Kẻ Được Chân Truyền
Chuyện được kể lại do một thiền sư
Nhật Bản vào thế kỷ thứ XI. Ngài xuất thân từ giới võ sĩ đạo, sau này vì thâm
ngộ Phật học mà thấy được chân lý vẹn toàn và cao cả của nhân sinh.
Từ bỏ chức vị coi mấy vạn quân cấm vệ
của triều đình, ngài khoác áo du tăng hành cước, rồi sau đó ẩn dật nơi động
thẳm hang sâu. Vết chân ngài, sau này, không những còn lưu lại nơi các võ đường
trứ danh của con cháu “Thái dương thần nữ” mà còn lưu đậm
trong các truyện ký, ngữ lục hoặc những giai thoại của Thiền tông.
Vì không được chân truyền của thầy, Vệ
Hải lủi thủi trở về quê nhà lập nghiệp. Không bao lâu, dưới chân núi Vô Vi mọc
lên một võ đường, bao giờ cũng có khoảng mười ngàn môn sinh khắp bốn phương đến
thụ giáo.
Tuy đã là một võ sư khét tiếng, Vệ Hải
sống một đời thanh bần và giản dị. Chàng dành hầu hết số tiền có được để tặng
cho các bệnh xá và các quỹ xã hội. Ngoài ra, nơi chỗ ngụ cư của chàng bao giờ
cũng có khoảng từ hai mươi đến ba mươi vị du tăng hành cước dừng chân với đủ y
thực, sàng tọa và thuốc men.
Người ta kính trọng chàng cả tài năng
lẫn đức độ. Hôm kia, đức vua nghe tiếng thỉnh Vệ Hải vào triều: “Ta phong cho
khanh chức võ tướng đầu triều, coi tám muôn quân cấm vệ, đệ nhị phẩm và lộc
thiên thạch để hưởng phú quý”.
Vệ Hải phủ phục dưới bệ rồng:
- Hạ thần căn trí ngu độn, chỉ có cái
hư danh, chẳng có thực tài. Xin bệ hạ tha cho tội chết.
Nhà vua ngạc nhiên hỏi:
- Có lẽ nào? Khoa tiến sĩ võ cử năm
kia, đứng đầu hai vạn môn sinh, võ tướng vô địch trấn thủ bắc thành Phú Hách
với tài thần tiễn “bách bộ xuyên dương”, vốn xuất thân từ chân núi Vô Vi?
Vệ Hải kính cẩn tâu:
- Quả thật vậy! Thiếu niên Phú Hách có
theo học nơi hạ thần hai năm về cung tiễn.
Nhà vua lại nói:
- Khoa tiến sĩ võ cử năm vừa rồi, bây
giờ là tiên phong hổ tướng Lý-đát-noa, với hai thanh liễu diệp đao có thể lấy
đầu tướng giặc cách xa hai trượng, nghe đâu cũng từ dưới trướng của khanh?
- Muôn tâu! Thanh niên Lý-đát-noa
huyết khí phương cương, không có chí dài lâu, chỉ mới học một năm về đao thương
đã vội về kinh lập công danh.
Vua vuốt râu cười hỉ hả:
- Hay lắm! Vậy nếu khanh từ chối lộc
hàm, khanh phải đào tạo cho hai hoàng tử con ta có cái bản lãnh được vài phần
của khanh cũng được.
Chẳng biết sao hơn, Vệ Hải xin phép
được dẫn hai hoàng tử về chân núi Vô Vi.
Năm năm sau, chàng dẫn hai hoàng tử về
phục mạng, tâu là đã học hết cái tài làm tướng ở đời.
Vua nhìn thân thể gầy gò của hai hoàng
nam thì nghi ngờ khôn xiết. Với vóc dáng ấy thì rõ là tay văn nhược, làm sao mà
“cử đỉnh bạt sơn?”
Hiểu ý rồng, Vệ Hải tâu:
- Nhờ phúc ấm của bệ hạ, hai hoàng tử
cốt khí hơn người, giữa một vạn môn sinh họ đã trổ tài vô địch. Chân núi Vô Vi
không có người thứ ba.
Cuộc thử tài sau đó được diễn ra ở đại
võ trường.
Hoàng tử thứ nhất dùng thanh kiếm báu
của vua ban, ngồi bất động. Hoàng tử dùng tâm chỉ huy kiếm. Thanh kiếm đảo lộn
giữa hư không lấp lánh hào quang, chém cụt cả hàng trăm võ báu.
Lần thứ hai, hoàng tử sử dụng thanh
kiếm gỗ tầm thường, dùng ý lực tạo sức mạnh ngàn cân, đánh rơi tất cả đồng chùy
và thiết côn vĩ đại.
Lần thứ ba, hoàng tử cầm một nhánh
liễu, tập trung ý lực. Nhành liễu như con rồng thần lả lướt vờn mây, len lỏi
giữa rừng vũ khí, điểm tê mọi huyệt đạo. Vũ khí rơi như lá rụng.
Nhà vua và quần thần kinh sợ quên cả
vỗ tay, miệng há hốc không nói nên lời.
Văng vẳng có giọng Vệ Hải tâu:
- Xin bệ hạ tha tội! Hạ thần đã đem
hết tâm truyền nhưng hoàng tử chỉ học có bấy nhiêu; “dùng tâm sử dụng kiếm”. Là
giai đoạn thứ nhất của một hành giả võ đạo.
Biết tài thần sầu quỷ khốc của hoàng
tử thứ nhất nên hoàng tử thứ hai bước ra với hai bàn tay không, mọi người đều
nín hơi chờ đợi...
Hoàng tử ngồi xuống theo thế kiết già
phu tọa.
Cuộc đấu khởi đầu...
Hai mươi võ tướng hét “ki-a” một
tiếng, hai mươi thanh đại đao như hai mươi con thanh long đầy móng vuốt đồng
lao tới một lượt. Nhưng kìa! Hai mươi thanh đại đao đều rơi nằm yên lặng trên
đất.
Năm mươi tay thần tiễn đồng buông một
lúc năm mươi mũi tên vàng. Nhưng kìa! Năm mươi mũi tên lại đổi hướng bay lên hư
không!
Hoàng tử này không còn “dùng tâm chỉ
huy kiếm” mà “tâm đã là kiếm”, sử dụng vũ khí của đối thủ theo ý muốn của mình.
Giọng Vệ Hải thoảng giữa võ trường,
mồn một bên tai đức vua:
- Xin bệ hạ tha tội! Hoàng tử quả có
căn cốt ưu tú, trí tuệ hơn người, đã học được chặng đường thứ hai của một hành
giả võ đạo: kiếm là tâm, tâm là kiếm.
Sau cuộc tiệc đãi đằng trọng hậu vị võ
sư siêu việt, hoàng tử thứ hai xin phép đức vua theo thầy để thụ giáo cho đến
nơi đến chốn.
Vệ Hải tâu:
- Tâu đại vương! Tâu hoàng tử! Khả
năng một đời của hạ thần vậy là đã trao truyền hết rồi.
Đức vua ngạc nhiên:
- Khanh dường như có nói đến giai đoạn
thứ ba?
Vệ Hải thở dài:
- Quả có, tâu đại vương! Nhưng hạ thần
phước mỏng nghiệp dày chẳng theo học được. Hạ thần đã bị vị ân sư cao cả đuổi
về nơi chặng đường thứ ba này vì căn trí ngu độn.
Đức vua và quần thần kinh sợ.
Hoàng tử đứng chôn chân một chỗ, tự
nghĩ:
- Thầy ta khiêm tốn và cao cả vô cùng.
Thầy ta mà đã nói vậy thì ta chẳng thể học được nữa rồi.
Từ đó, nhà vua được hai hoàng nam, như
hai cánh tay của vì thiên tướng, biến một nước hèn nhược thành một quốc độ phú
cường, các nước lân bang đều khiếp phục. Tuy thế, trong lòng nhà vua luôn bị tò
mò ám ảnh bởi hình ảnh cuối cùng của một hành giả võ đạo. Y là thế nào? Tài của
y kinh khiếp đến độ nào?
Một năm sau, từ chân núi Vô Vi loan
tin về: vị võ sư siêu việt đã giải tán đám môn đồ. Vệ Hải đã được thầy gọi lên
núi.
Nhà vua, hai hoàng tử và cả triều đình
hồi hộp đón chờ lần trở lại của vị võ sư ấy. Nhưng thời gian... thời gian đã
quá lâu, đã không biết bao nhiêu mùa hoa anh đào, vị võ sư vẫn biệt vô âm tín.
Hôm kia, không ngờ được, họ lại nghe
tin vị võ sư đã từ chân núi trở về.
Ai cũng ngỡ ngàng.
Vị võ sư siêu việt bây giờ đã là một
sa-môn hành cước, y áo đầy bụi đường, khuôn mặt xương xẩu, khắc khổ, chứng tỏ
đã trải qua cuộc sống gian lao.
- Tâu bệ hạ! Đây là chặng đường thứ ba
của một hành giả võ đạo: con đường tự thắng mình!
Nói xong, vị sa-môn mỉm cười kín đáo
rồi lặng lẽ cúi đầu đi về phía trước.
Mảnh Trăng Tiền Kiếp
Hoàng đế Mễ Sa thả lỏng dây cương cho
con long câu chậm vó lại. Con lương mã tinh khôn đang phóng nước đại, chợt cảm
thấy dây cương lỏng dần, vội hãm đà đổi sang nước kiệu nhỏ. Nhà vua như rã rời,
ngựa cũng đã thấm mệt, thế mà bóng con thú lại biến mất lần nữa. Suốt một thời
oanh liệt trên lưng ngựa, chưa lần nào ngài để kẻ thù trước mắt vuột khỏi, thế
mà lần này, con hươu sao bé nhỏ lại như nhởn nhơ, bỡn cợt thật đáng hận vô
cùng!
Nhà vua miên man suy tưởng mặc cho con
tuấn mã chạy rủng rải theo lối mòn. Khi mở choàng mắt, nhà vua thấy một con
suối, ngài khoan khoái vô cùng; vội xuống ngựa và vục đầu trong dòng nước mát.
Khi ngẩng lên, thì bờ bên kia, một con hươu sao! Nhanh như cắt, hoàng đế vọt
đến bên ngựa, chụp vội cây cung. Vừa mới giương cung thì con hươu sao đưa mắt
tròn đen lay láy nhìn nhà vua rồi lại lủi mất. Thịnh nộ nhưng trầm tĩnh, nhà
vua lại lên ngựa, phóng qua suối, đuổi theo chân con thú. Nắng chiều lấp lánh
trên ngàn cây. Tiếng vó ngựa dồn dập thoảng động rồi chìm mất giữa đám lá rừng
xào xạc.
Trời đã sẫm tối. Hoàng đế Mễ Sa lại
một lần nữa chậm vó. Núi rừng trùng điệp vây quanh. Một vài bóng chim đập cánh
uể oải. Hoàng đế chợt giật thót mình, lo lắng nhìn quanh. Mải đuổi theo con
thú, nhà vua đã lạc mất đường về. Núi rừng lạnh lùng hoang dã. Đâu đây đã vọng
tiếng hổ gầm.
Không biết trải qua bao nhiêu giờ khắc
căng thẳng lầm lủi dưới bóng đen càng lúc càng dày sâu, nhà vua thấy xa xa thấp
thoáng có ánh đèn. Theo chân ngựa, ngài tìm lần về điểm sáng. Chẳng bao lâu,
ánh lửa từ cây đèn mù u hiện rõ trong tầm mắt, soi tỏ một chái am tranh, hoàng
đế thở phào xuống ngựa.
Chợt cánh cửa trúc mở toang, bóng
người, cây đèn và tiếng nói như hiện ra cùng một lúc.
- Kính chào bệ hạ! Bần tăng chờ đợi bệ
hạ nơi này đã lâu.
Hoàng đế Mễ Sa kinh ngạc đến đớ cả
người. Mãi một lúc sau, nhà vua mới thốt được nên lời:
- Làm sao... mà đại sư biết trẫm...
trẫm đến mà đón?
Nhà vua thấy rõ chủ nhân là một vị
sa-môn rất già.
Vị sơn tăng mỉm cười nhẹ, nụ cười dịu
dàng mát mẻ tỏa sáng như mảnh trăng buổi sơ thu, rồi khoát tay, bước trái qua
một bên:
- Xin cung thỉnh bệ hạ vào thảo am
ngơi nghỉ đã! Bệ hạ rong ruổi nhiều, long thể chắc đang thấm mệt.
Nhà vua mặc dầu còn bỡ ngỡ cũng vội
dắt ngựa tiến vào.
- Cỏ lúa đều đã được dành sẵn, bệ hạ
hãy giao ngựa cho bần tăng.
Hoàng đế Mễ Sa chậm rãi bước vào tịnh
thất. Ngài đưa mắt nhìn quanh. Một tấm ngọa cụ bện bằng cỏ đặt nằm sắt vách
tường phía đông. Hai chiếc bồ đoàn trải giữa phòng cùng bộ đồ trà bé nhỏ bày
trên chiếc kỷ. Nơi vách nứa chính giữa, treo buông thả một bức tranh thủy mặc,
nét bút khoát hoạt, mờ ảo đầy vẻ phóng dật, tiêu sái. Không khí thiền am như
toát ra cái gì đó, nửa xa lạ, nửa thân thiết.
