, xứng đáng 
								được gọi như vậy. Các đấng Như Lai thường được danh xưng là Tối thượng tôn, Vô 
									năng thắng, là bậc Chiến thắng bất tử, Chiến thắng vô tận, Vô hạn định! 
							
							Upaka gật đầu lia lịa:
							
							- Thật đúng như vậy! Thật đúng như vậy! Thôi, này bạn của ta, chào bạn sức khỏe!
							
							Sau khi tán thán và chào hỏi như vậy xong, Upaka không dừng lại nơi giáo 
								pháp của đức Tôn Sư, ông ta cúi đầu, quay lưng, rẽ sang một lối khác, đi thẳng!
							
							 (Ai thoáng nghe câu chuyện này sẽ tưởng đây là sự thất bại đầu tiên trên 
									đường hoằng pháp của đức Phật Gotama; nhưng chỉ riêng ngài mới biết rằng, ngài 
									đã gieo một hạt giống, và hạt giống này sáu bảy năm sau mới trổ quả! Hiện
								Upaka đang mê đắm cô con gái của người thợ săn, sau, nên vợ chồng, có một đứa 
									con. Do đời sống gia đình bị khổ vì ràng buộc, khổ vì cơm áo, khổ vì tủi nhục; 
									Upaka nhớ đến người bạn Chiến thắng bất diệt của mình, lặn lội tìm đến Kỳ viên 
									tịnh xá, xuất gia, đắc quả A-la-hán. Và vợ của chàng cũng xuất gia, đắc thánh 
									quả.) 
							
							Hoàn toàn thản nhiên, như không có chuyện gì, đức Phật chậm rãi tiếp tục lộ 
								trình. Thế rồi, ngài đã đến khu Vườn Nai tươi xanh mát mẻ sau hơn mười lăm ngày 
								dầm sương dãi nắng.
										 
							GIÁO HÓA NĂM NGƯỜI BẠN ĐỒNG TU 
							
							Sau khi từ bỏ người bạn lớn - đức Gotama – năm anh em đạo sĩ Koṇḍañña
								về Vườn Nai tại Isipatana, tiếp tục duy trì đời sống khổ hạnh nhưng họ 
								vẫn không quên ngài. Họ rất tiếc là đức Gotama - thần tượng của họ
								- đã trở về đời sống lợi dưỡng, thiếu kiên trì, thiếu quyết tâm đi trọn con 
								đường. Thiếu vắng đức Gotama, mất niềm tin nơi đức Gotama, họ quả 
								thật là bơ vơ, không biết tìm ai trên cuộc đời này để nương tựa nữa.
							
							Hôm kia, một người đi khất thực chút ít rồi sớt thành năm phần, mỗi phần chỉ 
								bằng nửa nắm tay; họ thanh thản thọ dụng dưới cội cây, sau đó xuống ao tắm rửa, 
								nghỉ ngơi một lát cho khô ráo rồi ngồi thiền định thường lệ vào buổi chiều. Lúc 
								đang chuẩn bị tản mác mỗi người mỗi nơi thì Koṇḍañña thoáng thấy một 
								hình dáng quen thuộc đang chậm rãi đi vào khu vườn. Màu y vàng nổi bật giữa 
								rừng cây xanh càng lúc càng hiện rõ. Và với dáng đi thong dong, tự tại, trầm 
								tĩnh như chúa sơn lâm kia thì còn ai xa lạ nữa! Ông đã nhận ra ngài. Koṇḍañña
								khẽ nói với các đạo sĩ:
							
							- Này các bạn! Ông Gotama đang đi đến chỗ chúng ta. Kẻ thiếu cố gắng, 
								không chịu bền chí con đường khổ hạnh, bỏ cuộc nửa chừng vì ham muốn lợi dưỡng 
								kia - thật không xứng đáng để cho chúng ta niềm nở đón tiếp hoặc cung kính chào 
								hỏi. Chẳng nên rước bát và y. Cũng chẳng cần phải mời nước uống. Nếu ông ta có 
								đến thì chỉ nên dọn một chỗ ngồi, vậy là lịch sự lắm rồi!
							
							Nói thì nói thế với khuôn mặt lạnh tanh, nhưng mà khi đức Phật Gotama đến, 
								với phong thái, uy nghi và cốt cách thoát tục của ngài - toát ra một năng lực 
									phi phàm - khiến cho họ không còn tự chủ được. Tất cả như đồng loạt: 
								người tiếp bát và y, người múc nước rửa chân, người dọn chỗ ngồi nơi sạch sẽ, 
								cao ráo… Một vài đạo sĩ cất lời chào hỏi xen lẫn trong nhau:
							
							- Hiền giả bấy lâu nay có mạnh khỏe không?
							
							- Thầy Gotama đi đường xa có mệt lắm không?
							
							- Hiền hữu Siddhattha khất thực có dễ dàng chăng?
							
							Đức Phật nghĩ là nên mở lời khuyến cáo:
							
							- Nầy các vị, từ rày về sau không nên gọi Như Lai bằng họ, bằng tên hay 
								bằng những danh từ như hiền giả, hiền hữu (Āvuso) nữa. Như Lai hiện nay 
								đã đắc quả Chánh Đẳng Giác; là một vị Phật, là một đức Thế Tôn,
								là một bậc Toàn Giác. Như Lai đến đây là để tuyên giảng giáo pháp bất tử 
								đến cho các vị. Với những người có trí thì họ có thể chứng ngộ bằng trí tuệ 
								trực giác ngay chính trong kiếp sống hiện tại này; và họ sẽ thọ hưởng được hạnh 
								phúc siêu thế, thiêng liêng và trong sạch.
							
							Đạo sĩ Koṇḍañña không tin điều đó, ông nói:
							
							- Quả vị Phật, quả vị Chánh Đẳng Giác là cao quý tột cùng cho những thiện gia 
								nam tử cần cầu xuất ly gia đình thế tục. Nó là cái gì vô cùng thánh hạnh và vô 
								cùng thiêng liêng. Do thế, quả vị ấy không có phần cho người thiếu tinh tấn, 
								yếu đuối, bị ma vương cám dỗ để rơi vào đời sống lợi dưỡng thấp hèn…
							
							Đức Phật lại cố gắng giải minh sự hiểu lầm trước đây:
							
							- Này các vị! Như Lai chưa bao giờ trở lại đời sống lợi dưỡng. Như Lai chỉ độ 
								thực một các chừng mực, trung đạo. Và Như Lai đã không ngừng cố gắng, tinh tấn, 
								quyết tâm sau khi các vị ra đi. Nhờ vậy, hiện nay, Như Lai đã đắc quả vị Phật, 
								quả vị Chánh Đẳng Giác, đấy là sự thật. Như Lai là người đã tìm ra một 
								loại giáo pháp không đi qua con đường của lý trí nhận thức hoặc suy luận, mà 
								bằng chính trực giác của kinh nghiệm tâm linh tu chứng. Vì nghĩ rằng, giáo pháp 
									bất tử thiêng liêng ấy, nếu được tuyên giảng thì kẻ trí sau khi chú 
								tâm, lắng nghe cũng có thể chứng ngộ được nên Như Lai mới đến đây…
							
							Bốn đạo sĩ khác cũng không tin:
							
							- Trước đây, thầy Gotama có một đời sống khổ hạnh vô cùng nghiêm túc, có 
								một kỷ luật bền gan sắt thép, có một sự tinh tấn tối thượng, có một ý chí và 
								quyết tâm như kim cương chẻ đá - vậy mà không thành tựu được trí tuệ siêu phàm, 
								chưa đạt được cái gì xứng đáng là cao cả. Sau này, trở về với những bát sữa với 
								lợi dưỡng tối thượng, những mâm quả trái cây đầy ắp, những giấc ngủ ngon, những 
								cuộc trò chuyện vô bổ…lại tuyên bố đắc Đạo quả Vô thượng, ngang hàng với 
								chư Phật hay sao?
							
							Đức Phật Gotama đã nhẫn nại trình bày sự thật lần thứ hai, lần thứ ba 
								nhưng năm người bạn đồng tu vẫn giữ nguyên thành kiến và sự cố chấp cố hữu, 
								ngài bèn nghiêm nghị hỏi:
							
							- Nầy các vị! Từ trước đến nay, các vị đã từng nghe Như Lai nói điều không đúng 
								sự thật lần nào chưa?
							
							Họ đều gật đầu đáp:
							
							- Điều ấy thì đúng, thầy Gotama nói điều gì thì điều ấy đều y cứ vào sự 
								thật.
							
							- Và các vị đã có lần nào nghe Như Lai nói về sự chứng đắc, nói về quả vị Phật, 
									nói về sự tuyên giảng giáo pháp Vô sanh Bất tử như hôm nay hay chưa? 
							
							- Quả thật là chưa hề!
							
							Sau khi xác nhận điều ấy, họ bất giác nhìn ngắm dung mạo, thái độ cử chỉ của đức 
								Thế Tôn; ở đấy dường như có sự định tĩnh của núi Tu-di, sự trầm lặng khôn dò 
								của đáy biển sâu – toát ra năng lượng sung mãn, đầy tràn của bậc giác ngộ. Lại 
								còn hào quang sáu màu từng đôi một lung linh chập chờn như thực như hư, rồi 
								trong suốt, tỏa ra một thứ ánh sáng vừa rực rỡ vừa dịu dàng như mẹ của mặt 
								trời, mặt trăng vậy! Thấy tướng có thể biết được tâm, đạo sĩ Koṇḍañña - 
								vốn là nhà tướng pháp thông tuệ - biết rõ điều ấy hơn ai hết, ông giật mình, 
								quỳ xuống và sụp lạy:
							
							- Chúng tôi quả thật là ngu muội, xin ngài bi mẫn xá tội và ngài hãy tuyên giảng 
								giáo pháp sâu mầu ấy!
							
							Cả bốn đạo sĩ cùng quỳ xuống với năm vóc sát đất vô cùng tôn kính và nhu thuận.
							
							
										 KINH CHUYỂN PHÁP LUÂN 
									
							
							(Dhammacakkappa-vattana sutta) 
							
							Để cho năm vị đạo sĩ thay đổi oai nghi, lựa thế ngồi cho thoải mái, đức Phật cất 
								giọng phạm âm với tám tuyệt hảo, bắt đầu thời pháp đầu tiên:
							
							- Này các vị! Có hai cực đoan (antā) mà người cần cầu xuất ly vô thượng 
									(pabbajitana) cần phải xa lánh, không nên hành trì. Đấy là hai cực đoan gì? Một 
									là đắm mình vào dục lạc thế gian, sống đời lợi dưỡng, ái luyến, mê si nhục dục 
									ngũ trần (kāmasukhallinuyoga) Nó là cái thấp hèn, hạ liệt (anariya), thô lậu, 
									phàm tục; không xứng với phẩm hạnh của bậc thánh nhân. Hai là kiên trì, nỗ lực 
									tu tập khổ hạnh ép xác (attakilamathānuyoga); đấy là sự hành trì vô ích, vô bổ, 
									chỉ chuốc lấy đau khổ, chỉ mang lại sự chết mà không đem đến giải thoát, chấm 
									dứt phiền não được. 
							
							Này các vị! Như Lai đã tránh xa hai cực đoan lợi dưỡng và khổ hạnh ấy; vì lợi 
									dưỡng làm cho thân trơ lì, tâm si độn – là lực kéo, là vật cản sự tiến bộ và 
									thăng hoa tinh thần; còn khổ hạnh thì tự bào mòn sự sống, làm cho tinh thần và 
									trí thức đều giảm suy! Từ bỏ hai cực đoan sai lầm ấy, Như Lai đã tìm ra Con 
									đường giữa – Trung đạo (majjhimā paṭipāda). Đây mới chính là con đường xứng 
									đáng của bậc thánh nhân; nó phát sanh tuệ nhãn (cakkhukaraṇī), phát sanh tuệ 
									trí (ñāṇakaraṇī), dẫn đến sự an tịnh phiền não (upasamāya), dẫn đến thắng trí 
									(abhiññāya), dẫn đến Niết-bàn. 
							
							Này các vị! Có một con đường không đi theo sự khích động của dục vọng thân xác 
									(lợi dưỡng), không đi theo sự triệt tiêu những nhu cầu bình thường, tự nhiên, 
									cần yếu của thân xác (khổ hạnh); đấy là Trung đạo. Còn được gọi là Bát chánh 
									đạo – con đường có tám nhánh: Chánh kiến (sammādiṭṭhi), chánh tư duy 
									(sammāsaṅkappa), chánh ngữ (sammāvācā), chánh nghiệp (sammākammanta), chánh 
									mạng (sammā-ājīva), chánh tinh tấn (sammāvāyāma), chánh niệm (sammāsati), chánh 
									định (sammā samādhi). Lộ trình trung đạo này sẽ vén mở cho ta thấu triệt Bốn sự 
									thật vĩnh cữu của đời sống – là Tứ diệu đế, Tứ thánh đế - dẫn đến Bốn thánh 
									đạo, Bốn thánh quả, chứng ngộ mục đích rốt ráo, tối hậu của sa-môn hạnh là giải 
									thoát, Niết-bàn. 
							
							Đức Phật vừa mới nhập đề bằng giọng nói trầm ấm vi diệu, bằng lời, tiếng, câu cú 
								trong sáng, chuẩn xác, bằng những ý tưởng và danh từ hoàn toàn mới lạ - cả năm 
								vị đạo sĩ - vốn có căn cơ sắc bén, thông tuệ nên biết rõ đây đúng là ngôn ngữ 
								của bậc đạt ngộ, của người đã tìm ra sự thật; chúng chưa hề có trong bất 
								kỳ một hệ thống tư tưởng triết học, tôn giáo nào – xưa và nay!
							
