Trung Tâm Hộ Tông  Trang Chủ


Người Trồng Hoa Và Chàng Tu Sĩ

Tác giả: Minh Đức Triều Tâm Ảnh



Ván Cờ Sinh Tử

Lời vào truyện.

Có bao giờ chúng ta nghe từ miệng một vị thiền sư dạy Đạo cho môn sinh như thế này chưa:

“- Này chư tử! Thuở còn trai trẻ, làm kiếm khách áo trắng, ta ít khi rút kiếm ra khỏi bao, rút ra là phải chém. Hàng tục sĩ gọi ta là Kiếm vương.

Này chư tử! Thuở còn trai trẻ, làm giang hồ kỳ thủ, ta ít khi chơi cờ. Khi đã chơi, một quân cờ đặt xuống - trọng lượng một quả núi - sẽ kết thành định mệnh. Định mệnh không lập lại hai lần. Dòng sông đã chảy, vậy thì những quân cờ kế tục đi đến chung quyết. Không do dự. Không ngập ngừng. Người đời gọi ta là Kỳ vương.

Này chư tử! Kiếm vương ta cũng bỏ. Kỳ thủ ta cũng lìa, khoác tay nải, dép cỏ, nón mê lang thang học Đạo. Ba mươi năm chí thú tinh cần mới thấy được cửa vào. Mười năm lên núi sâu thiền tu, tịch mặc. Sở chướng đã trừ. Mê lầm đã tuyệt. Núi cũng là núi. Sông cũng là sông thôi. Kiếm vương kia thành Kiếm đạo. Kỳ vương kia thành Kỳ đạo. Tại sao như thế?

Này chư tử! Nay ta có mấy lời tâm huyết, như dao chém đá, như kiếm xuyên mây. Hãy nghe mà lập tâm lập hạnh. Đốt cháy kiến hoặc, dội tắt nghi tình, vào chốn ngũ trần mà thong dong tự tại.

Hãy nghe đây! Phàm người tu Phật, một niệm phóng đi, tác thành nghiệp báo. Vậy hãy như tay Kiếm vương kia, chớ có khinh suất mà ra chiêu, đừng cho ý tưởng tự do khởi động. Khi ngưng tụ sinh lực. Lúc buông xả nghỉ ngơi. Hãy xuất niệm như xuất kiếm. Đã xuất là phải đạt.

Này chư tử! Phàm người tu Phật, phải tinh luyện tư duy, khổ hạnh tư duy. Một tư duy đặt trên đối tượng. Một tư duy dẫn dắt hành động. Phải như tên Kỳ thủ kia, một quân cờ đặt xuống, trọng lượng một quả núi. Dòng sông không chảy hai lần. Đừng do dự. Đừng ngập ngừng. Quân cờ đặt xuống là tác thành định mệnh, tác thành nhân quả, nghiệp báo.

Này chư tử! Hãy xuất cờ! Hãy xuất niệm! Hãy xuất kiếm! Bước tới! Không ngoảnh đầu! Không có sinh tử giữa dòng chảy trôi liên lỉ! Không có sau trước giữa vòng tròn vô thỉ, vô chung!”

Bài giảng kia đã từ một tu viện thâm u trên núi cao, đâm xuyên qua mấy đỉnh mây mù, băng tuyết, rơi xuống, cắm vào giữa lòng các đô thị. Người ta tỉnh giấc, bàng hoàng. Ngàn năm Phật giáo kinh điển, từ chương, thụ động, tiêu cực, đắm say bùa chú, hương khói vật vờ; chơt đứng dậy, vươn cao, nắm định mệnh mình bước đi như thớt voi lâm trận, hùng dũng ho to, cánh sát cánh, vai sát vai...; ánh lửa trí tuệ bùng lên, thổi sinh khí, đem cái đẹp, sức mạnh và tự do tối thượng cho con người.

Phật giáo từ thời Khâm Minh Thiên Hoàng, đến đây, hậu bán thế kỷ XV, sống lại, mang cơ thể mới, tinh thần mới, dẫn Nhật Bản đi vào thời đại phú cường. Công lao ấy có ai ngờ rằng, có sự đóng góp từ trí tuệ của một người: thiền sư Dai-so-kim! Ngài tịch năm 1491, nơi một am thất nhỏ ở Keti phía nam Tây hải đạo.

Truyện ngắn sau đây thuật lại một trường hợp dạy Đạo của người. Thanh niên Ka-jo-ju sau khi thất vọng về đường công danh, tình yêu, sự nghiệp bèn tìm đến một tu viện trên non cao và thưa với Tu viện trưởng:

- Thưa ngài! Con đã thấy rõ bộ mặt thật của cuộc đời nên mong muốn giải thoát khỏi những đau khổ. Thế nhưng, con không có khả năng hành trì một thứ gì lâu dài. Không bao giờ con có thể sống nhiều năm trong thiền định, học tập, giới luật hay cái gì nghiêm túc tương tự như vậy. Con sẽ thối chí và rơi trở vào cuộc đời, dẫu biết rằng mình không còn chịu đựng được. Quyên sinh là biện pháp hay nhất, có lẽ... Thưa ngài! Vậy thì còn có con đường nào ngắn nhất, dễ dàng nhất dành cho những kẻ như con hay không?

- Có chứ! Tu viện trưởng một thoáng lạ lùng nhìn người thanh niên rồi trả lời - nếu con trung thực! Nhưng hãy cho ta biết là con đã học những thứ gì? Sở tri ra sao? Có thể có những khả năng như thế nào? Thảng hoặc, con thường hay tập trung tâm ý nhiều nhất vào chuyện gì?

Ka-jo-ju có vẻ nghĩ ngợi, sau đó, y thở dài thườn thượt:

- Ôi! Thực sự thì không có thứ gì! Con chưa nghĩ là mình phải nên như thế này hoặc nên như thế nọ! Vả chăng, mục đích của sự học cũng chỉ đưa đến hư vô và phù phiếm! Công danh, sự nghiệp giữa cuộc đời này cũng chỉ là giấc mộng đầu hôm. Hiện giờ gia đình con lại khá giả nên con không cần phải làm việc. Riêng về sở thích thì... tuyệt, con thích đánh cờ nhất! Cả đời dường như tâm trí con chỉ tập trung vào đó thôi. Trong vài cuộc tranh giải gồm những kỳ thủ già dặn bốn phương, thỉnh thoảng con cũng giật được phần thưởng ưu hạng.

- Rất tốt! Tu viện trưởng gật đầu - chưa đến nỗi phải bỏ đi. Nhưng mà điều này mới thật là quan trọng, con có niềm tin nào nơi ta không chứ?

- Con đã chọn lựa.

- Thế nào?

- Ngài là Kiếm vương - Thanh niên Ka-jo-ju chợt nói lớn - lại là Kỳ vương nữa. Ngài đã dùng sức mạnh của đạo đức và trí tuệ để thu phục nơi tu viện này những con ngựa hung hăng nhất, những tay giang hồ kiêu ngạo và bạc hãnh nhất... Không cần phải nói rằng người ta tín phục ngài như thế nào, ngài Tu viện trưởng ạ!

- Hỡi con, này Ka-jo-ju! Ta muốn hiểu cường độ tín phục ấy ở nơi riêng con thôi.

Nghe gọi đúng tên mình, Ka-jo-ju rúng động cả châu thân. Bất giác, thanh niên đưa mắt nhìn Tu viện trưởng, và y cảm thấy một sức thu hút kỳ lạ không cưỡng được.

Ka-jo-ju gật:

- Tín phục. Con hoàn toàn tín phục.

Tu viện trưởng chậm rãi quay qua bảo thị giả:

- Vậy hãy cho gọi tu sĩ Mu-ju đến đây cùng với bàn cờ của y.

Người được gọi là một tu sĩ trẻ, rất trẻ, vóc người tầm thước, dáng dấp nho nhã, khuôn mặt sáng rỡ, tròn trặn đầy phúc hậu.

- Mu-ju con!

- Bạch thầy, con nghe.

- Bao nhiêu năm con theo ta để học Đạo. Con mời cơm, ta ăn. Ta gọi, con dạ. Ta giẫy cỏ, con cuốc đất... Tình thầy trò giữa chúng ta thật không có gì đáng phải phàn nàn cả chứ?

- Dạ, quả thế thật.

- Ta còn muốn hỏi rõ hơn nữa. Từ trước đến nay, con không hề mảy may nghi ngờ gì nơi ta đấy chứ?

- Phải nói ngược lại, bạch Thầy - giọng tu sĩ trẻ chợt như viên đá nặng ngàn cân - phải nói là con tín phục Thầy một cách tuyệt đối.

- Rất tốt! Vậy này Mu-ju! Ngay bây giờ ta yêu cầu ở nơi con sự tín phục “kim cương bất hoại” đó.

- Xin vâng.

Tu viện trưởng - chính là vị thiền sư Dai-so-kim - chợt đứng dậy, bước tới bức tường phía đông. Ở đó có treo một thanh kiếm cổ, vỏ nạm bạc khảm xà cừ, nhưng tuế nguyệt đã phủ lên đấy một lớp bụi đục. Gần nửa thế kỷ nay, ngài không đụng đến thanh kiếm ấy. Cái thời Kiếm vương trai tráng oanh liệt dường như mới hôm qua đây thôi. Ngài thò tay. Một tiếng động khẽ vang lên. Kiếm đã ra khỏi vỏ. Mũi kiếm sắc lạnh ngời ánh thép xanh biếc.

Thiền sư Dai-so-kim quay lại, đứng thẳng như một cỗi tùng gân guốc.

- Này Mu-ju! Ngài nói chậm rãi - con hãy chơi cờ với chàng thanh niên này. Và nghe đây! Nếu con thua, ta sẽ chém đầu con, nhưng ta hứa là con sẽ được tái sanh vào cõi phúc lạc. Nếu con thắng, ta sẽ chém đầu chàng thanh niên. Suốt đời anh ta mê mải ham thích trò chơi đó, nếu để thua thì chém đầu y chẳng oan tí nào.

Hai người lạnh toát sống lưng nhìn Tu viện trưởng; và trong thoáng giây đó, họ đều hiểu rằng ngài nói thật.

Thanh niên Ka-jo-ju đứng trân, bất động, loáng thoáng theo hơi gió buốt lạnh câu nói xa xưa của Kiếm Vương: “Ta ít khi rút kiếm ra khỏi bao, rút ra là phải chém!” Bất giác, thanh niên đưa tay sờ lên cổ mình, mồ hôi lấm tấm, gai lạnh. Tu sĩ Mu-ju chỉ thoáng một giây sợ hãi như tí gợn trên mặt hồ rồi mất. Trọn đời bằng vào đức tin tuyệt đối nơi đức thầy, nên việc giao phó định mệnh không phải là điều đáng suy nghĩ lâu.

Giữa thiền đường, lư trầm nghi ngút. Cơn gió lạnh lẽo lùa qua liếp cửa. Thiền sư Dai-so-kim ngồi xuống sau làn khói lung linh mờ ảo, tay nắm chặt đốc kiếm trịnh trọng với phong độ của một bậc tôn sư. Không khí đọng lại, trang nghiêm và tĩnh mịch đến ghê người.

Cả hai người hoàn toàn bị khiếp phục. Họ bắt đầu bước vào ván cờ sinh tử.

Ván cờ không còn là trò chơi nữa. Là cái gì nghiêm trọng nhất trên đời này. Ván cờ chính là cuộc đời. Ván cờ chính là sinh tử. Và cả hai hoàn toàn tập trung tâm ý vào đó không một mảy may dám xao lãng.

Chỉ vài nước khởi đầu, thanh niên đã sớm hiểu là mình đang đối đương với một địch thủ kỳ tài và già dặn. Tu sĩ trẻ lại un đúc được đức trầm tĩnh của thiền môn. Đó là những yếu tố đáng ngại. Mồ hôi từ tráng chàng thanh niên chảy dài xuống ngực. Tu sĩ Mu-ju đã chiếm ưu thế mất rồi. Và như một lão ngựa tự tin, sung sức - chỉ cần sải từng bước đều đặn giữ khoảng cách đầu ngựa.

Chiến thắng chỉ còn là thời gian.

Ka-jo-ju quên ngoại cảnh, quên bản thân, quên cả việc sống chết. Ngay giây phút này - tình yêu, công danh, sự nghiệp, ưu hận - là những đám mây đen bị xua tan một cách nhanh chóng. Tâm trí Ka-jo-ju hoàn toàn chú mục vào cái đam mê duy nhất của đời mình. Phong độ, sinh lực, thiện xảo, sự thông minh dễ dàng trở lại với chàng. Thế là Ka-jo-ju khôn khéo gỡ từng thế một. Tuy nhiên, tu sĩ Mu-ju vẫn tranh tiên. Rất chậm, vững chãi, từng bước vây hãm thành trì, không một sơ hở tối thiểu để cho chàng thanh niên lập lại thế quân bình.

Đột nhiên, thanh niên Ka-jo-ju bỏ thủ, bỏ thành trì, hy sinh quân mã, tung những đòn chớp giật. Lớp chết, lớp khác xông lên với khí thế quyết tử. Lấy công làm thủ là chiến thuật bình thường, nhưng tự hy sinh quá đột ngột, liều lĩnh và táo bạo như vậy thì quả là Mu-ju mới thấy lần đầu. Đến lượt tu sĩ trẻ toát mồ hôi, từng giọt, từng giọt rỏ xuống bàn cờ. Ka-jo-ju chỉ chờ có thế. Chỉ cần một thoáng bối rối, lưỡng lự của đối thủ là y chém đông, chém tây những thế táo bạo - nhưng chỉ là hư chiêu - rồi rút về an toàn, bình chân như vại.

- Đệ tử vây Ngụy, cứu Triệu, hao tổn tâm cơ là chỉ mong cái thế bảo toàn - Ka-jo-ju thở phào nói - Thật ra, nếu đệ tử không thất vọng tình đời thì không đi những thế tuyệt mạng như vậy. Vì từ bi, vì trung hậu và chơn chất mà tiểu sư phụ mất thế thượng phong. Hiện giờ tiểu sư phụ dẫu hơn quân nhưng chuyện thắng bại khó biết phần ai.

Lợi dụng khi quân mã của tu sĩ đang tản mác đó đây, thanh niên kéo đôi pháo giăng về giữ trung quân. Binh lính và ngựa chặn ở ven sông. Một xa chợt đông, chợt tây, chợt tấn, chợt thoái xông xáo giữa chốn thiên binh vạn mã. Tu sĩ trẻ bắt đầu thấy mình yếu thế. Tự tin một thoáng lay động là phía tả tiền đã bị viên hổ tướng của địch phá vỡ. Lão ngựa già của đối phương được hai chốt hộ vệ chặt chẽ, hờm sẵn đã lâu, bây giờ hung hăng nhảy đến thí mạng. Thế là đôi pháo bất khuất kiên cường của tu sĩ bị loại khỏi vòng chiến.

Mu-ju đã rơi vào thế thủ. Thỉnh thoảng vẫn đánh trả những đòn đầy trầm tĩnh và nội lực nhưng thanh niên vẫn đón đỡ dễ dàng. Vào phút bất ngờ nhất, thanh niên Ka-jo-ju tung quân dự bị. Hai pháo giữ nhà đồng loạt vọt qua sông, tung đòn tối hậu.

Tu sĩ đã nguy cơ thập tử nhất sinh.

Thanh niên len lén đưa mắt nhìn vị sư. Đấy là một khuôn mặt trong sáng đầy trí tuệ do bao năm tinh cần giới luật. Ôi! Một chân dung thật đẹp ở trong một tinh thần cao khiết. Thanh niên nghĩ. Vị tu sĩ này từ hòa và đôn hậu hết mực, mang linh hồn trong sáng như viên bạch ngọc không tỳ vết nhiễm ô; đâu có hắc ám, bụi bặm, hiếu chiến, táo tợn và đa sát như ta? Ôi! Một nhân cách như vậy mà bị kết liễu cuộc đời thật uổng lắm thay! Ta là gì? Một kẻ du thủ du thực, vô tích sự, ăn bám mẹ cha và xã hội; nếp sống dơ dáy, hư hỏng, nội tâm đầy dẫy những ham muốn bất chánh và hèn hạ. Giá trị đời ta chỉ có thế thôi. Rơm rác còn có ích hơn ta.

Thanh niên nhè nhẹ thở dài. Và lòng từ bi khởi lên dịu dàng xâm chiếm lòng chàng. Ôi! Cuộc đời vô giá trị của ta nên hy sinh cho cuộc đời có giá trị.

Nghĩ thế xong, thanh niên khôn khéo tạo những sơ hở, chỉ những kỳ thủ trứ danh mới biết được. Một thế, hai thế. Vậy là quá đủ cho tu sĩ lấy lại quân bình rồi chiếm luôn ưu thế tấn công.

Thanh niên Ka-jo-ju biết mình sẽ thua, lát nữa thôi, nhưng chàng không đổ mồ hôi, không lạnh lưng, không lạnh gáy. Một an tĩnh mênh mông, thân thiết vây phủ tâm hồn chàng. Chưa bao giờ mà chàng chờ đợi cái thua - nghĩa là chờ đợi cái chết - một cách dịu dàng, trong sáng, bình lặng và thanh khiết như vậy.

