Trung Tâm Hộ Tông Trang Chủ
Tác giả:
Minh Đức Triều Tâm Ảnh |
VỀ THĂM QUÊ HƯƠNG Sau khi Kāḷudāyi trở về quê nhà báo tin, đức Phật cho họp Tăng chúng, lựa chọn 500 vị tỳ-khưu lậu hoặc đã tận cùng lên đường với ngài - có tôn giả Sārīputta, tôn giả Mahāka ssapa hướng dẫn hội chúng. Còn mọi sinh hoạt tại Trúc Lâm, giáo giới, nhắc nhở chư Tăng tu tập, thuyết pháp cho hai hàng cư sĩ áo trắng, đức Phật giao phó cho tôn giả Moggallāna, nhóm tôn giả Koṇḍañña, nhóm tôn giả Yasa, 3 tôn giả Kassapa cùng các vị đệ tử lớn tuổi khác. Đức Phật và chư tỳ-khưu Tăng năm trăm vị, lên đường vào một ngày trời nắng nhẹ, gió xuân phơi phới mát lành, trăm hoa nở rộ khắp nơi. Đường bộ từ Rājagaha trở về Kapilavatthu phải ngược lên phía Tây bắc, đạp qua sông Gaṅgā - tại thị trấn Pāṭaligāma - rồi theo con đường thương buôn, trọn lộ trình xa chừng sáu mươi do-tuần. Vì vừa đi vừa trì bình khất thực, thỉnh thoảng đức Phật còn phải thuyết pháp tại các làng mạc, thị trấn – nên phái đoàn mỗi ngày chỉ đi được trên dưới một do-tuần. Như thế thì gần hai tháng sau mới có thể tới nơi. Tôn giả Kāḷudāyi và trên mười vị tỳ-khưu dòng tộc Sākya – đã đắc quả A-la-hán - đón tiếp đức Phật trước chín mười ngày đường. Do niềm vui siêu thế ở trong tâm, do niềm hạnh phúc của triều đình, của hai quốc độ được đón tiếp bậc Thiên Nhân Sư – tôn giả Kāḷudāyi đã cảm hứng ngữ thốt lên một bài tụng ca đẹp lộng lẫy với màu sắc tươi thắm, rực rỡ: “- Bầu trời đức Thế Tôn đi, Chư thiên nam tấu nhạc, Chư thiên nữ rắc hoa, Giữa nền mây ngọc bích, Giữa nền mây pha-lê châu! Con đường đức Thế Tôn đi, Những hàng cây tàn xanh bóng mát, Hoa hồng thắm, hoa vàng tươi, Bướm ngũ sắc từng đàn lấp lánh, Nào quả trái đỏ xanh lủng lẳng, Hòa niềm vui nghinh đón sa-môn, Cả vùng trời tỏa ngát hương thơm, Ôi, bất tuyệt trần gian một thuở! Thật đúng thời, Đức Thế Tôn trở lại, Hoa rải cánh, Tin lành kết trái, Kết hỷ hoan, hỷ lạc dâng tràn, Đã qua rồi nắng hạ, đông hàn, Xuân vĩnh cửu, Với từng bước đi vĩnh cửu! Tộc Sākya, tộc Koliya, Có được phúc lành hy hữu! Dòng sông Rohini biếc xanh, Lòng người biếc xanh, Cung nghinh, chiêm bái đức Tôn Sư!” Đức Phật phải dừng chân lại, mỉm cười cho những lời lẽ miêu tả thanh tao, trong sáng nhưng không kém phần diễm lệ, huy hoàng của người bạn thân vừa mới đắc quả! Và quả thật vậy, đức Phật và đoàn sa-môn thảnh thơi bước đi trong không gian tỏa nức mùi thơm của hương đồng cỏ nội, của hoa lá ngày xuân. Đến Kapilavatthu, đức Phật bảo với Kāḷudāyi là chưa nên đi vào kinh thành mà hãy để cho ngài và hội chúng tỳ-khưu tạm trú tại Nigrodhārāma (Ni-câu-luật viên) - tức là rừng đa cổ thụ ở phía Đông nam kinh thành, có nhiều cây to bóng mát – mà trước đây các đạo sĩ, du sĩ thường hay lui tới. Đức vua Suddhodāna, triều đình và con cháu dòng tộc Sākya đã hay tin nên đồng đến Nigrodhārāma để đón tiếp. Tuy nhiên, vốn bản tính ngã mạn đã thành nề, các vị cao niên trưởng lão của dòng tộc, nghĩ rằng:“Dẫu là ông Phật, ông thánh chăng nữa thì vị sa-môn kia cũng chỉ thuộc vai con vế cháu mà thôi!” Do vậy, họ chỉ đứng yên hoặc lựa ngồi một chỗ nào đó ở phía sau, bảo những người nhỏ tuổi đến đằng trước để chào đón. Hướng tâm đến, đức Phật hiểu tất cả, nhưng ngài lại bước đến phía đức vua Suddhodāna: - Phụ vương! - Thái tử! Trao bình bát cho vị thị giả là tỳ-khưu Nāgita, đức Phật nắm chặt hai bàn tay khô gầy của vua cha. Đã gần tám năm xa cách, đức vua tuy có già hơn nhưng vẫn còn tinh anh, quắc thước. Nhìn những giọt nước mắt trôi chảy lặng lẽ xuống đôi gò má nhăn nheo của vua cha, đức Phật rất thương cảm, nhưng ngài đã làm chủ cảm xúc – trao gởi một cái nhìn vô cùng dịu dàng và ấm áp! Riêng nhà vua thì cảm nhận rất rõ rằng, con ngài bây giờ không còn là thái tử Siddhattha thuở xưa nữa, mà đã là một đại sa-môn cao quý, một bậc lãnh tụ tinh thần vĩ đại, đã vượt cao, vượt xa, vượt trên nhân thế, không còn bị giới hạn trong sự thông tục của đời thường. Bất giác, đức vua cúi đầu xuống, thành kính chấp tay theo phong cách, mỹ tục của một quốc vương lúc diện kiến một bậc chân sư, một đạo sư, một giáo chủ! Đức Phật thấy thái độ trí thức của vua cha, ngài rất hài lòng; và muốn để tăng trưởng đức tin ấy, đồng thời nhằm cảm hóa, nhiếp phục tính kiêu căng của hoàng tộc – ngài liền bay lên giữa hư không, tạo một con đường bằng ngọc nằm vắt từ Đông sang Tây rồi đi kinh hành qua lại. Lát sau, đức Phật sử dụng một loại thần thông bất khả tư nghị, hóa phép yamaka pāṭihāriya – có nghĩa là “hai thần lực song song” – làm cho nước và lửa cùng một lúc phát sanh từ lỗ chân lông; rồi hai tia sáng xanh và đỏ tỏa ra ngời ngời như hai tia điện chớp chóa mắt hội chúng. Hiển lộng thần oai xong, đức Phật đáp xuống chỗ bảo tọa đã soạn sẵn, ngồi đoan nghiêm, thanh tĩnh! Thấy thần thông kỳ diệu của đức Phật, đức vua Suddhodāna mọc ốc cả toàn thân, niềm tin phát khởi, và một lần nữa, ông xác nhận cái điều mà ông đã nghĩ : Quả thật, con ta bây giờ không còn là thái tử đương triều nữa – mà đúng là thần oai của một vị Phật, một đức Chánh Đẳng Giác như mọi người đã xưng tán, tôn vinh! Nghĩ thế xong, bất giác, đức vua quỳ xuống đảnh lễ rồi thốt lên rằng: “Đây là lần thứ ba, phụ vương đảnh lễ con đây!” Cả triều đình, dòng tộc Sākya lớn nhỏ, sợ hãi, quỳ lạy theo! Tôn giả Sārīputta ở bên cạnh đức Phật, còn tôn giả Moggallāna, lúc ấy, đang ở Trúc Lâm tịnh xá - cách xa sáu mươi do-tuần - nhưng cả hai tâm ý tương thông, muốn trợ duyên cho đức Thế Tôn dễ dàng khai hóa hoàng tộc; nên đồng một lúc, như chỉ trong cái nháy mắt, đã như hai đám mây vàng rực, bay lên giữa hư không, đồng một lúc, đáp xuống bên phải và bên trái – năm vóc sát đất, đảnh lễ ngài rồi cùng thưa rằng: - Bạch đức Tôn Sư! Muốn trở thành một đức Chánh Đẳng Giác thì phải tu tập như thế nào? Phải trải qua thời gian công hạnh ba-la-mật như thế nào? Biết dụng tâm của hai vị đại đệ tử, đức Phật bèn cất giọng phạm âm với tám tuyệt hảo, thuyết một thời pháp nói về Phật tông (Buddhavaṃsa); tức là gốc nguồn, hành trạng của chư Phật! Muốn thành tựu quả vị Chánh Đẳng Giác phải trải qua bảy a-tăng-kỳ phát nguyện ở trong tâm, chín a-tăng-kỳ phát nguyện thành lời; bốn a-tăng-kỳ và một trăm ngàn đại kiếp thực hành mười ba-la-mật trải qua hai mươi bốn vị Phật. Rồi đức Phật cũng kể tóm tắt nhưng đầy đủ hành trạng của hai mươi bốn vị Phật ấy: Phật Dīpaṅkāra, Phật Koṇḍañña, Phật Maṅgala, Phật Sumana, Phật Revata, Phật Sobhita, Phật Anumodassī, Phật Paduma, Phật Nārada, Phật Padumuttara, Phật Sumedha, Phật Sujāta, Phật Piyadassī, Phật Atthadassī, Phật Dhammadassī, Phật Siddhattha, Phật Tissa, Phật Phussa, Phật Vipassī, Phật Sikhī, Phật Vessabhū, Phật Kakusandha, Phật Koṇāgamana, Phật Kassapa. Và chính ngài là vị Phật thứ hai mươi lăm, có danh hiệu là Sākya Gotama! Trong vô lượng kiếp trôi lăn sinh tử ấy, chính ngài có năm kiếp làm đạo sĩ, chín kiếp làm tỳ-khưu, năm kiếp làm cư sĩ, hai kiếp làm long vương, một kiếp làm Sakka, một kiếp làm nguyên soái Dạ-xoa, một kiếp làm vua sư tử - đã được chư Phật thọ ký với tên tuổi, quê quán, dòng tộc, hành trạng hiển nhiên, minh bạch như thế nào! Rồi còn có vô lượng kiếp mê mờ, như đi giữa sương mù, xuống lên, chìm nổi giữa ba cõi, sáu đường thật không tính xuể! Thời pháp của đức Phật, lạ lùng làm sao, lại có rất nhiều chư thiên chứng quả Nhập lưu, còn hội chúng thì như được mở hé một chân trời vi diệu nhưng không ai chứng đắc gì! Ngay khắc ấy, một trận mưa bất ngờ tuôn đổ xuống. Một trận mưa đỏ như màu máu. Một trận mưa lạ lùng: Đức Phật, chư thánh Tăng, những người bắt đầu có đức tin thì khô ráo; còn những ai kiêu căng, ngã mạn thì ướt như chuột lột! Mọi người bàn tán sôi nổi. Đức Phật thuyết thêm một thời pháp nữa, kể lại kiếp áp chót làm người, thái tử Vessantara, đã bố thí bất nghịch ý với năm đại thí như thế nào – sau mười hai năm lưu đày, trở lại làm vua, giữa hội chúng thân thuộc, cũng có một trận mưa như thế - nhưng là một trận mưa bảy báu ngập tràn cung điện! Sau kiếp người, sanh làm thiên tử Setaketu ở cung trời Tusita, hết tuổi thọ mới giáng sanh vào lòng mẹ Mahāmāyā, vua cha Suddhodāna, dòng tộc Sākya, kinh đô Kapilavatthu... để hoàn thiện công hạnh của một bậc Chánh Đẳng Giác! Vậy là nhân duyên, nhân quả vô lượng kiếp đã được đức Thế Tôn giảng nói, thuyết minh khá rõ ràng làm cho hội chúng rất thỏa thích. Nhưng khi chia tay, cả hoàng tộc, không ai biết bổn phận là phải thỉnh mời đức Phật và chư Tăng giáo đoàn vào ngày mai ra sao! Riêng đức vua Suddhodāna thì đơn giản nghĩ rằng: “Đã về đến quê nhà, tất phải thọ thực ở cung điện rồi!”; nên ngài đã cho chuẩn bị yến tiệc đãi đằng đức Phật rất chu đáo! Đêm ấy, tại công viên Nigrodhārāma, đức Phật tiếp những người bạn cũ do tôn giả Kāḷudāyi dẫn đến, đó là Mahānāma, Bhaddiya, Ānanda, Anuruddha, Kimbila, Bhagga... cả Nandā và Channa nữa. Có lẽ là tôn giả Kāḷudāyi đã kể cho họ nghe khá nhiều về đức Phật - vị huynh trưởng xưa của họ - người đã tìm ra ý nghĩa và giá trị đích thực của cuộc sống, đã giải quyết trọn vẹn vấn đề tử sinh! Lại nữa, buổi chiều, lẫn trong đám đông, họ đã chứng kiến thần thông vi diệu của đức Phật, đã nghe được hai thời pháp – nên biết rõ rằng, bây giờ họ là người trần tục, và những ý tưởng được ngài tuyên thuyết không còn nằm trong lãnh vực tế thế an bang, cơm no, áo ấm cho muôn dân nữa – mà là cái gì vĩnh cửu hơn thế, đại toàn hơn thế! Lạ lùng làm sao, đức Phật không giáo giới gì, ngài chỉ hỏi thăm chừng mực công việc của từng người, ai đã lập gia đình, ai chưa lập gia đình! Đức Phật mỉm cười, khi biết chỉ có Mahānāma là có vợ con, các vị khác đều thích sống độc thân! Suốt trong thời gian đàm đạo, họ như được tẩm mát trong làn khí tâm từ, sau đó, đức Phật hẹn dịp khác, ngài bảo rằng, chưa đủ duyên để nói chuyện nhiều hơn! Nửa cuối canh ba ngày hôm sau, đức Phật hướng tâm đến quá khứ, biết rằng, theo thông lệ của chư Phật, lúc về thăm quyến thuộc, các ngài không đi thẳng về nhà mà đều theo hạnh trì bình khất thực – nên báo cho