Phần II: Ý nghĩa bài kinh Chuyển Pháp Luân
“Evam me sutam...”.
Lời Đại đức Ānanda bạch với Ngài Đại Trưởng Lão Mahākassapa:
Kính bạch Đại đức Trưởng Lão Mahākassapa khả kính:
Con là Ānanda được nghe bài kinh Chuyển Pháp Luân từ Đức Thế Tôn như vầy:
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại khu rừng phóng sinh nai, gọi là Isipatana, trước
kia Chư Phật Độc Giác thường ngự xuống. Tại đây, Đức Thế Tôn gọi nhóm 5
Tỳ-khưu là Ngài
Kondanna, Ngài Vappa, Ngài Bhaddiya, Ngài Mahānāma và Ngài Assaji mà dạy rằng:
Hai pháp thấp hèn (Dve antā)
- Này chư Tỳ-khưu, có 2 pháp cực đoan thuộc về hai biên kiến mà người xuất gia
không nên hành theo, hai pháp ấy như thế nào?
Một là việc thường thụ hưởng khoái lạc trong ngũ dục do tâm tham ái hợp với
thường kiến, là pháp thấp hèn của hạng phàm nhân trong đời; không phải là pháp
hành của bậc Thánh Nhân, không đem lại lợi ích an lạc nào.
Hai là việc thường tự ép xác hành khổ mình do tâm sân và có đoạn kiến, thuộc pháp
hành khổ hạnh của ngoại đạo; không phải là pháp hành của bậc Thánh Nhân, không
đem lại lợi ích an lạc nào.
Pháp hành Trung Đạo (Majjhimāpatipadā)
- Này chư Tỳ-khưu, không thiên về hai biên kiến ấy, Như Lai đã hành theo pháp hành
Trung Đạo, nên đã chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế bằng trí tuệ Siêu tam
giới, làm cho tuệ nhãn phát sinh, trí tuệ thiền tuệ Siêu tam giới phát sinh, để
làm vắng lặng mọi phiền não, làm cho trí tuệ Siêu tam giới phát sinh, chứng ngộ
chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn.
Này chư Tỳ-khưu, thế nào gọi là pháp hành Trung Đạo mà Như Lai đã chứng
ngộ chân lý Tứ Thánh Đế (bằng trí tuệ Siêu tam giới), làm cho tuệ nhãn phát
sinh, trí tuệ thiền tuệ Siêu tam giới phát sinh, để làm vắng lặng mọi phiền
não, làm cho trí tuệ Siêu tam giới phát sinh chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế,
chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn.
Này chư Tỳ-khưu, pháp hành Trung Đạo đó chính là Thánh Đạo hợp đủ 8 chánh cao
thượng là: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh
tinh tấn, chánh niệm, chánh định.
Này chư Tỳ-khưu, nhờ pháp hành Trung Đạo là Thánh Đạo hợp đủ 8 chánh cao thượng
này, mà Như Lai đã chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế (bằng trí tuệ Siêu tam giới),
làm cho tuệ nhãn phát sinh, trí tuệ thiền tuệ Siêu tam giới phát sinh, đã làm
vắng lặng mọi phiền não, làm cho trí tuệ Siêu tam giới phát sinh chứng ngộ chân
lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn.
TỨ THÁNH ĐẾ
Tam Tuệ Luân trong Tứ Thánh Đế
Tam Tuệ Luân trong Khổ Thánh Đế
1- Trí tuệ học biết Khổ Thánh Đế (Saccanāna)
- Này chư Tỳ-khưu, tuệ nhãn (cakkhu) thấy rõ Khổ Thánh Đế đã phát sinh, trí tuệ
thiền tuệ (nāna) thấy rõ thực tánh Khổ Thánh Đế đã phát sinh, trí tuệ sáng suốt
(pannā) thấy rõ khổ sanh, khổ già... đã phát sinh, tuệ minh (vijjā) thấy rõ,
thấu suốt hoàn toàn Khổ Thánh Đế đã phát sinh, ánh sáng trí tuệ (āloka) diệt
màn vô minh che án Khổ Thánh Đế đã phát sinh đến với Như Lai trong mọi pháp Khổ
Thánh Đế, mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như Lai chưa từng được
nghe, chưa từng được biết rằng:
Thực tánh tất cả các pháp (danh pháp, sắc pháp) trong tam giới,
ngoại trừ tâm tham ái ra, đều là Khổ Thánh Đế.