Tu sĩ trẻ ngần ngại. Ngón tay vừa thò xuống quân cờ định mệnh, vội rút lui... Cũng vì lòng từ bi mà tu sĩ không nỡ hạ thủ.

Bàn cờ bất động giữa hai người.

Đối với những tay cờ ưu hạng, không có thế cuối cùng, Ka-jo-ju hiểu vậy, và vì đã nguyện hy sinh nên bỏ tay xuống...

Bỗng một làn khí lạnh lướt qua. Tu sĩ Mu-ju thoáng thấy thiền sư Dai-so-kim đứng dậy chập chờn sau làn khói hương. Và một tia chớp phủ chụp xuống đầu chàng thanh niên. Tu sĩ nhắm mắt lại, khẽ tuyên Phật hiệu...

Thiền đường lặng ngắt như tờ. Tu sĩ trẻ định thần mở mắt ra. Mắt y chợt tròn vo, kinh ngạc. Cái đầu với tóc tai rối bù của chàng thanh niên đã bị cạo nhẵn thín. Và giọng thiền sư Dai-so-kim trầm ấm, mồn một bên tai:

- Chỉ cần có hai điều, Ka-jo-ju con hỡi! Ây là sự hoàn toàn tập trung tâm ý và lòng từ bi. Hai yếu tố quan trọng của Đạo Giác Ngộ. Thế mà hôm nay con đã học được cả hai. Con đã tập trung tâm ý có hiệu quả vào ván cờ. Sau đó vì lòng từ bi mà con nguyện hy sinh mạng sống mình. Thôi, hãy ở lại đây, áp dụng kỷ luật của chúng ta trong tinh thần đó. Giải thoát sẽ là kết quả đương nhiên như mũi tên đến tiêu điểm theo đường nhắm đúng.

Thanh niên Ka-jo-ju đưa tay lên sờ đầu mình, chàng mỉm cười.



Người trồng hoa và chàng tu sĩ

Ngoại ô thị trấn Osaka có một lâu đài cổ, nằm trong khu vườn mênh mông, yên tĩnh. Lâu đài chỉ còn là những bức tường đổ, lang lổ và rêu mục. Là nơi trú ẩn của chim chuột, của những đàn dơi tung cánh phần phật. Sâu trong vườn là chiếc lều tranh rách nát: nơi nương náu của cụ già mù lòa Mê-đa-su, cùng với Tô-ki - con chó mực cũng già nua như chủ. Cả hai đều sống dai dẳng từ cái thời vàng son phú quý của lâu đài.

Cả thị trấn Osaka này không ai là không biết cái vườn hoa nổi tiếng ấy. Khách đến lâu đài thường trầm trồ thán phục những chậu hoa, những luống hoa tươi nõn, đẹp mắt. Còn hơn thế nữa, khi họ bất chợt thấy từ trong bậu cửa, một cành hoa thò ra. Cành hoa không còn là cái gì đơn điệu - tuy vẫn là đơn điệu ấy - mà là đại biểu cho cả mùa xuân tươi thắm của đất trời. Nó ngưng tụ. Lại đón mời. Dẫu bình hoa chỉ đơn sơ ít nụ hoặc chỉ vài loại hoa cỏ tầm thường trong cái đĩa, cái bình sứt mẻ, chúng vẫn tỏa ra cái vẻ toàn hảo và thanh khiết nhất. Một bình hoa như vậy, chắc hẳn là không phải do ai cắm vào! Mà nó phải được “mọc” ra từ một tâm hồn nắm vững bí quyết của nghệ thuật: cái đẹp, cái nâng bổng, cái làm cho phong phú, tươi thắm thêm cuộc sống và tình người.

Bốn mùa tám tiết, không lúc nào khu vườn ấy thiếu hoa. Đông xuống, tuyết rơi, hoa vẫn nở được trong nhà kiếng, ở đó có sương mù, ánh sáng lẫn khí ấm của mùa xuân. Những bó hoa, những cành hoa, những nụ hoa từ đây được rải ra các phòng khách sang trọng nhất của thị trấn, các ngôi chùa lớn, một vài tư gia bạn thiết của lâu đài. Tuy thế, ít ai để ý đến tâm hồn nhiệm mầu nào đã tạo ra chúng. Lão làm vườn Mê-đa-su cùng với con chó Tô-ki vẫn sống âm thầm bên nhau, vô danh như chưa hề có mặt.

Khi chủ nhân lâu đài qua đời vài năm, cụ già Mê-đa-su bị hỏng mắt, lý do thật ít ai ngờ đến: lão té trong một bụi tử vi. Và kỳ lạ chưa, hai mắt lão bị tối tăm vĩnh viễn! Từ đấy, thị trấn Osaka không có hoa nữa. Hoa cũng có đấy nhưng nghèo nàn và cằn cỗi thế nào. Nó là sứ giả của tàn úa và tử vong. Hoa của Mê-đa-su không có vậy, nhất là những bình hoa: nó có sự sống và linh hồn.

Bây giờ, khu vườn ấy là nơi mà thiên nhiên đã chiếm ngự trọn vẹn. Những bụi thục quỳ, sơn trà, tuyết mai, mẫu đơn... đã già cỗi, sống chen chúc với rác rưởi và cỏ gai đủ loại. Ai nhìn khu vườn điêu tàn và lão làm vườn già nua mù lòa ấy mà không khởi lên một mối u hoài sâu lắng? Cái vô thường của cuộc đời cũng thật khó cho người ta cảm thông vậy thay!

Mùa đông năm ấy, Mê-đa-su hấp hối. Con Tô-ki cất giọng thê thảm tru từng hồi.

Tô-ni-ka, tên chú bé hàng xóm tốt bụng - là người bạn thân thiết sau này của cả hai - chạy qua với vẻ hớt hải:

- Có phải cha già sắp chết không, Tô-ki? Tô-ni-ka cất tiếng hỏi. Con chó nước mắt tươm ra. Tô-ni-ka hiểu. Nó thắp lên một ngọn đèn. Gió lùa từ liếp cửa trống hoác, lạnh cắt da. Ánh sáng lung linh, chập chờn.

- Tô-ni-ka đấy à? Cụ già phều phào hỏi.

- Cha già ơi! Có cháu đây! Chú bé chạy lại nắm tay cụ già lắc lắc - Nằm yên tĩnh đi nào!

- Lão sắp chết. Ông tử thần đã đến với lưỡi hái. Y đang đứng ở đầu giường. Cháu có thấy không, Tô-ni-ka?

Chú bé rùng mình, nhìn quanh quất.

- Bậy nào! Này cha già, đừng nói thế nữa. Cha già có thể sống khỏe. Coi cơn đau như giấc mộng thôi!

- Giấc mộng thôi - Cụ già lắp bắp - Hay lắm, như là giấc mộng thôi! Cụ lại rướn người - Tô-ni-ka! Chú bé tốt bụng! Vậy là lão đã có đủ mọi người thân thiết. Cho lão nắm tay một tí nào! Cả con Tô-ki nữa.

Cả ba yên lặng hồi lâu. Mưa lập đập ở bên ngoài. Gió rú từng cơn. Cụ già giọng như đã lạc hẳn đi:

- Suốt đời lão làm việc. Hai bàn tay lão đã làm cho thành phố nở hoa. Ôi! Hạnh phúc thay là được làm việc và được sống một đời lương thiện. Lão không bất mãn gì về cuộc đời. Lão thân yêu với nó. Dĩ nhiên là thân yêu vừa phải thôi. Lão thân yêu cái vườn hoa của lão hơn. Tô-ni-ka, chú bé tốt bụng! Cháu đã thấy vườn hoa mùa xuân của lão chưa?

- Hoa nở từng chòm, từng khóm, chỗ này, chỗ kia, đẹp lắm!

- Không. Không phải. Nó là những cái luống thẳng tắp. Chỗ thì như ngày hội của bướm. Chỗ thì như đám lửa phun. Chỗ thì như dòng suối tuyết... Đẹp, đẹp lắm kìa! Cụ già lại thở ra - nhưng đấy là ngôi vườn xưa. Tô-ni-ka còn bé lắm. Con Tô-ki nó biết kìa! Tô-ki!

Chó nghe gọi, ve vẩy đuôi, rên ư ử.

- Con Tô-ki nó biết đấy - cụ già ngừng hơi một lát rồi thở dài - bây giờ thì đã hơn mười năm lão không thấy nữa - giọng cụ già lớn hơn một tí - Tô-ni-ka! Từ khi lão bị mù, thành phố không có hoa nữa phải không?

- Vẫn bán đầy ở chợ ấy chứ! Hoa mõm chó, hoa móng lợn, hoa mồng gà, hoa mâm xôi, hoa cứt chuột, hoa vạn thọ, hoa cúc dại...

- Đúng. Đúng. Đúng. Cụ già gật liên hồi - Chỉ có thế thôi. Đúng là không có lão, thành phố không nở hoa! Còn cái chuyện cắm hoa nữa - giọng cụ già như sôi nổi hẳn lên - cái đó mới kỳ diệu! Người đời phức tạp, rối ren, nhiều tham muốn quá. Chỉ nhìn bình hoa của họ là lão thấy ngay. Lão giản lược một tí. Lão cắt một tí, xén một tí nữa.

Đột ngột, cụ già im lặng. Một màn đen như phủ trong mắt. Tô-ni-ka cho cụ già uống một hớp nước. Con Tô-ki vẫn ư ử ở bên chân.

- Tô-ni-ka! Chú bé tốt bụng! Hiện giờ đây lương tâm lão không có yên ổn. Dẫu là một hạt bụi nhỏ, lão cũng không làm ác, tuy thế, lão không thanh thản để nhắm mắt ra đi.

- Cha già ơi! Cha già cứ nói. Biết đâu cháu có thể giúp đỡ cha già được cái gì đó.

- Chú bé tốt bụng! Lão nói với cháu điều này. Lão có một ông Phật...

- Cái đó thì cháu biết đấy.

- Ồ, thế thì rất tốt. Vậy cháu hãy kiếm cho lão một tượng Phật, treo lên đầu giường, đốt một lư trầm, rồi đọc cho lão nghe một bài kinh sám hối.

- Khó đấy! Cả vùng này có ai yêu Phật đâu, ngoài cha già và Tô-ni-ka? Nhưng lò trầm và kinh sám hối thì có ngay.

Chú bé vù ra cửa. Lát sau, lư trầm được đốt lên, ấm cúng, thơm thoang thoảng, nó xua tan ngay âm khí và sự cô liêu. Lời kinh từ miệng đứa bé vang vang trong lều. Đại ý là: tội lỗi con đã nhiều, từ vô thỉ đến nay. Vậy con xin sám hối với ba đời chư Phật...

- Thôi! Thôi! Cụ già nói - Có lẽ không phải là cái ấy. Cái ấy không làm cho lão yên tâm.

Im lặng một lát.

- Này Tô-ni-ka! Lão muốn sám hối với một người. Cháu có thể giúp lão điều đó không?

- Có thể được! Đứa bé gật - Bên kia thung lũng có một tu viện. Cháu sẽ đến đó tức khắc và thỉnh một ông thầy tu.

- Không! Không! Lão không thích thầy tu.

Chú bé ngơ ngác. Cụ già Mê-đa-su tiếp:

- Như thế này, Tô-ni-ka! Cháu hãy đi ra đường và mời người đầu tiên mà cháu gặp. Lão sẽ sám hối với người ấy. Không ai nỡ từ chối lời thỉnh cầu của người sắp chết đâu, Tô-ni-ka.

- Có ngay!

Chú bé vụt chạy đi. Chú nổi da gà khi băng qua khu vườn tối đen, lạnh lẽo. Mưa lay lắt và gió buốt xương. Đám mây đen đục từ trời cao như sa xuống thấp. Một ánh đèn le lói phía cuối đường. Đêm đông, dường như mọi sự sống đều cuộn mình trong lớp kén dày. Đường sá vắng ngắt. Một bóng đen đang chậm rãi bước ven lộ, gục gặc đầu. “À, y đang ngâm thơ!”

- Hãy đứng lại! Chú bé hét to.

Bóng đen giật mình thối lui, nom cho rõ.

- A, chú bé con! Ghê gớm thế! Chú bé thân mến, có chuyện gì nào?

“Thì ra là người đàn ông, tốt!” Chú bé lầm thầm rồi vội vã đến cầm tay bóng đen, cố gắng diễn tả tóm tắt lời thỉnh nguyện của lão làm vườn.

- Được! Được! Người đàn ông gật đầu - Sám hối, ấy là cái sự vụ rất đàng hoàng, rất nghiêm chỉnh. Ta đi nào.

Họ dắt tay nhau lầm lũi đi vào nhà. Dưới ánh sáng của ngọn đèn yếu ớt, Tô-ni-ka cũng nom rõ người đàn ông gầy gò bé nhỏ. Y cởi khăn quàng để lộ cái đầu trọc. Y cởi luôn chiếc áo choàng ngăn mưa, bên trong là chiếc áo nâu rêu giản dị, sạch sẽ. Đôi giày đi mưa đã cũ nhưng lành lặn. Tóc muối tiêu lún phún. Sau vai vác một cái đãy to, thò ra cây đàn Kôtô đã ngả màu đen lóng lánh. Tất cả nom có vẻ tươm tất pha chút tuế sương bãng lãng.

Người đàn ông nửa trẻ, nửa già, nửa thầy tu, nửa thế tục, đưa hai bàn tay đẹp thon thả vuốt đầu, rồi nhanh nhẹn lấy chiếc ghế đẩu ngồi xuống bên cạnh giường. Dáng y hơi cúi, hai tay chấp lại, chăm chú và vui vẻ nhìn người hấp hối.

- Nói đi nào, cụ già - Người đàn ông nói - Tôi là một tu sĩ. Một tu sĩ đam mê nghệ thuật. Đam mê tất cả những cái gì thuộc về nghệ thuật. Ồ! Ham mê, nói ham mê mới đúng. Cái đó bậy. Nhưng biết làm thế nào! Cái nghiệp chướng nó vậy. Tôi chọn con đường lẫn lộn với quỷ ma và làm cho nở hoa mọi sự. Tôi nói điều đó cụ già có hiểu không?

- Nở hoa mọi sự, hay lắm! Cụ già thều thào - Ít khi mà lão nghe được lời nói hay như vậy.

- Mô Phật! Còn có cái hay nữa - người đàn ông mỉm cười - cái mà tôi phụng sự, yêu thích, nó “nâng bổng” cuộc đời, nó đẩy tinh thần con người lên cao. Bởi vậy, xin cụ cứ an tâm mà nói đi. Tôi hy vọng vào phút cuối cùng này, bên tôi, tâm hồn cụ sẽ nở hoa và bay vút thênh thang lên trời cao như một cánh chim trắng.

- Bay vút thênh thang... Cụ già lập bập - trong ánh mắt mờ đục dường như loáng lên một ánh sao - Nhưng tu sĩ ạ! Cụ già tiếp - Lão có một sự bất an, một chút thôi, mà tâm hồn cũng trở nên nặng nề quá lắm. Lão muốn sám hối!

- Mô Phật! Tu sĩ nói - Cụ hãy sám hối nếu đấy là từ mà cụ thích. Hãy sám hối đi nào. Tôi sẽ nâng cụ lên, chắc chắn là như vậy. Tôi có nghệ thuật. Tôi nắm vững, nắm chắc bí quyết nghệ thuật ấy. Tôi sẽ nâng cụ lên, không cần phải cố gắng lắm đâu.

- Nó như thế này, tu sĩ ạ! Biết tu sĩ có phiền lòng không? Lão không thích thầy tu. Lão tin Phật mà lão không tin thầy tu - khó khăn lắm ông lão mới nói được - điều đó có trở ngại cho sự sám hối không?

- Mô Phật! Tu sĩ giơ tay cười vui vẻ - Không có gì trở ngại cả. Chính tôi, tôi cũng không tin ông thầy tu ở nơi tôi, tôi chỉ tin ông Phật ở nơi tôi thôi.

- Mô Phật! Ngài tu sĩ nói thiệt hay.

Cụ già dường như cố gắng nở nụ cười. Tu sĩ mỉm cười. Đứa bé Tô-ni-ka cũng mỉm cười. Con chó ư ử và ve vẩy đuôi.

Bất chợt cụ già Mê-đa-su rướn dậy nắm tay người đàn ông kéo về phía mình.

- Suốt đời lão làm việc - cụ già nói - chỉ lo làm việc thôi cũng đã khá lương thiện rồi. Huống nữa, lão trồng hoa. Lão phụng sự cái đẹp. Lão làm cho thị trấn nở hoa, đem mùa xuân cho lòng người. Điều đó hẳn là tốt thôi, phải không tu sĩ?

- Tuyệt!

- Thế nhưng - cụ già giọng như yếu đi - cũng chính do nơi phụng sự cái đẹp ấy mà lão phạm tội. Cũng không biết có phải là tội không, nhưng nó làm cho lão bất an.

