CHƯƠNG I
BA NGÔI CAO CẢ (TIYAGGA)
Đạo Phật có ba ngôi cao cả đó là:
Đức Phật (Buddha) - Đức Pháp (Dhamma) - Đức Tăng (Saṃgha)
Đức Phật (Buddha) là Bậc tự chính mình chứng ngộ chân lý Tứ
Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn trở thành bậc Thánh
Arahán đầu tiên trên toàn cõi thế giới chúng sinh, nên có danh hiệu Đức Phật
Chánh Đẳng Giác (Sammā-sambuddha) độc nhất vô nhị; rồi Ngài
thuyết pháp giáo huấn chúng sinh có duyên lành nên tế độ, cũng chứng ngộ chân
lý Tứ Thánh Đế y theo Ngài, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn tùy
theo năng lực ba-la-mật của mỗi chúng sinh.
Đức Pháp (Dhamma) là chánh pháp mà Đức Phật đã giác ngộ,
Ngài có khả năng đặc biệt chế định ra ngôn ngữ để giáo huấn chúng sinh cho hiểu
biết rõ và thực hành đúng theo lời dạy của Ngài; để đem lại sự lợi ích, sự tiến
hóa, sự an lạc trong kiếp hiện tại, những kiếp vị lai và đặc biệt đạt đến cứu
cánh Niết Bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam giới.
Chánh pháp có 10 pháp là:
- Pháp học (Pariyattidhamma).
- 9 pháp Siêu tam giới (Navalokuttaradhamma) (4 Thánh Đạo + 4 Thánh Quả +
1 Niết Bàn).
Đức Tăng (Saṃgha) là những bậc Thánh Thanh Văn đệ tử
của Đức Phật, đã thực hành đúng theo lời giáo huấn của Ngài, trở thành bậc
Thánh Nhân.
Trong Phật Giáo bậc Thánh Thanh Văn có 4 đôi thành 8 bậc Thánh (tính theo tâm
Siêu tam giới):
Bốn đôi: Thánh Đạo - Thánh Quả tương xứng
Nhập Lưu Thánh Đạo --> Nhập Lưu Thánh Quả
Nhất Lai Thánh Đạo --> Nhất Lai Thánh Quả
Bất Lai Thánh Đạo --> Bất Lai Thánh Quả
Arahán Thánh Đạo --> Arahán Thánh Quả
Tám bậc Thánh: 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả
Bậc Nhập Lưu Thánh Đạo (Sotāpattimagga)
Bậc Nhất Lai Thánh Đạo (Sakadāgāmimagga)
Bậc Bất Lai Thánh Đạo (Anāgāmimagga)
Bậc Arahán Thánh Đạo (Arahattamagga)
Bậc Nhập Lưu Thánh Quả (Sotāpattiphala)
Bậc Nhất Lai Thánh Quả (Sakadāgāmiphala)
Bậc Bất Lai Thánh Quả (Anāgāmiphala)
Bậc Arahán Thánh Quả (Arahattaphala)
Nếu tính theo Thánh nhân (Ariyapuggala)
Có 4 bậc:
Bậc Thánh Nhập Lưu (Sotāpanna)
Bậc Thánh Nhất Lai (Sakadāgāmi)
Bậc Thánh Bất Lai (Anāgāmi)
Bậc Thánh Arahán (Arahanta)
Trong Phật giáo, mỗi bậc Thánh Nhân là kết quả của những pháp hạnh ba-la-mật đã
được tích lũy từ nhiều đời nhiều kiếp trong quá khứ, cho đến kiếp hiện tại.
Trong những kiếp quá khứ, mỗi vị đã từng gieo duyên lành với Đức Phật quá khứ,
hoặc với chư Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Phật quá khứ.
Trong kiếp hiện tại, mỗi vị đến hầu Đức Phật, hoặc bậc Thánh Thanh Văn đệ tử của
Ngài, lắng nghe chánh pháp, rồi tiến hành pháp hành thiền tuệ, dẫn đến kết quả
chứng đắc thành bậc Thánh từ thấp đến cao tuần tự như sau:
Nếu bậc thiện trí phàm nhân tiến hành thiền tuệ, dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ
Thánh Đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo - Nhập Lưu Thánh Quả và Niết Bàn, trở
thành bậc Thánh Nhập Lưu, mới là bậc Thánh Nhân thứ nhất trong Phật giáo.
Nếu bậc Thánh Nhập Lưu tiếp tục tiến hành thiền tuệ, dẫn đến chứng ngộ chân lý
Tứ Thánh Đế, chứng đắc Nhất Lai Thánh Đạo - Nhất Lai Thánh Quả và Niết Bàn, trở
thành bậc Thánh Nhất Lai, mới là bậc Thánh Nhân thứ nhì trong Phật giáo.
Nếu bậc Thánh Nhất Lai tiếp tục tiến hành thiền tuệ, dẫn đến chứng ngộ chân lý
Tứ Thánh Đế, chứng đắc Bất Lai Thánh Đạo - Bất Lai Thánh Quả và Niết Bàn, trở
thành bậc Thánh Bất Lai, mới là bậc Thánh Nhân thứ ba trong Phật giáo.
Nếu bậc Thánh Bất Lai tiếp tục tiến hành thiền tuệ, dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ
Thánh Đế, chứng đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành
bậc Thánh Arahán, là bậc Thánh thứ tư cao thượng nhất trong Phật giáo.
Mỗi bậc Thánh Nhân đều chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế y theo Đức Phật chỉ dạy,
còn chứng đắc thành mỗi bậc Thánh nào, thì hoàn toàn do ba-la-mật của mỗi bậc
Thánh Nhân, do thời gian tạo pháp hạnh ba-la-mật khác nhau, năng lực của 5 pháp
chủ (tín, tấn, niệm, định, tuệ) khác nhau; do đó, mỗi bậc Thánh Nhân có
khả năng đặc biệt khác nhau. Song chư bậc Thánh Arahán đến khi tịch diệt Niết
Bàn, chấm dứt khổ tử sinh luân hồi đều giống hệt nhau.
Mỗi bậc Thánh Nhân đều chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế y theo Đức Phật chỉ giáo,
còn chứng đắc thành mỗi bậc Thánh Nhân như thế nào, nghĩa là trở thành bậc Thánh
Thanh Văn Giác hạng thường, hoặc bậc Thánh Đại Thanh Văn Giác,
hoặc bậc Thánh Tối Thượng Thanh Văn Giác, hoàn toàn do sở nguyện của mỗi
bậc Thánh Nhân đã phát nguyện, trong những kiếp quá khứ. Nếu Vị nào phát nguyện
trở thành bậc Thánh Đại Thanh Văn Giác hoặc bậc Thánh Tối Thượng Thanh Văn
Giác, thì cần phải có Đức Phật quá khứ thọ ký xác định mới thành tựu.
Mỗi Đức Bồ Tát Thanh Văn Giác đều có sự khác nhau về thời gian mau hoặc lâu để
tạo 10 pháp hạnh ba-la-mật:
1. Bố thí ba-la-mật; 2. Giữ giới ba-la-mật; 3. Xuất gia ba-la-mật; 4. Trí tuệ
ba-la-mật; 5. Tinh tấn ba-la-mật; 6. Nhẫn nại ba-la-mật; 7. Chân thật
ba-la-mật; 8. Chí nguyện ba-la-mật; 9. Tâm từ ba-la-mật; 10. Tâm xả ba-la-mật.
Do năng lực già dặn hoặc non yếu khác nhau của 5 pháp chủ (tín pháp chủ, tấn pháp
chủ, niệm pháp chủ, định pháp chủ, tuệ pháp chủ), khi chứng đắc thành
mỗi bậc Thánh Nhân, quý Ngài có khả năng đặc biệt khác nhau. Tuy nhiên, chư bậc
Thánh Arahán khi hết tuổi thọ tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt mọi cảnh khổ tử sinh
luân hồi trong ba giới bốn loài đều hoàn toàn giống nhau cả thảy.
ĐỨC PHẬT (BUDDHA)
I - Buddha nghĩa là gì?
Buddhā ti catusaccasambodhena Buddhā.
Buddha nghĩa là chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4
Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Nhân.
Trong bộ chú giải Udāna phân loại ra 3 hạng Buddha
Sāvakabuddha: Bậc Thánh Thanh Văn Giác.
Paccekabuddha: Đức Phật Độc Giác.
Sammāsambuddha: Đức Phật Chánh Đẳng Giác.
1- Bậc Thánh Thanh Văn Giác (Sāvakabuddha) là những Bậc
Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Phật Chánh Đẳng Giác, đã được lắng nghe chánh
pháp trực tiếp từ Đức Phật, hoặc các hàng Thanh Văn đệ tử của Đức Phật, rồi
tiến hành pháp hành thiền tuệ, dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc
4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh Thanh Văn Giác.
Thánh Thanh Văn Giác có 3 hạng
a) Bậc Thánh Thanh Văn Giác hạng thường (Pakatisāvaka) là Bậc đã
lắng nghe chánh pháp trực tiếp từ Đức Phật, hoặc từ các hàng Thanh Văn đệ tử
của Đức Phật, rồi đã thực hành đúng theo chánh pháp, nên đã chứng đắc thành bậc
Thánh Nhập Lưu, hoặc bậc Thánh Nhất Lai, hoặc bậc Thánh Bất Lai, hoặc bậc Thánh
Arahán. Những bậc Thánh Thanh Văn Giác ấy gọi là hạng thường, bởi vì quý Ngài
chỉ có diệt đoạn tuyệt được phiền não mà thôi, không có hạnh nguyện xuất sắc
nào trong các hàng Thánh Thanh Văn Giác.
Để trở thành bậc Thánh Thanh Văn Giác hạng thường này, vị Bồ Tát
Thanh Văn Giác ấy cần phải tạo đầy đủ 10 pháp hạnh ba-la-mật,
trong suốt thời gian dưới 100 ngàn đại kiếp trái đất(1 đại kiếp
trái đất: Trải qua thời gian 4 a-tăng-kỳ thành-trụ-hoại-không. Con số thời gian
không nhất định.) Gặp thời kỳ Đức Phật xuất hiện trên thế gian, hoặc thời kỳ
giáo pháp của Đức Phật đang còn lưu truyền trên thế gian; Vị Thanh Văn Giác Bồ
Tát hạng thường ấy được lắng nghe chánh pháp, rồi tiến hành pháp hành thiền
tuệ, dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả đến
bậc nào tùy theo năng lực pháp hạnh ba-la-mật của mình, đã tích lũy từ nhiều
kiếp trong quá khứ.
b) Bậc Thánh Đại Thanh Văn Giác (Mahāsāvaka) là Bậc đã lắng nghe
chánh pháp trực tiếp từ kim ngôn của Đức Phật, rồi đã thực hành đúng theo chánh
pháp, nên đã chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả trở thành bậc Thánh Arahán có
hạnh nguyện đặc biệt xuất sắc trong hàng Thánh Thanh Văn Giác.
Để trở thành bậc Thánh Đại Thanh Văn Giác, vị Bồ Tát Đại
Thanh Văn Giác ấy cần phải tạo đầy đủ 10 pháp hạnh ba-la-mật
trong suốt thời gian 100 ngàn đại kiếp trái đất. Vị Bồ Tát
Đại Thanh Văn Giác ấy chắc chắn đến hầu Đức Phật, trực tiếp lắng nghe chánh
pháp từ kim ngôn của Ngài, rồi tiến hành pháp hành thiền tuệ, dẫn đến chứng ngộ
chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành
bậc Thánh Arahán, khi Đức Phật đang còn trên thế gian. Mỗi bậc Thánh Arahán là
Đại Thanh Văn Giác, thường có hạnh nguyện đặc biệt xuất sắc nhất trong hàng
Thánh Thanh Văn Giác, do tiền kiếp đã phát nguyện và được Đức Phật quá khứ thọ
ký.
Đức Phật Gotama có 80 vị Thánh Đại Thanh Văn Giác.
c) Bậc Thánh Tối Thượng Thanh Văn Giác (Aggasāvaka) là Bậc đã lắng
nghe chánh pháp trực tiếp từ kim ngôn của Đức Phật, đã thực hành đúng theo
chánh pháp, nên đã chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành
bậc Thánh Arahán cao thượng nhất trong các hàng Thanh Văn Giác.
Để trở thành bậc Thánh Tối Thượng Thanh Văn Giác, vị Bồ Tát Tối
Thượng Thanh Văn ấy cần phải tạo đầy đủ 10 pháp hạnh ba-la-mật,
trong suốt thời gian 1 a-tăng-kỳ(Là thời gian không thể tính hay
đếm bằng số lượng, cứ vô số kiếp trái đất trải qua 4 thời kỳ
thành-trụ-hoại-không.) và 100 ngàn đại kiếp trái đất. Vị Bồ Tát Tối
Thượng Thanh Văn ấy chắc chắn đến hầu Đức Phật, trực tiếp lắng nghe chánh pháp
từ kim ngôn của Ngài, rồi tiến hành pháp hành thiền tuệ, dẫn đến chứng ngộ chân
lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc
Thánh Arahán có trí tuệ hoặc thần thông đặc biệt
xuất sắc nhất trong các hàng Thánh Thanh Văn Giác, khi Đức Phật đang còn trên
thế gian.
Bậc Thánh Tối Thượng Thanh Văn Giác đã thành tựu do tiền kiếp đã phát nguyện và
đã được Đức Phật quá khứ thọ ký.
Đức Phật Gotama có 2 vị Thánh Tối Thượng Thanh Văn Giác đệ tử là:
- Ngài Đại đức Sāriputta có trí tuệ đặc biệt xuất sắc nhất.
- Ngài Đại đức Mahāmoggallāna có thần thông đặc biệt xuất sắc nhất, trong các
hàng Thanh Văn đệ tử của Đức Phật.
2- Đức Phật Độc Giác (Paccekabuddha) là Bậc đã tự
mình chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả trở
thành Đức Phật Độc Giác, trong thời kỳ không có Đức Phật Chánh Đẳng Giác xuất
hiện trên thế gian, và cũng không có giáo pháp của Ngài.
