ĐỨC BỒ TÁT ĐẢN SANH
Bà chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī biết gần đến ngày đản sinh Đức Bồ
Tát, bà đến chầu Đức vua Suddhodana bèn tâu rằng:
- Muôn tâu Bệ hạ, thần thiếp xin phép trở về cố quốc Vedeha để hạ sinh Thái tử.
Đức vua chuẩn tấu lời xin của bà và truyền lệnh cho các quan sửa sang đường sá
bằng phẳng, trang hoàng đẹp đẽ từ xứ Kapilavatthu cho đến xứ Vedeha,
để tiễn đưa chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī trở về cố quốc; Đức vua
còn truyền lệnh làm một chiếc kiệu mới thật sang trọng để cho bà ngự đi.
Mọi việc đều chuẩn bị sẵn sàng, bà chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī được
thỉnh ngự lên chiếc kiệu, các quan khiêng chiếc kiệu đi từ kinh thành Kapilavatthu
đến kinh thành Vedeha. Trên đường, khi đoàn người vừa đến khu vườn Lumbīnī,
hôm ấy, thật tuyệt vời! Cả muôn hoa đều đua nở và muôn chim cùng ca hót như
hân hoan đón mừng một sự kiện trọng đại. Bà chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī
muốn dừng kiệu lại, ghé vào vườn Lumbīnī, để du lãm.
Các quan tâu xin Đức vua, và Đức vua Suddhodana chấp thuận.
Chư thiên, chư phạm thiên tụ hội
Khi bà chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī ngự vào vườn Lumbīnī, hôm
ấy chư thiên, chư phạm thiên tụ hội tại khu vườn, và cả vạn thế giới chúng sinh
vui mừng reo hò rằng:
- “Hôm nay, tại khu vườn Lumbīnī này, Đức Bồ Tát sẽ đản sinh ra đời khỏi lòng bà
chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī”.
Chư thiên, chư phạm thiên, tay cầm những món quà từ cõi trời như vật thơm trời,
những đóa hoa trời, nhạc trời trổi lên để cúng dường Đức Bồ Tát cùng với những
chiếc lọng trắng che phủ khắp không gian.
Bà chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī ngự đến một cây Sālā có thân
to, cành cây đầy hoa đang nở rộ; khi bà đứng đưa cánh tay phải lên, thì cành
cây tự nhiên sà xuống, bà đưa tay nắm lấy cành cây với tư thế dáng đứng rất
đẹp. Đức Bồ Tát cao thượng sẽ đản sinh ra đời trong tư thế dáng đứng này; cho
nên các quan, các cung nữ che màn xung quanh nơi bà đang đứng. Bà chánh cung
Hoàng hậu Mahāmayādevī đứng trong tư thế dáng đứng vững vàng. Khi ấy, Đức
Bồ Tát cao thượng đản sinh ra đời khỏi lòng bà chánh cung Hoàng hậu
Mahāmayādevī bằng đôi chân ra trước, rồi xuôi hai tay, toàn thân mình sạch sẽ
ra sau, một cách suôn sẻ an lành cả Đức Bồ Tát lẫn mẫu thân của Ngài. Lúc đó,
vào ban ngày của ngày thứ 6, nhằm ngày rằm tháng tư (âm
lịch). Khi ấy, hai dòng nước ấm và lạnh từ trên hư không chảy xuống làm
cho sạch sẽ thân hình của Đức Bồ Tát và mẫu thân của Ngài.
Khi Đức Bồ Tát cao thượng vừa ra khỏi lòng bà chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī,
trước tiên 4 vị Đại Phạm Thiên có thiện tâm trong sạch, không bị ô nhiễm bởi
phiền não, mỗi vị cầm mỗi chéo tấm lưới bằng vàng đón nhận Đức Bồ Tát xong, rồi
đặt trước mặt bà chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī và tâu rằng:
- Muôn tâu chánh cung Hoàng hậu, xin bà phát sinh tâm hoan hỷ ! Đây là Thái tử
của bà, cũng là Đức Bồ Tát kiếp chót cao thượng. Ngài là Bậc đại phước có nhiều
oai lực nhất trong tất cả chúng sinh trong tam giới.
Sau đó, Đức Bồ Tát từ trên tay 4 vị Đại Phạm Thiên được trao sang cho 4 vị Tứ
Đại Thiên Vương đón tiếp bằng tấm da mềm mại; một lần nữa, Đức Bồ Tát từ tay 4
vị Tứ Đại Thiên Vương được trao sang cho các quan đón tiếp bằng tấm vải trắng
tinh.
Khi ấy, Đức Bồ Tát từ trên tay các quan, bước xuống đạp trên mặt đất bằng đôi
bàn chân bằng phẳng của Ngài, Đức Bồ Tát đứng quay mặt nhìn về hướng Đông, chư
thiên và nhân loại dâng hoa cúng dường Đức Bồ Tát, rồi tán dương ca tụng rằng:
- Kính bạch Đức Đại nhân, tất cả chúng sinh trong hướng này, Ngài là Bậc cao
thượng nhất, không có một ai cao thượng hơn Ngài.
Tiếp đến, Đức Bồ Tát quay mặt nhìn về hướng Nam... hướng Tây... hướng Bắc...
hướng Đông Nam< ... hướng Tây Nam ... hướng Tây Bắc... hướng Đông Bắc trong
tám hướng, mỗi hướng chư thiên và nhân loại đều dâng hoa cúng dường Đức Bồ Tát,
rồi tán dương ca tụng rằng:
- Kính bạch Đức Đại nhân, tất cả chúng sinh trong hướng này, Ngài là Bậc cao
thượng nhất, không có một ai cao thượng hơn Ngài.
Đức Bồ Tát cúi mặt nhìn xuống hướng dưới, rồi ngẩng mặt nhìn lên hướng trên, chư
thiên, chư phạm thiên đều dâng hoa tán dương và ca tụng rằng:
- Kính bạch Đức Đại nhân, chư thiên, chư phạm thiên hướng trên này, Ngài là Bậc
cao thượng nhất, không có chư thiên, chư phạm thiên nào cao thượng hơn Ngài.
Đức Bồ Tát đứng nhìn về hướng Bắc rồi bước đi 7 bước, bước đầu tiên Ngài bước
bằng chân phải (theo thói quen, Đức Phật bước chân phải trước tiên). Khi Đức Bồ
Tát bước đi, Vua trời phạm thiên cầm chiếc lọng màu trắng che cho Ngài, Đức vua Suyāma
cầm quạt lông, còn 3 thứ khác là đôi hia, gươm báu, vương miện, mỗi vị Vua
trời cầm mỗi thứ đi theo sau Đức Bồ Tát. Đó là 5 bảo vật của lễ phong Vương.
Đức Bồ Tát dừng lại ở bước chân thứ 7. Khi ấy tất cả chư thiên, chư phạm thiên
đều bảo với nhau rằng:
“Bây giờ, Đức Bồ Tát cao thượng sẽ truyền dạy những lời tối quan trọng”.
Đức Bồ Tát truyền dạy lời tối quan trọng đầu tiên
Tất cả đều im lặng, chờ lắng nghe, Đức Bồ Tát dõng dạc truyền dạy rằng:
"Aggo ham asmi lokassa!
Jeṭṭho ham asmi lokassa!
Seṭṭho ham asmi lokassa!
Ayamantimā jāti
Natthi dāni punabbhavo”.
Ta là Bậc cao cả nhất, trong toàn cõi thế giới chúng sinh!
Ta là Bậc vĩ đại nhất, trong toàn cõi thế giới chúng sinh!
Ta là Bậc Tối Thượng nhất, trong toàn cõi thế giới chúng sinh!
Kiếp này là kiếp chót của ta
Ta không còn tái sinh kiếp nào khác nữa!
Chư
thiên, chư phạm thiên và nhân loại vô cùng hoan hỷ, đồng thanh tán dương ca
tụng Đức Bồ Tát.
Bảy người và vật đồng sinh với Đức Bồ Tát
Đức Bồ Tát đản sinh ra đời, đồng thời có 7 người và vật cùng sinh với Đức Bồ
Tát:
- Công chúa Bhaddakaccānā gọi Yassodharā (là công chúa của Đức vua
Suppabuddha và chánh cung Hoàng hậu Amittādevī xứ Vedeha).
- Hoàng tử Ānanda (Hoàng tử của ông hoàng Amittodana dòng Sakya là hoàng
đệ của Đức vua Suddhodana).
- Channa (quan giữ ngựa).
- Kāḷudāyī (vị quan cận thần).
- Ngựa báu Kaṇḍaka.
- Cây Mahābodhi (cây assattha mọc trong rừng Uruvela sau này trở
thành cây Mahābodhi của Đức Phật Gotama).
- Bốn hầm vàng, kho báu trong kinh thành Kapilavatthu.
Chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī cùng Thái tử ngự trở về lại kinh thành Kapilavatthu.
Đầu thai sinh làm người có 4 hạng người
Sự tái sinh đầu thai sinh làm người có 4 hạng người, và có sự hiểu
biết qua ba thời kỳ khác nhau như sau:
1) Hạng người thường và Chư Bồ Tát Thanh Văn hạng thường, khi tái sinh đầu thai
sinh làm người, hoàn toàn không biết cả ba thời kỳ:
Không biết thời kỳ tái sinh đầu thai vào lòng mẹ.
Không biết thời kỳ đang ở trong lòng mẹ.
Không biết thời kỳ sinh ra đời khỏi lòng mẹ.
2) Chư Bồ Tát Đại Thanh Văn, khi tái sinh đầu thai sinh làm người kiếp chót, chỉ
biết một thời kỳ và không biết hai thời kỳ:
Trí tuệ biết thời kỳ tái sinh đầu thai vào lòng mẹ.
Không biết thời kỳ đang ở trong lòng mẹ.
Không biết thời kỳ sinh ra đời khỏi lòng mẹ.
3) Chư Bồ Tát Tối Thượng Thanh Văn và chư Bồ Tát Độc Giác, khi tái sinh đầu thai
làm người kiếp chót, biết được hai thời kỳ và không biết một thời kỳ:
Trí tuệ biết thời kỳ tái sinh đầu thai vào lòng mẹ.
Trí tuệ biết thời kỳ đang ở trong lòng mẹ.
Không biết thời kỳ sinh ra đời khỏi lòng mẹ.
4) Chư Bồ Tát Chánh Đẳng Giác, khi tái sinh đầu thai làm người kiếp chót, biết
rõ cả ba thời kỳ:
Trí tuệ biết rõ thời kỳ tái sinh đầu thai vào lòng mẹ.
Trí tuệ biết rõ thời kỳ đang ở trong lòng mẹ.
Trí tuệ biết rõ thời kỳ đản sinh ra đời khỏi lòng mẹ.
Như trường hợp Thái tử Siddhatta là Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác tái sinh đầu thai
sinh làm người kiếp chót sẽ trở thành Đức Phật Gotama, Ngài có trí tuệ
biết rõ cả ba thời kỳ:
* Ngài có trí tuệ biết rõ thời kỳ tái sinh đầu thai vào lòng mẫu thân: “Bà
chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī”.
* Ngài có trí tuệ biết rõ thời kỳ đang ở trong lòng mẫu thân, như ở trong căn
phòng sạch sẽ sang trọng, Đức Bồ Tát ngồi kiết già, như một vị Pháp sư ngồi
trên pháp tòa và mẫu thân của Ngài cũng biết được Ngài nữa.
* Ngài có trí tuệ biết rõ thời kỳ đản sinh, mẫu thân đứng trong tư thế vững vàng,
Đức Bồ Tát sinh ra bằng đôi chân ra trước, xuôi hai tay toàn thân mình ra sau
một cách suôn sẻ an toàn, như vị Pháp sư bước xuống pháp tòa.
Đó là trường hợp đặc biệt của Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác kiếp chót sẽ trở thành
Đức Phật Chánh Đẳng Giác.
Còn các hạng người khác như: Hạng người thường, chư Bồ Tát Thanh Văn, chư Bồ Tát
Đại Thanh Văn, chư Bồ Tát Tối Thượng Thanh Văn, chư Bồ Tát Độc Giác không biết
thời kỳ sinh ra đời khỏi lòng mẹ; bởi vì, khi sắp sinh ra, thai nhi bị nhào lộn
quay đầu xuống dưới, để cái đầu ra trước, thân mình ra sau, cửa ra chật hẹp còn
chịu đau đớn sợ hãi, tâm không còn bình tĩnh. Do đó, những hạng người ấy không
biết thời kỳ sinh ra đời khỏi lòng mẹ.
Tích vị Đạo sĩ Kāḷadevila
Đạo sĩ Kāḷadevila chứng đắc 8 bậc thiền, chứng đắc ngũ thông tam giới, là
vị Tôn sư của Đức vua Suddhodana.
Hôm ấy, vị Đạo sĩ Kāḷadevila độ ngọ trong cung điện của Đức vua Suddhodana
xong, liền lên cõi trời Tam Thập Tam Thiên nghỉ trưa trong một lâu đài, ngồi
nhập thiền để hưởng sự an lạc trong thiền định; khi xả thiền vị Đạo sĩ ra đứng
trước cửa, nhìn thấy Đức vua Sakka cùng chư thiên nam, chư thiên nữ hoan
hỷ vui mừng reo hò một cách khác thường, không giống như mọi ngày, vị Đạo sĩ
bèn hỏi rằng:
- Này chư thiên, tại sao hôm nay quý vị hoan hỷ vui mừng, reo hò ca hát vui vẻ
khác thường như vậy, quý vị có thể nói lý do ấy cho bần đạo nghe được hay
không?
Chư
thiên bạch rằng:
- Kính bạch Ngài Đạo sĩ, hôm nay Thái tử của Đức vua Suddhodana đã sinh ra đời
rồi. Khi Thái tử trưởng thành sẽ từ bỏ nhà xuất gia và trở thành Đức Phật Chánh
Đẳng Giác, thuyết pháp Chuyển Pháp Luân tế độ cho chúng sinh: Nhân loại và chư
thiên, phạm thiên có cơ hội được lắng nghe chánh pháp, rồi thực hành theo chánh
pháp dẫn đến sự chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo- 4 Thánh
Quả và Niết Bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam giới.
Đó là nguyên nhân làm cho chúng tôi vô cùng hoan hỷ, vui mừng reo hò ca hát khác
thường như vậy!
Sau khi lắng nghe chư thiên trả lời như vậy, vị Đạo sĩ Kāḷadevila liền từ
cõi trời Tam Thập Tam Thiên hiện xuống cõi người, đi vào cung điện của Đức vua Suddhodana;
Đức vua cung kính đón tiếp, thỉnh mời ngồi chỗ cao quý, Đức vua đảnh lễ xong,
ngồi một nơi hợp lẽ. Khi ấy, vị Đạo sĩ Kāḷadevila bèn hỏi rằng:
- Này Đại vương, bần đạo nghe nói rằng Thái tử của Đức vua đã sinh ra đời rồi,
bần đạo xin được chiêm ngưỡng Thái tử.
Đức vua Suddhodana truyền lệnh thay trang phục cho Thái tử xong, rồi
thỉnh Thái tử ra mắt đảnh lễ vị Đạo sĩ Kāḷadevila. Khi ra trước mặt vị
Đạo sĩ Kāḷadevila, Đức Bồ Tát Thái tử liền hiện lên đứng trên đầu vị Đạo
sĩ Kāḷadevila với tư thế vững vàng.
Vị Đạo sĩ Kāḷadevila nhận thấy Đức Bồ Tát Thái tử có oai lực phi thường,
nên vị Đạo sĩ đứng dậy dời xuống chỗ ngồi thấp, nhường chỗ ngồi cao quý lại cho
Đức Bồ Tát, Đạo sĩ chắp hai tay lễ bái Đức Bồ Tát Thái tử.
Đức vua Suddhodana nhìn thấy oai lực phi thường của Đức Bồ Tát Thái tử,
khiến Đức vua lần thứ nhất đảnh lễ Đức Bồ Tát Thái tử.
Đạo sĩ Kāḷadevila mỉm cười và khóc
Vị Đạo sĩ Kāḷadevila chứng đắc 8 bậc thiền và ngũ thông tam giới, có khả
năng đặc biệt thấy rõ, biết rõ trong thời quá khứ 40 đại kiếp, và trong thời vị
lai 40 đại kiếp, như vậy gồm 80 đại kiếp. Vị Đạo sĩ Kāḷadevila dùng trí
tuệ nhãn thông thấy rõ biết rõ thời vị lai của Đức Bồ Tát Thái tử sẽ có đầy đủ
32 tướng tốt chính và 80 tướng tốt phụ, trí tuệ thấy rõ biết rõ rằng:
“Không còn hoài nghi gì nữa, Đức Bồ Tát Thái tử này chắc chắn sẽ trở thành Đức
Phật Chánh Đẳng Giác”.
Vị Đạo sĩ Kāḷadevila phát sinh thiện tâm vô cùng hoan hỷ, nên mỉm miệng
cười.
Sau đó, vị Đạo sĩ Kāḷadevila quán xét thân phận của mình và thấy rõ rằng:
“Ta không có duyên lành gặp được Đức Phật và không được lắng nghe chánh pháp của
Ngài; bởi vì, ta sẽ chết trước khi Đức Bồ Tát Thái tử trở thành Đức Phật Chánh
Đẳng Giác. Vả lại, sau khi ta chết, do năng lực của đệ tứ thiền vô sắc: Phi
tưởng, phi phi tưởng xứ thiền sẽ cho quả tái sinh trong cõi trời vô sắc phi
tưởng phi phi tưởng xứ thiên, có tuổi thọ lâu 84.000 ngàn đại kiếp. Vì cõi vô
sắc chỉ có 4 danh uẩn, nên phạm thiên cõi vô sắc không có mắt để nhìn
thấy Đức Phật, không có tai để nghe chánh pháp của Đức Phật khi Ngài
xuất hiện trên thế gian”.
Khi vị Đạo sĩ Kāḷadevila biết mình không có duyên lành gặp được Đức Phật
và không nghe được chánh pháp của Ngài, cảm thấy tủi phận, nên tủi thân khóc.
Đức vua Suddhodana nhìn thấy vị Đạo sĩ Kāladevila khi thì mỉm miệng
cười, khi thì lại cảm động khóc bèn bạch hỏi rằng:
- Kính bạch Đạo sư, có tai họa nào xảy đến cho Thái tử của con không? Bạch Ngài.
Vị Đạo sĩ Kāladevila tâu rằng:
- Tâu đại vương, không có tai họa nào xảy đến cho Thái tử cả, Thái tử chắc chắn
sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác.
Bần đạo biết rõ như vậy nên mỉm miệng cười và bần đạo cũng biết rõ mình
không có duyên lành được gặp Đức Phật và lắng nghe chánh pháp của Ngài, bần đạo
cảm thấy tủi phận, nên tủi thân khóc.
Lễ đặt tên Đức Bồ Tát Thái tử
Đức Bồ Tát thái tử sinh ra đời được 5 ngày, thì Đức vua Suddhodana tổ
chức trọng thể buổi lễ gội đầu và đặt tên cho Đức Bồ Tát Thái tử. Đức vua Suddhodana
truyền lệnh mời 108 vị Bàlamôn thông hiểu ba bộ sách xem tướng (theo truyền
thống của Bàlamôn) vào cung điện để thiết đãi món ăn đặc biệt “cơm nấu
bằng sữa tươi nguyên chất”.
Trong số 108 vị Bàlamôn ấy, có 8 vị Bàlamôn đại trí là vị Bàlamôn Rāma, vị
Bàlamôn Dhaja, vị Bàlamôn Lakkhaṇa, vị Bàlamôn Jotimanta, vị
Bàlamôn Yañña, vị Bàlamôn Subhoja, vị Bàlamôn Suyāma và vị
Bàlamôn Sudatta; sau khi xem tướng, thấy Đức Bồ Tát có đầy đủ 32 tướng
tốt chính và 80 tướng tốt phụ. Trong 8 vị Bàlamôn đại trí, có 7 vị đồng đưa lên
2 ngón tay và đoán quả quyết rằng: Thái tử là Bậc có đầy đủ trọn vẹn các tướng
tốt chính và phụ này:
- Nếu sống tại cung điện, thì sẽ trở thành Đức Chuyển Luân Thánh Vương trị vì
thiên hạ có 4 biển làm ranh giới.
- Nếu từ bỏ nhà đi xuất gia, thì sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác.
Duy chỉ có một vị Bàlamôn trẻ tuổi nhất, thuộc dòng dõi Koṇḍanna tên là Bàlamôn
Sudatta, sau khi xem kỹ tướng của Đức Bồ Tát Thái tử xong, vị Bàlamôn
này chỉ đưa một ngón tay lên và đoán quả quyết rằng:
- Thái tử có đầy đủ trọn vẹn các tướng tốt chính và các tướng tốt phụ này, Thái
tử không thể nào sống tại cung điện, Thái tử sẽ từ bỏ nhà đi xuất gia, rồi chắc
chắn Ngài sẽ trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác.
Tất cả các vị Bàlamôn đại trí cũng đều nhất trí với nhau rằng:
“Thái tử chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác”.
Trong lễ gội đầu và đặt tên cho Đức Bồ Tát Thái tử, tất cả các vị Bàlamôn đại
trí đều nhất trí với nhau rằng: Đức Bồ Tát Thái tử chắc chắn sẽ trở thành một
Đức Phật Chánh Đẳng Giác, sẽ đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự
an lạc cho chúng sinh trong tam giới (tam giới theo danh từ Pāḷi gọi là
attha) và chắc chắn sẽ được thành tựu như ý (như ý theo
danh từ Pāḷi gọi là siddha). Hai danh từ này được ghép với nhau
thành tên của Đức Bồ Tát Thái tử là SIDDHATTHA (SIDDHA
+ ATTHA) nghĩa là sự lợi ích được thành tựu, hoặc Bậc đem
lại sự thành tựu mọi lợi ích cho chúng sinh.
Khi các bậc đại trí làm lễ đặt tên cho đứa trẻ nào, quý Ngài quán xét về tương
lai cuộc đời của đứa trẻ ấy, để đặt tên gọi cho phù hợp với cả cuộc đời đứa
trẻ. Thật ra, tên gọi nào cũng chỉ là danh từ riêng chế định mà thôi. Nếu danh
từ riêng ấy có ý nghĩa phù hợp với con người, thì tự nó có một tiềm năng động
viên khuyến khích con người ấy vượt qua mọi trở ngại, để xứng đáng với tên gọi
của mình.