tôn giả Sārīputta hay biết. Thế rồi, với đại y màu san hô vắt vai, bát đá đen tuyền cầm tay, đức Phật như sư tử chúa lông vàng dẫn đầu hơn năm trăm vị tỳ-khưu thánh Tăng đi vào trung tâm thành phố. Cứ lần lượt con đường này sang con đường khác, từ cửa nhà này sang cửa nhà khác, chẳng phân biệt giàu nghèo, sang hèn... Lần đầu tiên, kinh thành Kapilavatthu như bừng sáng lên bởi đoàn sa-môn mà họ đã được nghe tin truyền từ chiều hôm trước! Vị giáo chủ sáng lập tôn giáo mới ấy là đức Phật – nghe nói chính là thái tử Siddhattha nhân đức, thân yêu của họ! Miệng truyền miệng, tai truyền tai, không mấy chốc, cả kinh thành như lên cơn sốt! Những đôi mắt tò mò, ngạc nhiên. Những tụm năm tụm bảy chỉ trỏ, bàn tán. Thế là họ đồng kéo ra xem rồi thành kính đặt bát cho đức Phật và đoàn sa-môn! Đức vua Suddhodāna nghe quân hầu báo tin, vừa giận, vừa thương - tức tốc lên cỗ xe tứ mã ra khỏi hoàng cung. Đến con đường lớn, đức vua nhìn thấy đoàn sa-môn như con rồng vàng uốn lượn xa mút mắt, và đức Phật với dáng dấp cao to, uy nghi, trang nghiêm từng bước một đi đầu như chúa phượng hoàng! Bất giác, đức vua sinh tâm kính trọng! Bao nhiêu sự phẫn nộ ở trong lòng chợt như bị nguội tắt. Bước về phía đức Phật, nhà vua cung tay chào lịch sự nhưng lại mở giọng như hờn, như trách: - Dầu sao, thái tử vẫn được xem như là đức vua của nước này! Chẳng lẽ nào cả ta và cả hoàng tộc không lo nỗi cho thái tử một bữa cơm, lại đi xin ăn lang thang như kẻ đầu đường xó chợ như thế? Sao thái tử nỡ làm tổn thương hoàng tộc như thế? Làm nhục nhã truyền thống vương triều như thế? Đức Phật dừng chân lại, mỉm cười: - Không phải vậy đâu, phụ vương! Như Lai không hề làm tổn thương hoàng tộc và làm nhục vương triều! Đi trì bình khất thực trước cửa mọi nhà chính là truyền thống, dòng dõi của Như Lai! Đức vua dịu giọng, nhưng vẫn giữ ý mình: - Dòng dõi Sākya là dòng dõi của những vị chiến sĩ anh hùng – ta chưa hề thấy một ai trong truyền thống ấy lại nhục nhã đi xin ăn như thế! - Phụ vương! Đức Phật mềm mỏng nói – Truyền thống, dòng dõi Sākya anh hùng thì không ai làm như thế; nhưng đây là truyền thống của chư Phật ba đời! Rồi ngài giảng giải – Tất cả mọi người trong giáo pháp này đều phải đi xin ăn. Khi nhận một muỗng cháo, một vá cơm từ người nghèo khổ - hay một món ăn thượng vị của bậc đế vương – các vị sa-môn khất sĩ đều xem trọng như nhau! Trong đôi mắt xanh trong suốt của vị tỳ-khưu, tất cả đều bình đẳng, không phân biệt giàu nghèo, quý tiện! Một bà-la-môn, một sát-đế-lỵ, một vệ-xá, một thủ-đà-la hay cả một chiên-đà-la nô lệ đều là con người, đều có nhân phẩm, phẩm giá, giá trị giống nhau! Và ai cũng có khả năng giác ngộ, giải thoát! Nghỉ hơi một chút - đức Phật ra dấu thị giả Nāgita ôm bát theo sau, tôn giả Sārīputta cùng đi với ngài; tôn giả Mahākassapa, tôn giả Kāḷudāyi hướng dẫn đoàn sa-môn tản ra các con đường để khất thực, sau đó về công viên Nigrodhārāma đợi ngài – còn đức Phật nắm tay vua cha, đi bộ về cung điện, vừa đi vừa tiếp tục câu chuyện - Phụ vương thấy không, xã hội chúng ta quá chênh lệch về tài sản, chẳng đồng đẳng về quyền lợi; kẻ thì quá đói nghèo, bần khổ, người thì quá giàu sang, xa xỉ. Sự phân biệt và kỳ thị giai cấp đã tạo nên hố sâu ngăn cách – đã làm cho biết bao nhiêu con người không còn giữ được giá trị con người nữa! Giáo pháp mà Như Lai đã khai sáng, chứng ngộ - lấy con người làm trọng tâm và tất cả đều bình đẳng. Như vậy, đi xin ăn qua cửa mọi nhà, không phân biệt - là phương pháp tu tập của tất thảy sa-môn từ ngàn trước đến ngàn sau! Khi đi trì bình như thế, họ khiêm nhu và vắng lặng, họ chánh niệm và tỉnh giác, họ vô sản và bần hàn, họ vô ngã và vô mạn, họ thong dong và siêu thoát! Ngoài ra, họ còn tạo cơ hội cho mọi người mở rộng tấm lòng, ai cũng có thể bố thí, cúng dường gieo duyên với giáo pháp. Làm được như thế là đem lại hạnh phúc, an vui cho mình và cho người! Các giá trị nhân văn và nhân bản ấy – cái mỹ học tuyệt vời ấy - đáng lý ra, phụ vương nên đem áp dụng vào đường lối chính sách của vương triều, tôn trọng giá trị nhân phẩm của con người vì bình đẳng, vì tình thương, vì hạnh phúc cho muôn dân mới phải! Nghe đến ngang đây, cơ duyên chín muồi, đức vua Suddhodāna chứng quả Nhập lưu, cảm thấy tâm trong, trí sáng, có đức tin bất động, mọi hoài nghi tiêu sạch – ông cúi xuống, khiêm cung, hoan hỷ thỉnh mời đức Phật về hoàng cung độ thực. Đức Phật không lên xe ngựa mà ngài đi bộ, thong dong, nhàn nhã. Vậy là đức vua cũng phải đi bộ theo. Đến hoàng cung, mấy ngàn người đã tề tựu như cuộc hội lớn. Khung cảnh chẳng mấy đổi thay nhưng hoa cảnh rực rỡ và trầm hương tỏa ngát khắp mọi nơi. Ai cũng trầm trồ vì thấy đức Phật dường như còn đẹp đẽ, sang trọng và có cái gì đó trông đáng kính, khác lạ hơn thái tử Siddhattha thuở trước! Đức Phật mỉm cười, đưa mắt nhìn quanh như thầm chào hỏi tất cả mọi người. Từ xa, bà Gotamī nụ cười rạng rỡ, dáng dấp còn trẻ trung trong tấm sari màu xanh da trời, lanh lẹ và nhẹ nhàng bước đến. - Mẫu hậu sức khỏe vẫn còn rất tốt, chẳng khác xưa bao nhiêu - đức Phật cất giọng đầm ấm; và khi thấy bà bắt đầu sụt sùi đỏ lệ, ngài nói tiếp với nụ cười - Cuộc hội ngộ này đáng lý ra phải mừng vui mới phải chứ! Ở đây còn thiếu Yasodharā, Rāhula, Sundarī-Nandā, Nandā nữa đấy! Đức vua mời đức Phật vào chỗ ngồi đã được soạn sẵn. Tại sân chầu rộng rãi, chính đức vua và hoàng hậu đích thân sớt vật thực vào bát cho đức Phật. Tôn giả Sārīputta và tỳ-khưu thị giả Nāgita cũng được tiếp đãi như thế. Độ ngọ xong, đức Phật nói: - Phụ vương đã lớn tuổi rồi, cũng cần có chỗ nương tựa vững chắc cho đời mình! Phụ vương có thể bắt đầu ghép mình vào đời sống chánh hạnh vì an vui cho đời này và an vui cho nhiều đời sau nữa! Kỳ diệu thay, sau câu nhắc nhở của đức Phật, đức vua Suddhodāna chứng quả Nhất lai, Tư-đà-hàm (Sakadāgāmi), còn bà Gotamī chứng quả Nhập lưu, Thất lai, tức là Tu-đà-hoàn quả (Sotāpatti)! Biết việc gì xảy ra trong tâm của những người thân yêu, đức Phật chợt đứng dậy, ân cần nắm tay đức vua đi về hướng đông cung, nơi ở của Yasodharā! Là bậc Toàn Giác, đức Phật biết tâm sự của nữ nhân, của Yasodharā, dễ cảm xúc, dễ tủi thân, tủi phận! Chính ngài phải đến thăm Yasodharā, chứ không phải Yasodharā đến thăm ngài! Và đức Phật đã nghĩ đúng! Yasodharā, trong lúc ấy, đã được nghe tràn tai về đấng phu quân của mình, vừa mừng, vừa tủi, vừa nôn nả, háo hức, vừa hồi hộp, run rẫy – nàng tự nghĩ: “Nếu trong thời gian thái tử vắng mặt, tám năm ròng rã, ta khiếm khuyết đức hạnh, ta khiếm khuyết thủy chung – thì thái tử sẽ không đến thăm ta; bằng ta là một viên ngọc maṇī không tỳ vết – thì chính thái tử phải đến thăm ta – dù ông ta có là một vị Phật chăng nữa!” Đức Phật chợt nói với tôn giả Sārīputta: - Tình cảm của nữ nhân, ông biết đấy! Vậy khi Như Lai đến thăm Yasodharā, hãy cứ để công nương tùy nghi biểu tỏ tình cảm của mình! Và quả thật vậy, khi đức Phật vừa ngồi trên bảo tọa đã được sắp đặt sẵn – Yasodharā mặc tấm sarī màu vàng trăng, chẳng châu báu điểm trang, chẳng hoa hương lòe loẹt - từ hậu cung, đi bằng hai đầu gối, đến bên chân Phật, quỳ úp mặt vào bàn chân bụi của ngài, khóc ròng rã. đức Phật cứ để yên vậy. Một lát sau, khi biết những giọt nước mắt đã trôi đi những cảm xúc lâu ngày dồn nén lại, đức Phật dịu dàng nói: - Này Yasodharā! Này Gopā! Như Lai vẫn không khác xưa lắm đâu! Như Lai vẫn là con người cũ đó thôi! Nhưng bây giờ, tâm Như Lai thanh tịnh hơn, trí Như Lai quang rạng hơn! Như Lai đã tìm ra giá trị vĩnh hằng của cuộc sống - mà đã một thời, chúng ta, các ông hoàng, đã cùng nhau thao thức, đã cùng nhau trăn trở! Bây giờ, Như Lai là hiện thân cho cái gì vừa ở bên trong cuộc đời này – mà vừa ở bên ngoài và bên trên cuộc đời này nữa, để cứu độ nhân sinh! Do vậy, Như Lai không còn sống cho riêng mình, mà là sống vì hạnh phúc và an vui cho chúng sanh ba giới bốn loài! Này Gopā! Là bậc trí, là kẻ cùng chung vui khổ với Như Lai, cùng chung hạnh nguyện ba-la-mật với Như Lai, Gopā phải cần biết như thế! Được lời như cởi mở tấm lòng, Yasodharā lau ráo lệ. Hoàng hậu Gotamī trìu mến nhìn công chúa rồi ca tụng công đức của nàng: - Từ lúc thái tử ra đi, công chúa vô cùng sầu muộn, như mất một bảo vật trân quý nhất ở trên đời; tuy nhiên nàng vẫn giữ được sự tự chủ hiếm có. Niềm an ủi lớn nhất của công chúa chính là trẻ Rāhula! Khi nghe thái tử sống đời tu sĩ, lang thang không cửa, không nhà, công chúa đã tự vất bỏ châu báu điểm trang, chỉ quàng tấm sarī màu trắng dị giản! Khi nghe thái tử sống đời khổ hạnh, công chúa cũng bắt đầu từ bỏ vật thơm, dầu thoa, giường cao, chăn ấm; chỉ gối cây, nằm đất và mỗi ngày chỉ dùng một ít vật thực vào buổi trưa! Biết bao vương tôn, hoàng thân, công tử giàu sang, hào hoa, quý phái xứng đôi, vừa lứa tìm đến nhăm nhe dạm hỏi, công chúa đều từ chối không tiếp! Khi nghe thái tử đã đắc thành quả Phật, đắp y vàng dẫn đầu đoàn sa-môn thanh tịnh về thăm quê hương – thì công chúa cũng quàng tấm sarī màu vàng! Thế đấy, không những công chúa có đức hạnh vẹn toàn – mà còn biết cảm thông, chia sẻ với thái tử trong mỗi năm, mỗi tháng, mỗi ngày xa cách, biệt ly! - Mẫu hậu đừng nói nữa – Yasodharā chợt nói rồi đi đến bên cạnh bà – Thái tử bây giờ đã là một vị Phật rồi, chẳng có gì mà vị Phật lại không biết! - Phải đấy, Gopā! Chẳng có gì mà Như Lai không biết! Và Như Lai còn biết nhiều hơn thế nữa! Rồi ngài quay sang, như nói chuyện với đức vua và hoàng hậu Gotamī - Gopā là thế đấy, không những bây giờ, mà đã từ vô lượng kiếp trước, từ thời đức Phật Dīpaṅkāra rồi trải qua hai mươi bốn vị Chánh Đẳng Giác – nàng luôn chính đính, đoan trang, tiết hạnh, thủy chung; chia vui, sẻ buồn; không ngừng giúp đỡ Như Lai, nâng đỡ Như Lai, khuyến khích Như Lai trên đường tấn tu đạo nghiệp! Nói thế xong, đức Phật vén bức màn quá khứ: “- Cách đây phỏng chừng bốn a-tăng-kỳ và một trăm ngàn đại kiếp, có đức Phật Dīpaṅkāra xuất hiện. Thuở ấy có chàng thanh niên Sumedha, xuất thân gia