Để trở thành Đức Phật Độc Giác, vị Bồ Tát Độc Giác
ấy cần phải tạo đầy đủ 20 pháp hạnh ba-la-mật: “10 pháp hạnh ba-la-mật bậc
thường và 10 pháp hạnh ba-la-mật bậc trung”, ít nhất trong suốt 2
a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất. Vị Bồ Tát Độc
Giác này sinh làm người trong thời kỳ không có Đức Phật Chánh Đẳng Giác xuất
hiện trên thế gian và cũng không có giáo pháp của Ngài. Vị Bồ Tát Độc Giác ấy
xuất gia, rồi tự mình tiến hành thiền tuệ, dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh
Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán
cũng là Đức Phật Độc Giác, mà không cần phải lắng nghe chánh pháp
từ một vị Thầy nào. Đức Phật Độc Giác có thể có hàng trăm, hàng ngàn vị cùng
trong một thời kỳ, nhưng mỗi vị đều do tự mình chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế.
Tuy Chư Phật Độc Giác đã chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, nhưng không có khả năng
chế định ra ngôn ngữ, để thuyết pháp tế độ chúng sinh để cùng chứng ngộ chân lý
Tứ Thánh Đế y theo các Ngài đã chứng ngộ.
3- Đức Phật Chánh Đẳng Giác (Sammāsambuddha) là Bậc
tự mình chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và
Niết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán, có danh hiệu là Đức Phật Chánh Đẳng Giác,
độc nhất vô nhị, trên toàn cõi muôn ngàn thế giới chúng sinh.
Đức Phật Chánh Đẳng Giác có 3 hạng
- Đức Phật Chánh Đẳng Giác có trí tuệ ưu việt nghĩa là trí tuệ của Đức
Phật có nhiều năng lực hơn đức tin và tinh tấn.
- Đức Phật Chánh Đẳng Giác có đức tin ưu việt nghĩa là đức tin của Đức
Phật có nhiều năng lực hơn trí tuệ và tinh tấn.
- Đức Phật Chánh Đẳng Giác có tinh tấn ưu việt nghĩa là tinh tấn của Đức
Phật có nhiều năng lực hơn trí tuệ và đức tin.
a) Để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác có trí tuệ ưu việt như thế nào?
Để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác có trí tuệ ưu việt, thì Đức Bồ Tát
Chánh Đẳng Giác ấy cần phải tạo đầy đủ 30 pháp hạnh ba-la-mật:
- 10 pháp hạnh ba-la-mật bậc thường (pāramī): Khi tạo pháp hạnh ba-la-mật
thuộc về sự hy sinh của cải, vợ con... bên ngoài thân mình, không liên
quan đến thân thể và sinh mạng.
- 10 pháp hạnh ba-la-mật bậc trung (upapāramī): Khi tạo pháp hạnh
ba-la-mật nào thuộc về sự hy sinh những bộ phận trong thân thể, không
liên quan đến sinh mạng của mình.
- 10 pháp hạnh ba-la-mật bậc thượng (paramatthapāramī): Khi tạo pháp hạnh
ba-la-mật liên quan trực tiếp đến sự hy sinh sinh mạng của mình.
Đức Bồ Tát ấy cần phải tạo pháp hạnh ba-la-mật trải qua 3 thời kỳ:
- Thời kỳ đầu: Đức Bồ Tát phát nguyện ở trong tâm, có ý nguyện muốn trở
thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác để mong tế độ chúng sinh, trong khoảng thời
gian suốt 7 a-tăng-kỳ kiếp trái đất, tiếp đến thời kỳ giữa.
- Thời kỳ giữa: Đức Bồ Tát phát nguyện bằng lời nói, để cho chúng sinh
biết ý nguyện muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác của mình, trong
khoảng thời gian suốt 9 a-tăng-kỳ kiếp trái đất.
Qua hai thời kỳ trên, Đức Bồ Tát vẫn còn là Đức Bồ Tát bất định
(Aniyata-bodhisatta) nghĩa là Đức Bồ Tát ấy có thể thay đổi ý nguyện
không muốn trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, chỉ muốn trở thành Đức Phật Độc
Giác, hoặc bậc Thánh Thanh Văn Giác mà thôi. Nếu như Đức Bồ Tát vẫn giữ ý
nguyện tiếp tục tạo pháp hạnh ba-la-mật, thì sẽ dẫn đến thời kỳ cuối.
- Thời kỳ cuối: Đức Bồ Tát được Đức Phật Chánh Đẳng Giác đầu tiên thọ ký
xác định thời gian còn lại là 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất
nữa thì sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi ấy, Đức Bồ Tát ấy sẽ trở
thành Đức Bồ Tát cố định (Niyatabodhisatta). Đức Bồ Tát
tiếp tục tạo cho đầy đủ 30 pháp hạnh ba-la-mật.
Trong suốt thời kỳ bồi bổ cho đầy đủ 30 pháp hạnh ba-la-mật, mỗi khi có Đức Phật
Chánh Đẳng Giác nào xuất hiện trên thế gian, Đức Bồ Tát ấy đều đến hầu Đức Phật
Chánh Đẳng Giác ấy, và được Ngài thọ ký xác định thời gian còn lại. Đến kiếp
chót, Đức Bồ Tát ấy chắc chắn tái sinh làm người, trong thời kỳ không có Đức
Phật nào xuất hiện trên thế gian. Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác ấy xuất gia, rồi
tự chính mình tiến hành thiền tuệ, dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng
đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán đầu tiên,
có danh hiệu là Đức Phật Chánh Đẳng Giác, độc nhất vô nhị, trên
toàn cõi muôn ngàn thế giới chúng sinh. Đức Phật Chánh Đẳng Giác có khả năng
đặc biệt chế định ra ngôn ngữ, để thuyết pháp tế độ chúng sinh có đầy đủ duyên
lành cũng chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế y theo Ngài, chứng đắc Thánh Đạo -
Thánh Quả và Niết Bàn, tùy theo năng lực ba-la-mật của mỗi chúng sinh đã tạo
trong những kiếp quá khứ và trong kiếp hiện tại này.
b) Để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác có đức tin ưu việt như thế nào?
Để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác có đức tin ưu việt, thì Đức Bồ Tát
Chánh Đẳng Giác ấy cần phải tạo đầy đủ 30 pháp hạnh ba-la-mật
giống như Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác có trí tuệ ưu việt, nhưng về thời gian
khác với Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác có trí tuệ ưu việt. Đức Bồ Tát Chánh Đẳng
Giác có đức tin ưu việt tạo pháp hạnh ba-la-mật trong mỗi thời kỳ có
thời gian gấp đôi thời gian của Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác có trí tuệ ưu việt,
nghĩa là:
- Thời kỳ đầu: Đức Bồ Tát ấy phát nguyện trong tâm, có ý nguyện muốn trở
thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, trong suốt thời gian 14 a-tăng-kỳ kiếp trái đất.
- Thời kỳ giữa: Đức Bồ Tát ấy phát nguyện bằng lời nói, để cho chúng sinh
biết ý nguyện muốn trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác của mình, trong suốt thời
gian 18 a-tăng-kỳ kiếp trái đất.
- Thời kỳ cuối: Đức Bồ Tát ấy được Đức Phật Chánh Đẳng Giác đầu tiên thọ
ký xác định thời gian còn lại là 8 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất
nữa, thì sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác.
Đức Bồ Tát ấy tiếp tục tạo cho đầy đủ 30 pháp hạnh ba-la-mật cho đến kiếp chót.
Khi Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác đã tạo đầy đủ 30 pháp hạnh ba-la-mật, đến kiếp
chót tái sinh làm người trong thời kỳ không có Đức Phật Chánh Đẳng Giác xuất
hiện trên thế gian, Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác ấy xuất gia, rồi tự mình tiến
hành thiền tuệ, dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo -
4 Thánh Quả trở thành bậc Thánh Arahán đầu tiên, có danh hiệu là Đức Phật Chánh
Đẳng Giác, độc nhất vô nhị, trên toàn cõi muôn ngàn thế giới
chúng sinh. Đức Phật Chánh Đẳng Giác thuyết pháp tế độ chúng sinh có đầy đủ
duyên lành cũng chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế y theo Ngài, chứng đắc Thánh Đạo
- Thánh Quả và Niết Bàn, tùy theo năng lực ba-la-mật của mỗi chúng sinh đã tích
lũy trong những kiếp quá khứ và kiếp hiện tại.
c) Để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác có tinh tấn ưu việt như thế nào?
Để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác có tinh tấn ưu việt, thì Đức Bồ Tát
Chánh Đẳng Giác ấy cần phải tạo đầy đủ 30 pháp hạnh ba-la-mật
giống như Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác có trí tuệ ưu việt, nhưng về thời gian thì
khác với Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác có trí tuệ ưu việt và Đức Bồ Tát Chánh Đẳng
Giác có đức tin ưu việt. Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác có tinh tấn ưu việt,
cần phải tạo pháp hạnh ba-la-mật trong mỗi thời kỳ có thời gian gấp đôi thời
gian của Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác có đức tin ưu việt, và gấp 4 lần thời gian
của Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác có trí tuệ ưu việt, nghĩa là:
- Thời kỳ đầu: Đức Bồ Tát ấy phát nguyện ở trong tâm có ý nguyện muốn trở
thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, trong suốt thời gian 28 a-tăng-kỳ kiếp trái đất.
- Thời kỳ giữa: Đức Bồ Tát phát nguyện bằng lời nói, để cho chúng sinh
biết ý nguyện muốn trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác của mình, trong suốt thời
gian 36 a-tăng-kỳ kiếp trái đất.
- Thời kỳ cuối: Đức Bồ Tát ấy được Đức Phật Chánh Đẳng Giác đầu tiên thọ
ký xác định thời gian còn lại là 16 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất
nữa, thì sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác.
Đức Bồ Tát này tiếp tục tạo cho đầy đủ 30 pháp hạnh ba-la-mật cho đến kiếp chót.
Khi Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác đã tạo đầy đủ 30 pháp hạnh ba-la-mật, đến kiếp
chót tái sinh làm người trong thời kỳ không có Đức Phật Chánh Đẳng Giác xuất
hiện trên thế gian, Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác ấy xuất gia, rồi tự mình tiến
hành thiền tuệ, dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo -
4 Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán đầu tiên, có danh hiệu là Đức
Phật Chánh Đẳng Giác, độc nhất vô nhị, trên toàn cõi muôn ngàn
thế giới chúng sinh. Đức Phật Chánh Đẳng Giác thuyết pháp tế độ chúng sinh có
đầy đủ duyên lành cũng chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế y theo Ngài, chứng đắc
Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn, tùy theo năng lực ba-la-mật của mỗi chúng
sinh đã tích lũy trong những kiếp quá khứ và kiếp hiện tại.
Đức Phật Chánh Đẳng Giác xuất hiện trên thế gian là một điều vô cùng hy hữu.
Thật vậy, theo lịch sử Đức Phật Gotama trong bộ Jinakālamālī và
bộ Chú giải Buddha-vaṃsa dạy:
Trong quá khứ, có khi trải qua thời gian 1 a-tăng-kỳ kiếp trái đất
thành-trụ-hoại-không mà không có một Đức Phật Chánh Đẳng Giác nào xuất hiện
trên thế gian gọi là Suññakappa nghĩa là trái đất không có Đức Phật Chánh Đẳng
Giác xuất hiện trên thế gian.
Thật vô cùng diễm phúc, trong kiếp trái đất mà chúng ta đang sống, có năm Đức
Phật đã tuần tự xuất hiện trên thế gian: Trong quá khứ Đức Phật Kakusandha, Đức
Phật Koṇāgamana, Đức Phật Kassapa đã xuất hiện; trong hiện tại Đức Phật Gotama
đã xuất hiện và đã tịch diệt Niết Bàn cách đây 2.548 năm, song giáo pháp của
Ngài vẫn còn được lưu truyền trên thế gian này cho đến 5.000 năm, rồi sẽ bị mai
một hoàn toàn trên cõi người. Khi ấy, không còn một ai nghe biết đến Đức Phật,
Đức Pháp, Đức Tăng nữa. Sau đó, trong thời vị lai, Đức Phật Metteyya sẽ xuất
hiện trên thế gian cùng trong kiếp trái đất Bhaddakappa này.
ĐỨC PHẬT GOTAMA
Hiện tại chúng ta đang sống trong thời kỳ giáo pháp của Đức Phật Gotama,
tuy Ngài đã tịch diệt Niết Bàn cách đây 2.548 năm, song giáo pháp của Ngài vẫn
còn lưu truyền trên thế gian cho đến 5.000 năm, mới bị mai một hoàn toàn, bởi
do các hàng Thanh Văn đệ tử không còn ai có trí tuệ giữ gìn duy trì giáo pháp
của Ngài được nữa.
Tiền kiếp của Đức Phật Gotama
Đức Phật Gotama là Đức Phật Chánh Đẳng Giác có trí
tuệ ưu việt, những tiền kiếp của Ngài là Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác,
trí tuệ của Ngài nhiều năng lực hơn đức tin và tinh tấn, cho nên thời gian tạo
30 pháp hạnh ba-la-mật của Ngài bằng một nửa thời gian của Đức Bồ Tát Chánh
Đẳng Giác có đức tin ưu việt, và bằng một phần tư thời gian của Đức Bồ Tát
Chánh Đẳng Giác có tinh tấn ưu việt.
Trong bộ Jinakālamālī và bộ Chú giải Buddhavaṃsa có giải
thích tiền kiếp của Đức Phật Gotama là Đức Bồ Tát tạo 30 pháp hạnh
ba-la-mật trải qua 3 thời kỳ:
Thời kỳ đầu: Thời kỳ Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm, có ý
nguyện muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác, để tế độ chúng sinh giải
thoát mọi cảnh khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài, trong thời gian
suốt 7 a-tăng-kỳkiếp trái đất.
Trong khoảng thời gian lâu dài vô số kể ấy, đã trải qua 125.000 Đức Phật tuần tự
mỗi Vị đã xuất hiện trên thế gian.
Thời kỳ giữa: Thời kỳ Đức Bồ Tát phát nguyện bằng lời nói,
để cho chúng sinh có thể nghe và hiểu biết rằng: “Đức Bồ Tát có ý nguyện muốn
trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác”, trong thời gian suốt 9 a-tăng-kỳ
kiếp trái đất.
Trong khoảng thời gian lâu dài vô số kể ấy, đã trải qua 342.000 (Theo Jinakālamālī
có 387.000 Đức Phật). Đức Phật tuần tự mỗi Vị đã xuất hiện trên thế gian.