2- Trí tuệ hành biết Khổ Thánh Đế (Kiccanāna)
- Này chư Tỳ-khưu, tuệ nhãn... đã phát sinh, trí tuệ thiền tuệ..., trí tuệ sáng
suốt..., tuệ minh, ... ánh sáng trí tuệ... đã phát sinh đến với Như Lai, trong
mọi pháp Khổ Thánh Đế, mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như Lai chưa
từng được nghe, chưa từng được biết rằng:
Thực tánh tất cả các pháp (danh pháp, sắc pháp) Khổ Thánh Đế ấy là
pháp nên biết rõ bằng Thánh Đạo Tuệ.
3- Trí tuệ thành biết Khổ Thánh Đế (Katanāna)
- Này chư Tỳ-khưu, tuệ nhãn... đã phát sinh, trí tuệ thiền tuệ..., trí tuệ sáng
suốt..., tuệ minh, ... ánh sáng trí tuệ... đã phát sinh đến với Như Lai, trong
mọi pháp Khổ Thánh Đế, mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như Lai chưa
từng được nghe, chưa từng được biết rằng:
Thực tánh tất cả các pháp (danh pháp, sắc pháp) Khổ Thánh Đế ấy là
pháp nên biết, thì đã được biết rõ bằng Thánh Đạo Tuệ rồi.
Tam Tuệ Luân trong Nhân sinh Khổ Thánh Đế
1- Trí tuệ học biết Nhân sinh Khổ Thánh Đế (Saccanāna)
- Này chư Tỳ-khưu, tuệ nhãn thấy rõ tham ái là Nhân sinh Khổ Thánh Đế đã phát
sinh, trí tuệ thiền tuệ thấy rõ thực tánh ba loại tham ái là Nhân sinh Khổ
Thánh Đế đã phát sinh, trí tuệ sáng suốt thấy rõ 108 loại tham ái là Nhân sinh
Khổ Thánh Đế đã phát sinh, tuệ minh thấy rõ, thấu suốt Nhân sinh Khổ Thánh Đế
đã phát sinh, ánh sáng trí tuệ diệt màn vô minh che án Nhân sinh Khổ Thánh Đế
đã phát sinh đến với Như Lai, trong mọi pháp Nhân sinh Khổ Thánh Đế, mà
trước đây, khi chưa thành Phật, Như Lai chưa từng được nghe, chưa từng được
biết rằng:
Thực tánh ba loại tham ái ấy là Nhân sinh Khổ Thánh Đế, hay Tập Thánh Đế.
2- Trí tuệ hành biết Nhân sinh Khổ Thánh Đế (Kiccanāna)
- Này chư Tỳ-khưu, tuệ nhãn... đã phát sinh, trí tuệ thiền tuệ..., trí tuệ sáng
suốt..., tuệ minh, ... ánh sáng trí tuệ... đã phát sinh đến với Như Lai, trong
mọi pháp Nhân sinh Khổ Thánh Đế, mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như
Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng:
Thực tánh ba loại tham ái là Nhân sinh Khổ Thánh Đế ấy là pháp nên diệt đoạn
tuyệt bằng Thánh Đạo Tuệ.
3- Trí tuệ thành biết Nhân sinh Khổ Thánh Đế (Katanāna)
- Này chư Tỳ-khưu, tuệ nhãn... đã phát sinh, trí tuệ thiền tuệ..., trí tuệ sáng
suốt..., tuệ minh, ... ánh sáng trí tuệ... đã phát sinh đến với Như Lai, trong
mọi pháp Nhân sinh Khổ Thánh Đế, mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như
Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng:
Thực tánh ba loại tham ái là Nhân sinh Khổ Thánh Đế ấy là pháp nên diệt, thì đã
được diệt đoạn tuyệt bằng Thánh Đạo Tuệ rồi.