Nhà vua nhè nhẹ cởi hài, ngồi ghé lên
bồ đoàn, lại đưa mắt nhìn bức tranh lần nữa. Sao lạ, có cái gì kỳ quái ở bức
tranh này? Ta đã từng thấy nó ở đâu? Nó quen thuộc lắm! Nhà vua săm soi nhìn
kỹ. Nét bút này, giản phác, mạnh mà mau lẹ - chuyên để vẽ lan trúc - mà sao tác
giả lại phối hợp thêm những nét “bát mặc” của vương gia đời Đường? Lối “bát
mặc” thì dễ loạn mà ở đây không loạn, chứng tỏ nghệ sĩ đã biến được cái “vô
pháp” thành “hữu pháp”. Vẽ sơn thủy như tác phẩm này dẫu chưa đạt được “vẽ núi
đứng như núi bay, vẽ suối chảy như suối dừng lại” (sơn phi tuyền lập), nhưng
cũng tạm coi là những nét tĩnh, nét động đã toát ra đúng độ, hài hòa, khí vận
trôi chảy tự nhiên, nhất quán. Đây chính là nét bút mà nhà vua rất yêu thích,
nếu không muốn nói là một tâm đắc độc đáo của mình. Giấy thì đã cũ vàng, nhưng
nhà vua vẫn nhìn không lầm lộn là loại “kim tiền” làm ở Cao Ly và Vân Nam -
giấy màu xám, phẩm chất thô, có nhiều vôi - chỉ dùng trong hạng dân dã.
Nhà vua bần thần nghĩ ngợi. Một rung
động thoảng qua làm nhà vua tái mặt. “Nét bút này chẳng lẽ là của ta?”
- Bệ hạ thấy bức tranh đó thế nào?
Nhà vua chỉ loáng thoáng nghe mơ hồ
câu hỏi. Tâm trí nhà vua vẫn đắm chìm trong dòng suy tưởng. Ta có bao giờ dùng
loại giấy “kim tiền” này? Nếu không tìm ra giấy đời Tống, hiệu Đông Tân đường
làm bằng bẹ tre, thì ta dùng giấy của đất Sở, Hồ Bắc. Mà bức tranh này, nếu
đúng là ta vẽ, thì ta đâu đã vẽ hoàn tất?
Tiếng vị sư già như gió thoảng bên
tai:
- Bần tăng nhớ hồi xưa, cách đây gần
bốn mươi năm về trước, người vẽ nên bức tranh này đã nói như sau: Cái đặc biệt
ở tác phẩm này là “vô pháp” mà thành ra “hữu pháp”. Mực vẩy theo lối “bát mặc”,
tưởng là loạn mà không loạn. Đây là một trường phái riêng, vừa cổ kính như thời
gian đọng trên ngôi thành xưa rêu mục, vừa mới mẻ như giọt sương long lanh trên
đầu lá buổi sơ xuân... Hà... hà... hà... Người ấy cười vui khoái thích rồi tiếp
- Tuy thế... phải để ý, đằng sau những giọt sương kia, loáng thoáng ẩn hiện
vành trăng sơ huyền thăm thẳm và xa xôi...
Hoàng đế Mễ Sa sực tỉnh.
- Mảnh trăng? Đại sư nói mảnh trăng
nào?
Ngọn đèn mù u chợt tỏa sáng rộng dưới
tay nhà vua, ngài cố nhìn cho rõ bức tranh hơn tí nữa. Rõ ràng ở đây không có
mảnh trăng nào. Vậy đâu là mảnh trăng sơ huyền mà vị sư già nói đến?
Hoàng đế Mễ Sa như chợt sáng ý ra, gật
đầu:
- Đại sư nói phải! Ở tác phẩm này còn
thiếu một mảnh trăng. Thêm một mảnh trăng sơ huyền ẩn ẩn hiện hiện sau màn
sương, bức tranh sẽ tỏa sáng, có tư tưởng và tăng xúc cảm hơn.
Vị sư già dường như không nghe lời của
nhà vua, vẫn tiếp tục với chuỗi hồi ức quá khứ:
- Người vẽ là một nhà sư có tài cao
chí lớn. Tâm thì như chứa cả ngũ nhạc, mà trí thì như kình ngư biển lớn vùng
vẫy. Ôi! Nét bút của y mới tài hoa phong vận làm sao? Người xưa nói rằng, đọc
văn là biết người. Ở đây, ta có thể xem tranh và tinh thần của nó mà đọc ra
đường chỉ vận nghiệp duyên mai hậu. Bức tranh này: còn nghiệp chướng si mê, tù
trong lục đạo, trăm dây phiền não, nghiệp báo không rời. Bần đạo đã nói như thế
sau khi y phác thảo nên bức họa này. Và đây là lời nói của y như còn mồn một
bên tai: Hiền huynh! Tiểu đệ sinh ra trong một gia đình nghèo khó, lại đi tu từ
nhỏ, thành thử chuyện đời chưa từng biết qua. Như hiền huynh từng giáo dụ thì
chúng sanh, ai ai cũng phải trải qua những kinh nghiệm khoái lạc và đau khổ
trong ba cõi sáu đường rồi mới có thể giác ngộ. Vậy thì đệ nguyện kiếp sau sinh
làm hoàng đế để xem thử mùi vị cao sang quyền thế nó như thế nào. Nếu lúc ấy mà
đệ đắm say vào vinh hoa dục lạc, thì hiền huynh tìm cách nhắc cho đệ tỉnh thức
nhé! Hiền huynh ơi! Bức tranh này đệ vẽ đang còn dang dở. Giả như khi đó đệ vì:
tình ái si mê, tù trong lục đạo, trăm dây phiền não, nghiệp báo không rời...
thì hiền huynh nhớ đưa ra, không chừng đệ nhớ lại mà tỉnh ngộ cũng nên.
Hoàng đế Mễ Sa bàng hoàng. Ngọn đèn
trên tay rơi đổ xuống nền đất. Mảnh trăng sơ huyền từ trong bức tranh hiện ra
lấp lánh sau màn sương. Nhà vua đứng bất động.
Vị sư già thoáng nhẹ nụ cười trong
tối, tiếng nói bây giờ ấm và mạnh như một hồi chuông thu không:
- Tâu bệ ha! Vầng trăng đó đã chờ bệ
hạ gần suốt bốn mươi năm nay. Bần tăng nhớ lời hẹn ước xưa về đây lập thảo am
chờ nhân duyên để tái ngộ cố nhân! Con hươu sao hồi trưa là một chút phép mọn
của bần tăng, để dẫn dắt bệ hạ về đây xem lại tác phẩm của mình đang còn dang
dở!
Vị sư già dứt tiếng mà hoàng đế Mễ Sa
như còn miên man trong cõi mộng xa thẳm nào.
Sau khi thắp đèn, chuyên một tách trà
nóng ấm cho nhà vua, vị sư già lại thở dài:
- Ôi! Thoáng chốc mà chúng ta xa nhau
gần nửa thế kỷ rồi! Vật đổi sao dời, sinh sinh hóa hóa, chuyện xưa nào khác
giấc mộng đầu hôm. Chúng ta vốn là đôi bạn đồng đạo dưới chân ngọn Thiên Lĩnh,
nay thì kẻ là bệ ngọc mình rồng, người thì đang còn áo đà dép cỏ. Giờ đây, ước
nguyện làm hoàng đế đã thỏa chưa, hả cố nhân tài cao phong vận? Mảnh trăng sơ
huyền có bao giờ lặn khuất? Bệ hạ thấy thế nào? Ôi! Sá gì chiếc ngai vàng tanh
hôi danh lợi lẫn quyền uy sớm còn tối mất? Cát bụi trần ai hãy trả về cho cát
bụi trần ai! Khi cơ duyên chín muồi thì trái cây kia rụng xuống. Hãy tỉnh ngộ
đi thôi bệ hạ!
Đột nhiên, hoàng đế Mễ Sa rướn người
dậy, thò hai tay chụp vội bức tranh, chạy vọt ra rừng đêm mất dạng.
Vị sa-môn già nhìn đăm ra khung cửa
một lúc lâu rồi quay vào, thoáng đọng hai hạt sương không rơi trên khóe mắt.
Ngọn đèn mù u lụn bấc leo lét tàn. Vị
sư già lựa một thế ngồi thoải mái trên nệm cỏ, lưng dựng thẳng, môi thoảng nụ
cười xa rộng, rồi hơi thở cũng dường như chìm tan vào cõi mênh mông, hư tĩnh...
Mảnh trăng sơ huyền cong cong nằm
nghiêng bên cửa sổ từ từ khuất vào một đám mây.
Yên Hà các, Đạm Lư hiên 1980
( cùng viết với
Pháp đệ Pháp Tông)
Đạp Tuyết Tầm Mai
Buổi sáng mùa đông năm ấy, tu viện
Thiên Môn, phía Bắc thị trấn Odeti, chợt xuất hiện một người khách lạ. Không
biết y bao nhiêu tuổi nhưng nom đã già cỗi lắm. Lão vác một nhánh mai to nặng
và thò tay giật chuông cổng tu viện.
Lúc ấy tuyết đang rơi, đường sá phủ
từng đống tuyết tròn, nhấp nhô như mộ địa, không một bóng người lai vãng. Gió
tây bắc ào ào thổi qua, tung tuyết rát mặt. Trời nặng nề, đục, đầy vẻ hăm dọa,
có lẽ phải lạnh đến mươi độ âm.
Người khách trùm chiếc áo bông đã tang
thương và phong trần quá đỗi. Đôi ủng da cũng đã xác xơ và điêu linh như thế.
Không biết y đã dẫm qua bao nhiêu sông núi mới đến được nơi này.
Một nhà sư to, cao, cà-sa trùm kín
người, tay đung đưa chùm chìa khóa, dáng bực bội ra mở cổng tu viện. Y chững
lại. Ở đâu ra người khách kỳ quái này? Và nhành mai như thần thông diệu hóa thế
kia? Làm sao lại có được nhành mai đương độ khi tuyết băng như đang trùm lấp xứ
này, cây cối chỏng chơ những que cọng vươn lên từ biển tuyết thế kia thì chưa
hứa hẹn một mầm xanh nào cả. Giữa cái trơ trụi của mùa đông, nổi bật lên nhành
mai mơn nõn, điểm lác đác mấy nụ vàng tươi như thách thức và bỡn cợt với hóa
công! Người khách - cái lão già khú đế kỳ khôi này - rõ ràng là đang đứng đó
thôi: bất động, lạnh lùng, đôi mắt sáng đục, lờ đờ nhưng bình thản. Đấy là sự
nghỉ ngơi của con ngựa già dẻo dai, hiển hách sau chặng đường xa lao nhọc.
- Quý tôn ông hẳn là không gõ lầm cửa
đấy chứ ạ? Nhà sư dè dặt cất tiếng hỏi.
- Không lầm đâu. Người khách đáp -
giọng nhỏ, nhưng luồng hơi dường như đi xoáy vào tai.
Nhà sư biến sắc, giật lùi một bước,
lát sau mới trấn tĩnh lại:
- Xin cho bần đạo hay là vào tu viện
để gặp ai? Có việc gì?
Người khách như thoáng mỉm cười rồi
giọng nói như làn gió mùa thu mát mẻ:
- Nó như thế này - Khách nói như phân
trần - lão sẽ làm phiền nhà chùa một chút thôi. Đại đức ạ! Lão xin được cắm
nhành mai này vào một chiếc lọ
thích hợp, mà đúng là thích hợp đấy nhé - Lão nhấn mạnh rồi ngước nhìn trời -
Tiết dương nguyên cũng không còn bao chày, có một gốc mai đúng độ để nhà chùa
thưởng xuân, cũng là một nhã thú đấy chứ? Chẳng hay có trở ngại gì không ạ?
- Dạ không! Nhà sư vội đáp nhưng có vẻ
ngần ngừ - sao lại có chuyện kỳ lạ như vậy? Bần đạo có nghe lầm chăng? Có điều
kiện gì chăng?
Người khách lại tủm tỉm cười, cất
giọng dịu dàng:
- Đại đức ạ! Nếu đây là việc cúng
dường thì hẳn là tốt chứ?
- Đúng vậy. Nhà sư gật đầu - việc cúng
dường thì chẳng có gì trở ngại, mà lại rất quý báu nữa, thưa tôn ông!
Nói xong, nhà sư nhấc tay đẩy cánh gỗ
lim dày.
Hơn ai hết, nhà sư hiểu rõ giá trị của
nhành lão mai nọ, dẫu ngàn vàng cũng không mua được. Sau những ngày tuyết giá
là mùa xuân, nhưng mùa đông năm nay dường như kéo dài ra, hoa anh đào sẽ nở
muộn. Suốt cả vùng tây bắc này sẽ không có được một nụ hoa tươi. Tại chốn đế
kinh, mấy năm về trước, thiên hoàng cũng có được mấy cành do các nhà thương
buôn Trung Quốc mang đến phụng dâng, nhưng chắc là không thể sánh được với cỗi
mai tuyệt vời này. Người lựa chọn nó chẳng phải là một con người tầm thường.
Cành mai này thì bậc đế vương cũng ngoài tầm mơ ước. Cỗi mai xứng đáng để trong
một cái lọ cổ quý màu thanh ngọc điểm tuyết vân, đặt trên cái kỷ bằng gỗ trầm
hương, chẳng cần phủ gấm thêu chỉ vàng chỉ bạc. Được bình mai vô giá này, danh
tiếng nhà chùa sẽ lan tới chốn đế kinh, chắc chắn thiên hoàng sẽ tìm đến cùng
với thiên hậu, thứ hậu lẫn tùy tùng đông đảo. Và như vậy, nhà chùa sẽ có chút
bổng lộc, sống đầy đủ vài ba tháng. Ngoài ra, các tao nhân mặc khách tha hồ tìm
đến để ngâm vịnh, xướng họa. Thơ phú sẽ được trân trọng viết lên giấy bạch vân,
hoa tiên, xuyến chỉ, nguyệt cung điện... để chưng ở khách đường, viện trà, thư
hương quán... Mà hễ có tài tử tất có giai nhân - biết bao nhiêu là tía hồng
kiều mị lả lướt vào ra, đông vui như ngày hoa bướm hội.