Trong suốt hai thời kỳ đầu và giữa, Đức Bồ Tát vẫn còn là Đức Bồ Tát bất định
(Aniyatabodhisatta) có thể thay đổi ý nguyện, không còn muốn trở thành
Đức Phật Chánh Đẳng Giác, mà muốn trở thành Đức Phật Độc Giác, hoặc bậc Thánh
Thanh Văn Giác. Nếu Đức Bồ Tát vẫn không thoái chí, có tâm đại bi thương xót
chúng sinh, có ý nguyện muốn trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, để tế độ cứu
vớt chúng sinh thoát khỏi biển khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài, thì
Đức Bồ Tát tiếp tục tinh tấn tạo 30 pháp hạnh ba-la-mật bước sang đến thời kỳ
cuối.
Thời kỳ cuối: Thời kỳ Đức Bồ Tát được Đức Phật Chánh Đẳng
Giác đầu tiên thọ ký xác định thời gian còn lại 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp
trái đất nữa, chắc chắn sẽ là Đức Phật Chánh Đẳng Giác trong
thời vị lai. Khi ấy, Đức Bồ Tát trở thành Đức Bồ Tát cố định (Niyatabodhisatta)
tiếp tục tạo cho đầy đủ 30 pháp hạnh ba-la-mật cho đến kiếp chót.
24 ĐỨC PHẬT THỌ KÝ THEO TUẦN TỰ
1- Đức Phật Dīpaṅkara xuất hiện trên thế gian vào thời kỳ
con người có tuổi thọ khoảng 100 ngàn năm. Khi ấy, Đức Bồ Tát tiền thân của Đức
Phật Gotama là vị Đạo sĩ Sumedha đã chứng đắc các
bậc thiền hữu sắc và chứng đắc ngũ thông trong tam giới (Thần túc thông, nhãn
thông, nhĩ thông, tha tâm thông, túc mạng thông); Đức Bồ Tát Đạo sĩ Sumedha
đến hầu Đức Phật Dīpaṅkara và được Ngài thọ ký xác định thời gian còn
lại rằng:
“Trong thời vị lai, còn 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất nữa, Đạo sĩ
Sumedha này sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, có danh hiệu là Đức Phật
Gotama”.
Đức Bồ Tát Đạo sĩ Sumedha lần đầu tiên được Đức Phật Dīpaṅkara thọ
ký chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, Ngài vô cùng hoan hỷ. Bắt
đầu từ kiếp ấy về sau, Ngài là Đức Bồ Tát cố định, kiên trì bồi bổ 30 pháp hạnh
ba-la-mật cho đầy đủ và trọn vẹn, để mong chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng
Giác.
Đức Phật Dīpaṅkara thọ 100 ngàn tuổi, rồi tịch diệt Niết Bàn, và giáo
pháp của Ngài dần dần bị mai một hoàn toàn. Về sau, trái đất bị tiêu hoại và
sau đó thời gian 1 a-tăng-kỳ trải qua vô số đại kiếp trái đất
thành-trụ-hoại-không mà không có một Đức Phật Chánh Đẳng Giác nào xuất hiện
trên thế gian; những kiếp trái đất ấy gọi là Suññakappa (Kiếp trái đất
không có Đức Phật xuất hiện), mãi cho đến kiếp trái đất gọi là Sārakappa
mới có một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã xuất hiện trên thế gian.
2- Đức Phật Koṇḍañna xuất hiện trên thế gian, trong kiếp
trái đất gọi là Sārakappa, vào thời kỳ con người có tuổi thọ khoảng 100
ngàn năm. Khi ấy, Đức Bồ Tát tiền thân của Đức Phật Gotama là Đức Chuyển
Luân Thánh Vương Vijitāvī, đến hầu Đức Phật Koṇḍaṅna
và được Ngài thọ ký xác định thời gian còn lại rằng:
“Trong thời vị lai, còn 3 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất nữa, Đức Chuyển
Luân Thánh Vương Vijitāvī này sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, có danh
hiệu là Đức Phật Gotama”.
Đức vua Bồ Tát vô cùng hoan hỷ tiếp tục bồi bổ 30 pháp hạnh ba-la-mật. Về sau,
Đức Bồ Tát từ bỏ ngôi vua, đến hầu Đức Phật Koṇḍanna xin Ngài cho phép
xuất gia trở thành Tỳ-khưu trong giáo pháp của Ngài.
Đức Phật Koṇḍanna thọ 100 ngàn tuổi, rồi tịch diệt Niết Bàn, và giáo pháp
của Ngài dần dần bị mai một hoàn toàn. Về sau, trái đất bị tiêu hoại và sau đó
thời gian 1 a-tăng-kỳ trải qua vô số đại kiếp trái đất thành-trụ-hoại-không, mà
không có một Đức Phật Chánh Đẳng Giác nào xuất hiện trên thế gian. Mãi cho đến
kiếp trái đất gọi là Sāramaṇḍakappa mới có 4 Đức Phật: Đức Phật Maṅgala,
Đức Phật Sumana, Đức Phật Revata và Đức Phật Sobhita tuần tự
xuất hiện cùng trong kiếp trái đất ấy.
3- Đức Phật Maṅgala xuất hiện trên thế gian, trong thời kỳ
con người có tuổi thọ khoảng 90 ngàn năm. Khi ấy, Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức
Phật Gotama là Bàlamôn Suruci đến hầu Đức Phật Maṅgala
và được Ngài thọ ký xác định thời gian còn lại rằng:
“Trong thời vị lai, còn 2 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất nữa, Bàlamôn
Suruci này sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, có danh hiệu là Đức Phật
Gotama”.
Đức Bồ Tát vô cùng hoan hỷ tiếp tục bồi bổ 30 pháp hạnh ba-la-mật. Về sau, Đức
Bồ Tát Suruci đến hầu Đức Phật Maṅgala, xin Ngài cho phép xuất
gia trở thành Tỳ-khưu trong giáo pháp của Ngài.
Đức Phật Maṅgala thọ 90 ngàn tuổi, rồi tịch diệt Niết Bàn, và giáo pháp
của Ngài dần dần bị mai một hoàn toàn. Từ đó, ác pháp càng ngày càng tăng
trưởng, còn thiện pháp càng ngày càng suy thoái; do đó tuổi thọ con người càng
ngày càng giảm dần, giảm dần cho đến tột cùng chỉ còn 10 năm. Sau đó một thảm
họa khủng khiếp đã xảy ra, con người chém giết lẫn nhau vô cùng tàn khốc, không
phân biệt cha mẹ, con cái, anh em, bà con... một số người hoảng sợ chạy trốn
trong rừng núi thoát thân. Khi biết nạn chém giết không còn nữa, số người ấy
gặp lại nhau, cam kết không sát hại nhau nữa. Khi ấy, con người biết ghê sợ tội
ác, cố gắng tinh tấn tạo phước thiện; thiện pháp càng ngày càng tăng trưởng,
cho nên, tuổi thọ con người càng ngày càng tăng lên dần, tăng lên dần cho đến
tột đỉnh a-tăng-kỳ năm. Thời kỳ ấy, con người sống dể duôi, ác pháp phát sinh;
do đó, tuổi thọ con người lại giảm xuống dần, giảm xuống dần cho đến thời kỳ
con người có tuổi thọ khoảng 90 ngàn năm. Khi ấy, một Đức Phật xuất hiện trên
thế gian cùng trong kiếp trái đất Sāramaṇḍakappa ấy là.
4- Đức Phật Sumana xuất hiện trên thế gian, vào thời kỳ con
người có tuổi thọ khoảng 90 ngàn năm. Khi ấy, Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama
là Long Vương Atula đến hầu Đức Phật Sumaṇa và được
Ngài thọ ký xác định thời gian còn lại y như Đức Phật Maṅgala rằng:
“Trong thời vị lai, còn 2 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất nữa, Long Vương
Atula này sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, có danh hiệu là Đức Phật
Gotama”.
Đức Phật Sumana thọ 90 ngàn tuổi, rồi tịch diệt Niết Bàn, và giáo pháp
của Ngài dần dần bị mai một hoàn toàn. Từ đó, mọi hiện tượng xảy ra cũng giống
như sau thời kỳ Đức Phật Maṅgala tịch diệt Niết Bàn. Tuổi thọ con người
giảm xuống dần đến tột cùng chỉ còn 10 năm, rồi tăng lên dần đến tột đỉnh
a-tăng-kỳ năm, rồi lại giảm dần, giảm dần cho đến thời kỳ con người có tuổi thọ
60 ngàn năm. Khi ấy, một Đức Phật xuất hiện trên thế gian cùng trong kiếp trái
đất Sāramaṇḍakappa ấy là.
5- Đức Phật Revata xuất hiện trên thế gian, vào thời kỳ con
người có tuổi thọ khoảng 60 ngàn năm. Khi ấy, Đức Bồ Tát tiền thân của Đức Phật Gotama
là Bàlamôn Atideva đến hầu Đức Phật Revata và được
Ngài thọ ký xác định thời gian còn lại y như 2 Đức Phật: Đức Phật Maṅgala
và Đức Phật Sumaṇa rằng:
“Trong thời vị lai, còn 2 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất nữa, Bàlamôn
Atideva này sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, có danh hiệu là Đức Phật
Gotama”.
Đức Phật Revata thọ 60 ngàn tuổi, rồi tịch diệt Niết Bàn, và giáo pháp
của Ngài dần dần bị mai một hoàn toàn. Từ đó, mọi hiện tượng xảy ra cũng giống
như sau thời kỳ Đức Phật Maṅgala và Đức Phật Sumana tịch diệt
Niết Bàn. Tuổi thọ con người giảm xuống dần đến tột cùng chỉ còn 10 năm, rồi
tăng lên dần đến tột đỉnh a-tăng-kỳ năm, rồi lại giảm dần, giảm xuống dần cho
đến thời kỳ con người có tuổi thọ 90 ngàn năm. Khi ấy, một Đức Phật xuất hiện
trên thế gian cùng trong kiếp trái đất Sāramaṇḍakappa ấy là.
6- Đức Phật Sobhita xuất hiện trên thế gian, vào thời kỳ
con người có tuổi thọ khoảng 90 ngàn năm. Khi ấy, Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức
Phật Gotama là Bàlamôn Sujāta đến hầu Đức Phật Sobhita
và được Ngài thọ ký xác định thời gian còn lại y như 3 Đức Phật: Đức Phật
Maṅgala, Đức Phật Sumana và Đức Phật Revata rằng:
“Trong thời vị lai, còn 2 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất nữa, Bàlamôn
Sujāta này sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, có danh hiệu là Đức Phật
Gotama”.
Đức Phật Sobhita thọ 90 ngàn tuổi, rồi tịch diệt Niết Bàn, và giáo pháp
của Ngài dần dần bị mai một hoàn toàn. Về sau, trái đất bị tiêu hoại và sau đó
thời gian 1 a-tăng-kỳ trải qua vô số đại kiếp trái đất thành-trụ-hoại-không, mà
không có một Đức Phật Chánh Đẳng Giác nào xuất hiện trên thế gian. Mãi cho đến
kiếp trái đất gọi là Varakappa mới có 3 Đức Phật: Đức Phật Anomadassī,
Đức Phật Paduma và Đức Phật Nārada tuần tự xuất hiện cùng trong
kiếp trái đất ấy.
7- Đức Phật Anomadassī xuất hiện trên thế gian, vào thời kỳ
con người có tuổi thọ khoảng 100 ngàn năm. Khi ấy, Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức
Phật Gotama là Thống tướng Yakkha đến hầu Đức Phật Anomadassī
và được Ngài thọ ký xác định thời gian còn lại rằng:
“Trong thời vị lai, còn 1 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất nữa, Thống
tướng Yakkha này sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, có danh hiệu là Đức
Phật Gotama”.
Đức Phật Anomadassī thọ 100 ngàn tuổi, rồi tịch diệt Niết Bàn, và giáo
pháp của Ngài dần dần bị mai một hoàn toàn. Từ đó, mọi hiện tượng xảy ra diễn
tiến theo một chu kỳ tuổi thọ giảm-tăng-giảm cũng giống như Chư Phật quá khứ
sau khi tịch diệt Niết Bàn. Tuổi thọ con người giảm xuống dần đến tột cùng chỉ
còn 10 năm, rồi tăng lên dần đến tột đỉnh a-tăng-kỳ năm, rồi lại giảm dần, giảm
xuống dần cho đến thời kỳ con người có tuổi thọ khoảng 100 ngàn năm. Khi ấy,
một Đức Phật xuất hiện trên thế gian cùng trong kiếp trái đất gọi là Varakappa
ấy là.
8- Đức Phật Paduma xuất hiện trên thế gian, vào thời
kỳ con người có tuổi thọ khoảng 100 ngàn năm. Khi ấy, Đức Bồ Tát tiền kiếp của
Đức Phật Gotama là Sư tử Chúa đến hầu Đức Phật Paduma
và được Ngài thọ ký xác định thời gian còn lại y như Đức Phật Anomadassī
rằng:
“Trong thời vị lai, còn 1 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất nữa, Sư tử Chúa
này sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, có danh hiệu là Đức Phật Gotama”.
Đức Phật Paduma thọ 100 ngàn tuổi, rồi tịch diệt Niết Bàn, và giáo pháp
của Ngài dần dần bị mai một hoàn toàn. Từ đó, mọi hiện tượng cũng xảy ra tương
tự giống như sau thời kỳ Đức Phật Anomadassī tịch diệt Niết Bàn. Tuổi
thọ con người giảm xuống dần, giảm dần xuống đến tột cùng chỉ còn 10 năm; rồi
tăng lên dần đến tột đỉnh a-tăng-kỳ năm, rồi lại giảm dần, giảm xuống dần cho
đến thời kỳ con người có tuổi thọ 90 ngàn năm. Khi ấy, một Đức Phật xuất hiện
trên thế gian cùng trong kiếp trái đất Varakappa ấy là.
9- Đức Phật Nārada xuất hiện trên thế gian, vào thời
kỳ con người có tuổi thọ khoảng 90 ngàn năm. Khi ấy, Đức Bồ Tát tiền kiếp của
Đức Phật Gotama là vị Đạo sĩ chứng đắc các bậc thiền hữu
sắc và các bậc thiền vô sắc, có ngũ thông, đến hầu Đức Phật Nārada và
được Ngài thọ ký xác định thời gian còn lại y như Đức Phật Anomadassī và Đức
Phật Paduma rằng:
“Trong thời vị lai, còn 1 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất nữa, vị Đạo sĩ
này sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, có danh hiệu là Đức Phật Gotama”.