- Hãy nói nữa đi cụ. Sám hối tức là nói ra những gì làm cho mình bất an. Sau khi nói ra rồi, tôi sẽ làm cho tâm hồn cụ nhẹ thênh thênh ngay lập tức. Chắc chắn như vậy.

- Mô Phật! Này tu sĩ - cụ già có vẻ suy nghĩ giây lát - có bao giờ tu sĩ thấy một thanh bảo đao chém ngọt một thân chuối tơ nõn chưa?

- Có thể tưởng tượng được cụ ạ! Tu sĩ ngạc nhiên.

- Chuyện nó như thế này. Buổi sáng kia, mùa xuân về, sự sống rạt rào trong cây cỏ. Những nụ hoa thấy nắng ấm, gió thanh lương bèn tỉnh giấc ngủ dài, mở mắt ra chào đón cuộc đời. Những nụ hoa tươi nõn, mơn mởn, hứa hẹn những bình hoa thắm sắc để chưng trang trọng tại các phòng khách. Thế là với cái kéo trong tay, lão ra vườn...

Cụ già Mê-đa-su đột ngột im lặng, đôi mắt lão như đứng tròng vào một cõi xa xăm nào.

- Hãy nói nữa đi cụ! Với cái kéo trong tay, thế là... thế là... Tu sĩ nói lầm thầm - thế là...

- Như vậy đấy, ngài tu sĩ ạ! Với cái kéo trong tay, lão cắt ngọt xớt, lão đoạn tuyệt những sự sống ấy, giống như đoạn tuyệt những hài nhi mới sinh, chẳng khác gì thanh bảo đao chém vào thân chuối tơ nõn. Ôi! Nó mở mắt tháo láo, rỉ máu, ngạc nhiên, chắc hẳn vậy. Lần đầu tiên, lão run rẩy, tim ngừng đập. Đêm về, lão nằm mơ. Mơ thấy những chiếc cổ trắng nõn, nổi gân hồng đến đòi nợ...

 Tiếng nói của cụ già mỗi lúc mỗi nhỏ dần đi. Cậu bé Tô-ni-ka thoáng rùng mình, nổi gai ốc.

Tu sĩ trấn tĩnh.

- Chẳng có gì quan hệ đâu, cụ già ạ! Chỉ là tâm và tưởng nó huyễn hoặc bùa chú vậy thôi. Cái tay thợ vẽ tài hoa ấy nó vẽ gì mà chẳng được! Tu sĩ cất tiếng cười giòn tan - rồi sau đó thế nào, chẳng có chuyện gì cả chứ?

- Không có chi - cụ già thở ra như trút bớt gánh nặng - một lần đó rồi thôi. Sau này nó quen đi. Nhưng một lần mà vĩnh viễn không quên mới là điều đáng nói. Khi nào vừa chớm tưởng đến, lão lại rùng mình. Cụ già nghỉ một lát - Này tu sĩ ơi! Cái đó là tội hay không phải tội?

- Vậy khi đó, khi cắt những cánh hoa, cụ có khởi lên ác niệm như khi giết một sanh mạng? Tu sĩ chăm chú hỏi.

- Không. Không có điều đó. Cắt xong lão mới tưởng tượng.

- Ồ! Nó chỉ là tưởng tượng thôi thì hơi đâu mà chấp vào những cái tưởng tượng. Tu sĩ tủm tỉm cười - Này, nhà trồng hoa, chắc cụ đã cắm những bình hoa đẹp lắm nhỉ?

- Không! Lão không cắm. Lão làm cho nó “mọc” ra từ một góc tâm hồn thanh khiết nhất của lão.

- Thật là tuyệt! Tu sĩ nói rồi đặt hai bàn tay thon thả ấm áp của mình lên đôi má hóp của cụ già - Nếu cụ là kẻ có tội thì ngàn năm trước, ngàn năm sau không có ai lên Thiên đường. Trước mọi người, trước lương tâm, cụ là người hiền thiện. Sao lại có tội được khi cụ đem mùa xuân cho cuộc đời, an ủi và xoa dịu lòng người? Này nhà nghệ sĩ! Hãy mỉm cười đi nào!

- Phải! Phải! Lão cũng biết thế - cụ già nở nụ cười hóm hém rồi thở phào - Này tu sĩ! Sao kỳ lạ quá? Tu sĩ nói những điều như từ trong bụng của lão vậy!

- Mô Phật! Vậy thì cụ hãy an tâm - Tu sĩ nghĩ một lát - Bây giờ cụ còn ước nguyện gì nữa không?

- Có chứ - Cụ già Mê-đa-su bỗng nói lớn - Lão muốn nhìn thấy mặt trời và khu vườn cũ này về mùa xuân. Đã hơn mười năm rồi, lão không còn tưởng tượng ra được cái gì nữa cả. Chú bé Tô-ni-ka tốt bụng đây, bảo là hoa nở chỗ này, chỗ kia, từng chòm, từng khóm. Lý nào vậy được? Nó phải thành vùng, thành rừng. Mấy luống tuyết mai, nhị độ mai đã quá lâu không ai cắt tỉa, chắc chúng phải lan ra các ra lối đi! Mấy bụi bạch mẫu đơn, sơn trà, tử vi chắc quá sâm si rậm rịt. Này tu sĩ! Tuy thế, ước nguyện ấy thật ngu xuẩn. Hãy quên nó đi. Thật là càng già, càng trẻ con, càng lẩm cẩm.

- Ước nguyện đó được, chắc hẳn là được. Tu sĩ nói lớn và đột ngột, một âm thanh vang dội khắp lều như hàng ngàn viên pha lê chạm vào nhau. Cụ hãy nghe đây - tu sĩ nói - cụ hãy nghe và hãy nhìn đi!

Tu sĩ đã ngồi trên chiếc ghế, cây đàn Kôtô trong tay và y bắt đầu chơi.

Chú bé Tô-ni-ka chăm chăm nhìn người tu sĩ lạ mặt. Khi sợi dây đàn đầu tiên vừa rung lên, một thiên thần từ cõi trời hiển hiện. Trong đôi mắt tối của y lung linh hai ngọn lửa. Căn lều như tỏa một lớp ánh sáng, và tất cả người vật như chìm đi, như ngất đi trong biển âm thanh kỳ lạ. Con chó Tô-ki sau một hồi ngạc nhiên, chợt rên ư ử rồi bò đến bên chân tu sĩ, vẫy đuôi khe khẽ. Thỉnh thoảng nó nghiêng tai, vểnh tai, trong mắt nó tỏa ra niềm bình an, hoan hỷ.

- Lão thấy rồi - Cụ già Mê-đa-su nói như hét - đầu tiên là khung cửa sổ mờ nhạt, sau chuyển ra màu trắng lam. Bình hoa mùa xuân bên cửa chỉ vỏn vẹn hai đóa hồng bạch mà nó mang cái vẻ hoàn toàn xiết bao! Ô kìa! Có nắng ấm. Tuyết tan đi. Từng làn gió mát mẻ thổi qua làm rung rinh cành lệ liễu...

Tu sĩ vẫn không quay lại, đôi bàn tay với những ngón tay kỳ diệu bật lên dây đàn, mắt nhìn ra khung cửa tối - biển âm thanh xao động rồi ngưng lắng một lúc - Còn bây giờ - tu sĩ nói, hãy ngưng lắng tâm thần để nhìn ra bên ngoài.

Âm thanh như bắt đầu từ bỏ căn phòng. Cụ già lắng tai nghe ngóng. Tô-ni-ka và con chó Tô-ki như đồng một lúc nhìn ra bầu trời tối đen

Âm thanh bây giờ như từng chùm ánh sáng từ trời cao đổ xuống. Từng sợi nắng ấm áp tủa xiên khoai. Tuyết tan từng nụ nhỏ. Cây cối trong vườn bắt đầu chao động và những chồi li ti trên cành khô, hoa trắng nở bung ra, chảy tràn ra. Hơi nước bốc lên. Và trời trở nên trong xanh, cao lên, cao lên mãi...

- Lão thấy rồi! Cụ già Mê-đa-su hét lên vì sung sướng - Lão thấy tất cả những cái đó rồi. Tô-ni-ka! Thế mà cháu bảo là từng chòm, từng khóm! Nó chảy lan ra thành dòng chứ lại!

- Phải rồi, Tô-ni-ka nói. Nhưng những chùm màu trắng kia không biết có phải là tuyết mai hay không, vì dường như nó ưng ửng hồng...

- Ửng hồng thì đó là nhị độ mai! Cụ già cãi rồi hét lên - Mở cửa sổ ra! Cụ hở hổn hển, cố rướn người dậy. Mở cửa sổ ra cho lão xem với nào!

Tô-ni-ka mở bung cửa sổ, một luồng khí lạnh lùa vào phòng. Dường như có tuyết rơi nhẹ hạt ở bên ngoài. Đêm đang tối đen như tối đen thêm.

Cụ già ngả xuống gối, thở dốc.

- Thật tuyệt vời! Cụ thều thào - Cả rừng hoa mà nó dám bảo từng chòm, từng khóm! Ít ra là như vậy, thấy được một lần cuối cùng ở trong đời cái rừng hoa trắng tinh khiết. Mãn nguyện. Mãn nguyện lắm rồi...

Tô-ni-ka kêu lên. Con chó Tô-ki chồm dậy sủa inh ỏi rồi rống lên từng tràng não nuột, nước mắt trào ra.

Tu sĩ buông đàn, bước nhanh lại giường bệnh. Tu sĩ khẽ nâng cụ lên, sửa lại dáng nằm cho thoải mái. Cụ già Mê-đa-su đôi mắt nhắm bình thản. Và trên môi cụ, dường như còn phảng phất nụ cười...




Sâm Thương Thảo

Cuối tháng giêng, trời lạnh sắt se.

Nước rỉ ra từ những lùm cây rậm, khe đá hở rồi theo những đường rãnh, róc rách đổ xuống suối. Sườn núi, triền non, mù sương bãng lãng; chỗ đậm như khói, chỗ nhạt như lụa; vật vờ, chao động, nhẹ thênh thênh, huyền ảo như cổ tích, chập chờn như mộng mị. Khi cơn gió thoảng, sương mù lại ùn ùn tỏa ra, phất phơ, lượn vành rồi nằm vắt ngang trên đầu cây trông bình thản, trầm mặc như một hiền triết ở non cao.

Hơi nước, khí đá, mù sương như đồng lõa với nhau để xóa nhòa biên giới giữa đất và trời...Một người cao lênh khênh nhô đầu lên đỉnh núi, bóng cắt một khoảng trời xanh lơ. Y đứng bất động nhìn đăm đăm về hướng Tây bắc. Dưới chân, núi tiếp núi, sông tiếp sông; làng mạc, ruộng đồng được thu nhỏ lại như nằm trong lòng bàn tay con trẻ. Thoáng mắt là vạn khoảnh lướt qua.

“- Đất trời cao thấp hề! Bao trượng?

Sông núi ngắn dài hề! Mấy gang?”

Khí thiếu dương về đã lâu nên những nụ, những mầm của lá và hoa bắt đầu cựa mình sau mấy tháng đông lạnh ngủ vùi. Khi sương mù tan, nắng ấm lên, người ta sẽ ngạc nhiên thấy từ những cành khô bám hờ trên thông, trám hoặc bất kỳ một nơi nào thích hợp, bắn ra những chùm hoa kỳ diệu. Có những chuỗi thả dài như đàn bướm vàng. Có những cánh trắng tinh và mỏng như làn trăng. Lại có thứ đột ngột vươn ra từ hốc đá, phún hương thơm thoang thoảng, thanh dịu. Rồi chỉ ít hôm sau là khắp triền núi, thung lũng, bờ khe đủ loài hoa, đủ mọi sắc màu phô thắm để đón chào nắng mới lẫn gió ngàn thanh lương...

“- Mùa xuân yên lặng và vĩnh cửu này há trần gian không có người biết thưởng ngoạn ư?”

Người cao lênh khênh bước xuống cạnh một tảng đá, tháo khăn, tháo gùi rồi dựng gậy bên chân ngồi nghỉ. Bây giờ thì ta đã nom rõ đấy là một nhà sư còn trẻ, vận tấm áo nâu mỏng đã bạc màu, chân đi đôi hài cỏ đã rách bươm. Khuôn mặt nhà sư gầy ốm nhưng thanh tú, cặp chân mày hiền lành nhưng rậm xanh làm cho đôi mắt đen như sâu thêm, loang loáng nhãn quan sáng ngời trong đôi giếng ngọc. Nhà sư ngồi buông thả, nhàn tịnh nhưng trọn cả thân tâm dường như ngưng lắng lại. Chợt, vừng trán y gợn lên mấy nếp nhăn rất mảnh.

“- Chà thơm lắm!”

Một mùi hương ở đâu đó thoảng đến rồi mất. Hai cánh mũi của nhà sư dường như khẽ động. Hương lại đến, lại mất.

Nhà sư nói một mình:

“- Không biết có phải là trong “bản thảo cương mục” của họ Trương đời Hán hay ở đâu có nhắc đến một loại cỏ có tên là “huyền hương thảo”. Mùi của nó mỏng, nhẹ, tế vi, sâu kín. Hương thoảng đến rồi mất. Dầu chỉ là thoảng hiện nhưng nó sẽ len thấm, xuyên sâu, tác động ngay tức khắc vào các đường kinh mạch, chẳng khác gì hàng chục mũi kim châm đúng huyệt đạo. Nó không tạo cảm giác tê rần mà là váng say, ngây ngất. Khi gặp huyền hương thảo rồi thì không còn rời chân đi đâu được nữa!”

Nhà sư tủm tỉm cười:

“- Mấy anh “Tàu cổ nhân” này thật là lắm chuyện! Vẽ vời hư ảo cho lắm để rồi mấy trăm năm sau, hẳn sẽ xuất hiện một nhà chú giải thông kim bác cổ: “Có lẽ đây là những loại thuốc có mặt từ thời Phục Hy, Thần Nông. Ôi! Thương hải tang điền! Âm dương tương hoán! Thiên địa nghịch xung! Bây giờ dẫu có ngậm ngải tìm trầm, lên tận các vùng hoang mạc Côn Luân, Thiên Lãnh... há thấy được những kỳ hoa, dị thảo này ư?” Chậc, chậc! Nhà sư khẽ vươn vai - cho dẫu cái đỉnh Côn Sơn này mà có huyền hương thảo, thì ta có ngây ngất váng say không đó? Cái mơ hồ sắc sắc không không của huyền hương thảo có bắt ta nằm dài mà ngơi nghỉ cho quên đi cái kiếp phù sanh?”

Nhà sư rũ áo đứng dậy rồi cất tiếng cười ha hả! Tiếng cười hào sảng như xoáy động cả triền non cô tịch. Cười xong, y khoác gùi lên vai, trượng cầm tay rồi nhàn hạ bước dài theo hàng hoa nở. Đến một vũng nước trên đá, trong như mắt mèo, đẹp quá, y dừng lại. Một đám mù bay qua, ngấy lạnh. Y rùng mình, ngắm nhìn dưới đáy nước; màu da trời ẩn hiện, loáng thoáng từng khoảng trắng đục, xanh lam...

Nhà sư gật gù:

“- Thượng hoàng Thánh tôn hôm vừa dẹp Chiêm Thành trở về, ghé cung Thiên Trường đã làm một bài thơ, có mấy câu khá hay:

“...Nguyệt vô sự chiếu nhân vô sự

Thủy hữu thu hàm thiên hữu thu

Tứ hải dĩ thanh, trần dĩ tĩnh

Kim niên du thắng, tích niên du...”

(Trăng vô sự soi người vô sự

Nước vẻ thu ngậm trời vẻ thu

Bốn biển đã quang, trần đã lặng

Chuyến đi này hơn chuyến đi xưa.)

Đấy là khẩu khí của một bậc Minh quân, còn cái ”trị”, cái “an” cho trăm họ, còn hơn và còn thua - thì cũng là lẽ thường. Nhưng với ta thì hai câu sau hẳn phải như thế này:

“Tam giới dĩ an, tâm dĩ tĩnh

Nội trần khinh khoát, ngoại trần du”.

(Ba cõi đã an, lòng đã lặng

Giữa trần nhẹ hẫng, ngoại trần chơi.)

Nhà sư lại cười cười: “Dĩ nhiên, mấy câu “nối điêu” của kẻ hèn này thoát hơn, phải không bệ hạ?”

Nắng hửng lên, hắt sáng lên những chồi lá biếc, hoa vàng lung linh. Đâu đó ríu rít tiếng chim ca, loáng thoáng bướm lượn vành qua suối. Những cội tùng già xanh um tàn lá. Trời dường như cao hơn, xanh hơn. Nhà sư ngước lên, lắng nghe, ngó loanh quanh, rồi vừa đi vừa gõ gậy mà ca:

“Ngày thì quạ vàng dọi

Đêm thì thỏ bạc soi

Tùng cao xanh ngất lá

Đâu ngại tuyết hàn rơi

Cây khô xuân hoa nở

Tịch mịch tiếng chim trời

Hoa vàng là bát nhã

Trúc biếc pháp thân thôi!”

Tiếng ca nhỏ dần rồi tan loãng trong bóng khói đầu non.