							Thấy cả năm đạo sĩ đều chăm chú, nhất tâm vào thời pháp, đức Phật đi vào nội 
								dung trọng yếu:
							
							- Nầy các vị! Tứ thánh đế, Tứ diệu đế - Bốn sự thật vi diệu - 
									ấy là gì mà chúng ta cần phải thấu triệt? Thấu triệt chính là thấy rõ, liễu 
									thông, giác hiểu cái chân lý rốt ráo, cái sự thật tột cùng, cái chân đế cao 
									diệu (ariya-sacca) – mà nếu hành trì nghiêm túc, đúng đắn sẽ thành tựu được mục 
									đích xuất trần ly cấu, vô cùng  xứng đáng với phẩm hạnh cao cả của những 
									thiện gia nam tử ở trên đời này. 
							
							Nầy các vị! Thứ nhất là chân lý cao diệu về sự khổ (dukkha-ariya-sacca, 
									khổ thánh đế). Khái quát là có tám cái khổ phủ trùm lên toàn thể thế gian, chi 
									phối toàn bộ đời sống của chúng hữu tình; đấy là: khổ sanh, khổ già, khổ bệnh, 
									khổ chết, khổ vì bất toại nguyện, khổ vì sống chung với những người mình ghét 
									hoặc không ưa thích, khổ vì phải sống xa lìa những người mình yêu thương; và 
									cuối cùng là khổ bởi vì chấp ngã, thủ trước, mê đắm cái thân tâm ngũ uẩn này! 
							
							Nầy các vị! Thứ hai là chân lý cao diệu về nguyên nhân, nguồn
								gốc của sự khổ (dukkha-samudaya-ariya-sacca, khổ tập thánh 
									đế). Như Lai đã tìm ra gốc nguồn của vô vàn khổ đau sai khác ấy chính là 
								ái (taṅhā), do ái chủ mưu, do ái 
								chủ động, do ái dẫn dắt, do ái sai 
									sử, do ái kết buộc, do ái điều hành… 
										Ái là nguyên nhân dẫn dắt tái sanh (ponobbhavika). Ái
									kết hợp với tâm tham muốn, khao khát, bám víu, thỏa thích, say đắm hoan lạc nơi 
									các đối tượng chiếm hữu hoặc thỏa mãn các mục đích hư tiếu, phù phiếm trong đời 
									sống. Nói rộng hơn, khi ái đeo níu, tham đắm dục lạc vật 
									chất trong sáu cảnh trần thì được gọi là dục ái (kāma-taṅhā). 
									Khi ái cảm thấy dục lạc lục trần ấy cũng chưa đủ, muốn nó 
									thường còn mãi với mình – đi đôi với thường kiến - hoặc 
									tham đắm thiền hữu sắc, trời sắc giới – thì được gọi là hữu ái
									(bhava-taṅhā). Khi ái thỏa mãn lục trần với tâm lý muốn 
									hưởng mau, hưởng vội, sợ chết là hết – đi đôi với đoạn kiến
									- hoặc tham đắm thiền vô sắc, cõi trời vô sắc thì được gọi là phi hữu ái
									(vibhava-taṅhā). 
							
							Nầy các vị! Thứ ba là chân lý cao diệu về sự diệt khổ (dukkha-nirodha-ariya-sacca, 
									khổ diệt thánh đế). Là nơi làm cho yên lặng, chấm dứt, tận diệt các ái, tận 
									diệt mọi nguyên nhân sanh khổ, đoạn tuyệt các khổ; nơi mà mọi ái tham, ái 
									luyến, ái chấp phát sanh chìm đắm, trói buộc, trầm luân không còn dư tàn; nơi 
									mà ngôi nhà ngũ uẩn đã được tháo rời; ngã ái, ngã kiến, ngã chấp, ngã thủ không 
									còn bản ngã kiên cố để sở y; nơi không còn gì để luyến ái, dính mắc nữa; và đó 
									chính là giải thoát, Niết-bàn: mục tiêu tối hậu của sa-môn hạnh. 
							
							Nầy các vị! Pháp hành dẫn đến giải thoát, dẫn đến sự chứng ngộ Niết-bàn; chân 
										lý cao diệu về con đường dẫn đến sự diệt khổ (dukkha-nirodha-gāminī-paṭipadā-ariya-sacca, 
									khổ diệt đạo thánh đế) này chính là thánh đạo hợp đủ tám chi phần: Chánh kiến, 
									chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, 
									chánh định. Bát thánh đạo ấy là sự thật vi diệu mà chư vị thánh nhân đã chứng 
									ngộ, còn được gọi là Đạo thánh đế, hôm nay, Như Lai sẽ tuyên thuyết cho các vị 
									nghe! 
							
							Nầy các vị! Tuệ nhãn (paññā-cakkhu) thấy rõ khổ thánh 
										đế đã phát sanh đến Như Lai; tuệ trí (ñāṇa) 
									thấy rõ thực tánh khổ thánh đế đã 
									phát sanh đến Như Lai; tuệ giác (paññā) thấy rõ tất
								cả khổ đã phát sanh đến Như Lai; tuệ minh 
									(vijjā) thấy rõ, thấu suốt toàn bộ khổ thánh đế
									đã phát sanh đến Như Lai; ánh sáng trí tuệ
									(āloka) xua vẹt bóng tối của màn vô minh che ám khổ thánh đế đã phát sanh đến 
									Như Lai. Tất cả pháp thuộc khổ thánh đế ấy, trước đây, khi chưa thành Phật, Như 
									Lai chưa từng được biết, chưa từng được nghe; hiện nay, chúng đã phát sanh đến 
									Như Lai rồi. Nhờ vậy, Như Lai như chân, như thật tuyên bố rằng: Tất cả các pháp 
									ở trong tam giới - cái được cấu tạo, kết hợp, hữu vi - dầu sắc pháp hay danh 
									pháp, ngoại trừ tham ái; chúng đều là Khổ thánh đế. Và Khổ thánh đế ấy 
										cần phải hiểu biết, cần phải nhận thức, cần phải liễu tri một cách rốt ráo.
								
							
							Nầy các vị! Tuệ nhãn thấy rõ ái là nhân sanh khổ - là 
								khổ tập thánh đế - đã khởi sanh trong Như 
									Lai; tuệ trí thấy rõ thực tánh ba loại ái đã khởi sanh 
									trong Như Lai; tuệ giác thấy rõ 108 loại ái đã khởi sanh 
									trong Như Lai; tuệ minh thấu suốt mọi nhân sanh khổ thánh 
									đế đã khởi sanh trong Như lai; ánh sáng trí tuệ xua vẹt 
									bóng tối của màn vô minh che ám khổ tập thánh đế đã khởi sanh trong Như Lai. 
									Tất cả các loại ái thuộc khổ tập thánh đế ấy, trước đây, khi chưa thành Phật, 
									Như Lai chưa từng được biết, chưa từng được nghe; hiện nay, chúng đã khởi sanh 
									trong Như Lai rồi. Nhờ vậy, Như Lai như chân như thật tuyên bố rằng: Tất cả các 
									loại ái trong tam giới đều là nhân sanh khổ - là khổ tập thánh đế. Và Khổ 
										tập thánh đế ấy cần phải chiêm nghiệm, cần phải thấy rõ, cần phải hiện quán, 
										cần phải minh sát. 
							
							Nầy các vị! Tuệ nhãn thấy rõ Niết-bàn là nơi diệt tận tất cá 
									các khổ - là Khổ diệt thánh đế - đã khởi sanh trong Như 
									Lai; tuệ trí thấy rõ Niết-bàn là nơi an vui, tịnh lạc vượt 
									ngoài tương đối, tương đãi, nhị nguyên; tuệ giác thấy rõ 
									hữu dư Niết-bàn, vô dư Niết-bàn đã khởi sanh trong Như Lai; tuệ minh
									thấu suốt Niết-bàn là nơi Khổ diệt thánh đế đã khởi sanh đến Như Lai; ánh 
										sáng trí tuệ xua vẹt bóng tối của màn vô 
									minh che ám Khổ diệt thánh đế đã khởi sanh trong Như Lai. Tất cả đức tánh, đặc 
									tánh, thực tánh của Niết-bàn ấy, trước đây, khi chưa thành Phật, Như Lai chưa 
									từng được biết, chưa từng được nghe; hiện nay, chúng đã khởi sanh đến Như Lai 
									rồi. Nhờ vậy, Như Lai như chân, như thật tuyên bố rằng: Khổ diệt thánh đế là 
									Niết-bàn, là an vui tuyệt đối, là thực tại như thực, ở ngoài thời gian… 
										Và Khổ diệt thánh đế ấy cần phải có trực giác liễu tri, chứng nghiệm, chứng đạt 
										- không qua ngữ ngôn, khái niệm và lý trí suy luận. 
							
							Nầy các vị! Tuệ nhãn thấy rõ Bát thánh đạo là pháp hành, là 
									pháp tu tập dẫn đến sự chứng ngộ Niết-bàn – là Khổ diệt đạo thánh đế
									- đã khởi sanh trong Như Lai; tuệ trí thấy rõ thực tánh 
									Bát thánh đạo đã khởi sanh trong Như Lai; tuệ giác thấy rõ 
									mỗi chi pháp trong bát thánh đạo một cách chi li, mạch lạc đã khởi sanh trong 
									Như Lai; tuệ minh thấu suốt Bát thánh đạo một cách tỏ 
									tường, minh nhiên đã khởi sanh trong Như Lai; ánh sáng trí tuệ
									xua vẹt bóng tối của màn vô minh che ám Khổ diệt đạo thánh đế đã khởi sanh 
									trong Như Lai. Tất cả tám chi phần, tám nhánh của con đường dẫn đến sự chứng 
									ngộ Niết-bàn ấy – là Trung đạo, là Bát chánh đạo - trước đây, khi chưa thành 
									Phật, Như Lai chưa từng được biết, chưa từng được nghe; hiện nay, chúng đã khởi 
									sanh trong Như Lai rồi. Nhờ vậy, Như Lai như chân, như thật tuyên bố rằng: Khổ 
									diệt đạo thánh đế chính là Bát thánh đạo, là con đường Trung đạo có tám nhánh, 
									là lộ trình dẫn đến sự chấm dứt tái sanh, luân hồi, đoạn tận tất cả khổ đau 
									trong ba cõi, sáu đường. Và Khổ diệt đạo thánh đế không phải để mà trang điểm 
									kiến thức, không phải để mà tích lũy hiểu biết, không phải để mà huyên thuyên 
									giảng nói; nó phải được liễu tri để tu tập, miên mật hành trì, tinh cần, công 
									phu, tỉnh niệm, giác niệm trong từng oai nghi, trong mỗi hơi thở. 
							
							Nầy các vị! Như Lai đã thấy rõ tất cả chúng, đã thấu suốt tất cả chúng, đã tu 
									tập, đã thực hành để liễu triệt tất cả pháp cần phải liễu triệt, đã chứng đắc 
									tất cả pháp cần phải chứng đắc. Như Lai như thực liễu tri rằng, khi nào trí tuệ 
									thấy rõ, biết rõ thực tánh, chân thật tánh của các pháp một cách hoàn toàn 
									trong sáng, thanh tịnh, vô nhiễm theo ba cấp bậc, ba giác độ tuệ luân - 
										có nghĩa là tuệ học, tuệ hành và tuệ thành trong Tứ thánh đế - thành mười hai 
										thể loại trí tuệ, hợp thành một thấy biết toàn diện và chơn chánh,
									chưa khởi sanh trong Như Lai, thì cho đến lúc ấy, Như Lai chưa dám xác nhận, 
									chưa dám tuyên bố rằng là Như Lai đã chứng đắc Vô thượng Chánh Đẳng Giác 
									(anuttaro-sammāsambuddho)trước các hàng sa-môn, bà-la-môn, nhân loại, chư 
									thiên, ma vương và phạm thiên trong thế gian, thế giới này! 
							
							Thấy cả năm vị đạo sĩ chú tâm cao độ nghe pháp, nghe từng lời pháp như sợ rơi 
								mất những giọt cam lồ tịnh thủy, đức Phật biết vậy nên ngài đã kết luận thời 
								pháp bằng giọng nói trầm hùng, mạnh mẽ, khí và lực tuôn chảy dạt dào như hải 
								triều âm va đập giữa ghềnh đá:
							
							- Nầy các vị! Nhưng nay thì tuệ nhãn, tuệ trí, tuệ giác, tuệ 
								minh, ánh sáng trí tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh các pháp một 
									cách hoàn toàn trong sáng, vô nhiễm, thanh tịnh - bởi tri kiến tuyệt đối như 
									thực - theo ba bậc tuệ luân trong Tứ thánh đế thành mười hai thể loại trí tuệ 
									đã khởi sanh trong Như Lai rồi – Như Lai mới mạnh dạn xác nhận và tuyên bố 
									rằng: Như Lai đã chứng đắc Vô thượng Chánh Đẳng Giác trước các hàng 
										sa-môn, bà-la-môn, nhân loại, chư thiên, ma vương, phạm thiên trong thế gian, 
										thế giới này! Và như thế là do trí tuệ hiện quán, minh sát, thấy rõ, biết rõ 
										A-la-hán thánh đạo quả đã phát sanh đến Như Lai; tâm của Như Lai đã hoàn toàn 
										giải thoát tất cả mọi phiền não một cách vững chắc, bất động, chẳng có gì lay 
										chuyển được, chẳng có gì có thể làm cho hư mất. Và đây là kiếp chót, là kiếp 
										cuối cùng của Như Lai, không còn tái sanh luân hồi nữa. 
							