Đức Phật Nārada thọ 90 ngàn tuổi, rồi tịch diệt Niết Bàn, và giáo pháp
của Ngài dần dần bị mai một hoàn toàn. Về sau, trái đất bị tiêu hoại và sau đó
thời gian 1 a-tăng-kỳ trải qua vô số đại kiếp trái đất thành-trụ-hoại-không, mà
không có một Đức Phật Chánh Đẳng Giác nào xuất hiện trên thế gian. Mãi cho đến
kiếp trái đất gọi là Sārakappa mới có một Đức Phật xuất hiện.
10- Đức Phật Padumuttara xuất hiện trên thế
gian, vào thời kỳ con người có tuổi thọ khoảng 90 ngàn năm. Khi ấy, Đức Bồ Tát
tiền kiếp của Đức Phật Gotama là Phú hộ Jaṭila đến
hầu Đức Phật Padumuttara và được Ngài thọ ký xác định thời gian còn lại
rằng:
“Trong thời vị lai, còn 100 ngàn đại kiếp trái đất nữa, Phú hộ Jaṭila này sẽ trở
thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, có danh hiệu là Đức Phật Gotama”.
Đức Phật Padumuttara thọ 100 ngàn tuổi, rồi tịch diệt Niết Bàn, và giáo
pháp của Ngài dần dần bị mai một hoàn toàn. Về sau, trái đất bị tiêu hoại và
sau đó trải qua 70.000 đại kiếp trái đất thành-trụ-hoại-không, mà không có một
Đức Phật Chánh Đẳng Giác nào xuất hiện trên thế gian. Mãi cho đến kiếp trái đất
gọi là Maṇḍakappa mới có 2 Đức Phật: Đức Phật Sumedha và Đức Phật
Sujāta tuần tự xuất hiện cùng trong kiếp trái đất ấy.
11- Đức Phật Sumedha xuất hiện trên thế gian, vào thời kỳ
con người có tuổi thọ khoảng 90 ngàn năm. Khi ấy, Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức
Phật Gotama là Bàlamôn Uttara đến hầu Đức Phật Sumedha,
xin Ngài cho phép xuất gia trở thành Tỳ-khưu
trong giáo pháp của Ngài. Về sau, vị Tỳ-khưu Uttara được Đức Phật Sumedha thọ ký xác định
thời gian còn lại rằng:
“Trong thời vị lai, còn 30 ngàn đại kiếp trái đất nữa, vị
Tỳ-khưu Uttara này sẽ
trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, có danh hiệu là Đức Phật Gotama”.
Đức Phật Sumedha thọ 90 ngàn tuổi, rồi tịch diệt Niết Bàn, và giáo pháp
của Ngài dần dần bị mai một hoàn toàn. Từ đó, mọi hiện tượng xảy ra diễn tiến
theo một chu kỳ tuổi thọ giảm-tăng-giảm cũng giống như Chư Phật quá khứ sau khi
tịch diệt Niết Bàn. Tuổi thọ con người giảm xuống dần đến tột cùng chỉ còn 10
năm, rồi tăng lên dần đến tột đỉnh a-tăng-kỳ năm, rồi lại giảm dần, giảm xuống
dần cho đến thời kỳ con người có tuổi thọ khoảng 90 ngàn năm. Khi ấy, một Đức
Phật xuất hiện trên thế gian cùng trong kiếp trái đất Maṇḍakappa ấy là.
12- Đức Phật Sujāta xuất hiện trên thế gian, vào
thời kỳ con người có tuổi thọ khoảng 90 ngàn năm. Khi ấy, Đức Bồ Tát tiền kiếp
của Đức Phật Gotama là Đức Chuyển Luân Thánh Vương đến
hầu Đức Phật Sujāta, xin Ngài cho phép xuất gia trở thành
Tỳ-khưu
trong giáo pháp của Ngài. Về sau, Đức Bồ Tát Tỳ-khưu được Đức Phật Sujāta
thọ ký xác định thời gian còn lại y như Đức Phật Sumedha rằng:
“Trong thời vị lai, còn 30 ngàn đại kiếp trái đất nữa, vị
Tỳ-khưu này sẽ trở
thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, có danh hiệu là Đức Phật Gotama”.
Đức Phật Sujāta thọ 90 ngàn năm tuổi, rồi tịch diệt Niết Bàn, và giáo
pháp của Ngài dần dần bị mai một hoàn toàn. Về sau, trái đất bị tiêu hoại và
sau đó thời gian trải qua 28.200 đại kiếp trái đất thành-trụ-hoại-không, mà
không có một Đức Phật Chánh Đẳng Giác nào xuất hiện trên thế gian. Mãi cho đến
kiếp trái đất gọi là Varakappa mới có 3 Đức Phật: Đức Phật Piyadassī,
Đức Phật Atthadassī và Đức Phật Dhammadassī tuần tự xuất
hiện cùng trong kiếp trái đất Varakappa ấy.
13- Đức Phật Piyadassī xuất hiện trên thế gian, vào
thời kỳ con người có tuổi thọ khoảng 90 ngàn năm. Khi ấy, Đức Bồ Tát tiền kiếp
của Đức Phật Gotama là Bàlamôn Kassapa đến hầu Đức
Phật Piyadassī và được Ngài thọ ký xác định thời gian còn lại
rằng:
“Trong thời vị lai, còn 1.800 đại kiếp trái đất nữa, Bàlamôn Kassapa này sẽ trở
thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, có danh hiệu là Đức Phật Gotama”.
Đức Phật Piyadassī thọ 90 ngàn tuổi, rồi tịch diệt Niết Bàn, và giáo pháp
của Ngài dần dần bị mai một hoàn toàn. Từ đó, mọi hiện tượng xảy ra diễn tiến
theo một chu kỳ tuổi thọ giảm-tăng-giảm cũng giống như Chư Phật quá khứ sau khi
tịch diệt Niết Bàn. Tuổi thọ con người giảm xuống dần đến tột cùng chỉ còn 10
năm, rồi tăng lên dần đến tột đỉnh a-tăng-kỳ năm, rồi lại giảm dần, giảm xuống
dần cho đến thời kỳ con người có tuổi thọ khoảng 100 ngàn năm. Khi ấy, một Đức
Phật xuất hiện trên thế gian cùng trong kiếp trái đất Varakappa ấy là.
14- Đức Phật Atthadassī xuất hiện trên thế gian, vào
thời kỳ con người có tuổi thọ khoảng 100 ngàn năm. Khi ấy, Đức Bồ Tát tiền kiếp
của Đức Phật Gotama là vị Đạo sĩ Susīma đến hầu Đức
Phật Atthadassī và được Ngài thọ ký xác định thời gian còn lại y
như Đức Phật Piyadassī rằng:
“Trong thời vị lai, còn 1.800 đại kiếp trái đất nữa, Đạo sĩ Susīma này sẽ trở
thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, có danh hiệu là Đức Phật Gotama”.
Đức Phật Atthadassī thọ 100 ngàn tuổi, rồi tịch diệt Niết Bàn, và giáo
pháp của Ngài dần dần bị mai một hoàn toàn. Từ đó, mọi hiện tượng tương tự xảy
ra cũng giống như sau khi Đức Phật Piyadassī tịch diệt Niết Bàn. Tuổi
thọ con người giảm xuống dần cho đến tột cùng chỉ còn 10 năm; rồi tuổi thọ con
người tăng lên dần, tăng lên dần cho đến tột cùng a-tăng-kỳ năm; rồi lại giảm
dần, giảm xuống dần cho đến thời kỳ con người có tuổi thọ khoảng 100 ngàn năm.
Khi ấy, một Đức Phật xuất hiện cùng trong kiếp trái đất Varakappa ấy là.
15- Đức PhậtDhammadassī xuất hiện trên thế gian, vào thời
kỳ con người có tuổi thọ khoảng 100 ngàn năm. Khi ấy, Đức Bồ Tát tiền kiếp của
Đức Phật Gotama là Đức vua trời Sakka cõi
Tam Thập Tam Thiên đến hầu Đức Phật Dhammadassī và được Ngài
thọ ký xác định thời gian còn lại y như Đức Phật Piyadassī và Đức Phật
Atthadassī rằng:
“Trong thời vị lai, còn 1.800 đại kiếp trái đất nữa, Đức vua trời Sakka này sẽ
trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, có danh hiệu là Đức Phật Gotama”.
Đức Phật Dhammadassī thọ 100 ngàn tuổi, rồi tịch diệt Niết Bàn, và giáo
pháp của Ngài dần dần bị mai một hoàn toàn. Về sau, trái đất bị tiêu hoại và
sau đó thời gian trải qua 1.706 đại kiếp trái đất thành-trụ-hoại-không, mà
không có một Đức Phật Chánh Đẳng Giác nào xuất hiện trên thế gian. Mãi cho đến
kiếp trái đất gọi là Sārakappa mới có một Đức Phật Chánh Đẳng Giác xuất
hiện.
16- Đức Phật Siddhattha xuất hiện trên thế gian, vào thời
kỳ con người có tuổi thọ khoảng 100 ngàn năm. Khi ấy, Đức Bồ Tát tiền kiếp của
Đức Phật Gotama là Bàlamôn Phú hộ xuất gia trở thành Đạo
sĩ tên Maṅgala đến hầu Đức Phật Siddhattha và được Ngài thọ
ký xác định thời gian còn lại rằng:
“Trong thời vị lai, còn 94 đại kiếp trái đất nữa, Đạo sĩ Maṅgala này sẽ trở thành
Đức Phật Chánh Đẳng Giác, có danh hiệu là Đức Phật Gotama”.
Đức Phật Siddhattha thọ 100 ngàn tuổi, rồi tịch diệt Niết Bàn và giáo
pháp của Ngài dần dần bị mai một hoàn toàn. Về sau, trái đất bị tiêu hoại và
sau đó thời gian trải qua 2 đại kiếp trái đất không có Đức Phật Chánh Đẳng Giác
nào xuất hiện trên thế gian. Mãi cho đến kiếp trái đất gọi là Maṇḍakappa
mới có 2 Đức Phật: Đức Phật Tissa và Đức Phật Phussa
tuần tự xuất hiện cùng trong kiếp trái đất ấy.
17- Đức Phật Tissa xuất hiện trên thế gian, vào thời
kỳ con người có tuổi thọ khoảng 100 ngàn năm. Khi ấy, Đức Bồ Tát tiền kiếp của
Đức Phật Gotama là Đạo sĩ Sujāta đến hầu Đức
Phật Tissa và được Ngài thọ ký xác định thời gian còn lại rằng:
“Trong thời vị lai, còn 92 đại kiếp trái đất nữa, vị Đạo sĩ Sujāta này sẽ trở
thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, có danh hiệu là Đức Phật Gotama”.
Đức Phật Tissa thọ 100 ngàn tuổi, rồi tịch diệt Niết Bàn và giáo pháp của
Ngài dần dần bị mai một hoàn toàn. Từ đó, mọi hiện tượng xảy ra diễn tiến theo
một chu kỳ tuổi thọ giảm-tăng-giảm cũng giống như Chư Phật quá khứ sau khi tịch
diệt Niết Bàn. Tuổi thọ con người giảm xuống dần đến tột cùng chỉ còn 10 năm,
rồi tăng lên dần đến tột đỉnh a-tăng-kỳ năm, rồi lại giảm dần, giảm xuống dần
cho đến thời kỳ con người có tuổi thọ khoảng 90 ngàn năm. Khi ấy, một Đức Phật
xuất hiện trên thế gian cùng trong kiếp trái đất gọi là Maṇḍakappa ấy
là.
18- Đức Phật Phussa xuất hiện trên thế gian, vào
thời kỳ con người có tuổi thọ khoảng 90 ngàn năm. Khi ấy, Đức Bồ Tát tiền kiếp
của Đức Phật Gotama là Đức Chuyển Luân Thánh Vương Vijītāvī
đến hầu Đức Phật Phussa và xin Ngài cho phép xuất gia trở thành
Tỳ-khưu trong giáo pháp của Ngài. Về sau, vị Tỳ-khưu Vijītāvī được Đức Phật Phussa
thọ ký xác định thời gian còn lại y như Đức Phật Tissa rằng:
“Trong thời vị lai, còn 92 đại kiếp trái đất nữa, vị
Tỳ-khưu Vijītāvī này sẽ trở
thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, có danh hiệu là Đức Phật Gotama”.
Đức Phật Phussa thọ 90 ngàn năm tuổi, rồi tịch diệt Niết Bàn, và giáo
pháp của Ngài dần dần bị mai một hoàn toàn. Về sau, trái đất bị tiêu hoại và
sau đó thời gian 1 đại kiếp trái đất không có một Đức Phật Chánh Đẳng Giác nào
xuất hiện trên thế gian, đến kiếp trái đất gọi là Sārakappa có một Đức
Phật Chánh Đẳng Giác xuất hiện.
19- Đức Phật Vipassī xuất hiện trên thế gian, vào
thời kỳ con người có tuổi thọ khoảng 80 ngàn năm. Khi ấy Đức Bồ Tát tiền thân
của Đức Phật Gotama là Long vương Atula đến
hầu Đức Phật Vipassī và được Ngài thọ ký xác định thời gian còn lại
rằng:
“Trong thời vị lai, còn 91 đại kiếp trái đất nữa, Long vương Atula này sẽ trở
thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, có danh hiệu là Đức Phật Gotama”.
Đức Phật Vipassī thọ 80 ngàn tuổi, rồi tịch diệt Niết Bàn, và giáo pháp
của Ngài dần dần bị mai một hoàn toàn. Về sau, trái đất bị tiêu hoại và sau đó
thời gian trải qua 60 đại kiếp trái đất thành-trụ-hoại-không, mà không có một
Đức Phật Chánh Đẳng Giác nào xuất hiện trên thế gian. Mãi cho đến kiếp trái đất
gọi là Maṇḍakappa mới có 2 Đức Phật: Đức Phật Sikhī và Đức
Phật Vessabhū tuần tự xuất hiện cùng trong kiếp trái đất ấy.
20- Đức Phật Sikhī xuất hiện trên thế gian, vào thời
kỳ con người có tuổi thọ khoảng 70 ngàn năm. Khi ấy, Đức Bồ Tát tiền kiếp của
Đức Phật Gotama là Đức vua Arindama đến hầu
Đức Phật Sikhī và được Ngài thọ ký xác định thời gian còn lại rằng:
“Trong thời vị lai, còn 31 đại kiếp trái đất nữa, Đức vua Arindama này sẽ trở
thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, có danh hiệu là Đức Phật Gotama”.