đình bà-la-môn cự phú, thiên tư thông tuệ, tài mạo và sở học đều xuất chúng. Sau khi cha mẹ qua đời, Sumedha đã làm một cuộc bố thí vĩ đại rồi lên non sống đời đạo sĩ. Nhờ tinh cần tu tập, đạo sĩ đắc bát định và ngũ thông – tuy nhiên, chàng biết rằng, bài toán phiền não và đau khổ chưa được giải đáp tận cùng! Hôm kia, tại thành phố Rammavāti, dân chúng xôn xao chuẩn bị đón tiếp đức Phật và hội chúng thánh Tăng; họ phải cùng nhau ra tay làm một con đường dài do mưa lũ xói mòn, bùn sình lầy lội! Mới nghe đến từ Phật (Buddho! Buddho!), tâm trí đạo sĩ Sumedha bị chấn động mãnh liệt – chàng khởi tâm đóng góp một tay vào công đức này, nên xin đảm nhận một khoản đường khó khăn nhất! Chàng suy nghĩ: Nếu ta sử dụng thần thông thì trong nháy mắt sẽ xong ngay, nhưng nếu làm vậy thì chẳng đổ mồ hôi, chẳng phải tổn hao sức lực - rốt lại, chẳng có ý nghĩa và giá trị gì! Thế rồi, đạo sĩ bèn sử dụng sức lao động của mình! Khi đức Phật và hội chúng ngự giá đến nơi, con đường dài đã phẳng phiu, phong quang, sạch sẽ, khô ráo – nhưng phần đường do chàng đảm nhiệm lại chưa hoàn thành! Nhìn đoạn đường sình lầy chỉ còn chừng một đòn gánh, đạo sĩ Sumedha đã có chủ định. Tuy nhiên, khi đức Phật Dīpaṅkāra và hội chúng thánh tăng đã đi gần đến nơi, thấy tướng hảo quang minh của ngài, đạo sĩ khởi tâm tịnh tín, muốn cúng dường cái gì đó nên cứ đưa mắt nhìn quanh! Trong đám đông dân chúng, đạo sĩ chợt nhìn thấy một cô gái xinh đẹp, đang cầm trên tay 8 đóa hoa sen! Và lạ lùng làm sao, cô gái ấy cũng đang chăm chú nhìn chàng! Cô gái ấy tên là Sumitta, khi nhìn thấy Sumedha thì trái tim nàng xao xuyến mãnh liệt; và rồi như hiểu được nguyện vọng của chàng, nàng nói: - Trong tám đóa hoa sen nầy, ba đóa là phần của thiếp để cúng dường đến đức Phật, năm đóa còn lại là phần của chàng, nhưng với một điều kiện... - Cô nương cứ nói đi - đạo sĩ Sumedha hối hả nói - bất cứ điều kiện gì mà khả năng ta có thể làm được! Nàng Sumitta mỉm cười: - Tướng mạo và phẩm cách của chàng thật là tuyệt vời! Công đức hoàn thiện con đường để nghinh đón đức Phật của chàng cũng thật là tuyệt vời! Trong tương lai, chắc chàng sẽ thành tựu được sở nguyện vĩ đại trong lộ trình tu tập của mình! Thiếp nguyện được đi theo bên chàng, nâng khăn sửa túi cho chàng trong vô lượng kiếp sau... Trái tim đạo sĩ trai trẻ chợt rung động, nhưng chàng lại nói: - Ta đồng ý điều kiện ấy, nhưng nàng hãy hứa là đừng cản trở chí nguyện và những công hạnh ba-la-mật của ta mới được! Thiếu nữ mỉm cười, gật đầu ưng thuận rồi trao cho đạo sĩ năm đóa sen tươi thắm. Rồi cả hai cùng nắm tay nhau, chạy đến quỳ bên chân Phật, đồng dâng tám đóa sen lên ngài! Việc vừa xong, đạo sĩ Sumedha chợt sụp xuống đất, ôm chân bụi của ngài, thốt to lên rằng: - Chỉ còn một khúc đường sình lầy, đệ tử xin nguyện lấy tấm thân giả hợp nầy để trải đường cho đức Thế Tôn và thánh chúng bước lên! Xin nguyện công đức của ngày hôm nay, mai sau đệ tử sẽ đắc thành quả Phật vì hạnh phúc cho chư thiên và loài người! Phát nguyện thế xong, đạo sĩ Sumedha vội đến nằm sấp vào đám sình! Đức Phật chợt hướng tâm, biết rõ nhân quả! Ngài cũng nghe rõ, quả đất đang rung động vì lời nguyện vô thượng của đạo sĩ; chư thiên, phạm thiên khắp mấy tầng trời đang rải hoa mạn-đà xưng tán, ca ngợi công đức vô thượng ấy - ngài quay lại nói với đại chúng rằng: - Có hai việc vừa xẩy ra được xem là hy hữu trên đời nầy! Việc thứ nhất là tám bông sen của chàng trai và cô gái. Với sự thành tâm phát nguyện của họ, cả hai sẽ nên duyên tình nghĩa vợ chồng từ đời này sang kiếp khác, luôn đầm ấm, thủy chung và luôn khuyến khích, nhắc nhở nhau trên lộ trình tu tập! Việc hy hữu thứ hai, là đạo sĩ này, với lời nguyện vô thượng của mình, thực hành ba-la-mật trong thời gian bốn a-tăng-kỳ và một trăm ngàn đại kiếp, trải qua hai mươi bốn vị Phật - sẽ thành tựu quả vị Chánh Đẳng Giác đúng như ước mơ của chàng! Rồi đức Phật quay sang hai người: - Này Sumedha! Ước nguyện của con sẽ được thành tựu; và bắt đầu từ kiếp sau, Sumitta sẽ là người bạn đời chung thủy của con – như chim liền cánh để bay qua sông dài biển rộng, sẽ đồng tâm, đồng chí, đồng phước, đồng nhân, đồng quả! Và này Sumitta! Con chẳng bao giờ cản trở chí nguyện của chồng con đâu! Kể đến ngang đây, đức Phật kết luận: - Giàu sang, vương giả, địa vị, danh vọng, quyền lực và tiền bạc... như vậy không phải là điều kiện để mang lại hạnh phúc cho con người. Tình yêu thương không, chưa đủ, mà còn cần sự hiểu biết, thông cảm và tôn trọng lẫn nhau. Sumedha và Sumitta đã vô lượng kiếp nên duyên chồng vợ - và cũng từng ấy kiếp, Sumitta luôn sát cánh, chung vai với người bạn đời của mình thực hiện con đường vô thượng. Sumitta thuở ấy giờ là Yasodharā, còn Sumedha chính là Như Lai vậy. Ai cũng xúc động. Riêng Yasodharā thì bồi hồi, rưng rưng giọt lệ - nhưng là những giọt lệ hạnh phúc. Hoàng hậu Gotamī khẽ ôm vai công chúa, thốt lên rằng: - Đúng là như thế! Yasodharā luôn là như thế, kể từ đêm thái tử rời bỏ kinh thành. Chính công chúa tinh ý nên biết tất cả và đã âm thầm hỗ trợ cho thái tử ra đi theo chí nguyện của mình! Mọi người cười vui, không khí đã trở nên đầm ấm, mát mẻ. Đức Phật chợt hỏi: - Thế còn Nandā, Sundarī-Nandā cùng Rāhula ở đâu, không thấy! - Sundarī-Nandā đã dẫn Rāhula đi chơi đâu đó ngoài hoa viên - Lệnh bà Gotamī trả lời - Còn Nandā thì ngày nào cũng cùng bên vị hôn thê của mình! Khi đức Phật, tôn giả Sārīputta đứng dậy giã từ - đức vua Sudhodāna ngỏ ý thỉnh ngài và Tăng chúng đặt bát tại hoàng cung vào ngày mai! Ngày hôm sau, tin truyền thái tử Siddhattha đã trở thành một vị Phật đã lan truyền khắp thành phố, hang cùng ngõ hẽm. Ngài đang dẫn đầu một hội chúng sa-môn năm trăm vị về thăm kinh đô cùng quyến thuộc xa cách lâu ngày. Chính ngài đã khai sáng một con đường mới, một tôn giáo không có thần linh; và mỗi một con người, không kể giai cấp nào, cũng có thể trở thành một vị Phật nếu biết cần cầu, nỗ lực, tu tập theo đạo lộ bát chánh của ngài! Đức vua Suddhodāna - bây giờ đã đắc quả Tư-đà-hàm - muốn làm rạng danh đứa con ưu tú của dòng tộc Sākya, nên đã bố cáo rộng rãi cho muôn dân Kapilavatthu tổ chức một cuộc nghinh đón trọng thể vào ngày mai! Ngoài việc trang hoàng thành phố, con đường từ công viên Nigrodhārāma đến hoàng cung phải được dọn dẹp phong quang, sạch sẽ; rồi phải treo cờ, kết hoa tươi vui, rộn rã! Tân khách của quốc vương được thỉnh mời, chừng mấy ngàn người, đều là các nhân sĩ, trí thức, tai mắt của kinh thành. Trong lúc đức Phật và đoàn sa-môn thứ tự, trang nghiêm và lặng lẽ từng bước một hướng về hoàng cung – thì dân chúng đã ken dày các ngã đường. Họ vừa tò mò, vừa thành kính chấp tay bởi dung nghi sáng rỡ, Tăng tướng nhàn thoát và bước đi thanh tịnh của đức Phật và đoàn sa-môn! Đâu đó có tiếng hò reo mừng vui. Đâu đó có lời bàn tán rì rào, rằng là cái tôn giáo này, các vị sa-môn có râu tóc sạch sẽ, y bát trang nghiêm, tướng mạo đường hoàng... có vẻ đều là bậc quý tộc, có văn hóa, có học thức! Đức vua Suddhodāna muốn làm gương cho mọi người – nên ngài đã đi chân đất ra nghinh đón đức Phật và chư Tăng tận ngoài cổng cung thành! Các hàng trưởng lão, trọng thần, hoàng tộc và quan khách đều phải bắt chước làm như thế! Các chỗ ngồi và lều trại đều đã được chuẩn bị sẵn tại sân chầu của đại điện. Khi đức Phật và chư Tăng đã vào những chỗ ngồi đã được soạn sẵn, đức vua nói vài lời với quan khách, đặc biệt trong đó có một số bà-la-môn tu sĩ, học giả nổi danh, những nhân sĩ uy tín - rằng là hoàng gia hôm nay đặt bát cúng dường đức Phật và Tăng chúng, mong rằng phước sự này sẽ mang đến hạnh phúc, an lành cho tất cả chúng ta và cho cả quốc độ! Đức vua lại tận tay sớt vật thực vào bát cho đức Phật; và hằng trăm người phục vụ ân cần và chu đáo chia nhau làm công việc của mình! Đức Phật và chư Tăng thọ thực trong yên lặng. Đức vua, hoàng gia, tất cả quan khách cũng lặng lẽ thọ thực sau đó. Thời pháp hôm ấy, đức Phật thuyết về Tứ diệu đế rất cao siêu – nhưng ngài lại đi từ những nguyên nhân, những lý do, tại sao trước đây ngài đã buông bỏ tất cả để xuất gia tầm đạo. Sự giới hạn của đời người bởi sinh, già, bệnh, chết; sự nghiệt ngã của định luật vô thường nó đã hủy diệt, cuốn trôi tất thảy tuổi thanh xuân, ước mơ cũng như những hoạch đắc rỗng không trên trần thế. Sự thật ấy – dukkha – nó không ngoại trừ một ai! Chẳng có gì tồn tại đươc lâu. Chẳng có gì nắm bắt được. Cái được gọi là niềm vui, sự thỏa mãn, khả ý, khả lạc qua địa vị, quyền lực, danh vọng, ngũ dục luôn đi kèm với bất toàn, bất như ý, đổ vỡ, sầu bi khổ ưu não. Con đường của đạo giác ngộ, tỉnh thức do ngài tìm ra – không ru ngủ mọi người nơi một thế giới cực lạc nào đó ở mai sau, không núp bóng quyền uy của thánh thần nào đó để mong được các ngài chở che, ban thưởng. Là kẻ trí, là bậc trí trong giáo pháp nầy – phải nhìn xuyên thủng màn sương khói của māyā để thấy rõ nguyên nhân của dukkha ấy! Mọi hình thức lễ nghi, tế tự, cầu nguyện, bùa phép, mật chú... chỉ là những liều thuốc an thần – không bao giờ chữa trị tận gốc mọi đau khổ và phiền não! Tất cả mọi giáo phái trong và ngoài truyền thống, cái thì lạc vào duy thần, duy linh, duy lý, duy danh, duy tâm; cái thì lạc vào duy vật, duy sự, duy mỹ, duy thực, duy nghiệm! Không ảo giác thánh thần thì cũng hư vô chủ nghĩa! Không rơi vào mê tín, tà lộ thì cũng rơi vào khổ hạnh hoặc dục lạc cực đoan! Không ai, ở đâu, có đủ can đảm và dũng khí để nhìn ra chính mình, nội quán để thấy rõ toàn bộ sự vận hành của thân tâm mình! Tại sao, nguyên nhân nào mà tham lam, sân hận, si mê, ganh ghét, đố kỵ, tị hiềm, sầu não, hận thù... khởi sanh? Tại sao, nguyên nhân nào lại sinh ra nước mắt, thống khổ, thất vọng, tuyệt vọng... làm khô héo, tàn tạ mầm xanh của sự sống? Đạo giác ngộ, tỉnh thức, được lập cước từ nhận thức ấy mà ra đi, mà tìm kiếm con đường chấm dứt tất cả khổ - tất cả dukkha - bên trong, bên ngoài, thô hay tế từ cõi này hay cảnh giới khác! Và đạo lộ ấy, Như Lai