Tam Tuệ Luân trong Diệt Khổ Thánh Đế
1- Trí tuệ học biết Diệt Khổ Thánh Đế (Saccanāna)
- Này chư Tỳ-khưu, tuệ nhãn thấy rõ Diệt Khổ Thánh Đế đã phát sinh, trí tuệ thiền
tuệ thấy rõ Diệt Khổ Thánh Đế đã phát sinh, trí tuệ sáng suốt thấy rõ thực tánh
mỗi loại Niết Bàn đã phát sinh; tuệ minh thấy rõ, thấu suốt Diệt Khổ Thánh Đế
đã phát sinh, ánh sáng trí tuệ diệt màn vô minh che án Diệt Khổ Thánh Đế đã
phát sinh, đến với Như Lai, trong mọi pháp Diệt Khổ Thánh Đế, mà
trước đây, khi chưa thành Phật, Như Lai chưa từng được nghe, chưa từng được
biết rằng:
Thực tánh Niết Bàn là pháp Diệt Khổ Thánh Đế, hay Diệt Thánh Đế.
2- Trí tuệ hành biết trong Diệt Khổ Thánh Đế (Kiccanāna)
- Này chư Tỳ-khưu, tuệ nhãn... đã phát sinh, trí tuệ thiền tuệ..., trí tuệ sáng
suốt..., tuệ minh, ... ánh sáng trí tuệ... đã phát sinh đến với Như Lai trong
mọi pháp Diệt Khổ Thánh Đế, mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như Lai
chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng:
Thực tánh Niết Bàn là Diệt Khổ Thánh Đế ấy là pháp nên chứng ngộ bằng Thánh Đạo
Tuệ.
3- Trí tuệ thành biết Diệt Khổ Thánh Đế (Katanāna)
- Này chư Tỳ-khưu, tuệ nhãn... đã phát sinh, trí tuệ thiền tuệ..., trí tuệ sáng
suốt..., tuệ minh, ... ánh sáng trí tuệ... đã phát sinh đến với Như Lai, trong
mọi pháp Diệt Khổ Thánh Đế, mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như Lai
chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng:
Thực tánh Niết Bàn là Diệt Khổ Thánh Đế ấy là pháp nên chứng ngộ, thì đã được
chứng ngộ bằng Thánh Đạo Tuệ rồi.
Tam Tuệ Luân trong Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế
1- Trí tuệ học biết pháp hành diệt Khổ Thánh Đế (Saccanāna)
- Này chư Tỳ-khưu, tuệ nhãn thấy rõ Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế đã phát sinh, trí
tuệ thiền tuệ thấy rõ Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế đã phát sinh, trí tuệ sáng
suốt thấy rõ thực tánh của chánh kiến... đã phát sinh, tuệ minh thấy rõ, thấu
suốt Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế đã phát sinh, ánh sáng trí tuệ diệt màn vô
minh che án Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế đã phát sinh đến với Như Lai, trong mọi Pháp
hành diệt Khổ Thánh Đế mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như
Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng:
Thực tánh Thánh Đạo hợp đủ 8 chánh là pháp hành (dẫn đến chứng ngộ Niết Bàn),
diệt Khổ Thánh Đế, hay ĐạoThánh Đế.
2- Trí tuệ hành biết Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế (Kiccanāna)
- Này chư Tỳ-khưu, tuệ nhãn... đã phát sinh, trí tuệ thiền tuệ..., trí tuệ sáng
suốt..., tuệ minh, ... ánh sáng trí tuệ... đã phát sinh đến với Như Lai, trong
mọi Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế, mà trước đây, khi chưa thành
Phật, Như Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng:
Thực tánh Thánh Đạo hợp đủ 8 chánh là pháp hành (dẫn đến chứng ngộ Niết Bàn),
diệt Khổ Thánh Đế ấy là pháp nên tiến hành để chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế.