							Đức Phật thuyết xong bài pháp Chuyển pháp luân (dhammacakkappavattana, 
									vận chuyển bánh xe chân lý) này xong, năm vị đạo sĩ khổ hạnh vô cùng 
								hoan hỷ một loại giáo pháp chưa từng được nghe. Riêng đạo sĩ Koṇḍañña chứng 
								được Pháp nhãn (dhammacakkhu) xuất trần ly cấu, tức là đã đoạn 
								lìa được một số bụi bặm phiền não, an trú quả vị Tu-đà-hoàn – ông đã 
								thấy như chân như thật rằng: Pháp hành nào có sanh thì pháp hành ấy có diệt 
									(yaṃkiñcisamudayadhammaṃsabbaṃtaṃniroddhadhammaṃ). 
							
							Chư thiên trên địa cầu nghe được thời pháp vô thượng, đồng thanh tán dương ca 
								ngợi rằng: Hôm nay, trong Vườn Nai, tại Isipatana, gần thành Bārāṇasī,
								đức Thế Tôn đã gióng trống chuyển một bài pháp vô cùng vi diệu; chưa 
								từng có một sa-môn, bà-la-môn, thiên thần, ma vương, phạm thiên hay bất kỳ ai 
								trên thế gian này có thể tuyên giảng được. Nghe như vậy, chư thiên cõi Tứ đại 
								thiên vương, Đao-lợi, Dạ-ma, Đẩu-xuất, Hóa Lạc cũng đồng tán dương, ca ngợi 
								không hết lời.
								Chư
								vị phạm thiên ở các cảnh trời sắc giới cùng một lòng xưng tán như vậy. Ngay lúc 
								ấy, ngay sát-na ấy, lời tán dương ca tụng xuyên thấu cõi Sắc cứu cánh thiên; 
								mười ngàn thế giới đều rung chuyển, rung động. Ánh hào quang của đức Chánh 
								Đẳng Giác – thù thắng và oai lực hơn hào quang của chư thiên, phạm thiên cộng 
								lại - tỏa rộng vô biên, chiếu diệu, sáng soi ngời ngời cùng khắp thế gian, thế 
								giới…
							
							Đạo sĩ Koṇḍañña đã thấu suốt, thấy rõ, biết rõ căn bản Tứ thánh đế,
								diệt tận mọi hoài nghi, chỉ còn tin Phật, tin Pháp chứ không còn tin tưởng vào 
								nơi nào khác nữa.
							
							Vô cùng tri ân và vô cùng xúc động, đạo sĩ Koṇḍañña quỳ năm vóc sát đất:
							
							- Xin đức Thế Tôn cho đệ tử được thọ giới tỳ-khưu và cho đệ tử được nương 
								tựa.
							
							Đức Phật mỉm nụ cười chánh pháp:
							
							- Hãy lại đây, này tỳ-khưu! Như Lai xác nhận là ông đã trở thành tỳ-khưu! Giáo 
									pháp mà Như Lai đã khéo tuyên giảng, ông hãy cố gắng thọ trì, tinh tấn thực 
									hành, hãy sống đời phạm hạnh thanh tịnh để đoạn tận khổ đau, chấm dứt sinh tử 
									luân hồi. (Ehi bhikkhu! Svākkhāto dhammo cara brāhmacariyaṃ sammā dukkhassa 
									antaki riyāya). 
							
							Thế là đạo sĩ Koṇḍañña từ đây được gọi là Aññāsi Koṇḍañña (A-nhã 
									Kiều-trần-như, Kiều-trần-như đã chứng ngộ), là vị tỳ-khưu đầu tiên 
								trong giáo hội của đức Tôn Sư. Hôm đó là đúng vào chiều tối rằm tháng 
								sáu, năm dậu, được hai tháng kể từ sau khi đức Phật thành đạo dưới cội bồ-đề.
							
							Đêm ấy, trăng sáng vằng vặc, không khí mát lành - đức Phật ngồi trên một tảng đá 
								giữa Vườn Nai, trú định Diệt thọ tưởng để nghỉ ngơi sau nhiều ngày bộ hành lao 
								nhọc và suốt cả buổi chiều tổn hơi, tổn khí giảng pháp cho năm ông đạo sĩ. 
								Khuya, đức Phật trở lại cận định, khởi tầm và tứ, suy nghĩ như sau:
							
							“- Chúng sanh ít bụi cát có thể thấu hiểu được giáo pháp này. Ông Koṇḍañña đã 
									thấy pháp, dòng tâm sẽ từ từ, thuận thứ mà đi vào đạo lộ - nhờ ông là kẻ có 
									trí, chỉ cần cái đại cương, khái quát là ông có thể nắm bắt được. Nhưng các vị 
									kia thì cần phải giảng giải nhiều lần, với nhiều ví dụ cụ thể - họ mới lần tìm 
									được ngữ nghĩa sâu rộng, hiểu pháp và thấy pháp được” 
							
							Hôm kia, sau khi Koṇḍañña, Mahānāma và Assaji đi khất thực để cung 
								cấp thực phẩm cho mọi người, đức Phật cặn kẽ giảng giải rộng rãi thời pháp cho Vappa
								và Bhaddiya. Cuối buổi giảng, cả hai vị đạo sĩ đắc Pháp nhãn - Nhập 
									lưu - được đức Phật xác nhận họ đã là tỳ-khưu. Hôm sau nữa, lúc Koṇḍañña, 
									Vappa và Bhaddiya đi khất thực thì đức Phật lại giảng sâu rộng 
								cho Mahānāma và Assaji nghe. Xế trưa thì cả hai đạo sĩ đều đắc quả Tu-đà-hoàn,
								đức Phật lại chứng nhận thụ giới thêm cho hai vị tỳ-khưu nữa.
							
							Thế đến ngày hai mươi tháng Āsāḷha, cả năm vị tỳ-khưu đã mặc y áo tươm 
								tất, tóc râu sạch sẽ bởi họ đã từ bỏ sự hành trì khổ hạnh và cả hình thức khổ 
								hạnh. Họ đều đã có đức tin bất thối, và đang lần hồi bước những bước vững chắc 
								trên đạo lộ bất tử.
							
							Từ ngày hai mươi cho đến cuối tháng, thời tiết bắt đầu chuyển mưa – vì bây giờ 
								đã là mùa Vassāna - họ bận rộn làm cho mình những cốc lá và đặc biệt làm 
								cho đức Thế Tôn một cốc lá tương đối tốt, tươm tất và ấm cúng. Những khi 
								trời quang mây tạnh, trước đầy đủ năm vị tỳ-khưu đầu tiên - là 
								những hạt giống bất hoại để gieo trồng chánh pháp trên toàn cõi Diêm-phù-đề - 
								đức Phật lại dùng tuệ phân tích, triển khai rộng rãi và chi li một số tư tưởng 
								giáo pháp dường như đang còn quá mới mẻ đối với họ. Ngài đã chịu khó đi lại từ khổ 
										đế - sự thật, chân lý về khổ - tuy nó đơn giản chỉ có bát 
									khổ là sanh, già, bệnh, chết - sầu bi khổ ưu não - cầu bất đắc, ái biệt 
									ly, oán tăng hội, thủ ngũ uẩn – nhưng đâu phải ai cũng dễ dàng 
								thông suốt. Sự thật về khổ này không phải chỉ hiểu qua danh từ, ngữ 
								nghĩa mà còn cần phải thấy rõ cụ thể ở chính nơi thân tâm mình, sự sống của 
								mình trong tương quan xúc đối và trải nghiệm. Sanh, cái khổ sanh 
									(jāti-dukkha), đầu tiên là chỉ cái khổ trong thai bào, khổ từ lúc tượng 
								hình, khổ phải chịu đựng tối tăm, dơ uế; khổ vì cay, vì nồng, vì nóng, vì lạnh, 
								vì nhầy nhụa, vì hôi hám, vì các cử động, vì sự biến đổi thất thường của tâm lý 
								người mẹ. Khổ sanh – ngay chỉ niệm tái sanh, tìm kiếm cảnh giới, 
								tìm cách đầu thai vào cái quen thuộc, vào cái mà mình ái luyến, mình thích, 
								mình say đắm – đã là khổ rồi! Chính khởi từ cái sanh niệm này mà 
								nó dẫn dắt chúng sanh trôi lăn khắp ba cõi, sáu đường rồi chịu đựng vô lượng 
								hoạn nạn, nghịch cảnh, máu, nước mắt, tai ương và thống khổ!..
							
							- Xin đức Thế Tôn, vì lòng bi mẫn – Koṇḍañña thưa bạch - giảng nói rộng 
								rãi và chi tiết về khổ sanh cho chúng đệ tử được hiểu một cách thấu đáo, 
								tận tường mọi ngõ ngách chi ly của nó?
							
							- Nầy chư tỳ-khưu, hãy nghe đây, Như Lai sẽ giảng theo yêu cầu ấy. Sanh, ở 
								đây chỉ giới hạn kể từ khi các sắc chất được sinh ra từ sát-na kiết sanh thức
								kết hợp với tinh cha huyết mẹ (danh sắc). Nó là cái hạt mầm, cái chủng 
								tử trong bất kỳ cảnh giới hữu tình nào. Cái thực thể chúng sanh đầu tiên 
								ấy ở trong thai bào không phải đẹp đẽ như ở trong hoa sen xanh, hoa sen đỏ, hoa 
								sen trắng – mà phải được hiểu như con dòi sinh ra trong xác cá ươn, trong đống 
								phân thối. Thực thể ấy nó nằm ở phía dưới chỗ chứa đồ ăn (bao tử), phía 
								trên chỗ sẽ xuất chất thải (hậu môn), nằm kẹt giữa bụng và cột sống, rất 
								chật chội, tối tăm, bẩn thỉu; phải chịu đựng các luồng gió hôi hám đủ thứ mùi 
								đáng tởm. Suốt chín tháng mười ngày, cái thực thể chúng sanh ấy phải trải qua 
								vô lượng thống khổ, bị sức nóng như lửa đốt bởi chất hỏa trong bụng mẹ mà không 
								co duỗi, nhúc nhích được. Ngoài ra, khi bà mẹ di chuyển tới lui, nằm ngồi đi 
								đứng, nhất là lúc bị vấp té – thì nó chịu đựng vô cùng đau đớn – như bị kéo 
								giật, tung ngược tung xuôi, đảo qua đảo lại như con rắn ở trong tay người xiếc 
								rắn. Khi bà mẹ uống nước lạnh, nó cảm thấy tê buốt như ở trong địa ngục băng 
								giá. Khi bà mẹ ăn uống vật nóng, nó như bị chìm ngập trong trận mưa than lửa. 
								Khi bà mẹ ăn uống chất mặn, chất chua thì nó như bị ngâm chìm trong nước muối 
								dấm! Đấy là những nỗi khổ cùng cực khi trú trong thai bào mà chúng thai sinh 
								nào cũng phải bị gánh chịu.
							
							Nầy chư tỳ-khưu! Khổ trong thai bào là vậy. Khi ra khỏi thai bào, nó phải chịu 
								cái khổ chúc đầu ngược xuống bởi sức mạnh của gió nghiệp; bị tống ra khỏi cái 
								hang tối tăm chật hẹp, thật là kinh khiếp như phải chui qua cái lỗ nhỏ rồi bị 
								nghiền nghiến giữa hai ngách đá, đau đớn tột cùng. Thế rồi, hài nhi vừa ra khỏi 
								bụng mẹ, cái thân thể của nó mỏng manh, nhạy cảm nên khi được bồng ẳm, được tắm 
								rửa lau chùi, nó cảm thấy đau đớn như bị kim đâm, dao cắt…
							
							Một vị tỳ-khưu bất giác thốt lên: “Ồ, sự thật này thật là kinh khiếp” 
							
							Đức Thế Tôn kết luận:
							
							-Ừ, khổ sanh là vậy, nầy chư tỳ-khưu! Từ khổ sanh ấy nó đi suốt quá trình 
								cái được gọi là sự sống. Rồi vô lượng nỗi khổ trên cuộc đời cũng từ cái khổ 
								sanh ấy mà ra. Nó là căn để của mọi nỗi khổ nên Như Lai khi tuyên giảng về khổ 
									đế, Như Lai đặt khổ sanh lên đầu tiên như là điều kiện quyết 
								định duyên sanh các khổ.
							