Đức Phật Sikhī thọ 80 ngàn tuổi, rồi tịch diệt Niết Bàn, và giáo pháp của
Ngài dần dần bị mai một hoàn toàn. Từ đó, mọi hiện tượng xảy ra diễn tiến theo
một chu kỳ tuổi thọ giảm-tăng-giảm cũng giống như Chư Phật quá khứ sau khi tịch
diệt Niết Bàn. Tuổi thọ con người giảm xuống dần đến tột cùng chỉ còn 10 năm,
rồi tăng lên dần đến tột đỉnh a-tăng-kỳ năm, rồi lại giảm dần, giảm xuống dần
cho đến thời kỳ con người có tuổi thọ khoảng 60 ngàn năm. Khi ấy, một Đức Phật
xuất hiện trên thế gian cùng trong kiếp trái đất Maṇḍakappa ấy là.
21- Đức PhậtVessabhū xuất hiện trên thế gian, vào thời kỳ
con người có tuổi thọ khoảng 60 ngàn năm. Khi ấy, Đức Bồ Tát tiền thân của Đức
Phật Gotama là Đức vua Sudassana đến hầu Đức Phật Vessabhū
xin Ngài cho phép xuất gia trở thành Tỳ-khưu
trong giáo pháp của Ngài. Về sau, Tỳ-khưu Sudassana được Đức Phật Vessabhū thọ ký xác
định thời gian còn lại y như Đức Phật Sikhī rằng:
“Trong thời vị lai, còn 31 đại kiếp trái đất nữa, vị
Tỳ-khưu Sudassana này sẽ trở
thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, có danh hiệu là Đức Phật Gotama”.
Đức Phật Vessabhū thọ 60 ngàn tuổi, rồi tịch diệt Niết Bàn, và giáo pháp
của Ngài dần dần bị mai một hoàn toàn. Về sau, trái đất bị tiêu hoại và sau đó
thời gian trải qua 31 đại kiếp trái đất thành-trụ-hoại-không, mà không có một
Đức Phật Chánh Đẳng Giác nào xuất hiện trên thế gian. Mãi cho đến kiếp trái đất
gọi là Bhaddakappa mới có 5 Đức Phật: Đức Phật Kakusandha, Đức
Phật Koṇāgamana, Đức Phật Kassapa, Đức Phật Gotama
và Đức Phật Metteyya tuần tự xuất hiện cùng trong kiếp
trái đất này.
22- Đức Phật Kakusandha xuất hiện trên thế gian, vào
thời kỳ con người có tuổi thọ khoảng 40 ngàn năm. Khi ấy, Đức Bồ Tát tiền kiếp
của Đức Phật Gotama là Đức vua Khema đến hầu Đức
Phật Kakusandha, xin Ngài cho phép xuất gia trở thành
Tỳ-khưu trong giáo pháp của Ngài. Về sau, Tỳ-khưu Khema được Đức Phật Kakusandha
thọ ký xác định thời gian rằng:
“Trong thời vị lai, ngay cùng trong kiếp trái đất Bhaddakappa này, vị
Tỳ-khưu
Khema này sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, có danh hiệu là Đức Phật
Gotama”.
Đức Phật Kakusandha thọ 40 ngàn tuổi, rồi tịch diệt Niết Bàn, và giáo
pháp của Ngài dần dần bị mai một hoàn toàn. Từ đó, ác pháp càng ngày càng tăng
trưởng còn thiện pháp càng ngày càng suy thoái; do đó, tuổi thọ con người càng
ngày càng giảm dần, giảm dần cho đến tột cùng chỉ còn 10 năm. Sau đó, một thảm
họa khủng khiếp đã xảy ra, con người chém giết lẫn nhau vô cùng tàn khốc, không
phân biệt cha mẹ, con cái, anh em, bà con... một số người hoảng sợ chạy trốn
trong rừng núi thoát thân. Khi biết nạn chém giết không còn nữa, số người ấy
gặp lại nhau, cam kết không sát hại nhau nữa. Khi ấy, con người biết ghê sợ tội
ác, cố gắng tinh tấn tạo phước thiện, thiện pháp càng ngày càng tăng trưởng,
cho nên, tuổi thọ con người càng ngày càng tăng lên dần, tăng lên dần cho đến
tột đỉnh a-tăng-kỳ năm. Thời kỳ ấy, con người sống dể duôi, ác pháp phát sinh;
do đó, tuổi thọ con người lại giảm dần, giảm dần cho đến thời kỳ con người có
tuổi thọ khoảng 30 ngàn năm. Khi ấy, một Đức Phật xuất hiện trên thế gian cùng
trong kiếp trái đất Bhaddakappa này là.
23- Đức Phật Koṇāgamana xuất hiện trên thế gian, vào thời
kỳ con người có tuổi thọ khoảng 30 ngàn năm. Khi ấy, Đức Bồ Tát tiền kiếp của
Đức Phật Gotama là Đức vua Pabbata đến hầu Đức Phật Koṇāgamana
và được Ngài thọ ký xác định thời gian còn lại y như Đức Phật Kakusandha
rằng:
“Trong thời vị lai, ngay cùng trong kiếp trái đất Bhaddakappa này, Đức vua
Pabbata này sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, có danh hiệu là Đức Phật
Gotama”.
Đức Phật Koṇāgamana thọ 30 ngàn tuổi, rồi tịch diệt Niết Bàn, và giáo
pháp của Ngài cũng dần dần bị mai một hoàn toàn. Về sau, mọi hiện tượng xảy ra
tương tự cũng giống như sau khi Đức Phật Kakusandha tịch diệt Niết Bàn.
Tuổi thọ con người giảm xuống dần đến tột cùng chỉ còn 10 năm; rồi tuổi thọ lại
tăng dần lên đến tột đỉnh a-tăng-kỳ năm; rồi lại giảm xuống dần đến thời kỳ con
người có tuổi thọ khoảng 20 ngàn năm. Khi ấy, một Đức Phật xuất hiện cùng trong
kiếp trái đất Bhaddakappa này là.
24- Đức Phật Kassapa xuất hiện trên thế gian, vào
thời kỳ con người có tuổi thọ khoảng 20 ngàn năm. Khi ấy, Đức Bồ Tát tiền kiếp
của Đức Phật Gotama là Bàlamôn Jotipāla đến hầu Đức
Phật Kassapa, xin Ngài cho phép xuất gia trở thành
Tỳ-khưu trong giáo pháp của Ngài. Về sau, Tỳ-khưu Jotipāla được Đức Phật Kassapa
thọ ký xác định thời gian còn lại y như Đức Phật Kakusandha và Đức Phật
Koṇāgamana rằng:
“Trong thời vị lai, ngay cùng trong kiếp trái đất Bhaddakappa này, vị
Tỳ-khưu
Jotipāla này sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, có danh hiệu là Đức Phật
Gotama”.
Đức Phật Kassapa thọ 20 ngàn năm tuổi, rồi tịch diệt Niết Bàn, và giáo
pháp của Ngài cũng dần dần bị mai một hoàn toàn. Về sau, mọi hiện tượng xảy ra
tương tự giống như sau khi Đức Phật Kakusandha và Đức Phật Koṇāgamana
tịch diệt Niết Bàn.
Xác định thời gian trở thành Đức Phật
Ý nguyện muốn trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác (Sammāsambuddha),
mà Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác (Sammāsambodhisatta) cần
phải trải qua 3 thời kỳ:
- Thời kỳ phát nguyện trong tâm có ý nguyện muốn trở thành một Đức Phật Chánh
Đẳng Giác, để tế độ cứu vớt chúng sinh giải thoát khỏi biển khổ tử sinh luân
hồi trong ba giới bốn loài.
- Thời kỳ phát nguyện bằng lời nói, để cho chúng sinh biết rõ ý nguyện của mình
muốn trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác.
Cả hai thời kỳ này, dù Đức Bồ Tát kiên trì tinh tấn tạo 30 pháp hạnh ba-la-mật
trải qua thời kỳ bao lâu, vẫn không thể biết được đến thời gian nào sẽ đắc
thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác.
- Thời kỳ Chư Phật Chánh Đẳng Giác thọ ký xác định thời gian Đức Bồ Tát sẽ trở
thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Như trường hợp Đức Bồ Tát Sumedha tiền
thân của Đức Phật Gotama, lần đầu tiên được Đức Phật Dīpaṅkara thọ
ký xác định thời gian còn lại rằng:
“Trong thời vị lai, còn 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất nữa, vị Đạo sĩ
Sumedha này sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, có danh hiệu là Đức Phật
Gotama”.
Và cuối cùng Đức Bồ Tát được Đức Phật Kassapa thọ ký xác định thời gian
rằng:
“Trong thời vị lai, ngay cùng trong kiếp trái đất Bhaddakappa này, vị
Tỳ-khưu
Jotipāla này sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, có danh hiệu là Đức Phật
Gotama”.
Thời gian suốt 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất gồm có 24 Đức Phật
Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian, mỗi khi Đức Phật Chánh Đẳng
Giác nào xuất hiện, thì Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama đều đến
hầu Chư Đức Phật ấy và được Ngài thọ ký xác định thời gian còn lại sẽ trở thành
Đức Phật Chánh Đẳng Giác.
Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama trải qua vô số kiếp không sao kể
xiết, dù có lấy nước của 4 biển đại dương đếm từng giọt từng giọt, thì lượng
nước của 4 biển đại dương cũng không đủ đếm số kiếp tử sinh luân hồi trong tam
giới của Đức Bồ Tát đã trải qua, trong cuộc hành trình tạo 30 pháp hạnh
ba-la-mật cho đầy đủ hoàn toàn, để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác.
Đức Bồ Tát tiền kiếp được 24 Đức Phật thọ ký
Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama, trải qua vô số tiền kiếp
không sao kể xiết, song chỉ có 24 kiếp được Chư Đức Phật Chánh Đẳng Giác thọ ký
mà thôi. Trong 24 tiền kiếp ấy phân loại kiếp như sau:
9 kiếp Tỳ-khưu; 5 kiếp Đạo sĩ; 5 kiếp người tại gia; 2 kiếp Long vương; 1 kiếp
Đức vua trời Sakka; 1 kiếp Thống tướng Yakkha; 1 kiếp sư tử chúa.
9 kiếp Tỳ-khưu được thọ ký
- Thời kỳ Đức Phật Koṇḍanna, Đức Bồ Tát là Đức Chuyển Luân Thánh Vương Vijitāvī
đến hầu Đức Phật, xin Ngài cho phép xuất gia trở thành
Tỳ-khưu trong giáo pháp
của Ngài.
- Thời kỳ Đức Phật Maṅgala, Đức Bồ Tát là Bàlamôn Suruci đến hầu
Đức Phật Maṅgala, xin Ngài cho phép xuất gia trở thành
Tỳ-khưu.
- Thời kỳ Đức Phật Sumedha, Đức Bồ Tát là Bàlamôn Uttara đến hầu
Đức Phật Sumedha, xin Ngài cho phép xuất gia trở thành
Tỳ-khưu.
- Thời kỳ Đức Phật Sujāta, Đức Bồ Tát là Đức Chuyển Luân Thánh Vương đến
hầu Đức Phật Sujāta, xin Ngài cho phép xuất gia trở thành
Tỳ-khưu.
- Thời kỳ Đức Phật Phussa, Đức Bồ Tát là Đức vua Vijitāvī đến hầu
Đức Phật Phussa, xin Ngài cho phép xuất gia trở thành
Tỳ-khưu.
- Thời kỳ Đức Phật Vessabhū, Đức Bồ Tát là Đức vua Sudassana đến
hầu Đức Phật Vessabhū, xin Ngài cho phép xuất gia trở thành
Tỳ-khưu.
- Thời kỳ Đức Phật Kakusandha, Đức Bồ Tát là Đức vua Khema đến hầu
Đức Phật Kakusandha, xin Ngài cho phép xuất gia trở thành
Tỳ-khưu.
- Thời kỳ Đức Phật Koṇāgamana, Đức Bồ Tát là Đức vua Pabbata đến
hầu Đức Phật Koṇāgamana, xin Ngài cho phép xuất gia trở thành
Tỳ-khưu.
- Thời kỳ Đức Phật Kassapa, Đức Bồ Tát là Bàlamôn Jotipāla đến hầu
Đức Phật Kassapa, xin Ngài cho phép xuất gia trở thành
Tỳ-khưu.
5 kiếp Đạo sĩ được thọ ký
- Thời kỳ Đức Phật Dīpaṅkara, Đức Bồ Tát là Đạo sĩ Sumedha đến hầu
Đức Phật Dīpaṅkara, và được Ngài thọ ký lần đầu tiên.
- Thời kỳ Đức Phật Nārada, Đức Bồ Tát là Đạo sĩ đến hầu Đức Phật Nārada,
và được Ngài thọ ký.
- Thời kỳ Đức Phật Atthadassī, Đức Bồ Tát là Đạo sĩ Susīma đến hầu
Đức Phật Atthadassī, và được Ngài thọ ký.
- Thời kỳ Đức Phật Siddhattha, Đức Bồ Tát là Đạo sĩ Maṇgala đến
hầu Đức Phật Siddhattha, và được Ngài thọ ký.
- Thời kỳ Đức Phật Tissa, Đức Bồ Tát là Đạo sĩ Sujāta đến hầu Đức
Phật Tissa, và được Ngài thọ ký.
5 kiếp người tại gia được thọ ký
- Thời kỳ Đức Phật Revata, Đức Bồ Tát là Bàlamôn Atideva đến hầu
Đức Phật Revata và được Ngài thọ ký
- Thời kỳ Đức Phật Sobhita, Đức Bồ Tát là Bàlamôn Sujāta đến hầu
Đức Phật Sobhita, và được Ngài thọ ký.
- Thời kỳ Đức Phật Padumuttara, Đức Bồ Tát là phú hộ Jaṭila đến
hầu Đức Phật Padumuttara, và được Ngài thọ ký.
- Thời kỳ Đức Phật Piyadassī, Đức Bồ Tát là Bàlamôn Kassapa đến
hầu Đức Phật Piyadassī, và được Ngài thọ ký.
- Thời kỳ Đức Phật Sikhī, Đức Bồ Tát là Đức vua Arindama đến hầu
Đức Phật Sikhī, và được Ngài thọ ký.
2 kiếp Long vương được thọ ký
- Thời kỳ Đức Phật Sumana, Đức Bồ Tát là Long vương Atula đến hầu
Đức Phật Sumana, và được Ngài thọ ký.
- Thời kỳ Đức Phật Vipassī, Đức Bồ Tát là Long vương Atula đến hầu
Đức Phật Vipassī và được Ngài thọ ký.