Miên man suy tưởng, rạng rỡ nụ cười,
nhà sư đã dẫn khách đến Nghinh Phong đường hồi nào chẳng hay. Cả chùa đổ xô
lại, sửng sốt, hết nhìn khách lạ lại nhìn nhành mai: cành, nhánh phân bố hài
hòa, gốc to đen sần sù, gân guốc, bám đầy rêu đá. Đẹp như tranh!
Sư tri sự bước lại. Sau khi biết
chuyện, một chiếc lọ cổ được mang ra. Người ta chuẩn bị mọi thứ cho khách cắm
nhành mai vào đấy.
- Không được! Khách nói lớn giọng, dứt
khoát - Không thích hợp! Giọng oang oang đinh cả tai mọi người.
Nhóm thiền sinh hoảng kinh, dạt ra xa.
Sư tri khách lễ độ nói:
- Thưa tôn ông! Đây là cái bình cổ
nhất, quý nhất, đẹp nhất của tu viện.
Người khách có vẻ không muốn nhiều
lời, chỉ một mực lắc đầu. Một vài tiếng thì thào. Nhưng giá trị của cỗi mai bắt
người ta phải chiều lòng vậy. Rồi mấy chục chiếc lọ nữa được mang ra, khách vẫn
không vừa ý. Cả chùa đã tỏ ra bực bội vì sự khó tính này, một vài lời bất như
ý, phạm thượng đã nho nhỏ thốt ra.
- Có một chiếc lọ cổ - khách chậm rãi
nói - không quý lắm! Trên miệng bình đã sứt hai chỗ. Một to bằng đồng tiền có
phù điêu của Thánh đức Thái tử. Một to bằng miệng chung rượu niên đại Suy Cổ
Thiên hoàng. Men màu thúy lam, đôi chỗ lửng ửng màu hoàng yến; đường hoa văn
thủy tiên chạy chỉ thêu màu thanh thủy rạng...
Ai nấy đều ngơ ngác. Vài vị thượng tọa
niên cao, lạp lớn nhăn trán, nhíu mày. Chịu. Không ai biết ất giáp gì cái lọ
ấy.
Hòa thượng viện trưởng đang đọc sách ở
Thính Tâm đường sau khi nghe thượng tọa tri khách trình bày câu chuyện về người
khách, cỗi mai và chiếc lọ - Ngài vội buông sách, chụp vội chiếc gậy lê, không
kịp xỏ hài, đã như đám phù vân lướt nhanh ra phía trước.
Bốn tia mắt gặp nhau. Những ánh sao
loáng lên. Hòa thượng rùng mình. Không khí lặng yên, đọng lại. Đột ngột, hòa
thượng đọc to lên:
- Kỵ lư quá tiểu kiều
Cảm thương mai lạc hoa...
Lạ lùng thay! Đôi mắt khách chớp chớp,
thoáng mờ như hơi sương. Hai câu thơ kia được tiếp tục như gió xao qua ngàn
lau:
- Cổ nhân sầu bạch phát
Kỷ độ thủy lưu hà!”
Hòa thượng viện trưởng lắc lư như chao
sóng:
- Các con - Ngài cố dấu sự xúc động -
chiếc lọ cổ ấy các con không biết là phải. Đấy là di vật của tổ sư, ta cất giữ
kín đáo ở Tàng Vân các. Lão tôn ông đây không phải là người lạ. Tạm thời các
con ai về phòng nấy. Ta sẽ nói chuyện với các con sau.
Tổ sư khai sơn chùa Thiên Môn, vốn là
chưởng môn một tông phái võ học danh tiếng. Sau khi nghe pháp thấy đạo, ngài
biến võ đường thành thiền đường, lần lượt thụ giáo các cao tăng, sau đó thâu
nhận môn đồ cả tăng lẫn tục. Ngài chọn một con đường riêng biệt. Các đệ tử của
tổ sư phải trải qua một thời gian công phu khổ hạnh - về đạo, về võ học cũng
như văn chương, nghệ thuật... Có người đã đi những bộ môn chuyên biệt, nên sau
này ra đời, họ có thể xuống núi theo con đường tùy duyên hạnh nguyện. Đấy như
là thông lệ để gạn cát tìm vàng, đào tạo những bản lãnh tăng tài làm giềng mối
mai hậu cho cửa thiền.
Cứ mỗi năm giáp Tết, tổ sư cho sửa
sang quét dọn sau trước, đốt hương, xông trầm rồi chưng ở chiếc kỷ một bình
mai. Bên kia vách nứa thấp thoáng vài câu đối. Bên này vách nứa lấp loáng câu
thơ trên mảnh giấy “mộc vân”:
“Kỵ lư quá tiểu kiều
Cảm thương mai lạc hoa
Cổ nhân sầu bạch phát
Kỷ độ thủy lưu hà!
(“Cởi
lừa qua cầu nhỏ
Cảm
thương mai rụng hoa
Người
xưa sầu bạc tóc
Nước
chảy mấy thu là”!)
Bài thơ này được tổ sư chép ra từ bức
tranh thi họa ở chiếc lọ cổ - kể từ năm năm thứ nhất khi đợt đệ tử đầu tiên
xuống núi. Rồi năm năm thứ hai nữa qua đi, bài thơ cũ được viết lên trên giấy
mới, cành mai được lựa chọn công phu hơn, cành nhánh tỉa tót nghệ thuật hơn -
vẫn không có bóng dáng người đệ tử nào trở về!
Từ hai mươi tháng chạp, những năm
tuyết tan sớm, tổ sư thường đi vào cơn nhập định dài. Ngài ngồi trên nệm cỏ,
đôi mày bạc kéo xiên như hai vệt tuyết, vừng trán cao nhẵn bóng như vách đá cẩm
thạch. Bình mai bây giờ đã là một tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời. Bài thơ bây
giờ rõ là nét chữ đang muốn hóa rồng để bay lên mây xanh! Nhưng sự đón chờ
dường như đã mỏi mòn, chỉ có ngọn gió đông thì thào thoảng qua như cợt, như
trêu! Qua cánh cửa tròn nhìn ra vùng đồi nhấp nhô, những cánh đào bung lộc mởn,
lơ thơ mấy nụ “hồng vân sơn trà” ửng đỏ như điểm chu sa - tổ sư ngồi nhìn bất
động. Có lẽ nào tổ sư đang ngưng lắng cả thân tâm để phân biệt chiếc lá khô rơi
hay tiếng bước chân khe khẽ quen thuộc bên kia triền núi? Tổ sư có xả thiền vài
lần, chống chiếc gậy lê, lững thững cô liêu theo triền núi xanh sim dại, bóng
cắt giữa nền trời quạnh hiu. Tiếng chim núi hót vút lên không. Mấy con đường
mòn ngoằn ngoèo bò lên tu viện, heo hút. Vẫn không có một bóng ma nào!
Buổi giảng pháp đêm giao thừa, tổ sư
ngồi trên chiếc bồ đoàn, từ xa, phất tay áo rộng. Một làn gió quật tới. Chiếc
lọ cổ dường như được chà thành men láng. Màu thúy lam chợt sáng lên, hiện rõ
nét, linh động hơn, bức tranh: “Đạp tuyết tầm mai”.
- Các con hỡi! Giọng tổ sư thoảng như
tiếng gió lướt qua sơn khê hồ hải - Những huynh trưởng của các con thành tài,
xin xuống núi, thế là hơn mười năm rồi, không có ai trở lại. Thế là đã như ông
lão trong bức tranh kia, suốt bao ngày lặn lội, công phu tìm kiếm trên non cao
tuyết giá, lúc về làng, qua cầu, ngoảnh nhìn lại - thì nhành mai tuyệt đẹp chỉ
còn là nhánh củi khô!
Các con ơi! Đời tu hành lập nguyện đều
như thế cả. Mai này các con có xuống núi, thầy mong rằng được nhìn thấy chỉ một
cành mai nguyên vẹn cũng đã thỏa nguyện lắm rồi...
Tổ sư nói xong, thở dài, đưa mắt nhìn
đệ tử một lượt, đôi mắt vừa thẳm sâu, vừa thương bi khó tả. Đột nhiên, thân
không động, một làn khói vọt đi. Chỉ mấy thoáng nhấp nhô. Tổ sư đã đến vách đá
phía tây tu viện, hai tà áo không ngớt lay động, những mảnh bụi đá tung bay tào
rào... Sáng ngày, tuyết trong, nhật rạng, như chạm vào vách trời một câu thơ -
một vế đối - lạnh buốt cả hư không:
“Thiên hạ minh mông, vị tằng nhất hữu!”
(Thiên
hạ mênh mông rộng lớn, chưa từng có một (người đệ tử)).
Và ngạc nhiên xiết bao, bên cạnh đấy,
nét chữ sâu mạnh cũng một tám một mười, vế đối lại cũng hàm tàng mấy phần khẩu
khí:
“Môn
trung lạc bạc, hà dĩ duy vô!”
(Trong
cửa (chùa) đơn sơ, ít ỏi, (tuy thế), há lại không (có ai!)).
Rồi từ đó, cửa Thiền mất bóng vị đệ tử
trưởng tràng tài hoa. Y vì tự ái hoặc vì đau xót tâm sự bi thương của tổ sư mà
đã lặng lẽ vác lưỡi gươm Thiền đạo lên đường? Lời nguyền nơi vách đá không biết
có hổ thẹn với tuế nguyệt và trời cao?
Nhà tổ chỉ có hai người. Trầm hương ấm
cúng và man mác. Một loài chim tuyết lạc giọng kêu ở đâu đó. Gió thì thào ở rất
xa...
Chiếc lọ cổ được hòa thượng viện
trưởng đích thân mang ra. Đôi mắt khách lạ sáng lên rồi cúi xuống thò tay xoa
lớp bụi đục. Tranh là một ông lão cỡi la qua cầu, đằng sau là chú tiểu đồng vác
một cành mai, cuốn bụi chạy theo, hoa rơi từng đóa, từng đóa... Như gặp lại
hình ảnh giáo huấn đẹp đẽ đã quá lâu xưa, khuôn mặt khách toát ra niềm vui tĩnh
lặng. Nó như thoáng nắng mới hồng lên rồi tan nhanh giữa hư không - tan mà
không mất. Khách như trẻ lại hằng mươi tuổi.
Bình mai đã cắm xong, đầy tinh tế và
đầy trân trọng. Đặt đúng vào chiếc lọ này, cỗi mai như tăng thêm sức sống và sự
linh động. Vài hạt tuyết li ti còn dính ở đâu đó làm cho cành nhánh tươi mới
hẳn lên. Gió lất phất thổi qua. Không cần nắng ấm mà chỉ cần cành mai đơn sơ
mấy nụ, với một nghệ thuật vững chắc, mùa xuân thật sự đã về ở đây rồi!
Người khách đứng vòng tay, trầm mặc.
Lát sau, y bước tới bàn thờ tổ. Y quỳ rất lâu như hoàn toàn quên bẵng mình và
ngoại giới. Y như bỏ cả sông núi, phong trần bên ngoài chân trời, thu gói mình
lại trong không khí cô đọng, cổ xưa và thanh khiết.
Khi quay lại, như bước ra từ vùng
huyền hoặc khói sương, khách vươn mình đứng thẳng, dáng cao lênh khênh và cằn
cỗi như một lão bách tùng, khuôn mặt sáng rỡ bình an và đôi mắt như hai ngôi
sao lấp lánh.
Hoàng thượng Thiên Môn thân nổi gai
ốc, hai đầu gối như muốn khuỵu xuống.
- Hãy bình tĩnh! Hãy bình tĩnh! Giọng
khách rất dịu dàng, như đỉnh núi nói với ngàn dâu, như sự tịch lặng nói với
niềm xao xuyến - hòa thượng đã nhận ra ta, lão sư huynh bạc hạnh này. Dẫu bây
giờ ta đã không còn hổ thẹn với tổ sư xưa, nhưng ta... nhưng ta...
Khách chợt xúc động nắm bàn tay run
run của hòa thượng viện trưởng. Họ không nói được, chỉ nhìn lặng lẽ vào mắt
nhau. Họ dẫn nhau đến bàn trà. Cũng rất lặng lẽ.
Khách nhìn khắp liêu phòng, dừng lại
nơi mấy bức tranh, mấy bài thơ đã cũ vàng, trang trọng lồng trong những khung
hoa văn cổ kính - vẻ đăm chiêu. Hòa thượng nhỏ nhẹ nói:
- Mấy bài thơ, mấy bức tranh này là
bảo vật còn lại của tổ sư. Sau khi lão huynh xuống núi, tổ sư đóng cửa dạy môn
đồ. Thì giờ còn lại, tổ sư dành cho thiền định. Tổ sư không còn làm thơ, vẽ
tranh, cắm hoa hoặc bất kỳ một sinh thú chân tay nào khác. Tổ sư cũng không còn
thông lệ dạo chơi trên những ngọn đồi vắng hay ngồi bên bình mai vào mỗi độ
giáp Tết. Tuy thế, những hành tung của lão huynh, dầu tận chân trời cuối đất,
tổ sư vẫn biết rất rõ... Hòa thượng nghỉ một lát, định nói gì, lại thôi. Sau
đó, hòa thượng thở dài rồi tiếp - tổ sư tịch năm 845, khi Hoàn Vũ Thiên Hoàng
thiên đô từ Nại Lương về Kyoto năm thứ mười...
Hai tay khách nâng chung trà uống một
ngụm sâu, xoay xoay cái chung trong tay, trầm ngâm, rồi hỏi:
- Những huynh đệ của chúng ta và cả
vài thế hệ sau này nữa, có ai về núi đến không?