							Rồi khổ già (jarā-dukkha)? Đức Thế Tôn tiếp tục - Già, hàm chỉ làn 
								da nhăn nheo, co rúm lại như quả mướp đắng phơi khô; mái tóc xanh mơn thuở nào 
								bây giờ như tro than lấm tấm hoặc bạc phếch; đôi mắt biếc thắm thời trai trẻ 
								chỉ còn là cái hố ghèn, lờ mờ đục trắng không thấy gì. Rồi còn hàm răng chỉ còn 
								như tro xỉ, đau nhức, sâu đục mà rơi rụng lần lần. Tai thì bắt đầu điếc lãng, 
								nghễnh ngãng. Chiếc lưng bây giờ cong gập như cái đòn xay. Chân tay lập cập, 
								run rẫy, đau cốt, nhức xương, ăn ngủ không được, lú lẩn, nói trước quên sau… 
								Nói cách khác già lão là đặc tính của hữu vi, nó chỉ cho các căn bị suy yếu, hư 
								hoại, sức lực giảm mòn, tuổi trẻ biến tan, trí nhớ bị phá sản, trí tuệ sút kém… 
								Khái quát, nó là toàn bộ sự lụi tàn, hủy hoại, già úa của từng phân tử, nguyên 
								tử, tế bào; vô thường, lão suy từng sắc chất, huyết tố, từng năng lực, khí lực 
								của chúng hữu tình. Khi cái thân già, kéo theo cái tâm già; đôi 
								khi không chỉ khổ ở nơi thân mà còn duyên sanh khổ ở nơi tâm là sầu, bi, ưu, 
								não nữa…
							
							Về bệnh, về khổ bệnh (byādhi-dukkha)- chúng là cả hằng trăm loại bệnh, 
								hằng ngàn loại bệnh khi mang thân xác hữu vi. Chúng có từ ngũ cốc, hoa quả, rau 
								trái, các loài động vật trong vườn nhà, trong rừng, trên trời, dưới sông biển 
								ao hồ; chúng đến từ trong nước, trong không khí; chúng đồng sanh, duyên khởi 
								với các cư dân, cộng đồng tại các thị tứ đang phát triển; chúng còn do ăn 
								nhiều, ngủ nhiều, làm việc nhiều, suy nghĩ nhiều; chúng còn do thời tiết nắng 
								mưa, nóng lạnh thất thường; và cuối cùng, chỉ cần khí huyết đảo lộn, tứ đại bất 
								hòa cũng đủ cho ta thấy rõ cái khổ bệnh của thân. Trong tứ đại, chỉ cần một đại 
								thịnh, hay một đại suy đã sinh bệnh rồi. Bệnh có từ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. 
								Ở nơi thân thì có bệnh ở nơi da, nơi răng, nơi thịt, nơi gân, nơi xương, nơi 
								tủy, nơi thận, nơi tim, nơi gan, nơi hoành cách mô, nơi lá lách, nơi phổi, nơi 
								ruột non, ruột già, bao tử. Cũng có bệnh do não, do mật, do đàm, do nước tiểu, 
								do máu, do mỡ, trong khớp xương, trong tủy sống… Có bệnh chữa được, có bệnh 
								không thể chữa được. Và dường như cứ mỗi mười năm, mỗi trăm năm, con người phải 
								đối diện với những căn bệnh mới; nó tăng trưởng theo sự sinh hoạt vật chất 
								thịnh mãn của con người.  Nói tóm lại, có thân là bị chi phối bởi các định 
								luật của vũ trụ; đó là phải chịu ảnh hưởng của ngày đêm, nắng mưa, nóng lạnh, 
								mặt trời, mặt trăng, các lực, các khí, các nghiệp tương tác trong vạn hữu. Có 
								thân là có bệnh, và bệnh nào cũng khó chịu, đau đớn, thống khổ cả. 
							
							Còn chết, về khổ chết (maraṇa-dukkha)- cũng tương tự vậy, trăm cái 
								chết, ngàn cách chết sẽ chờ đợi để tước đi sanh mạng của chúng sinh. Chết do 
								đói quá, chết do no quá, chết do nước, do lửa, do lũ, do bão, do tai nạn, do ốm 
								đau, do vũ khí, do độc chất; chết do thiếu máu, do dư máu, do mật, do đàm, do 
								khí, do tim, do gan, do thận… Tóm lại là chết do hết tuổi thọ, chết do  
								nghiệp, chết do bởi hằng trăm loại nghiệp, chết do hết phước báo hoặc do hằng 
								trăm lý do khác nhau. Chúng đến từ bên ngoài hay tự bên trong thân thể - và, 
								sớm trưa chiều tối, ngày đêm lúc nào bóng dáng của tử thần cũng lãng vãng với 
								lưỡi hái trên tay… Nói cách khác, chết là đặc tính tự nhiên của pháp hữu vi. Nó 
								cắt đứt mạng căn. Nó biểu hiện sự vắng mặt trong các sanh thú. Nó làm rơi rụng 
								khỏi kiếp sống; ung thối, rữa nát mọi sinh mệnh.
							
							Tất cả khổ chết ấy, quả thật là đáng sợ, nhưng chúng chỉ là cái khổ thô 
								tháo, khổ thuộc về vật chất; chúng hữu tình từ giai đoạn sanh đến tử còn bị chi 
								phối bởi những nỗi khổ thuộc về tinh thần nữa, đó sầu, bi, ưu, não.
							
							Rồi đức Thế Tôn còn chịu khó, cặn kẽ nói về sầu, về khổ sầu (soka-dukkha),
								đặc tính của sầu, tác dụng của sầu lên toàn bộ thân tâm. Sầu được hiện 
								ra bên ngoài là cái buồn bã, là cái rầu rĩ, là cái sầu muộn, là cái héo úa, 
								xanh tái của làn da mặt; nhưng bên trong là sự mệt mỏi, chán chường của các tâm 
								sở. Nó còn là sự đốt cháy âm ỉ, liên lỉ; tuy không bốc thành lửa ngọn nhưng làm 
								cho con tim héo úa, gan ruột như bị xào nấu trong chảo với lửa riu riu ở bên 
								dưới.
							
							Bi, khổ bi (parideva-dukkha), được biểu lộ bên ngoài là khóc than, rên 
								rỉ, kể lể… Là cái khổ cao hơn sầu một bậc. Lửa bị nung đốt bên trong 
								cũng mạnh hơn nên nó làm cho tim gan khô cháy, làm cho môi khô, cổ rát, lưỡi 
								đắng…
							
							Ưu, khổ ưu (domanassa-dukkha), là cái khổ đã len sâu, thấm đẫm ở 
								trong tâm hồn. Là sự bức bách, thống khổ đã cao hơn bi một bậc. Nó làm 
								cho sự lo buồn, lo nghĩ cứ như là thốn đau, nhức nhối tận tâm can. Ai bị nanh 
								vuốt của ưu tóm lấy – do bị lửa nung đốt bên trong – thì kẻ đó than 
								khóc, bứt tóc bứt tai, đấm ngực, lăn qua lộn lại, vật vã, đớn đau ê chề… không 
								kiểm soát mình được nữa.
							
							Não, khổ não (upāyāsa-dukkha), đây là sự khổ đã đến chỗ cao độ, đã đến 
								chỗ thất vọng, tuyệt vọng hoàn toàn. Tuy không còn biểu hiện lộ liễu ở bên 
								ngoài như ưu, bi nhưng nó tương tự như sau khi xào nấu, tim gan ruột đã 
								teo tóp, khô quắp lại. Nếu sầu, bi, ưu, não đi chung với nhau, kết hợp 
								với nhau hoặc đồng sanh thì dễ dẫn đến uống thuốc độc, treo cổ, cắt mạch máu 
								hoặc tự sát với con dao!
							
							Sầu bi ưu não ở trên đôi khi còn do kết hợp với cầu bất đắc khổ (yampicchaṃ 
									na labhati tampi dukhaṃ), tức là mong muốn, mong cầu (icchaṃ), ước 
								nguyện cái gì đó mà không được, không thành (na labhati) nên sinh ra 
								khổ. Càng sống, càng lớn khôn, càng trải nghiệm cho đến khi kề bên nấm 
								mồ, con người mới thấm thía rằng: cuộc đời là cái gì chung thân bất nghịch ý, 
								bất như ý, bất toại nguyện! Không có một nhu cầu thỏa mãn nào, qua mắt, tai, 
								mũi, lưõi, thân có thể làm cho con người vừa lòng, toại nguyện; chúng luôn luôn 
								cảm thấy thiếu thốn, không được vừa ý; do vậy thúc hối chúng đi tìm để thỏa mãn 
								nữa. Nhục dục ngũ trần thì càng uống, càng khát – và rồi càng tầm cầu thỏa mãn 
								càng đối diện với hư vô, bị hư vô nuốt chửng hay bị hư vô thiêu cháy! Ngay 
								chính các mục tiêu, ước mơ, lý tưởng khởi từ tình yêu, sự nghiệp, tiền bạc, 
								danh vọng, địa vị… chúng chỉ là cái rỗng không, bất toàn; ngay cả khi có nó, 
								lúc thành tựu được, lúc nắm bắt được thì chúng không phải thế, chúng là cái 
								khác, chúng còn ở trước mặt, còn ở truớc tầm tay với! Điều này là sự thực, là 
								chân lý – nên bất toại nguyện khổ chi phối toàn bộ nhân loại, chư thiên, phạm 
								thiên – không chừa một ai!   Ái biệt ly khổ (piye hi vippayogo 
									dukkho), tức là người và vật mà mình thương yêu, vừa lòng (piya) 
								thì phải bị chia biệt, lìa xa (vippayoga), sinh ra loại khổ này. Thế 
								là biết bao nhiêu yêu thương, trìu mến, luyến ái bị chặn bít, bị cắt đứt, bị 
								ngại duyên làm cho ta bị tổn thuơng, sầu muộn, đau khổ. Nó còn có nghĩa là bị 
								tách rời, đoạn tuyệt cái gì đáng thích, đáng ưa. Nó làm ta mất liên  lạc 
								với thế giới và môi trường thương yêu quen thuộc. Nó còn là sự mất cha, mất mẹ, 
								mất vợ, mất chồng, mất con, mất cháu, mất thầy, mất bạṇ, mất tài sản, mất sự 
								nghiệp…
							
							Oán tăng hội khổ (appiyehi sampayogo dukkho), tức là người mà mình thù 
								oán, mình ghét, mình không ưa, không vừa lòng (appiya) thì phải thường 
								gần gũi, tiếp xúc, thân cận (sampayoga) mà sinh ra khổ này. Thế là biết 
								bao nhiêu là bực bội, khó chịu, oán ghét có thể đưa đến hận thù cứ đốt lửa âm ỉ 
								trong lòng…
							
							Nói tóm lại, ngũ thủ uẩn khổ (pañcupādānakkhandhā-dukkhā) - là khi 
								có sắc thân này, có cảm thọ, tri giác, tâm hành và nhận 
									thức; và nhất là bám víu vào nó, chấp thủ nó, ái luyến nó, nhận nó là 
								ta, là của ta thì vô lượng thống khổ sẽ duyên sinh, khởi sinh đến trùng 
								trùng, bất khả hủy diệt. Toàn bộ ấy là sự thật về khổ, là khổ đế, 
								chi phối các chúng hữu tình.
							
							Như vị lương y siêu việt, sau khi xem bệnh chứng, muốn chẩn trị có hiệu quả phải 
								tìm cho ra căn do, nguyên nhân, nguồn gốc của bệnh; cũng vậy, đức Phật lại cặn 
								kẽ trình bày về gốc nguồn phát sanh khổ đế - chính là ái!
							
							Đức Phật dạy:
							
							- Nầy chư tỳ-khưu! Ái chính là khổ tập đế! Ở đâu, lúc nào, 
								phạm vị nào, hoạt dụng nào cũng có ái. Nó có từ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. 
								Nó có từ sắc thanh, hương, vị, xúc, pháp. Nó có từ quá khứ, hiện tại, vị lai. 
								Nó có từ cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc. Nó có cái thô, có cái tế, có cái thanh, 
								có cái trược, có cái gần, có cái xa, có cái thấy được, có cái không thấy được. 
								Ở đâu, lúc nào, phạm vi nào, hoạt dụng nào mà có phát sanh vừa lòng, ưa thích, 
								thích thú, yêu mến, yêu thương, thích khoái rồi đưa đến mê say, chìm đắm, mong 
								được thỏa mãn, hỷ đắc – thì nơi ấy có ái! Lại còn có ái ít người thấy là mong 
								mình trẻ mãi, xuân mãi, sức khỏe mãi; những sở hữu cả vật chất và tinh thần của 
								mình đều được thường tồn, kiên cố, bất hoại; rồi còn mong linh hồn của mình 
								được trường cửu! Đôi khi cảm thấy hạnh phúc trần gian phù du, bọt bèo quá, họ 
								muốn tu hành để sống đời trường xuân, bất lão ở các cõi trời có dục vật chất 
								được phóng đại tột cùng! Có trường hợp ngược lại, là sợ mình chết là hết nên 
								tìm cách hưởng mau, hưởng vội, tìm đủ mọi cách để thỏa mãn tận cùng không kể 
								đến lẽ phải, đạo đức, tình người và tình sanh loại! Ôi, ái tràn ngập ba cõi, 
								bốn loài! Ái là đầu mối, là cộng sinh với tham lam, sân hận, si mê. Ái được thì 
								tham; ái không được thì sân - rồi từ đó phát sanh cả một rừng tâm lý hỗn mang, 
								sâm si gai chông lùm bụi của tật của đố, của bất mãn, của phản bội, vô ơn, bạc 
								bẽo, chán chường, kiêu ngạo, hống hách, máu lửa, chiến tranh, hận thù… phủ trùm 
								lên hoàn vũ, lên sinh mệnh các giống hữu tình…
							
							Và rồi nầy chư tỳ-khưu! Ái diệt là Niết-bàn. Niết-bàn là khổ diệt 
										đế! Ái diệt là nguội tắt tham sân. Ái diệt là sự chấp thủ ngũ 
								uẩn không còn nữa. Ái diệt là căn nhà bản ngã được công phu xây dựng từ vô 
								lượng kiếp bị phá tan; bao nhiêu cột, kèo, rui, mèn, đòn tay, đòn dông, tường 
								vách, mái lợp… bị trí tuệ giải thoát đốt cháy không còn dư tàn. Thế rồi, niềm 
								vui siêu thế hiện ra. Vô lượng bệnh khổ không còn nữa. Sinh tử trầm luân trong 
								ba cõi, sáu đường không còn nữa. Tuy nhiên, Niết-bàn không nằm trong lý trí, tư 
								duy, suy luận, ngữ ngôn, khái niệm; nó phải được thực chứng; nó phải được thấy 
								ngay, thấy thẳng bởi tuệ giác vô vi, vô nhiễm. Đây là chân lý tối hậu, là sự 
								thực tối hậu – không còn bị chi phối bởi thế giới hữu vi hạn cuộc, không còn bị 
								quy định bởi thời gian và các phạm trù ước lệ nữa. Nó siêu xuất ba cõi. Tạm gọi 
								nó là cái phúc lạc thâm sâu, tuyệt đối, không thể nghĩ bàn! 
							