Khi nhà sư từ bên kia suối trở lại, sau lưng đã đầy một gùi rễ và củ. Mặt trời vừa hừng lên lại chìm mất trong đám mây đùng đục màu sữa. Khí núi vẫn lạnh tái tê. Dáng lênh khênh của nhà sư mang đường nét cô liêu không thể tả.

Đến tấm thạch bàn to rộng, nhà sư ngồi nghỉ, lấy lương khô ra ăn. Ây là những chiếc bánh hấp chấm với muối vừng. Y ăn rất nhanh, uống rất nhanh. Lát sau, đôi mắt y nhìn bất động vào một điểm nào đó. Lâu lắm, nhà sư lắc đầu, nói vừa đủ nghe:

“- Phàm nghề thầy thuốc trị bệnh cho người, dẫu có tài giỏi, có đem hết sức mình, cũng chỉ là việc làm ngoài da! Người đời hỷ nộ ái ố quá nhiều. Cái gốc của âm dương thủy hỏa kia mà chưa ổn định thì linh đơn, diệu dược cũng vô ích mà thôi. Biết là lấy “bóng trúc mà quét bụi”, sao ta vẫn làm là thế nào? Tâm địa của bậc đại sĩ rộng lớn như hư không thì không nói làm gì, nhưng còn ta thì có lúc không kham nổi cũng dễ sinh phiền não đó mà! Hạng lang vườn bốc thuốc chữa bệnh nuôi thân thì âu là nghiệp dĩ phải chịu, còn ta đâu đến nỗi vì nuôi mạng mà nhúng tay vào dòng nước đục?”

Nhà sư “chậc, chậc” rồi khẽ thở dài. Tiếng thở dài lướt theo chiều gió, lan đi rất xa.

Bất chơt từ phía tây bắc, một chiếc đầu ló ra giữa hai rãnh đá. Dường như ấy là một gã thư sinh vận áo xanh. Gã leo lên tảng đá, đứng nhìn quanh một hồi rồi búng người về phía sau. Nhà sư ngạc nhiên suýt buột miệng la lên. Thư sinh áo xanh chỉ hờ hững thụt lùi mà người y đã bắn ra sau gần trượng, rơi đúng trên tấm đá nhô ra cạnh bờ vực.

Nhà sư nhăn mày nghĩ:

“- Y nom vẻ thư sinh mà sao bản lãnh võ học kinh người đến thế? Y đến đây làm gì? Nơi cái đỉnh Côn sơn đèo heo hút gió này có chi là hứng thú? Bây giờ là tiết xuân lạnh, khắp nơi phố hội kinh kỳ, dư hưởng ngày xuân còn biết bao thú vui dật lạc? Chẳng lẽ y đến đây để tri âm cùng cây cỏ?” Lại nghĩ tiếp: “Đã hai ngày hai đêm ta ở bên này núi, cũng đã hai ngày hai đêm y ở bên kia núi. Ta thì có lý do của mình, còn lý do của y là gì?”

Không tìm ra lời giải, nhà sư đi xa hơn:

“- Hôm nọ, nhà Nguyên sai Sài Thung sang sứ nước ta. Y ngạo mạn, vô lễ cỡi ngựa đi thẳng vào cửa Dương Minh, quân Thiên Trường chặn lại. Y lấy roi quất họ chảy máu ở đầu. Đến điện Tập Hiền, thấy chăng bày màn trướng y mới chịu xuống ngựa. Vua Nhân Tôn sai Quang Khải đến sứ quán khoản tiếp, y nằm khểnh không ra. Khải vào hẳn trong phòng, y cũng chẳng thèm ngồi dậy. Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn hiểu rõ lòng mộ đạo của người phương Bắc nên cắt tóc, mặc áo vải làm sư rồi đi đến sứ quán. Thung thấy, tỏ rõ sự kính trọng, đứng dậy vái chào rồi mời ngồi. Quốc Tuấn ung dung pha trà cùng uống với Thung. Người hầu của Thung muốn thử định lực của nhà sư phương Nam nên cầm cái tên chọc vào đầu Quốc Tuấn đến chảy máu. Sắc mặt Quốc Tuấn vẫn an nhiên tự tại. Thung sợ, khi khách ra về, đích thân hắn ra tận cửa vái tiễn.”

Quốc Tuấn về nhà, nằm vắt tay lên trán:

“- Cái ngũ ấm vốn không thì thân này nào có nghĩa gì? Nhưng vệt máu sỉ nhục kia rồi sẽ nằm ở trên đầu trăm họ. Ta dẫu ẩn nhẫn được tạm thời cái khí nộ của kẻ thất phu, nhưng kế dài lâu là phải an dân giữ nước. Bọn Nguyên Mông với cái dã tâm và tham vọng xâm lược ngông cuồng sẽ còn đổ biết bao tang thương lên linh hồn Đại Việt? Và vệt máu sỉ nhục trên đầu ta sẽ trở thành vệt máu sỉ nhục ngàn năm trong lịch sử.”

Từ hôm đó, Quốc Tuấn tung ra khắp nước hàng chục kẻ hiền tài để đi cầu kẻ hiền tài. Ý đồ của Vương lại còn vi tế hơn: tìm những ẩn sĩ tài đức trong hàng Tăng lữ để làm cố vấn trong trướng, hoặc đi lên phương Bắc trong những sứ mạng bí mật quốc phòng!

Ồ! Đầu óc của Vương thật là ghê gớm! Và gã thư sinh này là người của Vương? Theo dõi ta hai đêm hai ngày là bởi mục đích kia chăng? Để xem!

Hốt nhiên, một khúc tiêu trỗi lên. Tiếng tiêu tan loãng trong gió. Lát sau, âm điệu réo rắt cực kỳ thê lương làm xao xuyến và não lòng người. Nhà sư cũng chợt thấy mình bâng khuâng kỳ lạ. Lát sau, tiết tấu lại thay đổi: như loan gọi phụng, như sắt gọi cầm; cung bậc hoặc bỏ lửng hoặc nhẹ sâu như tiếng thở dài xào xạc...

Nhà sư chặc lưỡi than:

“- Ôi! Tâm sự người thanh niên sao u sầu đến thế? Khúc tiêu này mà thổi ở đây, há không sợ núi non cười cho thúi ruột ấy ư? Chí nam nhi đại trượng phu há dễ chôn vùi thân danh trong âm khúc bi quan yếm thế? Hoặc nỗi khắc khoải thường tình nhi nữ?”

Tiếng than vừa dứt thì khúc tiêu khác trỗi lên. Âm này tỏa lên cao, nâng bổng tâm hồn người nghe lên mây xanh. Bây giờ, tiếng tiêu như bắt đầu thoát xác những nỗi niềm trần tục để bay lượn phiêu bồng vào cõi tinh thần sáng láng, cao đại và hoằng viễn. Rõ ràng là nó đã dứt khoát vĩnh biệt mặt đất trần gian với những rối ren, bẩn chật, buồn phiền. Không còn một tiếng nỉ non, một lời ai oán. Nó đã tuyệt dứt nỗi u hoài và trầm thống. Thỉnh thoảng, nó có chìm lắng trong cung sâu, nhưng là sự lắng chìm cao cả, ngưng đọng một suy tư tót vời về sự hợp tan của vũ trụ, sự mong manh của vạn kiếp đời, sự rạn vỡ của ngàn sao. Rõ ràng, bây giờ, tiếng tiêu đã thênh thang bay vào mười phương trời không gian vô tận...

Lắng nghe tiếng tiêu thanh cao, thoát tục, tâm hồn nhà sư nhẹ như hơi nước, phiếu diễu không điểm tựa giữa ngàn sương ngàn khói!

Chợt một tiếng cười sang sảng vọng lại.

Thanh niên đã khinh thân đứng chênh vênh trên tảng đá cách nhà sư non mười trượng, mảnh trường bào phất phới bay, đậm nét giữa màu nắng loãng.

- Tại hạ đến chốn non linh khí thiêng, thổi một khúc tiêu, dẫu tục dẫu thanh, hẳn cũng làm nhơ tai bậc tu hành ẩn sĩ! Dám mong Cao Lãnh Huyền Nguyên đại sư bỏ lỗi cho!

Nhà sư nghe gọi đúng pháp hiệu của mình, ngạc nhiên, nhưng trầm ngâm không đáp vội, chăm chú nhìn người lạ mặt. Thư sinh quá trẻ, ước chừng chưa đến tuổi “nhi lập”, dáng dấp nho nhã, dung nghi tiêu sái, siêu phàm. Hàng chân mày cong đều đặn, đen huyền. Đầu quấn chiếc khăn lụa thiên thanh. Cây thanh tiêu cầm tay, cây trúc kiếm thò sau vai, một gùi thuốc, một đãy sách, một bầu nậm. Cây kiếm nằm trong vỏ thanh trúc đẹp kỳ lạ. Chiếc gùi nhỏ, đẹp kia đúng là sản phẩm đặc chế kỹ xão thiên tài của người Thái trắng. Y là ai? Là một nho sinh? Một lương y? Một tráng sĩ? Một gã giang hồ lang thang phiêu bạt? Lạ! Không hiểu! Cái con người này là ai mà khúc tiêu có thể là tục, có thể là thanh như trò ảo thuật? Phải có một tâm hồn đến cỡ nào mới có thể dung chứa hai trạng thái nghịch xung rồi sử dụng nhuần nhuyễn chúng như hai con người cách biệt? Cái con người này, nếu là nho sinh thì kiến thức phải siêu quần bạt tụy. Là kiếm sĩ thì phải là tay kiếm trác việt thông thần... Là gã giang hồ thì đúng là biên phương mù mịt! Còn nếu là tướng quân? Ồ! Hưng Đạo Vương mà có người này thì thật là may cho vận nước!

Nhà sư suy nghĩ cực nhanh rồi trang nghiêm trầm giọng:

- Kẻ tu hành này ở chốn quê mùa dân dã, quanh năm áo vải chân đen, quan trường vô duyên, kinh kỳ ngại chốn. Chẳng hay túc hạ là ai mà biết được pháp hiệu khó nghe của bần đạo?

Thanh niên áo xanh cười tủm tỉm, cung tay chào, phong thái vừa khoan thai, vừa chừng mực:

- Dưới chân núi Côn Sơn, Phượng Hoàng - kéo dài suốt cả vùng Hải Dương, Kiếp Bạc, cho chí những thôn làng xa xôi tụ tập quanh Lục Đầu giang chung dòng về Đông Hải - Có ai có tài dám sánh với Hoa Đà, Biển Thước? Thanh niên cười cười rồi cao giọng - Huyền Nguyên đại sư! Đại sư về nơi góc Côn Sơn này quy ẩn đã lâu, tại hạ thật không dám đụng đến cái chí của người cao sĩ. Gia dĩ tại hạ mà có tìm đến cũng chỉ mong thỏa một chút cái gọi là “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”, vậy thôi!

Nhà sư vẫn trầm mặc, nghiêm lạnh:

- Túc hạ với bần đạo vốn không quen biết. Đã không quen biết thị lọ phải cất công tìm đến thăm nhau. Còn cái gọi là “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” kia do đâu mà có? Bần đạo kiến thức hủ lậu quê mùa, có nhiều điều chưa hiểu tới, mong túc hạ chỉ giáo cho.

Thư sinh áo xanh cười ha hả:

- Khách khí lắm! Khách khí lắm! Rồi tiếp - Cao Lãnh Huyền Nguyên đại sư! Tại hạ đi tìm thuốc. Đại sư cũng đi tìm thuốc. Đại sư đã hai ngày hai đêm bên này đỉnh Côn Sơn, chờ đến giờ Dần, giờ Dậu để tìm một loại cỏ vưu vật cổ kim hy hữu tên là Sâm Thương thảo. Tại hạ cũng hai ngày hai đêm nằm bên kia đỉnh núi, mục đích cũng không khác chi! Chỉ riêng cái công phu này thôi. Đại Việt ta há dễ có được ba người? Cái “thanh” cũng bởi đó, cái “khí” cũng bởi đó, vậy không thể gọi là tương ứng, tương cầu được ư?

Nói xong, thư sinh áo xanh lại cười cười khó hiểu. Nhà sư bắt gặp cái cười ấy, rất thú vị mà đồng thời cũng rất cảnh giác. Y là người của Sài Thung hay của Quốc Tuấn? Y dò xét gì nơi ta mà giăng một cái bẫy ỡm ờ về y học, dịch học, đạo học nơi cái chữ Sâm Thương thảo kia? Không thể bảo là tình cờ hoặc vô tâm, vô ý được. Cái bẫy tư tưởng kia đã giăng mắc như thiên la địa võng. Ghê thật. Nhưng y cũng biết rõ về ta chứ?, có lẽ vậy. Ồ! Cuộc thư hùng này thú vị đây!

Nhà sư giả vờ nhăn mày:

- Sâm Thương là sao Hôm và sao Mai, ngày đêm cách biệt. Giờ Dậu là sao Hôm hiện, giờ Dần là sao Mai mọc. Túc hạ bảo là có một loại cỏ gọi là Sâm Thương thảo, ấy là lời nói thật? Bần đạo đọc sách thuốc cũng khá nhiều; kim văn, cổ thư đều có ghé mắt xem qua, nhưng sao chẳng thấy đâu nói tới? Chẳng hay hình dáng, thân, lá nó thế nào, dược tính ra sao, túc hạ có thể chỉ giáo bần đạo với không?

Thư sinh áo xanh thong thả tháo gùi và đãy sách để bên chân, cất sáo trúc rồi nhiên nhiên ngồi xuống. Y ngồi kiết già, lưng dựng thẳng như vách đá. Lát sau, khí an tĩnh tỏa ra tràn đầy phong phú; đúng là uy nghi, cốt cách và phong thái của một thiền gia! Nó tỏa ra một năng lực tự chủ và kiên định đáng sợ.

Nhà sư nghĩ nhanh: Y sẽ đánh một đòn vào chính tủy xương của Thiền học rồi đây!

- Cao Lãnh Huyền Nguyên đại sư! Y nói - Tại hạ mong được nhà sư chỉ giáo cho!

- Không dám.

- Cái lý rốt cùng của Thiền học là gì?

- Kiến tánh thành Phật

- Kinh văn thế nào?

- Giả lập.

- Phi nhị nguyên chăng?

- Tùy bệnh cho thuốc.

- Nội và ngoại?

- Giả lập.

- Sắc và không?

- Giả lập?

- Phật và Tổ xuống tục đế thì thế nào?

- “Ngày thì ác dọi vàng, đêm đến thỏ bạc soi!”

- Làm gì với cái vọng tâm, vọng thức?

- “Tùng cao xanh ngất lá, đâu ngại tuyết hàn rơi!”

- Thấy tánh thì nghĩa thế nào?

-“ Cây khô xuân hoa nở, tịch mịch tiếng chim trời!”

- Chưa đủ duyên thì lập tâm lập hạnh thế nào?

- “Hoa vàng là Bát-nhã, trúc biết Pháp thân thôi!”

Yên lặng một lát, thư sinh áo xanh hỏi lớn:

- Có gươm để chém không?

- ...!

- Cho xin một tiếng chân đế?

- ...!

- Ai ngồi trước mặt tại hạ đây?

- ...!

Thư sinh áo xanh hỏi liên tiếp mười mấy câu nữa nhưng nhà sư cứ một mực im lặng. Đợi thư sinh ngưng nói, nhà sư cất cao giọng:

- Trò hề của thiền ngữ kia, túc hạ muốn mang ra mà nhát bần đạo chăng?

Thư sinh áo xanh chợt cung tay xá thật sâu rồi cười ha hả mà rằng:

- Té ra đại sư đã tìm ra được Sâm Thương thảo rồi! Cung hỷ! Cung hỷ!

Nhà sư đáp:

- Lời và ý của túc hạ khó lường. Xin cho hiểu một ý thôi. Bần đạo tình thức hoang mang vọng khởi, sợ không lãnh hội được thiền ý của người cao sĩ chăng?

- Không dám! Vả, đại sư khiêm tốn mà làm gì? Rốt lại, Thích Ca là Thích Ca, Văn Thù là Văn Thù thôi, nhân nào hoa nấy, cây nào quả nấy. Nhưng tất cả đều phải được kết tinh nơi mặt đất trần gian, nơi “như thật tâm địa” - ở đây và bây giờ - không có một nơi nào khác, thì lời và ý của tại hạ có gì đâu mà khó hiểu! Chỉ có Sâm Thương thảo mới hội tụ được đêm ngày, dung hòa được mối xung đột lưỡng nguyên của trời đất. Chỉ có Sâm Thương thảo ở nơi cái “như thật tâm địa” kia, để khi cần dương thì dương chẳng bất túc, lúc cần âm thì âm chẳng hữu dư. Suy ra, những cái gọi là thiện ác, thủ xả, xuống lên, được mất, tham sân... đều là thế cả! Cho nên, khi hành xử: co ruỗi thảy đều tự nhiên, lai khứ đều thong dong, khổ vui đều an tại! Huyền Nguyên đại sư! Dược tính của Sâm Thương thảo như vậy hẳn còn nhiều điểm thiếu sót chăng? Tại hạ quả thật không dám nhiều lời trước bậc đại danh y đời nay!