- Có, khá nhiều! À, nhưng mà không! Tổ
sư bảo là không có một nhành mai nào nguyên vẹn cả!
Khách mỉm cười xa xôi:
- Thế thì vế đối nơi vách đá của tổ
sư, vẫn là cái tiên tri đời đời vậy.
Hòa thượng móm mém nở nụ cười, nhưng
lại lắc đầu:
- Không phải thế, không hẳn là thế!
Còn nhành mai nguyên vẹn của lão huynh thì sao? Hà dĩ duy vô?
- Đấy cũng là mong ước của ta! Nhưng
mà không biết tỏ sư có chứng giám cho ta chăng? Cành mai kia không biết có phải
là cành mai nguyên vẹn như kỳ vọng của tổ sư chăng?
Hòa thượng Thiên Môn không biết nói
làm sao cả. Lời nói nào cũng chưa chắc đúng, đôi khi lại trống không, vô nghĩa
nữa. Cũng như thế hệ huynh trưởng đi trước, vị lão huynh này cũng mang đầy
nhiệt huyết xuống núi sống đời hạnh nguyện, tát nước bể đông, biến cải thế
gian. Y đã lao thân vào dòng, chẳng ngại gì những vùng nước xoáy. Cái bản lãnh
của y, lưỡi gươm chính khí của y đánh bại được cả những ma quân hung bạo nhất,
thế nhưng y đã không đánh bại được chính mình. Khoảng cách này là sợi tóc. Lộ
trình này là đi trên lưỡi dao cạo. Và thế là... trọn một đời tìm kiếm, hoạch
đắc, cái gia tài vô giá ấy đã rơi rụng xuống dọc đường, trên mọi nẻo tối tăm
của dục vọng và bản ngã... Nhưng mà vị lão huynh này đã trở về, thành khẩn trở
về... và ta đã thấy trong đôi mắt y có một nhành mai. Như vậy thì sự thất vọng
kia quan trọng hay sự giác ngộ khổ đau quan trọng hơn?
Chợt nhiên, một hình ảnh lóe lên từ
bức tranh cổ.
Cụ già ở đây hốt nhiên trắng bạc, da
mặt với những nếp nhăn nheo như sóng gợn, điệp điệp lên nhau thời gian và sinh
tử. Lưng lão cúi xuống, cong hơn, gót chân sây sứt máu, mồ hôi vã ra, rơi xuống
biển đen. Trăng trên cao lạnh lùng băng giá. Hoang mạc tiếp hoang mạc, sơn khê
tiếp sơn khê... Tất cả chúng đang chập chùng nhảy múa trong vô thức như những
ám ảnh trường đồ tại thế khổ nạn... Hòa thượng Thiên Môn rùng mình, thấy thêm
một mật ngữ của khổ đế trong bức tranh “Đạp tuyết tầm mai” mà vị lão huynh đã
chứng nghiệm bằng chính trái tim, hơi thở, bằng cả sự sống của một đời người.
Hòa thượng bần thần dã dượi. Khi ngước mắt lên thì khách lạ đã đi đâu mất. Ánh
trăng đêm đông về sáng lấp ló sau bức mành thưa. Té ra một đêm đã trôi qua.
Xung quanh cửa đóng then cài nhưng khách lạ đã biến đi như một trò huyền hoặc.
Hòa thượng khơi đèn. Trên bàn còn có
một phong thư với những nét chữ chưa ráo mực.
“Chỉ có đau khổ và sự giác ngộ đau
khổ. Không còn gì nữa hết. Không có gì đáng nói ở trong đời. Khi mặt trời đã
lên thì còn đâu nữa những ngọn đèn leo lét bên đường rọi tìm an lạc hay chân
phúc? Ta về đây không phải vì lời thề trên vách đá. Ta chỉ muốn đặt dưới chân
Tổ sư một cành mai nguyên vẹn mà thôi.”
Đọc xong, hòa thượng Thiên Môn tủm tỉm
cười. “Đúng như ta nghĩ là cành mai kia còn nguyên vẹn, nguyên vẹn và tươi đẹp
hơn cả ở đầu non, hơn cả trên băng tuyết! Nhưng mà lão huynh đã phải lặn lội
tìm kiếm lâu quá, lâu quá... Ồ, mà có hề gì đâu! Có kẻ suốt đời ướp trầm, xông
hương rồi chưng trên những chiếc bình trân quý mấy cành củi khô, hoa đã rụng
lâu rồi! Còn ta nữa, tám mươi năm qua, có lẽ nào ta cũng đã từng làm vậy?”
Một tình cảm mang mang len vào lòng.
Hòa thượng đứng dậy. Ánh trăng vẫn lạnh lùng bên bức mành thưa, sáng nhờn nhạt.
Một tâm hồn nào vòi vọi ở trên cao, sau mấy tầng mây khói? Một cơn gió thổi
mạnh. Một mảnh giấy chao động trước mắt. Hòa thượng bước lại. Đấy là một bài
thơ trên manh giấy “mộc vân” đã cũ. Bài thơ với nét chữ tài hoa hiện ra như một
trò ảo thuật. Bài thơ cũ, thêm hai câu mới, như mở ra một chân trời mới, rồi
khép lại đâu cũng ở cuối chân trời...
“Kỵ
lư quá tiểu kiều
Cảm
thương mai lạc hoa
Cổ
nhân sầu bạch phát
Kỷ
độ thủy lưu hà
Ngã
kim bạch vân quá
Không
xứ, vong cố gia!”
Tạm
diễn ý hai câu cuối:
“Quên
quê nhà, quên chốn
Ta
nay mây trắng qua.”
Hòa thượng sung sướng quá, buông rơi
ngọn đèn. Trước mắt, đám mây trắng và dòng nước xanh trôi chảy bình yên, thanh
thản. Và khách lạ đứng ở trên cao, mỉm cười dịu dàng, mảnh y bào phất phới. Sao
kết thành từng chuỗi, từng chùm bông trắng rơi tua tủa. Cỗi lão mai thò qua từ
sau hốc núi điểm lơ thơ mấy nụ vàng, nụ vàng kết thành đài sen. Và tổ sư tĩnh
tọa an nhiên, khuôn mặt vĩnh cửu và nụ cười hỷ hoan như chư Phật.
Say Hoa
Vào đời vua Trần Nhân Tôn, dưới chân
núi Thiên Thai có một nhà ẩn sĩ họ Khưu, tánh tình lập dị, không màng danh lợi
mà quanh năm chỉ say mê hoa kiểng.
Gia tài của cha mẹ để lại cũng có trăm
vạn, vài chục đám ruộng nhưng lần hồi Khưu ẩn sĩ bán sạch. Hễ nơi nào có giống
hoa quý, hoa lạ thì với giá nào chàng cũng mua cho bằng được. Không có tiền
mua, chàng đổi bằng của cải, tài sản. Chỉ non mười năm sau, nơi khu vườn của
chàng đã có hơn trăm loại phong lan, trăm loại thổ lan, ngoài ra các lại danh
hoa, danh mộc như trà mi, mẫu đơn, tảo mai, mộc cẩn, thục quỳ, oanh trúc... thì
thật không kể xiết.
Vào vườn, khách phải đi xuyên qua một
khu rừng trúc. Trúc cũng không phải là những thứ trúc tầm thường, mà được sưu
tầm từ các xứ xa xôi. Có những thứ trúc như tảo đằng, tuyết đầu, thiên bút, cao
phong, vân lôi... chàng phải đặt mua từ các dãy núi Thiên Sơn, Côn Luân tận cực
Tây Trung Hoa.
Qua khỏi khu rừng trúc, khách phải
dừng chân nơi một con suối thơ mộng. Ở đâu đó, nước rỉ ra từ những kẻ đá, trôi
lặng lờ trên mặt cuội trắng tinh rồi vỗ nhẹ lên mấy đám cỏ biếc nở hoa li ti
ngũ sắc. Cá lội từng đàn đủ màu, đủ vẻ, giỡn với những hạt bọt nổi phù du nom
thanh bình như giữa cõi bồng lai. Đứng mỏi, khách có thể ngồi trên những tảng
đá lưu niên cổ đại, tượng đứng, tượng ngồi, tượng nằm, sắc đá loáng thoáng rêu
đen, xám, nhợt nhờ sương nước như những bức tranh “vĩnh tịch”.
Qua suối, bên mép chiếc cầu đá cong
cong, ai đó viết nguệch ngoạc vài câu thơ không rõ nét, trông cũng phóng khoáng
và phiêu bồng quá thể. Trên một tảng đá dựng thẳng, cao hơn trượng, đầu xám
bạc, chân rêu xanh, nổi lên hai câu thơ, nét đại tự sắc mạnh như vệt đao chém
giữa hư không:
“Thiên
hạ hốt nhiên đại định,
Tứ
thời tịch mịch hoa khai!”
Chẳng có gì hay ở đó, đại ngôn và tầm
thường nữa, nhưng kể ra là có khí phách, ngang tàng một chút hoặc cuồng ngông
một chút thì cũng vậy. Nhưng đâu là cái đại toàn? Giữa cái tuyệt bích rơi xuống
một vài nét chấm phá thô tháo không tạo cho ta một vài cảm giác mạnh và đột
ngột hay sao?
Người ta thường gọi chàng là Khưu ẩn
sĩ, nhưng cái danh của chàng chơi hoa ở núi Thiên Thai đã làm rung động chốn đế
kinh và thu hút rất nhiều danh sĩ, đạo nhân, tao nhân mặc khách...
Hôm kia, qua chân núi Thiên Thai là
hai Tăng nhân bộ hành phong trần. Đến khu rừng trúc, họ dừng chân lại.
Một người nói:
- Cái thú say hoa kiểng thì thế gian
chỉ có Khưu ẩn sĩ là một.
Người kia đáp:
- Họ say hoa thì chúng ta say Phật.
Tục, thanh hay thoát tuy có khác nhau nhưng cũng là một cách say đó thôi!
Nói xong, y cười ha hả, giở chiếc nón
rộng vành bày khuôn mặt ốm thanh tú, đôi mày sắc và nước da sạm đen. Y còn rất
trẻ, tuy khoác chiếc áo nâu rộng đã bạc màu nhưng cũng không dấu được nét phong
lưu kỳ mỹ.
Người kia đã đứng tuổi, to lớn, cằm
vuông. Y nhăn mặt:
- Pháp đệ nói vậy không sợ giảm giá
trị của đạo ta xuống sao? Hoa mà dám ví với Phật sao?
- Có gì đâu mà Pháp huynh bảo là dám
và không dám?
Rồi tăng nhân trẻ chợt cao giọng:
- Phật là hoa. Hoa là Phật. Phật là
tối thắng hoa, diệu thắng hoa. Pháp huynh vì không thấy Phật nên không thấy
hoa. Hoặc giả, Pháp huynh bận đi tìm Phật nên chẳng thấy hoa bao giờ.
Tăng nhân đứng tuổi nhăn mày có vẻ
trách móc nhưng lặng lẽ nhẫn nhục không nói gì. Ngay khi ấy có tiếng reo từ
rừng trúc vọng lại:
- Hay lắm! Hay! Sư bác luận thế làm
cho kẻ quê mùa dốt nát này bái phục làm sao! Phật là hoa, hoa là Phật, hay lắm!
Câu nói vừa xong, thì một người gầy gò
mặc áo bào xanh chống gậy trúc sau vòm cây bước ra, dáng dấp tiêu sái, nhàn
thoát khó đoán nổi tuổi tác. Y cung hai tay lại, phong cách lễ độ vừa phải.
Vị tăng trẻ đáp lễ rồi hỏi:
- Ẩn giả là chủ nhân chốn kỳ hoa?
Người ấy là Khưu ẩn sĩ, cười đáp:
- Vâng, xin thưa, chữ chủ nhân kia chỉ
là lạm dụng, khiên cưỡng. Ai đòi làm chủ hoa thì kẻ đó khi mạn, thất lễ với
trời đất. Kẻ ngu hèn này đâu dám thế. Hoặc giả sư bác muốn chỉ dạy một bài học
về tâm pháp chăng?
Vị tăng lớn tuổi bây giờ mới quay lại,
chăm chú nhìn người lạ mặt một hồi:
- Quả thật danh bất hư truyền. Đúng là
phong độ cao nhân ẩn sĩ họ Khưu! Chúng tôi cam bề thất lễ. Nhưng bây giờ thì
xin cáo từ!
Vị tăng trẻ nói:
- Huyền Quang tôn giả có lễ chưa về
núi, hiện giờ đang còn ở Yên Tử cũng nên. Hay là, Pháp huynh à, chúng ta qua bộ
vào trong kia một lát cho mãn nhãn cái kiếp nhân sanh?
Vị tăng đứng tuổi hừm một tiếng:
- Hoa sắc, sắc hoa đều là hiện tướng
của ma quân! Pháp đệ hãy khá lưu tâm. Sinh tử là việc lớn, trăm năm nào có mấy
khắc, chớ có say mê hoa thơm cỏ lạ dọc đường để ngàn thu ân hận.
Khưu ẩn sĩ tủm tỉm cười:
- Mời quý sư ông, sư bác vào tệ xá
uống vài chung thanh trà lấy thảo. Huyền Quang tôn giả và ngu lão đây vốn có
tình quen biết, lúc nào đến Thiên Thai, đại sư cũng dừng chân ở đây giây lát để
ngắm hoa và thưởng trà.
Vị tăng trẻ nói:
- Vậy thì xin phép chủ nhân cho chúng
tôi được quấy quá.