							Thời pháp giảng đến ngang đây thì hôm đó trời đã quá khuya, năm vị tân tỳ-khưu 
								thưa thỉnh đức Phật nghỉ ngơi. Thời pháp đã được đức Thế Tôn phân tích 
								chi ly, cặn kẽ như thế nhưng cứ vẫn tồn đọng trong tâm trí các vị tân tỳ-khưu 
								nhiều câu hỏi, nhất là Niết-bàn. Đêm đó dường như cả năm vị không ngủ 
								nghỉ, cứ mải lầm thầm trò chuyện. Và đây là những câu hỏi tồn nghi:
							
							- Niết-bàn không nghĩ suy được, không lý giải được thì nó có phải là phi 
									hữu – như lông rùa, sừng thỏ?
							
							- Niết-bàn vắng mặt ngũ uẩn, như vậy thì nó còn gì, hư vô chăng?
							
							- Đặc tính của Niết-bàn là sự hủy diệt chăng? Nó hủy diệt cấu uế, 
								hủy diệt tham sân si, hủy diệt các sanh thú – vì nó không còn tái sanh?
							
							- Niết-bàn không phải hữu vi nên nó là phi sở tạo?
							
							- Niết-bàn không do tạo tác, không có già chết, vậy nó thường trụ chăng?
							
							Koṇḍañña nói nhỏ với các bạn:
							
							- Những câu hỏi ấy hay lắm, nhưng bài pháp đức Thế Tôn chưa giảng xong, chúng ta 
								đừng làm phiền đến ngài. Hãy kham nhẫn chờ đợi!
							
							Những ngày sau đó, lúc thì ngoài trời, lúc thì trong am cốc, đức Phật lại tiếp 
								tục triển khai rộng rãi bài pháp Tứ thánh đế:
							
							- Niết-bàn như đã trình bày, chắc chắn là còn điểm chưa được sáng tỏ. Chưa được 
								sáng tỏ nên có sự nghi ngờ, nghi hoặc là lẽ dĩ nhiên. Chỗ đến là như vậy, mục 
								đích của sa-môn hạnh là như vậy; nhưng còn lộ trình đi đến đó nữa – con đường 
								hành trì - tức là đạo lộ dẫn đến Niết-bàn. 
							
							Sau đó, đức Phật đưa ra bản đồ tâm linh - lộ trình trung đạo - như đã 
								khái quát dẫn lược, là Đạo đế! Lại một lần nữa, đức 
								Phật chi ly trình bày ngữ nghĩa từng danh từ một. Con đường bát chánh
								khởi đầu bằng chánh kiến – cái thấy chơn 
								chánh – cái thấy viên dung, tròn trặn, trong suốt, như chân, như thực: Cái 
									thấy Tứ thánh đế. Nói cách khác, chánh kiến là cái thấy chưa bị 
								méo mó, sai lệch hay bị khúc xạ bởi lý trí, tư duy, các trạng thái tâm lý hay 
								tình cảm chủ quan: cái thấy đúng như thực tướng! Chánh kiến ấy là chánh 
									kiến siêu thế, vô lậu và không có sanh y – dành cho bậc vô học.
								Cũng có một loại chánh kiến khác nữa. Đấy là thấy rõ thiện, bất thiện, khổ báo, 
								phước báo, nhân quả, kiếp này, kiếp kia, luân hồi tử sanh… Nó thuộc tại thế, hữu 
									lậu, còn sanh y – dành cho bậc hữu học. Cả 
								hai loại chánh kiến trên đều loại trừ tà kiến, loại trừ thường kiến, đoạn kiến; 
								loại trừ kiến kiết phược, kiến trù lâm, kiến hoang vu, kiến điên đảo của tất 
								thảy sáu mươi hai tà kiến trên thế gian! Khi có được cái chánh kiến ấy rồi mới 
								có được chánh tư duy - tức là suy nghĩ đúng, 
									suy nghĩ chơn chánh! Đây là do nhờ cái thấy đúng dẫn đến suy 
									nghĩ đúng - chứ không phải có một cái chánh để suy nghĩ! Và, nếu 
								có một cái chánh để hành trì thì cái chánh ấy cũng trở thành cái bị chấp 
								thủ, trở thành cái bóng của ái, của ngã, của kiến. Chánh tư duy phải 
								cần được hiểu là nó thuộc phạm trù đức lý, đạo hạnh. Muốn biết cái chánh ấy là 
								gì thì chỉ cần xa lìa dục tư duy, sân tư duy, hại tư duy. Xa lìa dục 
									tư duy có nghĩa là đừng suy nghĩ về sắc thanh hương vị xúc, phải hướng 
								đến sự khước từ, xa lánh, xuất ly chúng (nekkhamma-saṅkappa); nhờ vậy, 
								vị ngã, tham dục, tham ái không có cơ hội nẩy mầm! Xa lìa sân tư duy cũng 
								có nghĩa tương tự, là đừng có suy nghĩ đến chuyện nóng nảy, ganh ghét, bực tức; 
								khi mà các thuộc tính của sân này được làm cho dịu, cho mát đi thì ta có được 
								trạng thái tâm vô sân (avyāpada-saṅkappa, tư duy vô sân) rất gần gũi với 
								tâm từ. Cái tư duy thứ ba – xa lìa hại tư duy - tức là đừng có nghĩ đến 
								chuyện ác ý hại người hoặc nuôi dưỡng niệm hung bạo. Nói cách khác, khi ấy là 
								ta đã có được vô hại tư duy (avihimsā-saṅkappa), hỗ trợ thêm cho vô sân 
								ở trên để có được một đầu óc minh mẫn, sáng suốt, một cái tâm trong trẻo, mát 
								lành. Từ cái tâm ấy, cái trí ấy mà tư duy – thì tư duy nào cũng thiện, cũng 
								lành, cũng tốt, cũng đẹp, cũng thanh lương, cũng cao thượng, cũng ưu thắng cả! Chánh 
									tư duy dẫn đến chánh ngữ - lời nói chơn chánh, lời nói 
									đúng với sự thực, như thực! Chánh ngữ còn nội hàm: lời nói ấy 
								phải y cứ trên cái thật, cái sự thật (chân); lời nói ấy phải lành, tốt, 
								thiện ích (thiện); lời nói ấy phải dễ nghe, dễ hoan hỷ cái lỗ tai (mỹ). 
								Ba yếu tố ấy mà thiếu một thì xem như chánh ngữ còn bất toàn, chưa trọn vẹn. 
								Với nội dung tốt đẹp, tuyệt bích của chánh ngữ, như vậy thì lời nói nào cũng 
								đem đến lợi ích cho mình và cho người. Nói lời đầy đủ như vậy thì vô hình 
								trung, đã loại trừ lời nói dối, nói sai sự thật, nói vu oan, vu cáo, nói lời 
								độc ác, hung dữ, phỉ báng, nhiếc móc, nhục mạ; cũng tránh nói lời hai lưỡi, đâm 
								thọc, dệt gấm thêu hoa, nói trơn như mỡ, nói ngọt như đường hoặc thêm mắm, thêm 
								muối, thêm gia vị cho bùi tai; phải tránh nói lời cộc cằn, thô lỗ, nói lời đâm 
								bị thóc, thọc bị gạo; cần tránh nói lời tục tĩu vô duyên, nói lời phù phiếm, 
								rỗng tuếch làm kẻ trí nhàm tai. Tóm tắt là cấm dối vọng, ác khẩu, ỷ ngữ, phù 
									phiếm.  Chánh ngữ dẫn đến chánh nghiệp - tức 
								là nghiệp hành chơn chánh - thân chơn chánh. Thân chơn chánh hoặc 
								thiện thân hành - tức là thân không làm điều tà vạy, bất chánh, điều ác, điều 
								mà thế gian chê trách; tức là cấm sát, đạo và dâm. Thứ nhất là 
								không sát sanh hại người, hại vật, biết tôn trong sự sống của các loài hữu 
								tình, ngay cả vô tình như cây cỏ cũng không nên chặt phá, đốt bỏ một cách bừa 
								bãi. Thứ hai là chẳng nên trộm cắp, khoét tường, nạy tủ lấy tài sản, của cải, 
								vật có giá trị hay không có giá trị thuộc sở hữu của người khác. Thứ ba là cấm 
								tuyệt tà dâm, tà hạnh, rủ rê, dụ dỗ chung chạ với vợ con người; riêng bậc xuất 
								gia thì phải sống đời phạm hạnh thanh tịnh. Còn nữa, chánh nghiệp dẫn 
								đến chánh mạng – nuôi mạng chơn chánh - tức là tránh xa cách nuôi 
								sống tà mạng do thân và khẩu.  Có cái thân là phải nuôi dưỡng nó; cho nó 
								ăn cơm, mặc áo, cho nó uống thuốc khi bệnh, cho nó cái chỗ để nó ngủ nghỉ, 
								tránh nắng mưa, nóng lạnh, rắn rít, muỗi mòng… Đời sống các tộc người thuộc các 
								bộ lạc sơ khai, nhu cầu ít nên các phương tiện vật chất để sinh sống khá đơn 
								giản. Khi các thôn ấp, làng xóm được thành lập thì những đòi hỏi về tiện ích, 
								tiện nghi cứ tăng lên mãi; và đời sống với những nhu cầu về ăn, mặc, ở, thuốc 
								men càng phức tạp, càng rối rắm. Con người do những tầm cầu, săn tìm vật chất, 
								của cải đã bắt đầu nhúng tay vào cái ác, nhu cầu ngày càng nhiều thì cái ác 
								càng tăng. Cái ác càng tăng thì những thói hư, tật xấu, gian tham, ích kỷ, 
								lường gạt, xảo quyệt, sân độc, hung bạo… cứ thế mà tự do mọc rễ, đâm chồi. Tại 
								các thành phố, thị tứ phát triển thì vấn đề nuôi mạng đã trở nên đa dạng, phong 
								phú, nhiều chiều. Nhu cầu, vật chất, phương tiện ăn ở, sinh hoạt càng đòi hỏi 
								đáp ứng thì các nghề nghiệp bất chánh thi nhau mọc lên như nấm. Do vậy, những 
								bậc thiện trí, những kẻ hiền đức xưa và nay - trước hiện trạng xã hội và con 
								người sa lầy, mê đắm dục vật chất như thế – đã biết tự ngăn giữ mình, khuyến 
								hóa mình phải tránh xa các nghề nghiệp được xem là tà mạng như sau: nghề sát 
								sanh hại vật, nghề buôn bán vũ khí, nghề dao thớt bán mua các loài động vật, 
								nghề bán mua các loại độc dược, nghề chưng cất, bán mua rượu men, rượu nấu… 
								Nuôi dưỡng cái thân, cưng chiều cái thân, ái luyến cái thân càng nhiều thì ác 
								nghiệp càng lớn. Một thiện gia nam tử sống giữa cuộc đời thật khó giữ cho bàn 
								tay mình thanh sạch; ít nhiều phải bị dính bùn, nhuốm bụi. Riêng bậc xuất gia 
								do nhu cầu đơn giản, chỉ có chiếc mỏ (bình bát), đôi cánh (y nội, y 
									ngoại), mà thong dong biển rộng sông dài. Họ ăn vừa đủ, mặc vừa đủ, ngủ 
								đâu cũng được, thuốc men thì có nước tiểu, phân bò, rễ củ đó đây. Tứ sự càng dị 
								giản thì đời sa-môn hạnh càng thanh nhàn, vô sự. Nghề nghiệp nuôi mạng chơn 
								chánh của sa-môn là ăn vật thực người ta cho, người ta cúng dường; mặc y áo do 
								vải lượm, do người ta quăng bỏ ở nghĩa địa, giữa rừng, góc chợ, ven đường. 
								Thuốc men hoặc chỗ ngủ nghỉ cũng tương tợ vậy – cái gì người ta chưa cho, chưa 
								trao tận tay với thành ý mà mình tự ý lấy dùng, sử dụng, chiếm hữu hoặc nói 
								ướm, nói lời gợi ý – thì đấy chính là tà mạng!
							