Nhà sư suy nghĩ:

- Thư sinh áo xanh nói huyên thuyên, như hành vân, như lưu thủy. Mỗi lời là tinh hoa, là cốt tủy cô đọng từ chư kinh, trí khôn của cổ nhân, cổ đức. Trên tất cả, bằng chính sự thể nghiệm và thân chứng của y. Với sự hiển lộ từ khúc tiêu, thì nét đạo (thanh), nét đời (tục), dẫu phân rời mà không cách biệt. Thiền lý của y nhằm hé mở cánh cửa ấy nhưng là với dụng tâm nào? Rõ ràng không phải y trình thiền chứng! Dường như mang tính thuyết phục. Thuyết phục để làm gì? Nhà sư quá hiểu. Với thiền phong ấy, cốt cách ấy, kiến thức ấy, thiền ngữ ấy, khẩu khí ấy... thì người này, chính là Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng. (Dựa theo thuyết Đại Việt Sử Ký.

 Ngoài ra, trúc tiêu, trúc kiếm, đãy sách, nậm rượu, gùi thuốc... lại càng đúng với lời đồn đãi!

Cũng kỳ: cái con người này vừa là tướng quân tài ba, vừa là một thiền gia nức tiếng cửa không - mà tài văn chương lại không thua gì Văn Túc Vương Đạo Tái! Nhưng tâm sự và ý đồ của y tưởng là không ai biết cả sao? Ta đâu có quên câu chuyện bí mật quốc gia đại sự xảy ra trong nhà y. Tảng là con thứ của Quốc Tuấn, Tuấn là con của Yên Sinh Vương. Yên Sinh Vương có một mối bất hòa với Thái Tôn. Khi sắp mất, Yên Sinh Vương cầm tay Tuấn mà rằng: “Con không vì cha mà lấy lại thiên hạ thì cha chết dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được.” Tuấn ghi điều đó ở trong lòng. Đến khi vận nước lung lay, quyền quân, quyền nước đều ở tay mình, ông đem lời cha dặn nói với gia nô tín cẩn là Dã Tượng và Yết Kiêu. Cả hai người này không cho là phải. Tuấn hỏi các con. Hưng Vũ Vương cũng không cho là phải. Riêng Hưng Nhượng Vương lại nói rằng: “Tống Thái Tổ vốn là một ông lão làm ruộng, đã thừa cơ dấy vận nên có được thiên hạ.”

Vậy thiền lý mà Tảng đưa ra mang tính thuyết phục này? Y muốn nói đến cái dung hợp tự tại giữa xuất và xử, đến và đi, co và duỗi là kéo ta xuống núi theo con đường nhập thế để cùng mưu đồ đại sự với y? Ồ! Kín đáo, thậm thâm như thế là cùng!

Bèn nói:

- Túc hạ lý luận quá cao siêu, bần đạo không hiểu nổi đâu. Sâm Thương thảo của túc hạ mang nhiều ẩn nghĩa. Túc hạ là kẻ phi thường, lên tận non cao lạnh giá để tìm một thứ cỏ trong huyền lý, còn bần đạo chỉ là kẻ tầm thường, đi tìm Tuyết Mai sâm chữa bệnh thôi.

Thư sinh áo xanh lắc đầu cười rộ:

- Đại sư nói giỡn với tại hạ rồi. Tuyết Mai sâm không phải là thứ quá khổ công tìm kiếm. Sau tiết đông chí, thiếu dương sanh, có nắng ấm, những củ Tuyết Mai nằm trong lòng đất lạnh đã lâu, sẽ bung ra những cành hoa với những nụ hoa trắng tinh, trắng như tuyết, không thể lầm lẫn với bất cứ màu trắng nào. Nhưng hoa nở rồi tàn ngay. Giây khắc đó đào lấy củ sẽ có dược tính cao nhất. Tuy nhiên, tiết dương nguyên còn kéo dài, mùa hoa của nó còn tiếp tục lâu. Cao Lãnh Huyền Nguyên đại sư! Kiến thức của tại hạ về thảo mộc không được bao nhiêu, xin đại sư chớ cười chê.

Nhà sư tủm tỉm:

- Hay lắm! Kiến thức như thế quả không tệ đâu. Nhưng biết nói như thế nào cho túc hạ hiểu rõ đây, cái tùy thích, tùy nhiệm của mỗi người? Đúng là bần đạo đi tìm Tuyết Mai sâm, nhưng đồng thời cũng muốn xem Tuyết Mai hoa nữa. Như túc hạ biết, Tuyết Mai hoa nở rồi tàn ngay. Đời người bận rộn trăm chuyện, mải mưu toan, lo âu về “thiên hạ đại sự”, há dễ có thì giờ mà chiêm ngưỡng cái đẹp phù du - cái khoảnh khắc phù du sinh diệt - mà một lần, không bao giờ trở lại?

“Ôi! Nước chảy đêm ngày không ngưng nghỉ vậy ư? Ôi! Việc đời qua trước mắt, trên đầu già đến rồi! Ôi! Trăm tính ngàn toan thì rồi cái thân này cũng như ảnh, như điện, là bọt nước phù kiều vậy thôi!”

Thư sinh áo xanh thoáng đổi sắc mặt nhưng điềm tĩnh lại rất nhanh, cười nhẹ rằng:

- Phải! Bởi vậy cho nên mới có kẻ lên chót đỉnh Côn Sơn, thu giang sơn dưới tầm mắt rồi vỗ núi mà ca:

“- Đất trời cao thấp hề! Bao trượng?

Sông núi ngắn dài hề! Mấy gang?”

Còn cái việc lên non cao lạnh giá mà xem hoa nở, mà chờ trăng lên, chiêm ngưỡng cái khoảnh khắc sinh diệt của cái đẹp phù du - thì cái bản lãnh ấy xứng danh là thiên hạ đệ nhất nhân đấy!

Nhà sư thoáng rùng mình nhưng im lặng.

Thư sinh áo xanh tiếp:

- Tại hạ có đọc được câu thơ của một vị thiền sư:

- Chống gậy lên non khi thích chí

Mệt buông rèm trúc ngủ giường tre.

Hoặc là:

- Cỏ bồng, én đậu thấp

Biển rộng, ẩn cá to!

Xét ra, tư tưởng lớn trong trời đất đều gặp gỡ nhau cả, nhưng ở nơi đại sư thì còn hàm tàng biết bao nhiêu là ẩn nghĩa. Cái bài thơ mà đại sư đắc chí vừa đi vừa gõ gậy mà ca, phiếu diễu và đạt đạo làm sao! Nhưng hai câu cuối, phải rồi, hai câu cuối còn ẩn một múi kiếm chưa tung ra khỏi vỏ:

Hoa vàng là Bát-nhã

Trúc biếc Pháp thân thôi!

Chữ “thôi” chính là mũi kiếm ấy! Đây có thể là thái độ khôn ngoan, già giặn của xử sĩ. Cũng có thể là cái “lạc đạo” tạm thời, bất đắc dĩ của thiền gia! Ôi! Tại hạ đã làm bàn vu khoát, mong đại sư bỏ lỗi cho!

Nhà sư nghĩ: “Được lắm! Bây giờ ta sẽ buông một mũi tên xem thử con chim nào rớt ở cuối trời!”

- Có một cái tâm! Nhà sư nói, xin túc hạ ẩn nhẫn lắng nghe cho. Nó ở trong câu này: “Trăm sông đổ về đông kìa! Muôn dòng đua chảy. Ngàn sao chầu Bắc Đẩu kìa! Thiên cổ quy tâm!” Phải! Chỉ có cái tâm đó thôi mà xuất xử trăm đường, xuống lên vạn nẻo. Bần đạo dẫu ở trong cái “xử tạm thời” cũng khế hợp với ý của chư thiền đức xưa: “Chống gậy lên non khi thích chí, mệt buông rèm trúc ngủ giường tre!”; còn túc hạ là gì? Xin thưa thẳng, nếu Hưng Đạo Đại Vương cầu kẻ hiền tài, quy nhân tâm về một mối làm thế cá nước để giữ hiểm họa Bắc xâm, thì bần đạo sẽ xét lại cái “lạc đạo tạm thời” của mình. Còn nếu như ai đó muốn thu nhân tâm về một mối để thỏa mộng “muôn sao chầu Bắc Đẩu”, thì bần đạo sẽ là kẻ thứ nhất trong Đại Việt ta... không phục đâu!

Bất đồ, nhà sư nói lớn:

- Đức ông Hưng Nhượng Vương! Hãy hiện hình đi thôi!

Thư sinh áo xanh chính là Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng, thêm một lần nữa đổi sắc, sau đó, cười lạt mà rằng:

- Hay lắm! Chính là tại hạ đây! Im lặng một lát rồi y cũng nói lớn - Giả dụ đại sư không phục thì đại sư làm gì nào?

Nhà sư cười tủm tỉm:

- Bần đạo bước tới!

- Khó đấy! Hưng Nhượng Vương rút kiếm ra rồi chậm rãi tiếp lời - Thiên hạ đều đồn đãi tại hạ kiếm thuật thông thần! Thông thần thì hơi quá nhưng cũng không ngoa truyền lắm đâu - Vương lia một nhát kiếm hình cầu vồng rất đẹp mắt, xanh rờn rợn, hướng mũi kiếm về trước - nếu đại sư bước tới thì nguy hiểm vô cùng. Thôi thì thế này vậy - Vương với tay trái nắm bầu rượu - Đại sư đừng bước tới mà hãy bước lui, bỏ cái “bất phục” qua một bên, ta sẽ cạn với nhau vài chung thảo mộc để kỷ niệm buổi tao phùng kỳ thú này, được chăng?

Nhà sư đáp vang vang:

- Bần đạo giới tửu!

- Vậy không ngại kiếm bén ư?

- Phải! Giọng nói nhà sư nghe rổn rảng - Thân này vốn không, kiếm kia vốn không, sao bảo rằng ngại? Vậy ra đức ông xem thường kẻ tu hành này quá. Vả, nếu cái đầu của bần đạo mà đổi được cái an cho trăm họ, hai nhánh trưởng và thứ của nhà Trần kia hòa thuận với nhau để chung lưng đấu cật khuôn phò xã tắc; nhờ vậy cái nhân, cái dũng của các đấng tiên hiền còn duy trì và tồn tại; đạo Phật nhờ vậy cũng được hưng thịnh dài lâu - thì cái huyễn thân của bần đạo còn ích dụng hơn cái tài Hoa Đà, Biển Thước kia quá nhiều!

Nói xong những lời đầy chính khí, nhà sư phất tay xăm xăm bước thẳng tới đầu mũi kiếm...

Ánh sáng xanh lóe lên lạnh buốt. Vạt áo phía trước của nhà sư bung ra hàng chục mảnh bay lả tả. Những con rắn xanh không ngớt tung lượn...

Hốt nhiên, kiếm chợt bắn lên cao rồi rơi xuống đánh “choang” trên tảng đá, tóe lửa, có tiếng gãy vỡ vụn.

- Đại bản lãnh! Đại bản lãnh!

Không biết ai đã thốt lên.

Lúc đó, sương mù ùn ùn nổi dậy, chập chờn, bãng lãng kéo nhau đi, huyền ảo như cổ tích, mơ hồ như mộng mị... Lát sau, vây tỏa kín đặc cả núi non một màu trắng đục, tịnh không thấy gì. Không còn thấy đâu là cây cối, không còn thấy đâu là đất, đâu là trời.

Bỗng, một tiếng cười từ trong đám mù vẳng ra rồi có tiếng nói:

- Có, không giờ thế nào?

- Là vẫn có, là vẫn không!

- Nếu xuất xử thì nhân quả thế nào?

- Thảy đều tự nhiên.

Yên lặng một lát.

- Rút gươm mà chém rắn chăng?

- Cứ chém!

- Rút gươm mà không chém rắn chăng?

- Cứ không chém!

Đột nhiên, hai tràng cười ha hả đồng thanh vang lên, kéo dài rất lâu.

Một cơn gió thổi mạnh, sương mù lại chao động, vật vờ đầu cây, lững lờ qua suối, lượn quành theo chòm lá biếc, cành cây khô rồi dứt khoát lang thang kéo nhau đi, hàng ngàn, dặm ngàn về phương trời vô định.

Màu mù sương trên non Côn nhạt dần, loãng dần...

Tiếng chim reo như ngọc rớt giữa biển lặng. Nắng nhẹ, mỏng, ngại ngần hắt vài tia sáng thăm dò đầu tiên xuống những lùm cây xanh, dòng nước biếc, những cánh hoa tím, hoa vàng, li ti hồng, lơ thơ đỏ... Chốc sau, trời quang mây tạnh như một đổi đời, một phép lạ!

Bên bờ đá nâu, vươn dài ra một cành hoa, như một chuỗi ngọc trắng tinh tuyền, lấp lánh sao Hôm, sao Mai, thơm thoang thoảng, mềm, thanh dịu, váng say ngây ngất... Là Huyền Hương thảo? Là Tuyết Mai hoa? Là Sâm Thương thảo? Chịu! Không biết!

Xung quanh lặng ngắt, tịnh không một tiếng lời!



Hoa Thiên Hương

Có người nói rằng, Mư-jô-chư là một nghệ sĩ đã khai sinh nghệ thuật cắm hoa ở Nhật Bản. Có người lại quả quyết rằng, không, ngài là một vị thiền sư, chẳng phải ngài cắm hoa, mà ngài đem sự bất tử đặt giữa lòng tạo vật. Ở đây, ta sẽ cảm nhận cái khoảnh khắc sinh diệt chính là vẻ đẹp chân thường và hằng cửu, không có vẻ đẹp nào khác như ý niệm con người đã từng phác tưởng. Nhưng dẫu thiền sư hay nghệ sĩ, Mư-jô-chư đã tồn tại, vừa rực rỡ, vừa khiêm tốn như cụm hoa “Thiên Hương” - một loài hoa dại sống ở góc rừng, xó núi, trung thành với không thời gian mà nó ngụ cư. Trọn vẹn, chính là sự hiến dâng âm thầm và cao cả vậy.

Có lẽ ta không cần phải xác định ngài là thiền sư hay nghệ sĩ, vì dẫu sao, danh từ không thật nghĩa bằng chính con người. Vả chăng, Mư-jô-chư sinh ra và lớn lên như một con người bình thường, cũng có tình yêu - một tình yêu nhỏ bé nhưng thanh khiết. Ngài từ bỏ đời sống tại gia như chưa hề có ý niệm từ bỏ, chẳng có bước chuyển tiếp nào. Và đột nhiên, ngài như là một nghệ sĩ, như là một thiền sư - bằng cốt cách, phong thái, cả đời sống cũng như cái mà ngài biểu hiện.

Về già, ngài sống trong một sơn động bên chân ngọn Phú Sĩ, nhu cầu thanh bạch và khiêm tốn của một cánh chim trời. Đi đứng tới lui, ăn nói giản dị như một người dân cày. Khi màu hoa anh đào phô ánh huy hoàng, tươi nõn, người ta thấy ngài bước những bước nhẹ nhõm để nhàn du đây đó; khi thì trên con lộ vắng, tịch mịch tiếng chim ca; khi trên chiếc thuyền nan lãng đãng như cụm lục bình trên sông nước; khi lững thững trên lối về sơn đạo xanh mướt cỏ và rải rác những khóm hoa Thiên Hương. Khi màu hoa anh đào tàn tạ, cánh héo úa và sắc màu ảm đạm như loang nhạt màu máu tía - lục ám hồng hi xuân khứ dã - người ta thấy bóng dáng ngài ngồi lặng lẽ ở đâu đó, trước cửa sơn động, trên tấm thạch bàn hay dưới một cội thông già. Người ta thấy ngài không có bạn, không đệ tử, không có “nhàn đàm thiên ban sự”, không có trịnh trọng hai tay nâng bát trà - theo nghi thức trà đạo - trong một trà thất ấm cúng được trải ra trong một không gian nhỏ hẹp, thanh bình. Ngài ngồi ở đâu đó, chẳng phải thiền tư, chẳng phải thiền tưởng, chẳng phải thiền tọa, chẳng phải để tâm chìm ngập trong cõi mơ hồ sắc sắc không không, chẳng phải trì chú, niệm kinh, lần chuỗi...

Ngài tới lui đây đó để làm gì? Không ai hiểu. Ngài ngồi như vậy để làm gì? Không ai hiểu. Nếu bảo ngài là một nghệ sĩ - thì đúng là một nghệ sĩ cô liêu, xa hút và sâu thẳm nhất - mà nghệ phẩm chính là bóng dáng của mình giữa lòng tạo vật, trong mỗi khoảnh khắc đến và đi, vào ra như hơi thở. Nếu bảo ngài là một vị thiền sư - thì đây đúng là một thiền sư “vô học, vô tu, vô công, vô hạnh, vô chứng” vậy!

Khi từ giã cõi đời, ngài tự cắm cho mình một bình hoa Thiên Hương, hai tay nắm hai nắm đất, mỉm cười ung dung trong thế bán già. Có chăng, ngài đang nhìn bình hoa như nhìn vào cõi bất tử nào?