Thế là vị tăng đứng tuổi đành miễn
cưỡng đi theo. Cảnh đẹp làm cho vị tăng trẻ phải ngẩn ngơ, thán phục. Qua cầu,
y dừng chân nơi hai câu thơ thật lâu rồi trầm trồ khen ngợi không hết lời. Vị
tăng đứng tuổi hừm một tiếng rồi xăm xăm đi trước.
Ôi! Thật là không thể kể xiết được
những kỳ hoa dị thảo ở khắp nơi. Trên cội cây, hốc đá, lối đi, bờ suối, triền
non... đâu đâu cũng trăm sắc nghìn vẻ. Lời đồn đại của thế gian là mười mà chưa
nói lên được một. Cảnh trí u nhã làm cho tâm hồn con người lâng lâng lắng dịu.
Chủ nhân và vị tăng trẻ có vẻ tâm đầu ý hợp nên trò chuyện huyên
thuyên...
Khi rời rừng hoa để bước vào Thảo nhai
đình, tức là chái mây nhô ra bờ vực làm nơi thưởng trà, vọng nguyệt, vị tăng
trẻ hốt nhiên ngâm mấy câu thơ lục bát với nhã ý tặng riêng Khưu ẩn sĩ:
Trần
gian một thoáng không dài
Có
khi mộng hóa, liên đài cũng nên!
Thềm
mây đọng bóng chơn thiền
Ai
ngờ tâm pháp một miền cỏ hoa!
Vị tăng đứng tuổi lòng ngổn ngang trăm
mối buồn phiền vì người Pháp đệ của mình. Vừa qua chung trà thứ nhất, y đã cất
giọng nói lớn:
- Chủ nhân có một đời sống thanh cao
lắm, nhưng dám xin thưa thẳng một điều: tự mình có một đời sống nhàn lạc ở nơi
góc núi đẹp như tiên cảnh này, danh lợi thị phi đắc thất dường như gió thoảng
ngoài tai, dẫu vậy, phải chăng cũng còn ở trong cái ngã ái chật hẹp lắm ư?
Ẩn sĩ họ Khưu mỉm cười mà rằng:
- Dạ phải, sư ông dạy chí phải!
Vị tăng đứng tuổi cười lạt:
- Khưu ông mang cốt cách, phong thái
của một dật sĩ, năm kinh ba giáo xem chừng cũng đã có ghé mắt xem qua. Vậy thì
lời dạy của thánh hiền phải chăng là sở đắc này: Một đời sống nhàn lạc riêng
tư, chật chội, phó mình buông trôi cho dòng chảy xiết “bộc lưu sinh tử”?
Ẩn sĩ họ Khưu cúi đầu nhũn nhặn:
- Dạ phải, sư ông dạy chí phải!
Vị tăng trẻ lấy làm khó chịu:
- Pháp huynh sao lắm lời đến thế? Mỗi
người ai chí nấy, nhân nào quả nấy, tâm nào cảnh nấy! Đức Thích Ca đại sĩ bao
nhiêu năm thuyết pháp mà không hề nói một chữ! Tu-bồ-đề im lặng thiền duyệt mà
chư thiên rải hoa! Tâm mà có thể nói được? Pháp mà có thể nói được?
Vị tăng đứng tuổi khuôn mặt thoáng rắn
lại, rồi chợt cười ha hả:
- Hay lắm! Cám ơn Pháp đệ đã thuyết
Bát-nhã tánh không cho ta nghe! Cám ơn Khưu ẩn sĩ đã cho bần tăng lãnh hội tri
kiến Pháp Hoa kinh. Thậm tri! Thậm tri! Vậy thì quý ngài cứ tâm đắc thù tạc,
cho bần tăng thất lễ kiếu từ.
Ân sĩ họ Khưu chợt nói:
- Xin sư ông nán lại một chút. Có mấy
đóa “bạch vân trà”, có lẽ vữa mới mãn khai. Đấy là loại tinh khiết, vương giả
giữa trăm hoa, không để cho sư ông thưởng ngoạn thì biết để dành cho ai nữa?
Nói xong, ông ta biến mất sau mấy cụm
bích đào, lát sau, mang ra một chậu trà mi trắng trang trọng đặt lên phiến đá
cẩm thạch.
Cả hai vị sư đều sửng sốt.
Trong chậu, mấy đóa trà mi trắng nõn
nường. Như lụa? Như thủy tinh? Như sương? Có lẽ chẳng phải thế! Nó như màu
nguyệt bạch hoặc như màu bạch ngọc nhìn qua làn trăng mỏng. Cũng không hẳn thế.
Thôi, chỉ diễn tả là đẹp lắm, đẹp tuyệt vời, đẹp không có gì sánh nổi, không có
cách gì mà dùng lời được. Từng cánh hoa cong cong xếp lại. Mỗi cánh là một nét
yểu điệu, mềm mại của vì tiên nữ. Ngoài ra còn có những đường vân tinh vi khi
ẩn khi hiện qua ánh sáng đã được chắc lọc tinh khôi, vô nhiễm...
Khưu ẩn sĩ nhìn đôi mắt sửng sốt của
hai vị tăng, y mãn nguyện, rung đùi ngâm:
- Tướng Phật, tướng hoa: vô nhị tướng!
Tánh hoa, tánh Phật: bản lai đồng!
Vị tăng trẻ cũng nhã hứng, thốt lên
một cách sảng khoái:
- Biệt biệt, nhất trần vô cá biệt!
Khán hoa kiến Phật, liễu vô cùng!
Khưu ẩn sĩ đứng dậy cung tay hoan hỷ
tán thưởng. Vị tăng đứng tuổi chép miệng, chặt lưỡi, ngó lên trời than dài:
- Ôi! Đảo điên đến thế là cùng! Pháp
lộn tâm! Tâm lộn pháp! Chẳng hiểu đầu đuôi gốc ngọn ra sao mà dám xem Phật, hoa
là đồng đẳng! Khán hoa là kiến Phật! Ôi! Than ôi! Phật pháp suy vi đến thế là
cùng! Kẻ học Phật thời nay ngông cuồng đến thế là cùng! Ôi! Than ôi!
Bí Mật Võ Đạo
Tajima lấy tấn, loang kiếm một đường
theo thế Yogo rồi thu kiếm đứng bất động giữa làn mưa tuyết. Mắt y nhòa đi
nhưng óc y tỉnh thức cao độ. Y bắt đầu thực hành yếu chỉ nhập môn thượng thừa
tâm pháp: Chuẩn bị đi vào trạng thái này là loại bỏ các tư niệm, tạp niệm, để
tâm trôi chảy thong dong như đám mây mùa hạ, như dòng nước mùa xuân...
Bóng người in giữa ánh tuyết mang
đường nét cô đơn và vĩnh cửu như bức tranh chấm phá của một họa gia Sumiye.
Tuyết vẫn rơi từng hạt như bông. Tajima vẫn đứng tịch nhiên như đã hóa thạch.
Cây cối trút hết lá, chơ vơ như nhìn ngắm nỗi phế hưng cô liêu của trời đất.
Những đám mây thấp, đục, ùn ùn từ đỉnh Phú Sĩ sơn kéo về phương đông. Trời lại
nổi gió.
Bấy giờ là vào tiết đại hàn, khô se,
lạnh.
Phật giáo kể từ hời Đức Khâm Minh
Thiên hoàng, thế kỷ thứ VI, có mặt ở xứ sở này, đã hiển lộ sinh lực vĩnh cửu
của nó bằng tất cả những nét quang minh rực rỡ. Ngót một thiên niên kỷ, từ giới
quý tộc cho đến lớp sĩ phu, đại chúng, đã thấm nhuần giáo lý trí tuệ và từ bi
cao cả này, nên mọi sinh hoạt tinh thần và vật chất của xã hội đều được thăng
hoa. Tuy thế, sự thăng hoa đúng độ phải được kể từ thời triêu dương của Thiền
tông, tức là khoảng đầu của thời đại Kiếm Thương, tiền bán thế kỷ VII
đến tiền bán thế kỷ XIV. Và cao độ của nó thì được tỏa rạng từ một chân
dung: Tukuan đại sư, hậu bán thế kỷ XVI.
Người ta bảo rằng: “Cùng tức biến,
thịnh tức suy”. Phật giáo quý tộc ở giai đoạn này được quá nhiều ưu đãi của
triều đình đã trở nên mục ruỗng vì danh lợi, quyền lực, kéo theo cả tòa nhà
Phật giáo nguy nga đồ sộ sắp bị sụp đổ. Khắp nơi, khó tìm ra một bậc xuất gia
phạm hạnh đúng nghĩa. Tăng chúng thì vợ con hầu thiếp đùm đề hoặc bước
vào những phạm vi sinh hoạt không phải là của mình. Nhãn hiệu Thiền tông được
treo la liệt từ núi non đến thành thị, những bảng hiệu quảng cáo rẻ tiền mà
thực chất là chốn chợ búa đổi lợi, mua danh! Cung đình trụy lạc, tranh giành
phe nhóm, quyền lực, bè đảng là một số tăng sĩ đã lỡ bán linh hồn cho quỷ!
“Phật giáo luôn luôn tự cứu mình!” Đấy
là chân lý được rút ra từ lịch sử. Nên một đêm kia, có một nhà sư xuất hiện ở
cửa thành tây, đột nhập vào hoàng cung lấy đi ba mươi cái thủ cấp. Trong đó có
hai mươi quan đại thần, năm vị hòa thượng, một hoàng hậu và bốn cung nữ. Mấy
hôm sau, lãnh chúa các phương dấy loạn. Lại một lần nữa, một nhà sư, với hành
tung kỳ bí, trong bốn đêm lấy thêm tám thủ cấp của tám vị lãnh chúa cát cứ tám
phương! Cả nước rợn người, tóc dựng ngược. Thế là chấm dứt loạn lạc. Dường như
sau đó mấy năm, vua, quan, tăng sĩ sáng hôm sau ngủ dậy thường đưa tay sờ lên
cổ mình, xem thử cái đầu có còn ở đấy hay không!
Đêm tối qua đi, trời lại sáng, Phật
giáo bắt đầu chấn hưng. Tăng sĩ được tuyển chọn bằng cách thi cử, phát nguyện.
Loại bỏ bớt những hình thức được xem như là ngoại đạo, tà giáo. Kinh điển được
kết tập lại.
Phong trào đang rầm rộ ở khắp nơi thì
ở núi Tỷ-duệ, đông nam Kyoto, bỗng xuất hiện một nhà sư to lớn, mặc y đỏ chói
màu san hô, tự xưng là hậu thân của đại sư Truyền Giáo (Deng-yô-daisi), vốn là
vị khai sơn Thiên Thai tông của núi này. Nhà sư giảng đạo suốt sáu tháng, không
ăn, không ngủ, chỉ ngồi thiền và uống nước lạnh. Người ta đồn rằng, như loài
chúa của muôn thú, với tiếng rống của sư vương, nhà sư với uy lực dõng mãnh của
kiến thức lẫn sở chứng đã làm cho cử tọa thính chúng bủn rủn, tê liệt... Tư
tưởng các giáo phái đối lập, sai khác đều chợt bị rã tan hoặc lung lay tận nền
móng. Cao tăng, danh sĩ bốn phương trời đổ xô đến luận tranh, tham vấn, cầu
đạo..., nhưng đột nhiên, nhà sư lại biến mất, kéo theo ba mươi người đồ đệ.
Người ta ghép các dữ kiện lại với nhau
rồi nhất quyết khẳng định rằng, nhà sư xuất quỷ nhập thần lấy thủ cấp bao người
và nhà sư giảng đạo sáu tháng không ăn không ngủ, chỉ là một. Và ba mươi người
đồ đệ đi theo chẳng phải là để được truyền tâm ấn Phật học, mà chắc chắn là chỉ
vì bí kíp võ học mà thôi!
Bí kíp võ học lại càng lôi cuốn tâm
địa con người hơn. Ai ai cũng mong muốn mình có được một phần nào bản lãnh thần
sầu quỷ khốc của nhà sư vô danh kia. Thế là một cuộc lên đường chưa từng thấy
trong lịch sử võ học bắt đầu...
Tajima vốn là thanh niên đệ nhất kiếm
thủ ở Kyoto sau lần tuyển chọn cuối năm tại các võ đường, dĩ nhiên chàng cũng
bị cuốn theo lớp sóng tràn tìm về núi Tỷ-duệ, với chí nguyện lớn là sẽ khuôn
phò xã tắc bằng tay kiếm của mình. Đêm kia, sau khi lạc mất toán người bí mật
trong thung lũng Nưu-dực hiểm trở, sáng ngày, chàng lần mò qua Tây Lũng đạo,
một sơn đạo cheo leo hiểm trở, và bắt gặp một chuyện kỳ bí lạ lùng. Ở Đây,
Tajima chứng kiến một trận đấu kinh hồn giữa chừng năm mươi tay kiếm thủ, gồm
cả tăng lẫn tục nhưng đều được hóa trang một cách khéo léo. Họ đang giết nhau
để tranh giành một mảnh cà-sa đẫm máu. Người cuối cùng được sống sót, dĩ nhiên
là tay đại bản lãnh nhất trong bọn, lấy được bí kíp võ học rồi vọt đi như giông
như gió. Tưởng thế là xong, ai ngờ một chiếc bóng như tự trời sa xuống, thò
chiếc gậy trúc cản đường lại...
Cả hai đứng sững nhìn nhau.
Tajima cũng nín thở hồi hộp theo dõi.
Kẻ chiếm được manh áo cà-sa trùm mặt
bằng vuông vải đen, để lộ hai tia mắt loang loáng. Kẻ thò cây gậy trúc cản
đường là một nhà sư phong trần, rách rưới, râu tóc tua tủa, sau vai đeo một đãy
ta bà.