đã tìm ra! Đạo lộ ấy chính là quán chiếu duyên khởi, vô ngã tính của tất cả pháp! Đạo lộ ấy chính là tỉnh thức trong từng hơi thở, từng bước đi! Đạo lộ ấy chính là nhìn ngắm như thực khi mắt thấy, tai nghe... và đừng bị cuốn trôi hoặc đắm chìm trong các ảo tưởng, ảo giác vốn không thực hữu! Thảnh thơi, an lạc, mát mẻ, vô ưu, vô phiền sẽ đến cho những ai sống đời chánh niệm, tỉnh giác! Chánh niệm, tỉnh giác là lộ trình bước ra khỏi māyā, dukkha! Hiện tại, Như Lai và hội chúng của Như Lai đang đi trên con đường ấy. Và ai cũng nếm thưởng được hương vị của giải thoát, của pháp mầu bất tử! Tuy nhiên, không phải ai cũng đi được theo lộ trình ấy. Giáo pháp của Như Lai được chế định riêng cho giới xuất gia và tại gia. Giới xuất gia thì tu tập giới định tuệ, theo con đường phạm hạnh, có thể giác ngộ giải thoát ngay ở đây và bây giờ; giới tại gia thì bố thí, trì giới và thực tập quán niệm... để có được niềm vui đích thực và nụ cười giải thoát trong đời sống với những sinh hoạt thường nhật! Nhưng phải bước đi bằng chính đôi chân của mình, bằng nỗ lực, tự tri, tự thức của chính mình! Đừng nô lệ một vị thần linh, thượng đế nào; mà cũng đừng nô lệ những truyền thống – dù tốt đẹp, từ ngàn xưa để lại! Bước chân an lạc và thảnh thơi, tại đây và bây giờ của chúng ta, chính là con đường! Không có con đường nào khác! Như Lai tuyên bố như vậy! Con đường cũng chính là những bước chân an lạc và thảnh thơi của chúng ta, tại đây và bây giờ! Đừng bước đi giữa hư vô, bước đi dưới những cái bóng của thần linh mà cũng đừng bước ra khỏi trái đất - chư vị hãy nhớ như vậy! Thật là những tư tưởng chưa từng được nghe, đi vào tâm trí giới bà-la-môn và các vị quan khách! Có người bủn rủn. Có người bàng hoàng. Có người dường như thấy được các gì đó. Có người như vừa bước ra khỏi đám sương mù hỗn mang. Có người cảm giác tâm trí mình chợt như được sáng ra! Trong đôi mắt của họ có cái gì đó sáng lấp lánh! Thế là giáo pháp của đức Thế Tôn đã như một luồng sinh khí mới thổi qua kinh thành Kapilavatthu cổ xưa. Rất nhiều người chứng quả Nhập lưu! Rất nhiều người xin được quy y Tam Bảo! Thế rồi, bắt đầu từ buổi trưa hôm ấy, đức Phật bận khách liên tục, tại hoàng cung cũng như tại công viên Nigrodhārāma. Các ông hoàng thân tình thuở trước như Ānanda, Bhaddiya, Mahānāma, Kimbila, Anuruddha, Bhagga; cả Nandā và Sundrī-Nandā... đều có đến thăm, nhưng ngài cũng không có thì giờ nói chuyện nhiều. Thấy tình trạng ăn ở, các tiện nghi sinh hoạt tại công viên quá thiếu thốn nên họ đã huy động nhân công, vật liệu để làm cốc liêu, giảng đường, nhà ăn, nhà khách và các công trình khác để dâng cúng lên đức Phật và Tăng chúng. Công việc đang tiến hành thì ngày thứ ba, hoàng cung cử hành một lúc ba đại lễ quan trọng: thành hôn, phong tước và khánh thành cung điện mới cho hoàng tử Nandā. Trong lúc mọi người tấp nập mang lễ phẩm đến chúc mừng – thì bất ngờ, đức Phật xuất hiện vào lúc đã khá trưa: - Như Lai cũng đến chúc mừng. Chức mừng hạnh phúc và an lành đến cho tất thảy mọi người! Đức vua và hoàng hậu Gotamī hối hả bảo soạn chỗ ngồi và dâng cúng vật thực cho ngài. Đức Phật im lặng thọ thực, khi tất cả đã xong xuôi, ngài trao bát cho hoàng tử Nandā rồi bước đi, không nói gì cả! Vì quá nể trọng ông anh, Nandā ôm bát lủi thủi theo sau, tự nghĩ: Ra đến cổng, chắc đức Phật sẽ thâu bát lại! Nhưng không, đức Phật cứ bước mãi, ra khỏi cổng đã khá xa, ngài cũng không ngoảnh lại! Tân nương Janapāda Kalyāni chợt cảm thấy lo ngại mơ hồ, chạy ra đến cổng, thống thiết kêu lên: “Hoàng tử yêu quý ơi! Hãy trở lại!” Đức Phật dường như không hề nghe, không hề thấy, ngài vẫn từng bước đĩnh đạc, uy nghi tiến xa mãi về phía trước. Hoàng tử Nandā nghe tiếng gọi tha thiết của người yêu, trái tim xốn xang, tê điếng – chân thì bước tới mà mặt thì ngoảnh lui – nhưng đức Phật thì cứ thảnh thơi, tự tại như không có chuyện gì xảy ra! Đến công viên Nigrodhārāma, đức Phật vừa ngồi yên vị thì tôn giả Mahākassapa đến trình, vì ở đây đang xây dựng – nên có mấy trăm vị tỳ-khưu muốn đến tạm trú tản mác tại các khu rừng, công viên hay nghĩa địa! Tôn giả Sārīputta lại thưa, là có ba bốn chục vị tỳ-khưu trẻ muốn phụ giúp một ít về công việc chân tay cho tu viện mau hoàn thành. Đức Phật nói: - Vậy là phải lẽ! Vậy là các thầy đã biết những công việc mình phải làm! Nhưng này Mahākassapa, ông hiện đang thọ trì bao nhiêu pháp đầu-đà? - Đệ tử cũng không nhớ rõ! Từ khi gặp được đức Thế Tôn, thấy được pháp mầu bất tử, đệ tử chỉ dùng ba y, không thọ nhận bất kỳ chiếc y nào khác, nếu đã hư rách thì đệ tử chỉ đi lượm vải người ta quăng bỏ ở nghĩa địa, giặt sạch rồi nhuộm lại. Về vật thực, đệ tử chỉ đi trì bình xin ăn, chứ không nhận thỉnh mời trai tăng của bất cứ ai khác. Khi đi trì bình khất thực - chỉ đi thứ tự từng nhà, không bỏ khoảng cách. Thọ thực thì chỉ ngồi một chỗ, không di chuyển chỗ. Chỉ ăn trong bát, có bao nhiêu dùng bấy nhiêu, không nhận thêm vật thực. Chỉ ngụ ở cội cây, rừng, nghĩa địa, nơi chỗ trống hoặc chỗ Tăng chỉ định. Và đệ tử chỉ ngồi và không nằm – dù lúc ngủ nghỉ - từ đấy đến nay, bạch đức Thế Tôn! - Vậy là mười ba pháp, rất tốt, rất hy hữu đấy, này Mahākassapa! Đức Phật nói - Đấy được gọi là đầu-đà bậc thượng! Từ rày về sau, ông nên hướng dẫn cho những ai muốn sống đời khổ hạnh độc cư như thế - tùy khả năng, có thể bậc thượng, bậc trung hay bậc hạ! Tất cả pháp môn đầu-đà ấy đều có khả năng thiêu cháy, đốt cháy phiền não, đều có khả năng giúp cho các sa-môn sống đời thiểu dục, tri túc rất hiệu quả! Hãy làm gương cho các hàng sa-môn hậu học, này Mahākassapa! Rồi quay sang tôn giả Sārīputta, đức Phật nói: - Còn Sārīputta thay mặt Như Lai thuyết pháp cho hai hàng cư sĩ, giáo giới mấy chục tân tỳ-khưu vừa mới xuất gia ngày hôm qua. Thứ nữa, các vị tỳ-khưu trẻ có thể phụ giúp công việc – nhưng có những giới hạn nhất định: Không nên đào hố, đào hầm, đào mương rãnh; không nên chặt cây, chặt cành, xớt cỏ, ngắt lá, bẻ hoa... nghĩa là cái gì đụng chạm đến sự sống động vật hay thực vật thì các vị tỳ-khưu không nên làm, không được phép làm! Hai vị tôn giả lĩnh ý. Đức Phật bây giờ mới hướng mắt đến hoàng tử Nandā – vẫn kiên nhẫn đứng một bên, không dám trao bát lại cho đức Phật khi ngài chưa bảo – ân cần nói rằng: - Này Nandā! Ông có muốn sống đời xuất gia như Như Lai và như các vị tôn giả trang nghiêm, phạm hạnh kia không? Nandā nóng lòng như lửa đốt vì sợ không kịp giờ cử hành hôn lễ; nhưng khi đức Phật hỏi, vì tôn kính ngài quá, chàng không dám từ chối, gật gật đầu rất miễn cưỡng! Mỉm nụ cười lặng lẽ ở trong tâm, đức Phật tức khắc bảo tôn giả Sārīputta và tôn giả Mahākassapa cạo sạch sẽ râu tóc cho hoàng tử Nandā, kiếm đầy đủ y bát rồi làm lễ thọ giới tỳ-khưu cho chàng. Thế là vị tân lang, em cùng cha khác mẹ với đức Phật – con hoàng hậu Gotamī – phải xuất gia đúng ngày cử hành hôn lễ, dầu rất sầu khổ, nhớ thương công nương Janapāda Kalyāni vô cùng, nhưng chàng chỉ nín nhịn chịu đựng, không dám thốt một lời! Từ đây, Nandā tập sống đời tỳ-khưu dưới sự hướng dẫn của tôn giả Sārīputta, không được phép trở lại hoàng cung, không được phép thăm viếng, gặp gỡ công nương Janapāda Kalyāni nữa! Việc làm có vẻ ngang ngược của đức Phật làm xôn xao dư luận trong hoàng cung, lan ra cả ngoài kinh thành! Lệnh bà Gotamī rất khó chịu. Đức vua Suddhodāna - nhờ đã đắc quả Tư-đà-hàm, đã nhẹ nhàng hai sợi giây bất bình và tham ái – nên nghĩ rằng, đức Phật có lý do của ngài! Đúng lúc ấy thì tôn giả Kaḷudāyi đến thăm rồi nói chuyện rất lâu với đức vua và hoàng hậu. Tôn giả đã đem ra rất nhiều ví dụ, ẩn dụ để so sánh đời sống buộc ràng, phiền não, đau khổ của người tại gia – và đời sống thanh cao, an lạc, giải thoát của người xuất gia! Lấy bản thân mình làm ví dụ, tôn giả nói, với một sa-môn vô sản bần hàn như bây giờ - nếu được đánh đổi một triệu lần đời sống vương giả trước kia, ông cũng không thèm! Tôn giả còn mở phơi các cảnh giới sống chết, nhấp nhô chìm nổi, lang thang bất định trong các kiếp sống, chịu đựng muôn vàn thống khổ như thế nào! Đại vương là người đã bước hai bước vào đạo lộ bất tử, hiện tại, chỉ còn một kiếp làm người nữa thôi, là vĩnh viễn chấm dứt vòng trầm luân sinh tử luân hồi ấy - lẽ ra, ngài nên vui mừng cho hoàng tử Nandā mới phải chứ! Sau buổi nói chuyện ấy, đức vua cảm thấy nhẹ nhàng, thanh thản; riêng hoàng hậu Gotamī thì vẫn còn buồn khổ, nhưng vì quá tin tưởng việc làm của đức Phật, bà chỉ còn tiếc cho ngai vàng chưa có người thừa kế mà thôi! Cuối cùng, chỉ còn gia đình quan đại thần - cha mẹ của công nương Janapāda Kalyāni - họ rất bực tức và xem đây như là một mối sĩ nhục, là sự đùa bỡn tiết hạnh con gái nhà hiền lương! Thế rồi, tôn giả Kaḷudāyi lại tìm đến để làm sứ giả hòa bình. Nhờ tinh minh, lịch thiệp, nhờ khôn khéo ngôn ngữ - tôn giả đã làm cho gia đình nhà gái nguôi ngoai. Nhưng riêng công nương Janapāda Kalyāni thì tơ tình vướng víu đã ken dày nhiều lớp, không ai có thể gỡ rối được! Đức vua Suddhodāna năm nay đã chín mươi lăm tuổi, nhưng ngài vẫn còn quắc thước và rắn rỏi. Từ hôm nếm thưởng đươc hương vị của giáo pháp, đức vua giao việc trị nước cho hoàng thân Mahānāma cùng các lão thần trông coi; còn riêng ngài để dành thì giờ để tu tập. Hễ rãnh là nhà vua lại muốn nghe pháp – nên ngài mời thỉnh đức Phật và vài mươi vị đến hoàng cung đặt bát cúng dường! Thời pháp buổi chiều, nhiều thành phần các giai cấp đến nghe - đức vua cũng ngồi kiết-già thế hoa sen, nhiếp tâm thanh tịnh, không bỏ sót một lời, một chữ! Sau đó, nhà vua rút về cung sâu để thiền định, kinh hành; và ông đã tìm ra nguồn an lạc, hạnh phúc chưa hề có ở trong đời! Đến ngày thứ bảy, đức Phật mới có thì giờ để đi thăm Rāhula, đứa con trai mà ngài chỉ mới thoáng thấy khi còn là một hài nhi đỏ hỏn! Hôm ấy, đức vua, hoàng hậu muốn cúng dường đặt bát cho đức Phật tại đông cung – có tính cách gia đình - nên chỉ mời một số vị lão thần, các quan đại thần thân tín của hoàng tộc Sākya mà thôi. Công