Mư-jô-chư tịch vào hậu bán thế kỷ XVII, có lưu lại trong sơn động một cuốn tự truyện viết theo lối cổ văn. Thời gian sau, một nhà sư vô danh tìm đến, hỏa táng thi hài của ngài rồi bỏ đãy ta bà mang đi mất...

Đây là một phần của cuốn tự truyện, dường như không liên hệ gì đến giai đoạn học đạo của ngài mà thiền sử đã lược bỏ. Tuy thế, nó quan trọng xiết bao - nếu không muốn nói là quan trong nhất - cái bước chuyển sinh không gián cách của nó, từ “tục” đến “thanh”, từ bờ này qua bến nọ. Ở đây là con người bình thường giữa cuộc đời, và đạo là cái gì tự nhiên giữa lòng nhiên giới; dường như không hề giải quyết “cái tôi”, mà một sớm mai kia, “cái tôi” hốt nhiên là “nó” - cùng với tạo vật, sinh tồn, cái đẹp và sự bất tử.

Nếu một người sống chân thật, lặng lẽ, cô đơn, không làm hại ai, biết chiêm ngưỡng cái đẹp - là một thiền sư - thì Mư-jô-chư đúng là một vị thiền sư, biểu hiện bằng cả cuộc đời của mình vậy. “Tôi là một thanh niên sinh ra và lớn lên trong một ngôi làng nhỏ bé, khiêm tốn nép mình bên chân ngọn núi Phú Sĩ. Cha tôi là một quan chức của triều đình, vì một bất đồng nào đấy về chính kiến nên bị hồi hưu. Người là một “kẻ sĩ” với vốn liếng học vấn và kiến thức vừa đủ để tạo cho mình một nếp sống trung lưu. Nhưng Người không chịu thế. Bản ngã và trí khôn của Người lại thúc hối Người chạy theo danh vọng và địa vị; muốn biến đổi cuộc sống tẻ nhạt, tầm thường, vô danh của dòng họ, tổ tiên thành những danh gia vọng tộc. Đến lứa tuổi năm mươi, Người mới hiểu rằng, đấy là một nỗ lực bất khả và vô vọng. Người đã chẳng cưỡng được cái “tất định” của nghiệp, cái phận số đã an bài - mà lại bị lún sâu thêm dưới đống bùn quan hoạn ấy. Cuối đời, Người dường như mất trí vì bất đắc chí. Gia sản chắt chiu, dành dụm được, Người đem ra phá tán hết. Rốt cuộc trắng tay lại hoàn tay trắng, cộng thêm với những vết thương không bao giờ lành. Đấy là tai tiếng để lại cho gia đình. Đấy là một phần hồn thanh cao bị nhơ nhuốc.

Tôi sinh ra lúc gia đình đã sa sút nhiều. Mẹ tôi vì bận rộn công việc đồng áng nên suốt ngày tôi làm bạn với đất cát cỏ cây. Tôi đen, khỏe và không hề bệnh tật. Tôi có được học hành, cũng có đọc sách và ham mê văn chương thi phú ít nhiều. Tuy thế, không có duyên phần với khoa cử, tôi cũng bình an được với cuộc sống ruộng vườn, đồng áng. Tôi không có cái “mã” thư sinh, mà dáng người lại cục mịch quê mùa. Thế nhưng, để biếm nhẽ, người trong làng gọi tôi là “công tử, con quan hồi hưu!”. Mẹ tôi đối với tôi bằng tình thương vừa phải nhưng nghiêm khắc, Người đúng là nghiêm phụ hơn là hiền mẫu. Mẹ tôi mất, việc chạy chữa thuốc thang phải bán đi tất cả ruộng vườn còn lại.

Năm đó, tôi vừa chẵn hai mươi. Gia sản còn lại là ngôi nhà dột nát - trước đây cho gia nhân ở - cùng mảnh đất nhỏ và con trâu cày. Tôi đi cày thuê để tự nuôi sống.

Cuộc đời thầm lặng trôi qua, chẳng vui, chẳng buồn. Mọi người vẫn nhìn tôi qua bóng dáng của cha tôi nên họ không ưa tôi. Điều đó cũng dễ hiểu là vì cha tôi đã tách lìa thôn ấp quá lâu, muốn bước tới những chốn sang cả của kinh đô và cung đình. Lại nữa, bằng cấp, trí thức và sự thông đạt đôi khi là lá chắn ngăn cách với đám quần chúng ngu dốt và nghèo hèn. Ít giao tiếp được hiểu là ngạo mạn, kiêu căng. Ít thân cận được hiểu là khinh khi, vô lễ. Vươn lên cao hơn đồng nghĩa với phản bội. Thế nên, dẫu tôi có hòa đồng, thật sự sống đời bình dị của người dân cày, cũng vẫn bị lầm oan, nghi ngờ, ghét bỏ. Cá tính tôi cũng lặng lờ, phớt tỉnh nên lại càng bị hiểu lầm hơn. Tôi đối với ai cũng vậy, không biết cách chào hỏi sao cho người ta vui, không biết nói gì để phân ưu khi người ta gặp chuyện buồn.

Tôi làm việc, sống, vô tình, chẳng có mối bận tâm nào khác. Như một cái cây, rễ đâm sâu vào lòng đất - thế là phải hít thở, phải trải qua nắng mưa, mùa xuân, mùa đông, sương tuyết, ánh trăng dịu dàng, những làn gió thu mát lạnh và cả những cơn bão dông quá quắt... Tôi không biết giận ai, chưa nghĩ rằng mình sẽ thương ai. Cũng chẳng biết gì ngoài nhu cầu ăn ở - vốn đã quá dễ dàng đối với tôi. Đi cày thuê với con trâu, thế là tôi dư tiền. Nghĩ là mình có thể sửa lại căn nhà dột nát, may thêm một chiếc áo để thay cái đã rách nên tôi cũng biết dành dụm. Tôi cũng có giúp đỡ những người khốn khổ hơn tôi chút ít gì đó, bằng công hay bằng của, nhưng đều không đáng kể. Họ thiếu, tôi thừa, thế là nên san sẻ. Nó là chuyện tự nhiên như “nước chảy xuống chỗ thấp”, như “bớt chỗ dư, bù chỗ thiếu” vậy thôi.

Cuộc đời của tôi tưởng như êm ả thế, nhưng mà không! “Thiêng liêng” dường như luôn tìm cơ hội để thò chân quậy sóng, rồi nó xô đẩy con người vào chốn xa khơi hút mắt nào đó mà chẳng ai lường trước được.

“Ngươi phải ra đi, ấy là nghiệp định!

Sự sống chết của ngươi - Bất tử có cần chi!

Chìm nổi, khổ vui - nào có ra gì!

Vùng đứng dậy - trong ánh mắt long lanh

triêu dương thần nữ!”

Mùa xuân năm ấy, tôi đi cày thuê cho một gia đình cự phú ở ngôi làng kế cận. Tôi ở thôn Đoài, nhà kia ở thôn Đông. Hai làng cách nhau một hòn núi và một thung lũng. Khi được người gọi, tôi nhận lời ngay mà quên bẵng đi là trước đây, cha tôi và chủ gia đình đó có mối bất hòa. Tôi không rõ nguyên nhân ra sao, nhưng có lẽ họ ở chung triều, do cạnh tranh đất đứng, chỗ ngồi mà ra.

Đây là lần đầu tiên tôi đi ra khỏi ranh giới làng. Với trâu và cày, tôi bước đi trong sương sớm. Hai bên đường, bắp đậu đã lên xanh, và ngút ngàn trước tầm mắt là cánh đồng lúa nõn đang thời con gái. Đây là vụ cày muộn nhất mà tôi nhận cày rồi sau đó nghỉ ngơi chút đỉnh, có thể đọc sách, làm thơ, chăm chút mấy khóm hoa hoặc nghiên cứu triết đạo học. Những khoảng thời gian trọn vẹn cho mình thật vô cùng thú vị. Ân sủng cuộc đời có gì hơn - khi cơm áo đủ dùng, có mái che mưa nắng trên đầu và niềm an lạc tịnh mịch với cổ nhân, cổ thư, thánh hiền?

Đến eo núi thì nắng sớm đã lên. Vị thần triêu dương xòe những tia nắng vàng rực rỡ xuyên chiếu ngàn cây nội cỏ. Và ô kìa! Trong tầm mắt tôi, chạy suốt theo cả triền thung lũng là một rừng hoa Thiên Hương nở rộ. Hoa long lanh nhiều sắc màu, lấp lánh sương mai như ngàn ngàn, trùng trùng viên bảo châu li ti reo ca nhảy múa.

“Đẹp quá!” Tự nhiên tôi thốt lên và lặng người đi giây lâu. Ôi! Thật là một cảnh sắc huy hoàng, suốt đời tôi chưa từng thấy. Thế giới đổi khác. Tôi lặng lẽ ngồi xuống. Bỏ trâu, bỏ cày, tôi ôm gối, mở lớn mắt chiêm ngưỡng cái kỳ diệu của thiên nhiên trời đất. Giây phút này không bao giờ tìm lại được. Nó mong manh hơn cả những tia nắng, hơn cả hạt sương; nhưng đồng thời, nó chân phúc, vĩnh cửu hơn cả những gì người ta hằng ý niệm. Những cái thoáng đến, thoáng đi trong đời mà người ta thường cưu mang, ấp ủ như uớc mơ, danh vọng, sự nghiệp... cho chí nước mắt, niềm vui, hận thù, gian dối... trong giây phút này đây, không còn nữa. Chỉ còn lòng mình trải ra với mênh mông, vô tận, cái đẹp, cái sáng, cái chân phúc... Có gì cuồn cuộn trong cổ tôi, nó muốn trào ra, nó căng lồng ngực làm hơi thở tôi dồn dập, máu huyết như muốn vọt ra. Thế là đột nhiên tôi cất tiếng hát:

“- Ôi! Rừng hoa Thiên Hương ơi!

Ngươi nở ra từ trái tim của đất

Đất nuôi sống ngươi, lặng lẽ, âm thầm

ngươi cựa mình, nứt ra từ vĩnh cửu

Ngươi cho ta sự vô tận

Sự huy hoàng từ phù du của niềm đau nỗi chết

Ta hát lên

Ca tụng ngươi!

Rừng hoa Thiên Hương ơi!

Cái đẹp của ngươi và trái tim ta,

Đồng nhịp thở!

Ta hôn lên linh hồn của ngươi

Để nghe sự ngây ngất và an lạc

Làm run run kiếp sống tất tả nặng nề

Ta có ngươi là bạn

Như cỏ, như cây, như chân thật, như đá cuội

Trên đồi hoang vu và rác rưởi!

Đôi mắt ngươi long lanh

Như thì thầm, như nhắn gởi

Trong cuộc hành trình vô định

Thoáng giây là vuột mất

Tao ngộ một lần,

Ôi! Muôn trùng cách xa!...”

Và rồi tôi quỳ xuống lạy trời, hôn đất, rồi khóc nức nở. Ôi! Hạnh phúc, hoan lạc xiết bao!

Có ngờ đâu, tình cảm của tôi lại dạt dào đến thế. Từ lâu, sự dửng dưng lạnh lùng đã tạo cho tôi một cá tính trầm mặc, cỗi cằn và xa cách. Tôi đã dường như gỗ đá trước những niềm đau, nỗi khổ, sự thất vọng hay lo lắng của người đời. Bản tính này đẩy tôi tới góc trời cô lập nên chẳng thể hòa đồng được với thôn xóm, mặc dù tôi chưa hề khởi lên ý niệm phân biệt. Vả chăng, tôi cũng là người lao động như họ. Tôi yêu mến tri thức cũng như yêu mến lao động. Vẻ sáng, vẻ đẹp của tri thức và lao động, chỉ hiện hữu nơi một tâm hồn đẹp, một trạng thái tinh thần đã được thăng hoa. Vậy thì lao động hay tri thức chỉ là công cụ phô diễn, là hai phụ tá khuông phò cho cái chí chân, chí mỹ và chí thiện. Thiếu vẻ sáng, vẻ đẹp của tâm hồn thì lao động hay tri thức chỉ dẫn đưa con người đến hố thẳm, địa ngục thảm họa của trục vật nô lệ!

Bây giờ thì tôi hiểu. Từ lâu, tâm hồn tôi chỉ ngủ quên! “Thất tình” ngủ quên khá lâu trong vô thức chợt ào ào bước ra, dẫu không xô động, ồn ào, nổi loạn - chúng có vẻ lễ độ, khiêm tốn và nhỏ nhoi - nhưng tôi dễ dàng thấy rõ mặt chúng. Chúng đã đến, tôi tiên liệu sự đau khổ đã đến. Nghiệp định lưu đày đã cho sứ giả báo triệu. Chúng có thể là trái cây độc, tri thức, con rắn cám dỗ đã thè lưỡi ra từ vùng câm nín, tối tăm, đen nghịt ngàn đời...

Tôi thở ra và đứng dậy. Mặt trời đã lên cao. Sương đã khô trên hoa lá. Tôi đưa mắt nhìn quanh. Sự huy hoàng của rừng hoa Thiên Hương không còn nữa; hoa thì còn đấy, nhưng sự “vĩnh cửu” của nó đã tan nhòa trong sương sớm. Có cái gì đó như mới mẻ, tinh khôi, sáng long lanh... vừa biến mất, không bao giờ trở lại, không bao giờ được gặp lại! Giây phút kỳ ngộ thế là đã qua đi, mất đi vĩnh viễn...

Tôi lần xuống đồi. Con trâu cày của tôi không có ở đó. Khi tìm ra thì quả là tai hại. Ngót một đám ngô lớn, con trâu của tôi đã ăn và dẫm nát hết sạch. Người ta giữ trâu và bắt tôi phạt vạ. Điều này thì đúng rồi và tôi có thể cày thuê để trả nợ dần dần. Nhưng oái ăm thay! Chủ của đám ngô chính là gia đình cự phú kia, đã lợi dụng cơ hội để trả thù; nên sau khi cho người đánh tôi đến ngất xỉu, họ cột trói tôi lại rồi đẩy vào một nhà chứa phân. Suốt một ngày một đêm bị đau đớn vì thể xác bầm dập, nhức nhối, tôi còn phải chịu sự đói khát, muỗi mòng và hôi hám nữa. Sáng ngày, họ dẫn tôi ra huyện đường cách đấy mười dặm cùng với lá thư tay. Chẳng hỏi cung, tra xét gì lôi thôi, họ tống tôi vào ngục tối!

Thật là kỳ lạ. Cuộc đời không đơn giản chút nào. Nó thầm lặng nhưng phức tạp, bí hiểm dường bao! Bóng tối dễ đồng lõa với nhau nên tôi chẳng thể chờ đợi gì hơn ở công lý. Trong lao tối, tôi ngất xỉu vì đói, vì mệt, vì khát, vì đau buồn. Ôi! Có bao giờ tôi nghĩ rằng, đến một lúc nào đó trong đời, tôi lại phải chịu cảnh huống đau buồn và sầu khổ như thế này? Những tình cảm vẩn đục, lợn cợn bắt đầu đến với tôi, dày vò tôi và làm cho tôi chảy nước mắt. Tâm hồn rệu rã, bạc nhược và vô cùng tối đen. Mặc dầu bị còng hai tay nhưng tôi cũng rán lần đến ô vuông nhỏ, ở đó có một thứ ánh sáng mờ đục từ bên ngoài hắt vào. Tôi hít một ít khí trời ẩm mốc, nồng nặc, không tỉnh táo được chút nào mà lại lả đi.

Chẳng biết mấy ngày đã trôi qua, người ta tháo còng, cho tôi ăn, cho uống bằng khẩu phần ít ỏi của con chó con nhưng thiu hôi và tanh tưởi. Thời gian sau đó, tôi được đưa ra khỏi lao phòng, chung với những tù nhân khác, có nước, có ánh sáng, có khí trời, được làm việc, tôi hồi sức rất nhanh. Đồng thời, sự phẫn nộ, cô đơn và hận thù lại tìm đến. Tôi dùng hai tay bưng mặt, gục đầu xuống, nghiến răng để chống chọi với những tình cảm đầy bóng tối, xấu ác này. Và nhủ thầm với lòng rằng, dẫu sao, “định mệnh” đã đến, “nó” đã đến, vậy hãy cam chịu nó như cam chịu môt đám đất khó cày, một người chủ khó tính, một ung nhọt ở nơi thân. Tôi sẽ chiến thắng. Hãy đứng lên, ngửa mặt, vươn cao và thách thức mọi sự. Yếu đuối, bạc nhược tâm hồn là nguyên nhân của sa đọa, trầm luân và tội ác. Ngươi là sư tử chứ không phải là cừu non. Hãy uy dũng, hiên ngang và lớn rộng tâm hồn. Sự ngu si, hèn hạ của con người chẳng làm gì nổi ngươi. Thế là tôi khỏe hẳn.