- Buông kiếm xuống, sư đệ! Và hãy
quăng luôn cái manh áo cà-sa kia xuống vực thẳm. Máu đã đổ quá nhiều rồi. Hãy
theo ta về núi mà sám tội đi thôi!
Giọng nhà sư nghiêm lạnh mà vẫn đầy vẻ
thiết tha từ ái. Nhưng kẻ bịt mặt hừ một tiếng khô khốc, đi liền với thế kiếm
kinh hồn, trong một lúc phủ chụp, uy hiếp, tấn kích luôn mười trọng huyệt. Nhà
sư thoáng tái mặt nhưng rồi đã chậm rãi, bình thản bước tới một bước, bước lui
hai bước, bước phải một bước, bước trái một bước là đã tránh khỏi dễ dàng những
tử chiêu của đối phương.
Nhà sư giọng cũng không lớn hơn, cũng
không nhỏ hơn.
- Buông kiếm xuống, sư đệ! Dẫu sư đệ
đã thay đổi rất nhiều võ học của sư môn, dẫu sư đệ có thông minh và tế vi cách
mấy khi tấn, tảo, chiết, chuyển, nhưng chỉ cần một căn bản của bộ vị không thay
đổi là ta cũng nhìn rõ gốc nguồn. Giọng nhà sư chợt thiết tha hơn - Sư đệ ơi!
Sư đệ nỡ lòng nào phản bội di huấn của tổ sư? Nỡ lòng nào sắt đá trước cảnh đầu
rơi máu chảy? Chỉ vì một khởi niệm bất thiện, môt khát vọng mưu đồ là tay sư đệ
đã chàm đen mấy lớp? Đã đọa sa mấy tầng địa ngục?
Kẻ bịt mặt cất tiếng cười man rợ. Kiếm
lại nhoáng lên. Kiếm lại vụt tắt. Cây gậy trúc của nhà sư chậm rãi chập chờn di
động, mà cũng dường như bất động giữa hư không - đã là bức tường kiên cố bất
khả xâm phạm! Nhà sư nói như ngâm:
-
Dẫu sát nhất miêu,
Không cứu vạn thử!
Dẫu cứu vạn thử
Không sát nhất miêu!
Ai làm hề!
Ai chịu hề!
Ta giết!
Kiếm trên tay tên bịt mặt bối rối,
lúng túng rồi dừng tắt vĩnh viễn. Và Tajima, có lẽ suốt đời chàng cũng không
quên được thảm cảnh hãi hùng. Tay kiếm bịt mặt đứng sững như trời trồng, tròng
mắt trắng dã lồi ra, biểu hiện một ngạc nhiên cao độ. Ôi! Khó mà có thể thấy
được nhà sư sử dụng cây gậy trúc như thế nào? Động hay bất động? Cho đến khi
tên kiếm thủ chết đã lâu mà bóng cây gậy trúc vẫn nằm giữa hư không, nguyên chỗ
cũ như chưa hề di động bao giờ!
Nhà sư cúi xuống, quăng cả người, cả
manh áo cà-sa xuống vực thẳm rồi lướt đi như vệt khói.
Tajima bây giờ mới thở ra nhè nhẹ.
Chàng lặng người đến không còn cảm giác nữa. Chàng đâu có ngờ rằng võ học có
thể bước đến những chân trời như vậy!
Như sực nhớ ra, chàng lần xuống vực
thẳm. Ngạc nhiên làm sao, chỉ thấy xác tên kiếm thủ, nhưng không tìm ra manh áo
cà-sa. Vung vãi xung quanh chỉ có mấy tờ kinh rách nát, số mất chữ, số nhòe
nhoẹt. Những phần đọc được, Tajima cố chắp lại với nhau. Cuối cùng chàng cũng
mơ hồ hiểu rằng, đây là yếu quyết của một môn võ thượng thặng. Chàng bèn tìm
đến một nơi khuất tịch để luyện tập.
Nhưng bao tháng bao ngày chàng cũng
không đi lọt qua
cửa. Tâm ý cứ qua lại lăng xăng. Nó chẳng “thong dong như đám mây mùa
hạ, như dòng nước mùa xuân”. Nếu có yên lắng thì cũng không ở trong trạng thái
từa tựa như yếu chỉ: “Hành giả phải tức khắc thấy rõ các trạng thái đồng dạng ở
nơi thân và ở nơi tâm. Thân bất động không phải là tâm bất động và ngược lại.
Coi chừng một tâm lý mỏng như màn sương hiện lên ở đây. Nó biến cảm thức thành
đối tượng và đối tượng thành cảm thức. Dường như không còn năng, sở, chủ và
khách, nhưng trạng thái ấy không phải là bất động. “Bất động” phải là trạng
thái cao nhất của “sinh động”. Nó chuyển động quanh trục của một tâm điểm
“không hề dao động”. Ở đây, nó tỉnh thức và bén nhạy như một tấm gương phản
chiếu. Hình ảnh nọ kế tục hình ảnh kia, trong sáng, rõ ràng và không lầm lộn.
Bất động chẳng phải là một sinh thể vô hồn; có thể là vô tâm, vô niệm nhưng
không phải là hư vô trống rỗng. Vô hay hữu đều là chướng ngại che mờ giác
tánh”.
Tajima lại thở dài. Thật khó mà lãnh
hội điều đó bằng tri thức. Nhưng nếu không thể lãnh hội bằng tri thức thì lấy
gì để thể nhập, để biến thành khí huyết, để thông vận tự nhiên như hít thở khí
trời?
Và chàng chợt đâm ra hoài nghi: đây là
yếu quyết võ học hay là yếu chỉ Phật học?
Tajima chống kiếm, ôn nhẩm lại: “Thế
nào là động mà bất động? Hãy nhìn bánh xe quay quanh trục xe, bánh xe chuyển
động mà trục xe bất động. Cũng vậy, phải bám trụ vững chắc, kiên định vào một
tâm điểm. Tâm điểm này muốn gọi là Phật địa, chơn địa, tuệ địa hoặc danh từ gì
tương tự như thế, trước khi ứng xử, tiếp vật, đón đỡ, ghi nhận các pháp từ thế
giới xung quanh đến với ta. Bất động không phải là cái để tìm kiếm, bắt nắm. Nó
là cái để mà liễu tri, giác hiểu. Tâm điểm bất động này nó không ở ngoài, không
ở trong. Không phải hữu thức, chẳng phải vô thức. Chẳng thể nói có, chẳng thể
nói không. Không nỗ lực, chúng tác ý và biến hóa. Không lộ diện, chúng hiện
hữu, chi phối và quyết định tức thời, phản ứng đúng lúc. Nó làm cho dòng vận
chuyển được liên lỉ và làm cho sinh lực chảy trôi không gián đoạn. Chính ở đây
ta chiếm thế thượng phong, tuyệt đối quyết định trò chơi sinh tử! Ôi! Rõ ràng
bài tâm pháp đã ở ngoài sự lãnh hội thông minh nhất. Càng nghe, càng rối; càng
thực hành, càng loạn. Động mà bất động? Bất động mà động? Bất động mà tỉnh thức
chứ không phải là cái ngưng đọng vô tri, đối lập với dòng vận hóa. Nhưng ở đây
sao lại là: “Sự vắng bóng tuyệt đối của hữu thức, của ý tưởng, của tư niệm?”
Tại sao lại thế được? Và tại sao lại
như tấm gương trong sáng, chụp bắt (thủ) và buông xả (xả) là hai tác động đồng
thời, không gián cách, không thời gian? “Nó ở trong khoảnh khắc sinh và diệt
của ý giới nhưng ý giới không phát lộ được y. Nó nắm ý giới như người kỵ sĩ lão
luyện cầm cương ngựa trên đường thiên lý. Đây chính là tâm điểm, từ đó khởi
sinh sự tinh nhuệ, mẫn tiệp, sự linh hoạt cần thiết nhất định. Nó động, ta
động. Nó tịnh, ta tịnh. Không trước ý, ta biết hoàn toàn (toàn giác). Không
khởi động, ta làm chủ nó.”
Tuyết bắt đầu rơi nặng hạt. Tajima đưa
mắt nhìn về cổ trấn Osaka, con sông Yodo như chìm trong biển sương mù. Mây, bầu
trời, sông nước là một. Tuy là một nhưng nó hàm tàng sinh hóa. Chính là sinh
hóa. Yếu chỉ chính là điều này chăng?
- Nó là cái một tâm điểm từ đó phát
sinh vạn hữu. Tâm là chủ, là nội công ? Pháp là ngoại giới, là ngọn, là chiêu
thức?
- Càn thỉ quyết! (que cứt khô)
Ai mà mở giọng khinh bạc đến thế? Ngạc
nhiên, Tajima quay lại. Trước mắt chàng là một du tăng, áo phanh hở ngực đầy
lông lá; chiếc nón mê rách tả tơi không gói kín chỏm tóc muối tiêu. Bầu rượu
(có lẽ là bầu nước chứ) treo toòng teng trên đầu gậy trúc. Đôi hài cỏ xơ xác
như vừa qua những chặng sơn khê hồ hải. Râu ria tua tỉa. Và đặc biệt là nụ cười
toe toét phô hàm răng trắng ngọc hiền lành.
Tajima nhìn sững. Y có phải là nhà sư
đã hạ sát tên kiếm thủ bằng thế trúc bất động kỳ dị hôm ở Tây Lũng đạo? Nhưng
trông y sao lại có vẻ phong trần hơn và hiền lành hơn?
Nhà - sư - gậy - trúc - bây giờ ta gọi
thế - mắt chợt nhấp nháy, bước tới một bước, bước lui hai bước, một tay chỉ
trời, một tay chỉ vào bụng mình, nói như ngâm:
-
Lòng tuyết rơi
Cô liêu đời kiếm sĩ
Bóng một Phú Sĩ sơn
Ngủ quên trong hạt bụi
Đứng đây chi?
A! Kỳ lạ! Tajima thầm nghĩ. Xem bộ
pháp thì đúng là Nhà - sư - gậy - trúc, nhưng phong thái và lời thì đúng là
nhân vật truyền thuyết: Tây Hành đại sư - kẻ đã có công sáng tạo một thể thơ
vượt mọi khuôn thước, tiền thân của thơ Haiku mà sau này trở thành sở đắc của
Ba Tiêu. Dòng suy tưởng của Tajima vẫn không gián đoạn. Hơi thơ được đi ra một
cách tự nhiên, dường như chưa qua sự khúc xạ của trí óc. Y muốn dẫn dụ điều gì?
Nghĩ gì nói nấy, một cách vô tâm (mushin) của Đạt Ma? Một cách vô niệm (muga)
của Huệ Năng?
Nhớ đến thế trúc nơi Tây Lũng đạo dạo
nào, Tajima cung tay tham bái:
- Bạch đại sư! Xin ngài hoan hỷ chỉ
giáo cho thế nào là động mà bất động? Bất động mà động?
- Tầm bậy. Nhà sư huơ gậy trúc lên
cười to - Ai biết gì chúng nó. Và biết làm gì. Hãy nghe thơ đây:
-
Tuyết rơi nhiều
Chân ta về mây trắng
Mùa thu bay!
Thực tại nào bất động ở đây? Tuyết?
Chân ta? Mây trắng? Mùa thu? Tất cả đều chuyển động. Phải chăng chẳng thể có
cái bất động? Sự vĩnh cửu của một hạt tuyết, một đám mây chỉ là một cái nhìn
đầy khinh bỉ phóng rọi vào sự chuyển dịch tử sinh của hiện tượng giới đấy thôi.
Tìm một tâm điểm bất động để trú vào đấy là một nỗ lực vô ích và phù phiếm thế
nào!
Nhà - sư - gậy - trúc nở nụ cười méo
mó vẻ nhạo báng, tháo bầu rượu (có lẽ là bầu rượu rồi) tu một hơi, khà thành
tiếng:
-
Một bầu rượu,
Trăm năm say mộng hóa
Giọt đang rơi!
Tajima dở khóc, dở cười. Nó chẳng liên
hệ gì câu hỏi của chàng. Lời thơ tuôn phát ra, có thể là một thực thể vừa bước
ra từ lòng tuyệt đối, từ cái tâm linh sâu thẳm nào đấy, nhưng có ích gì cho
chàng? Dẫu nó có là thực tại, là tài hoa thì vẫn toát ra cái gì là tự ngã, kênh
kiệu và đa tri.
Khi Tajima vừa quay lưng bước đi thì
một hạt rượu rơi bắn vào huyệt kiên tĩnh. Một cảm giác tê rần khó chịu lan
nhanh trong tủy sống. “Bị y điểm huyệt rồi”, chàng thầm nghĩ. Nhưng chẳng biết
y có giết ta không? Nghĩ đến cái thế trúc bất động nơi Tây Lũng đạo, chàng lại
rùng mình. “Sát nhất miêu, cứu vạn thử”; hay y đã biết ta xuống vực sâu lấy “bí
kíp”?
-
Cuộc đời ôi!
Lang thang gió bụi
Hư không ôi!
Còn ta trần trụi,
Gậy trúc về
Đâu nguồn, đâu cội?
Nhà – sư - gậy – trúc hát to như ngâm,
chốc chốc vẳng lại nụ cười cô đơn và xa vắng. Có đúng y là Tây Hành đại sư?
Nhưng mà... sao vậy kia? Tây Hành đại sư vốn là một cao thủ tuyệt vời của triều
đình Kamakura, thế kỷ thứ XIV! Nhưng bây giờ năm nào? 1630! Ta còn tỉnh hay mê?
Ta cũng đang bị điểm huyệt đây!