							Khi mà đã có kiến, tư duy như ngọn đèn thắp sáng tâm và trí rồi thì ngữ, 
									nghiệp, mạng là giai đoạn hoàn thiện thân, khẩu, hoàn thiện đức hạnh 
								bản thân. Khi bản thân đã chính đính, nghiêm túc, mẫu mực rồi– ta còn cần phải 
								cố gắng, tích cực nuôi dưõng tâm ý thiện lương, lánh xa ác niệm – và đấy là chánh 
										tinh tấn - nỗ lực chơn chánh. Trong tâm ta có cái mầm ác và có 
								cái mầm thiện. Mầm ác thì đừng cho nó nhú lên, nếu đã nhú lên rồi thì quyết tâm 
								cắt bỏ, đào bứng nó đi. Mầm thiện thì chăm chăm, khéo léo, cố gắng làm cho nó 
								nhú ra, nếu đã nhú ra rồi thì nâng niu, săn sóc, tích cực thêm phân thêm nước 
								cho nó mau phát triển tỏa thành cây xanh, bóng mát! Nói cách khác, chánh tinh 
								tấn là một công phu quyết liệt để loại trừ những trạng thái tâm lý xấu, ác; và 
								nuôi dưỡng, trưởng dưỡng những trạng thái tâm lý lành, tốt! Đơn giản chỉ có vậy 
								nhưng mà nhiêu khê, vất vả vô cùng – nên đi trước nó đã có kiến, tư duy, 
									ngữ nghiệp, mạng hỗ trợ, thêm sức mạnh, tạo môi trường thuận lợi. Và, 
								có lẽ, như vậy cũng chưa đủ - nên sau chánh tinh tấn là chánh niệm
								– chú tâm chơn chánh – chú tâm theo dõi bốn chỗ thường duyên sanh các pháp bên 
								trong lẫn bên ngoài: Ấy là niệm thân, niệm thọ, niệm tâm, niệm pháp
								– tức là Tứ niệm xứ! Phiền não, khổ đau cũng ở đấy, mà an tịnh, Niết-bàn 
								cũng ở đấy! Công phu thanh lọc mọi bụi bặm, mọi ô nhiễm thân tâm, thấy rõ thực 
								tướng các pháp phải được bắt đầu từ đây - chánh niệm – tức là chú tâm 
								theo dõi, ghi nhận mọi động tịnh, mọi tác động đến từ sắc thân, các cảm thọ, 
								các trạng thái tâm cùng với đối tượng danh pháp, sắc pháp. Chánh niệm giúp 
								ta không lơ là, không quên, không thất niệm, làm cho tâm được an lập, kiên trú 
								để hỗ trợ cho chánh định…
							
							Đức Phật giảng đến đây, lúc đang nghỉ hơi, tỳ-khưu Bhaddiya hỏi:
							
							- Bạch đức Thế Tôn! Niệm thân chính là niệm cái sắc thân này - từ hơi thở vô ra, 
								các oai nghi đi đứng nằm ngồi và cả ba mươi hai thể trược – hay còn gì khác 
								nữa?
							
							- Đúng vậy, này Bhaddiya, nhưng còn nữa - đức Phật nói - kể cả tứ đại cấu 
								thành, kể cả khi quán tưởng các hình dạng tử thi tan rã dần dần nơi nghĩa địa.
							
							- Xin đức Thế Tôn giảng rõ thêm về niệm thọ, niệm tâm, niệm pháp cho 
								chúng đệ tử dễ lãnh hội? Tỳ-khưu Assaji hỏi.
							
							- Niệm thọ tức là tất cả mọi cảm thọ - khổ lạc xả hỷ ưu - đều phải chú 
								tâm ghi nhận một cách trung thực. Một cảm giác nẩy sinh, nó sẽ tác động toàn bộ 
								tâm sinh lý, cảm giác ấy nó khó chịu (khổ), dễ chịu (lạc), trung 
								tính (xả), hân hoan (hỷ) hay bực bội (ưu) đều được ghi 
								nhận một cách như thực, đừng giảm trừ nó, đừng khống chế nó mà cũng đừng thỏa 
								hiệp. Nó đến như thế nào, nó an trú như thế nào, nó ra đi như thế nào – đúng 
								với định luật sinh diệt - đừng bị xác lập hay bị quy định bởi các tâm lý chủ 
								quan! Phải lấy như chân như thực - như thực tánh – mà quán niệm! Niệm tâm
								thì chú tâm ghi nhận tất cả mọi trạng thái tâm lý xảy ra nơi tâm: tham, sân, si 
								hay vô tham, vô sân, vô si; kể cả tâm dục giới, sắc giới, vô sắc giới; kể cả 
								tâm có giải thoát phiền não hay tâm chưa được giải thoát phiền não. Niệm pháp
								thì phức tạp hơn, vì nội hàm pháp rất lớn rộng. Tuy nhiên, ta chỉ khu biệt, 
								giới hạn những pháp thuộc đối tượng của tâm trên lộ trình tu tập. Khi tu tập, 
								ta sẽ thấy rõ những pháp che lấp, chướng ngại như sự mệt mỏi, bải hoải của các 
								tâm sở (thīna, hôn trầm), sự dã dượi, buồn ngủ của thân (middha, thụy
								miên), nghi nan, ngờ vực về thiện pháp, pháp hành (nghi, vicikicchā);
								nóng nảy, bực bội, khó chịu (sân, vyāpada), lay động, phóng dật (trạo cử, 
									uddhacca) hoặc ăn năn hối hận (hối quá, kukkucca); và 
								tham muốn nhục dục (dục lạc, kāmachanda). Lúc tu thiền 
								định thì năm pháp che lấp, chướng ngại ấy sẽ được đối trị, làm cho yên lặng do 
								nhờ sự xuất hiện của năm thiền chi; ấy là tầm (vitakka),tứ (vicāra),
								phỉ (pīti), lạc (sukha) và nhất tâm (ekaggatā).
								Đấy là những pháp cần được ghi nhận. Ngoài ra, năm uẩn, mười hai nhân 
									duyên, bảy giác chi… đều là pháp phải quán niệm, ghi nhận một cách 
								trung thực.
							
							- Bạch đức Thế Tôn! Vậy là trong niệm có định? Mahānāma hỏi.
							
							- Niệm hỗ trợ cho định, niệm dẫn đến định, trong niệm có định mà niệm như thực 
									tánh còn dẫn đến tuệ nữa - đức Phật lại ân cần giải thích – Tuy 
								nhiên, điều ấy Như Lai lại để dành một dịp khác. Còn rất nhiều pháp ẩn tiềm 
								trong bài giảng cô đọng ở trên, muốn hiểu cho tận tường, thấu đáo, thông tỏ, 
								Như Lai phải liễu giải nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm, thậm chí cả trăm 
								năm, ngại rằng  cũng không nói hết!
							
							Nghe vậy cả năm vị tân tỳ-khưu lặng lẽ đưa mắt nhìn nhau. Họ thấy rằng, đức Phật 
								dường như có cả một kho tàng; càng giảng càng thấy rộng và sâu, càng giảng, họ 
								càng nghe những điều mới lạ; và quan trọng nhất là tâm họ càng an tịnh, trí họ 
								càng sáng tỏ. Đúng là pháp mầu vi diệu, đúng là pháp mầu bất tử. 
								Họ nghe mà như uống từng chữ, từng lời: ngọt, thanh, thù thắng, mênh mông và 
								sâu nhiệm!
							
							- Nầy chư tỳ-khưu! Còn chánh định nữa! Định thì các vị đã từng tu 
								tập, từng chứng đắc, dù thấp hay cao theo tôn giáo truyền thống, các vị đã biết 
								rõ rồi. Định tối thượng nhất trong tam giới là định vô sở hữu
								và định phi phi tưởng từ hai bậc đạo sư Ālāra Kālāmagotta và Uddaka 
									Rāmaputta – thì Như Lai cũng đã từng chứng đắc, nhưng tại sao Như Lai 
								lại bỏ đi? Như Lai bỏ đi vì chúng không đưa đến tuệ nhãn, tuệ trí, tuệ giác, 
								tuệ minh, giác ngộ, giải thoát. Các định ấy còn ở trong sinh tử. Cả hai vị đạo 
								sư còn dính mắc, không chịu lìa bỏ, còn chấp thủ, còn sở hữu xả và nhất tâm, 
								còn an trú trạng thái phúc lạc thâm sâu của xả và nhất tâm ấy – 
								nên Như Lai bảo đấy không phải là chánh định. Còn kiến chấp và ngã chấp, 
								còn thỏa hiệp với sinh tử thì không phải chánh định.  
								Trước các vị là những vị tỳ-khưu đầu tiên trong giáo pháp bất tử này, Như Lai 
								tuyên bố rằng: chỉ có định xuất thế, chỉ có định của các vị đắc tứ thánh, tứ quả 
									- có đối tượng là Niết-bàn – thì định ấy mới là định chơn chánh, là chánh 
										định! 
							
							Cả năm vị tỳ-khưu đều ớn lạnh, rùng mình, nổi gai ốc! Hóa ra các định mà họ an 
								trú bấy lâu nay không phải là chánh định, vậy là tà định chăng? Một sự đảo lộn 
								tri kiến như thế đã làm cho họ bàng hoàng, run sợ!
							
							Chợt Koṇḍañña hỏi một câu rất xác đáng:
							
							- Bạch đức Thế Tôn! Vậy thì có một định khác - định giải thoát - mà ngài 
								đã an trú từng đêm?
							
							Đức Phật mỉm nụ tiếu sanh tâm, đáp rằng:
							
							- Không có cái gọi là định giải thoát ấy, này Koṇḍañña! Thấy cả 
								năm vị đều rơi vào sự bối rối, ngơ ngác - Đức Phật bèn mở nút – Khi tâm giải 
									thoát, khi tuệ giải thoát trú vào định nào – thì định ấy đều được gọi là định 
									giải thoát – các vị cứ như thế mà lập tri!
							
							Cả năm vị đồng thở phào, nhẹ nhõm. Họ quá tâm đắc vào thời pháp, quá tri ân về 
								sự giảng giải tận tình của đức Thế Tôn – nên họ đồng sụp quỳ xuống lạy tạ và 
								rơm rớm nước mắt.
								 
							Tối hôm kia, tỳ-khưu Koṇḍañña có lẽ do nhiều suy nghĩ bởi thời pháp nên 
								đã đặt câu hỏi:
							
							- Trong khi giảng về Tứ thánh đế, đức Thế Tôn nhấn mạnh tuệ nhãn, 
									tuệ trí, tuệ giác, tuệ minh; nhưng đạo lộ dẫn đến Niết-bàn, là Bát thánh 
									đạo, Bát chánh đạo – con đường Trung đạo để tu tập, không thấy 
								nói đến chánh tuệ, không thấy một tuệ nào được đề cập? Chỉ có niệm
								đưa đến định? 
							
							Đức Phật vừa lòng với câu hỏi vô cùng:
							
							- Koṇḍañña, ông là bậc trí, đặt câu hỏi như ngón trỏ chỉ thẳng vào cái cơ 
								yếu, cái căn để. Đúng vậy, câu hỏi của ông chính là những vấn đề mà Như Lai 
								định tuyên thuyết hôm nay.
							
							Nầy chư tỳ-khưu! Sau khi trình bày về khổ, Như Lai nói nguyên nhân của khổ, sự 
								diệt khổ và con đường dẫn đến sự diệt khổ. Con đường ấy, lộ trình Bát chánh - 
								Như Lai cũng đã giảng giải khái quát và chi tiết, nhưng không có chánh tuệ!
								Các thời pháp hôm trước, Như Lai đề cập chánh kiến như là yếu tố đầu 
								tiên rồi cuối cùng mới dẫn đến chánh định. Thứ tự ấy là đúng, vì thấy 
								đúng thì tất cả đều đúng, nếu thấy sai thì tất cả đều sai! Tuy nhiên, đấy chỉ 
								là phương pháp giả lập. Nếu có người hỏi rằng, làm sao, mới nghe giáo pháp, mới 
								tu tập mà có được chánh kiến cao cả, vô thượng, trong sáng và vô nhiễm ấy? Câu 
								hỏi rất hay, rất xác đáng. Muốn có chánh kiến ấy thì phải có chánh định, 
								định tâm chân chánh, giải thoát! Muốn có định tâm chơn chánh, giải thoát thì 
								phải có chánh niệm, ghi nhận các pháp đúng như thực tướng. Muốn có chánh 
								niệm như thực ấy thì phải có ngữ, nghiệp, mạng thanh tịnh. Và muốn có 
								ngữ, nghiệp, mạng chơn chánh như thế thì phải cần có kiến và tư duy chơn 
								chánh dẫn dắt. Hóa ra là nó đi vòng tròn. Vòng tròn cũng không chính xác, phải 
								nói là tương quan, tương tác. Tương quan, tưong tác cũng không chính xác mà nó 
								đồng sinh. Nếu có tuệ minh sát nhìn ngắm thì ngay trong sát-na của đạo lộ thì 
								tâm tuệ viên dung, có chánh kiến soi chiếu - tuệ tâm sở - thì tất cả mọi chánh 
								kia đều có mặt. Nhưng khi sử dụng ngôn ngữ tại thế thì tạm thời có giả lập thứ 
								tự trước sau.
							
							Nầy chư tỳ-khưu! Vì giả lập nên nói có tám nhánh, tám đạo chi. Vì khi nói kiến và 
									tư duy là để mà tu tập trí - tuệ. Nói ngữ, nghiệp, mạng là 
								để mà tu tập thân, khẩu - giới. Nói niệm, định là để mà tu tập tâm 
									- định.Còn chánh tinh tấn thì tùy lúc, tùy khi nó hỗ trợ cho kiến, 
									tư duy, hỗ trợ cho ngữ, nghiệp, mạng, hỗ trợ cho niệm, định. 
								Thân, tâm, trí có giới, định, tuệ an lập và đều cần sự nỗ lực chơn chánh của tấn.
								Nhưng thân, tâm, trí là vận hành tương tác, bất ly; giới, định, tuệ cũng như 
								thế. Có cái này tất có cái kia, nó duyên khởi. Gọi Bát thánh đạo là 
								chỉ cái viên dung, tròn đầy trong tâm của bậc thánh. Gọi Bát chánh đạo
								là chỉ cho những sa-môn đang trên đường, đang trong từng giây khắc hoàn thiện 
								bản thân, đang tu tập giới, tu tập định, tu tập tuệ.
							