nương Yasodharā đã cố ý cho Rāhula ăn mặc thật đẹp, với màu sắc thật dịu dàng; và trông tươm tất, chỉnh tề từ đầu đến chân! Khi đức Phật, tôn giả Sārīputta và tỳ-kheo thị giả Nāgita bước vào hoa viên thì từ lầu cao, công nương đã nhìn thấy! Lần đầu tiên, Yasodharā mới có dịp nhìn ngắm đức Phật một cách kỹ lưỡng như thế sau nhiều năm xa cách. Ôi! tướng mạo sa-môn trong chiếc y màu san hô của ngài nổi bật giữa hàng cây xanh trông đẹp làm sao! Từng bước đi của ngài vừa oai nghiêm, trầm hùng vừa an lạc, thảnh thơi – mà không ai trên đời này có thể bắt chước được! Dường như mỗi bước đi đã là một sự dừng nghỉ! Dường như mỗi bước đi đã là một sự tựu thành! Vị này không còn là Siddhattha thuở nào nữa rồi! Thấy công nương Yasodharā mê mải ngắm nhìn người lạ mặt bên dưới đang bước lại gần, Rāhula níu và giật giật tấm sarī màu vàng chanh của bà: - Mẹ! Mẹ! Ai vậy mẹ? Như sực tỉnh, công nương ngồi thấp xuống với con, mỉm cười: - Con có thấy vị sa-môn đi đầu, trông như một vị phạm thiên oai vệ đó không? - Thấy, có thấy! Vị ấy là ai mà đẹp thế mẹ? - Là cha của con đấy! - Cha của con? - Ừ! Rồi Yasodharā khẽ nói – Ngài chính là cha của con, và ngài đang có một kho tàng vĩ đại, vô cùng quý giá! Từ ngày ngài ra đi, đã gần tám năm qua, con chưa hề được gặp mặt. Con hãy chạy xuống bên ngài, nắm tay ngài, lắc lắc chéo y của ngài rồi nói rằng: “Thưa cha, con là con của cha, con hiện là một vương tôn, mai sau con sẽ lên ngôi, cai trị một vương quốc tươi đẹp và thanh bình! Hiện giờ con đang cần một gia sản. Mẹ nói rằng, cha đang sở hữu một kho tàng vô giá, vậy cha hãy trao nó cho con – vì tài sản của cha chính là tài sản của con!” Nhớ nói thế nhé, Rāhula! Ngoan ngoãn, Rāhula gật đầu, cười tít mắt rồi chạy vụt xuống thang lầu. Đến gần bên, cậu bé ngây thơ nắm tay đức Phật, giật giật chéo y của ngài và nói gần đúng với nguyên văn như mẹ đã dặn. Đức Phật mỉm cười, nhìn đứa trẻ với khuôn mặt tròn trĩnh, tươi sáng - đáp lời, “Ừ, rồi Như Lai sẽ trao gia tài ấy cho con!”; nhưng trong tâm ngài đã khởi lên ý nghĩ:“Nó đã được nuông chiều từ nhỏ - nhưng không biểu hiện một cá tính gì rõ rệt, sẽ không có một đức hạnh gì nổi bật; được cái là sau này nó không cứng đầu cứng cổ lắm đâu!” Rồi ngài ưu ái nắm tay Rāhula cùng bước lên lầu hoa thuở trước, nơi mọi người đang chờ đợi! Độ ngọ xong, đức Phật nói về những điều kiện cần và đủ để duy trì hạnh phúc gia đình. Đại lược, thứ nhất là vợ chồng phải thật sự thương yêu nhau, chấp nhận cá tính của nhau, dù tốt hay xấu, dù thuận hay nghịch. Thứ hai là phải biết tôn trọng lẫn nhau, đừng áp đặt, chủ quan, độc đoán. Thứ ba là phải biết để ý để tìm cách chia sẻ vật chất đến cha mẹ cả hai gia đình, nếu họ thiếu thốn. Thứ tư, người chồng phải trao tiền cho vợ - giao cho vợ quán xuyến mọi việc nội trợ, ăn ở, sinh hoạt cũng như tự quyết định việc chi tiêu hằng ngày; người chồng phải biết chăm lo nghề nghiệp, thu xếp các công việc ở bên ngoài. Thứ năm là người chồng đừng quên quà biếu, vật trang sức cho vợ, vào những lúc đi xa về hay là những ngày kỷ niệm hỷ sự; ngược lại, người vợ phải biết kỉnh trọng, tôn trọng những ai chồng mình kỉnh trọng, tôn trọng – ví dụ như bạn bè, thân hữu của chồng mình! Tuy nhiên, cái được gọi là tốt nhất, cao nhất, căn bản nhất - để năm điều kia được thành tựu viên mãn - chính là chuyển hóa cách nhìn, chính là trí tuệ: Chồng nhìn vợ mình, vợ nhìn chồng mình luôn với cặp mắt xanh, luôn luôn mới mẻ, luôn luôn không định kiến, không thành kiến, không trước ý; luôn luôn hiện tiền trong sáng, không bị chồng chất, ám ảnh bởi hình ảnh của quá khứ, của tương lai hoặc của hiện tại chỉ vừa mới thoáng qua! Mọi người thấm thía với thời pháp, nên họ trầm ngâm, suy gẫm - thật không dễ gì nắm bắt ngay được - nhất là cái căn bản! Sau rốt, có người hỏi về chính sách trị dân, nó liên hệ thế nào, tương quan thế nào - giữa giáo pháp xuất thế của đức Phật với an lạc hạnh phúc dung thường của mọi người trong trần thế! Và, nếu mọi người đàn ông đều xuất gia cả - thì quốc độ sẽ ra sao, nhân loại sẽ ra sao? Điều ấy có thể nào lý giải rõ ràng qua phạm trù đạo đức tại thế được chăng? Đức Phật mỉm cười, hẹn dịp khác, ngài sẽ khai thị về điều ấy; đến lúc hiểu rồi, thấy rồi – thì xuất thế mà không ra khỏi cuộc đời, tại thế nhưng vẫn xuất thế vì nó không dính mắc phiền não và bụi bặm của trần gian; nói một thì không phải, nói hai cũng chẳng nhằm! Mọi người có vẻ nghĩ ngợi! Đức Phật đứng lên, từ giã. Cậu bé Rāhula có vẻ lưu luyến đức Phật, nên khi ngài rời hoàng cung, nó tất tả chạy theo, nắm tay ngài ra chiều thân thiết. Lúc ấy là sau ngọ, trời nắng hơi gắt; Rāhula vừa bước đi vừa núp trong cái bóng của ngài, vừa phát biểu rất dễ thương, rất ấn tượng: “Ôi! Chỉ cái bóng của sa-môn thôi, mà sao làm cho con bình yên và mát mẻ đến thế!” (Sukhā vata te chayā, samaṇa!) Thấy Rāhula đi theo đức Phật, không ai ngăn cản. Đi một đổi, tôn giả Sārīputta nắm tay Rāhula rồi một ý nghĩ chợt khởi sanh: - Bạch đức Thế Tôn! Chư Phật quá khứ lúc về thăm quê nhà; các ngài cứu độ quyến thuộc khó khăn hay dễ dàng? - Cái ấy tùy thuộc nhân duyên, này Sārīputta! Hạt giống giáo pháp chỉ bén rễ sâu ở mảnh đất màu mỡ cùng với các điều kiện môi sinh thuận lợi! Tôn giả Sārīputta hiểu, ngài chạnh nghĩ đến gia đình của mình với tín ngưỡng truyền thống đã ăn sâu vào huyết mạch rất khó lay chuyển... Trở về đến công viên, đức Phật dẫn Rāhula vào hương phòng - lúc ấy đã làm xong – ngài nói: - Này Rāhula! Mẹ dặn con là xin cho được một gia tài quý báu, bây giờ con hãy nghe đây! Gia tài, gia sản vật chất nhiều khổ ít vui; nó lại còn là nơi nuôi dưỡng lòng tham, phát sanh tranh chấp, đau khổ, phiền não cùng nhiều ràng buộc, hệ lụy khác nữa! Hiện tại, Như Lai có một gia tài, gia sản tinh thần rất lớn, rất quý báu; nó chỉ đem đến nụ cười, niềm vui, thanh bình và siêu thoát – Như Lai muốn trao cho con, con có nhận không? - Có ạ! Rāhula vòng tay lễ phép – Con chỉ muốn nhận gia tài niềm vui mà thôi! Đức Phật mỉm cười: - Muốn có được gia tài ấy, con phải cạo đầu, mặc y, mang bát như Như Lai, như tôn giả Sārīputta, như chú Nandā và như mọi người ở đây! Con có đồng ý không? - Con đồng ý ạ! Thế rồi, đức Phật bảo tôn giả Sārīputta làm lễ xuất gia ngay tức khắc cho Rāhula! Như vậy, tôn giả Sārīputta nhận nhiệm vụ giáo thọ vị sa-di tí hon - bắt đầu dạy cách mặc y, mang bát, đi đứng, lúc ngủ nghỉ, cách nói năng, thưa hỏi thế nào cho đúng phép tắc, luật nghi! Và thật khó tưởng tượng một vương tôn cành vàng lá ngọc, quen nếp sống được nuông chiều trong cung điện - lại có thể thích nghi được đời sống của một khất sĩ khổ hạnh! Tuy nhiên, thật đáng ngạc nhiên làm sao, là sa-di Rāhula chẳng nhớ mẹ, nhớ ai ở cung đình cả; lại rất sung sướng trong đời sống mới, ngoan ngoãn, lễ độ, biết nghe lời dạy bảo của thầy mình! Ngày hôm sau, đức vua Suddhodāna, hoàng hậu Gotamī, công nương Yasodharā mới hay tin, ai cũng bàng hoàng. Quả thật như một tiếng sét đánh ở cung đình. Hoàng tử Nandā vừa xuất gia đúng vào giờ cử hành hôn lễ cách đây bốn ngày, bây giờ lại Rāhula nữa, nó còn quá ngây thơ, bé bỏng mà! Người đau khổ, sầu não nhất là công nương Yasodharā, thứ đến là lệnh bà Gotamī; nhưng khi cả hai muốn đến chất vấn đức Phật thì đức vua Suddhodāna ngăn lại, ông nói: - Đừng có vội vàng, nóng nảy! Một đức Chánh Đẳng Giác làm việc gì cũng có nhân duyên và quả của nó - đừng nhìn hiện tượng bên ngoài, tâm lý thường tình hoặc tình cảm cá nhân để xét định một sự việc. Trẫm tin tưởng tuyệt đối vào giáo pháp, vào trí tuệ của con trẫm – bây giờ là vị Phật đó! Chẳng bao giờ một bậc Toàn Giác lại thấy biết sai lầm, các khanh nên hiểu như vậy! Đúng là tâm và trí của một vị thánh đệ tử! Sau khi trấn an hai bà và mọi người khác, đức vua lên xe ngựa một mình cùng với vài quân hầu đến công viên Nigrodhārāma. Gặp đức Phật, nhà vua mở lời trách cứ khá nhẹ nhàng: - Khi thái tử lìa bỏ cung vàng, điện ngọc ra đi, trẫm vô cùng đau xót, ái hậu Gotamī cũng thế. Còn Yasodharā lại càng sầu muộn, buồn tủi, thống khổ hơn! Lại trải qua tám năm dài đằng đẳng “làm sương phụ sa-môn” vò võ, cô đơn, gối chiếc - cũng không dễ dàng gì - ngoại trừ Yasodharā, không có ai bản lãnh, nghị lực đến thế! Bây giờ đến lượt Nandā! Trẫm hỏi đức Thế Tôn - người cha người mẹ bình thường nào mà không xót xa, đứt ruột? Chuyện Nandā chưa nguôi, cả hoàng cung lại mất thêm Rāhula, là trẻ được cưng chiều, thương yêu; là nguồn an ủi duy nhất của hai vị phu nhân. Tình thương của người mẹ mất con, ông bà mất cháu - cũng dường như bị ai đó cắt da, xẻ thịt, cắt gân, róc luôn cả xương cả tủy... Ngừng lại giây lát, đức vua nói tiếp – May nhờ cả hai vị phu nhân đều là bậc trí, hai trái tim mềm yếu kia có năng lực giáo pháp tăng thêm sức mạnh, nếu không họ đã gục ngã rồi! Còn trẫm – thì đã thấy rõ ái luyến sinh đau khổ, ái luyến sinh buộc ràng, ái luyến đưa vào dòng chảy trầm luân – nên tình cảm kia chỉ như một cơn gió nhẹ xao thổi qua rồi mất! Tuy nhiên, trẫm xin thỉnh nguyện đức Thế Tôn một điều: Từ rày về sau, sẽ không ban hành lễ xuất gia cho bất kỳ một người con nào, nhất là tuổi vị thành niên – mà chưa được cha mẹ hoặc gia đình cho phép, ưng thuận! Lời lẽ trình bày với lý tình minh bạch của đức vua - người đã bước được đôi chân vững chắc trên đạo lộ bất tử - làm cho đức Phật rất hoan hỷ. Ngay tức khắc hôm ấy, đức Phật bảo tôn giả Sārīputta, tôn giả Mahākassapa bố cáo khắp tỳ-khưu Tăng, xem lời thỉnh cầu của đức vua - trở thành điều luật - được ban hành rộng rãi! Công viên Nigrodhārāma sau khi xây dựng xong, tuy không được quy mô và công phu như Trúc Lâm – nhưng cũng đã trở thành nơi sinh hoạt của giáo đoàn tại kinh đô Kapilavatthu. Từ đó, dường như ngày nào cũng có người đặt bát cúng dường, ngày nào cũng có đoàn này hay đoàn khác đến tham vấn, học hỏi, quy y! Hoàng tộc Sākya, các chủ ngân hàng, chủ các nghiệp đoàn... bao giờ cũng là những thí chủ bố thí, cúng dường rộng rãi nhất. Họ còn cúng dường vải