Tajima lặng người, quay đầu lại. Hóa
ra chàng không bị điểm huyệt, tất cả đang bình thường. Hít một hơi cho đầy chân
khí, Tajima sải cước lực vân hành. Chàng cương quyết dò la tin tức của Nhà - sư
- gậy - trúc bí mật.
Đến cổ trấn Osaka thì trời tối đã lâu.
Tuyết ngập đường. Nhà nhà đóng cửa. Tajima thấy từ cuối đường, Nhà - sư - gậy -
trúc đang bước vào một căn lầu màu xanh, đèn leo lét tỏ. Tại sao y lại bước vào
đây? Tajima suýt nữa bật lên câu hỏi.
- Ai đấy? Tiếng từ trong vọng ra - Mùa
tuyết rơi, “lầu xanh” không nhận khách. Nếu là giang hồ võ đạo lỡ đường thì xin
ghé qua chùa Đa Môn, bảy dặm phía bắc thị trấn.
Tajima lần nhẹ đến, đôi mắt mở lớn cực
độ.
- Eguchi! Tiếng Nhà - sư - gậy - trúc
- Nàng còn nhớ đến tên võ tướng vô phước bạc hạnh cầm kiếm xuyên thủng trái tim
mình bên đền Quan Âm đại sĩ ở Kyoto?
Im lặng một lát.
- Saiyo! Là người đấy chứ? Tiếng thánh
thót trong như pha lê, cũng có thể như tiếng chim hót - Ngươi đã phủi bụi, đã
rời bỏ cõi ô trọc từ lâu, đã thành một cao tăng thạc đức, thành một thi tăng
nổi tiếng cửa thiền rồi đó chứ?
- Là ta đấy, Eguchi nàng hỡi! Ta là
cát bụi nên không bao giờ còn tan theo cát bụi. Cao tăng thạc đức, lãng đãng
phiêu bồng thi tăng, kiếm sĩ, tục khách đều có đủ ở nơi ta. Cũng như nàng vậy
thôi, gần hai trăm năm nay, nàng đã mười lần hóa thân làm kỹ nữ, nhưng đối với
ta nàng vẫn cứ là Quan Âm đại sĩ thuở nào!
Tajima hãi hùng, thò tay véo vào da
thịt mình. “Ta vẫn còn tỉnh đây! Ta vẫn còn sống đây!” - Tajima lẩm nhẩm.
- Saiyo! Hãy nghe đây! Giọng người con
gái bây giờ chợt trở nên oai nghiêm, sắc lạnh - Chuyển động và bất động hai
tướng bổn lai là không. Ta chuyển động mà bất động. Ngươi chuyển động mà chẳng
thể bất động. Ta có hóa thân mà không hóa thân. Ngươi hóa thân mà bị thân hóa.
Ngươi như hạt bụi tung vô định vào giữa cơn lốc xoáy của cơ, của cảnh, của
duyên, của nghiệp. Ngươi bị cuốn đi mù mịt. Tự do ở nơi ngươi là lớp ngụy trang
giả tạo, dối lừa được ai? Đức Thích Ca đại sĩ đêm ba canh nằm nghỉ nghiêng lưng
chưa được nửa canh, ngày sáu khắc không thèm sống tự do, tự tại. Ngài sống giữa
buộc ràng, câu thúc, lễ nghi, trang nghiêm thân, trang nghiêm giới để giáo hóa
sinh quần. Còn ngươi, hỡi Saiyo! Ngươi được mấy thành hỏa hầu? Cả thầy ngươi
cũng thế, gã Tukuan ở núi Tỷ-duệ hôm nào!
Chợt nhiên, người con gái cao giọng,
đầy uy vũ:
-
Kiếm tuốt trần
Và địa ngục
Hãy bước tới,
Không có ngoảnh đầu,
Rồi dưới chân, sen sẽ nở hoa!
Thơ của ngươi đấy, Saiyo! Và ngươi cứ
bước tới, thầy ngươi cũng vậy. Và địa ngục sẽ chờ đón các ngươi. Hoa sen sẽ
vĩnh viễn không nở trong lửa đồng sôi, mà nó vươn lên từ đống bùn ô trược. Nó
mọc đấy, nó vươn lên đấy. Còn ngươi là gì? Đừng đồng hóa bản năng và tự tại.
Đừng lấp lửng giữa hai bờ sinh tử. Mới uống vài ngụm mà tưởng là đã cạn được
dòng nước đầu nguồn. Hãy đi đi thôi! Hãy ra đi như hạt bụi và trở về như hạt
bụi. Ở đây không có chỗ cho ngươi!
Saiyo vẫn cứ léo nhéo cái giọng si
tình:
-
Eguchi nàng hỡi!
Khi tôi chưa bỏ cõi đời,
Tim nàng sao nên rắn?
Sao lại hắt hủi tôi,
Chỉ một đêm trần gian huyễn mộng!
Người con gái lầu xanh cũng đáp lại
bằng thơ:
-
Ngươi là cát bụi trần gian
Thì vẫn là cát bụi trần gian
Ta khuyên ngươi đừng hư tưởng
Đừng tâm niệm khăng khăng
Coi trần gian là huyễn mộng.
Cuộc đối thoại kỳ lạ chìm vào yên
lặng. Tajima như rơi hẫng vào một thế giới nào.
Khi Tajima ngước đầu lên thì Tây Hành
đại sư (Saiyo) không còn ở đấy nữa. Và căn lầu màu xanh như biến mất trong đêm.
Bây giờ thì chàng biết rõ nhà sư xuất
hiện cứu đời và nhà sư ở núi Tỷ-duệ chỉ là một, chính là Tukuan đại sư. Đây là
một cuộc hóa thân hay thị hiện thế nào đó do một cái nhìn sâu thẳm khôn dò từ
tâm linh thiền chứng. Sinh tử đối với họ là trò chơi. Dẫu chuyển động ba cõi
sáu đường với những sinh hoạt lăng xăng, nhưng bao giờ họ cũng trú nơi cái bất
động cao đại của chính mình, là thanh tịnh địa, Phật địa, giác tánh, như
chơn... Ôi! Cái mà Tajima tưởng là bí kíp võ học, chỉ là nội dung tâm pháp của
một thiền phái Phật học, nó không còn là thiền sơ thủy từ Đạt Ma lập cước từ
kinh Kim Cương hoặc như Hoa Nghiêm, Lăng Già của các tổ đi sau, mà đã được dung
nhiếp hoặc chắc lọc tinh hoa từ chư kinh, rồi biến nó thành ngôn ngữ, khẩu
quyết hay nền tảng thuyết lý cho một tông phái.
Ôi! Đâu là bến bờ của võ học và đạo
học? Hỏi vậy chứng tỏ ta bạc nhược kiến thức cùng sự nghèo nàn của tâm hồn.
Thiền treo lưỡi kiếm trên đầu ta, và ta bước tới. Không có vấn đề sinh tử lẫn
những tri thức phù phiếm ở đây. Một bước nhảy quyết định chẳng kể vực thẳm hay
hư vô. Lửa bốc cháy ngùn ngụt ở trong tâm, và chỉ có một hành động duy nhất là
xả kỷ. Chẳng có tí tẹo nào là tư dục và vị ngã. Thế là hoa sen nở trong lửa.
Tukuan đại sư là hiện thân cho những lý giải bá vơ này! Ngài nói bằng máu!
Chúng ta nói khô kiệt của tử thi. Những đệ tử của ngài, sau này, bước xuống
cuộc đời, chẳng phải bằng đôi cánh của thiên thần mà bằng sự trần trụi của con
người, bằng sự cô liêu từ sơ thủy; sẽ lang thang cùng với trời đất lang thang,
trên con đường cứu độ vô thủy vô chung...
Tajima sau đó mất tích. Rồi chẳng biết
có những tao ngộ thế nào mà chàng lại trở về kinh đô với mấy chục hiệp sĩ, dùng
tay kiếm vô địch lật đổ triều đình Đức Xuyên tướng quân. Chàng ở lại đấy, huấn
luyện cho chừng một trăm tướng quân, rồi lại biến mất, khoảng hậu bán thế kỷ
XVII.
Mấy chục năm sau, người ta nói rằng
chàng đã là một du tăng hành cước. Có lần chàng tìm đến căn lầu xanh thuở nọ; ở
đây, chàng chẳng gặp Tây Hành, chẳng gặp đức Quan Âm đại sĩ mà chỉ thấy một bức
tranh của Okyo Maruyana tạc hình đức Phổ Hiền hóa thân làm kỹ nữ; người kỹ nữ
này vì muốn bảo trọng danh dự cho Tây Hành nên đã từ chối một đêm huyễn mộng
của gã thi tăng lãng đãng này. Cuộc ứng đối năm xưa lại trở về với chàng. Rồi
đột nhiên, bức tranh biến mất. Và nhà sư này nghe tiếng vọng tự lưng chừng
trời, ngước lên thì thấy giữa hư không hiện ra một đường kinh hành bằng ngọc,
nằm vắt ngang như một dòng sông thủy ngân. Và bóng một người phụ nữ lướt nhanh,
từng đóa hoa trắng nối dài sau gót chân như những đốm sao. Tiếng nhạc bay bổng.
Bây giờ thì đức Phổ Hiền đang ngự trên con voi trắng có những tiên nữ tùy tùng
biến mất giữa đám mây lành rực rỡ...
Lên Non
Trên con đường mòn nhỏ dẫn vào khu
rừng u tịch, khi ấy vào khoảng giờ Thân, một kiếm khách giang hồ đang lê từng
bước chân khập khiễng ra vẻ không còn hơi sức. Trong ánh chiều tà, y cúi gập
tới đằng trước, bóng đổ dài theo vệ đường; tay trái chống lên đầu gối trái, tay
phải quài ra sau nắm chặt đốc kiếm; cứ thế, y tiến lên, chậm rãi, mệt mề...
Đến chân dốc đứng cheo leo cạnh chiếc
cầu gỗ mục, y dừng lại thở một hơi dài...
Đấy là một thanh niên cường tráng, vận
chiếc lam y đã thủng rách nhiều chỗ, đầu quấn chiếc khăn xanh lấm len những vệt
máu đã khô cứng. Trên khuôn mặt sạm đen phong trần, thanh tú, những vệt sây sứt
do đao kiếm còn hằn những nét chỉ đỏ, chợt ứa ra những giọt lệ nóng hổi. Y
khóc. Y khóc mà đôi mắt đen tròn đầy đặn không hề động đậy. Từng giọt, từng
giọt như được rỉ ra từ hai kẻ hở của một sườn núi yên lặng, bò qua má, xuống
cằm, từ từ qua cổ rồi len thấm vào vuông áo vải. Tay phải của thanh niên vẫn
không rời đốc kiếm, y chậm rãi quay lại rồi đứng bất động, đăm đăm nhìn vào
phương trời mù mịt dưới xa - nơi y đã đi qua - bây giờ chỉ còn bàng bạc trong
màu khói lam nhạt của chiều hôm.
Một cánh chim rừng từ tàng cây sanh
phủ dày bên bờ suối kêu chiêm chiếp rồi tung mình khuất sau rặng cây xanh. Cảnh
núi rừng trong buổi xế tà tịch mịch lạ.
Chợt có tiếng vó ngựa từ xa vọng lại.
Một chốc, từ cuối con đường dốc thoải, bóng con tuấn mã hiện ra, càng lúc càng
rõ nét. Trên lưng ngụa, một cô gái chừng hơn hai mươi tuổi, ngang lưng đeo một
thanh trường kiếm, dung mạo chim sa cá lặn. Người chưa đến mà tiếng nói đã vang
vang cả một triền thung lũng:
- Sư ca ơi.. Sư ca! Sao sư ca đành
đoạn bỏ tiểu muội mà đi! Sư ca ơi... sư ca!
Bóng ngựa lướt nhanh cuốn theo vó một
luồng bụi đỏ. Thoáng thấy thanh niên, cô gái buông lỏng dây cương, trong mắt
thoáng hiện nỗi vui mừng. Nàng nhảy xuống ngựa, nụ cười tươi như hoa:
- Sư ca! Sao sư ca nhìn sững tiểu muội
như thế? Sao sư ca bỏ đi mà không nói với tiểu muội một lời?
Thanh niên chẳng có một xúc cảm nào từ
khi cô gái xuất hiện. Những hạt lệ đã khô nhưng tròng đen vẫn giữ nguyên vị trí
không hề lay động. Một chiếc lá vàng nhỏ rơi xuống, chao lượn mấy vòng giữa
không gian rồi bám hờ trên vai áo, cũng yên lặng.
Cô gái quấn cương qua đầu con ngựa
bạch, vuốt lại chiếc khăn hồng, sửa lại đốc kiếm rồi khoa đôi hài nhung đỏ bước
lại gần.
- Tiểu muội đã ruổi ngựa mấy chục dặm
đường mới theo kịp sư ca. Lạy trời run rủi, chứ sư ca rồi như chim rừng hạc nội
biết đâu mà tìm!
Cô gái đứng dừng lại cách thanh niên
khoảng vài trượng.
- À! Sư ca bị thương ư?
Nàng chợt như hốt hoảng rồi tiếp:
- Ai? Ai có thể làm cho sư ca bị
thương? Tên đại ma đầu nào đã dùng độc kế ám toán sư ca?
Thanh niên không trả lời, tay phải của
y vẫn còn trong tư thế quài ra phía sau nắm chặt đốc kiếm.
- Rẹt...!
Một làn sáng xanh nháng lên, cô gái đã
rút kiếm ra khỏi vỏ, đôi mắt long lanh, miệng mỉm nụ cười dịu dàng:
- Sư ca ơi! Giang hồ từ các mạn sông
Hoài, sông Trường, cho chí Yên Kinh, Trường An, Giang Nam thường đồn đãi rằng:
Không kiếm Trấn ma Đỗ Đồng Triều chưa một lần đào thoát dù một phần sống, ngàn
phần chết. Thế thì hôm nay phải có sự bí mật nào nên sư ca mới bỏ chạy?