							Nầy chư tỳ-khưu! Như Lai từng nói là niệm dẫn đến định mà niệm cũng dẫn 
									đến tuệ - vì Tứ niệm xứ vừa thành tựu các định sắc giới vừa có 
								khả năng dẫn đến tuệ giải thoát. Tứ niệm xứ viên mãn –chánh niệm viên mãn - thì 
								cần định có định, cần tuệ có tuệ. Khi ấy, chánh định lại dẫn đến chánh kiến, chánh 
									kiến chính là chánh tuệ vậy. Và chánh tuệ nầy, tùy lúc, tùy khi, 
								tùy công năng, cấp độ, tùy hoạt dụng – còn được gọi là trạch pháp giác chi, tuệ 
									như ý túc, tuệ căn, tuệ lực, tuệ tâm sở. Chánh tư duy chính 
								là tầm tâm sở trong thiền chi; khi còn thuộc thế gian thì nó gồm ba loại 
								tầm viễn ly là tầm ly dục, tầm ly sân, tầm ly hại - sẽ thành tựu được ba 
								tâm riêng biệt là vô tham, từ và bi; nhưng ở trong đạo lộ xuất thế, 
								chúng chỉ là một do đoạn tận dục tham, sân và hại. Chánh ngữ bao 
								gồm bốn thiện ngữ nghiệp là đủ rồi. Chánh nghiệp bao gồm ba 
									thiện thân hành là đủ rồi. Chánh mạng được hiển lộ một 
								đời sống thiểu dục, tri túc là đủ rồi. Ngữ, nghiệp, mạng – 
								còn được gọi là ba tiết chế tâm sở - là giới hạnh được bậc 
								trí ưa thích, tán dương, nó thường được củng cố nhờ tín căn và tín lực. Chánh 
									tinh tấn hỗ trợ cho bất cứ đâu cần đến – như đã nói – nó gồm tứ 
									chánh cần, tấn tâm sở, tấn căn, tấn lực và tinh tấn giác chi. Chánh 
									niệm bao gồm tứ niệm xứ, niệm tâm sở, niệm căn, niệm lực và niệm 
									giác chi. Chánh định bao gồm các định có tầm, có tứ - vì 
								còn sử dụng để quán - nhất tâm tâm sở, định căn, định lực – còn 
								kể chung luôn hỷ, an, định, xả của giác chi… 
							
							Và nầy chư tỳ-khưu! Nếu Bát chánh đạo, Bát đạo chi không được hiểu rõ, 
								không được thấy rõ, không được hành trì đúng như Như Lai đã giảng giải – thì có 
								thể bị rơi vào bát tà đạo: tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà 
									mạng, tà tinh tấn, tà niệm, tà định; rồi chúng sẽ đưa đến tà tuệ và tà giải 
									thoát! 
							
							Đến ngang đây, các vị tỳ-khưu dường như đồng thanh nói:
							
							- Chúng đệ tử rợn ngợp về giáo pháp này. Kể về chi tiết, mạch lạc thì chúng 
								riêng lẽ như từng cái cá biệt; nhưng chúng lại lẫn trong nhau, tan hòa trong 
								nhau khó phân ra biên giới một cách rạch ròi! Bạch đức Thế Tôn, như vậy 
								là đủ rồi, như vậy là quá dư thừa để cho chúng đệ tử có thể có thời gian lãnh 
								hội thấu đáo. Chúng đệ tử còn cần phải suy gẫm, chiệm nghiệm từ trong mỗi động 
								thái, cử chỉ, oai nghi, từng hơi thở, từng khởi sanh của tâm niệm. Giáo pháp 
								này, quả thật, không phải tìm sự hợp lý trong suy luận mà phải hiện quán để 
								chứng thực, chứng nghiệm, bạch đức Thế Tôn!
							
							- Lành thay, các ông đã hiểu, đã thấy một phần nào. Như Lai hy vọng rằng, chỉ ít 
								hôm nữa thôi, các ông không những thông tỏ toàn vẹn đạo lộ xuất thế, mà còn 
								chấm dứt tất thảy mọi nghi nan về chuyện Niết-bàn là phi hữu, hư vô, thường trụ 
									hay phi sở tạo! 
							
							Cả năm vị tỳ khưu đồng giật mình, lông tóc dựng ngược: Đúng là sự thấy biết bất 
								khả tư nghì của bậc Chánh Đẳng Giác!
							
							
								 KINH VÔ NGÃ TƯỚNG 
							
							(Anattalakkhana sutta) 
							
							Lộc Uyển - Vườn Nai, địa thế xinh tươi, mát mẻ, trong lành như một ốc đảo thanh 
								bình. Có những tàn me cổ thụ, có những gốc cây Sāla sừng sững, có những 
								cội Assattha uy nghi, đường bệ, có những hàng xoài rậm rạp – chúng vừa 
								tỏa bóng mát vừa thanh lọc môi trường nên lúc nào cũng cảm giác không khí trong 
								trẻo, không một hạt bụi. Miền tụ lạc thạnh mậu nầy – Isipatana (Chư tiên đọa xứ) 
									- cách thành phố Bārāṇasī chỉ non một do-tuần(bây giờ là 11 km),
								là nơi cư dân đông đúc, sinh hoạt bán mua và cả sinh hoạt tôn giáo rất là sầm 
								uất và rộn rịp.
							
							Cứ mỗi buổi sáng, vệ sinh, thiền định, kinh hành xong, đợi mặt trời vừa rạng ở 
								chân trời là ba vị tỳ-khưu thay phiên nhau để đi trì bình khất thực; riêng đức 
								Phật thì họ cúc cung, tận tụy cúng dường. Do đã hiểu con đường trung đạo, tri 
								túc thiểu dục là chính, họ không còn ăn vật thực cỡ bằng nắm tay nữa, phải đủ 
								chất để nuôi dưỡng cái thân mà tu tập. Bước chân thong dong, nhàn nhã đã đưa họ 
								đến những thôn làng trù phú, đôi khi đi vào thành phố. Vật thực luôn đầy đủ, đủ 
								cả lượng, đủ cả chất. Tuy nhiên, theo ý của vị trưởng lão - tỳ-khưu Koṇḍañña 
								– thì tránh đi vào thành phố, vì đấy là thành phố của bà-la-môn giáo. Tín đồ 
								của bà-la-môn giáo ở đây khá cực đoan, nếu họ thấy một loại tu sĩ áo vàng, tóc 
								râu sạch sẽ, khác tu sĩ của họ - thì họ thường tỏ thái độ khinh ghét, miệt thị, 
								nói lời bất nhã, đôi khi lại trở ngại cho việc khất thực. Chẳng phải sợ hãi gì, 
								nhưng tránh sự va chạm hoặc hiểu lầm không cần thiết khi đang ở giai đoạn chiêm 
								nghiệm giáo pháp bất tử, còn mới mẻ đối với họ quá. Niềm tin thì ai cũng đã 
								vững vàng; nhưng khi chưa trang bị đủ kiến văn thì lúc ăn nói, giao tiếp, xúc 
								đối khó tránh khỏi những phát ngôn bất cập, thiển cận – có hại cho uy tín của 
								đức Tôn Sư. 
							
							Qua chỉ hơn mười ngày sau khi ăn uống, sinh hoạt trung đạo trở lại, họ đều đã có 
								da có thịt, trông đã khá hơn những năm tháng khổ hạnh. Nhờ tiết độ, nhờ hỷ lạc, 
								vị nào trông cũng có khí sắc với những cặp mắt đều long lanh sáng. Khi dừng 
								chân nghỉ ngơi, tránh mưa hoặc tránh bụi bùn do cả đoàn xe ngựa, xe bò thồ hành 
								tấp nập trên đường, họ thảo luận với nhau.
							
							Mahānāma nói:
							
							- Đức Phật khi còn là thái tử nổi tiếng về sở học, ba tập phệ-đà và mười tám môn 
								học nghệ chẳng có gì là không uyên bác. Y dược cũng vậy. Ngài trình bày Tứ diệu 
								đế như cách nói của một vị lương y. Bệnh này, nguyên nhân của bệnh này, muốn 
								cho lành, muốn chấm dứt bệnh này thì phải uống thuốc như thế này!
							
							Vappa phụ họa:
							
							- Đúng thế! Có nhiều cách lập luận rút ra từ đó cũng hay lắm! Này nhé, đói nè, 
									nguyên nhân của đói là do mất mùa nè, muốn sung túc, đầy đủ, khỏi đói là phải 
									biết cần mẫn, chăm lo nông vụ và mưa nắng thuận hòa nè! 
							
							Bhaddiya tỏ ra biết triển khai vấn đề:
							
							- Tuyệt! Nhưng cũng còn rất nhiều cách nói khác nữa. Ngu si này, nguyên nhân của 
									ngu si là do không nghe, không học hỏi; muốn sáng suốt, thông tuệ thì phải biết 
									học hỏi, thực hành giáo pháp! 
							
							Ngoài ra, đôi lúc họ thảo luận đến những điểm trong bài kinh Chuyển pháp luân, 
								những chỗ khó lãnh hội ở Diệt đế và Đạo đế. Chiều tối đến, nếu Koṇḍañña không 
								trả lời được thì họ hỏi đức Phật, và lúc nào thì ngài cũng sẵn sàng. Đức Phật 
								đã chuẩn bị và còn đang sẵn sàng để giảng một thời pháp quan trọng nữa. Thời 
								pháp này hoàn toàn đi ngược lại truyền thống tôn giáo cũ. Và từ xưa đến nay, 
								chưa hề có một ý tưởng, một luận điểm nào như thế được nêu lên. Dường như sau 
								khi chứng ngộ dưới cội bồ-đề, từ trung tâm điểm của tuệ giác, giáo pháp cứ từ 
								đó mà tỏa ra, không nói theo ai, không lập lại những kiến thức cũ mòn - đức 
								Phật biết rõ như vậy.
							
							Hôm kia, một buổi chiều tạnh ráo, đúng vào ngày ba mươi tháng Āsāḷha, biết 
								là cả năm vị tỳ-khưu đã chuẩn bị sẵn sàng tâm và trí - đức Phật gọi họ đến, 
								quây quần dưới cội cây Assattha to lớn nhất trong vườn, rồi bắt đầu buổi 
								thuyết pháp:
							
							- Nầy chư vị tỳ-khưu! Đây là thời pháp vô cùng quan trọng, được Như Lai gọi là 
								Vô ngã tướng. Mấy hôm trước, Như Lai có nói khái quát về Tứ niệm 
									xứ, tức là niệm thân, thọ, tâm, pháp; nay Như Lai muốn triển khai đề tài ấy 
									theo một chiều hướng khác, cách nói khác, cũng xoay quanh những chi tiết như 
									thực liên hệ đến thân và tâm này. Với những người có trí, nghe xong tức thấu 
									hiểu, nghe xong tất có thể giải thoát mọi triền, mọi phược, mọi bộc, mọi lưu, 
									mọi cấu, mọi uế..
									Chư
									vị hãy cố gắng lắng nghe! 
							
							- Dạ, thưa vâng, bạch đức Tôn Sư! 
							
							- Cái tạo nên thân tâm chúng ta, nếu nhìn ngắm, minh sát cho kỹ thì thân ấy là 
								sắc thân (rūpa, sắc) này; còn cái gọi là tâm – 
									hay danh - thì gồm có cảm giác (vedanā, 
									thọ), tri giác (saññā, tưởng), tâm hành
									(saṅkhārā, hành) và nhận thức (viññāṇa). 
							
							Đầu tiên hãy quan sát cái sắc (rūpa), tức là cái thân có da, 
									có thịt này; có khi nào chư vị đặt vấn đề, nó chính là ta (atta, ngã) hay không 
									phải ta (anatta, vô ngã)? 
							
							Koṇḍañña đáp:
							
							- Theo thói quen thì thân này, cái sắc này là tôi, là của tôi, trong ấy nó có một 
									cái ngã - bạch đức Thế Tôn!
							
							- Thói quen ấy có đúng không, này Koṇḍañña? Nếu sắc này là tôi, là của tôi, là tự 
									ngã của tôi - thì tôi hoàn toàn có quyền làm chủ nó, sở hữu nó? 
							
							- Đúng vậy, thưa đức Tôn Sư!
							
							- Có phải như một vị vua, sở hữu quốc độ, sở hữu thần dân; và có quyền bắt mọi 
									người - từ quan lại đến thứ dân - phải làm như thế này, phải làm như thế kia; 
									nếu không làm thì vua sẽ răn đe, trừng phạt theo nặng, nhẹ tội chứng? 
							
							- Bạch, đúng vậy, là quan niệm của phần đông!
							
							- Nầy Koṇḍañña! Nếu sắc thân này là ta, là của ta như ông vua sở hữu thần dân và 
									quốc độ - thì giả dụ như khi cái thân này ốm bệnh, đau nhức; và vì ta có quyền 
									nên ta có thể bảo cái thân này đừng ốm bệnh, đừng đau nhức, có được không, hở 
									Koṇḍañña? 
							
							Koṇḍañña im lặng, lúng túng không trả lời được.
							
							- Khi cái thân này suy yếu, già lão – vì nó là ta, là của ta – nên ta có quyền 
									bảo: “cái thân, mày đừng suy yếu, đừng già lão” được không, hở Koṇḍañña? 
							
							- Chẳng có quyền, chẳng chỉ bảo gì được, bạch đức Thế Tôn!
							
							- Vì ta là chủ, nên ta có quyền bảo rằng, sắc thân của ta phải như thế này, sắc 
									thân của ta đừng như thế kia? 
							
							- Chịu! bạch đức Tôn Sư!
							
							Im lặng giây lát, đức Phật nói:
							
							- Vậy thì ta không có quyền gì cả đối với sắc thân này? Nó già, nó yếu, nó bệnh 
									gì ta cũng chịu thôi? 
							
							- Thưa, đúng! Ta chịu thôi!
							
							- Vậy thì tại sao mọi người thường lập ngôn: sắc này là ta, là của ta, là tự ngã 
									của ta? 
							
							- Lập ngôn ấy không đúng với sự thật rồi!
							