vóc, bát, tọa cụ, ngọa cụ, các loại thảm lót chân, lót nền nhà, ghè đựng nước, khăn mặt, khăn tắm, chăn nằm, chăn đắp... Thế là đức Phật lại phải chế định một số học giới, cái gì được thọ nhận, cái gì không nên thọ nhận. Ví dụ, các tỳ-khưu chỉ được phép nằm sạp cây, được phép sử dụng tọa cụ, ngọa cụ bằng thảm cỏ, thảm cói – không được dùng nhung, lụa, gấm, chăn bông, gối dài! Mỗi vị tỳ-khưu chỉ có ba y, một bát, thừa y bát là phải xả cho vị khác, xả vào kho bảo quản cho vị đến sau! Y cũ rách không được quăng bỏ, phải giặt sạch để làm màn che gió, ngăn tường. Cũ rách quá nữa thì làm tấm lót chân, làm khăn lau nền nhà...Y tăng-già-lê (y ngoại), không được quá dày - lót bông, lót giạ - chỉ nên dùng để đắp, làm sao để đừng ấm quá mà cũng đừng lạnh quá! Cắt may y và màu y phải tuân thủ quy định chung. Kiếm rễ cây, thân cây nhuộm màu, không được nhạt quá như màu cọng rơm mà cũng không được sậm quá như màu cánh gián... Bát sắt, bát gỗ sờn tróc là phải tìm cách xông khói nhuộm lại... Đức Phật cho phép chư tỳ-khưu được nhận lời mời của thí chủ thọ trai tại tư gia. Riêng tôn giả Mahākassapa và các vị tỳ-khưu thọ đầu-đà bậc thượng, bậc trung, bậc hạ... được tùy nghi tìm chỗ độc cư, từ rày không bị ràng buộc bởi sinh hoạt của giáo đoàn, ngoại trừ khi có Saṅgha (Tăng-già) triệu tập! Mỗi mỗi lời giáo giới của đức Phật, tôn giả Sārīputta ghi nhớ không bỏ sót một điều nào! Các thời pháp, cũng vậy, bất kỳ ở đâu, với ai, giờ nào – tôn giả đều lắng nghe, tư duy, chiêm nghiệm; lúc cần, ngài có thể giảng giải lại, rất rộng rãi, mạch lạc mà vẫn không rời cái căn bản, cái cốt tủy! Suốt một tuần lễ, các vị hoàng thân Mahānāma, Ānanda, Bhaddiya, Kimbila, Anuruddha, Bhagga, Channa và cả Devadatta từ Koliya sang... đặt bát cúng dường đức Phật và Tăng chúng. Thế rồi, đức Phật thuyết pháp, dành cho họ suốt ba buổi chiều. Và hôm nào cũng thế, họ thay phiên nhau hỏi - từ điểm sơ cơ nhất của giáo pháp, cho đến cả những khái niệm ở ngoài ngôn ngữ - tức là những pháp siêu thế! Họ cũng hỏi đến những lãnh vực siêu hình, các khả năng thắng trí – mà một sa-môn có thể thành tựu được. Đức Phật không phải lúc nào ngài cũng trả lời một cách – mà bằng nhiều cách! Do trí vô ngại giải, khi thì ngài trả lời tức khắc thẳng vào câu hỏi; khi ngài trả lời bằng cách hỏi ngược lại; khi thì ngài trả lời bằng cách giảng giải câu hỏi cho rộng, cho sâu thêm; thỉnh thoảng ngài im lặng hoặc sử dụng một vài năng lực huyền nhiệm. Khá nhiều lần, đức Phật lại giao trọng trách ấy cho tôn giả Sārīputta! Và đến lúc này, các ông hoàng mới thật sự kinh ngạc về trí biện tài thông tuệ, tầm kiến văn uyên bác - cũng như ngôn ngữ lưu loát của vị nghe nói là đại đệ tử! Bây giờ thì sự kiêu căng, ngã mạn không còn nữa - vì họ chợt hiểu rằng, dù họ học cả đời, nghe cả đời cũng không thể so sánh được với vị tôn giả cánh tay phải của đức Phật! Tuy nhiên, cái dòng máu cứng đầu của Sākya đã tiềm mật, lưu liên, âm ỉ nhiều đời kiếp: Họ vẫn chưa chịu quy y! Hai tháng sau, trước khi từ giã Kapilavatthu để trở về cho kịp an cư mùa mưa ở Trúc Lâm, đức Phật đã thuyết một thời pháp quan trọng đến cho đức vua và cả triều đình. Đây cũng là thời pháp nhằm giải thích các câu hỏi còn tồn đọng trong tâm trí mọi người. Đức Phật mở giọng trầm hùng, vang vang như tiếng chuông ngân: - Đầu tiên là nói về chính sách trị dân! Phải nói rằng không có một chính sách trị dân nào trên thế gian này được gọi là toàn hảo, là tốt đẹp cả! Tại sao vậy? Vì khi hoạch định chính sách, các triều đại đã xác lập thế lưỡng phân đối đãi, bị quy định trong phạm trù: người cai trị và kẻ bị trị! Khi có người cai trị và kẻ bị trị thì sự xung đột, bất bình đẳng trong xã hội sẽ nẩy sinh! Đấy là sự thất bại thứ nhất với nghĩa nhị nguyên triết học! Tiếp nữa, người cai trị, tức là thành phần lập định chính sách, họ ra sao? Họ có đạo đức chân thực? Có nghiêm minh, trung chính? Có một đời sống hiền thiện, mẫu mực? Hay họ chỉ là những con người luôn bị chi phối bởi xan tham, sân hận, si mê, ích kỷ - đầy đặc khát dục, tham vọng danh lợi và quyền lực? Có thể nào một chính sách tốt đẹp, toàn hảo lại có thể được sinh ra từ một tập thể, mà, nhân cách chưa được tốt đẹp, chưa được toàn hảo mọi giá trị nhân văn và nhân bản? Đấy là sự thất bại thứ hai với nghĩa tương quan duyên khởi - mà khi nói sự thật ra – thì đụng chạm đến nhiều người, đụng chạm đến thành phần cơ cấu của tập cấp lãnh đạo của mọi thể chế chính trị trên trái đất này! Vậy thì thưa chư vị, con người đẻ ra chính sách; con người là nhân tố quyết định còn chính sách là cái tương sinh, tương thuộc, phụ tùy! Giáo pháp mà Như Lai đã giác ngộ và tuyên thuyết là từ con người, bởi con người và cho con người - tức là trở về với nhân tố quyết định cho sự toàn hảo, tốt đẹp của mọi chính sách! Một con người đã giải thoát mọi ô nhiễm từ nội tâm đến ngoại cảnh, không còn bị đắm chìm, ràng buộc bởi những cám dỗ của cuộc đời – thì luôn luôn đem đến an vui, hạnh phúc cho mình và cho người khác! Những con người như vậy, trong hội chúng của Như Lai, không phải chỉ một trăm, hai trăm mà cả một ngàn, hai ngàn... và sẽ còn nhiều hơn thế nữa trong tương lai! Những con người như vậy, họ hiện ở đây, ở bên chư vị, ở trong cuộc đời này, đang mặc y, đang khất thực, đang ăn, đang uống và đang thở! Họ siêu thế, xuất thế mà vẫn tại thế giữa mặt đất này! Vậy, nếu lập ngôn là một, là hai - đều bất khả! Đấy là sự thực, cụ thể - có thể sờ nắm được, chứ không phải lý luận trừu tượng, mơ hồ của những luận thức đa biện, phân lập! Chư vị là những bậc thức giả, trí giả - nên Như Lai cũng nói chuyện như nói với những bậc thức giả, trí giả! Một chính sách được gọi là toàn hảo, tốt đẹp với nghĩa tuyệt đối thì không thể có mặt giữa trần gian tương đối. Nói cách khác – các sứ giả của Như Lai, những con người đã giải thoát ấy, nếu họ lãnh đạo, lập định chính sách, cai trị muôn dân – thì sự toàn hảo, tốt đẹp kia cũng trở thành tương đối, giới hạn mà thôi! Lực cản ở đây cũng lại chính là con người với biệt nghiệp, với cộng nghiệp cùng với những tâm địa xấu tốt lẫn lộn từ muôn thuở! Tuy nhiên, điều ấy lại trở nên không tưởng – vì kẻ đã giác ngộ, giải thoát rồi – thì ngay chính ngôi vị Chuyển luân Thánh Vương - họ cũng không làm! Đây là sự thất bại thứ ba theo nghĩa những giá trị tương đối tại thế! Thưa chư vị, hiện tượng sinh, trụ, diệt của vạn hữu cũng như nội tâm – rút ra định luật vô thường và vô ngã của chư pháp! Vậy nên, bản chất bất toàn, bất ổn định, bất như ý, bất toại nguyện... là sự thật không thể thay đổi được! Trong cái thế gian tương đối ấy, cái được gọi là giá trị, là toàn hảo, là tốt đẹp – luôn luôn được hiểu là chỉ một giai đoạn, một thời kỳ, một gợn sóng vừa an trụ lại vừa diệt mất! Cái gọi là an vui và hạnh phúc của chúng sanh trên đời này cũng mong manh như thế đấy! Người lãnh đạo, người lập định chính sách tối thiểu cũng phải có được trí tuệ ấy, sau đó, tối thiểu cũng có đầy đủ mọi phẩm tính cần và đủ của nhân tính, nhân văn và nhân bản! Và chính con người ấy, nhờ trí tuệ và đạo đức tương đối của mình - họ soi sáng cho chính sách; và rồi, chính sách sẽ soi sáng cho con người, cho mọi người khác! Nói gọn lại, người lãnh đạo, lập định chính sách, tối thiểu cũng phải có tam quy, ngũ giới, khá hơn nữa, họ hành thập thiện, thọ trì bát quan trai giới – thì quốc độ ấy sẽ thanh bình, hạnh phúc! Và khi mà như vậy – thì chẳng cần dùng những sáo ngữ như thương dân, vì dân, vị tha, bác ái - hoặc những tuyên ngôn với những mỹ từ cao khiết – nhưng chỉ còn là những chiếc vỏ rỗng, hoa hòe, diêm dúa, lấp lánh chữ nghĩa để mị dân, để quảng cáo từ đầu đường đến xó chợ! Thời pháp lột trần tâm địa con người của Đức Phật có thể tạo phản ứng nghịch - nhưng không, ai cũng chăm chú lắng nghe. Đức thân vương Amittodāna, thân phụ của Ānanda phát biểu: - Hay lắm! Đây là con đường đức trị - là chính sách với mười vương pháp của các đức Chuyển luân Thánh vương - mà đức Thế Tôn đã minh thuyết thật cao siêu, quảng bác và vô cùng mới lạ! Tri ân đức Thế Tôn, chúng tôi đã được mở rộng kiến văn! - Chẳng phải chỉ là mở rộng kiến văn mà thôi đâu - thân vương Sukkodāna, thân phụ của Mahānāma tiếp lời - Kiến văn là cái vỏ ngoài! Tâm và trí tôi giờ đã được bừng sáng ra! Chính trị, chính sách là cái cớ - Chính đức Phật đã nói cho chúng ta thấy rõ mối tương quan ấy! Chính con người có tu tập – tùy từng cấp độ thành tựu của họ - mới quyết định được an vui và hạnh phúc trên đời này! Một vị quan đại thần ngồi ở phía xa, phát biểu: - Bạch đức Thế Tôn! Chẳng có lời nói nào của ngài mà chúng tôi không thấm thía lúc suy gẫm! Tại thế và xuất thế - chúng tôi hiểu rồi! Con người tương quan duyên hệ với chính sách: Con người tốt lành đẻ ra chính sách tốt lành, chính sách tốt lành làm cho con người tốt lành - cả hai vốn tương quan, tương hỗ, tương thuộc. Cái này đẹp, cái kia mới đẹp! Đấy là sự thật bất ly, bất dịch hoán! Chúng tôi hiểu rồi! - Tuy nhiên, còn một câu hỏi ở trong tâm quý vị nữa - đức Phật nói - Đấy là tất cả thanh niên xuất gia đều sống đời độc thân thì vấn đề duy trì huyết thống, vấn đề tồn tại của quốc độ, của nhân loại sẽ được giải thích như thế nào? Thật ra, chư vị không cần phải lo xa như thế - vì không bao giờ có cái số lượng “tất cả” ấy đâu, không phải ai cũng xuất gia được đâu nếu không có duyên căn từ nhiều đời! Các sa-môn trong giáo hội của Như Lai bao giờ cũng là thiểu số; và chính nhờ cái thiểu số ấy, có một đời sống trong lành và hiền thiện, tạo nhân tố tích cực để duy trì và phát triển các giá trị tinh thần cho thế gian này - mà thiếu nó, tức là khi cái xấu, cái ác lan tràn - thì nhân loại sẽ diệt vong! - Chúng tôi hiểu! Vậy, giáo pháp của đức Thế Tôn còn liên hệ đến việc thịnh suy của một triều đại? - Đúng vậy - đức Phật nói – nó còn là điều kiện quan trọng trong những điều kiện khác về lẽ thịnh suy ấy! Này nhé - đức Phật tiếp lời - Một quốc độ muốn được hùng cường, giàu mạnh, muôn dân sống an lành, hạnh