Do đó, khi có đứa con sinh ra đời, gia đình thường mời các bậc đại trí đến nhà
xem tướng, rồi làm lễ đặt tên cho đứa con của mình.
32 TƯỚNG TỐT CỦA ĐỨC BỒ TÁT
KIẾP CHÓT
Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác (Sammāsambodhisatta) chắc chắn sẽ trở thành Đức
Phật Chánh Đẳng Giác (Sammāsambuddha), khi Đức Bồ Tát ấy đản
sinh ra đời có đầy đủ 32 tướng tốt chính của bậc Đại nhân và 80 tướng tốt phụ.
Đó là quả tốt của thiện nghiệp mà Đức Bồ Tát ấy đã tạo và tích lũy từ vô số-vô
số kiếp trong quá khứ, hoàn toàn không liên quan đến huyết thống cha mẹ hay
dòng dõi.
Tướng tốt của bậc Đại nhân như thế nào?
Bậc Đại nhân là người đàn ông cao thượng (mahāpurisa) mà các tướng tốt
đặc biệt ấy được biểu hiện ra bên ngoài thân hình, cho nên, gọi là tướng tốt của
bậc Đại nhân (mahāpurisalakkhaṇā).
Khoa xem tướng tốt của bậc Đại nhân là một trong các bộ môn mà dòng dõi Bàlamôn
trí thức thường dạy và học đầy đủ 32 tướng tốt của bậc Đại nhân, theo truyền
thống từ đời này sang đời khác của dòng dõi Bàlamôn, nhưng họ hoàn toàn không
biết rằng mỗi tướng tốt của bậc Đại nhân là quả của thiện nghiệp nào.
Trong kinh Lakkhaṇasutta, Đức Phật giảng dạy về 32 tướng tốt của bậc Đại
nhân và thiện nghiệp cho quả tướng tốt của bậc Đại nhân được tóm lược như sau:
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại ngôi chùa Jetavana của ông Phú hộ Anathapinḍika,
gần kinh thành Sāvatthi; tại nơi ấy Đức Thế Tôn gọi chư
Tỳ-khưu mà dạy rằng:
- Này chư Tỳ-khưu, bậc Đại nhân (mahāpurisa) có đầy đủ 32 tướng tốt này, chỉ có
hai con đường mà thôi, không có đường nào khác.
1- Nếu bậc Đại nhân sống tại gia, thì sẽ trở thành Đức Chuyển Luân Thánh Vương
hành thiện pháp, Đức Pháp Vương trị vì toàn cõi đất nước, có 4 biển làm ranh
giới, đều được bình yên vững chắc, và có đầy đủ 7 báu là: Long xa báu,
voi báu, ngựa báu, ngọc ma-ni báu, chánh cung Hoàng hậu báu, phú hộ báu, thừa
tướng báu; Đức Chuyển Luân Thánh Vương có hơn 1.000 Hoàng tử anh hùng
dũng cảm, có khả năng làm khuất phục mọi đội quân của kẻ thù. Đức Chuyển Luân
Thánh Vương luôn luôn chiến thắng kẻ thù bằng thiện pháp, không sử dụng cực
hình, khí giới; và trị vì trên toàn cõi đất nước có 4 biển làm ranh giới, không
có kẻ thù chống đối, không có mọi cảnh tượng xấu xảy ra trên toàn cõi đất nước,
mọi thần dân thiên hạ đều được sống trong cảnh thanh bình thịnh vượng.
2- Nếu bậc Đại nhân từ bỏ nhà đi xuất gia, thì sẽ trở thành Đức Arahán, Đức Phật
Chánh Đẳng Giác, đoạn tuyệt mọi cảnh khổ tử sinh luân hồi trong tam giới.
- Này chư Tỳ-khưu, 32 tướng tốt của bậc Đại nhân là như thế nào, mà bậc Đại nhân
có đầy đủ 32 tướng tốt ấy, chỉ có hai con đường mà thôi, không có con đường nào
khác.
Nếu bậc Đại nhân sống tại gia, thì sẽ trở thành Đức Chuyển Luân Thánh Vương...
hoặc nếu bậc Đại nhân từ bỏ nhà đi xuất gia, thì bậc Đại nhân ấy sẽ trở thành
Đức Arahán, Đức Phật Chánh Đẳng Giác...
32 TƯỚNG TỐT CỦA BẬC ĐẠI NHÂN
Đức Phật thuyết giảng Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác kiếp chót và chắc chắn sẽ trở
thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, Đức Bồ Tát ấy, khi đản sinh ra đời đều có đầy
đủ 32 tướng tốt của bậc Đại nhân như sau:
1) Hai bàn chân bằng phẳng, vững vàng đạp trên mặt đất...
2) Hai lòng bàn chân có dấu bánh xe, trục xe có một ngàn căm và đầy đủ các bộ
phận.
3) Hai gót chân dài (bằng một phần tư bàn chân).
4) Ngón tay dài và tròn trịa, đều đặn, thon như hình búp măng.
5) Hai bàn tay, hai bàn chân mềm mại.
6) Năm ngón tay, trừ ngón tay cái ra, 4 ngón còn lại đều dài bằng nhau, khít vào
nhau, và năm ngón chân dài bằng nhau, khít vào nhau, không có kẽ hở.
7) Hai mắt cá nằm cao cách bàn chân độ 2-3 lóng tay.
8) Đôi chân thon, phần trên lớn rồi nhỏ dần xuống dưới, tròn đẹp như đôi chân con
sơn dương.
9) Khi đứng thẳng, không cúi người xuống, hai bàn tay có thể sờ đụng hai đầu gối.
10) Ngọc hành được giấu kín trong bao da.
11) Toàn thân có da màu vàng, óng ánh xinh đẹp như màu vàng ròng.
12) Làn da mịn màng, do làn da mịn màng, trơn nhẫy, nên bụi không thể bám vào
thân hình.
13) Mỗi sợi lông mọc ở mỗi lỗ chân lông.
14) Lông có màu xanh và xoắn về bên phải, đầu lông hướng lên mặt.
15) Thân hình ngay ngắn như thân hình phạm thiên.
16) Bảy nơi trong thân hình có thịt đầy đặn là hai mu bàn tay, hai mu bàn chân,
hai bả vai và cổ (không nhìn thấy gân và xương).
17) Thân hình trên dưới đầy đặn như thân hình phía trên của sư tử chúa.
18) Hai hốc bả vai có thịt đầy đặn (không thấy xương vai).
19) Chiều cao của thân bằng sải tay, và sải tay bằng chiều cao của thân (cũng
như chiều cao của cây Nigrodha có chiều ngang bằng nhánh của cây ấy).
20) Cổ tròn trịa đầy đặn (khi nói không nổi gân cổ).
21) Bảy ngàn dây thần kinh rất tinh tế, tụ hội từ lưỡi đến cổ, tiếp nhận hương vị
vật thực để nuôi dưỡng cơ thể.
22) Cái cằm giống cằm của sư tử chúa.
23) Đầy đủ 40 cái răng: Hàm trên 20 cái răng và hàm dưới 20 cái răng.
24) Hàm răng trên và dưới đều đặn, có màu trắng xinh đẹp.
25) Hai hàm răng sắp đều đặn và khít vào nhau, không có kẽ hở.
26) Bốn cái răng nhọn sạch sẽ, trắng đẹp.
27) Lưỡi lớn và dài, mềm mỏng, có màu đỏ hồng xinh đẹp; lưỡi lớn có thể trùm được
cả mặt lên đến chân tóc, và lưỡi dài có thể le ra đến tận hai lỗ mũi, hai lỗ
tai.
28) Giọng nói như giọng của phạm thiên, rõ ràng, trong trẻo, ngọt ngào như tiếng
chim karavīka.
29) Đôi mắt xanh sẫm và trong sáng rất đẹp.
30) Đôi mắt tựa như đôi mắt con bê mới sinh.
31) Sợi lông uṇṇa mọc trên trán, ở khoảng giữa hai đầu lông mày, có màu trắng dài
mềm mại, xoắn bên phải, đầu lông hướng lên trên đầu rất đẹp.
32) Cái đầu tròn và có vầng trán cao rộng đẹp, đi vòng từ vành tai bên phải sang
vành tai bên trái.
Đó là 32 tướng tốt chính của bậc Đại nhân được biểu hiện đầy đủ trong thân hình
của Thái tử Siddhattha, Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác kiếp chót chắc chắn
sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác có danh hiệu Đức Phật Gotama.
Đức Phật dạy rằng:
- Này chư Tỳ-khưu, nhóm Đạo sĩ ngoại đạo có thể học hỏi ghi nhớ đầy đủ 32 tướng
tốt của bậc Đại nhân này, nhưng nhóm Đạo sĩ ấy không thể biết rằng: “Mỗi
tướng tốt của bậc Đại nhân là quả của thiện nghiệp nào”.
Thiện nghiệp cho quả 32 tướng tốt
32 tướng tốt chính của Đức Bồ Tát là quả của thiện nghiệp. Thiện nghiệp không
những cho quả tướng tốt của bậc Đại nhân, mà còn cho quả rộng lớn, vô cùng
phong phú đối với Đức Bồ Tát ấy và đối với mọi chúng sinh khác có liên quan đến
Đức Bồ Tát ấy.
Trong bài kinh Lakkhaṇasutta, Đức Phật giảng giải thiện nghiệp nào cho
quả các tướng tốt nào, và các quả liên quan đến thiện nghiệp ấy. 32 tướng tốt
của bậc Đại nhân ra quả của những thiện nghiệp như sau:
1- Tướng tốt: Bàn chân bằng phẳng, vững vàng đạp trên mặt đất.
Tướng tốt này là quả của thiện nghiệp nào?
Thiện nghiệp trong kiếp quá khứ
Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác đã từng sinh làm người trải qua nhiều đời nhiều kiếp
trong quá khứ:
Là người có quyết tâm cao độ trong mọi thiện pháp, không hề lay chuyển, khi thân
hành thiện, khẩu nói điều thiện, ý nghĩ điều thiện. Khi làm phước bố thí, thọ
trì ngũ giới, bát giới (uposathasīla) trong những ngày giới hằng tháng...;
trong việc phụng dưỡng cha mẹ, hộ độ Samôn, Bàlamôn, trong sự cung kính những
bậc Trưởng lão trong dòng họ và trong đời...
Sau khi mãn kiếp người, do thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm thiên nam trong
cõi trời dục giới, là một thiên nam có nhiều oai lực hơn tất cả các hàng chư
thiên khác về 10 quả báu trong cõi trời ấy là: Tuổi thọ sống lâu, sắc đẹp, sự an
lạc, danh thơm tiếng tốt, quyền lực cao nhất, sắc, hương, vị, xúc trong cõi
trời ấy.
Khi mãn kiếp thiên nam, cũng do thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm người.
Quả tốt trong kiếp hiện tại
Là Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác kiếp chót có được tướng tốt của bậc Đại nhân:
* Bàn chân bằng phẳng, vững vàng đạp trên mặt đất, chạm toàn bàn chân (gót chân,
giữa bàn chân, đầu ngón chân) bằng phẳng đầy đặn tiếp xúc cùng một lúc với mặt
đất.
Đức Bồ Tát có tướng tốt này.
Nếu Đức Bồ Tát ấy sống tại gia, thì sẽ trở thành Đức Chuyển Luân Thánh Vương, là
Đức Pháp Vương trị vì thần dân thiên hạ trên toàn cõi đất nước, có 4 biển làm
ranh giới...
Khi đã là Đức Chuyển Luân Thánh Vương, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:
Mọi kẻ thù đều chịu hàng phục theo Đức Chuyển Luân Thánh Vương.
Nếu Đức Bồ Tát ấy từ bỏ nhà đi xuất gia, thì sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng
Giác.
Khi đã là Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:
Không còn kẻ thù bên trong là phiền não: tham, sân, si..., và không có kẻ thù bên
ngoài như: Samôn, Bàlamôn, chư thiên, Ma vương, phạm thiên, hay bất cứ một
ai... trong đời này có thể gây tai hại cho Đức Phật được.
2- Tướng tốt: Hai lòng bàn chân có dấu bánh xe, trục xe có một ngàn căm và đầy đủ
các bộ phận.
Tướng tốt này là quả của thiện nghiệp nào?
Thiện nghiệp trong kiếp quá khứ
Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác đã từng sinh làm người trải qua nhiều đời, nhiều kiếp
trong quá khứ:
Là người có thiện tâm trong sạch giúp đỡ nhiều người, đem lại sự an lạc cho nhiều
người; làm giảm được sự sợ hãi kinh hồn cho nhiều người, trông nom bảo vệ mọi
người một cách hợp pháp. Đặc biệt, khi làm phước bố thí là chính, thì thường có
kèm theo những thứ phụ khác v.v...
Sau khi mãn kiếp người, do thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm thiên nam trong
cõi trời dục giới... Khi mãn kiếp thiên nam, do thiện nghiệp ấy cho quả tái
sinh làm người.
Quả tốt trong kiếp hiện tại
Là Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác kiếp chót có được tướng tốt của bậc Đại nhân:
* Hai lòng bàn chân có dấu bánh xe, trục xe có một ngàn căm và đầy đủ các bộ
phận.
Đức Bồ Tát có tướng tốt này.
Nếu Đức Bồ Tát ấy sống tại gia, thì sẽ trở thành Đức Chuyển Luân Thánh Vương, là
Đức Pháp Vương trị vì thần dân thiên hạ trên toàn cõi đất nước, có 4 biển làm
ranh giới...
Khi đã là Đức Chuyển Luân Thánh Vương thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:
Có bộ hạ tùy tùng đông đảo đó là các quan cận thần, các tướng lĩnh, các quân
lính, các Hoàng tử anh hùng dũng cảm, các hàng Bàlamôn, cư sĩ, toàn thể thần
dân thiên hạ tất cả đều một lòng trung thành với Đức Chuyển Luân Thánh Vương.
Nếu Đức Bồ Tát ấy từ bỏ nhà đi xuất gia, thì sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng
Giác.
Khi đã là Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:
Các hàng đệ tử đông đảo, đó là chư Tỳ-khưu, chư
Tỳ-khưu ni, cận sự nam, cận sự
nữ, nhân loại, chư thiên, Long vương, chư phạm thiên v.v... có đức tin trong
sạch nơi Đức Phật.
3- Tướng tốt: Hai gót chân dài (bằng một phần tư bàn chân).
4- Tướng tốt: Ngón tay dài và tròn trịa, đầy đặn, thon như hình búp măng.
5- Tướng tốt: Thân hình ngay ngắn như thân hình phạm thiên.
Ba tướng tốt này là quả của thiện nghiệp nào?
Thiện nghiệp trong kiếp quá khứ
Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác đã từng sinh làm người trải qua nhiều đời, nhiều kiếp
trong quá khứ:
Là người không sát sanh, tránh xa sự sát sanh, bỏ gậy gộc, bỏ khí giới, có tâm hổ
thẹn tội lỗi, tâm bi thương xót chúng sinh, mong tìm sự lợi ích, sự tiến hóa,
sự an lạc đến tất cả chúng sinh.
Sau khi mãn kiếp người, do thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm thiên nam trong
cõi trời dục giới... Khi mãn kiếp thiên nam, do thiện nghiệp ấy cho quả tái
sinh làm người.
Quả tốt trong kiếp hiện tại
Là Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác kiếp chót có được 3 tướng tốt của bậc Đại nhân:
- Hai gót chân dài (bằng một phần tư bàn chân).
- Ngón tay dài và tròn, đầy đặn, thon như hình búp măng.
Thân hình ngay ngắn như thân hình phạm thiên.
- Đức Bồ Tát có 3 tướng tốt này.
Nếu Đức Bồ Tát ấy sống tại gia, thì sẽ trở thành Đức Chuyển Luân Thánh Vương, là
Đức Pháp Vương trị vì thần dân thiên hạ trên toàn cõi đất nước có 4 biển làm
ranh giới...
Khi đã là Đức Chuyển Luân Thánh Vương thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:
Có tuổi thọ sống lâu, giữ gìn tuổi thọ sống lâu, mà kẻ thù nào cũng không thể sát
hại Đức Chuyển Luân Thánh Vương được.
Nếu Đức Bồ Tát ấy từ bỏ nhà đi xuất gia, thì sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng
Giác.
Khi đã là Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:
Có tuổi thọ sống lâu, giữ gìn tuổi thọ sống lâu, mà kẻ thù nào dù là Samôn,
Bàlamôn, chư thiên, Ma vương hoặc bất cứ một ai trong đời... đều không thể sát
hại Đức Phật Chánh Đẳng Giác được.
6- Tướng tốt: Bảy nơi trong thân hình có thịt đầy đặn là hai mu bàn tay, hai mu
bàn chân, hai bả vai và cổ (không nhìn thấy gân và xương).
Tướng tốt này là quả của thiện nghiệp nào?
Thiện nghiệp trong kiếp quá khứ
Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác đã từng sinh làm người trải qua nhiều đời, nhiều kiếp
trong quá khứ:
Là người làm phước bố thí vật thực gồm các món ăn toàn là những món ăn cao lương
mỹ vị, các thức uống ngon lành bổ dưỡng...
Sau khi mãn kiếp người, do thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm thiên nam trong
cõi trời dục giới... Khi mãn kiếp thiên nam, do thiện nghiệp ấy cho quả tái
sinh làm người.
Quả tốt trong kiếp hiện tại
Là Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác kiếp chót có được 1 tướng tốt của bậc Đại nhân:
Bảy nơi trong thân hình có thịt đầy đặn là hai mu bàn tay, hai mu bàn
chân, cổ và hai bả vai (không nhìn thấy gân và xương).
Đức Bồ Tát có tướng tốt này.
Nếu Đức Bồ Tát ấy sống tại gia, thì sẽ trở thành Đức Chuyển Luân Thánh Vương, là
Đức Pháp Vương trị vì thần dân thiên hạ trên toàn cõi đất nước có 4 biển làm
ranh giới...
Khi đã là Đức Chuyển Luân Thánh Vương, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:
Thường được thọ thực toàn những món cao lương mỹ vị, các thức uống ngon lành bổ
dưỡng.
Nếu Đức Bồ Tát ấy từ bỏ nhà đi xuất gia, thì sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng
Giác.
Khi đã là Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:
Thường được thọ thực toàn những món cao lương mỹ vị, các thức uống ngon lành bổ
dưỡng.
7- Tướng tốt: Hai bàn tay, hai bàn chân mềm mại.
8- Tướng tốt: Năm ngón tay, trừ ngón tay cái ra, bốn ngón còn lại đều dài bằng
nhau, khít vào nhau, và năm ngón chân dài bằng nhau, khít vào nhau, không có kẽ
hở.
Hai tướng tốt này là quả của thiện nghiệp nào?
Thiện nghiệp trong kiếp quá khứ
Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác đã từng sinh làm người trải qua nhiều đời, nhiều kiếp
trong quá khứ, thường hành 4 pháp tế độ:
- Bố thí đến chúng sinh nào cần sự bố thí.
- Nói lời dịu ngọt dễ nghe, khuyên răn họ tránh xa ác pháp, cố gắng hành thiện
pháp.
- Hành động đem lại sự lợi ích đến cho họ.
- Hòa mình cùng sống chung với họ, vui cùng vui, khổ cùng khổ.
Sau khi mãn kiếp người, do thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm thiên nam trong
cõi trời dục giới... Khi mãn kiếp thiên nam, do thiện nghiệp ấy cho quả tái
sinh làm người.
Quả tốt trong kiếp hiện tại
Là Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác kiếp chót có được 2 tướng tốt của bậc Đại nhân:
- Hai bàn tay, hai bàn chân mềm mại.
- Năm ngón tay trừ ngón tay cái ra, 4 ngón còn lại đều dài bằng nhau, khít vào
nhau, và năm ngón chân dài bằng nhau, khít vào nhau, không có kẽ hở.
Đức Bồ Tát có 2 tướng tốt này.
Nếu Đức Bồ Tát ấy sống tại gia, thì sẽ trở thành Đức Chuyển Luân Thánh Vương, là
Đức Pháp Vương trị vì thần dân thiên hạ trên toàn cõi đất nước có 4 biển làm
ranh giới...
Khi đã là Đức Chuyển Luân Thánh Vương, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:
Các bộ hạ tùy tùng một lòng trung thành với Đức Chuyển Luân Thánh Vương; các bộ
hạ tùy tùng đó là các quan cận thần, các tướng lĩnh, các quân lính, các Hoàng
tử, các hàng Bàlamôn, gia chủ, toàn thể thần dân thiên hạ..., luôn tuân theo
lệnh của Đức vua, làm cho Đức vua rất hài lòng.
Nếu Đức Bồ Tát ấy từ bỏ nhà đi xuất gia, thì sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng
Giác.
Khi đã là Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:
Các hàng đệ tử đều có đức tin trong sạch nơi Đức Phật. Các hàng đệ tử đó là
Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni, cận sự nam, cận sự nữ, nhân loại, Long vương, chư thiên, chư
phạm thiên đều trở thành bậc thiện trí, có đức tin trong sạch nơi Đức Phật,
lắng nghe chánh pháp và hành theo chánh pháp của Đức Phật.
9- Tướng tốt: Hai mắt cá nằm cao cách bàn chân độ 2-3 lóng tay.
10- Tướng tốt: Lông có màu xanh và xoắn về bên phải, đầu lông hướng lên mặt...
Hai tướng tốt này là quả của thiện nghiệp nào?
Thiện nghiệp trong kiếp quá khứ
Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác đã từng sinh làm người trải qua nhiều đời, nhiều kiếp
trong quá khứ:
Là người thường hay nói lời có ý nghĩa sâu sắc, hợp với thiện pháp, hướng dẫn dạy
bảo cho mọi người làm mọi phước thiện, là người có thiện tâm trong sáng, có tâm
từ mong đem lại sự lợi ích, sự an lạc đến cho tất cả chúng sinh, và đặc biệt là
người thường kính trọng chánh pháp, cúng dường chánh pháp.
Sau khi mãn kiếp người, do thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm thiên nam trong
cõi trời dục giới... Khi mãn kiếp thiên nam, do thiện nghiệp ấy cho quả tái
sinh làm người.