Thanh niên nhúc nhích tia mắt, bình
thản nhìn qua hướng cô gái, mấp máy môi trả lời:
- Ta không chạy. Ta đi!
Cô gái quay thanh kiếm một vòng trên
không, những ngón tay trắng hồng như búp sen khẽ nắm đầu mũi kiếm, cười nói:
- Ồ! Thế thì tiếng đồn quả đã không
ngoa! Sư ca ạ, sư ca đi, nghĩa là sư ca đã đơn thân đại thắng quần hồ?
- Ta không thắng!
Cô gái dùng ngón tay trỏ búng mũi kiếm
lên cao, thân kiếm lượn nửa vòng hình bán nguyệt, đốc kiếm rơi nhẹ nhàng vào
bàn tay phải của nàng.
- Sư ca bị thương khắp người như thế
thật là đau lòng tiểu muội lắm! Vô lẽ sư ca lại bại?
- Ta không bại!
Cô gái tròn xoe đôi mắt:
- Ồ! Có kỳ lạ không chứ? Giang hồ cũng
thường đồn đãi rằng: Không kiếm Trấn ma Đỗ Đồng Triều là một kiếm khách của
Phật môn, y không bao giờ nói dối!
Thanh niên vẫn đáp hờ hững:
- Phải mà. Ta không hề nói dối!
Cô gái đôi mắt long lên, chiếc hài
nhung đỏ bên phải chợt nhích tới, bước qua trái nửa bộ, tay trái quàng ra sau,
tay phải đưa mũi kiếm chênh chếch lên trời.
- Sư ca ơi! Điều này tiểu muội cũng có
nghe đồn, nhưng hôm nay mới được mục kích tận tường. Không kiếm Trấn ma Đỗ Đồng
Triều thường dùng bất biến mà ứng với vạn biến; tay phải y luôn hờm sẵn đốc
kiếm, tư thế dung mạo dường như buông thả hững hờ mà nội khí thường huân tụ cụ
túc ở thượng phần đơn điền; bao giờ y cũng là kẻ xuất chiêu sau mà chiếm thượng
phong.
- Phải rồi!!
- Bởi vậy tiểu muội cũng ngại lắm nên
thủ bộ trước.
- Thế là phải. Từ lúc hạ sơn đến nay,
ta chưa một lần chiếm tiên cơ của thiên hạ. Còn điều này nữa, ta tuyệt đối
không ra chiêu đối với sáu hạng người.
- Ồ! Vậy ư? Điều đó thì tiểu muội chưa
nghe được rõ ràng, phải tự miệng sư ca nói ra tiểu muội mới tin được.
- Thứ nhất là sa-môn và ni cô; thứ hai
là lão phu lão phụ; thứ ba là kẻ tật nguyền; thứ tư là đàn bà mang thai; thứ
năm là trai gái vị thành niên; thứ sáu là kẻ đã ngã ngựa...
- Ồ! Thật là bậc đại nhân đại dũng!
Tây Sơn Cuồng Khách Mạc Chấn Vi, Nam Nhạc Túy Tiên Lãng Thụy Ông mà còn phải hạ
kiếm nếu nơi nào có sự xuất hiện của Không kiếm Trấn ma thay; huống hồ gì tiểu
muội chỉ là một yêu nữ hồng quần tiểu tốt vô danh! Xin sư ca dong thứ.
- Khỏi. Ngươi cứ xuất chiêu đi!
- Sao sư ca lại nói thế? Tấm lòng của
tiểu muội đối với sư ca thế nào thì sư ca đã biết. Tiểu muội nào dám xuất chiêu
với sư ca. Tiểu muội chỉ đề phòng những khi sư ca hắt hủi tiểu muội mà ra đòn
thẳng tay bất ngờ đấy thôi. Sư ca ơi! Sư ca tệ bạc với tiểu muội lắm, sư ca
biết không?
Thanh niên im lặng.
Cô gái giọng nói càng lúc càng thê
lương:
- Sư ca bị thương, tiểu muội thấy mình
như đoạn từng khúc ruột, những muốn kề bên để han hỏi, lương liệu thuốc thang
mà sư ca cứ mặt lạnh như tiền, quả tim thì trơ trơ như đá. Vậy lỡ sư ca có mệnh
hệ nào thì tiểu muội đành ôm hận mà về chín suối thôi.
- Phải rồi! Ta bị cả hàng chục vết
thương, giờ không còn một chút khí lực nào. Ngươi có muốn giết ta thì ra tay
đi, vĩnh viễn ta chẳng đem lòng oán hận. Ngươi nói nhiều quá!
- Thế ư? Tiểu muội cảm nghe trong hơi
thở và giọng nói của sư ca có vẻ như là “trung khí bất túc”. Điều này chứng tỏ
sư ca bị cả nội lẫn ngoại thương, nhưng tại sao sư ca vẫn hờm sẵn đốc kiếm như
vậy?
Thanh niên cười rộ:
- Ồ! Ta có cố ý thủ kiếm đâu.
Cô gái có vẻ tức tối:
- Thế thì tay ai quài ra sau đốc kiếm
như thế?
- Tay ta chứ ai!
Cô gái hét lên:
- Trước mắt tiểu muội mà sư ca còn nói
dối đến mặt dạn mày dày thế ư?
Thanh niên chợt hú lên một tiếng dài,
khu rừng vang động không ngớt; những cánh chim chiều từ trong các lùm cây tán
loạn bay lượn tứ tung; chung quanh đấy khoảng vài trượng, lá cây rụng rã ào ào
như bị một cơn lốc bão.
- Hồng Diện Nương! Hồng Phấn La Sát!
Đỗ Đồng Triều này dù sao cũng là kẻ nam nhi trên đời, một lời nói ra xem nặng
bằng non, còn tin hay không tin đó là quyền của ngươi. Tiếng sư tử hống vừa rồi
là kết tụ của tất cả chân khí còn lại. Ngươi hạ thủ đi thôi!
Thấy thanh niên đã bị thương trầm
trọng mà còn thần oai lẫm lẫm như thế, cô gái không rét mà run. Khi thanh niên
cất tiếng hú thì cô gái đã hoành thân nhảy vọt ra xa, bây giờ đã trở lại.
- Tay sư ca rõ ràng đang thủ hờ đốc
kiếm mà sư ca cứ bảo rằng không. Tiểu muội chẳng dám trách ai mà chỉ tủi phận
mình đã chọn lầm thần tượng. Thôi, từ rày tiểu muội chẳng dám quấy rầy bậc quân
tử nữa! Giang hồ mênh mông ắt hẳn còn có ngày tái ngộ...
Cô gái nói xong, hạ thanh kiếm xuống,
cúi đầu theo tư thế “liên hoa nghinh Phật”, kiếu từ...
Thanh niên đôi mắt sáng rực như điện
rồi buông rủ xuống, lờ đờ, nói lớn:
- La sát yêu hoa tiễn! Hay lắm!
Thanh niên nói chưa dứt thì ba mũi ám
tiễn từ phía cô gái đã bay đến trước mặt nhanh như luồng sao xẹt, hướng đến các
trọng huyệt ở cổ và ở tay - những mũi tên đằng chuôi có đính những bông sen nhỏ
bằng lụa không ngớt rung rinh.
Cô gái phóng ám khí xong, nhún mình
một cái, người đã lạng ra xa, đứng vừa vặn trên một tảng đá cao.
- Sư ca ơi! Tiểu muội cung kính dùng
thế “liên hoa nghinh Phật” để dâng tặng sư ca ba đóa hồng liên, chứng tỏ tiểu
muội thương kính sư ca như thần như Phật, sao sư ca không hoan hỷ đưa tay đón
nhận mà lại bỡn cợt dùng nội lực hút dính vào người như thế? Sư ca coi thường
tiểu muội như thế thì thôi!
Khuôn mặt thanh niên thoáng chốc biến
đổi, nhưng y đã gượng lấy sắc bình thường rồi nói:
- La sát yêu hoa tiễn chỉ một vài khắc
là độc tố lan khắp cơ thể, chạy đến tim thì dù Biển Thước, Hoa Đà cũng không
còn cơ cứu vãn. Hồng Phấn nương tử! Ta tuyệt đối không thù hằn gì ngươi cả,
nhưng trước khi chết, ít nhất ngươi cũng cho ta hiểu rõ ngọn nguồn, tại sao
ngươi lại oán độc đối với ta lắm vậy?
- Sư ca nói thế thì thôi! Tiểu muội
đem lòng thương tưởng sư ca đã không hết thì có đâu lại để dạ oán ghét sư ca?
Tiểu muội trộm nghĩ rằng, sư ca là một kỳ nam tử, là một đóa hoa ưu tú trong võ
lâm, nếu không giữ sư ca cho riêng mình thì làm sao một nữ ma đầu như tiểu muội
lại tranh đoạt nổi với giang hồ, với những hạng thuyền quyên thục nữ trong đời?
- Vì vậy nên ngươi giết ta?
- Tiểu muội không giết. Tiểu muội
không hề giết sư ca. Giết sư ca thì tiểu muội làm sao còn sống được?
Thanh niên mỉm cười dịu dàng:
- Ngươi không giết ta thật, mà ngươi
chỉ phóng ba mũi tên kỳ độc vào cái thân “ngũ ấm vốn không” này thôi!
- Không phải mà! Sư ca nhạo tiểu muội
làm chi!
Thanh niên nghiêm trang nhìn cô gái,
buông từng tiếng một:
- Ngươi làm việc ác đức, ta ngăn.
Ngươi vì tình ái hoang dâm mà giết người vô cớ, ta cấm. Bao giờ ta cũng nhún
nhường, nhã nhặn tìm cách dẫn ngươi về với lương tâm, về với con đường phải.
Trong quãng đời hành hiệp, ta chưa một lần vô lễ với ngươi? Ở Trường An năm
xưa, đã hai lần ta cứu ngươi thoát khỏi bàn tay dâm đầu của Đại Diệu Thủ Phong
Tình Khách. Và không dưới bảy lần ta đưa ngươi ra khỏi sự vây bủa của Đông Hải
Triêu Dương Bang. Đã biết bao nhiêu lần ngươi gài bẫy ta phạm những giới cấm
của sư môn, dẫu thế, ta chẳng phiền trách gì ngươi mà chỉ tìm cách dẫn ngươi về
với chánh đạo...
Nghỉ một chút dường như để lấy lại khí
lực, thanh niên tiếp:
- Thế đấy! Hồng Phấn nương tử ơi! Dẫu
ở gần hay xa, dẫu ngươi tội lỗi nhiều hay ít, ta chưa bao giờ dám khinh ngươi.
Trong ta, không có oán ghét và thù hận... Thế mà... bây giờ ngươi lại giết ta.
Thanh niên nói một thôi dài, người y
cúi gập xuống. Thiếu nữ òa khóc.
- Sư ca ôi! Tiểu muội không giết, tiểu
muội yêu sư ca còn hơn là mạng sống của mình nữa!
Thanh niên thở ra, khuôn mặt ngả màu
tím đen, đôi mắt lờ đờ, miệng lẩm nhẩm:
- Phàm kẻ xuống núi hành đạo, trước
tiên là phải có kiếm, có ma. Thầy đặt Pháp danh cho con là “Không kiếm Trấn
ma”, có phải là để cho con ngộ được điều này: Kiếm tuy có mà cũng dường như
không, dùng tâm mà vệ đạo giáng ma chứ không phải dùng kiếm mà vệ đạo
giáng ma! Kiếm ấy chỉ là phương tiện hạ thừa. Bao nhiêu năm qua, kiếm này đã
coi như không, mà ma kia vẫn còn đó... Thế thì... Thế thì... Ta đã “Không kiếm
Trấn ma chưa?”
Một cơn gió núi lạnh lẽo lùa qua,
thanh niên đôi chân run run lảo đảo, nhưng y cố trấn tỉnh gượng đứng lại...
Chợt trong tiếng gió, y nghe rõ mồn một giọng nói khàn khàn, già nua:
- Không kiếm Trấn ma con! Không kiếm
Trấn ma chỉ mới là giai đoạn đầu tiên của một hành giả kiếm đạo. Cuối giai đoạn
ấy, con phải thật sự thấy rõ “kiếm đã không rồi mà ma kia cũng không!”
Thanh niên chợt ngửa mặt nói lớn giữa
hư không:
- Thầy ơi! Gần một năm nay con đã
không hề trả chiêu. Có kiếm mà cũng dường như không, có ma mà cũng dường như
không, vậy thì có phải...
- Thế thì ta sẽ cho con lên non. Lên
non để con có cơ hội thể nghiệm cái chặng đường cuối cùng của một hành giả kiếm
đạo: người cũng không!
Thanh niên chợt mỉm cười, vừa nói vừa
đổ ập chiếc thân về phía trước:
- Hay quá! Thầy ơi! Con đã được lên
non. Hay quá! Thầy ơi! Kiếm không, Ma không, mà Người cũng không!
Thiếu nữ chạy nhanh lại, nhổ mạnh mũi
ám tiễn ở ngực và cổ. Khi đưa tay ra định nhổ mũi tên ở cánh tay cầm đốc kiếm,
nàng sững lại: cánh tay thanh niên đã bị ai chém gãy rồi họ cột chặt vào đốc
kiếm bằng sợi gân tê ngưu.
- Ồ! Y đã không nói dối!
Cô gái òa khóc, rồi chợt hớt hải lần
tìm phương thuốc chữa thương. Núi rừng hoàng hôn đang đi vào sẫm tối.
(Tiếp
theo)