1 kiếp Đức vua trời Sakka được thọ ký
Thời kỳ Đức Phật Dhammadassī, Đức Bồ Tát là Đức vua trời Sakka đến
hầu Đức Phật Dhammadassī, và được Ngài thọ ký.
1 kiếp Thống tướng Yakka được thọ ký
Thời kỳ Đức Phật Anomadassī, Đức Bồ Tát là Thống tướng Yakkha đến
hầu Đức Phật Anomadassī, và được Ngài thọ ký.
1 kiếp Sư tử chúa được thọ ký
Thời kỳ Đức Phật Paduma, Đức Bồ Tát là Sư tử chúa đến hầu Đức Phật Paduma,
và được Ngài thọ ký.
Mỗi Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama, khi Ngài đã được Đức Phật
Chánh Đẳng Giác thọ ký xác định thời gian còn lại sẽ trở thành Đức Phật Chánh
Đẳng Giác, có danh hiệu Đức Phật Gotama xong rồi, dù kiếp Đức Bồ Tát ấy
thuộc hạng chúng sinh nào, là người hoặc Long vương, hoặc phạm thiên, hoặc sư
tử chúa, voi chúa..., nhưng vẫn là Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác cố định có mầm
mống trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác (Buddhaṅkura) hoặc có hạt
giống Đức Phật Chánh Đẳng Giác (Buddhabījaṅkura) chỉ còn có con đường
tiến triển tạo 30 pháp hạnh ba-la-mật cho đầy đủ hoàn toàn theo thời gian còn
lại mà thôi. Trong thời vị lai ấy, Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác ấy, chắc chắn sẽ
trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác, có danh hiệu Đức Phật Gotama.
Cho nên, toàn thể chư thiên, chư phạm thiên, nhân loại đều vô cùng hoan hỷ; bởi
vì họ biết rõ rằng: “Trong thời vị lai, vào thời kỳ ấy một Đức Phật Chánh Đẳng
Giác có danh hiệu Đức Phật Gotama sẽ xuất hiện trên thế gian. Ngài sẽ thuyết
pháp tế độ cứu vớt chúng sinh, thoát khỏi biển khổ luân hồi trong ba giới bốn
loài”.
Tên gọi kiếp trái đất (Kappa)
- Suññakappa: Kiếp trái đất không có Đức Phật Chánh Đẳng Giác xuất hiện
trên thế gian.
- Sārakappa: Kiếp trái đất có 1 Đức Phật Chánh Đẳng Giác xuất hiện trên
thế gian.
- Maṇḍakappa: Kiếp trái đất có 2 Đức Phật Chánh Đẳng Giác xuất hiện trên
thế gian.
- Varakappa: Kiếp trái đất có 3 Đức Phật Chánh Đẳng Giác xuất hiện trên
thế gian.
- SāraMaṇḍakappa: Kiếp trái đất có 4 Đức Phật Chánh Đẳng Giác xuất hiện
trên thế gian.
- Bhaddakappa: Kiếp trái đất có 5 Đức Phật Chánh Đẳng Giác xuất hiện
trên thế gian.
ĐỨC BỒ TÁT SUMEDHA - BẬC ĐẠI TRÍ
Đức Bồ Tát Sumedha tiền thân Đức Phật Gotama sinh vào dòng dõi
Bàlamôn qua bảy đời tinh khiết. Ngài theo học các bộ môn của dòng dõi Bàlamôn
rất uyên thâm. Khi cha mẹ của Ngài qua đời, người quản gia gìn giữ các kho của
cải đến trình cho Ngài biết rõ của cải tài sản của dòng họ tổ tiên ông bà cha
mẹ để lại cho Ngài, một gia tài rất lớn lao...
Đức Bồ Tát suy xét rằng: “Tổ tiên ông bà cha mẹ suốt 7 đời của ta đã tích lũy của
cải tài sản lớn lao như thế này; khi qua đời chẳng có một ai đem theo được một
món nhỏ nào. Khi đến phiên ta qua đời, chắc chắn cũng không đem theo được gì.
Tốt hơn! Ta nên đem bớt của cải này làm phước bố thí đến cho mọi người nghèo
khổ thiếu thốn, ta sống tại gia tạo mọi pháp hạnh ba-la-mật”.
Một hôm, Đức Bồ Tát ngồi một mình trên lâu đài suy tư rằng:
“Sự nóng của lửa tham, lửa sân, lửa si... hiện hữu; còn Niết Bàn tịch tịnh dập
tắt được lửa tham, lửa sân, lửa si... cũng hiện hữu.
Sự khổ đế của danh pháp, sắc pháp trong tam giới hiện hữu; còn sự an lạc tuyệt
đối của Niết Bàn Siêu tam giới cũng hiện hữu.
Sự tái sinh là khổ, sự già là khổ, sự bệnh là khổ, sự chết là khổ... vẫn hiện
hữu; vậy ta nên mong muốn chứng ngộ Niết Bàn là pháp không sanh, không già,
không bệnh, không chết... pháp giải thoát mọi cảnh khổ”.
Đức Bồ Tát suy xét rằng: “Đời sống tại gia có nhiều nhiêu khê phiền toái, bị ràng
buộc... Tốt hơn, ta nên từ bỏ nhà xuất gia trở thành đạo sĩ”.
Để thực hiện ý định, Đức Bồ Tát cho người đi truyền rao khắp nơi gần xa dân
chúng trong nước, ai cần của cải gì, thì hãy đến tự tiện lấy. Đức Bồ Tát Sumedha
từ bỏ nhà, đi vào rừng núi Himavanta xuất gia trở thành Đạo sĩ. Đức vua
trời Sakka, cõi Tam Thập Tam Thiên biết ý nguyện của Đức Bồ Tát, nên
truyền lệnh cho vị thiên nam hiện xuống cõi người, hóa ra một cốc lá dưới chân
núi Himavanta để cúng dường Đức Bồ Tát Đạo sĩ Sumedha. Ban đầu,
Đức Bồ Tát Đạo sĩ nương nhờ sống nơi cốc lá rất hài lòng. Về sau, Đức Bồ Tát
Đạo sĩ suy xét kỹ thấy cốc lá có 8 điều bất lợi, còn nương nhờ sống dưới cội
cây có 10 điều thuận lợi. Thế là, Đức Bồ Tát Đạo sĩ từ bỏ cốc lá để đến nương
nhờ sống dưới cội cây hành đạo.
Mỗi buổi sáng, Đạo sĩ Sumedha mang bát vào xóm nhà để khất thực, sau khi
thọ thực xong, Ngài trở về ngồi dưới cội cây suy xét rằng:
“Người ta phải làm lụng vất vả cực nhọc lắm mới có được vật thực này. Vậy, từ nay
ta nên lượm nhặt những trái cây rụng để ăn sống qua ngày; ta chớ nên sống dể
duôi, tinh tấn hành pháp hành thiền định, ngăn oai nghi nằm, ta chỉ thọ trì 3
oai nghi: đi, đứng và ngồi mà thôi”.
Đạo sĩ Sumedha tinh tấn tiến hành thiền định, trong vòng 7 ngày đã chứng
đắc 4 bậc thiền hữu sắc, 4 bậc thiền vô sắc và chứng đắc ngũ thông tam giới (thần
túc thông, nhãn thông, nhĩ thông, tha tâm thông và túc mạng thông) an
hưởng sự an lạc trong khi nhập thiền (Jhānasamāpatti) không hề
hay biết rằng Đức Phật Dīpaṅkara đã xuất hiện trên thế gian.
Một hôm, Đạo sĩ Sumedha du hành bay trên hư không, nhìn thấy dân chúng xứ Rammavati
đang vui mừng hoan hỷ sửa sang con đường. Muốn biết do nguyên nhân nào
khiến người ta làm việc một cách hoan hỷ như vậy, Đạo sĩ liền đáp xuống bèn hỏi
những người ấy rằng:
- Thưa quý bà con, quý bà con sửa sang con đường này để cho ai đi, mà thấy quý bà
con vui mừng hoan hỷ đến như thế?
- Kính thưa Ngài Đạo sĩ Sumedha, Đức Phật Dīpaṅkara cao thượng nhất trong toàn
cõi thế giới chúng sinh đã xuất hiện trên thế gian rồi, chúng tôi đang sửa sang
con đường này để đón rước Đức Phật Dīpaṅkara cùng 400 ngàn chư Thánh Arahán sẽ
ngự qua con đường này.
Đạo sĩ Sumedha vừa lắng nghe danh từ “Buddha” (Đức Phật)
tâm vô cùng hoan hỷ, suy nghĩ: “Đức Phật xuất hiện trên thế gian là một điều
hiếm có, thật vô cùng hi hữu. Ta nên cố gắng gieo phước thiện, tạo duyên lành
nơi Đức Phật”. Vị Đạo sĩ liền thưa với bà con rằng:
- Thưa quý bà con, quý bà con sửa sang con đường này để đón rước Đức Phật
Dīpaṅkara cùng 400 ngàn vị Thánh Arahán ngự đến; xin quý bà con nhường cho bần
đạo một đoạn đường, để bần đạo cùng sửa sang, đón rước Đức Phật cùng chư Thánh
Arahán.
Dân chúng biết Đạo sĩ có nhiều oai lực thần thông, nên họ chỉ đoạn đường bùn lầy
khó khăn. Đạo sĩ nghĩ rằng: “Nếu ta dùng phép thần thông để sửa đoạn đường này
thì quá dễ, phước thiện ta được sẽ không nhiều. Vậy, ta nên tự dùng sức mình để
sửa sang, thì chắc chắn ta được phước thiện nhiều hơn”. Đức Bồ Tát dùng
sức của chính mình lấy đất từ nơi khác đến để san bằng, công việc sửa đoạn
đường còn độ một sải tay nữa là hoàn thành.
Khi ấy, nghe mọi người reo hò vui mừng đón Đức Phật Dīpaṅkara cùng 400
ngàn chư Thánh Arahán sắp đến. Đức Bồ Tát Sumedha quyết định rằng: “Hôm
nay ta xin cúng dường sinh mạng của ta đến Đức Phật Dīpaṅkara, bằng cách nằm
sấp trên đoạn đường còn lại. Nguyện lấy tấm thân này làm như một chiếc cầu, để
cúng dường Đức Phật Dīpaṅkara cùng 400 ngàn chư Thánh Arahán ngự đi qua. Chắc
chắn ta sẽ được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài”.
Nguyện ước của Đức Bồ Tát Sumedha
Đức Bồ Tát Sumedha suy tư rằng: “Hôm nay, nếu ta từ bỏ ý nguyện muốn trở
thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thì chắc chắn ta sẽ trở thành một bậc Thánh
Arahán trong giáo pháp của Đức Phật Dīpaṅkara, rồi sẽ tịch diệt Niết Bàn, chấm
dứt tử sanh luân hồi trong tam giới chỉ một mình ta; nhưng còn bao nhiêu chúng
sinh khác vẫn đang chìm đắm trong biển khổ tử sinh luân hồi. Ta không đành giải
thóat khổ riêng một mình ta ”. Nghĩ vậy, với tâm đại bi vô lượng thương
xót chúng sinh, nên Đức Bồ Tát Sumedha phát nguyện rằng:
“Buddho bodheyyaṃ...”Khi ta tự mình chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng
đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác
rồi, khi ấy ta sẽ thuyết pháp giáo hóa chúng sinh cũng chứng ngộ chân lý Tứ
Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn trở thành bậc Thánh
Arahán y theo ta vậy (tự giác - giác tha).
“Mutto moceyyaṃ...”Khi ta tự mình giải thoát khỏi mọi sự ràng buộc của
tham ái, phiền não, chứng ngộ Niết Bàn rồi, khi ấy, ta sẽ dẫn dắt chúng sinh
cùng giải thoát khỏi mọi sự ràng buộc của tham ái, phiền não, chứng ngộ Niết
Bàn y theo ta vậy (tự độ - tự tha).
“Tinno tareyyaṃ...”Khi ta tự mình vượt qua được biển khổ tử sinh luân hồi,
đạt đến Niết Bàn an lạc rồi, khi ấy, ta sẽ cứu vớt, dẫn dắt chúng sinh cùng
vượt qua biển khổ tử sinh luân hồi, đạt đến Niết Bàn an lạc y theo ta vậy
(tự đáo - đáo tha).
Trong khi đó có một nữ Bàlamôn tên là Sumittā(là tiền kiếp của công chúa
Yasodhara)trên tay cầm 8 đóa hoa sen để cúng dường Đức Phật Dīpaṅkara,
khi nhìn thấy Đạo sĩ Sumedha nằm sấp lấy thân mình làm chiếc cầu trên
đoạn đường ấy, cô liền phát sinh đức tin trong sạch, kính dâng đến vị Đạo sĩ 5
đóa hoa sen, còn 3 đóa hoa sen để lại cho mình. Đạo sĩ Sumedha nằm sấp,
hai tay cầm 5 đóa hoa sen để trên trán. Khi ấy, Đức Phật Dīpaṅkara cùng
400 ngàn chư vị Thánh Arahán ngự đi ngang qua bằng phép thần thông một cách nhẹ
nhàng trên tấm thân của Đạo sĩ Sumedha; cho nên, sinh mạng của Đức Bồ
Tát vẫn an toàn, chẳng hề gì cả.
Thường Đức Phật Chánh Đẳng Giác đầu tiên chỉ thọ ký cho Đức Bồ Tát nào có đầy đủ
8 điều kiện như sau:
Đức Bồ Tát cần có đầy đủ 8 điều kiện để được thọ ký lần đầu tiên
- Loài người thật (không phải Long vương hoặc chư thiên hóa thành người).
- Người nam thật(không phải là ái nam, ái nữ).
- Kiếp hiện tại có đầy đủ pháp hạnh ba-la-mật có thê chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4
Thánh Quả và Niết Bàn trở thành bậc Thánh Arahán.
- Trực tiếp đến hầu Đức Phật Chánh Đẳng Giác.
- Bậc xuất gia Đạo sĩ có chánh kiến về nghiệp.
- Chứng đắc đầy đủ 4 bậc thiền hữu sắc và 4 bậc thiền vô sắc, chứng đắc ngũ thông
tam giới.
- Quyết định cúng dường sinh mạng đến Đức Phật.
- Ý nguyện vững chắc, không thoái chí nản lòng, quyết tâm trở thành Đức Phật
Chánh Đẳng Giác.