Quả tốt trong kiếp hiện tại
Là Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác kiếp chót có được 2 tướng tốt của bậc Đại nhân:
- Hai mắt cá nằm cao cách bàn chân độ 2-3 lóng tay.
- Lông có màu xanh và xoắn bên phải, đầu lông hướng lên mặt...
Đức Bồ Tát có 2 tướng tốt này.
Nếu Đức Bồ Tát ấy sống tại gia thì sẽ trở thành Đức Chuyển Luân Thánh Vương là
Đức Pháp Vương trị vì thần dân thiên hạ trên toàn cõi đất nước có 4 biển làm
ranh giới...
Khi đã là Đức Chuyển Luân Thánh Vương, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:
Đức vua là người vĩ đại nhất, người cao thượng nhất, người đứng đầu cao cả nhất
trong thần dân thiên hạ...
Nếu Đức Bồ Tát ấy từ bỏ nhà đi xuất gia, thì sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng
Giác.
Khi đã là Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:
Đức Phật là Bậc vĩ đại nhất, Bậc cao thượng nhất, Bậc cao cả nhất trong toàn cõi
thế giới chúng sinh.
11- Tướng tốt: Đôi chân thon, phần trên lớn rồi nhỏ dần xuống dưới, tròn đẹp như
đôi chân con sơn dương.
Tướng tốt này là quả của thiện nghiệp nào?
Thiện nghiệp trong quá khứ
Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác đã từng sinh làm người trải qua nhiều đời, nhiều kiếp
trong quá khứ:
Là người có thiện tâm, thiện chí giảng dạy các môn học, hoặc hướng dẫn nghề
nghiệp... bằng cách suy nghĩ rằng: “Làm cách nào, với phương pháp nào giúp cho
mọi người, dễ hiểu, dễ biết, nhanh chóng thành đạt... mà không phải chịu vất vả
khổ cực lâu ngày”.
Sau khi mãn kiếp người, do thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm thiên nam trong
cõi trời dục giới... Khi mãn kiếp thiên nam, do thiện nghiệp ấy cho quả tái
sinh làm người.
Quả tốt trong kiếp hiện tại
Là Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác kiếp chót có được tướng tốt của bậc Đại nhân.
Đôi chân thon, phần trên lớn rồi nhỏ dần xuống dưới, tròn đẹp như đôi chân con
sơn dương.
Đức Bồ Tát có tướng tốt này.
Nếu Đức Bồ Tát ấy sống tại gia, thì sẽ trở thành Đức Chuyển Luân Thánh Vương, là
Đức Pháp Vương trị vì thần dân thiên hạ trên toàn cõi đất nước có 4 biển làm
ranh giới...
Khi đã là Đức Chuyển Luân Thánh Vương, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:
Có long xa sang trọng xứng đáng với địa vị Đức Chuyển Luân Thánh Vương, có đội
quân hùng mạnh là bộ hạ tùy tùng của Đức vua, và những thứ đồ dùng xứng đáng
với địa vị của Đức vua được phát sinh như ý.
Nếu Đức Bồ Tát ấy từ bỏ nhà đi xuất gia, thì sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng
Giác.
Khi đã là Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:
Có những thứ vật dụng thích hợp với Samôn, có các hàng đệ tử là những bậc Thánh
Tối thượng Thanh Văn, bậc Thánh Đại Thanh Văn, bậc Thánh Thanh Văn đệ tử của
Đức Phật Chánh Đẳng Giác, và những đồ dùng của Samôn được phát sinh như ý.
12- Tướng tốt: Làn da mịn màng, do làn da mịn màng, trơn nhẫy, nên bụi không thể
bám vào thân hình.
Tướng tốt này là quả của thiện nghiệp nào?
Thiện nghiệp trong kiếp quá khứ
Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác đã từng sinh làm người trải qua nhiều đời, nhiều kiếp
trong quá khứ:
Là người thường đến gần gũi, thân cận các bậc Samôn, Bàlamôn, và bạch hỏi rằng:
Kính bạch Ngài.
Thế nào là thiện nghiệp?
Thế nào là bất thiện nghiệp?
Thế nào là có tội?
Thế nào là vô tội?
Nghiệp nào nên làm?
Nghiệp nào không nên làm?
Nghiệp nào đã tạo rồi cho quả xấu, chịu đau khổ lâu dài?
Nghiệp nào đã tạo rồi sẽ cho quả tốt, hưởng an lạc lâu dài?...
Sau khi mãn kiếp người, do thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm thiên nam trong
cõi trời dục giới... Khi mãn kiếp thiên nam, do thiện nghiệp ấy cho quả tái
sinh làm người.
Quả tốt trong kiếp hiện tại
Là Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác kiếp chót có được tướng tốt của bậc Đại nhân:
Làn da mịn màng, do làn da mịn màng, trơn nhẫy, nên bụi không thể bám vào thân
hình.
Đức Bồ Tát có tướng tốt này.
Nếu Đức Bồ Tát ấy sống tại gia, thì sẽ trở thành Đức Chuyển Luân Thánh Vương, là
Đức Pháp Vương trị vì thần dân thiên hạ trên toàn cõi đất nước có 4 biển làm
ranh giới...
Khi đã là Đức Chuyển Luân Thánh Vương, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:
Đức Chuyển Luân Thánh Vương là người có trí tuệ bậc nhất trong đời, mà những
người tại gia không một ai có trí tuệ sánh được với Đức vua.
Nếu Đức Bồ Tát ấy từ bỏ nhà đi xuất gia, thì sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng
Giác.
Khi đã là Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:
Đức Phật có trí tuệ ưu việt, trí tuệ rộng rãi, trí tuệ nhanh nhẹn, trí tuệ sắc
bén, trí tuệ diệt đoạn tuyệt mọi phiền não... trong tất cả mọi chúng sinh,
không một ai có trí tuệ sánh được với Đức Phật.
13- Tướng tốt: Toàn thân có da màu vàng, óng ánh xinh đẹp như màu vàng ròng.
Tướng tốt này là quả của thiện nghiệp nào?
Thiện nghiệp trong kiếp quá khứ
Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác đã từng sinh làm người trải qua nhiều đời, nhiều kiếp
trong quá khứ:
Là người không có tính sân hận, nóng nảy, không có tức giận, dù khi người khác
đến chọc tức, có tâm nhẫn nại không nổi giận, không bực tức, không buồn bực,
không tỏ nỗi bất bình hiện rõ ra bên ngoài; còn là người thường làm phước bố
thí đồ mặc bằng những thứ vải rất tốt đẹp, mịn màng như lụa, thứ vải dệt bằng
lông thú..., những tấm vải để lót nằm cũng rất tốt đẹp và mịn màng.
Sau khi mãn kiếp người, do thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm thiên nam trong
cõi trời dục giới... Khi mãn kiếp thiên nam, do thiện nghiệp ấy cho quả tái
sinh làm người.
Quả tốt trong kiếp hiện tại
Là Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác kiếp chót có được tướng tốt của bậc Đại nhân:
Toàn thân da có màu vàng, óng ánh xinh đẹp như màu vàng ròng.
Đức Bồ Tát có tướng tốt này.
Nếu Đức Bồ Tát ấy sống tại gia, thì sẽ trở thành Đức Chuyển Luân Thánh Vương, là
Đức Pháp Vương trị vì thần dân thiên hạ trên toàn cõi đất nước có 4 biển làm
ranh giới...
Khi đã là Đức Chuyển Luân Thánh Vương, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:
Có những đồ trang phục bằng những thứ vải rất tốt, quý giá mịn màng như lụa, lông
thú... và những đồ lót nằm cũng bằng những thứ vải quý giá, rất tốt đẹp mịn
màng.
Nếu Đức Bồ Tát ấy từ bỏ nhà đi xuất gia, thì sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng
Giác.
Khi đã là Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:
Có những tấm y bằng những thứ vải rất tốt, quý giá mịn màng như lụa, v.v... Và
những đồ lót nằm cũng bằng những thứ vải quý giá, rất tốt đẹp mịn màng.
14- Tướng tốt: Ngọc hành được giấu kín trong bao da.
Tướng tốt này là quả của thiện nghiệp nào?
Thiện nghiệp trong kiếp quá khứ
Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác đã từng sinh làm người trải qua nhiều đời, nhiều kiếp
trong quá khứ:
Là người thường hay đi tìm kiếm những người thất lạc lâu ngày đem trở về gặp lại
người thân yêu như: tìm đứa con thất lạc đem trở về gặp lại cha mẹ, hoặc đi tìm
người cha, hoặc mẹ thất lạc đem trở về gặp lại đứa con, đem em gặp lại anh,
hoặc đem anh gặp lại em, đem em gặp lại chị, hoặc đem chị gặp lại em, v.v...
Khi những người thân yêu gặp lại với nhau, họ vô cùng vui mừng sung sướng, Đức
Bồ Tát cũng vui mừng sung sướng cùng với niềm vui của họ.
Sau khi mãn kiếp người, do thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm thiên nam trong
cõi trời dục giới... Khi mãn kiếp thiên nam, do thiện nghiệp ấy cho quả tái
sinh làm người.
Quả tốt trong kiếp hiện tại:
Là Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác kiếp chót có được tướng tốt của bậc Đại nhân:
Ngọc hành được giấu kín trong bao da.
Đức Bồ Tát có tướng tốt này.
Nếu Đức Bồ Tát ấy sống tại gia, thì sẽ trở thành Đức Chuyển Luân Thánh Vương, là
Đức Pháp Vương trị vì thần dân thiên hạ trên toàn cõi đất nước có 4 biển làm
ranh giới...
Khi đã là Đức Chuyển Luân Thánh Vương, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:
Có hơn một ngàn Hoàng tử đều là những người anh hùng dũng cảm, có nhiều oai lực
chiến thắng mọi kẻ thù.
Nếu Đức Bồ Tát ấy từ bỏ nhà đi xuất gia, thì sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng
Giác.
Khi đã là Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:
Có rất nhiều đệ tử là bậc Thánh Thanh Văn dũng cảm, có nhiều oai lực chiến thắng
tuyệt đối mọi kẻ thù phiền não Ma vương, diệt đoạn tuyệt mọi phiền não tham ái.
15- Tướng tốt: Chiều cao của thân bằng sải tay, sải tay bằng chiều cao của thân;
cũng như chiều cao của cây Nigrodha có chiều ngang bằng cành của
cây ấy.
16- Tướng tốt: Khi đứng thẳng, không cúi người xuống, hai bàn tay có thể sờ đụng
hai đầu gối.
Hai tướng tốt này là quả của thiện nghiệp nào?
Thiện nghiệp trong kiếp quá khứ
Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác đã từng sinh làm người trải qua nhiều đời, nhiều kiếp
trong quá khứ:
Là người biết rõ những nhu cầu thiết yếu của người nên tế độ, biết rõ người này
xứng đáng được tế độ vật này, người kia xứng đáng được tế độ vật kia. Khi biết
rõ như vậy, rồi tế độ người ấy đúng theo nhu cầu thiết yếu của từng người.
Sau khi mãn kiếp người, do thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm thiên nam trong
cõi trời dục giới... Khi mãn kiếp thiên nam, do thiện nghiệp ấy cho quả tái
sinh làm người.
Quả tốt trong kiếp hiện tại:
Là Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác kiếp chót có được 2 tướng tốt của bậc Đại nhân:
Chiều cao của thân bằng sải tay, sải tay bằng chiều cao của thân; cũng như chiều
cao của cây Nigrodha có chiều ngang bằng cành của cây ấy.
Khi đứng thẳng, không cúi người xuống, hai bàn tay có thể sờ đụng hai đầu gối.
Đức Bồ Tát có tướng tốt này.
Nếu Đức Bồ Tát ấy sống tại gia, thì sẽ trở thành Đức Chuyển Luân Thánh Vương, là
Đức Pháp Vương trị vì thần dân thiên hạ trên toàn cõi đất nước có 4 biển làm
ranh giới...
Khi đã là Đức Chuyển Luân Thánh Vương thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:
Có nhiều của cải tài sản, có nhiều châu báu, vàng bạc, mọi thứ của cải đồ dùng
đều rất đáng hài lòng, các kho đầy của cải, lúa gạo.
Nếu Đức Bồ Tát ấy từ bỏ nhà đi xuất gia, thì sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng
Giác.
Khi đã là Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:
Có nhiều tài sản quý báu, đó là đức tin, giới, hổ thẹn với tội lỗi, ghê sợ tội
lỗi, nghe nhiều hiểu rộng, bố thí, trí tuệ; đặc biệt hơn nữa là của báu Siêu
tam giới 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn, đó cũng gọi là của báu.
17- Tướng tốt: Cổ tròn trịa đầy đặn (khi nói không nổi gân cổ).
18- Tướng tốt: Hai hốc bả vai có thịt đầy đặn (không nhìn thấy xương vai).
19- Tướng tốt: Thân hình trên dưới đầy đặn như thân hình phía trên của sư tử chúa.
Ba tướng tốt này là quả của thiện nghiệp nào?
Thiện nghiệp trong kiếp quá khứ
Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác đã từng sinh làm người trải qua nhiều đời, nhiều kiếp
trong quá khứ:
Là người có thiện tâm trong sạch mong tìm sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc, sự
giải thoát khỏi mọi ràng buộc cho phần đông chúng sinh. Với thiện tâm suy nghĩ
rằng: “Làm thế nào giúp cho những người ấy phát triển đức tin trong sạch, phát
triển giới trong sạch, phát triển sự hiểu biết nghe nhiều hiểu rộng, phát triển
mọi thiện pháp, phát triển sự bố thí, phát triển trí tuệ. Đời sống của họ được
phát triển của cải, lúa gạo ruộng vườn, gia súc; phát triển con cháu, bà con
dòng họ, bạn bè v.v...”
Sau khi mãn kiếp người, do thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm thiên nam trong
cõi trời dục giới... Khi mãn kiếp thiên nam, do thiện nghiệp ấy cho quả tái
sinh làm người.
Quả tốt trong kiếp hiện tại
Là Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác kiếp chót có được 3 tướng tốt của bậc Đại nhân:
- Cổ tròn trịa đầy đặn (khi nói không nổi gân cổ).
- Hai hốc bả vai có thịt đầy đặn (không nhìn thấy xương vai).
- Thân hình trên dưới đầy đặn như thân hình phía trên của sư tử chúa.
Đức Bồ Tát có 3 tướng tốt này.
Nếu Đức Bồ Tát ấy sống tại gia, thì sẽ trở thành Đức Chuyển Luân Thánh Vương, là
Đức Pháp Vương trị vì thần dân thiên hạ trên toàn cõi đất nước có 4 biển làm
ranh giới...
Khi đã là Đức Chuyển Luân Thánh Vương, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:
Không bị suy thoái mọi thiện pháp và cũng không bị suy thoái của cải tài sản, đàn
gia súc; không bị suy thoái con cháu bà con, bạn bè...
Nếu Đức Bồ Tát ấy từ bỏ nhà đi xuất gia, thì sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng
Giác.
Khi đã là Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:
Không bị suy thoái đức tin, giới, sự hiểu biết, nghe nhiều hiểu rộng, sự bố thí,
trí tuệ v.v...
20- Tướng tốt: Bảy ngàn dây thần kinh rất tinh tế, tụ hội từ lưỡi đến cổ, tiếp
nhận hương vị vật thực để nuôi dưỡng cơ thể.
Tướng tốt này là quả của thiện nghiệp nào?
Thiện nghiệp trong kiếp quá khứ
Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác đã từng sinh làm người trải qua nhiều đời, nhiều kiếp
trong quá khứ:
Là người không làm khổ tất cả chúng sinh bằng chân tay hoặc bằng gậy gộc, bằng
khí giới...
Sau khi mãn kiếp người, do thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm thiên nam trong
cõi trời dục giới... Khi mãn kiếp thiên nam, do thiện nghiệp ấy cho quả tái
sinh làm người
Quả tốt trong kiếp hiện tại
Là Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác kiếp chót có được tướng tốt của bậc Đại nhân:
Bảy ngàn dây thần kinh rất tinh tế, tụ hội từ lưỡi đến cổ, tiếp nhận hương vị vật
thực để nuôi dưỡng cơ thể.
Đức Bồ Tát có tướng tốt này.
Nếu Đức Bồ Tát ấy sống tại gia, thì sẽ trở thành Đức Chuyển Luân Thánh Vương, là
Đức Pháp Vương trị vì thần dân thiên hạ trên toàn cõi đất nước có 4 biển làm
ranh giới...
Khi đã là Đức Chuyển Luân Thánh Vương, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:
Ít bệnh hoạn đau ốm, ít vất vả; có đầy đủ chất ấm trong cơ thể giúp cho sự tiêu
hóa vật thực dễ dàng; cơ thể không nóng quá, cũng không lạnh quá.
- Nếu Đức Bồ Tát ấy từ bỏ nhà đi xuất gia, thì sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng
Giác.
Khi đã là Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:
Ít bệnh hoạn ốm đau, ít vất vả; có đầy đủ chất ấm trong cơ thể giúp cho sự tiêu
hóa vật thực dễ dàng; cơ thể không nóng quá, cũng không lạnh quá.
21- Tướng tốt: Đôi mắt xanh sẫm và trong sáng rất đẹp.
22- Tướng tốt: Đôi mắt tựa như đôi mắt con bê mới sinh.
Hai tướng tốt này là quả của thiện nghiệp nào?
Thiện nghiệp trong kiếp quá khứ
Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác đã từng sinh làm người trải qua nhiều đời, nhiều kiếp
trong quá khứ:
Là người không trợn mắt nhìn, là người có tâm chánh trực, có thói quen tự nhiên
nhìn thẳng mọi người với tâm từ, bằng đôi mắt dịu hiền đáng yêu mến...
Sau khi mãn kiếp người, do thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm thiên nam trong
cõi trời dục giới... Khi mãn kiếp thiên nam, do thiện nghiệp ấy cho quả tái
sinh làm người.
Quả tốt trong kiếp hiện tại
Là Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác kiếp chót có được 2 tướng tốt của bậc Đại nhân:
- Đôi mắt xanh sẫm và trong sáng rất đẹp.
- Đôi mắt tựa như đôi mắt con bê mới sinh.
Đức Bồ Tát có 2 tướng tốt này.
Nếu Đức Bồ Tát ấy sống tại gia, thì sẽ trở thành Đức Chuyển Luân Thánh Vương, là
Đức Pháp Vương trị vì thần dân thiên hạ trên toàn cõi đất nước có 4 biển làm
ranh giới...
Khi đã là Đức Chuyển Luân Thánh Vương, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:
Tất cả mọi người đều kính yêu Đức Chuyển Luân Thánh Vương, Ngài là nơi hài lòng
kính yêu của các hoàng tử, các quan, các tướng lĩnh, các quân lính, các nhóm
Bàlamôn, phú hộ,... Tất cả thần dân thiên hạ đều kính yêu Đức Chuyển Luân Thánh
Vương và chỉ có một lòng trung thành tuyệt đối với Người.
Nếu Đức Bồ Tát ấy từ bỏ nhà đi xuất gia, thì sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng
Giác.
Khi đã là Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:
Phần đông chúng sinh đều kính trọng Đức Phật, Đức Phật là nơi nương nhờ duy nhất
của chư Tỳ-khưu, chư Tỳ-khưu ni, các cận sự nam, cận sự nữ, nhân loại, chư
thiên, Long vương, chư phạm thiên. Tất cả các hàng đệ tử có đức tin trong sạch
nơi Đức Phật, luôn luôn kính yêu Đức Phật.
23- Tướng tốt: Cái đầu tròn, và có vầng trán cao, rộng, đẹp, đi vòng từ vành tai
bên phải sang vành tai bên trái.
Tướng tốt này là quả của thiện nghiệp nào?
Thiện nghiệp trong kiếp quá khứ
Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác đã từng sinh làm người trải qua nhiều đời, nhiều kiếp
trong quá khứ:
Là người đứng đầu mọi người trong mọi thiện pháp, là người dẫn đầu mọi người
trong các thiện pháp như thân hành việc thiện, khẩu nói điều thiện, ý nghĩ điều
thiện; việc làm phước bố thí, thọ trì ngũ giới, bát giới (uposathasila),
phụng dưỡng cha mẹ, hộ độ Samôn, Bàlamôn, kính trọng các bậc Trưởng lão trong
dòng họ, trong đời.
Sau khi mãn kiếp người, do thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm thiên nam trong
cõi trời dục giới... Khi mãn kiếp thiên nam, do thiện nghiệp ấy cho quả tái
sinh làm người.
Quả tốt trong kiếp hiện tại
Là Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác kiếp chót có được tướng tốt của bậc Đại nhân:
Cái đầu tròn, và có vầng trán cao rộng đẹp, đi vòng từ vành tai bên phải sang
vành tai bên trái.
Đức Bồ Tát có tướng tốt này.
Nếu Đức Bồ Tát ấy sống tại gia, thì sẽ trở thành Đức Chuyển Luân Thánh Vương, là
Đức Pháp Vương trị vì thần dân thiên hạ trên toàn cõi đất nước có 4 biển làm
ranh giới...
Khi đã là Đức Chuyển Luân Thánh Vương, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:
Mọi người tin theo Đức Chuyển Luân Thánh Vương. Ngài là người đứng đầu cao cả
nhất trong các Hoàng tử, các quan, các tướng lĩnh, các quân lính, các nhóm
Samôn, Bàlamôn, phú hộ, v.v...Tất cả thần dân thiên hạ đều tin theo Đức Chuyển
Luân Thánh Vương và chỉ có một lòng trung thành tuyệt đối theo Người.
Nếu Đức Bồ Tát ấy từ bỏ nhà đi xuất gia, thì sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng
Giác.
Khi đã là Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:
Phần đông chúng sinh có đức tin theo Đức Phật, Đức Phật là nơi nương nhờ duy nhất
của chư Tỳ-khưu, chư Tỳ-khưu ni, các cận sự nam, cận sự nữ, nhân loại, chư
thiên, Long vương, chư phạm thiên... Tất cả các hàng đệ tử có đức tin trong
sạch nơi Đức Phật, chỉ có nhất tâm tin theo Đức Phật mà thôi.
24- Tướng tốt: Mỗi sợi lông mọc ở mỗi lỗ chân lông.