phúc – thì phải hội tụ đầy đủ bảy điều kiện sau đây. Thứ nhất, là người dân thích tụ họp đông đảo, vui vẻ với nhau - tức là biết tương thân, tương ái; đến với nhau, nhìn nhau bằng con mắt thiện cảm! Thứ hai là lúc nào cũng sống với nhau trong tinh thần đoàn kết: Đoàn kết lúc hội họp, đoàn kết trong công việc, đoàn kết trong mọi bổn phận và nghĩa vụ, đoàn kết để vươn đến các lý tưởng cao đẹp! Thứ ba là vương triều, các nhà lãnh đạo không nên ban hành những đạo luật mới – có tính cách chỉnh sửa, thay đổi hoặc chống nghịch các giá trị đạo đức truyền thống. Thứ tư là phải biết kính trọng, tôn trọng các bậc trưởng thượng, các vị bô lão; và phải nghe những lời dạy bảo kinh nghiệm, khôn ngoan của các vị ấy! Thứ năm là phải biết tôn trọng nữ giới; nghĩa là đàn bà, con gái trong quốc độ không bị sống trong nô lệ, bị cưỡng bức hoặc bị ép buộc trong hôn nhân cũng như trong gia đình! Thứ sáu là phải biết duy trì tông miếu, xã tắc; phải biết làm cho vẻ vang tông miếu, xã tắc; không được xao lãng những nghi thức cổ truyền đã được tiền nhân tôn trọng. Thứ bảy, phải biết tạo cơ duyên, bảo bọc, hộ độ, hỗ trợ nhiệt tình cho giáo pháp, cho các vị A-la-hán hoằng pháp - khiến cho những ai chưa đến sẽ muốn đến; và những ai đã đến, đã sống ở đấy đều được an lành, an toàn. Như vậy, trong bảy điều kiện, điều kiện thứ bảy là quan trọng nhất, vì nó bao hàm sáu điều tiên dẫn! Có điều kiện thứ bảy thì sáu điều kiện kia càng được củng cố, tăng trưởng, thịnh mãn! Sau thời pháp ấy, hội chúng rất thỏa mãn. Khi đức Phật ra về, họ bàn với nhau, là mỗi gia đình dòng tộc Sākya nên lựa chọn lấy một người xuất gia trong giáo pháp của ngài! Do vậy, suốt một tuần lễ sau đó, con cái hoàng gia, quý tộc đến xin xuất gia tỳ-khưu khá nhiều. Suốt hai tháng về thăm quê hương, tuy công việc hoằng hóa không được thành công rực rỡ cho lắm – nhưng đức Phật cũng đã đặt được một nền móng vững chắc! Như một luồng gió mới thổi qua kinh thành Kapilavatthu cổ xưa, những thời pháp của đức Phật đã bắt đầu thay đổi một số tư duy cũ kỹ của giới cấp lãnh đạo về vấn đề trị an. Các giá trị tinh thần cũng như các quan niệm vui, khổ xưa nay đều phải được đánh giá lại! Đạo đức bản thân và vấn đề thiện ác cũng phải được nhìn ngắm từ bên trong - nội quán - bởi phản tỉnh, bởi những dấy khởi từ tâm niệm! Những ông hoàng - bạn cũ thuở xưa của đức Phật - không nóng nảy, không vội vã khi thấy con cháu dòng họ Sākya xuất gia. Họ nhiều lần gặp nhau, nhiều lần thảo luận, đặt lại vấn đề nhân sinh, các định thức giá trị - qua những thời pháp được nghe từ đức Phật. Họ đã mất ngủ nhiều đêm, thao thức, trăn trở - rồi thấy rõ đời sống vinh hoa, phú quý, ngũ dục thật không nghĩa lý gì! Niềm vui nào cũng mau qua, mau chán; và thường sau đó thì đối diện với cái rỗng không, vô vị! Lại đi tìm sinh thú mới, lạc thú mới - rồi lại buồn, lại chán, lại rỗng không! Họ nhớ lại từng dáng đi, từng nụ cười, từng ánh mắt của đức Phật... và họ càng xác quyết là ngài đã tìm ra, tìm được niềm an lạc vĩnh cửu - sự an lạc không có điều kiện, sự an lạc không có các đối tượng khả ái, khả ý từ bên ngoài. Nó tự có một mình, độc lập – không phụ thuộc không gian và thời gian! Nó là cái gì vậy? Mà đức Phật đã có nó – và hầu hết chư tỳ-khưu - hội chúng đệ tử của ngài cũng có nó! Hoàng tử Ānanda là người muốn khởi tâm xuất gia đầu tiên, tìm đến rủ Anuruddha cùng đi. Mahānāma, vị quan đại thần đương triều được đức vua Suddhodāna trọng dụng – là anh ruột của Anuruddha – ngăn lại: - Em phải ở nhà vì cha mẹ thương yêu em nhất! Em lại còn trẻ trung, thanh xuân, chưa lập gia đình – tương lai tốt đẹp đang còn ở phía trước. Việc xuất gia hãy để cho anh – anh là người đã quá mệt mỏi chuyện gia đình và chuyện quan trường lắm rồi. Hãy để ưu tiên việc xuất gia ấy cho anh nhé, em nhé! Anuruddha cười ha hả: - Anh có nói nhầm không đấy! Chính anh là người đang đảm nhận trọng trách quốc gia đại sự! Chính anh là người đang bận bịu chuyện gia đình, vợ con! Anh ra đi thì những gánh nặng kia biết quăng bỏ cho ai hả? Quan đại thần Mahānāma nín lặng. Anurudha đến xin thân mẫu nhiều lần nhưng bà một mực từ chối, sợ con trai mình - vốn chỉ biết ăn chơi – không kham nổi đời sống khổ hạnh của các sa-môn! Thấy Anuruddha dọa tuyệt thực, dọa tự tử, bà tìm cách chối từ rất khéo: - Thôi được rồi! Nếu con đã cương quyết như thế, mẹ cũng cho đi, nhưng với một điều kiện... - Mẹ cứ nói! - Con hãy chịu khó đến gặp quan tổng trấn Bhaddiya! Nếu Bhaddiya đồng ý xuất gia, mẹ sẽ cho con xuất gia! Thân mẫu Anuruddha nêu điều kiện ấy tưởng là sẽ ngăn được con trai – vì bà đơn giản nghĩ rằng, quan tổng trấn Bhaddiya tiếng tăm lừng lẫy, danh vọng, địa vị, sự nghiệp trùm lấp một phương; và nghe đâu, vừa mới hứa hôn với một công nương tài sắc vẹn toàn thì lẽ nào lại bỏ tất cả để đi xuất gia được! Quả thật, họ tuy gặp nhau nhiều lần, thảo luận giáo pháp nhiều lần; và đồng ý với nhau hầu như toàn diện về giáo pháp diệt khổ của đức Phật, – nhưng nếu Anuruddha muốn thuyết phục Bhaddiya đi xuất gia là chuyện không đơn giản một chút nào! Sau nửa ngày đường dong ngựa, đến dinh liêu rộng lớn, nguy nga, lầu cao lầu thấp, tòa ngang, dãy dọc của quan tổng trấn; thấy tường rào mấy lớp, quân lính canh phòng nghiêm nhặt trong ngoài, người lui, kẻ tới tấp nập, rộn ràng đây đó – Anuruddha bần thần, dừng lại - chợt nghĩ đến điều kiện khó khăn của mẹ! Được quân canh và quân hầu kính cẩn thông báo, Bhaddiya bỏ công việc, tiếp bạn ngay – như tiếp một thượng khách! Sau khi đãi đằng cơm nước, thấy khuôn mặt của Anuruddha rầu rĩ, khó đăm đăm, trước sau không thốt một lời – Bhaddiya ân cần và ái ngại hỏi: - Có chuyện gì vậy? Tại sao em có vẻ buồn quá vậy? - Tại anh cả đấy – Anuruddha bây giờ mới nói, giọng hờn trách – Tôi muốn theo đức Phật xuất gia tu học như các chàng trai Sākya khác, nhưng tại vì anh, vì chức quan tổng trấn của anh - nên tôi không đi được! Bhaddiya cả cười: - Tại sao lại có chuyện lạ lùng đến thế? Tôi cản trở em hồi nào? Nếu em muốn xuất gia – thì tôi sẽ tìm đủ mọi cách cho em được thỏa nguyện nữa là khác! - Thật thế nhé! Anuruddha sáng mắt ra, cười vui, đưa ngón tay phải ra, móc ngoéo vào ngón tay của Bhaddiya như bắt bạn phải nhận một lời hứa khả - Chắc chắn vậy nhé! Bhaddiya biết có chuyện gì đây, nhưng vốn tính tình phóng khoáng, cởi mở - chàng cũng vui theo niềm vui của bạn! Anuruddha kể tóm tắt chuyện của mình và điều kiện của mẹ đưa ra, rồi kết luận: - Như vậy, có phải vì anh mà tôi không được xuất gia không! Anh đã hứa giúp tôi bằng mọi cách – thì cách duy nhất, tốt nhất, mau nhất là anh phải cùng đi xuất gia với tôi! Lời đã hứa rồi, Bhaddiya thấy mình kẹt quá, kẹt cha mẹ, kẹt chức vị tổng trấn và kẹt nhất là người vợ vừa mới hứa hôn! Thật ra, chàng cũng có dự định xuất gia - vì thấy đời sa-môn như cánh chim giữa không rộng trời cao chẳng dính mắc, bận rộn gì cả - nhưng không phải là bây giờ! - Thôi, bảy năm nữa nhé – tôi sẽ đi xuất gia cùng em! - Không được – Anuruddha lắc đầu - Bảy năm lâu quá! - Thôi, vậy thì ba năm. Ba năm để anh thu xếp mọi công việc trong ngoài cho đâu ra đấy đã! - Cũng không được – Anuruddha lắc đầu nguầy nguậy - Sự chết có chờ đợi ai được đâu! - Thế thì nhất định bảy tháng, chúng ta sẽ cùng đi! Ít ra cũng để anh có đủ thời gian trả lại quan tước, bàn giao chức vụ và thu xếp việc gia đình chứ! Thấy Anuruddha cũng không chịu, Bhaddiya đành đưa cái hẹn bảy ngày! Vui mừng, hớn hở, Anuruddha như bay trên lưng ngựa trở về kinh đô, sau đó, cùng với Ānanda, cả hai đi rủ thêm Kimbila, Bhagga và cả Devadatta tại kinh đô Devadaha, nước Koliya nữa! Và ai cũng khó khăn, vất vả lúc thuyết phục gia đình; nhất là Ānanda – nhưng do nhờ quyết tâm, họ được ra đi như ý nguyện! Thế rồi, bảy ngày sau, họ gặp nhau tại Đông cung của thái tử Devadatta. Sáng ngày, họ leo lên cỗ xe lớn bốn ngựa kéo - do người thợ cạo thân tín của hoàng gia, là thanh niên Upāli cầm cương - theo đường lữ hành vượt biên giới Koliya! Vì trời nắng nóng, biết đức Phật và hội chúng sa-môn đi chậm và men theo đường rừng, có lẽ còn ẩn khuất đâu đó tại các thôn làng ngoại ô thành phố Malla – nên họ đã cho ngựa phi nhanh, hy vọng bắt kịp! Hai ngày sau, được biết đức Phật đang còn ở tại làng Anupiyā, chỉ còn cách mấy xóm nhà ven đường là tới; họ xuống xe, cởi bỏ hoàng bào cùng các món châu ngọc điểm trang, trao cho người thanh niên thợ cạo Upāli, rồi nói rằng: - Bạn là người chân thực, trung tín mà từ lâu chúng tôi được biết – nên chúng tôi đã cố ý nhờ bạn đánh xe đến đây! Bây giờ chúng tôi chỉ giữ lại một tấm áo và y bát để theo Phật, sống đời xuất gia vô sản, bần hàn - vậy chiếc xe bốn ngựa này, tất cả tư trang tư dụng này, chúng tôi xin tặng anh để làm vốn liếng sinh nhai! Hãy cố gắng sống đời trong lành và hiền thiện! Sau khi sáu ông hoàng đi khuất sau lùm cây, thanh niên Upāli nước mắt đoanh tròng, ôm mớ châu báu mà đứng sững! Upāli tự nghĩ: “Họ tốt quá! Họ giàu sang vương giả là thế - nhưng chức tước, địa vị, danh vọng, quyền uy, châu báu... họ đã quăng bỏ đi như mớ giẻ rách! Còn mình là gì? Một tên thợ cạo tầm thường, đủ ăn đủ mặc bấy lâu là nhờ ân đức của hoàng gia! Cái gì cũng không có cả - thì ôm níu cái gì, mê đắm cái gì mà không chịu vứt bỏ, ra đi xuất gia như họ?” Sáu chiếc vương bào rơi xuống đất, một đống châu báu rơi ra, sáng lóe, chấp chóa đủ màu sắc dưới ánh mặt trời!