Đức Phật Dīpaṅkara ngự đứng phía trên đầu của Đức Bồ Tát Đạo sĩ Sumedha,
bằng trí tuệ thấy rõ, biết rõ trong thời vị lai (anāgataṃsañāṇa) quán
xét ý nguyện muốn trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác của Đạo sĩ Sumedha có
thành tựu hay không. Sau khi thấy rõ, biết rõ chắc chắn sẽ thành tựu, nên Đức
Phật Dīpaṅkara thọ ký xác định thời gian còn lại rằng:
“Trong thời vị lai, còn 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất nữa, Đạo sĩ
Sumedha này sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, có danh hiệu là Đức Phật
Gotama”.
Đức Phật Dīpaṅkara là Đức Phật Chánh Đẳng Giác đầu tiên thọ ký cho Đức Bồ
Tát Sumedha tiền kiếp của Đức Phật Gotama.
Đức Bồ Tát Sumedha đương nhiên trở thành Đức Bồ Tát cố định (Niyatabodhisatta)
chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, trong thời vị lai. Khi Đức
Bồ Tát lắng nghe lời thọ ký xác định thời gian của Đức Phật Dīpaṅkara,
tâm vô cùng hoan hỷ. Tất cả nhân loại, chư thiên, chư phạm thiên đồng hoan hỷ
chắp tay lễ bái Đức Bồ Tát Đạo sĩ, tán dương ca tụng rằng:
“Đạo sĩ Sumedha chắc chắn sẽ là mầm móng trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác trong
thời vị lai”.
Thời gian hoàn thành 30 pháp hạnh ba-la-mật
Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama thuộc Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác
(Sammāsamboddhisatta) có trí tuệ ưu việt (paññādhika) hơn
đức tin và tinh tấn; cho nên, thời gian còn lại 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại
kiếp trái đất là khoảng thời gian bằng nửa thời gian của Đức Bồ Tát Chánh Đẳng
Giác có đức tin ưu việt và bằng một phần tư thời gian của Đức Bồ Tát
Chánh Đẳng Giác có tinh tấn ưu việt.
Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác có trí tuệ ưu việt cần phải hoàn thành đầy đủ trọn
vẹn 30 pháp hạnh ba-la-mật: 10 pháp hạnh ba-la-mật bậc thường, 10 pháp hạnh
ba-la-mật bậc trung và 10 pháp hạnh ba-la-mật bậc thượng. Trong khoảng
thời gian còn lại 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất, kể từ khi Đức Phật Dīpaṅkara
thọ ký đầu tiên cho đến Đức Phật Kassapa thứ 24 thọ ký cuối cùng, đến
kiếp chót là kiếp Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha.
Những lộ trình tâm có mục đích cuối cùng
Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama đã trải qua cuộc hành
trình bằng lộ trình tâm (vithicitta) từ sát-na tâm này qua sát-na
tâm khác, sinh rồi diệt diễn tiến không ngừng từ lộ trình tâm này qua lộ trình
tâm khác, từ kiếp sống này qua kiếp sống khác kế tiếp nhau trên con đường thẳng
dài theo thời gian, nhưng có mục đích cuối cùng.
Để tạo cho đầy đủ trọn vẹn 30 pháp hạnh ba-la-mật, kể từ thời kỳ Đức Bồ Tát phát
nguyện ở trong tâm có ý nguyện muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng
Giác, để tế độ cứu vớt chúng sinh trong biển khổ tử sinh luân hồi. Đức Bồ Tát
đã tạo những pháp hạnh ba-la-mật trong khoảng thời gian suốt 7 a-tăng-kỳ. Tiếp
đến thời kỳ Đức Bồ Tát phát nguyện bằng lời nói để cho mọi chúng sinh
hiểu biết được ý nguyện muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác của mình.
Đức Bồ Tát đã tạo những pháp hạnh ba-la-mật trong khoảng thời gian suốt 9
a-tăng-kỳ. Và tiếp đến thời kỳ được Đức Phật Dīpaṅkara thọ ký Đức Bồ Tát Đạo sĩ
Sumedha xác định thời gian còn lại là 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp
trái đất nữa, sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác có danh hiệu là Đức Phật Gotama.
Trong suốt 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất ấy, Đức Bồ Tát cố gắng tinh
tấn không ngừng, bồi bổ cho đầy đủ trọn vẹn 30 pháp hạnh ba-la-mật. Trong
khoảng thời gian ấy có 24 Đức Phật Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế
gian, mỗi Đức Phật Chánh Đẳng Giác đều thọ ký Đức Bồ Tát xác định thời gian còn
lại sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác có danh hiệu Đức Phật Gotama.
Như vậy, Đức Phật Gotama là quả của 30 pháp hạnh ba-la-mật, do đã tạo và
tích lũy từ vô số-vô số tiền kiếp trong quá khứ, sự liên hệ từ kiếp này đến
kiếp khác qua các lộ trình tâm sinh rồi diệt, có mục đích cuối cùng,
mà mỗi tâm trong lộ trình tâm đều có phận sự tích lũy nghiệp. Cho nên, sự liên
hệ từ kiếp này qua kiếp khác, hoặc từ kiếp quá khứ qua kiếp hiện tại, hoàn toàn
không phải liên hệ phần thân của mỗi kiếp, mà là sự liên hệ phần
tâm của mỗi kiếp, vì tâm có phận sự tích lũy
nghiệp (thiện nghiệp và bất thiện nghiệp). Khi thiện nghiệp 30
pháp hạnh ba-la-mật cho quả, kiếp chót Đức Bồ Tát Siddhattha có đầy đủ
32 tướng tốt của bậc Đại nhân, và 80 tướng tốt phụ. Ngài xuất gia chứng đắc
thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Và khi ác nghiệp cho quả,
thì Đức Phật phải chịu quả xấu như khi bị nàng Ciñcāmānavikā
vu oan, quả xấu như khi bị Tỳ-khưu Devadatta lăn đá rơi xuống làm bầm đầu ngón chân
cái, v.v... Những lộ trình tâm diễn tiến trong suốt cuộc đời của Đức Phật, cho
đến Niết Bàn lộ trình tâm (Parinibbānavīthicitta) cuối cùng, chấm
dứt không còn tái sinh kiếp sau nữa. Đó là khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn,
chấm dứt tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài. Còn các chúng sinh khác không
có phát nguyện trở thành bậc Thánh Arahán, thì những lộ trình tâm không có mục
đích cuối cùng, kế tiếp nhau trên con đường vòng tròn. Cho nên,
sự tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài là vô cùng, vô tận, vô chung.
Tâm đại bi vô lượng của Đức Bồ Tát Sumedha
Đức Bồ Tát Đạo sĩ Sumedha, tiền kiếp của Đức Phật Gotama, biết rõ
rằng: Hễ còn tái sinh là còn Khổ đế. Tái sinh trong ba giới bốn
loài đều là Khổ đế, không có sự an lạc thật sự, mà chỉ có Khổ đế là sự thật
chân lý.
Ngay trong kiếp Đức Bồ Tát Đạo sĩ Sumedha đón rước Đức Phật Dīpaṅkara,
Ngài đã có đủ khả năng ba-la-mật để trở thành bậc Thánh Arahán cùng với Tứ Tuệ
Phân Tích, Lục thông trong giáo pháp của Đức Phật Dīpaṅkara. Cuối cùng
trong kiếp ấy sẽ tịch diệt Niết Bàn, hoàn toàn giải thoát khổ tử sinh luân hồi
trong ba giới bốn loài. Nhưng với tâm đại bi vô lượng của Đức Bồ
Tát Đạo sĩ Sumedha, đối với chúng sinh đang đắm chìm trong biển khổ tử
sinh luân hồi, nên Đức Bồ Tát Đạo sĩ không đành giải thoát khỏi biển khổ tử
sinh luân hồi cho riêng mình; mà Ngài có ý nguyện muốn trở thành một Đức Phật
Chánh Đẳng Giác, để thuyết pháp tế độ, cứu vớt chúng sinh giải thoát khỏi biển
khổ tử sinh luân hồi. Cho nên, Đức Bồ Tát Đạo sĩ chấp nhận chịu đựng kéo dài tử
sinh luân hồi thêm khoảng thời gian dài 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái
đất nữa, để tiếp tục bổ sung cho đầy đủ trọn vẹn 30 pháp hạnh
ba-la-mật, hầu mong chứng đắc thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác để thuyết pháp
tế độ chúng sinh giải thoát khỏi biển khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn
loài.
- Chúng sinh ấy là ai?
- Chúng sinh ấy chính là chúng ta đây!
Đức Phật có tâm đại bi thương xót chúng ta, Ngài thuyết pháp chỉ dẫn cho chúng
ta con đường giải thoát khổ tử sinh luân hồi, con đường duy nhất giải thoát khổ
ấy là: Pháp hành Trung Đạo, hoặc Pháp hành Tứ Niệm Xứ,
hoặc Pháp hành Thiền Tuệ, hoặc Pháp hành Bát Chánh Đạo
dẫn dắt đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả
và Niết Bàn, giải thoát khỏi tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.
Hành 30 pháp hạnh ba-la-mật
Ba-la-mật nghĩa là gì?
Ba-la-mật là dịch âm từ Pāḷi: Pāramī.
Pāramī có rất nhiều nghĩa, nghĩa chính yếu là: Pháp duyên chính dẫn đến sự
chứng ngộ Niết Bàn cao thượng.
Điều kiện thành tựu pháp hạnh ba-la-mật: Mỗi khi tạo pháp hạnh
ba-la-mật nào, phải là thiện tâm hoàn toàn trong sạch, không bị ô nhiễm bởi
phiền não nhất là tham ái (taṇhā), ngã mạn (māna), tà
kiến (diṭṭhi) và đồng thời hợp với tâm đại bi (mahākaruṇā)
và trí tuệ hướng đến chứng ngộ Niết Bàn (upāyakosallañāṇā). Khi
hội đầy đủ các điều kiện trên, thì mới thành tựu được pháp hạnh ba-la-mật ấy.
* Pháp hạnh ba-la-mật có 10 loại
Bố thí ba-la-mật (dānapāramī)
Giữ giới ba-la-mật (sīlapāramī)
Xuất gia ba-la-mật (nekkhammapāramī)
Trí tuệ ba-la-mật (paññāpāramī)
Tinh tấn ba-la-mật (vīriyapāramī)
Nhẫn nại ba-la-mật (khantipāramī)
Chân thật ba-la-mật (saccapāramī)
Chí nguyện ba-la-mật (adhiṭṭhānapāramī)
Tâm từ ba-la-mật (mettāpāramī)
Tâm xả ba-la-mật (upekkhāpāramī)
* Pháp hạnh ba-la-mật có 3 bậc
- 10pháp hạnh ba-la-mật bậc thường: Hành 10 pháp
ba-la-mật bậc thường này không liên quan đến những bộ phận trong thân thể và
sinh mạng của mình; hy sinh những gì thuộc bên ngoài.
Ví dụ: Của cải, tài sản, ngôi báu, vợ, con v.v...
- 10pháp hạnh ba-la-mật bậc trung: Hành 10 pháp hạnh
ba-la-mật bậc trung này không liên quan đến sinh mạng của mình; hy sinh những
bộ phận trong thân thể của mình.
Ví dụ: Mắt, tay, chân, thận v.v...
- 10pháp hạnh ba-la-mật bậc thượng: Hành 10 pháp
hạnh ba-la-mật bậc thượng này liên quan đến hy sinh sinh mạng của mình, khi
đang còn sống.
Ví dụ: Khi hy sinh sinh mạng của mình vì một mục đích cao thượng.
Sau khi, Đức Bồ Tát Sumedha tiền thân của Đức Phật Gotama, được
Đức Phật Dīpaṅkara thọ ký xác định thời gian còn 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn
đại kiếp trái đất nữa, trong khoảng thời gian này Đức Bồ Tát cần phải bồi bổ
cho đầy đủ trọn vẹn 30 pháp hạnh ba-la-mật, để chứng đắc thành Đức Phật Chánh
Đẳng Giác.
Trong lịch sử Đức Bồ Tát tiền thân của Đức Phật Gotama, có những kiếp Đức
Bồ Tát tạo ba-la-mật ở cõi người, khi hết tuổi thọ, do thiện nghiệp cho quả tái
sinh làm thiên nam trong cõi trời dục giới. Đức Bồ Tát không chịu hưởng sự an
lạc ở cõi trời ấy cho đến hết tuổi thọ, mà Ngài nguyện từ bỏ kiếp thiên nam ở
cõi trời ấy; do thiện nghiệp cho quả tái sinh làm người trong cõi người, để
thuận lợi cho việc tạo nhiều pháp hạnh ba-la-mật. Cho nên, cõi người là cõi rất
đặc biệt hơn các cõi khác như:
- Thuận lợi cho việc thực hành phạm hạnh cao thượng.
- Thuận lợi cho việc tạo mọi thiện pháp: Dục giới thiện pháp, sắc giới
thiện pháp, vô sắc giới thiện pháp và đặc biệt Siêu tam giới thiện pháp.
- Thuận lợi cho việc tạo 30 pháp hạnh ba-la-mật.
- Chư Phật Chánh Đẳng Giác, Chư Phật Độc Giác, chư Thánh Tối Thượng Thanh Văn
Giác, chư Thánh Đại Thanh Văn Giác đều xuất hiện tại cõi người này.
Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama bổ sung 30 pháp hạnh ba-la-mật
suốt 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp, được 24 Đức Phật Chánh Đẳng Giác thọ ký,
và trải qua vô số-vô số kiếp không sao kể xiết được, cho đến khi đầy đủ trọn
vẹn 30 pháp hạnh ba-la-mật. Đến kiếp áp chót Đức Bồ Tát tái sinh làm thiên nam
có tên Setaketu ở cõi trời Tusita (Đẩu Suất Đà Thiên) cõi
trời thứ 4 trong 6 cõi trời dục giới, nghỉ ngơi hưởng sự an lạc trong cõi trời
ấy.