25- Tướng tốt: Sợi lông uṇṇa mọc trên trán, ở khoảng giữa hai đầu lông mày, có màu
trắng, dài mềm mại xoắn bên phải, đầu lông hướng lên phía trên đầu rất đẹp.
Hai tướng tốt này là quả của thiện nghiệp nào?
Thiện nghiệp trong kiếp quá khứ
Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác đã từng sinh làm người trải qua nhiều đời, nhiều kiếp
trong quá khứ:
Là người không nói dối, tránh xa sự nói dối, không nói lời lừa dối mọi người; chỉ
nói lời chân thật, mỗi lời nói có chứng cứ, đem lại sự lợi ích.
Sau khi mãn kiếp người, do thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm thiên nam trong
cõi trời dục giới... Khi mãn kiếp thiên nam, do thiện nghiệp ấy cho quả tái
sinh làm người.
Quả tốt trong kiếp hiện tại
Là Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác kiếp chót có được 2 tướng tốt của bậc Đại nhân:
- Mỗi sợi lông mọc ở mỗi lỗ chân lông.
- Sợi lông uṇṇa mọc trên trán, ở khoảng giữa hai đầu lông mày, có màu trắng,
dài mềm mại xoắn bên phải, đầu lông hướng lên phía trên đầu rất đẹp.
Đức Bồ Tát có 2 tướng tốt này.
Nếu Đức Bồ Tát ấy sống tại gia, thì sẽ trở thành Đức Chuyển Luân Thánh Vương, là
Đức Pháp Vương trị vì thần dân thiên hạ trên toàn cõi đất nước có 4 biển làm
ranh giới...
Khi đã là Đức Chuyển Luân Thánh Vương, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:
Mọi người có đức tin theo lời truyền dạy của Đức Chuyển Luân Thánh Vương, và
tuyệt đối tuân theo lệnh của Người. Chánh cung Hoàng hậu, các Hoàng tử, các
Công chúa, các quan, các tướng lĩnh, quân lính, nhóm Bàlamôn, phú hộ cho đến
toàn thể thần dân thiên hạ một lòng tin nơi Đức Chuyển Luân Thánh Vương và
tuyệt đối tuân theo lệnh của Người.
Nếu Đức Bồ Tát ấy từ bỏ nhà đi xuất gia, thì sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng
Giác.
Khi đã là Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:
Các hàng Thanh Văn đệ tử lắng nghe theo lời giáo huấn của Đức Phật, phát sinh đức
tin trong sạch và thực hành theo lời dạy của Ngài. Các hàng Thanh Văn đệ tử đó
là chư Tỳ-khưu, chư Tỳ-khưu ni, cận sự nam, cận sự nữ, nhân loại, chư thiên,
Long vương, chư phạm thiên đều có đức tin trong sạch nơi Đức Phật và thực hành
theo lời dạy của Ngài.
26- Tướng tốt: Đầy đủ 40 cái răng: Hàm trên 20 cái răng và hàm dưới 20 cái răng.
27- Tướng tốt: Hai hàm răng sắp đều đặn và khít vào nhau, không có kẽ hở.
Hai tướng tốt này là quả của thiện nghiệp nào?
Thiện nghiệp trong kiếp quá khứ:
Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác đã từng sinh làm người trải qua nhiều đời, nhiều kiếp
trong quá khứ:
Là người không nói lời đâm thọc chia rẽ, tránh xa lời nói đâm thọc chia rẽ; chỉ
nói lời làm cho mọi người đoàn kết, tin tưởng nhau, thương yêu nhau; ca tụng
tình đoàn kết thương yêu nhau, hoan hỷ khi mọi người đoàn kết gắn bó với nhau.
Sau khi mãn kiếp người, do thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm thiên nam trong
cõi trời dục giới... Khi mãn kiếp thiên nam, do thiện nghiệp ấy cho quả tái
sinh làm người.
Quả tốt trong kiếp hiện tại
Là Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác kiếp chót có được 2 tướng tốt của bậc Đại nhân:
- Đầy đủ 40 cái răng: Hàm trên 20 cái răng và hàm dưới 20 cái răng.
- Hai hàm răng sắp đều đặn và khít vào nhau, không có kẽ hở.
Đức Bồ Tát có 2 tướng tốt này.
Nếu Đức Bồ Tát ấy sống tại gia, thì sẽ trở thành Đức Chuyển Luân Thánh Vương, là
Đức Pháp Vương trị vì thần dân thiên hạ trên toàn cõi đất nước có 4 biển làm
ranh giới...
Khi đã là Đức Chuyển Luân Thánh Vương, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:
Các bộ hạ tùy tùng của Đức Chuyển Luân Thánh Vương không bị chia rẽ, đoàn kết gắn
bó với nhau: Các bộ hạ tùy tùng đó là các Hoàng tử, các quan, các tướng lĩnh,
các quân lính, các nhóm Bàlamôn, phú hộ, toàn thể thần dân thiên hạ trong nước
đều đoàn kết gắn bó với nhau, chỉ một lòng trung thành tuyệt đối với Đức Chuyển
Luân Thánh Vương mà thôi.
Nếu Đức Bồ Tát ấy từ bỏ nhà đi xuất gia, thì sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng
Giác.
Khi đã là Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:
Các hàng Thanh Văn đệ tử của Đức Phật không bị chia rẽ, đoàn kết gắn bó với nhau.
Các hàng Thanh Văn đệ tử đó là: Chư Tỳ-khưu, chư
Tỳ-khưu ni, cận sự nam, cận sự
nữ, nhân loại, chư thiên, Long vương, chư phạm thiên đều đoàn kết gắn bó với
nhau, chỉ có đức tin trong sạch nơi Đức Phật mà thôi, một lòng lo phụng sự Tam
Bảo, duy trì chánh pháp của Đức Phật.
28- Tướng tốt: Lưỡi lớn và dài, mềm mỏng, có màu đỏ hồng xinh đẹp. Lưõi lớn có thể
trùm được cả mặt, lên đến chân tóc, và lưỡi dài có thể le ra đến tận hai lỗ
mũi, hai lỗ tai.
29- Tướng tốt: Giọng nói như giọng phạm thiên, rõ ràng, trong trẻo, ngọt ngào như
tiếng chim karavīka.
Hai tướng tốt này là quả của thiện nghiệp nào?
Thiện nghiệp trong kiếp quá khứ
Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác đã từng sinh làm người trải qua nhiều đời, nhiều kiếp
trong quá khứ:
Là người không nói lời thô tục, chửi rủa mắng nhiếc, tránh xa lời thô tục, chửi
rủa mắng nhiếc; chỉ nói lời không có lỗi, nghe êm tai, làm hài lòng người nghe.
Sau khi mãn kiếp người, do thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm thiên nam trong
cõi trời dục giới... Khi mãn kiếp thiên nam, do thiện nghiệp ấy cho quả tái
sinh làm người.
Quả tốt trong kiếp hiện tại:
Là Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác kiếp chót có được 2 tướng tốt của bậc Đại nhân:
- Lưỡi lớn và dài, mềm mỏng, có màu đỏ hồng xinh đẹp. Lưỡi lớn có thể trùm được
cả mặt, lên đến chân tóc, và lưỡi dài có thể le ra đến tận hai lỗ mũi, hai lỗ
tai.
- Giọng nói như giọng phạm thiên, rõ ràng, trong trẻo, ngọt ngào như tiếng chim
karavīka.
Đức Bồ Tát có 2 tướng tốt này.
Nếu Đức Bồ Tát ấy sống tại gia, thì sẽ trở thành Đức Chuyển Luân Thánh Vương, là
Đức Pháp Vương trị vì thần dân thiên hạ trên toàn cõi đất nước có 4 biển làm
ranh giới...
Khi đã là Đức Chuyển Luân Thánh Vương, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:
Lời nói của Đức Chuyển Luân Thánh Vương được phần đông mọi người tin theo. Phần
đông mọi người đó là các Hoàng tử, các quan, các tướng lĩnh, các quân lính, các
nhóm Bàlamôn, phú hộ, toàn thể thần dân thiên hạ đều tuyệt đối tin theo lời của
Đức Chuyển Luân Thánh Vương.
Nếu Đức Bồ Tát ấy từ bỏ nhà đi xuất gia, thì sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng
Giác.
Khi đã là Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:
Lời giáo huấn của Đức Phật được tất cả các hàng Thanh Văn đệ tử tin theo. Các
hàng Thanh Văn đệ tử đó là: Chư Tỳ-khưu, chư
Tỳ-khưu ni, cận sự nam, cận sự nữ,
nhân loại, chư thiên, Long vương, chư phạm thiên tin theo lời giáo huấn của Đức
Phật.
30- Tướng tốt: Cái cằm giống như cằm sư tử chúa.
Tướng tốt này là quả của thiện nghiệp nào?
Thiện nghiệp trong kiếp quá khứ
Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác đã từng sinh làm người trải qua nhiều đời, nhiều kiếp
trong quá khứ:
Là người không nói lời vô ích, tránh xa sự nói lời vô ích; chỉ nói lời có ích hợp
thời, lời chân thật, có ý nghiã sâu sắc, hợp với pháp, hợp với luật, có chứng
cớ rõ ràng, đem lại sự lợi ích thật sự.
Sau khi mãn kiếp người, do thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm thiên nam trong
cõi trời dục giới... Khi mãn kiếp thiên nam, do thiện nghiệp ấy cho quả tái
sinh làm người
Quả tốt trong kiếp hiện tại
Là Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác kiếp chót có được tướng tốt của bậc Đại nhân:
Cái cằm giống như cằm sư tử chúa.
Đức Bồ Tát có tướng tốt này.
Nếu Đức Bồ Tát ấy sống tại gia, thì sẽ trở thành Đức Chuyển Luân Thánh Vương, là
Đức Pháp Vương trị vì thần dân thiên hạ trên toàn cõi đất nước có 4 biển làm
ranh giới...
Khi đã là Đức Chuyển Luân Thánh Vương, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:
Không có một kẻ thù nào có thể gây tai hại đến Đức Chuyển Luân Thánh Vương được.
Nếu Đức Bồ Tát ấy từ bỏ nhà đi xuất gia, thì sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng
Giác.
Khi đã là Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:
Không có kẻ thù bên trong là phiền não, tham, sân, si... Không có kẻ thù bên
ngoài là Samôn, Bàlamôn, chư thiên, Ma vương, phạm thiên hoặc không một ai
trong đời có thể gây tai hại đến Đức Phật Chánh Đẳng Giác được.
31- Tướng tốt: Hàm răng trên và dưới đều đặn, có màu trắng xinh đẹp.
32- Tướng tốt: Bốn cái răng nhọn sạch sẽ, trắng đẹp.
Hai tướng tốt này là quả của thiện nghiệp nào?
Thiện nghiệp trong kiếp quá khứ
Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác đã từng sinh làm người trải qua nhiều đời, nhiều kiếp
trong quá khứ:
Là người không sống theo tà mạng, chỉ sống theo chánh mạng mà thôi. Tránh xa mọi
cách lừa đảo như cân gian, đồ giả, đong thiếu, lừa dối, tráo trở; tránh xa sự
trộm cắp, cướp của giết người...
Sau khi mãn kiếp người, do thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm thiên nam trong
cõi trời dục giới... Khi mãn kiếp thiên nam, do thiện nghiệp ấy cho quả tái
sinh làm người
Quả tốt trong kiếp hiện tại
Là Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác kiếp chót có được 2 tướng tốt của bậc Đại nhân:
- Hàm răng trên và dưới đều đặn, có màu trắng xinh đẹp.
- Bốn cái răng nhọn sạch sẽ, trắng đẹp.
Đức Bồ Tát có 2 tướng tốt này.
- Nếu Đức Bồ Tát ấy sống tại gia, thì sẽ trở thành Đức Chuyển Luân Thánh Vương,
là Đức Pháp Vương trị vì thần dân thiên hạ trên toàn cõi đất nước có 4 biển làm
ranh giới...
Có đầy đủ thất báu là Long xa báu, voi báu, ngựa báu, ngọc báu, người nữ báu (chánh
cung Hoàng hậu báu), phú hộ báu và thừa tướng báu, có hơn một ngàn
Hoàng tử đều là những người anh hùng dũng cảm có khả năng dẹp tan mọi đội quân
của kẻ thù.
Đức Chuyển Luân Thánh Vương có khả năng thắng mọi kẻ thù bằng thiện pháp, không
dùng đến quyền lực hình phạt, không dùng đến khí giới, trị vì trên toàn cõi đất
nước. Toàn thể thần dân thiên hạ sống trong cảnh thanh bình thịnh vượng, không
có chiến tranh, không có trộm cắp, cướp của giết người...
Khi đã là Đức Chuyển Luân Thánh Vương, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:
Bộ hạ tùy tùng của Đức Chuyển Luân Thánh Vương đều có thiện tâm trong sạch, không
bị ô nhiễm bởi phiền não, thân tâm được an lạc. Bộ hạ tùy tùng đó là chánh cung
Hoàng hậu, các Hoàng tử, các Công chúa, các quan cận thần, các tướng lĩnh, các
nhóm Bàlamôn, dân chúng trong thành, ngoại thành, toàn dân trên toàn cõi đất
nước đều có thiện tâm trong sạch, không bị ô nhiễm bởi phiền não, thân tâm
thường được an lạc.
- Nếu Đức Bồ Tát ấy từ bỏ nhà đi xuất gia, thì sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng
Giác.
Khi đã là Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:
Các hàng Thanh Văn đệ tử của Đức Phật Chánh Đẳng Giác đều có thiện tâm trong
sạch, không bị ô nhiễm bởi phiền não, bởi vì, bậc Thánh Thanh Văn đệ tử đã diệt
đoạn tuyệt được phiền não, tham ái. Các hàng Thanh Văn đệ tử đó là chư
Tỳ-khưu,
chư Tỳ-khưu ni, các hàng cận sự nam, cận sự nữ, chư thiên, chư phạm thiên là
những bậc Thánh. Dù những hàng Thanh Văn đệ tử còn phàm chưa phải bậc Thánh
Nhân, nhưng họ cũng có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, có giới trong sạch, có
thiện pháp phát triển và tăng trưởng, có thiện tâm trong sáng. Như vậy, các
hàng Thanh Văn đệ tử này của Đức Phật Chánh Đẳng Giác xem như trong sạch, không
bị phiền não làm ô nhiễm.
NHẬN XÉT VỀ NGHIỆP VÀ QUẢ CỦA NGHIỆP
Nghiệp và quả của nghiệp của mỗi chúng sinh là một trong bốn điều “bất khả tư nghì”
đối với tất cả chúng sinh; chỉ có Đức Phật Chánh Đẳng Giác mới có trí tuệ đặc
biệt thấy rõ biết rõ được nghiệp và quả của nghiệp không chỉ đối với Ngài, mà
còn đối với tất cả chúng sinh muôn loài nữa.
Thiện nghiệp, ác nghiệp của chúng sinh nào, thiện
nghiệp hoặc ác nghiệp có cơ hội cho qua trong thời kỳ tái sinh (paṭisandhikāla)
chỉ riêng cho chúng sinh ấy mà thôi, hoàn toàn không liên quan đến các
chúng sinh khác. Song quả của thiện nghiệp, ác nghiệp: nghĩa là thiện
nghiệp cho quả tốt, an lạc; còn ác nghiệp cho
quả xấu, khổ não, trong thời kỳ sau khi đã tái sinh (pavattikāla)
không chỉ riêng cho chúng sinh ấy mà quả của thiện nghiệp, hoặc quả của ác
nghiệp ấy còn có thể gây ảnh hưởng gián tiếp liên quan đến các chúng
sinh khác có quan hệ với chúng sinh ấy.
Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama trải qua vô số kiếp đã tạo các
pháp hạnh ba-la-mật từ thời kỳ phát nguyện ở trong tâm, khoảng thời gian suốt 7
a-tăng-kỳ; đến thời kỳ phát nguyện ra bằng lời nói, khoảng thời gian suốt 9
a-tăng-kỳ, cho đến thời kỳ được Đức Phật Dīpaṅkara thọ ký xác định thời
gian còn lại 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất nữa, chắc chắn sẽ trở
thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác có danh hiệu là Đức Phật Gotama; trải qua
các khoảng thời gian ấy, Đức Bồ Tát tiền thân của Đức Phật Gotama tạo 30
pháp hạnh ba-la-mật là thiện nghiệp có mục đích cứu cánh để trở
thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, những thiện nghiệp ấy được tích lũy từ kiếp này
sang kiếp khác, liên tiếp nhau không gián đoạn, cho đến kiếp chót cho quả tái
sinh làm người là kiếp Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha, khi Ngài hạ sinh
ra đời có đầy đủ 32 tướng tốt chính của bậc Đại nhân (mahāpurisalakkhaṇa),
và 80 tướng tốt phụ (anubyañjana); đó là quả của thiện nghiệp
ba-la-mật của Đức Bồ Tát đã tích lũy từ vô số kiếp trong quá khứ.
Đức Phật dạy trong kinh Lakkhaṇasutta, mỗi tướng tốt đều do quả trực tiếp
của mỗi thiện nghiệp ba-la-mật, được biểu hiện nơi kim thân của Đức Bồ Tát
Chánh Đẳng Giác kiếp chót, có đầy đủ 32 tướng tốt chính của bậc Đại nhân và 80
tướng tốt phụ; do đó, các vị Bàlamôn trí thức học rộng, hiểu biết bộ sách xem
tướng của dòng dõi Bàlamôn, mới có thể suy đoán biết Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha,
khi trưởng thành sẽ đi xuất gia và chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng
Giác.
Thật vậy, đúng theo lời suy đoán của các vị Bàlamôn trí thức, Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha
đi xuất gia năm 29 tuổi, và trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác năm 35 tuổi, đó
là quả của các thiện nghiệp ba-la-mật có mục đích cứu cánh của Ngài; đặc biệt
quả của các thiện nghiệp ba-la-mật ấy, không chỉ riêng cho Đức Phật, mà còn có
ảnh hưởng tốt đến các hàng Thanh Văn đệ tử của Ngài, từ thế hệ xưa cho đến thế
hệ ngày nay, và còn tiếp tục đến thế hệ mai sau, cho đến khi giáo pháp của Đức
Phật bị mai một hoàn toàn.
80 TƯỚNG TỐT PHỤ CỦA ĐỨC BỒ TÁT
KIẾP CHÓT (ANUBYANJANA)
Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng
Giác, khi Ngài đản sinh ra đời có đầy đủ 32 tướng tốt chính của bậc Đại nhân
(mahāpurisalakkhaṇa) và 80 tướng tốt phụ (anubyañjana).
Như trong bài kinh Āṭānātiyasutta có câu:
“Upetā Buddhadhammehi, Aṭṭharasāhi nāyakā
Bāttiṃsalakkhaṇūpetāsītānubyañjanādharā”.
Chư Phật có đầy đủ mười tám đức,
Ba mươi hai tướng tốt bậc Đại nhân,
Cùng trọn vẹn tám mươi tướng tốt phụ,
Chư
Phật cao thượng cả thân lẫn tâm.
Trong bộ Jinālaṅraṭīkā trình bày 80 tướng tốt phụ của Ngài như sau:
1. Bốn ngón tay dài bằng nhau (trừ ngón cái) khít vào nhau, và năm
ngón chân dài bằng nhau, khít vào nhau, không có kẽ hở.
2. Ngón tay, ngón chân từ gốc đến đầu thon mềm mại.
3. Ngón tay, ngón chân tròn trịa xinh đẹp. (3 tướng tốt phụ của ngón tay,
ngón chân)
4. Móng tay, móng chân đỏ hồng như ngọc.
5. Móng tay, móng chân cao nhọn hơi cong.
6. Móng tay, móng chân đẹp hoàn toàn. (3 tướng tốt phụ của móng tay, móng
chân)
7. Hai mắt cá bàn chân không lộ rõ.
8. Hai bàn chân, mỗi bàn chân có năm ngón dài bằng nhau.
9. Dáng chân bước đi đẹp, như bước chân của voi chúa.
10. Dáng chân bước đi thu thúc, như sư tử chúa.
11. Dáng chân bước đi đẹp, như con hạc chúa.
12. Dáng chân bước đi đẹp, như con bò chúa.
13. Chân phải bắt đầu bước đi trước. (5 tướng tốt phụ về dáng đi)
14. Hai đầu gối tròn trịa đẹp.
15. Đầy đủ tướng tốt của đàn ông.
16. Lỗ rốn tròn trịa không có nếp nhăn.
17. Lỗ rốn sâu.
18. Lỗ rún xoay tròn khu ốc bên phải. (3 tướng tốt phụ của lỗ rốn)
19. Hai cánh tay, hai ống chân thon giống như vòi của con voi.
20. Kim thân trên dưới cân đối xinh đẹp.
21. Toàn kim thân từ trên xuống dưới các bộ phận rất xinh đẹp.
22. Toàn kim thân không có tỳ vết.
23. Kim thân không mập, không gầy, cân đối.
24. Toàn kim thân không có nếp nhăn.
25. Toàn kim thân không có nốt ruồi, tàn nhang v.v...
26. Các bộ phận trong cơ thể trước sau xinh đẹp.
27. Toàn thân có da sạch sẽ trong sáng như vàng ròng. (9 tướng tốt phụ
của thân)
28 .Đức Phật có sức mạnh bằng 10 tỷ con voi khỏe mạnh.
29. Lỗ mũi cao và dài, đầu mũi hơi nhọn.
30. Lợi răng đỏ đậm.
31. Hàm răng sạch sẽ.
32. Hàm răng đều đặn đẹp đẽ. (2 tướng tốt phụ của hàm răng)
33. Mắt, tai, mũi, lưỡi hoàn toàn trong sáng thanh tịnh.
34. Bốn cái răng nhọn tròn trịa.
35. Đôi môi hồng đỏ (như màu đỏ lúc rạng đông).
36. Miệng rộng.
37. Hai lòng bàn tay có chỉ tay sâu đậm rõ ràng.
38. Chỉ tay dài.
39. Chỉ tay ngay thẳng.
40. Đường chỉ tay đẹp. (4 tướng tốt phụ của bàn tay)
41. Toàn thân phát ra ánh sáng độ một sải.
42. Đôi má đầy đặn.
43. Đôi mắt dài và rộng.
44. Đôi mắt bên trong có năm màu (xanh, vàng, đỏ, trắng và xám).