“Chính cái này đây, trân bảo này đây, đống rắn độc này đây - mà lòng tham con người phát sanh – Upāli nghĩ tiếp - rồi cái được gọi là hạnh phúc do thỏa mãn ngũ dục kia sẽ đi liền theo đau khổ, nước mắt lẫn những hiểm họa khôn lường khác! Giả sử mình mang đống này về - thì mọi người sẽ nghĩ rằng mình là một tên giết người cướp của; ít hơn thế nữa cũng là một tên lường gạt, trộm cắp. Pháp luật quốc gia sẽ không dung thứ cho ta đâu! Trên đời này, biết còn bao nhiêu người – tin vào những lời nói thật?” Upāli dẫu sanh thuộc giai cấp hạ tiện, nhưng chàng thông minh, sáng dạ, giải quyết sự vụ rất nhanh. Vì biết ngựa quen đường cũ nên Upāli tháo ngựa ra khỏi xe, tháo cương ra khỏi ngựa, lấy roi, quất nhẹ cho ngựa trở về đường cũ! Còn châu báu, Upāli gói thành sáu gói khác nhau, cứ đi một đoạn, chàng móc lên cành cây - thầm mong cho ai là người hữu phước sẽ sở hữu được tài sản vô chủ này! Xong xuôi, thở một hơi dài, Upāli nhắm hướng ngôi làng Anupiyā, ra sức chạy... Xế chiều, lúc các ông hoàng đang ngồi nghỉ ngơi dưới gốc cây thì Upāli bắt kịp; chàng hổn hển kể lại tâm sự và ý nghĩ của mình trước đống hoàng bào và châu báu; sau đó là cách giải quyết chúng như thế nào... Bhaddiya cười ha hả: - Thế là ông bạn cũng muốn xuất gia, tốt, tốt! Devadatta hơi nhăn mày: - Ông là Sudrā... - Không sao! Anuruddha xen lời - đức Thế Tôn từng dạy rằng: Trăm con sông dầu tên gọi khác nhau, nhưng khi vào biển, hòa với biển - chỉ được gọi chung là biển. Cũng vậy, chúng ta dầu tên tuổi, giai cấp, địa vị khác nhau; nhưng khi xuất gia rồi thì hòa nhập với Tăng đoàn, sống với Tăng đoàn – cùng chung trong một biển lớn là giáo hội của đức Tôn Sư! Ai cũng gật đầu, mỉm cười, khen phải! Sau một đêm gối đất nằm sương, cảm nhận thấm thía đời sống không cửa, không nhà của hội chúng thánh hạnh - họ đi vào làng Anupiyā và gặp được đức Phật. Thật ra, đức Phật đang tạm cư ở đây ba ngày, vừa thuyết pháp cho cư dân trong vùng, vừa có ý chờ đợi họ! Sau khi đảnh lễ đức Phật, họ trình bày ý nguyện lên ngài, đồng xin xuất gia! Ānanda thưa: - Xin đức Thế Tôn hãy cho Upāli xuất gia trước để chúng đệ tử phải xem cậu ta như một vị sư huynh – thứ nhất là nhằm xóa bỏ sự kỳ thị giai cấp, thứ hai là dập tắt cái tính tự cao, tự đại của dòng dõi hoàng gia Sākya và Koliya! Đức Phật lặng yên chấp thuận. Mọi việc đã được chuẩn bị sẵn. Lễ xuất gia thọ giới tỳ- khưu cho Upāli và sáu nhân vật quan trọng của hoàng gia được diễn ra rất dị giản. Thế là Upāli, Ānanda, Devadatta, Bhaddiya, Kimbila, Bhagga, Anuruddha được tôn giả Sārīputta ân cần hướng dẫn cách mặc y, mang bát, cách trì bình khất thực, cách thọ thực và cả cách đi đứng ngồi nằm của một sa-môn khất sĩ trong giáo hội của đức Tôn Sư. Còn đức Phật thì dạy họ những pháp sơ cơ về cách hành trì tu tập, một vài căn bản về định và tuệ! Được gặp lại các ông hoàng quen biết, Nandā vui mừng lắm; và có lẽ vui mừng nhất là Rāhula! Tỳ-khưu Nandā, từ khi xuất gia đến nay, không hề tìm thấy niềm vui, luôn luôn buồn bực, sầu khổ vì nhớ nhung vị hôn thê xinh đẹp – nàng luôn luôn hiển hiện trước tầm mắt, khi đi đứng ngồi nằm, và cả trong giấc ngủ chập chờn, mộng mị! Thấy các ông hoàng vương giả, cao sang tột bực đồng một lúc đến xuất gia – Nandā cảm thấy như mình được an ủi một phần nào! Sa-di Rāhula thì tâm lý đơn giản hơn, được gặp lại nhiều người quen thân; và ai trong họ cũng yêu thương mình cả, nên cậu cảm thấy mình không còn lẻ loi, cô độc nữa, mà ngược lại, thấy thân thiết và ấm áp vô cùng! Đức Phật biết tất cả chuyện gì xẩy ra ở nơi nội tâm của mỗi người, nhưng ngài chỉ giáo giới chung chung rằng: Lộ trình đi đến nơi giác ngộ, giải thoát, luôn thường trực chiến đấu với chính mình, với ma quân, phiền não – không phải dễ dàng, êm ái như bước trên tấm thảm nhung đâu! Phải để ý coi chừng từng bước chân, từng hơi thở! Hôm sau, đức Phật thông báo lên đường, rời ngôi làng Anupiyā, hướng đến kinh thành Vesāli! Đường xa, bộ hành vất vả, khá thương cho chú bé Rāhula dầm sương, dãi nắng, gối cây, nằm đất đã mười mấy ngày rồi. Tôn giả Sārīputta đã để tâm dành mọi tiện nghi có thể, chăm lo cho vị sa-di tí hon này từng ly, từng tí! Tỳ-khưu Nandā cũng đặt biệt quan tâm đến cháu của mình – nên lúc đi bát có gì ngon thường mang đến san sẻ; ngay tấm y đắp, Nandā cũng phủ ấm cho Rāhula! Bây giờ, lại có thêm Ānanda, Anuruddha nữa – Rāhula cảm thấy như mình được đùm bọc, chở che trong vòng tay thân thuộc của hoàng gia - cậu nói cười liến thoắng, vui vẻ! Chừng mươi ngày sau thì đến ngoại ô Vesāli, đức Phật và hội chúng trú tại rừng Mahāvana; ngài cũng ở lại đây ba hôm để thuyết pháp cho cư dân trong vùng, rồi từ đó, lần hồi qua sông Gaṅgā, về đến Trúc Lâm kịp an cư mùa mưa. Nghe tin đức Phật trở về, tôn giả Moggallāna cùng các vị trưởng lão Koṇḍañña, Assaji, Yasa, Nadīkassapa, Gayākassapa... đồng đến đảnh lễ và vấn an sức khỏe của ngài. Rồi sau đó, lần lượt chư tỳ-khưu trong tu viện và lác đác các nơi tìm đến - đức Phật phải mất hết mấy ngày để giáo giới, nhắc nhở nếp sống kỷ cương, phạm hạnh. Đức vua Seniya Bimbisāra cùng hoàng hậu Videhi và một số quan cận thần – vui mừng đến đảnh lễ Phật và thăm hỏi chuyến về thăm quê hương của ngài. Thấy các ông hoàng Sākya xuất gia, đức vua rất cảm động, hoan hỷ; ông cũng đặc biệt nắm tay, ân cần, bịn rịn chú sa-di Rāhula! Khi đức vua gợi ý muốn cúng dường bất kỳ loại tứ sự nào – Rāhula đều lắc đầu từ chối, bảo là đời sống sa-môn lấy tri túc và thiểu dục làm hạnh phúc! Nghe vậy, đức vua vừa ái ngại, vừa kính trọng vừa thương cảm - chạnh nghĩ đến con trai của mình – hoàng tử Ajātasattu - không biết được mấy phần của Rāhula! Chương trình an cư kiết hạ năm thứ ba tại Trúc Lâm được hai vị đại đệ tử và các vị trưởng lão hoạch định rồi đệ trình lên đức Phật – ngài không bổ sung gì thêm, chỉ lưu ý dành nhiều thì giờ để giáo giới các vị tân tỳ-khưu! Riêng đức Phật, ngài đã mất trọn nửa tháng, vào các buổi chiều để thuyết giáo, hướng dẫn cặn kẽ thiền định và tuệ quán cho nhóm quý tộc Sākya! Các tỳ-khưu quý tộc dòng Sākya, ban đầu thật là khó khăn khi thích ứng với đời sống mới; nhưng qua một tháng sau, ai cũng tìm được sự an lạc, thảnh thơi! Đức Phật biết được sự diễn tiến trong đời sống tu tập của họ - nên bao giờ ngài cũng thuyết những bài pháp hỗ trợ đúng lúc, đúng thời! Tỳ-khưu Bhaddiya, sau khi nắm đề mục từ đức Thế Tôn, ông tinh cần tu tập. Đêm kia, ngồi dưới gốc cây, đi sâu vào định, ông cảm nhận một niềm phúc lạc vô biên – chưa hề có ở trong đời – hoan hỷ quá, ông thốt lên: - “Ôi! Hạnh phúc quá! Hạnh phúc quá!” Lúc ấy, trời khô ráo, dưới ánh trăng mờ, nhiều vị tỳ-khưu hành thiền gần đấy, nghe được - biết là lời “cảm thán” của vị cựu tổng trấn danh uy một thời! Họ tưởng rằng, vị tân tỳ-khưu Bhaddiya không kham nổi cuộc sống cơ cực của sa-môn, tưởng nhớ đến đời sống ngũ dục xa hoa vương giả cũ, nên trình lại với đức Phật, mong nhờ ngài quan tâm sách tấn! Chiều hôm sau, sau buổi pháp thoại, đức Phật nói với Bhaddiya: - Có phải thế không, này Bhaddiya! Đêm hôm qua, trong lúc thiền tọa, ông đã bất giác thốt lên:“Ôi! Hạnh phúc quá! Hạnh phúc quá!” Điều ấy là đúng sự thật hay không đúng sự thật? - Quả đúng như thế, bạch đức Thế Tôn! - Tại sao ông lại thốt lên cảm hứng ngữ như thế, hãy trình bày lý do ấy cho hội chúng cùng nghe! - Bạch đức Thế Tôn! Hơn mười mấy năm làm tổng trấn, cai quản suốt cả vùng lãnh thổ phương Bắc Sākya, đệ tử đã từng thao thức trăn trở ngày đêm. Bên ngoài thì giữ yên lãnh thổ, đánh dẹp các toán thổ phỉ hung bạo; bên trong thì làm thế nào cho dân chúng có được cuộc sống bình yên, cơm no, áo ấm! Tuy nhiên, giàu sang, phú quý và quyền lực có thể làm cho tâm địa con người dễ sinh ra hư hỏng – do vậy, thù trong, giặc ngoài... làm cho đệ tử luôn luôn nơm nớp lo sợ - mặc dầu quân túc vệ canh gác suốt ngày đêm! Kể cả các vị quan thân tín nhất cũng phải đề phòng! Phản trắc, láo lường, đục khoét của công, tham nhũng, hối lộ... của giới chức thuộc quyền... không những có thể nguy hại đến tính mạng của đệ tử mà còn nguy khốn cho cả vương quốc! Sợ hãi, bất an là tâm lý thường trực! Phiền não, lo lắng, nghi kỵ... luôn chập chờn trước mắt như một ám ảnh, ngày cũng như đêm! Bạch đức Thế Tôn! Đệ tử đi xuất gia không phải do tự nguyện – mà dường như bị ép buộc bởi lời hứa với vương tử Anuruddha! Tuy nhiên, vì uy đức của Thế Tôn, vì giáo pháp nhiệm mầu mà đệ tử được nghe, vì cảm mến tâm hồn thánh thiện của Anuruddha – nên đệ tử đã khẳng khái phất tay từ bỏ tất cả! Đêm hôm qua, giũa nửa khuya thanh vắng, đệ tử cảm nhận một sự thanh thản chưa từng có ở trong đời! Ngồi một mình, đệ tử thấy rõ, mình chẳng có gì để mất, chẳng có gì để sợ, chẳng có gì phải quan tâm, lo lắng, đề phòng! Hoàn toàn rỗng rang, thanh bình và tự tại! Với ý nghĩ như vậy, đệ tử đi vào thiền định một cách dễ dàng, đi vào các tầng thiền một cách ổn định, vững chắc! Thế rồi, các trạng thái hỷ, lạc, nhất tâm - chúng tẩm mát, no đầy thân tâm của đệ tử - làm cho đệ tử cảm nhận sâu sắc, tế vi, thậm mật hạnh phúc của thiền duyệt! Chính lúc ấy, không dừng được, đệ tử đã thốt lên cảm hứng ngữ kia – đã làm cho huynh đệ phiền lòng, làm cho đức Thế Tôn phải quan tâm - đệ tử cảm thấy mình có lỗi vậy. Kinh xin đức Thế Tôn và đại chúng cho đệ tử được sám hối! Sau lời tự sự gan ruột của tỳ-khưu Bhaddiya, hội trường chợt yên lặng như tờ! Ai cũng nhìn vị cựu tổng trấn bằng tia mắt kính trọng và đầy thiện cảm! Đức Phật mở lời tán thán: - Ông hoàn toàn không có lỗi, mà ngược lại, câu chuyện này cần phải được tán dương và kể lại cho nhiều người nghe! Để cho mọi người cùng thấy rằng: Quyền lực, danh vọng, địa vị chỉ đem đến lo lắng, sợ hãi, bất an và đau khổ!Và chỉ có đời sống khước từ, xả ly, vô sản, bần hàn, độc cư, thiền định mới đem đến an bình và hạnh phúc thật sự! Thời gian sau, nhờ miên mật công phu, gia công thiền quán, tỳ-khưu Bhaddiya đắc được Tam minh, làm xong những việc cần phải làm của sa-môn hạnh! Trong lúc đó, tỳ-khưu Ānanda chứng được quả vị Nhập Lưu; tỳ-khưu Anuruddha có được Thiên nhãn thông; tỳ-khưu Kimbila và Bhagga đắc A-la-hán quả; tỳ-khưu Devadatta không đắc thánh quả nào – nhưng lại đắc được Ngũ thông! Riêng tỳ-khưu Upāli - người thợ cạo - không đắc được gì cả, nhưng luôn được đại chúng khen ngợi về oai nghi, cử chỉ; tôn trọng các điều học được chế định một cách nghiêm túc, không có một khiếm khuyết nào về giới hạnh! Vậy là tất cả họ đã đặt được những bước chân an toàn và vững chắc trên mảnh đất của giáo pháp! |
[Ðầu trang][Trở về trang Mục lục][Trở về trang Thư Viện]
updated: 2009