							- Vậy, phải nói đúng với sự thật, với như thật là: sắc không 
									phải ta, chẳng phải của ta, chẳng phải tự ngã của ta? 
							
							- Thưa, đúng như vậy!
							
							Đức Phật chợt cao giọng:
							
							- Nầy chư tỳ-khưu! Không những chỉ có sắc này, mà bất cứ sắc nào trong quá khứ, 
									hiện tại, vị lai, sắc bên trong hay bên ngoài, sắc thô tháo hay vi tế, sắc hạ 
									liệt hay cao sang, sắc gần hay sắc xa - tất cả sắc ấy đều không phải ta, là của 
									ta, là tự ngã của ta! 
							
							Điều này quả là mới mẻ đối với cả năm vị tỳ-khưu nên họ chỉ cúi đầu lắng nghe 
								rất chăm chú và nghiêm túc.
							
							Đức Phật giảng tiếp:
							
							- Các cảm giác, cảm thọ cũng tương tự thế, nầy chư tỳ-khưu! 
									Khi ta khó chịu, tê ngứa hoặc đau nhức (khổ) – ta cũng không làm chủ được, ta 
									cũng không thể bảo nó đừng ngứa, đừng tê, đừng đau nhức! Khi có những cảm thọ 
									dễ chịu, hân hoan, thích thú (lạc) – ta cũng không thể bảo: mày cứ ở lại đây, 
									đừng có ra đi, đừng có diệt mất – vì thật ra, nó ở hay đi là tùy theo 
									nó, ta chẳng có quyền gì cả! 
							
							- Chúng đệ tử hiểu rồi, vì các cảm thọ cũng không phải là ta, là của ta, 
								là tự ngã của ta!
							
							- Cho chí cảm thọ quá khứ, hiện tại, vị lai; cảm thọ thô tháo hay vi tế, cảm thọ 
									bên trong hay bên ngoài, gần hay xa, hạ liệt hay cao sang - tất cả chúng đều 
									không là ta, là của ta, là tự ngã của ta! 
							
							Koṇḍañña chợt nói:
							
							- Bạch đức Thế Tôn! Chúng đệ tử hiểu rồi! Nếu sắc, thọ là vậy thì tưởng
									(tri giác), hành (tâm hành) và thức
								(nhận thức) cũng đều phải được minh sát cho phù hợp với chân lý như thế. 
								Nghĩa là tất thảy chúng - ngũ uẩn - đều không phải là ta, là của 
									ta, là tự ngã của ta (etaṃ mama, eso’haṃ’asmi, eso me attā’ti)! 
							
							- Đúng vậy! Đức Phật nhè nhẹ gật đầu – Cái mà ta tri giác, 
									cảm biết vật này, vật kia, màu sắc ra sao, hình dáng như thế nào hoặc khi ta 
									tưởng tượng cái này, chuyện nọ ở hiện tại, quá khứ hay vị lai - tất thảy chúng 
									đều đến rồi đi theo định luật duyên khởi – tri giác ấy, quả thật không phải ta, 
									là của ta, là tự ngã của ta. Các trạng thái tâm – tâm hành 
									– cũng tương tự như dòng sông, chúng có được do các giọt nước kế tục trôi chảy; 
									tâm này diệt thì tâm kia sinh. Tham, sân, si, mạn, nghi, tật, xan, hối… hoặc 
									niệm, bi, hỷ, tư, tuệ… thương, ghét, hổ thẹn, không hổ thẹn, lúc tốt lúc xấu, 
									lúc nóng, lúc mát, lúc nhẹ nhàng… cứ kế tục nhau, chẳng có cái ta nào, cái ngã 
									nào ở đấy cả! Rồi cho chí cái biết của con mắt, lỗ tai… cái biết, cái nhận 
										thức của ý thức, ghi nhận, kinh nghiệm, so sánh, phân biệt, lưu 
									giữ sự việc, khái niệm, thiện hay bất thiện – chúng cũng đến rồi đi, duyên sanh 
									rồi diệt – quá khứ, hiện tại, vị lai, xa hay gần, cao hay thấp, hèn hay sang, 
									thô hay tế, cõi này hay cõi kia đều không có ngã, không có ngã sở! 
							
							Vậy nầy chư tỳ-khưu! Khi mà sắc, thọ, tưởng, hành, thức ấy 
									là không phải ta, là của ta, là tự ngã của ta – thì có hợp lý không, đúng với 
									sự thật không – khi chúng ta thường nói rằng: Thân tôi già, tôi đau nhức, tôi 
									tri giác, tôi quyết định, tôi nhận thức? 
							
							- Quả thật là không có cái tôi ấy, bạch đức Tôn Sư!
							
							- Nầy chư tỳ-khưu! Sắc, thọ, tưởng, hành, thức chỉ là sắc, thọ, tưởng, hành, thức 
									– chúng là năm bộ phận riêng lẻ, năm dòng sông trôi chảy, kết hợp nên cái gọi 
									là chúng sanh, một hữu tình - chẳng có cái ta nào, cái ngã nào (atta, atman) ở 
									đấy cả, có phải thế chăng? Còn nữa, sắc, thọ, tưởng, hành, thức đều trôi chảy, 
									thay đổi, biến dịch - vậy thì chúng là thường (nicca) hay 
								vô thường (anicca)? 
							
							- Thưa, rõ ràng là chúng vô thường!
							
							- Đã là vô thường thì tất thảy chúng đều là dukkha – dukkha 
									không chỉ là khổ theo nghĩa thông tục – mà còn bao hàm tất cả khổ, khi chúng: 
									Có đó rồi không đó, bất toàn, rỗng không, chẳng an lập được, không nắm bắt được 
									mà cũng chẳng thể thủ đắc - dù một sắc tướng, một bóng hình, một cảm giác, một 
									trạng thái tâm, một ý nghĩ, một tư tưởng, một ước mơ, một mục đích, một lý 
									tưởng! Chúng như ảo ảnh giữa sa mạc, như bọt nước, như ảo giác, như giấc mộng 
									đêm qua, như trò huyễn thuật… 
							
							Lại nữa, trên sự thiết lập, định vị tạm thời giữa không gian 
									- vì chẳng có cái ngã nào, cái tự tính, cái thực thể nào nên gọi là vô 
										ngã; trong sự trôi chảy miên tồn không gián cách của thời 
										gian, cái gì cũng thay đổi, biến dịch, không giữ được bất di, 
									bất động,  một trạng thái dù qua một sát na – nên gọi chúng là vô 
										thường. Vì vô ngã, vô thường nên chúng là dukkha;
									đây là sự thật, là chân lý khi chúng ta tu tập nội quán để thấy rõ thực tướng 
									của ngũ uẩn, của sắc, thọ, tưởng, hành và thức. 
							
							Koṇḍañña chợt hỏi:
							
							- Bạch đức Thế Tôn! Khi giảng Chuyển pháp luân, nói về Tứ thánh đế,
								đầu tiên là Khổ đế, ngài có nói đến Bát khổ; và ngũ thủ uẩn khổ
								là cái bao hàm, cái rốt ráo gói gọn nơi cái thân tâm này. Hôm nay, đức Thế Tôn 
								cũng dẫn đến sự tu tập nội quán để thấy rõ thực tướng của ngũ uẩn 
								ấy: Tất thảy chúng là vô ngã, vô thường nên chúng là dukkha! Vậy 
								thì tất cả các pháp, nội và ngoại, nhỏ như vi trần, lớn như sơn hà đại địa – chúng 
									có nằm trong hệ luận ấy chăng? 
							
							- Hệ luận ấy không thiết lập! Phải có ngoại trừ, giới hạn, này Koṇḍañña! Tại sao 
									vậy? Thiên nhiên ngoại vật, sông núi, nắng mưa, ngày đêm, 
									xuân hạ thu đông – chúng cũng không có tự tính, không có thực tính, là vô ngã 
									tính, chúng cũng thay đổi, cũng biến dịch, là vô thường – nhưng chúng không 
									phải dukkha. Lá xanh, lá vàng; trăng mọc, trăng lặn; hoa nở, hoa tàn; khói 
									thành mây, mây thành mưa - tất cả chúng đều vô ngã, vô thường nhưng không 
										phải dukkha. Vô ngã, vô thưòng của thiên nhiên ngoại vật, của 
									vạn hữu ấy là chân lý tất yếu, không có nó thì một hạt vi trần cũng không tồn 
									tại, nhưng ở đấy dukkha không hiện khởi. 
							
							Nầy chư tỳ-khưu! Giáo pháp vô ngã tướng của Như Lai được 
									thiết lập là để mà tu tập, để nhìn vào bên trong - nội quán, minh sát - để chấm 
									dứt dukkha. Từ lâu, các tư tưởng truyền thống cũng như quan niệm của phần đông 
									đều cho rằng, có một cái ngã, một thực hữu, một tự tánh, một linh hồn ở nơi 
									sắc, thọ, tưởng, hành, thức này, nơi ngũ uẩn này. Từ nhận thức sai lầm ấy, biết 
									bao nhiêu là đau thương, thống khổ, trầm luân, tử sinh cũng khởi từ cái ngã và 
									ngã sở ấy cả. 
							
							Nầy chư tỳ-khưu! Hãy nội quán mà xem! Một cảm thọ dễ chịu, khó chịu; một đối 
									tượng mình thương, ghét, yêu, hận… các trạng thái thay đổi tâm lý thất 
										thường, vô ngã tính, biến dịch ấy – vô ngã, vô thường - 
										mới đưa đến dukkha. Nguyên nhân của tất thảy dukkha ấy là do 
								Ái. Ái diệt là Niết-bàn. Tu tập theo Bát 
									chánh, nhìn thấy rõ ngũ uẩn như thực tướng thì toàn bộ dukkha không tồn tại, 
									gọi là khổ diệt đạo thánh đế! 
							
							- Bạch đức Thế Tôn! Thấy rõ sắc như thực tướng, thọ
									như thực tướng… hay là thấy rõ sắc uẩn như thực 
									tướng, thọ uẩn như thực tướng? Nó giống 
								nhau ra sao, khác nhau ra sao? Koṇḍañña hỏi.
							
							- Ừ, câu hỏi này trỏ thẳng vào vấn đề - đức Phật khen ngợi - Sắc như 
										thực tướng là sắc không có uẩn,
								thọ như thực tưóng là thọ không có uẩn. 
									Chính uẩn là cái che lấp, chất chồng lên sắc 
								mà thành sắc uẩn. Chính uẩn là cái 
									che lấp, chất chồng lên thọ mà thành thọ uẩn…
								
							
							- Xin đức Thế Tôn đưa ví dụ để cho chúng đệ tử có thể lãnh hội được điểm trọng 
								yếu này – Vappa nói.
							
							- Một đối tượng, một sắc tướng - ví dụ một người - khi mình thương hay ghét (ái) 
									họ thì mình đã che lấp (uẩn) cái thực tuớng ấy rồi, đã biến thành sắc uẩn rồi! 
									Nghe một tiếng nói, khi mình thương thì âm thanh đó hay, dễ chịu; nhưng khi 
									mình ghét người ấy thì âm thanh kia trở nên khó chịu, bực bội. Tại sao vậy? Vì 
									các cảm thọ ấy đã bị che lấp (uẩn) do thương hay ghét (ái), đã biến thành thọ 
									uẩn rồi! 
							
							Nầy chư tỳ-khưu! Chính do uẩn, do ái ấy 
									mà sinh các khổ. Đã vậy còn chưa đủ, còn chấp rằng sắc uẩn ấy là ta, là 
										của ta, thọ uẩn ấy là ta, là của ta… Và chính ngũ thủ uẩn
									ấy là nguyên nhân bao hàm tất thảy khổ mà những người tu tập nội quán, minh sát 
									cần phải thấy rõ! 
							
							Nầy chư tỳ khưu! Với tuệ quán, tuệ minh, tuệ như thực – Như Lai đã nhìn ra chân 
									tướng, thấy rõ ngũ uẩn ấy không phải ta, không phải của ta, chẳng phải tự ngã 
									của ta. Nay thì các bậc thánh Thinh Văn - đệ tử của Như Lai - cũng phải biết 
									nhàm chán sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn. Khi nhàm chán như 
									vậy thì tâm không còn đam mê, tham muốn, ái luyến trong ngũ uẩn ấy nữa. 
								Và khi mà không còn dục, ái, tham thì thoát ly mọi ràng buộc, trói buộc, dính 
										mắc. Tâm được trạm nhiên giải thoát. Khi đã giải thoát thì vị ấy biết mình đã 
										giải thoát, dòng sinh tử chấm dứt, đời sống phạm hạnh đã được thành tựu, mọi 
										phận sự đã được làm xong, biết rõ từ nay không còn tái sanh luân hồi nữa! 
								
							
							Đức Phật thuyết giáo pháp vô ngã tướng xong, năm vị tỳ-khưu đồng 
								quỳ xuống sụp lạy, vô cùng hoan hỷ. Tâm và trí họ đã trở nên sáng suốt, thanh 
									tịnh, đã viễn ly mọi nhiễm ô, đã lìa thoát mọi chấp thủ ngũ uẩn. Họ 
									đã đắc quả vị A-la-hán, đã giải thoát, đã thấy rõ Niết-bàn! 
							
							Ngay giây phút ấy, quả địa cầu rung động; và chư thiên, phạm thiên các cõi đã 
								tán thán, ca tụng; làm chứng nhân cho rằng là đã có 5 vị tỳ-khưu, 5 bậc thánh 
										A-la-hán đã xuất sinh trên  châu Diêm-phù-đề nầy! Là những 
								Thánh đệ tử, được xem là nền tảng vững chắc cho giáo hội đầu tiên của đức Tôn 
								Sư vậy.
							
							Tiếp theo