(2 tướng tốt phụ của đôi mắt)
45. Lưỡi hồng mềm mỏng.
46. Đôi lỗ tai có trái tai dài.
47. Những dây thần kinh không gút mắc.
48. Những dây thần kinh chìm sâu.
49. Cái đầu đẹp tròn trịa.
50. Vầng trán rộng cao đẹp.
51. Đôi lông mày cong tự nhiên.
52. Đôi lông mày hình dáng đẹp.
53. Lông mày mềm mại.
54. Lông mày từ đầu đến đuôi cong tự nhiên.
55. Lông mày lớn đẹp.
56. Lông mày dài. (6 tướng tốt phụ của lông mày)
57. Kim thân trẻ trung tuyệt vời (lúc nào cũng không thấy già).
58. Kim thân mát mẻ tuyệt vời.
59. Kim thân luôn luôn tỏa ra ánh sáng tuyệt vời.
60. Kim thân hoàn toàn sạch sẽ, không có dơ bẩn.
61. Kim thân mềm mại.
62. Kim thân trơn tru xinh đẹp.
63. Kim thân có mùi thơm.(7 tướng tốt phụ của kim thân)
64. Lông đều đặn.
65. Lông mềm mại.
66. Sợi lông uốn cong xoay bên phải.
67. Lông có màu xanh như bích ngọc.
68. Sợi lông tròn.
69. Sợi lông bóng láng. (6 tướng tốt phụ của sợi lông)
70. Hơi thở ra, hơi thở vào vô cùng vi tế.
71. Miệng có mùi thơm tho.
72. Tóc có màu xanh đen.
73. Tóc xoắn khu ốc bên phải.
74. Tóc hình dáng đẹp tự nhiên.
75. Tóc mềm mại.
76. Tóc không rối.
77. Tóc đều đặn (không cao, không thấp).
78. Tóc bóng láng. (7 tướng tốt phụ của sợi tóc)
79. Trên đỉnh đầu tóc có mùi thơm tho.
80. Trên đỉnh đầu phát ra tia hào quang.
Đó là 80 tướng tốt phụ của Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác kiếp chót chắc chắn sẽ trở
thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác.
Phật mẫu Mahāmayādevī quy thiên
Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha đản sinh ra đời đến ngày thứ bảy, chánh
cung Hoàng hậu Mahāmayādevī quy thiên, bởi vì, bà đã hết tuổi thọ. Bà
chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī hưởng thọ được 56 năm 4 tháng 27 ngày
ở cõi người. Sau khi chết, do thiện nghiệp cho quả tái sinh làm vị thiên nam
tên Santussita trong cõi trời Tusita (Đẩu Suất Đà Thiên)
tầng trời thứ tư trong 6 cõi trời dục giới. Tầng trời thứ tư này, chư thiên có
tuổi thọ 4.000 năm tuổi trời, so với thời gian cõi người bằng 576 triệu năm;
bởi vì 1 ngày 1 đêm ở cõi trời này bằng 400 năm ở cõi người.
Tuyển chọn nhũ mẫu
Đức vua Suddhodana truyền lệnh tuyển chọn nhũ mẫu để nuôi dưỡng Thái tử Siddhattha.
Những người đàn bà đủ tiêu chuẩn được tuyển chọn có 240 người, trong đó chọn 60
bà trực tiếp lo phục vụ Thái tử; ngoài ra, còn có 60 lính hầu và 60 vị quan
trông coi việc nuôi dưỡng Thái tử.
Khi Hoàng hậu Mahāmayādevī quy thiên, Đức vua Suddhodana tấn phong
bà Mahāpajāpatigotamī (em của bà Mahāmayādevī) lên ngôi vị
chánh cung Hoàng hậu. Bà chánh cung Hoàng hậu Mahāpajāpatigotamī hạ sinh
Hoàng tử Nanda, sau Thái tử Siddhattha 2-3 ngày. Bà Mahāpajāpatigotamī
vốn là bà dì ruột của Thái tử Siddhattha, bà tự đảm đương địa vị nhũ mẫu
nuôi dưỡng Thái tử Siddhattha, còn Hoàng tử Nanda, con đẻ của bà,
giao cho nhũ mẫu khác nuôi dưỡng.
Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha trưởng thành bằng bầu sữa ngọt lành của nhũ
mẫu chánh cung Hoàng hậu Mahāpajāpatigotamī.
Cuộc đời Thái tử Siddhattha
Năm Thái tử Siddhattha được mười sáu (16) tuổi thì Đức vua Suddhodana
truyền ngôi báu cho Thái tử.
Trong buổi lễ đăng quang lên ngôi vua của Thái tử Siddhattha cùng với lễ
thành hôn với Công chúa Yasodharā, Đức vua Siddhattha tấn phong
Công chúa Yasodharā lên ngôi vị chánh cung Hoàng hậu. Đức vua trị vì đất
nước được thanh bình thịnh vượng, thần dân thiên hạ được an cư lạc nghiệp.
Đức Thái Thượng Hoàng Suddhodana muốn Đức vua Siddhattha trở thành
Đức Chuyển Luân Thánh Vương, không muốn Đức Bồ Tát đi xuất gia để trở thành Đức
Phật Chánh Đẳng Giác; cho nên, Đức Thái Thượng Hoàng truyền lệnh cho các quân
lính ngăn cấm người già, người bệnh, người chết và bậc xuất
gia, phải xa cách không để cho Đức vua Siddhattha nhìn
thấy họ.
Đức Bồ Tát lên ngôi vua an hưởng sự an lạc trên ngai vàng thời gian trải qua 12
năm, chưa từng thấy cảnh nào để phát sinh động tâm (saṃvega).
Nguyên nhân Đức Bồ Tát đi xuất gia
Những sự kiện xảy ra theo tuần tự thời gian, khiến Đức Bồ Tát quyết định đi xuất
gia.
* Lần đầu tiên, vào ngày rằm tháng 6, Đức vua Bồ Tát đi du lãm vườn
thượng uyển. Trên đường đi, bỗng nhiên Ngài nhìn thấy một người già,
do chư thiên biến hóa, để làm cho Ngài phát sinh động tâm (samvega).
Thật vậy, Ngài chưa từng nhìn thấy người già như thế bao giờ, cho nên Ngài suy
tư: “Chắn chắn ta cũng có sự già như thế, không thể tránh khỏi sự già
được”. Nỗi ưu tư tràn ngập trong lòng, không còn muốn đi du lãm nữa,
Ngài truyền bảo người đánh xe đưa Ngài hồi cung.
* Lần thứ nhì, cách 4 tháng sau, vào ngày rằm tháng 10, Đức vua lại đi du
lãm vườn thượng uyển. Trên đường đi, lần này Ngài nhìn thấy một người bệnh,
cũng do chư thiên biến hóa. Như lần trước, Ngài suy tư: “Chắc chắn ta cũng có sự
bệnh như thế, không thể tránh khỏi sự bệnh được”. Tâm trạng u
buồn, Ngài truyền lệnh bảo người đánh xe đưa Ngài hồi cung.
* Lần thứ ba, cũng cách 4 tháng sau, vào ngày rằm tháng 2, để vơi bớt nỗi
buồn, Đức vua lại muốn đi du lãm vườn thượng uyển. Trên đường đi, bất chợt Ngài
nhìn thấy một người chết, cũng do chư thiên biến hoá. Như hai lần
trước, Ngài suy tư: “Chắc chắn ta cũng có sự chết như thế, không thể
tránh khỏi sự chết được”. Nỗi lo sợ phát sinh trong lòng, Ngài truyền
lệnh bảo người đánh xe đưa Ngài hồi cung.
Từ đó, Đức Bồ Tát lúc nào cũng suy tư về sự già, sự bệnh, sự chết. Ngài tự hỏi,
có con đường nào giải thoát sự già, sự bệnh, sự chết hay không? Sở dĩ có
sự già, sự bệnh, sự chết là vì có sự tái sinh. Ôi! Sự tái sinh
đáng kinh sợ thật!
* Lần thứ tư, 4 tháng sau, vào ngày rằm tháng 6, để khuây khỏa nỗi u
buồn, lo sợ trong lòng, một lần nữa, Đức vua đi du lãm vườn thượng uyển. Trên
đường đi, Ngài nhìn thấy một bậc xuất gia đang tĩnh tọa dưới cội
cây, tỏ vẻ an nhiên tự tại, cũng do chư thiên biến hóa, để làm cho Ngài nghĩ
đến việc xuất gia. Thật vậy, khi Đức Bồ Tát nhìn thấy bậc xuất gia Ngài liền
trút bỏ được mọi nỗi ưu tư nặng trĩu trong lòng về sự già, sự bệnh, sự chết.
Ngài quyết định xuất gia ngay đêm ấy, để tìm con đường giải thoát khỏi sự tái
sinh, là giải thoát khổ già, khổ bệnh, khổ chết... Hôm ấy, Đức Bồ Tát cảm thấy
vô cùng hoan hỷ, nên Ngài vẫn tiếp tục đi du lãm vườn thượng uyển.
Khi Đức Bồ Tát hồi cung, ngay trong đêm ấy Ngài nghe tin Hoàng hậu Yasodharā
đã hạ sinh Hoàng tử, tình thương con trỗi dậy trong lòng, Ngài than rằng: “Sự
ràng buộc lớn!”. Do đó, Hoàng tử được đặt tên là “Rāhula”.
Mặc dù vậy, chí nguyện xuất gia của Đức Bồ Tát vẫn không thay đổi;
đêm ấy, Ngài đến tìm Channa, quan giữ ngựa thân tín rồi bảo:
- Này Channa, đêm nay ta sẽ rời hoàng cung đi xuất gia, ngươi hãy sửa soạn cho ta
con ngựa Kandaka ngay bây giờ, và nhớ không để cho một ai hay biết.
Bỗng nhiên Ngài thoáng nghĩ: “Trước khi xuất gia, ta nên đến nhìn mặt Hoàng nhi”.
Ngài lén vào phòng Hoàng hậu Yasodhara, dưới ánh đèn mờ nhạt, Hoàng hậu
đang nằm nghiêng, choàng cánh tay trái qua Hoàng nhi, vì đứng đằng sau nên
không thể nhìn rõ mặt, Ngài thầm nghĩ: “Nếu ta đến gần e rằng Hoàng hậu sẽ thức
giấc, làm trở ngại việc xuất gia của ta trong đêm nay. Bây giờ, ta chưa nhìn
thấy mặt Hoàng nhi, thì chờ sau khi ta chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng
Giác, ta sẽ trở về gặp sau cũng không muộn”.
Đức Bồ Tát nhẹ nhàng bước ra, lên ngựa Kandaka, còn Channa đi theo
sau, vào lúc nửa đêm ngày rằm tháng sáu âm lịch, Ngài đã trốn
khỏi hoàng cung đi xuất gia. Mỗi vó ngựa đều có bàn tay chư thiên nâng đỡ,
không phát ra tiếng động, nên không một ai hay biết; khi đến cửa thành thì liền
có chư thiên mở cửa cho ngựa Kandaka phi nhanh qua.
Đức Bồ Tát đi qua khỏi ba xứ: xứ Sakya, xứ Koliya và xứ Malla khoảng
30 do tuần chỉ trong một đêm. Đến bờ sông Anoma, Ngài ra hiệu cho ngựa Kandaka
bay sang bờ bên kia, rồi Ngài nhẹ nhàng xuống ngựa bảo Channa rằng:
- Này Channa, ta sẽ xuất gia tại nơi đây, con hãy mang hết đồ trang phục nầy trở
về hoàng cung tâu cho Phụ vương ta biết.
Đức Bồ Tát lấy thanh gươm bén cắt tóc, chừa lại khoảng 2 lóng tay. Tất cả những
sợi tóc còn lại tự xoắn vòng xoáy theo khu ốc sang bên phải nằm sát trên da đầu
và Ngài cạo sạch râu. Chỉ một lần ấy thôi, từ đó về sau suốt cả cuộc đời, Ngài
không phải cắt tóc, cạo râu nữa.
Sau khi cắt tóc xong, Đức Bồ Tát cầm nắm tóc trên tay phát nguyện rằng:
- Nếu ta trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thì xin cho nắm tóc
này ở trên hư không, còn nếu ta không chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác,
thì nắm tóc này sẽ rơi xuống đất.
Đức Bồ Tát ném nắm tóc lên hư không. Thật phi thường thay! Nắm tóc bay bỗng lên
trên hư không khoảng một do tuần rồi đứng yên một chỗ. Lúc ấy, Đức vua trời Sakka
nhìn thấy bèn đem cái hôp bằng ngọc, cung kính đặt nắm tóc của Đức Bồ Tát
vào hộp, đem về tôn thờ ở ngôi tháp Culamanī tại cung Tam Thập Tam
Thiên.
Khi ấy, vị đại phạm thiên Ghaṭikāra, là bạn thân cũ từ tiền kiếp của Đức
Bồ Tát trong thời kỳ Đức Phật Kassapa, biết Đức Bồ Tát hôm nay xuất gia,
nên mang 8 thứ vật dụng của bậc Samôn là tam y, bình bát, dao cạo, kim chỉ, dây
thắt lưng và đồ lọc nước đến dâng cúng Ngài.
Đức Bồ Tát mặc y vàng màu lõi mít, tượng trưng như lá cờ chiến thắng của bậc
Thánh Arahán, trở thành bậc xuất gia, lúc Đức Bồ Tát được 29 tuổi.
Đức Bồ Tát thọ giáo pháp hành thiền định
Đức Bồ Tát tìm đến vị Đạo sư Ālāra Kālāmagotta xin thọ giáo. Vị Đạo sư
hân hoan tiếp nhận Ngài, rồi truyền dạy pháp hành thiền định. Trải qua một thời
gian tiến hành thiền định không lâu, Đức Bồ Tát đã chứng đắc được tứ thiền hữu
sắc, và chứng đắc đến đệ tam thiền vô sắc gọi là: Vô sở hữu xứ thiền (Akincannāyatanajjhāna)
ngang bằng với bậc thiền mà vị Đạo sư Ālāra Kālāmagotta đã chứng đắc. Vị
Đạo sư Ālāra Kālāmagotta tán dương ca tụng tài đức của Đức Bồ Tát rằng:
- Tôi đã chứng đắc bậc thiền vô sắc nào, thì hiền giả cũng chứng đắc được bậc
thiền vô sắc ấy. Hiền giả đã chứng đắc bậc thiền vô sắc nào, thì tôi cũng chứng
đắc được bậc thiền vô sắc ấy.
Này hiền giả, từ nay, hai chúng ta cùng làm Đạo sư dạy dỗ nhóm đệ tử này.
Ngài nghĩ rằng: “Bậc đệ tam thiền vô sắc Vô sở hữu xứ thiền này sẽ cho quả
tái sinh lên cõi phạm thiên vô sắc giới, Vô sở hữu xứ thiền, có tuổi thọ sống
lâu đến 60.000 đại kiếp, không phải là pháp dẫn đến sự nhàm chán ngũ uẩn, không
diệt tận được tham ái, không đoạn tuyệt được phiền não, không chứng ngộ chân lý
Tứ Thánh Đế, không tịch diệt Niết Bàn, không giải thoát được mọi cảnh khổ sinh,
lão, bệnh, tử, luân hồi trong tam giới”.
Đức Bồ Tát không bằng lòng với sở đắc của mình, nên Ngài xin từ giã vị Đạo sư Ālāra
Kālāmagotta khả kính, để đi tìm pháp môn khác, hầu mong giải thoát khổ
sinh, lão, bệnh, tử.
Sau khi từ giã vị Đạo sư Ālāra Kālāmagotta, Đức Bồ Tát tìm đến vị Đạo sư
Udaka Rāmaputta xin thọ giáo. Vị Đạo sư hân hoan tiếp nhận Ngài, rồi
truyền dạy pháp môn thiền định. Trải qua thời gian không lâu, Ngài đã chứng đắc
4 bậc thiền hữu sắc và chứng đắc đệ tứ thiền vô sắc gọi là: “Phi tưởng phi phi
tưởng xứ thiền” (Nevasannānāsannā-yatanajjhāna), là bậc thiền
tột đỉnh của thiền vô sắc giới, ngang bằng với bậc thiền mà vị Đạo sư Udaka
Rāmaputta đã chứng đắc. Vị Đạo sư tán dương ca tụng Ngài rằng:
- Tôi đã chứng đắc bậc thiền vô sắc tột đỉnh nào, hiền giả cũng chứng đắc bậc
thiền vô sắc tột đỉnh ấy. Hiền giả chứng đắc bậc thiền vô sắc tột đỉnh nào, tôi
cũng đã chứng đắc bậc thiền vô sắc tột đỉnh ấy.
Này hiền giả, tôi xin thỉnh hiền giả làm Đạo sư dạy dỗ nhóm đệ tử này.
Ngài suy xét rằng: “Bậc đệ tứ thiền vô sắc Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiền
này sẽ cho quả tái sinh lên cõi trời phạm thiên vô sắc giới, Phi tưởng
phi phi tưởng xứ thiên, có tuổi thọ sống lâu đến 84.000 đại kiếp, không phải là
pháp dẫn đến sự nhàm chán ngũ uẩn, không diệt tận được tham ái, không đoạn
tuyệt được phiền não, không chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, không tịch diệt Niết
Bàn, không giải thoát được mọi cảnh khổ sinh, lão, bệnh, tử, luân hồi trong tam
giới”.
Ngài xin từ giã Đạo sư Udaka Rāmaputta khả kính, để đi tìm pháp môn khác,
hầu mong giải thoát khổ sinh, lão, bệnh, tử.
Đức Bồ Tát hành pháp khổ hạnh (Dukkaracariyā)
Sau khi từ giã vị Đạo sư Udaka Rāmaputta, Đức Bồ Tát đi đến khu rừng Uruvela
gần con sông Nerañjarā, nơi đây có nhóm 5
Tỳ-khưu: Ngài Kondanna là
trưởng nhóm cùng các Ngài Vappa, Ngài Bhaddiya, Ngài Mahānāma
và Ngài Assaji, xin theo hộ độ Đức Bồ Tát.
Đức Bồ Tát tinh tấn hành pháp khổ hạnh (Dukkaracariyā), phương
pháp nín thở ra-vô bằng miệng và mũi, hơi thở thoát ra ở hai lỗ tai; rồi tiếp
tục nín thở ra-vô bằng miệng, bằng mũi và ngăn không để hơi thoát ra hai lỗ
tai, hơi đâm lên trên đầu đau dữ dội, hơi đâm xuống bụng đau tức tối, hơi nóng
phát ra toàn thân kinh khủng đến nỗi làm cho Ngài chết ngất.
Có số chư thiên tưởng rằng:
“Samôn Gotama đã chết rồi!”
Số khác tưởng rằng:
“Samôn Gotama đang gần chết!”.
Số khác cho rằng:
“Samôn Gotama không phải chết, cũng không phải đang gần chết, mà Samôn Gotama
đang hành pháp bậc Thánh Arahán!”.
Ngài tiếp tục giảm vật thực dần dần, ban đầu độ vật thực chỉ vừa lòng bàn tay,
từ từ giảm xuống chỉ còn bằng hạt sen... Do đó, kim thân của Ngài gầy ốm chỉ
còn da bọc xương, đến nỗi sờ da bụng, thì đụng phải đường xương sống. Trước kia
kim thân của Đức Bồ Tát có đầy đủ 32 tướng tốt chính của bậc Đại nhân và 80
tướng tốt phụ, có làn da màu vàng sáng ngời; đến nay, các tướng tốt chính và
các tướng tốt phụ đã biến mất, còn làn da đã trở thành màu đen sẫm.
Một hôm Đức Bồ Tát suy xét: “Ta đã hành pháp khổ hạnh đến chỗ cùng tột rồi. Trong
quá khứ, chưa từng có Samôn, Bàlamôn nào đã hành pháp khổ hạnh đến mức như ta
đang hành. Hiện tại và vị lai cũng sẽ không có Samôn, Bàlamôn nào có thể hành
pháp khổ hạnh như ta; thế mà, ta không thể chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng
Giác. Như vậy, chắc chắn phải còn có một pháp hành nào khác”.
Đức Bồ Tát hồi tưởng lại rằng: “Khi còn nhỏ cùng Phụ vương ra đồng làm lễ hạ
điền, Phụ vương để ta ngồi trong một chiếc lều vải dưới gốc cây mận (đào). Ta
đã ngồi niệm đề mục hơi thở vô - hơi thở ra, và ta đã chứng đắc đệ nhất thiền
hữu sắc. Vậy, chắc chắn pháp hành thiền định này làm nền tảng, ta có thể chứng
đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác cũng nên”.
Đức Bồ Tát xét thấy rằng: “Bây giờ, thân thể của ta gầy ốm, sức khỏe yếu đuối, ta
không thể tiến hành thiền định đề mục niệm hơi thở vô - hơi thở ra được. Vậy
điều tốt hơn hết, ta nên thọ thực trở lại, cho có sức khỏe rồi ta mới có thể
tiến hành thiền định”.
Đức Bồ Tát từ bỏ khổ hạnh, đi khất thực
Đức Bồ Tát đã hành pháp khổ hạnh suốt 6 năm trường ròng rã, mà không đạt đến mục
đích chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, nên Ngài đã từ bỏ hành pháp khổ
hạnh.
Đức Bồ Tát mang bát vào xóm Senā đi khất thực; thọ thực được thời gian
không lâu, sức khoẻ của Ngài được hồi phục trở lại. Trong thời kỳ hành pháp khổ
hạnh, 32 tướng tốt chính của bậc Đại nhân và 80 tướng tốt phụ biến mất. Nay kim
thân Ngài lại hiện rõ 32 tướng tốt chính của bậc Đại nhân và 80 tướng tốt phụ,
có nước da màu vàng sáng ngời như trước.
Vào ngày 14 tháng tư âm lịch, canh chót đêm ấy, Đức Bồ Tát nằm thấy 5 đại mộng
(Mahāsupina). Qua 5 đại mộng này, Ngài đoán biết rằng Ngài chắc chắn sẽ
chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác.
Sáng hôm rằm tháng tư âm lịch, Ngài đi đến ngồi dưới gốc cây da để chờ đến giờ
đi vào xóm khất thực. Tại nơi đây, hằng năm, vào ngày rằm tháng tư này, nàng Sujātā
thường đem lễ vật đến cúng dường, tạ ơn chư thiên, theo lời nguyện của nàng.