Từ đó, tôi đã thản nhiên và an bình trước mọi sự hành hạ kỳ quái của những tên cai ngục. Ở đây, đừng bảo hợp lý hay phi lý. Không có cái “lý” nào cả. Chỉ có cúi đầu tuân phục, nghe mắng chưởi và lãnh đòn vọt. Tuy thế, tôi chẳng sợ gì, vì trong tôi đã có rừng hoa Thiên Hương, mặt trời và màu xanh của cây cỏ. Lại có cả sư tử và cừu non nữa chứ. Nếu gọi được là “tiến bộ” thì tôi đã tiến bộ rất nhanh về sự tháo vác, nhẫn nhục, nụ cười và sự tha thứ, bao dung. Chỉ nom vài tháng sau là tôi lấy lại tấm thân thể lực điền, sự vững chãi và trẻ trung của tâm hồn. Từ những công việc nhẹ như làm cỏ, quét sân, lau nhà, làm bếp... đến những công việc nặng nhọc như bổ củi, đào mương, tải đá... chẳng việc gì mà tôi không làm bằng cả sự nhiệt tình, hoan hỷ và lương thiện. Người ta tin cậy tôi, cho tôi coi sóc một đám bạn tù và sống dưới chế độ lương thực, làm việc và ngủ nghỉ khác. Thế là tôi nhanh chóng học thêm một điều: sự ganh tỵ, ghét bỏ từ xung quanh lại tìm đến!

A! Thật khó sống làm sao? Tôi mỉm cười và tự nhủ. Tôi đem chúng lên cán cân và bắt đầu sống thí nghiệm “lừng khừng”, nghĩa là sống vừa phải, chừng mực trong mọi công việc lẫn thái độ khu xử. Như vậy, tôi không còn là tù nhân gương mẫu nữa, bù lại, bạn bè đỡ gay gắt và méo mó khi nhìn tôi. Sóng chỉ còn xao rất ít và tôi rút ra được kinh nghiệm sống này; và nó chính là “chân lý đời” chăng?

Rằm tháng bảy đã đến. Nhà tù mở cửa lao xá bảy ngày cho bà con thân nhân đến thăm viếng và các hội đoàn từ thiện đến ủy lạo. Tôi chợt thấy rằng, trong những ngày này, sự rãnh rỗi của mình không phải là điều đáng vui. Trong lúc mọi người vui vẻ, được ăn ngon, được nhận những món quà quý báu từ thế giới ánh sáng và đầy thân thuộc ở bên ngoài, thì tôi, với ít của từ thiện, thui thủi nằm dài nơi góc vắng hoặc thơ thẩn nơi những chỗ không có một ai. Tôi cảm nghiệm sự cô đơn đến xót xa tận cùng, chợt đâu tôi nghĩ quấy rằng, chẳng có ai thăm hỏi, tặng một món quà, một lời an ủi dẫu đãi bôi, một cái nhìn giả vờ thông cảm - thì cũng là một thiếu sót ở đời! Đôi khi như thế là bất hạnh nữa! A! Sống - có nghĩa là phải đầy đủ tất cả những cái tầm thường và rỗng không ấy? Có gì đó đã sai lầm trong tôi chăng? Có cái gì đó đã sa đọa trong tôi chăng? Rõ ràng là có một cái gì đó đã làm cho sự trong sáng, thánh thiện thuở đầu đời ở trong tôi không còn nữa. Tránh đi là hơn. Thế là tôi rút lui vào thế giới thầm lặng đầy mặc cảm của mình.

Bất chợt, vào buổi sáng ngày thứ năm, người ta gọi đúng tên tôi. Tôi mở mắt ngạc nhiên, mở lớn tai xem thử có nhầm lẫn nào chăng? Tôi vừa e ngại, vừa rụt rè, thận trọng tiến ra cổng nhỏ đến khu vườn tiếp tân. Đến nơi, tôi chọn một gốc mù u rậm lá nhìn dáo dác ngược xuôi. Một cô gái quê cũng đang ngược xuôi dáo dác trong ghế đợi. Bất giác tôi chạy tới và kêu lên: “Chuồn chuồn”; rồi run run nắm lấy tay nàng, nghẹn ngào im lặng. Tay nàng cũng run run trong tay tôi, nghẹn ngào, im lặng. Bốn tia mắt gặp nhau, con mắt nào cũng tươm nước như một màn sương ướt.

Chẳng biết chúng tôi ngồi với nhau như thế trong bao lâu. Chợt dưng, nàng đứng phắt dậy, đặt cái gì đó vào tay tôi, áp hai tay vào hai má tôi, nhìn tôi với cái nhìn bi thương khó tả. Đột nhiên, nàng hôn vào má tôi rồi hối hả quay lưng bỏ chạy...

Tôi đứng bất động, lạ lùng với cái cảm giác nóng ấm, đê mê ở trên má. Tay tôi sờ vào đấy rất lâu, có cái gì đó rất mới mẻ mà tôi chưa cảm giác được ở trong đời. Khi nàng bỏ chạy, gót chân thoăn thoắt ấy không còn là của một cô gái tinh nghịch nữa, mà là một cái gì rất khó hiểu, một cái gì rất thân thương và bí mật mà tôi chưa hề thấy ở nơi nàng. Thế đấy, nàng đến với tôi như sớm mai, như sự lóe lên của ánh nắng huy hoàng, như sứ giả của rừng hoa Thiên Hương. Chợt nhiên, tôi linh cảm mơ hồ một sự mong manh nào đó, như hạt sương trên nhụy hoa, như một sự vĩnh cửu tinh khôi vừa tan mất:

“Đôi mắt ngươi long lanh

như thì thầm

như nhắn gởi

trong cuộc hành trình vô định

thoáng giây là vuột mất

tao ngộ một lần

Ôi! Muôn trùng cách xa!..”

Tôi hát lên nho nhỏ khi về lao phòng. Tôi trân trọng gói quà của nàng. Người ta thôi thì đủ thứ sơn hào hải vị, riêng tôi, ngoài quà từ thiện, còn có thêm gói bánh kê của nàng - gói quà quý báu do tự tay nàng trồng ra, làm nên, bằng mồ hôi và bằng cả tấm lòng. Tôi dùng nó không cho ai thấy, còn cất để dành! “Chuồn chuồn”, tên thật là Sin-yai-ko, là một cô gái quê nhỏ nhắn và xinh đẹp. Cô ta đi ở thuê cho một gia đình tương đối khá giả, đạo đức và lương thiện. Nàng làm lụng giỏi, tính tình cũng không phải dịu dàng gì. Nói thế cũng không đúng hẳn, nàng rất dịu dàng nhưng đôi khi cũng rất chanh chua, rắn mắt và cứng đầu. Nghe đâu, nàng là con của một tu sĩ theo phái Tân Tăng, ra đời với nhiều mặc cảm, cô đơn và nghèo khó. Cha nàng là một tu sĩ có danh, uy tín nhưng lại khước từ tất cả, sống đời rày đây mai đó với phong thái hạc nội mây ngàn, lãng đãng nghệ sĩ hơn là một thiền sư. Nàng mang ít dòng máu của cha nên thông minh, tài hoa và lãng mạn; một ít dòng máu của mẹ nên chịu khó, siêng năng và sùng đạo. Nơi góc tâm hồn nàng lúc nào cũng có khoảng trời thiêng liêng, cao cả, thơm ngát trầm hương thanh khiết. Nàng hãnh diện ở vào cái giai cấp thấp thỏi nhất của xã hội đủ để khinh bỉ và chế riễu cái hợm hĩnh ngu si của giai cấp “trọc phú”. Chúng tôi có nhiều lý do để gần gũi nhau, ấy là sự nghèo khổ, có chút ít chữ nghĩa và tâm hồn. Chúng tôi không thân thiết đến độ yêu thương chết bỏ hay thề non hẹn biển; chỉ thân thiết vừa đủ để gặp nhau thì chào hỏi, nói vài câu trống rỗng bá vơ hoặc đôi khi trao đổi một cuốn sách hay, một câu thơ thú vị.

Một hôm, nàng đi dự lễ chùa ở đâu đó với bộ khoác trẻ trung và tươi tắn ở bên ngoài. Từ xa, màu áo xanh trong sáng, dáng dấp nhỏ nhắn, bước chân thoăn thoắt của nàng làm tôi liên tưởng đến một con chuồn chuồn đang bay lượn nhởn nhơ trong nắng sớm.Tôi bèn gọi:

“- Chuồn chuồn!”

Nàng quay lại, trừng mắt:

- Cái gì vậy?

- Là tên của nàng.

Nàng chau mày:

- Không có nghĩa lý gì cả, chẳng có tư tưởng, chẳng phải thi tứ! Anh này trống rỗng mất rồi!

Tôi cười cầu hòa:

- Đúng thế! Một hình ảnh thoáng hiện trong tôi và tôi gọi tên, chẳng ra sao cả. Xin lỗi nàng vậy.

- Thế thì lại khác. Nàng dịu dàng nói - Một hình ảnh thoáng qua! Hay đấy! Nghĩa lý, tư tưởng, thi tứ mà làm gì! Được lắm, chàng trống rỗng ạ!

Thế là nàng bắt đầu “thương” tôi, có kỳ không chứ? Tôi không hiểu. Chẳng lâu sau đó, gặp tôi, nàng nói:

- Hãy nhìn ngắm vô duy những hình ảnh thoáng qua, cha tôi bảo đấy là Cái Đẹp Thiên Thu!

Tôi rúng động cả châu thân! Ôi! Sin-yai-ko! Nàng đã khai ngộ cho tôi như vậy đó. Tri ân biết mấy. Bây giờ nàng lại đến thăm tôi nữa. Vĩnh cửu còn đầy dấu ấn trên má tôi. Nó cho tôi sự diệu kỳ ngọt ngào của đời sống.

Ngày cuối tuần, “Chuồn chuồn” lại đến thăm tôi. Lần này, món quà của nàng là một bó hoa Thiên Hương cuối mùa. Ôi! Quý báu kỳ lạ mà cũng ngẫu nhiên kỳ lạ. Hay là nàng biết rõ câu chuyện của tôi? Sau này tôi mới biết, việc tôi mê mải ngắm nhìn rừng hoa Thiên Hương mà bị rơi vào vòng lao lý, người ta đã đồn đại, thêu dệt và xem đấy là hành động của một gã điên khùng, quái gở!

Tôi có yêu hoa không? Quả thật, điều này chính tôi cũng mơ hồ lắm. Nhưng rõ ràng là với bó hoa trên tay, tôi cảm động vô cùng. Mùa hoa Thiên Hương đã tàn tạ khắp nơi vào tiết tháng bảy, thế nhưng ở đây lại còn tươi nõn. Chắc “Chuồn chuồn” của tôi phải lặn lội lên tận những bờ khe nước ở núi sâu. Ôi! Biết bao là tấm lòng! Chợt dưng, một vọng tưởng đến với tôi: bó hoa này phải trở nên Bất tử!

Thế là tôi nghĩ cách gắn bó hoa ấy lên đầu giường. Người ta ăn trái sa-kê và quăng vỏ rải rác khắp đó đây. Vỏ sa-kê có gai cứng, tôi lấy một tấm và bỏ vào trong cái bát vỡ miệng. Loay hoay giờ lâu tôi mới làm xong “tác phẩm” của mình. Tôi đã cố gắng trưng bày trọn vẹn bó hoa vào đó, chỉ cắt tỉa bớt một ít thân, cành và lá rườm rà. Tôi tận dụng, trân trọng và thưởng ngoạn trọn vẹn món quà tinh thần của nàng. Các bạn tù của tôi, họ nói là họ sửng sốt khi chợt thấy một khóm hoa Thiên Hương mọc ở đầu giường. Căn phòng sáng rỡ lên, tràn đầy sinh khí, vui tươi và mát mẻ. Nhưng niềm vui của tôi không được bao lâu, vì mắc gai của vỏ sa-kê không đủ sức giữ cọng hoa được bền. Thế là hôm sau ra ngoài lao dịch, tôi kiếm về những cái gai cứng, sỏi và sạn làm chân cắm. Bình hoa được làm lại sau một ngày, vậy là phải loại bớt một số hoa lá cành tàn úa và bầm dập. Tôi loay hoay hoài mà chẳng được gì cả, bình hoa nom xấu một cách kỳ dị. Tôi lại bỏ, cắm kiểu khác. Thế là một số gai, cành lại bị hư. Tôi chán nản bỏ đi. Khuya, tôi thắp đèn làm lại, vẫn không vừa ý, tôi âu sầu và đi ngủ.

Suốt đêm tôi trằn trọc. Và bó hoa Thiên Hương lại hiện ra. Từ bó hoa Thiên Hương và sắc màu, nó mơ màng dẫn tôi đến một thế giới đầy hoa sắc. Vị thần Bất tử bước ra từ chòm mây trắng huyền hoặc, trang sức bằng vòng hoa Thiên Hương, nói với tôi:

- Ngươi muốn bất tử không?

- Có muốn. Tôi đáp.

- Vậy thì ngươi hãy chết! Chết tức phục sinh và bất tử!

Vòng hoa Thiên Hương xoay xoay rồi hiện hình chiếc búa. Vị thần Bất tử đánh vào đầu tôi. Hoảng hốt, tôi ôm đầu và vùng chạy.

Đấy là khoảng quá nửa đêm về sáng. Bình hoa đầu giường bị rơi đổ tung tóe. Dường như trong cơn mộng du, nửa tỉnh, nửa mê, tôi đã ngồi dậy và cắm lại bình hoa.

Trong giấc ngủ, vị thần Bất tử hiện ra, nhìn tôi mỉm cười.

- Ngài đến đây làm gì nữa? Tôi trừng mắt hỏi.

- Ngươi còn muốn bất tử không?

Tôi không nói không rằng, thò tay nắm chiếc búa. Vị thần Bất tử đột nhiên biến mất, để lại mấy đóa hoa rung rinh trong làn mây trắng. Ôi! Đấy là cả một bình hoa chứ! Đẹp quá! Sáng ngày, tôi giật mình khi thấy bình hoa cắm hồi khuya - giống bình hoa trong mộng y hệt. Tôi ngồi bó gói yên lặng ngắm mãi mà không nghe tiếng kẻng báo hiệu giờ ăn và giờ lao tác. Tôi được bạn tù lôi dậy và họ thương hại tôi như thương hại một gã tâm thần.

Chuyện của tôi thế là được người ta đồn đại, thêu dệt rồi lan rất nhanh. Cả trại, từ ban giám đốc, giám thị, cai tù, tù nhân, ai cũng nhìn tôi bằng tia mắt khác lạ. Là chuyện gì đây? Tôi linh tính là có chuyện gì rồi nên bình tĩnh chờ đợi.

Hôm đó, tôi được gọi lên văn phòng ban giám thị.

- Hãy khai đi!

Viên giám thị đầu hói nhìn tôi bằng ánh mắt lừ đừ, mệt mỏi. Hỏi xong, y ngáp. Tôi được người ta cho ngồi trên chiếc ghế thấp. Khai gì? Tôi có hiểu gì đâu? Thế là tôi cất tiếng hỏi:

- Khai gì?

Viên giám thị trở người, hai cùi chõ chống trên bàn, nâng lấy cằm, nhìn tôi một cách hờ hững, rồi cất giọng nhừa nhựa như ban đầu:

- Khai đi!

Tôi ngước mắt lên nhìn y rồi cũng hờ hững nhìn ra cửa sổ. Ồ! Nắng mai đẹp quá!

- Mư-jô-chư! Y gọi.

Tôi nhìn y. Y lại cất giọng khàn khàn, đều đều:

- Hãy khai đi!

- Chắc có một lầm lẫn nào chứ? Tôi nói. Thưa ngài, chắc có một lầm lẫn nào chứ?

- Không lầm đâu! Mư-jô-chư! Không lầm đâu!

Y đứng dậy, bước đến và chậm rãi nắm cổ áo tôi. Và thật bất ngờ, chớp nhoáng, tôi thấy tối tăm mặt mũi, thân mình bị bốc đi, văng bắn vào một góc tường. Máu phọt ra từ mũi, tôi nghe cay cay ở mắt, dường như ở đó đã bị xé rách.

- Khai đi, Mư-jô-chư!

Giọng y vẫn như cũ. Y đứng chống nạnh và nhìn ra cửa. Tôi nhướng mắt, nghe nhầy nhụa ướt và nghe tai mình lùng bùng. Nó cũng kỳ khôi và vô lý như chuyện rừng hoa Thiên Hương và việc ở tù của tôi vậy.

- Ta chỉ có thời gian hút xong một điếu thuốc. Y nói - chừng đó để làm việc này. Giọng y đục, nhừa nhựa, khàn khàn, trầm trầm - Nếu khôn thì khai, dại thì cứ im lặng và cứng đầu, ta không cấm. Cái đó gọi là tự do. Chối làm chi? Cậu cũng hiểu hậu quả của nó rồi. Làm gì ư? Làm gì thì cậu biết lấy chứ? Phải thế không? Khai gì ư? Ai biết là cậu sẽ khai gì? Dễ thôi!