THỈNH ĐỨC BỒ TÁT GIÁNG THẾ
Bốn Đức vua trời cõi Tứ Đại Thiên Vương, Đức vua trời Sakka cõi Tam Thập
Tam Thiên, Đức vua trời Suyāma cõi Dạ Ma Thiên, Đức vua trời Santussita
cõi Đẩu Suất Đà Thiên, Đức vua trời Sunimmita cõi Hóa Lạc Thiên, Đức vua
trời Vasavatti cõi Tha Hóa Tự Tại Thiên, cùng chư thiên 6 cõi trời dục
giới, chư phạm thiên các cõi trời sắc giới đồng tụ hội đến hầu Đức Bồ Tát thiên
nam Setaketu, tất cả đồng chắp tay bạch rằng:
- Kính bạch Đức Bồ Tát thiên nam Setaketu, Ngài đã tạo đầy đủ trọn vẹn pháp hạnh
ba-la-mật xong rồi. Các pháp hạnh ba-la-mật ấy không phải Ngài để mong ngôi vị
các vua trời, cũng không phải để mong sinh làm phạm thiên, cũng không phải để
mong ngôi vị Đức Chuyển Luân Thánh Vương; mà sự thật, các pháp hạnh ba-la-mật
ấy, giúp hỗ trợ Ngài chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, để thuyết pháp
tế độ chúng sinh, giải thoát khỏi khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.
Kính bạch Đức Bồ Tát thiên nam, bây giờ đúng lúc, đúng thời kỳ, để cho Ngài trở
thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác.
Kính bạch Đức Bồ Tát thiên nam, tất cả chúng con thành kính thỉnh Ngài tái sinh
làm người, để trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác, để thuyết pháp tế độ
chúng sinh, giải thoát khỏi khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.
Lắng nghe lời thỉnh cầu của chư thiên, phạm thiên, Đức Bồ Tát thiên nam Setaketu
chưa nhận lời thỉnh cầu ấy, mà Ngài quán xét trong thời quá khứ: “Chư Bồ Tát
kiếp chót tái sinh xuống làm người, để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, đã
quán xét như thế nào?
Quán xét 5 điều trước khi tái sinh
Theo lệ thường, Chư Bồ Tát kiếp chót tái sinh xuống làm người, thì phải quán xét
đầy đủ 5 điều như sau:
Quán xét thời kỳ tuổi thọ con người.
Quán xét châu đến tái sinh.
Quán xét xứ sở đến tái sinh.
Quán xét dòng họ nơi tái sinh.
Quán xét tuổi thọ của mẫu thân, để đầu thai.
Đức Bồ Tát thiên nam Setaketu quán xét từng điều:
1) Đức Bồ Tát quán xét thời kỳ tuổi thọ con người
Chư Phật Chánh Đẳng Giác không xuất hiện trên thế gian trong thời kỳ con người
có tuổi thọ trên 100 ngàn năm và trong thời kỳ con người có tuổi thọ dưới 100
năm. Bởi vì, nếu con người có tuổi thọ sống lâu trên 100 ngàn năm, thì mỗi khi
Đức Phật thuyết pháp rằng: “Sinh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ;
hoặc ngũ uẩn có trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã...”,
họ không hiểu rõ chánh pháp, phát sinh tâm hoài nghi. Do đó, Đức Phật Chánh
Đẳng Giác không xuất hiện trên thế gian vào trong thời kỳ ấy.
Và nếu con người có tuổi thọ ngắn ngủi dưới 100 năm, thời kỳ ấy con người có
phiền não nặng nề, làm cho tâm tư ô nhiễm tối tăm, thì mỗi khi Đức Phật thuyết
giảng chánh pháp vi tế cao siêu, họ khó hiểu rõ được chánh pháp ấy. Do đó, Đức
Phật Chánh Đẳng Giác cũng không xuất hiện trên thế gian vào trong thời kỳ ấy.
Trong quá khứ, Chư Phật thường xuất hiện trên thế gian, trong thời kỳ con người
có tuổi thọ khoảng 100 ngàn năm đến 100 năm. Khi ấy, con người có trí tuệ sáng
suốt, nếu lắng nghe Đức Phật thuyết pháp, thì có thể hiểu rõ được chánh pháp,
rồi thực hành theo chánh pháp dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc
4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba
giới bốn loài.
Đức Bồ Tát thiên nam Setaketu quán xét thấy rằng: Khi ấy, thời kỳ
con người có tuổi thọ khoảng 100 năm, đó là thời kỳ thích hợp cho Đức Phật
Chánh Đẳng Giác xuất hiện trên thế gian.
2) Đức Bồ Tát quán xét các châu đến tái sinh
Loài người có trong 4 châu: Đông Thắng Thần châu, Tây Ngưu Hóa châu, Nam Thiện
Bộ châu và Bắc Câu Lưu châu.
Trong quá khứ, Chư Phật chỉ xuất hiện trong cõi Nam Thiện Bộ châu mà
thôi, không xuất hiện ở ba châu khác. Do đó Đức Bồ Tát thiên nam Setaketu
quyết định tái sinh trong cõi Nam Thiện Bộ châu.
3) Đức Bồ Tát quán xét xứ sở đến tái sinh
Trong cõi Nam Thiện Bộ châu rộng lớn mênh mông, trong quá khứ, Đức Phật chỉ xuất
hiện trong Trung xứ (Majjhimapadesa) mà thôi, không xuất
hiện ở nơi xứ Biên địa. Do đó Đức Bồ Tát thiên nam Setaketu quyết định
tái sinh nơi Trung xứ vùng Sakka kinh thành Kapilavatthu.
4) Đức Bồ Tát quán xét dòng họ nơi tái sinh
Trong quá khứ, chư Bồ Tát kiếp chót trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác không
sinh trong dòng họ hạ tiện, nghèo khổ, mà chỉ sinh một trong hai dòng dõi là dòng
dõi Vua chúa hoặc dòng dõi Bàlamôn. Nếu thời kỳ
ấy, tất cả mọi người kính trọng dòng dõi Bàlamôn, thì Đức Bồ Tát kiếp chót sẽ
tái sinh vào trong dòng dõi Bàlamôn; hoặc nếu thời kỳ ấy, tất cả mọi người kính
trọng dòng dõi Vua chúa, thì Đức Bồ Tát sẽ tái sinh vào trong dòng dõi Vua
chúa.
Đức Bồ Tát thiên nam Setaketu quán xét thấy thời kỳ ấy, tất cả mọi người
đều kính trọng dòng dõi Vua chúa hơn dòng dõi Bàlamôn, nên Ngài quyết định sinh
vào dòng dõi Vua Sakya. Đức vua Suddhodana trải qua
nhiều đời vua tinh khiết (không lẫn lộn với dòng khác).
5) Đức Bồ Tát quán xét mẫu thân và tuổi thọ của bà
Mẫu thân của Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác trong kiếp chót phải là người đã từng
tạo 10 pháp hạnh ba-la-mật suốt 100 ngàn đại kiếp trái đất và được Đức Phật
Chánh Đẳng Giác trong quá khứ thọ ký rằng: Bà sẽ là mẫu thân của Đức Phật trong
thời vị lai.
Mẫu thân của Đức Bồ Tát ấy phải là người có ngũ giới hoàn toàn trong sạch và
trọn vẹn, không hề bị phạm giới nào; ngoài ngũ giới ra, bà còn phải thọ trì 8
giới (uposathasīla) trong những ngày giới hằng tháng. Đức Bồ Tát quán
xét thấy bà Mahāmayādevī, chánh cung Hoàng hậu của Đức vua Suddhodana,
có đầy đủ những tiêu chuẩn trên và tuổi thọ của bà Mahāmayādevī còn đúng
10 tháng lẻ 7 ngày, nên Đức Bồ Tát chọn bà Mahāmayādevī làm mẫu
thân của Ngài.
Sau khi quán xét đầy đủ 5 điều rồi, Đức Bồ Tát thiên nam Setaketu quyết
định tái sinh xuống làm người, để trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác.
Đức Bồ Tát thiên nam Setaketu truyền dạy rằng:
“Này chư thiên, chư phạm thiên, ta đồng ý nhận lời thỉnh cầu của các ngươi. Ta sẽ
tái sinh xuống làm người trong cõi Nam Thiện Bộ châu, Trung xứ, kinh thành
Kapilavatthu, trong dòng vua Sakya, Đức vua Suddhodana là phụ thân và bà
Mahāmayādevī, chánh cung Hoàng hậu của Đức vua Suddhodana, làm mẫu thân của ta”.
Sau khi lắng nghe lời truyền dạy của Đức Bồ Tát thiên nam Setaketu, tất
cả chư thiên, và chư phạm thiên vô cùng hoan hỷ cùng nhau tán dương ca tụng Đức
Bồ Tát thiên nam Setaketu. Sau đó, đều cùng nhau xin phép trở về cảnh
giới của mình. Chư thiên, chư phạm thiên loan báo cho khắp toàn thế giới chúng
sinh biết rằng:
“Đức Phật sẽ xuất hiện trên thế gian!”
Theo truyền thống của Chư Phật, có những điều cơ bản hoàn toàn giống nhau, Chư
Phật Chánh Đẳng Giác trong quá khứ như thế nào, thì Đức Phật Chánh Đẳng Giác
trong hiện tại cũng như thế ấy, và Chư Phật Chánh Đẳng Giác trong vị lai cũng
như thế ấy. Nếu có điều khác nhau, thì khác nhau những điều chi tiết như thời
gian tạo 30 pháp hạnh ba-la-mật, tuổi thọ, v.v...
ĐỨC BỒ TÁT TÁI SINH LÀM NGƯỜI
Đức Bồ Tát thiên nam Setaketu quyết định từ bỏ kiếp thiên nam ở cõi trời Tusita
(Đẩu Suất Đà Thiên) tái sinh đầu thai vào lòng mẫu thân Mahāmayādevī
chánh cung Hoàng hậu của Đức vua Suddhodana, kinh thành Kapilavatthu
vào ngày thứ năm, nhằm ngày rằm tháng sáu lúc canh chót.
Chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī thấy mộng lành
Vào ngày rằm tháng sáu (âm lịch), Chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī của
Đức vua Suddhodana đến hầu vị Đạo sư Kāladevila xin thọ trì uposathasīla
(bát giới). Canh chót đêm ấy, trước khi Đức Bồ Tát tái sinh đầu thai vào
lòng, bà Mahāmayādevī nằm mộng thấy Tứ Đại Thiên Vương cung nghinh bà
lên núi Himavanta, đặt bà nằm trên một tảng đá lớn gần hồ Anotatta.
Sau đó, có 4 chánh cung Hoàng hậu của Tứ Đại Thiên Vương cùng chư thiên nữ đến
tắm sạch sẽ cho bà, xoa các thứ vật thơm của cõi trời, dâng những đóa hoa trời
xinh đẹp, rồi cung nghinh bà đến một ngọn núi bằng bạc, có một lâu đài bằng
vàng nguy nga tráng lệ, và đặt bà nằm nghiêng bên phải nghỉ ngơi nơi đó. Khi
ấy, một con bạch tượng cao thượng hiện đến lâu đài bằng vàng nơi
bà đang nằm nghỉ ngơi. Con bạch tượng ấy đi vòng quanh nơi bà nằm 3 vòng, rồi
chui vào hông phía bên phải của bà.
Khi bà Mahāmayādevī đang nằm mộng, đó cũng là lúc Đức Bồ Tát thiên nam Setaketu
từ bỏ kiếp thiên nam ở cõi trời Tusita, đồng thời với đệ nhất đại quả tâm
(đại quả tâm thứ nhất, hợp với trí đồng sinh với hỷ không cần động viên) làm
phận sự tái sinh đầu thai vào lòng mẫu thân Mahāmayādevī, nhằm
vào ngày thứ năm canh chót đêm rằm tháng sáu (âm lịch).
Khi ấy, bà chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī có tuổi thọ được 55 năm 6
tháng 20 ngày (theo bộ Sumantacakkhudipani). Ngay lúc ấy, trái đất rùng mình
rung chuyển và có 32 hiện tượng xảy ra chưa từng thấy bao giờ; chư thiên, phạm
thiên trong 10 ngàn thế giới chúng sinh vô cùng hoan hỷ loan báo tin lành rằng:
“Đức Bồ Tát đã tái sinh rồi!”
Quân sư Bàlamôn đoán mộng
Chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī đã trải qua giấc mộng lành và
sau khi tỉnh dậy, bà đến chầu Đức vua Suddhodana và tâu trình lên Đức
vua về giấc mộng vừa qua. Sáng sớm hôm sau, Đức vua Suddhodana bèn
truyền lệnh cho mời nhóm Bàlamôn quân sư vào triều yết kiến. Sau khi thiết đãi
và ban thưởng xong, Đức vua bèn tường thuật lại giấc mộng canh chót đêm qua của
chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī cho nhóm quân sư Bàlamôn nghe để họ
cùng nhau suy đoán.
Đức vua truyền hỏi rằng:
- Thưa quân sư, giấc mộng như vậy có ý nghĩa như thế nào? Xin quý quân sư tâu cho
trẫm được rõ.
Một vị Bàlamôn trưởng bèn tâu rằng:
- Muôn tâu Đại vương, xin Đại vương an tâm, chánh cung Hoàng hậu đã thụ thai,
thai nhi không phải là Công chúa mà chắc chắn là Thái tử, Bậc cao thượng nhất.
Nếu Thái tử sống trong triều, thì sẽ là Đức Chuyển Luân Thánh Vương trị vì thiên
hạ có 4 biển làm ranh giới.
Nếu Thái tử bỏ nhà đi xuất gia, thì sẽ là Đức Phật Chánh Đẳng Giác cao thượng
nhất trong toàn cõi thế giới chúng sinh.
Oai lực kiếp chót của Đức Bồ Tát
Từ khi Đức Bồ Tát kiếp chót tái sinh đầu thai vào lòng mẫu thân, do oai lực của
Đức Bồ Tát, nên ngày đêm Tứ Đại Thiên Vương theo hầu, để tỏ lòng cung kính;
không phải theo hộ trì bà chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī; bởi vì, Đức
Bồ Tát kiếp chót có oai lực phi thường, nên không có một ai có thể làm hại bà
được.
Mẫu thân của Đức Bồ Tát có giới đức tự nhiên, bà không phải đến làm học trò vị
Đạo sư Kāḷadevila, để xin thọ giới như trước đây nữa; thân và tâm của bà
thường an lạc. Tâm tham muốn trong dục lạc không hề phát sinh và khi Đức vua Suddhodana
nhìn thấy bà liền phát sinh thiện tâm trong sáng, do đó Đức vua rất tôn trọng
bà.
Đức Bồ Tát phát triển và tăng trưởng ở trong bào thai mẫu thân, như ở trong một
căn phòng sạch sẽ và sang trọng. Đức Bồ Tát ngồi kiết già như vị Pháp sư đang
ngồi trên pháp tòa, cho đến khi tròn đủ 10 tháng.
Tiếp theo