Nàng Sujātā là con gái của ông phú hộ Mahāsena ở làng Senā gần
khu rừng Uruvela, khi nàng trưởng thành có đến gốc cây da này cầu nguyện
rằng:
“Khi tôi trưởng thành được kết duyên với người cùng dòng dõi, giai cấp và sinh
được một đứa con trai đầu lòng. Nếu tôi được toại nguyện, thì hằng năm vào ngày
rằm tháng tư (âm lịch), tôi sẽ làm lễ cúng dường tạ ơn chư thiên”.
Lời cầu nguyện của nàng được thành tựu như ý; cho nên, hằng năm vào ngày rằm
tháng tư âm lịch, nàng thường đem cơm sữa đến cúng dường tạ ơn chư thiên.
Từ sáng sớm, nàng Sujātā đã thức dậy vắt sữa tinh khiết của 8 con bò, khi
nàng đem nồi đựng sữa để gần vú con bò thứ nhất, thì dòng sữa tự nhiên chảy ra
một mạch. Thật là một việc lạ thường chưa từng có bao giờ! Lần lượt 7 con bò
còn lại, dòng sữa cũng chảy ra một mạch như vậy. Khi nàng đổ sữa vào nồi nấu
cơm, sữa sôi xoay tròn bên phải, không một giọt nào chảy tràn ra bên ngoài, còn
lửa củi cháy đều không có một làn khói nào bốc lên. Sở dĩ, có những việc lạ
thường như vậy, là vì buổi sáng hôm ấy có Tứ Đại Thiên Vương trông coi lò lửa,
vua trời Sakka lấy củi bỏ vào lò, vua trời phạm thiên che dù, tất cả chư
thiên đem những chất bổ dưỡng do năng lực của mình bỏ vào nồi cơm sữa.
Nàng Sujātā gọi tớ gái tên Punnā bảo rằng:
- Này Punnā, hôm nay chư thiên của ta thật đáng kính, trước đây ta chưa từng
chứng kiến những hiện tượng lạ thường như thế này!
Con hãy mau đến cội cây da quét dọn cho sạch sẽ, để chúng ta mang cơm sữa đến
dâng cúng, tạ ơn chư thiên.
Người tớ gái Punnā vâng lời đến gốc cây da để quét dọn, cô nhìn thấy Đức
Bồ Tát đang ngồi quay mặt về hướng Đông, từ kim thân của Ngài phát ra hào quang
sáng ngời toả khắp quanh vùng, cô nghĩ rằng: “Sáng hôm nay, vị Thiên thần của
chúng ta hiện xuống ngồi đợi thọ nhận cơm sữa cúng dường”, nghĩ vậy nên
cô vô cùng hoan hỷ vội vàng trở về báo tin mừng cho bà chủ biết.
Nàng Sujātā nghe lời tường trình rõ ràng của người tớ gái, trong lòng cảm
thấy vui mừng khôn xiết và bảo rằng:
- Này Punnā, kể từ hôm nay, con trở thành con gái của ta. Nói xong, nàng ban cho
những đồ trang sức quý giá, xứng đáng với địa vị đứa con gái của mình.
Nàng Sujātā đem chiếc mâm bằng vàng để đựng cơm, khi nàng đặt mâm gần nồi
cơm, thì cơm sữa trong nồi tự nhiên viên lại thành vắt bằng trái thốt nốt lăn
ra tuần tự từ nồi sang mâm đúng 49 vắt, thì vừa đầy mâm.
Nàng lại chứng kiến thêm một việc lạ thường chưa từng có bao giờ. Nàng lấy một
chiếc mâm khác đậy lại rồi phủ lên một lớp vải trắng tinh.
Hôm ấy, nàng Sujātā trang điểm bằng những đồ trang sức quý giá, rồi đội
mâm cơm sữa cùng người con gái Punnā đi theo sau đến gốc cây da. Nhìn
thấy Đức Bồ Tát có đầy đủ tướng tốt chính của bậc Đại nhân và tướng tốt phụ,
hào quang tỏa ra từ kim thân của Ngài sáng khắp vùng. Thấy vậy làm cho nàng lại
càng phát sinh đức tin trong sạch và vô cùng hoan hỷ chưa từng có bao giờ; vì
nàng tưởng rằng Ngài là một vị Thiên thần hiện xuống thọ nhận phẩm vật cúng
dường tạ ơn của nàng.
Nàng Sujātā cung kính đến gần Đức Bồ Tát, đặt chiếc mâm vàng đầy cơm sữa
cùng bình nước, hoa quả, vật thơm..., cung kính dâng lên Ngài, cái bát của Ngài
bỗng nhiên biến mất, Ngài nhìn nàng Sujātā. Nàng liền bạch rằng:
- Kính bạch Đức Thiên thần, con thành kính dâng Ngài chiếc mâm vàng đầy phẩm vật
này, kính xin Ngài từ bi hoan hỷ thọ nhận, để cho con được sự lợi ích, sự tiến
hoá, sự an lạc lâu dài; con được toại nguyện như thế nào, kính xin Ngài cũng
được toại nguyện như thế ấy”.
Đức Bồ Tát đưa hai tay ra nhận lấy chiếc mâm vàng đầy phẩm vật quý giá ấy.
Đức Bồ Tát thọ nhận cơm sữa bò của nàng Sujātā
Sau khi thọ nhận mâm vàng đầy cơm sữa của nàng Sujātā xong, Đức Bồ Tát
đứng dậy rời gốc cây da, tay cầm chiếc mâm vàng đầy cơm sữa đi đến bến sông Neranjarā,
nơi mà chư Bồ Tát Chánh Đẳng Giác quá khứ, trước khi chứng đắc thành Đức Phật
Chánh Đẳng Giác, cũng đều ngự đến đây để tắm, nên bến sông này gọi là bến Supatitthita.
Ngài đặt mâm ở bến Supatitthita, rồi xuống dòng sông Neranjarā
tắm. Khi tắm xong, Ngài mặc y cà sa tượng trưng lá cờ chiến thắng của chư Thánh
Arahán; đoạn Ngài ngồi quay mặt về hướng Đông, độ hết 49 vắt cơm sữa, rồi uống
hết bình nước (từ đó về sau suốt 7 tuần lễ (49 ngày), Đức Phật
không độ vật thực và nước, chỉ an hưởng hương vị giải thoát Niết Bàn).
Sau khi độ cơm xong, Ngài cầm chiếc mâm vàng phát nguyện rằng:
- Nếu hôm nay ta được chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thì xin cho chiếc
mâm vàng này sẽ trôi ngược dòng nước; nếu không, thì chiếc mâm vàng này sẽ trôi
xuôi theo dòng nước.
Nguyện xong, Ngài ném chiếc mâm vàng xuống dòng sông. Thật phi
thường thay! Chiếc mâm vàng cắt ngang dòng nước đang chảy, trôi ra giữa sông,
rồi từ đó trôi ngược dòng nước một cách vô cùng mau lẹ, khoảng một đoạn khá xa,
chiếc mâm vàng chìm sâu xuống đáy nước, đụng phải ba chiếc mâm vàng của
ba Đức Phật quá khứ là Đức Phật Kakusandha, Đức Phật Konāgamana
và Đức Phật Kassapa, phát ra một âm
thanh vang dội, làm cho Long vương Kālanāga tỉnh giấc nghĩ rằng:
“Hôm qua một Đức Phật đã xuất hiện, hôm nay sẽ có một Đức Phật nữa xuất hiện”,
rồi thức dậy tán dương ca tụng hằng trăm bài kệ.
Trưa hôm ấy, Đức Bồ Tát nghỉ trong một khu rừng Sāla, bên bờ sông Neranjarā,
những cây Sāla tự nhiên đua nhau nở hoa khắp cả khu rừng. Chiều hôm ấy,
Ngài ngự đến cội cây Assattha, dọc theo hai bên đường, chư thiên trang
hoàng những đoá hoa trời rất xinh đẹp, các hàng chư thiên ở các cõi trời đua
nhau cúng dường hương thơm cùng với thiên nhạc vang rền khắp 10 ngàn thế giới
chúng sinh. Cùng lúc ấy, một người cắt cỏ tên Sotthiya, trên đường đi
ngược chiều lại phía Đức Bồ Tát, nhìn thấy Ngài, liền phát sinh đức tin trong
sạch, nên dâng cúng Ngài tám nắm cỏ. Đức Bồ Tát cầm tám nắm cỏ ngự thẳng đến
cội cây Assattha.
Khi đứng hướng Nam của cội cây, Ngài nhìn thẳng về hướng Bắc, Ngài có cảm giác
mất thăng bằng, như toàn cõi thế giới hướng Nam bị chìm sâu xuống cõi địa ngục Avīci,
còn toàn cõi thế giới hướng Bắc được nổi lên đến cõi trời sắc giới phạm thiên
tột đỉnh. Ngài nghĩ rằng:
“Đây không phải là chỗ ngồi để ta có thể chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng
Giác”. Ngài ngự đi sang hướng khác.
Khi đứng hướng Tây của cội cây, Ngài nhìn thẳng về hướng Đông, cũng như vậy,
Ngài có cảm giác mất thăng bằng, như toàn cõi thế giới hướng Tây bị chìm sâu
xuống cõi điạ ngục Avīci, còn toàn cõi thế giới ở hướng Đông được nổi
lên đến cõi trời sắc giới phạm thiên tột đỉnh. Ngài nghĩ rằng:
“Đây cũng không phải là chỗ ngồi, để ta có thể chứng đắc thành Đức Phật Chánh
Đẳng Giác”. Ngài ngự sang hướng khác.
Khi đứng hướng Bắc của cội cây, Ngài nhìn thẳng hướng Nam, cũng như vậy, Ngài có
cảm giác mất thăng bằng, như toàn cõi thế giới hướng Bắc bị chìm sâu xuống cõi
điạ ngục Avīci, còn toàn cõi thế giới ở hướng Nam được nổi lên đến cõi
trời sắc giới phạm thiên tột đỉnh, Ngài nghĩ rằng:
“Đây cũng không phải là chỗ ngồi, để ta có thể chứng đắc thành Đức Phật Chánh
Đẳng Giác”. Ngài ngự sang hướng khác.
Ngôi Bồ đoàn toàn thắng Ác MaThiên
Sau cùng, đứng hướng Đông của cội cây, Ngài nhìn thẳng về hướng Tây, thật phi
thường thay! Ngài có cảm giác toàn cõi thế giới thăng bằng, Ngài nghĩ rằng:
“Chính đây là chỗ ngồi, để ta có thể chứng đắc thành bậc Chánh Đẳng Giác”.
Ngài trải tám nắm cỏ tại hướng Đông của cội Assattha. Thật phi thường
thay! Tại ngay chỗ ngồi ấy bỗng nhiên trở thành ngôi Bồ đoàn quý báu, có chiều
cao 14 hắc tay thật nguy nga lộng lẫy, mà không có một nhà kiến trúc mỹ thuật
nào có thể tạo nên một Bồ đoàn tuyệt đẹp như vậy! Bởi vì, ngôi Bồ đoàn quý báu
này phát sinh do phước báu ba-la-mật tròn đủ của Đức Bồ Tát sắp trở thành Đức
Phật Chánh Đẳng Giác.
Ngài ngồi kiết già vững vàng trên ngôi Bồ đoàn quý báu, quay mặt về hướng Đông
rồi phát nguyện rằng:
- Dầu cho thịt và máu trong thân ta khô cạn hết, dầu sắc thân này chỉ còn da bọc
xương đi nữa, nếu ta chưa chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, ta quyết
không bao giờ rời khỏi Bồ đoàn này.
Lúc ấy, từ cung Tha Hoá Tự Tại Thiên, Ác Ma Thiên hoá ra hàng ngàn cánh tay đều
cầm khí giới, cỡi voi Girimekhala cầm đầu đoàn thiên ma binh, thiên ma
tướng rầm rộ hiện xuống vây quanh cội Assattha, kéo dài 12 do tuần. Bên
trên hư không, chúng thiên ma dày đặc 9 do tuần, chúng la hét âm thanh vang dội
kinh khủng làm chấn động khắp mọi nơi, quyết tranh giành ngôi Bồ đoàn của Đức
Bồ Tát. Mới đây, chư thiên, phạm thiên từ 10 ngàn thế giới đến cung kính cúng
dường, tán dương ca tụng Đức Bồ Tát, khi thoáng nhìn thấy Ác Ma Thiên cùng với
thiên ma binh, thiên ma tướng trùng trùng điệp điệp từng đoàn, từng lớp hiện
xuống; tất cả chư thiên, phạm thiên đều bay xa lánh mặt, trở về chỗ ở của mình,
chỉ còn một mình Đức Bồ Tát đang điềm nhiên, ngự trên ngôi Bồ đoàn.
Ác Ma Thiên đã sử dụng đủ mọi loại vũ khí và phép thuật cực kỳ nguy hiểm, quyết
sát hại Đức Bồ Tát, để chiếm đoạt ngôi Bồ đoàn, với mục đích ngăn cản không cho
Đức Bồ Tát chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Do oai lực 30 pháp hạnh
ba-la-mật đầy đủ trọn vẹn của Đức Bồ Tát sắp chứng đắc thành Đức Phật Chánh
Đẳng Giác nên không có một loại phép thuật hay vũ khí nguy hiểm nào có thể sát
hại được Ngài.
Quả thật như thế, do oai lực pháp hạnh ba-la-mật của Đức Bồ Tát, các loại vũ khí
và phép thuật của Ác Ma Thiên đều hóa thành những vật cúng dường Ngài.
Ngồi trên lưng voi Girimekhala, Ác Ma Thiên vô cùng căm uất chỉ tay về
Đức Bồ Tát nói như ra lệnh:
- Này Samôn Gotama, nhà ngươi hãy mau mau rời khỏi ngôi Bồ đoàn ấy, vì ngôi Bồ
đoàn ấy là của ta, không phải của ngươi!
Đức Bồ Tát từ tốn đáp lại:
- Này Ác Ma Thiên, ngôi Bồ đoàn quý báu này phát sinh do phước thiện của 30 pháp
hạnh ba-la-mật, 5 hạnh đại thí, 3 pháp hành mà Như Lai đã tạo từ vô số kiếp. Do
đó, ngôi Bồ đoàn này thuộc về của Như Lai, không phải của ngươi.
Khi ấy, chỉ một mình Đức Bồ Tát ngự trên Bồ đoàn, ngoài ra, không còn có một ai
bên cạnh Đức Bồ Tát cả, nên Ác Ma Thiên đặt câu hỏi bắt bí Đức Bồ Tát rằng:
- Thưa Samôn Gotama, Ngài nói rằng: “Ngôi Bồ đoàn quý báu ấy thuộc về của
Ngài. Vậy ai làm chứng cho Ngài!”
Nhìn xung quanh đều không có một chư thiên, phạm thiên nào cả, Đức Bồ Tát bèn
đưa bàn tay phải ra, rồi dùng ngón trỏ chỉ xuống mặt đất như truyền dạy bằng
lời chân thật rằng:
“Trong những tiền kiếp, Như Lai đã từng tạo 30 pháp hạnh ba-la-mật, 5 hạnh đại
thí, 3 pháp hành. Bây giờ, tại nơi đây không có chúng sinh nào đứng ra làm
chứng cho Như Lai, chỉ có mặt đất, mặt đất không có tâm thức này có thể làm
chứng cho Như Lai được không?”.
Thật phi thường thay! Lời chân thật của Đức Bồ Tát vừa chấm dứt. Lập tức, mặt
đất chuyển mình, rung động, phát ra những tiếng sấm sét long trời lở đất, làm
cho Ác Ma Thiên kinh hoàng khiếp đảm, giục voi Girimekhala bỏ chạy trở
về cõi Tha Hóa Tự Tại Thiên; còn đám ma binh thì hỗn quân, hỗn quan vô cùng
khiếp sợ, cũng hốt hoảng chạy tán loạn theo chủ soái để thoát thân.
Đức Bồ Tát ngự trên Bồ đoàn quý báu dưới cội cây Assattha đã toàn thắng
Ác Ma Thiên, vừa đúng lúc mặt trời sắp lặn hướng Tây, mặt trăng ló dạng hướng
Đông. Khi ấy, mười ngàn thế giới, chư thiên cõi trời dục giới, phạm thiên cõi
trời sắc giới, Long vương dưới thủy cung... toàn thể chư thiên, phạm thiên vui
mừng reo hò vang dội khắp các tầng trời, tán dương ca tụng oai lực ba-la-mật
của Đức Bồ Tát rằng:
Đức Bồ Tát Siddhattha đã toàn thắng rồi!
Ác Ma Thiên đã hoàn toàn thất bại rồi!
Do đó, ngôi Bồ đoàn quý báu này gọi là “Aparājitapallaṅka” nghĩa là ngôi
Bồ đoàn quý báu nơi toàn thắng Ác Ma Thiên.
Chư thiên, phạm thiên đem những đoá hoa trời xinh đẹp, những hương thơm đến cúng
dường, tán dương ca tụng ba-la-mật của Đức Bồ Tát.
Đức Bồ Tát chứng đắc Tam Minh, trở thành Đức
Phật Chánh Đẳng Giác
Sau khi Đức Bồ Tát đã toàn thắng Ác Ma Thiên, vào canh đầu đêm rằm tháng tư âm
lịch, Ngài tiến hành thiền định (samathabhāvanā) với đề
mục niệm hơi thở vô - hơi thở ra (anāpānassati) tuần tự chứng đắc 4 bậc
thiền hữu sắc như sau:
- Đệ nhất thiền hữu sắc: Có 5 chi thiền (hướng tâm,
quan sát, hỷ, lạc, định), do chế ngự được 5 pháp chướng ngại (tham dục,
sân hận, buồn chán-buồn ngủ, phóng tâm-hối hận, hoài nghi).
- Đệ nhị thiền hữu sắc: Có 3 chi thiền (hỷ, lạc,
định), do chế ngự được 2 chi thiền (hướng tâm, quan sát).
- Đệ tam thiền hữu sắc: Có 2 chi thiền (lạc, định),
do chế ngự được 1 chi thiền (hỷ).
- Đệ tứ thiền hữu sắc: Có 2 chi thiền (xả, định), do
chế ngự được 1 chi thiền (lạc, thay bằng chi thiền xả).
Đó là 4 bậc thiền hữu sắc làm nền tảng để chứng đắc Tam Minh.
TAM MINH (TEVIJJA)
1- Túc mạng minh (Pubbenivāsānussatināna)
Đức Bồ Tát có đệ tứ thiền hữu sắc, định tâm trong sáng thanh tịnh, thiền tâm
không lay động, làm nền tảng để Ngài hướng tâm đến chứng đắc túc mạng minh:
Trí tuệ nhớ rõ lại tiền kiếp, từ 1 kiếp đến hàng trăm kiếp, hàng ngàn
kiếp, hàng vạn kiếp, hàng triệu kiếp, hàng triệu triệu kiếp... cho đến vô lượng
kiếp không giới hạn (đối với Đức Phật Độc Giác, bậc Thánh Thanh Văn Giác thì
Túc mạng minh có giới hạn).
Túc mạng minh là trí tuệ nhớ rõ tiền kiếp thuộc loại chúng sinh nào, tên gì,
thuộc dòng dõi nào, tạo thiện nghiệp, bất thiện nghiệp, ba-la-mật, thọ lạc, thọ
khổ, tuổi thọ... đều ghi nhớ rõ ràng mọi chi tiết.
Túc mạng minh là minh thứ nhất mà Đức Bồ Tát đã chứng đắc
vào canh đầu đêm rằm tháng tư (âm lịch).
2- Thiên nhãn minh (Dibbacakkhunāna)
Đức Bồ Tát có đệ tứ thiền hữu sắc, định tâm trong sáng thanh tịnh, thiền tâm
không lay động, làm nền tảng để Ngài hướng tâm đến chứng đắc thiên nhãn minh:
Trí tuệ thấy rõ, biết rõ kiếp quá khứ, kiếp vị lai của tất cả chúng sinh như
mắt của chư thiên, phạm thiên.
Thiên nhãn minh có 2 loại:
- Tử sanh minh: Trí tuệ thấy rõ biết rõ sự tử, sự tái
sinh của tất cả chúng sinh sau khi chết, do nghiệp nào cho quả tái sinh cảnh
giới nào, thọ khổ, thọ lạc như thế nào...
- Vị lai kiến minh: Trí tuệ thấy rõ những kiếp vị lai của
tất cả chúng sinh.
Chư Phật dùng vị lai kiến minh này để thọ ký chúng sinh trong những kiếp
vị lai xa xăm, còn thời gian bao nhiêu đại kiếp trái đất này sẽ trở thành Đức
Phật Chánh Đẳng Giác, hoặc Đức Phật Độc Giác, hoặc bậc Thánh Thanh Văn Giác...
Thiên nhãn minh là minh thứ nhì mà Đức Bồ Tát đã chứng đắc
vào lúc canh giữa đêm rằm tháng tư (âm lịch).
3- Lậu tận minh (Āsavakkhayanāna)
Đức Bồ Tát dùng đệ tứ thiền hữu sắc làm nền tảng, để tiến hành thiền tuệ,
quán xét Thập Nhị Duyên Sanh (Paticcasamuppāda) là đối
tượng thiền tuệ của chư Bồ Tát. Ngài quán xét để chứng đắc thành Đức Phật Chánh
Đẳng Giác.
Đức Bồ Tát quán xét Thập Nhị Duyên Sanh theo chiều thuận như sau:
Do vô minh làm duyên, nên hành sanh.
(Avijjāpaccayā saṅkhārā)
Do hành làm duyên, nên thức sanh.
(Saṅkhārapaccayā vinnānam)
Do thức làm duyên, nên danh sắc sanh.
(Vinnānapaccayā nāmarūpam)
Do danh sắc làm duyên, nên lục nhập sanh.
(Nāmarūpapaccayā salāyatanam)
Do lục nhập làm duyên, nên lục xúc sanh.
(Salāyatanapaccayā phasso)
Do lục xúc làm duyên, nên lục thọ sanh.
(Phassapaccayā vedanā)
Do lục thọ làm duyên, nên lục ái sanh.
(Vedanāpaccayā tanhā)
Do lục ái làm duyên, nên tứ thủ sanh.