- Tôi chẳng biết gì hết. Tôi nói - Thật là rừng rú! Ông đánh tôi bằng tay đấm thú vật. Tôi là một con người, một công dân. Tinh thần Thần đạo truyền thống của chúng ta không cho phép ông làm điều đó. Nhưng tôi là Phật tử. Tôi tha thứ cho ông và cầu nguyện đức Phật gia hộ hạnh phúc cho ông. Tôi chỉ cắm một bình hoa Thiên Hương thôi, ấy là việc tôi làm.

Y ngồi vào bàn, gật gật đầu.

- Tốt, cứ khai nữa!

- Đấy là khai à? Tôi ngạc nhiên hỏi.

- Cứ tiếp tục. Y nói - Cắm một bình hoa Thiên Hương, ấy là chuyện con cóc dưới gầm giường cậu, nó cũng biết. Nhưng mà “dấu hiệu” kìa? “Ý nghĩa” kìa? Ây mới là điều!

- Tôi không biết gì cả.

- Biết mà!

Giọng y vẫn không lớn hơn, không nhỏ hơn, vẫn lừ đừ và ngái ngủ. Rồi y lại bước tới, chậm rãi vỗ vỗ vào vai tôi, và thật bất ngờ, chớp nhoáng hơn cả lần trước, y tống tôi bằng một cú đấm vào quai hàm. Tôi bị bắn tung đi, rồi bất tỉnh.

Sau đó, tôi còn bị kêu lên gọi xuống nhiều lần nữa. Đôi mắt lừ đừ và cái giọng khàn khàn trầm trầm bình thản của y làm cho tôi kinh sợ. Nhưng tôi biết gì mà khai? Thế là tôi lại bị hộc máu, bất tỉnh, người ta quăng cái xác tôi vào ngục. Các bạn tù thương hại, ân cần chăm sóc những vết thương cho tôi. Hơn tháng, tôi mới lấy lại sức. “Khai đi” - Giọng của viên giám thị đôi khi vang lên trong bóng tối, tôi nhìn quanh dáo dác rồi đưa tay ôm mặt. Cái âm thanh ấy ám ảnh và đe dọa khủng khiếp làm cho tinh thần tôi bất an, dao động.

Sau này tôi mới hiểu, đây là vụ trả thù truyền đời do sự vu cáo của tên cự phú ở thôn Đông. Cha tôi thì đã mất rồi nhưng tôi bây giờ là nạn nhân kế tục. Nguyên thời ấy có một lực lượng chính trị chống lại triều đình, đằng sau có thế lực Gia-tô giáo trong và ngoài nước yểm trợ. Dấu hiệu bí mật của họ là khóm hoa Thiên Hương. Họ đang hoạt động trong bóng tối, đả kích Phật giáo, phân hóa tinh thần Thần đạo dân tộc và khuynh đảo cả thế lực của Thiên hoàng. Triều đình đã ra tay ngăn chặn, đập vỡ từ trong trứng nước. Chỉ dại khờ và xui xẻo cho tôi - còn ngồi đây mà chiêm ngưỡng cụm hoa Thiên Hương!

Để xác tín cho tất cả những điều này, hôm kia, đến gặp tôi trong tù là một tu sĩ của triều đình. Y phục vụ cho một thế lực. Y thương xót đưa mắt nhìn tôi rồi nói:

- Phước thay là linh hồn không bị mất đi vì loài “quỷ dữ”! Phước thay là linh hồn còn trong trắng như đóa sen tinh khiết ở cõi “thượng phẩm thượng sanh!” Ta chúc mừng linh hồn của con!

- Còn linh hồn của ngài, nó ở đâu?

Tôi cất giọng hỏi. Và lạy Phật, lần đầu tiên trong đời, tôi có một câu nói khiếm nhã đối với một tu sĩ tích cực nhập thế.

- Đầu tiên, Chúa sáng tạo ra vũ trụ. Y giả vờ không nghe câu hỏi của tôi nên vẫn tiếp tục nói, hai đùi rung rung với nụ cười hiền dịu. Và thế là có vạn vật, con người, muôn thú và cỏ cây. Cái con người - Y nhấn mạnh rồi lại rung đùi - vị thủy tổ của nó bị đức Chúa trời trừng phạt, lưu đày miên viễn ra khỏi Vườn Địa Đàng - vì tội cứng đầu, ngạo mạn, không tuân ý Chúa! Ai bảo nó không chịu phục tùng nô lệ! Phước thay cho ai sống đời tùng phục tùng, nô lệ ngài - vì thế là sẽ được ngài cho lên Thiên đàng, ăn cái bánh “cực lạc”. Tội cho ai ngỗ nghịch, bất tuân, phỉ báng ngài thì sẽ bị đày ở hỏa ngục đời đời, ăn cái bánh “cực hình”!

- Ngài muốn nói gì? Tôi ngắt lời và hỏi.

- Có muốn. Tu sĩ gật gật - Muốn cho con hiểu rằng, ta hiểu rõ gốc nguồn của “tà giáo” ấy. Đừng con! Đấy là âm mưu của lũ Quỷ trắng - bắt con người nô lệ vào đấng thần linh mà bỏ quên năng lực tự chủ, tự giác của mình. Ta có thể thay đổi hoàn cảnh, chuyển nghiệp bằng tâm ý thiện lương, bằng sự sáng suốt của trí tuệ... Con hãy bỏ đi sự cầu nguyện và chiêm ngưỡng bá vơ, dẫu là cầu nguyện và chiêm ngưỡng “hương trời”; “thiên hương” không bằng “thiên lương”, “thiên lương” không bằng “tuệ giác” - là năng lực sáng suốt tự tâm. Đừng dại gì để mất linh hồn và làm nô lệ cho quỷ dữ!

- Ngài là ai? Tôi hỏi.

- Là tu sĩ... Y ngạc nhiên nói.

- Vậy thì tôi tin những điều ngài nói. Và ở trong “linh hồn” tôi, tôi cũng có những điều như vậy. Tôi đang sống với tự lực, tự chủ và tự giác. Và một đời hiền lương vô hại. Hốt nhiên tôi thấy rừng hoa Thiên Hương một sớm mai kia, giữa sương trắng và nắng vàng - nghĩa là tôi thấy sự chí chân, chí mỹ cùng sự bất tử của trời đất. Một thoáng mong manh đó, lòng tôi nở hoa cùng với tạo vật. Hạnh phúc thay cho ai được thấy sự bất tử này giữa đời sống hám danh, trục lợi, cụn mằn, vị ngã. Mây mù u tối ở nơi tâm địa con người và trần gian, trong phút giây ấy được rọi sáng bởi mặt trời thiên phúc. Tôi hít thở với thiên phúc. Và đấy chính là “thượng phẩm thượng sanh”, là Niết-bàn, là Tịnh Độ, là Cực lạc mà ta hằng chối từ trong mỗi phút giây. Đất Phật mở ra cho những người con nhìn thấy. Các quan niệm về Thượng đế, thiên đường vĩnh viễn và địa ngục vĩnh viễn là những tư tưởng ấu trĩ - nhưng dù sao, Chúa cũng đã từng nói: “Ta là ánh sáng, là sự sống, là con đường”? Vậy thì kệ cho ai loay hoay tô vẽ Chân phúc theo cái bầu dục vọng vô độ của họ, đong nước Thiên đàng bằng cái bình ham muốn không đáy. Chính ngài đang làm cái công việc gì đó, ngài Đại đức? Ngài rao giảng nhầm chỗ rồi, có một nơi nào ở cái quán đầu chợ thích hợp cho ngài hơn. Hãy bước đi! Vậy là tôi đã vô cùng trân trọng và lễ độ với ngài rồi!

Vị tu sĩ há hốc. Tôi còn muốn nói nữa. Một sự phẫn nộ đâu đó, nó trào ra, nó vọt ra. Vị tu sĩ nhìn tôi với đôi mắt mở lớn, y thối dần ra cửa rồi biến mất.

Từ đó, người ta không bắt tôi khai điều gì nữa. Có lẽ họ đã rõ trắng đen. Và có lẽ họ đã quên tôi như quên một con chó ghẻ, một bó giẻ rách.

Mùa xuân lại đến, mới đó mà đã một năm trời trôi qua rồi nhỉ! Ngày tháng trong tù cũng không dài lắm đâu. Tôi biết mùa xuân qua làn khí ấm cùng với ánh nắng trong lành. Người ta rộn rịp đi thăm tù trong những ngày mở cửa lao xá.

Tôi hít thở khí trời, và cảm ân xiết bao khi thấy mình được sống và còn mạnh khỏe. Đồng thời, tôi lại thấp thỏm chờ đợi. “Chuồn chuồn”, hoa Thiên Hương và tôi như được gắn bó với nhau trong một định mệnh không rời. Thật trong sáng và thật đẹp là sự nhớ nhung này. Nhưng nàng không thấy đến. Cửa lao xá sắp đóng lại thì một tu sĩ đột ngột bước vào phòng cùng với tên giám thị đầu hói. Họ nói gì với nhau, sau đó, tôi được gọi đến. Viên giám thị tỏ vẻ kính cẩn đối với vị tu sĩ này.

-... Nó đấy! Là hoa Thiên Hương!

Vị tu sĩ nom đã đứng tuổi, lặng lẽ nhìn tôi, đôi mắt to, đen, phản chiếu màu xanh bên ngoài cửa sổ. Có một cái gì đó lặng lẽ, ấm áp trong đôi mắt hiền dịu. Không khí thân thiết tỏa ra xung quanh. Ở nơi tu sĩ này, tất cả đều toát ra cái dung dị nhưng không phải thường phàm...

- Ta nghe tin thì đã quá muộn... làm cho ngươi đau khổ trong bao lâu. Nhưng mà... nó thế, là nó thế!

- Vâng, nó thế là nó thế - Tôi thầm lặp lại lời nói của tu sĩ và ngơ ngác nhìn cả hai người. Tôi không hiểu ra sao cả!

- Ngươi được tự do. Viên giám thị đầu hói nói - Đây chỉ là một sự nhầm lẫn đáng tiếc. Cầu nguyện đức Phật gia hộ cho ngươi!

Tôi im sững giây lâu. Thế đấy! Chỉ là sự nhầm lẫn! Chợt dưng, tôi nhảy lùi mấy bước, hầm hầm nhìn tên giám thị, vẫy tay nói:

- Lại đây! Tao sẽ đấm cho ngươi mấy đấm. Lại đây!

- Gì vậy? Cái gì vậy? Vị tu sĩ nhìn tôi hỏi.

- Hắn đã đánh tôi chết đi sống lại nhiều lần - vì cái hiểu lầm đáng tiếc của hắn. Cái giọng tra tấn khàn khàn, trầm trầm của hắn đã làm cho tôi bị ám ảnh, sợ hãi ngay cả trong giấc ngủ. Tôi thù hắn, tên đao phủ khốn kiếp!

Vị tu sĩ vỗ nhè nhẹ lên vai tôi:

- Mư-jô-chư! Thế là con đã đấm rồi, có phải vậy không? Tâm con đã đánh hắn ta rồi đấy!

Tôi đớ người ra. Cánh tay từ từ bỏ thõng xuống. Tôi ngước mắt nhìn tu sĩ, biểu lộ sự biết ơn vô hạn - vì người đã nói đúng. Phải! Người đã nói rất đúng. Cơn nóng nảy bỗng dịu dần rồi hoàn toàn tắt ngấm: sự ám ảnh, hận thù, sợ hãi đã tiêu tan ở trong tôi!

Thế là sau đó, tôi theo tu sĩ đi ra khỏi tù, không hiểu gì cả. Cái nhân duyên, nghiệp báo thật là quái gở! Trong cái vòng quay dường như tất định ấy, tôi có tham dự vào đấy không? Ý chí của tôi cũng có đấy, nhưng nhỏ nhiệm làm sao trong cái dòng thác cuồn cuộn của nghiệp lực cơ hồ không cưỡng được, cơ hồ như những chuyện tình cờ, ngẫu nhiên! Ai là kẻ hốt nhiên đến, hốt nhiên đi, thong dong như chưa hề vướng vấp vào một kháng lực tất yếu nào? Tôi đang bước qua một ngã rẽ của đời mình và hy vọng học thêm được nhiều điều.

Chúng tôi theo hướng trở về làng cũ. Vị tu sĩ cất những bước đi dài, vai không động, thoăn thoắt trên đầu cỏ. Đến một ngọn đồi thì chiều đã ngã bóng non tây.

Vị tu sĩ bây giờ mới ngồi xuống, chậm rãi kể nhiều chuyện cho tôi nghe. Ngạc nhiên xiết bao khi biết ngài là cha của Sin-yai-ko, “Chuồn chuồn” của tôi. Sin-yai-ko cũng bị bắt sau khi tặng khóm hoa Thiên Hương cho tôi. Bốn tháng sau, ngài nghe tin, vội đến can thiệp, Sin-yai-ko được thả ra nhưng đã mắc bệnh trầm trọng, thang thuốc thảy đều bất lực. Trước khi nhắm mắt qua đời, Sin-yai-ko yêu cầu thống thiết ngài phải đùm bọc che chở cho tôi.

Nghe xong, trời đất quay quay đảo lộn trong tôi. Đợi cho tôi tỉnh táo đôi chút, ngài dẫn tôi đến một ngôi mộ chưa xanh cỏ. Ai đã thắp nhang ở đấy và cắm thêm một khóm hoa dại. Màu hoa nhàn nhạt trong nắng chiều mang vẻ quạnh hiu, ảm đạm không thể tả.

Tôi ngồi xuống, nhìn nắm đất rất lâu, đột nhiên tôi thốt lên:

- Khó kham nhẫn! Khó kham nhẫn!

Vị tu sĩ chăm chú nhìn thẳng vào mắt tôi:

- Vậy thì bước tới hay tránh qua một bên?

Tôi cũng nhìn thẳng vào mắt ngài, lắc đầu:

- Hai đàng đều chẳng thể!

- Nếu chọn lựa?

- Ra khỏi nó!

- Bằng cách nào?

Chợt nhiên tôi đứng dậy, cười ha hả, cười chảy nước mắt. Và rồi, tôi hát:

“- Ôi! Rừng hoa Thiên Hương ơi!

Ngươi nở ra từ trái tim của đất

Đất nuôi sống ngươi,

Lặng lẽ, âm thầm

Ngươi cho ta sự vô tận

Sự huy hoàng

Từ phù du của niềm đau, nỗi chết

...

Đôi mắt ngươi long lanh

như thì thầm

như nhắn gởi

tao ngộ một lần

Ôi! Muôn trùng cách xa!..”

Để cho tôi chìm ngập trong thế giới hồi tưởng của riêng mình, vị tu sĩ thò tay vào đãy ta bà lấy ra một bức tranh đã cũ vàng. Trong tranh, người con gái bị tật một chân đang bước đi trong chiều muộn, đến cánh rừng hoa anh đào nhờn nhạt, đằng sau là khung trời xa thẳm.

- Đấy là “dì” của Sin-yai-ko! Vị tu sĩ chậm rãi nói - Là một người đàn bà tật nguyền nhưng tâm hồn vô biên, đủ để khinh thị và cao ngạo cả niềm đau, nỗi chết, cả sự bất hạnh của chính mình. Ta là một tu sĩ đa tình, muốn bảo vệ, che chở cho nàng nhưng lại bị nàng phủ nhận. Ta đã từ bỏ mọi thứ trên đời, một thời, để chạy theo nàng. Thì bây giờ, ta cũng từ bỏ mọi thứ trên đời... để...

Tôi trầm ngâm nhìn vào bức tranh:

- Đi tìm mùa xuân cũ đã mất?

- Đấy không phải là điều vô vọng sao? Tu sĩ nói. Nhưng còn ngươi thì thế nào, Mư-jô-chư?

- Có cần gì thứ vô vọng ấy - Tôi có quyền mà! Tôi có quyền mà!

Vị tu sĩ mỉm cười lặng lẽ, thò tay vào đãy ta bà lấy ra một khúc sáo ngắn. Người leo lên một tảng đá cao, ngồi xếp bằng rồi bắt đầu thổi.

Ôi, tiếng sáo! Tôi chồm dậy. Tôi muốn hét to lên cho nứt vỡ cả đất trời! Thân thế tôi mà gì? Niềm đau nỗi khổ của tôi là gì? Tôi bị bốc tung vào vô tận. Tôi bị ném vào giữa ruột đại dương sâu. Tôi như được chắp đôi cánh đại bàng để bay vút qua hàng ngàn miệng núi lửa... Tôi không còn là tôi, mà là một thực thể phiêu bồng, vô danh, lướt qua hàng triệu kiếp trả vay, sinh tử.

Ôi! Kinh khiếp, vĩ đại thay là tiếng sáo!

Mặt trời đã tắt, vì sao Hôm xuất hiện. Vị tu sĩ đứng dậy, bóng cắt giữa nền trời.

- Ta đi chứ? Tu sĩ nhìn ra xa nói.

- Vâng, ta đi!

Vị tu sĩ bước xuống, cất tranh cất sáo vào đãy ta bà, nắm tay tôi rồi dẫn tôi lên núi cao.

Tôi là Mư-jô-chư - “Tôi đã đi tu như vậy đó.”

(Tiếp theo)


[Ðầu trang][Trở về trang Mục Lục][Trở về trang Thư Viện]

updated: 2007