(Tanhāpaccayā upādānam)
Do tứ thủ làm duyên, nên nhị hữu sanh.
(Upādānapaccayā bhavo)
Do nhị hữu làm duyên, nên tái sinh sanh.
(Bhavapaccayā jāti)
Do tái sinh làm duyên, nên lão tử... sanh.
(Jātipaccayā jarāmaranam...)
Đức Bồ Tát quán xét Thập Nhị Duyên Sanh theo chiều thuận, chiều
sanh, để trí tuệ thiền tuệ thấy ro, biết rõ “sự sinh” của mỗi
pháp, trí tuệ thiền tuệ chứng ngộ chân lý Khổ Thánh Đế và Nhân sanh
Khổ Thánh Đế hay Tập Thánh Đế.
Đức Bồ Tát quán xét Thập Nhị Nhân Diệt theo chiều nghịch, chiều
diệt như sau:
Do diệt tận vô minh, nên diệt hành.
(Avijjāyatveva asesavirāganirodhā saṅkhāranirodho)
Do diệt hành, nên diệt thức.
(Saṅkhāranirodhā vinnananirodho)
Do diệt thức, nên diệt danh sắc.
(Vinnānanirodhā nāmarūpanirodho)
Do diệt danh sắc, nên diệt lục nhập.
(Nāmarūpanirodhā salāyatananirodho)
Do diệt lục nhập, nên diệt lục xúc.
(Salāyatananirodhā phassanirodho)
Do diệt lục xúc, nên diệt lục thọ.
(Phassanirodhā vedanānirodho)
Do diệt lục thọ, nên diệt lục ái.
(Vedanānirodhā tanhānirodho)
Do diệt lục ái, nên diệt tứ thủ.
(Tanhānirodhā upādānanirodho)
Do diệt tứ thủ, nên diệt nhị hữu.
(Upādānanirodhā bhavanirodho)
Do diệt nhị hữu, nên diệt tái sinh.
(Bhavanirodhā jātinirodho)
Do diệt tái sinh, nên diệt lão tử...
(Jātinirodhā jarāmarana... nirodho)
Đức Bồ Tát quán xét Thập Nhị Nhân Diệt theo chiều nghịch, chiều
diệt, để trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ “sự diệt” của mỗi
pháp, trí tuệ thiền tuệ chứng ngộ chân lý: Diệt Khổ Thánh Đế và Pháp
hành diệt Khổ Thánh Đế hay Đạo Thánh Đế.
Đức Bồ Tát quán xét Thập Nhị Duyên Sanh - Thập Nhị Nhân Diệt theo
chiều thuận - chiều nghịch, chiều sanh
- chiều diệt, trí tuệ thiền tuệ thấy rõ biết rõ sự sinh
- sự diệt của mỗi pháp, trí tuệ thiền tuệ thấy rõ biết rõ trạng
thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã, dẫn
đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết
Bàn, diệt đoạn tuyệt 4 pháp trầm luân (āsava) bằng 4 Thánh Đạo
Tuệ tuần tự như sau:
- Nhập Lưu Thánh Đạo Tuệ diệt đoạn tuyệt được 1 pháp là tà kiến trầm
luân (ditthāsava), đồng thời các tà kiến
khác.
- Nhất Lai Thánh Đạo Tuệ diệt đoạn tuyệt được 1 pháp là tham dục
trầm luân (kāmāsava) trong ngũ trần loại
thô (còn loại vi tế chưa diệt được), đồng thời các tâm tham loại thô
khác.
- Bất Lai Thánh Đạo Tuệ diệt đoạn tuyệt được 1 pháp là tham dục trầm
luân (kāmāsava) trong ngũ trần loại vi tế không
còn dư sót, đồng thời các tâm tham loại vi tế khác.
- Arahán Thánh Đạo Tuệ diệt đoạn tuyệt được 2 pháp là kiếp trầm luân
(bhavāsava) và vô minh trầm luân (avijjāsava),
đồng thời diệt đoạn tuyệt được hoàn toàn mọi tham ái, phiền não, và các ác
pháp không còn dư sót. Đặc biệt diệt đoạn tuyệt được tất cả mọi tiền khiên tật
(vāsanā) tích lũy từ nhiều đời, nhiều kiếp trong quá khứ.
Như vậy, Đức Bồ Tát đã tự mình chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh
Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán cao thượng
đầu tiên trên thế gian. Do đó, Đức Thế Tôn có danh hiệu là “Sammāsambuddha:
Đức Phật Chánh Đẳng Giác”.
Lậu tận minh là minh thứ 3 mà Đức Bồ Tát đã chứng đắc vào
canh chót của đêm rằm tháng tư (âm lịch), vào lúc rạng đông. Ngài đã trở thành Đức
Phật Chánh Đẳng Giác cao thượng trong toàn cõi thế giới chúng
sinh, tại cội cây Assattha. Do đó, cây Assattha này gọi là
Bodhirukkha: cây Bồ đề, đối với Đức Phật Gotama của chúng ta (đưới cội cây nào
mỗi Đức Bồ-tát chứng đắc thành bậc Chánh Đẳng Giác, cây ấy đều được gọi là
Boddhirukkha. Mỗi Đức Phật có mỗi cây Bồ Đề khác nhau).
Mười ngàn thế giới chúng sinh từ mặt đất lên đến cõi sắc giới phạm thiên tột
đỉnh, chư thiên, phạm thiên vô cùng vui mừng hoan hỷ thốt lên lời:
- Sādhu! Sādhu!
(Lành thay! Lành thay!)
- Buddho uppanno!
(Đức Phật xuất hiện trên thế gian rồi!).
- Dhammo uppanno!
(Đức Pháp xuất hiện trên thế gian rồi!)
- Samgho uppanno!
(Đức Tăng cũng sẽ xuất hiện trên thế gian này!)
Tiếng tung hô vang dội khắp toàn cõi 10 ngàn thế giới chúng sinh.
Điều phi thường chưa từng có trên thế gian này là:
- Tất cả các loài hoa đều đua nhau nở để cúng dường đến Đức Phật.
- Tất cả các loại cây ăn trái đều cho quả ngon ngọt.
- Tất cả những người mù từ lúc đầu thai, khi sanh ra không thấy được gì, thì nay
có đôi mắt sáng, có thể nhìn thấy mọi vật trên đời.
- Tất cả những người điếc từ lúc đầu thai, khi sinh ra không nghe được âm thanh
gì, thì nay hai tai có thể nghe rõ mọi thứ âm thanh.
- Tất cả những người què, bại liệt từ lúc đầu thai, khi sanh ra không đi lại
được, thì nay có thể đi lại dễ dàng.
- Đặc biệt nhất, ở địa ngục Lokantarika rộng lớn tối tăm, nơi giáp ranh
với 3 thế giới, dành cho những chúng sinh có tà kiến cố định (niyatamicchāditthi)
hoàn toàn không tin nghiệp - quả. Ở địa ngục rất tối tăm đó, dầu ánh sáng của 7
mặt trời mọc lên cùng một lúc, cũng không thể chiếu thấu đến tận nơi; nhưng ánh
sáng hào quang của Đức Phật tỏa khắp 10 ngàn thế giới, chiếu sáng đến tận địa
ngục Lokantarika. Cho nên, những chúng sinh ở nơi đó có thể nhìn thấy
lẫn nhau.
Toàn thể mười ngàn thế giới, chư thiên, phạm thiên đem những phẩm vật cao quý và
những đóa hoa xinh đẹp cúng dường đến Đức Phật và tán dương ca tụng Đức Phật
bằng hàng ngàn bài kệ.
Phật Ngôn đầu tiên của Đức Phật
Khi ấy, Đức Thế Tôn tự thuyết ở trong tâm bằng 2 bài kệ rằng:
153- “Anekajātisamsāram
Sandhāvissam anibbisam
Gahakāram gavesanto
Dukkhājāti punappunam.
154- Gahakāraka! Dittho’si
Puna geham na kāhasi
Sabbā te phāsukā bhaggā
Gahakūtam visaṅkhatam
Visaṅkhāram gatam cittam
Tanhānam khayamajjhagā” (Pháp Cú số 153, 154)
153- Này người thợ “tham ái” xây nhà “thân”
Như Lai cố tìm ngươi mà chưa gặp,
Nên tử sinh luân hồi vô số kiếp
Tái sinh mãi trong tam giới là khổ,
154- Này “tham ái”, người thợ xây nhà “thân”!
Bây giờ Như Lai đã gặp ngươi rồi!
Tất cả sườn nhà, “phiền não” của ngươi,
Như Lai đã hủy hoại sạch cả rồi
Đỉnh nhà “vô minh”, cũng bị tiêu diệt,
Nay ngươi không còn xây nhà Như Lai
Tâm Như Lai đã chứng ngộ Niết Bàn
Diệt đoạn tuyệt tất cả mọi “tham ái”
Như Lai đã chứng đắc Arahán.
(Phiền não: có tất cả 1500 loại; Tham ái: có tất cả 108 loại.)
Hai bài kệ cảm ứng tự thuyết ở trong tâm, đó là Phật ngôn đầu tiên của Đức Phật
(paṭhamabuddhavacana).
ĐỨC PHẬT AN HƯỞNG QUẢ VỊ GIẢI THOÁT NIẾT-BÀN
Sau khi Ngài đã chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh
Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán cao thượng đầu tiên trong 10 ngàn
thế giới chúng sinh, nên Ngài có danh hiệu: “Đức Phật Chánh Đẳng Giác”,
độc nhất vô nhị. Đức Phật an hưởng pháp vị giải thoát Niết Bàn suốt 7 tuần lễ,
gồm có 49 ngày như sau:
1- Tuần lễ thứ nhất: Đức Thế Tôn ngự tại Bồ đoàn quý báu, tại cội Bồ đề,
ban ngày nhập Arahán Thánh Quả, ban đêm quán xét Thập Nhị Duyên
Sanh theo chiều thuận, chiều sanh; quán xét Thập Nhị Nhân
Diệt theo chiều nghịch, chiều diệt. Và tiếp theo 6 ngày sau,
Đức Thế Tôn nhập Arahán Thánh Quả, an hưởng pháp vị giải thoát
Niết Bàn, suốt thời gian kể từ ngày 16 tháng 4 đến ngày 22 tháng 4, gọi là tuần
lễ “Pallaṅkasattāha”.
2- Tuần lễ thứ nhì: Đức Thế Tôn rời khỏi Bồ đoàn quý báu, ngự về phía
Đông Bắc, cách cội Bồ đề 14 sải tay, Ngài đứng nhìn về Bồ đoàn quý báu, nơi mà
Ngài đã toàn thắng 5 loại Ma (Māra), đã trở thành Đức Phật Chánh
Đẳng Giác. Đức Thế Tôn đứng nhìn Bồ đoàn quý báu không nháy
mắt, suốt 7 ngày đêm, kể từ 23 tháng 4 đến ngày 29 tháng 4, gọi là tuần lễ “Animisasattāha”.
3- Tuần lễ thứ ba: Đức Thế Tôn đi kinh hành trên đoạn đường dài 60 hắc
tay, được làm bằng 7 loại châu báu, do chư thiên hóa ra để cúng dường Ngài.
Đoạn đường này ở phía Bắc gần cội Bồ đề theo chiều Đông Tây. Đức Thế Tôn hóa
phép thần thông Yamakapaṭihāriya thành 2 dòng nước và lửa
song song phát ra từ nơi kim thân của Ngài, rồi Ngài ngự đi kinh hành, quán xét
về chánh pháp, suốt thời gian kể từ ngày 30 tháng 4 đến ngày 6 tháng 5, gọi là
tuần lễ “Caṅkamasattāha”.
4- Tuần lễ thứ tư: Đức Thế Tôn ngự tại lâu đài bằng vàng, ở phía
Tây Bắc của cội Bồ đề do chư thiên hóa ra để cúng dường Ngài. Ở đây, Ngài quán
xét về Tạng Vi Diệu Pháp (Abhidhammapitaka) gồm có 7 bộ: Bộ
Dhammasaṅganī, bộ Vibhaṅga, bộ Dhātukathā, bộ Puggalapannatti, bộ
Kathāvatthu, bộ Yamaka và bộ Patthāna. Suốt 7 ngày đêm, kể từ ngày 7
tháng 5 đến ngày 13 tháng 5, gọi là tuần lễ “Ratanagharasattāha”.
5- Tuần lễ thứ năm: Đức Thế Tôn ngự đến cội da ở phía Đông, cách
cội Bồ đề 32 sải tay, khi thì Ngài quán xét chánh pháp, khi thì Ngài nhập
Arahán Thánh Quả.
Khi ấy, có 3 cô thiên nữ: Taṇhā, Aratī và Rāgā
là con gái của Ác Ma Thiên, từ cõi Tha Hóa Tự Tại Thiên hiện xuống, để quyến rũ
Đức Phật, với lời nói lẳng lơ và bằng điệu bộ gợi tình. Đức Thế Tôn không quan
tâm đến lời nói và điệu bộ của ba nàng, Ngài vẫn an nhiên tự tại nhập Arahán
Thánh Quả, an hưởng pháp vị giải thoát Niết Bàn.
Ba nàng đã dùng hết khả năng của mình, mà không thể cám dỗ được Đức Thế Tôn,
đành phải bất lực, vì Đức Thế Tôn là bậc Thánh Arahán đã diệt đoạn tuyệt tất cả
mọi tham ái, phiền não, nên không một ai trong tam giới này có thể làm cho tâm
Ngài xao động.
Ba cô thiên nữ không quyến rũ được Đức Thế Tôn, nên hồi tâm tán dương ca tụng
Ngài, rồi từ giã trở về cõi Tha Hóa Tự Tại Thiên.
Đức Thế Tôn ngự tại cội da này nhập Arahán Thánh Quả suốt 7 ngày đêm, kể từ ngày
14 tháng 5 đến ngày 20 tháng 5, gọi là tuần lễ “Ajapālasattāha”.
6- Tuần lễ thứ sáu: Đức Thế Tôn ngự đến cội me gần hồ Mucalinda,
cách xa cội Bồ đề 51 sải tay, ở về phía Đông Nam, Ngài ngồi nhập Arahán Thánh
Quả.
Khi ấy, trời mưa lớn, rồng chúa Mucalinda hiện ra dùng thân mình cuộn
thành vòng tròn, chồng lên 7 lớp để bao bọc xung quanh kim thân Đức Phật, và
phồng mang che trên đầu Ngài, để mưa không làm ướt và lạnh. Rồng chúa tỏ lòng
thành kính cúng dường Đức Phật.
Đức Thế Tôn nhập Arahán Thánh Quả suốt 7 ngày đêm, kể từ ngày 21 tháng 5 đến
ngày 27 tháng 5, gọi là tuần lễ “Mucalindasattāha”.
7- Tuần lễ thứ bảy: Đức Thế Tôn ngự đến cội cây gọi là Rājāyatana cách
xa cội Bồ đề 4 sải tay, ở về phía
Nam
. Ngài nhập Arahán Thánh Quả suốt 7 ngày đêm, kể từ ngày 28 tháng 5
đến ngày 5 tháng 6, gọi là tuần lễ “Rājāyatanasattāha”.
Như vậy, Đức Thế Tôn đã an hưởng pháp vị an lạc giải thoát Niết Bàn suốt 7 tuần
lễ, gồm 49 ngày xung quanh cội Bồ đề (hiện nay, taih Buddhagaya xứ Ấn Độ, quanh
Đại cội Bồ-đề có đánh dấu kỷ niệm 7 nơi mà Đức Phật đã an hưởng pháp vị giải
thoát Niết-bàn).
Đức Phật suy tư về pháp Siêu Tam Giới
Đức Thế Tôn suy xét về 9 pháp Siêu tam giới (Lokuttaradhamma)
mà Ngài đã chứng đắc:
Tứ Thánh Đế là pháp vô cùng vi tế, vô
cùng sâu sắc, khó chứng ngộ.
4 Thánh Đạo là pháp diệt đoạn tuyệt mọi tham ái, phiền não, ác
pháp.
4 Thánh Quả là pháp làm vắng lặng mọi tham ái, mọi phiền não, ác
pháp.
Niết Bàn là pháp giải thoát mọi cảnh khổ.
Đó là pháp mà chỉ có bậc thiện trí, xa lánh ngũ dục, tiến hành thiền
tuệ để chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4
Thánh Quả và Niết Bàn. Còn chúng sinh đang bị dính mắc trong ngũ dục, bị say mê
trong ngũ dục, bị đắm chìm trong ngũ dục, làm tôi tớ của 108 loại tham ái
và làm nô lệ 1.500 loại phiền não, thì khó mà
chứng ngộ được chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết
Bàn.
Đức Phật nghĩ rằng: “Nếu Như Lai thuyết pháp mà chúng sinh không thấu hiểu chánh
pháp, không chứng đắc chánh pháp cao thượng, thì chỉ làm cho Như Lai vất vả,
mệt nhọc, hoài công vô ích mà thôi!”.
Do vậy, lúc này Đức Phật chưa muốn thuyết pháp tế độ chúng sinh.
Theo lệ thường, Chư Phật thuyết pháp cần phải có đầy đủ 2 điều kiện:
- Chủ thể: Đức Phật có tâm đại bi (mahākarunā)
muốn tế độ chúng sinh giải thoát khỏi mọi cảnh khổ, điều kiện này đã sẵn có nơi
Ngài.
- Khách thể: Phải có Đại Phạm Thiên thỉnh cầu thuyết
pháp tế độ chúng sinh, điều kiện này để làm cho phát sinh đức tin nơi Đức Phật.
Vì rằng, các Đạo sĩ, tu sĩ, Samôn, Bàlamôn, Vua chúa, dân chúng, kể cả chư
thiên, phạm thiên, đều tôn kính Đại Phạm Thiên. Nay Đại Phạm Thiên tôn kính Đức
Phật, thỉnh cầu Đức Phật thuyết pháp tế độ chúng sinh, thì ắt hẳn phần đông
chúng sinh nhân loại, chư thiên, phạm thiên,... cũng tôn kính Ngài. Từ sự tôn
kính ấy, mới có đức tin trong sạch nơi Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng. Khi có đức
tin nơi Tam Bảo, Đức Phật thuyết pháp thì tất cả chúng sinh, nhân loại, chư
thiên, phạm thiên... mới lắng nghe chánh pháp và thực hành theo chánh pháp của
Ngài.
Đại Phạm Thiên thỉnh Đức Phật thuyết pháp
Đại Phạm Thiên Sahampati biết Đức Phật đang còn do dự chưa muốn thuyết pháp tế
độ chúng sinh, Ngài bèn tuyên bố cho toàn cõi phạm thiên, chư thiên khắp 10
ngàn thế giới hay biết rằng:
Nassati vata Bho loko!
Vinassati vata Bho loko!
Này chư vị, toàn thế giới chúng sinh sẽ hủy hoại!
Này chư vị, toàn thế giới chúng sinh sẽ tiêu diệt!
Bởi vì, Đức Phật đang do dự chưa muốn thuyết pháp tế độ chúng sinh. Cho nên, Đại
Phạm Thiên Sahampati cùng chư thiên, phạm thiên khắp 10 ngàn thế giới hiện
xuống, cung kính Đức Thế Tôn, đồng thành kính cung thỉnh:
Desetu Bhante Bhagavā dhammam
Desetu Sugato dhammam.
- Kính bạch Đức Thế Tôn,
Chúng con hết lòng thành kính, xin thỉnh Đức Thế Tôn mở tâm đại bi thuyết pháp
tế độ chúng sinh.
Kính bạch Đức Thế Tôn, Đức Thiện Ngôn,
Chúng con hết lòng thành kính, xin thỉnh Ngài mở tâm đại bi thuyết pháp tế độ
chúng sinh.
Có số chúng sinh nào phiền não nhẹ, có khả năng chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế,
chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn. Nếu số chúng sinh ấy, không có
được cơ hội lắng nghe chánh pháp của Đức Thế Tôn, thì sự thiệt hại sẽ lớn lao
biết dường nào!
Nghe qua lời thỉnh cầu của Đại Phạm Thiên Sahampati, với tâm đại bi, Đức Thế Tôn
quán xét bằng Phật nhãn (Buddhacakkhu) thấy rõ có số chúng sinh có phiền não
nhẹ, có số chúng sinh có phiền não nặng, có số chúng sinh có 5 pháp chủ (tín
pháp chủ, tấn pháp chủ, niệm pháp chủ, định pháp chủ, tuệ pháp chủ) đủ năng
lực, có số chúng sinh có 5 pháp chủ ít năng lực, có số chúng sinh dễ dạy, có số
chúng sinh khó dạy...
Ví như có 4 đóa hoa sen:
- Có đóa hoa sen vượt qua khỏi mặt nước, chỉ chờ tiếp xúc với ánh sáng mặt trời
liền nở ngay ngày hôm đó.
- Có đóa hoa sen vươn lên, nằm ngang tầm mặt nước, sẽ chờ nở vào ngày hôm sau.
- Có đóa hoa sen còn ở dưới mặt nước, sẽ chờ thời gian 3 hoặc 4 hôm nữa mới nở
được.
- Có đóa hoa sen còn non vừa mới tượng hình ở dưới nước sâu. Những mầm sen non ấy
sẽ làm vật thực cho loài rùa, cá....
Bốn loại hoa sen này được so sánh như 4 hạng người ở trong đời:
- Ugghāṭitannuù: Hạng người có trí tuệ bậc thượng, bén nhạy. Khi được nghe tiền
đề của chánh pháp, chưa cần khai triển, hay trong một bài kệ có 4 câu,
chỉ được nghe 2 câu đầu, bậc ấy có thể chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc
Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn ngay tức khắc.
- Vipañcitannū: Hạng người có trí tuệ bậc trung. Khi được nghe tiền đề
của chánh pháp và khai triển, hay được nghe một bài kệ đầy đủ 4 câu, bậc
ấy có thể chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và
Niết Bàn.
- Neyya: Hạng người có trí tuệ bậc thường. Khi được nghe tiền
đề của chánh pháp và khai triển xong, còn cần phải có thời gian
thân cận gần gũi với bậc Thánh Nhân, bậc thiện trí hướng dẫn chỉ dạy
thêm, bậc ấy mới có thể chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo -
Thánh Quả và Niết Bàn, trong kiếp hiện tại này.
- Padaparama: Hạng người có trí tuệ kém. Dù được nghe nhiều, học nhiều đi
nữa hoặc dù có thân cận với bậc thiện trí, họ cũng chưa có thể chứng ngộ chân
lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả ngay trong kiếp hiện tại này.
Nhưng đây là một cơ hội tốt, một dịp may, để bồi bổ pháp hạnh ba-la-mật, để
chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn
trong kiếp vị lai.
Đức Phật quán xét tất cả chúng sinh bằng Phật nhãn thấy rõ có 4 hạng người như
vậy; cho nên, sự thuyết pháp của Ngài sẽ đem lại lợi ích lớn lao cho 3 hạng
người trước có thể chứng đắc Thánh Đạo, Thánh Quả và Niết Bàn ngay trong kiếp
hiện tại, và cũng đem lại lợi ích cho hạng người thứ tư (padaparama) ở
kiếp vị lai. Do đó, Đức Phật nhận lời thỉnh cầu của Đại Phạm Thiên Sahampati,
Ngài sẽ thuyết pháp tế độ chúng sinh.
Đức Thế Tôn dạy rằng:
- Này Đại Phạm Thiên Sahampati, trước đây chưa có đủ điều kiện, nên Như Lai chưa
chịu thuyết pháp tế độ chúng sinh.
Này Đại Phạm Thiên Sahampati, bây giờ, Như Lai nhận lời thỉnh cầu của các ngươi,
Như Lai sẽ thuyết pháp tế độ cho những chúng sinh có duyên lành, để giải thoát
khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.
Vị Đại Phạm Thiên Sahampati cùng toàn thể chư phạm thiên, chư thiên vô
cùng hoan hỷ, khi biết Đức Thế Tôn đã nhận lời thỉnh cầu của họ. Toàn thể chư
phạm thiên, chư thiên thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, rồi xin phép trở về cõi
trời.
Trong đời này, chỉ có Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác kiếp chót, và chư Bồ Tát Độc
Giác kiếp chót là không cần lắng nghe chánh pháp từ một vị Thầy nào, mà tự mình
có thể chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và
Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt tất cả mọi phiền não, mọi tham ái, mọi ác pháp, trở
thành bậc Thánh Arahán cao thượng, bởi vì chư Bồ Tát này có nhiều năng lực pháp
hạnh ba-la-mật.
Ngoài Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác và chư Bồ Tát Độc Giác kiếp chót ra, còn tất cả
các Đức Bồ Tát Thanh Văn Giác bậc nào, cũng cần phải lắng nghe chánh pháp của
Đức Phật Chánh Đẳng Giác, mới có thể chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế y theo Đức
Phật, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt mọi
phiền não trầm luân, mọi tham ái, mọi ác pháp, trở thành bậc Thánh Thanh Văn đệ
tử của Đức Phật, đó là bậc Thánh Nhập Lưu, bậc Thánh Nhất Lai, bậc Thánh Bất
Lai và bậc Thánh Arahán tùy theo năng lực ba-la-mật của mỗi bậc Thánh Nhân.
Thật vậy, trong giáo pháp của Đức Phật Gotama, Ngài Đại đức Sāriputta
là bậc Thánh Tối Thượng Thanh Văn Giác xuất sắc nhất về trí tuệ, trong hàng
Thanh Văn đệ tử của Đức Phật, vậy mà tự Ngài cũng không thể chứng ngộ chân lý
Tứ Thánh Đế, cho đến khi Ngài lắng nghe Ngài Đại đức Assaji thuyết dạy
một bài kệ gồm 4 câu, vừa nghe 2 câu đầu, Ngài liền chứng ngộ chân lý Tứ Thánh
Đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo - Nhập Lưu Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành
bậc Thánh Nhập Lưu.
CHUYỂN PHÁP LUÂN
Khi suy xét nên thuyết pháp tế độ cho ai đầu tiên, Đức Phật liền nghĩ đến vị Đạo
sư Ālāra Kālāmagotta là bậc thiện trí có trí tuệ, nếu vị Đạo sư Ālāra
Kālāmagotta được nghe chánh pháp, thì sẽ mau lẹ chứng ngộ chân lý Tứ
Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn.
Lúc ấy chư thiên đến hầu Đức Phật và bạch rằng:
- Kính bạch Đức Thế Tôn, Đạo sư Ālāra Kālāmagotta đã viên tịch được 7 ngày qua.
Đức Phật quán xét, thấy đúng: Vị Đạo sư Ālāra Kālāmagotta đã viên tịch, do năng
lực đệ tam thiền vô sắc cho quả tái sinh lên cõi Vô sở hữu xứ thiên thuộc
vô sắc giới.
Ngài nghĩ: “Thật là sự bất lợi lớn lao quá!” (Sự bất lợi ở đây có nghĩa:
chúng sinh ở cõi trời Vô Sắc, không có sắc uẩn nên không có tai để nghe được
chánh pháp, mất đi cơ hội hiếm có để chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc
Thánh Đạo, Thánh Quả và Niết-bàn).
Tiếp đến, Đức Phật nghĩ đến vị Đạo sư Udaka Rāmaputta là bậc thiện trí có
trí tuệ, nếu vị Đạo sư Udaka Rāmaputta được nghe chánh pháp, thì sẽ mau
lẹ chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn.
Lúc ấy, chư thiên đến hầu Đức Phật và bạch rằng:
- Kính bạch Đức Thế Tôn, vị Đạo sư Udaka Rāmaputta vừa mới viên tịch chiều hôm
qua.
Đức Phật quán xét, thấy đúng: Vị Đạo sư Udaka Rāmaputta đã viên tịch, do năng lực
đệ tứ thiền vô sắc cho quả tái sinh lên cõi Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiên
thuộc vô sắc giới.
Đức Phật nghĩ rằng: “Thật là sự bất lợi lớn lao quá!”.
Tiếp đến, Đức Phật nghĩ đến nhóm 5 Tỳ-khưu đã từng phụng sự, hộ độ cho Ngài
trong thời gian còn là Bồ Tát hành khổ hạnh.
Đức Phật nghĩ: “Vậy, đầu tiên Như Lai nên thuyết pháp tế độ nhóm 5
Tỳ-khưu này”.
Khi ấy, nhóm 5 Tỳ-khưu đang ở tại khu rừng phóng sinh nai gọi là Isipatana,
gần thành Bārāṇasī.
Vậy, từ khu rừng Uruvela, Đức Phật ngự đến kinh thành Bārāṇasī để
thuyết pháp độ nhóm 5 Tỳ-khưu: Ngài Kondanna trưởng nhóm, Ngài
Vappa, Ngài Bhaddiya, Ngài Mahānāma và Ngài
Assaji.
Đức Phật thuyết kinh Chuyển Pháp Luân
Đức Thế Tôn ngự đến khu rừng phóng sanh nai gọi là Isipatana, nhằm vào
ngày rằm tháng 6, sau khi trở thành bậc Chánh Đẳng Giác tròn đúng hai tháng.
Nhóm 5 Tỳ-khưu nhìn thấy Đức Phật từ xa đi đến, họ nghĩ lầm rằng: “Samôn Gotama
đã từ bỏ sự tinh tấn hành pháp khổ hạnh, trở lại đời sống sung túc”.
Vì nghĩ như vậy, nhóm 5 Tỳ-khưu không còn đức tin và kính trọng Đức Phật như
trước, họ đồng ý thỏa thuận với nhau rằng: “Chúng ta không đứng dậy đón rước,
không tiếp nhận y và bát, không đảnh lễ, chỉ nên sắp đặt chỗ để cho Samôn
Gotama ngồi mà thôi”. Nhưng khi Đức Phật đến gần, do oai lực và tâm đại
bi của Ngài, nhóm 5 Tỳ-khưu không còn nhớ lời giao ước, mà mỗi người đều tự
động đứng dậy cung kính đón rước: Vị này nhận y bát, vị kia lấy nước rửa chân,
vị thì sắp đặt trải chỗ ngồi cao quí, thỉnh Ngài đến ngự... Nhưng cách
xưng hô của họ đối với Đức Phật vẫn bằng cách gọi: “Āvuso” không hợp lẽ
đạo, thiếu cung kính đối với Đức Thế Tôn.
Thấy vậy, Đức Phật dạy rằng:
- Này chư Tỳ-khưu, các con không nên gọi Như Lai bằng tiếng “Āvuso”. Như Lai là
Đức Phật Chánh Đẳng Giác, Như Lai sẽ thuyết giảng chánh pháp mà Như Lai đã
chứng ngộ. Các con hãy lắng nghe rồi thực hành theo, các con cũng sẽ chứng ngộ
chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn y theo Như
Lai đã chứng ngộ”.
Nhóm 5 Tỳ-khưu vẫn chưa tin theo lời dạy của Đức Phật, vì nghĩ rằng: “Trước đây
Samôn Gotama hành pháp khổ hạnh đến như thế, mà không chứng đắc thành Đức Phật
Chánh Đẳng Giác; nay trở lại đời sống sung túc như vậy, lại có thể chứng đắc
thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác được hay sao?”.
Đức Thế Tôn thấu hiểu rõ sự hoài nghi của nhóm 5
Tỳ-khưu, nên Ngài đã giảng giải
rõ ràng, phá tan được sự hoài nghi của họ. Cuối cùng, nhóm 5
Tỳ-khưu cảm phục
Đức Phật và phát sinh đức tin trong sạch nơi Ngài.
Khi ấy mặt trời sắp lặn ở hướng Tây, mặt trăng ló dạng ở hướng Đông, Đức Thế Tôn
lần đầu tiên thuyết pháp với bài kinh “Dhammacakkappavattanasutta”(kinh
Chuyển Pháp Luân.)
Nội dung bài kinh Chuyển Pháp Luân
Lần đầu tiên Đức Phật thuyết giảng bài kinh Chuyển Pháp Luân, để
tế độ 5 nhóm Tỳ-khưu là Ngài Koṇḍanna, Ngài Vappa, Ngài Bhaddiya, Ngài Mahānāma,
Ngài Assaji.
Đức Phật dạy rằng:
- Bậc xuất gia không nên hành hai pháp cực đoan thuộc hai biên kiến.
Một là: Hưởng khoái lạc trong ngũ dục do tâm tham ái hợp với tà kiến,
là pháp thấp hèn của hạng phàm nhân trong đời, không phải của bậc Thánh Nhân
cao thượng, không đem lại sự lợi ích giải thoát khổ sinh.
Hai là: Tự ép xác, hành khổ mình do tâm sân và có đoạn kiến, thuộc
pháp hành khổ hạnh của ngoại đạo, không phải của bậc Thánh Nhân cao thượng,
không đem lại sự lợi ích giải thoát khổ sinh.
Không thiên về hai biên kiến ấy, Đức Phật đã hành theo pháp hành Trung Đạo
(Majjhimappaṭipadā) đó chính là Thánh Đạo hợp đủ 8 chánh cao thượng là:
1- Chánh kiến: Trí tuệ thiền tuệ chân chánh thấy rõ, biết rõ chân lý Tứ
Thánh Đế
- Khổ Thánh Đế.
- Nhân sinh Khổ Thánh Đế (Tập Thánh Đế).
- Diệt Khổ Thánh Đế (Diệt Thánh Đế).
- Pháp hành Diệt Khổ Thánh Đế (Đạo Thánh Đế).
Đó là 1 trong 8 chánh chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn.
2- Chánh tư duy: Tư duy chân chánh
- Tư duy thoát ra khỏi ngũ dục (xuất gia).
- Tư duy không làm khổ mình, khổ người (hợp với tâm từ).
- Tư duy không làm hại mình, hại người (hợp với tâm bi).
Đó là 1 trong 8 chánh chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn.
3- Chánh ngữ: Lời nói chân chánh
- Tránh xa lời nói dối.
- Tránh xa lời nói chia rẽ.
- Tránh xa lời nói thô tục.
- Tránh xa lời nói vô ích.
Đó là 1 trong 8 chánh chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn.
4- Chánh nghiệp: Hành nghề chân chánh
- Tránh xa sự sát sanh.
- Tránh xa sự trộm cắp.
- Tránh xa sự tà dâm.
Đó là 1 trong 8 chánh chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn.
5- Chánh mạng: Nuôi mạng chân chánh
- Tránh xa thân hành ác, khẩu nói ác liên quan đến việc nuôi mạng.
Đó là 1 trong 8 chánh chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn.
6- Chánh tinh tấn: Tinh tấn chân chánh
- Tinh tấn diệt ác pháp đã sinh.
- Tinh tấn ngăn không cho ác pháp phát sinh.
- Tinh tấn làm cho thiện pháp phát sinh.
- Tinh tấn làm tăng trưởng thiện pháp đã sinh.
Đó là 1 trong 8 chánh chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn.
7- Chánh niệm: Niệm chân chánh
- Niệm thân: Thân là đối tượng của chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác.
- Niệm thọ: Thọ là đối tượng của chánh niệm, tỉnh giác.
- Niệm tâm: Tâm là đối tượng của chánh niệm, tỉnh giác.
- Niệm pháp: Pháp là đối tượng của chánh niệm, tỉnh giác.
Đó là 1 trong 8 chánh chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn.
8- Chánh định: Định chân chánh
- Định trong đệ nhất thiền Siêu tam giới, có Niết Bàn là đối tượng.
- Định trong đệ nhị thiền Siêu tam giới, có Niết Bàn là đối tượng.
- Định trong đệ tam thiền Siêu tam giới, có Niết Bàn là đối tượng.
- Định trong đệ tứ thiền Siêu tam giới, có Niết Bàn là đối tượng.
- Định trong đệ ngũ thiền Siêu tam giới, có Niết Bàn là đối tượng.
Đó là 1 trong 8 chánh chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn.
Pháp hành Trung Đạo đó là Thánh Đạo hợp đủ 8 chánh này chỉ
đồng sinh với 4 Thánh Đạo Tâm và 4 Thánh Quả Tâm, chắc chắn có Niết Bàn là đối
tượng.
Bằng những pháp hành Trung Đạo này, Đức Phật đã chứng ngộ chân lý
Tứ Thánh Đế theo Tam Tuệ Luân:
- Trí tuệ học Tứ Thánh Đế.
- Trí tuệ hành Tứ Thánh Đế.
- Trí tuệ thành Tứ Thánh Đế.
Thành 12 loại trí tuệ đã phát sinh hoàn toàn trong sáng, thanh tịnh và đã chứng
đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán đầu tiên
trong toàn cõi thế giới chúng sinh, cho nên Ngài có danh hiệu Đức Phật Chánh
Đẳng Giác, độc nhất vô nhị.
Đức Phật truyền dạy rằng: “Như Lai đã chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác vô
thượng trong toàn thế giới chúng sinh, nhân loại, Vua chúa, Samôn, Bàlamôn, chư
thiên, Ma vương và phạm thiên cả thảy”.
Ngài Koṇḍanna chứng đắc bậc Thánh Nhập Lưu.
Đức Thế Tôn thuyết giảng bài kinh Chuyển Pháp Luân này xong, nhóm 5
Tỳ-khưu vô
cùng hoan hỷ thực hành theo lời giáo huấn của Ngài. Trong nhóm 5
Tỳ-khưu ấy,
Ngài Koṇḍanna đã phát sinh Pháp Nhãn chứng ngộ chân lý Tứ
Thánh Đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo, Nhập Lưu Thánh Quả và Niết Bàn, trở
thành bậc Thánh Nhập Lưu đầu tiên trong giáo pháp của Đức Phật Gotama.
Khi ấy, Ngài Koṇḍanna xin Đức Phật cho phép thọ
Tỳ-khưu; Đức Phật đã cho
phép Ngài Koṇḍanna thọ Tỳ-khưu theo cách Ehi bhikkhūpasampadā.
Thọ Tỳ-khưu bằng cách Đức Phật gọi Ehi bhikkhu như sau:
“Ehi bhikkhū!” ti Bhavagā avoca. Svākkhāto dhammo cara brahmacariyaṃ sammā
dukkhassa antakiriyāya...”.
Đức Thế Tôn truyền dạy rằng:
“Con hãy lại đây! Con trở thành Tỳ-khưu theo ý nguyện. Chánh pháp mà Như Lai đã
thuyết giảng hoàn hảo phần đầu, phần giữa, phần cuối. Con hãy nên cố gắng tinh
tấn hành phạm hạnh cao thượng, để chứng đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả
và Niết Bàn, để chấm dứt khổ tử sinh luân hồi”.
Tam Bảo trọn vẹn xuất hiện trên thế gian
Ngay khi Đức Phật truyền dạy vừa dứt câu, Ngài Koṇḍanna liền trở thành vị
Tỳ-khưu có đầy đủ 8 thứ vật dụng của Tỳ-khưu, phát sinh do phước thiện, cũng
đồng thời Tam Bảo: Phật Bảo, Pháp Bảo, Tăng Bảo hoàn toàn
đầy đủ trọn vẹn trên thế gian này, vào đúng ngày rằm tháng 6 (âm lịch). Bốn vị
Tỳ-khưu còn lại cũng sẽ chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh
Đạo, Nhập Lưu Thánh Quả và Niết Bàn trở thành bậc Thánh Nhập Lưu theo tuần tự
thời gian như sau:
Ngày 16 tháng 6, Ngài Vappa chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Nhập
Lưu Thánh Đạo, Nhập Lưu Thánh Quả và Niết Bàn trở thành bậc Thánh Nhập lưu và
được phép thọ Tỳ-khưu bằng cách Ehi bhikkhu.
Ngày 17 tháng 6, Ngài Bhaddiya chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu và được
Đức Phật cho phép thọ Tỳ-khưu bằng cách Ehi bhikkhu.
Ngày 18 tháng 6, Ngài Mahānāma chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu và được
Đức Phật cho phép thọ Tỳ-khưu bằng cách Ehi bhikkhu.
Ngày 19 tháng 6, Ngài Assaji chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu và được
Đức Phật cho phép thọ Tỳ-khưu bằng cách Ehi bhikkhu.
Trong Phật giáo có 4 loại bậc Thánh Nhân:
Bậc Thánh Nhập Lưu.
Bậc Thánh Nhất Lai.
Bậc Thánh Bất Lai.
Bậc Thánh Arahán.
Nhóm 5 Tỳ-khưu đã chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu, chỉ mới là bậc Thánh thứ
nhất trong Phật giáo. Bậc Thánh Nhập Lưu có khả năng diệt đoạn tuyệt được hai
loại phiền não là tà kiến và hoài nghi. Bậc Thánh Nhập Lưu chưa có khả năng
diệt đoạn tuyệt 8 loại phiền não còn lại và các tham ái, các ác pháp, nên chưa
có thể giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam giới được. Cho nên, Đức Phật
giảng bài Kinh Anattalakkhaṇasutta: Kinh Vô Ngã Tướng để tế độ
nhóm 5 Tỳ-khưu tiếp tục chứng đắc thành bậc Thánh Arahán là bậc Thánh Nhân thứ
tư cao thượng trong Phật giáo.
Kinh Anattalakkhaṇasutta
Theo tuần tự thời gian đến ngày 20 tháng 6 (âm lịch), Đức Phật thuyết giảng bài
kinh Anattalakkhaṇasutta: “Kinh Vô Ngã Tướng”, để tế độ nhóm 5
Tỳ-khưu trở thành bậc Thánh Arahán.
Nội dung bài kinh, Đức Phật thuyết giảng về ngũ uẩn: Sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn,
hành uẩn và thức uẩn đều là pháp vô ngã, không phải ta, không phải của ta.
Mỗi uẩn đều có sự sinh, sự diệt, nên có trạng thái vô thường, trạng thái khổ,
trạng thái vô ngã.
Mỗi uẩn có 11 tính chất: quá khứ hoặc vị lai, hoặc hiện tại; bên trong hoặc bên
ngoài; thô hoặc vi tế; thấp hèn hoặc cao quý; gần hoặc xa thực tánh của
tất cả mỗi uẩn ấy không phải của ta, không phải là ta, không phải tự ngã của
ta.
Nhóm 5 Tỳ-khưu có trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ ngũ uẩn đúng theo thực tánh
của ngũ uẩn như vậy, dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Nhất Lai
Thánh Đạo - Nhất Lai Thánh Quả và Niết Bàn lần thứ nhì, tiếp tục chứng đắc Bất
Lai Thánh Đạo - Bất Lai Thánh Quả và Niết Bàn lần thứ ba, cuối cùng là chứng
đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả và Niết Bàn lần thứ tư, diệt đoạn tuyệt
mọi phiền não, mọi tham ái, mọi ác pháp không còn dư sót lại, trở thành bậc
Thánh Arahán; trí tuệ quán xét thấy rõ, biết rõ Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh
Quả đã chứng đắc, Niết Bàn đã chứng ngộ, mọi phiền não, mọi tham ái, mọi ác
pháp đã diệt đoạn tuyệt không còn dư sót. Các Ngài có trí tuệ thấy rõ, biết rõ
mọi phận sự Tứ Thánh Đế đã hoàn thành; phạm hạnh cao thượng đã hành xong, kiếp
này là kiếp chót, không còn tái sinh kiếp nào khác nữa.
Nhóm 5 Tỳ-khưu trở thành bậc Thánh Arahán vào ngày 20 tháng 6 là những ngày đầu
hạ thứ nhất của Đức Phật.
Như vậy, ngoài Đức Phật ra, còn có thêm 5 vị Thánh Arahán xuất hiện trên thế
gian.
Những ngày quan trọng trong Phật giáo
Trong Phật giáo, có những ngày lễ quan trọng đáng ghi nhớ:
Ngày rằm tháng tư là ngày Đức Phật xuất hiện trên thế gian. (ngày rằm
tháng tư cũng là ngày Đức Bồ Tát Siddhattha đản sinh, và 80 năm sau, cũng là
ngày Đức Phật tịch diệt Niết Bàn)
* Ngày rằm tháng sáu là ngày Đức Phật thuyết bài kinh Chuyển Pháp Luân
đầu tiên, để tế độ nhóm 5 Tỳ-khưu, đồng thời cũng là ngày Tam Bảo: “Phật Bảo,
Pháp Bảo, Tăng Bảo” đầy đủ hoàn toàn xuất hiện trên thế gian.
* Ngày rằm tháng giêng là ngày Đại hội chư Thánh Arahán gồm có 1.250 vị.
Tiếp theo