3- Trí tuệ thành biết Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế (Katanāna)
- Này chư Tỳ-khưu, tuệ nhãn... đã phát sinh, trí tuệ thiền tuệ..., trí tuệ sáng
suốt..., tuệ minh, ... ánh sáng trí tuệ... đã phát sinh đến với Như Lai, trong
mọi Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế, mà trước đây, khi chưa
thành Phật, Như Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng:
Thực tánh Thánh Đạo hợp đủ 8 chánh là pháp hành (dẫn đến chứng ngộ Niết Bàn),
diệt Khổ Thánh Đế ấy là pháp nên tiến hành, thì đã được tiến hành, chứng ngộ
chân lý Tứ Thánh Đế rồi.
Vai trò quan trọng của Tam Tuệ Luân
- Này chư Tỳ-khưu, khi nào trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh của Tứ
Thánh Đế theo Tam Tuệ Luân (trí tuệ học, trí tuệ hành, trí tuệ thành), thành 12
loại trí tuệ hoàn toàn trong sáng, thanh tịnh chưa phát sinh đến với Như
Lai.
Này chư Tỳ-khưu, khi ấy Như Lai chưa dám truyền dạy rằng Như Lai chứng đắc thành
Đức Phật Chánh Đẳng Giác vô thượng trong toàn thế giới chúng sinh: nhân loại,
Vua chúa, Samôn, Bàlamôn, chư thiên, Ma vương và phạm thiên cả thảy.
Này chư Tỳ-khưu, khi nào trí tuệ thiền tuệ thấy rõ biết rõ thực tánh của Tứ Thánh
Đế theo Tam Tuệ Luân, thành 12 loại trí tuệ hoàn toàn trong
sáng, thanh tịnh đã phát sinh đến với Như Lai.
Này chư Tỳ-khưu, khi ấy, Như Lai khẳng định truyền dạy rằng: Như Lai đã chứng đắc
thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác vô thượng, trong toàn thế giới chúng sinh: Nhân
loại, Vua chúa, Samôn, Bàlamôn, chư thiên, Ma vương và phạm thiên cả thảy.
Trí tuệ quán xét (paccavekkhananāna)
Trí tuệ quán xét đã phát sinh đến với Như Lai, biết rõ rằng: Arahán Thánh
Quả Tuệ giải thoát của Như Lai không bao giờ bị hư hoại, kiếp này là kiếp chót,
sau kiếp này, chắc chắn không còn tái sinh kiếp nào nữa.
Đại đức Kondanna chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế
Đức Thế Tôn thuyết giảng bài kinh Chuyển Pháp Luân này xong, nhóm 5
Tỳ-khưu vô
cùng hoan hỷ với lời giáo huấn của Ngài. Trong khi bài pháp văn xuôi đang được
thuyết giảng, thì Đại đức Kondanna đã phát sinh pháp nhãn chứng ngộ chân lý Tứ
Thánh Đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo Tuệ, tâm không còn ô nhiễm bởi phiền
não, tà kiến, hoài nghi nữa; Ngài biết rõ ràng, chắc chắn rằng: “Tất cả
các pháp nào trong tam giới có trạng thái sinh, thì tất cả pháp ấy đều có trạng
thái diệt”.
Toàn thể chư thiên, phạm thiên tán dương, ca tụng
Khi Đức Thế Tôn thuyết giảng kinh Chuyển Pháp Luân vừa xong, chư thiên trên địa
cầu đồng thanh tán dương ca tụng rằng:
Đức Thế Tôn Chuyển Pháp Luân vô thượng tại khu rừng phóng sinh nai gọi là
Isipatana, gần thành Barānasī, chưa từng có Samôn, Bàlamôn, chư thiên, Ma
vương, phạm thiên hay bất cứ một ai trong đời này có thể Chuyển Pháp Luân như
vậy được.
Đồng thời, chư thiên ở cõi Tứ Đại Thiên Vương được nghe lời tán dương ca tụng của
chư thiên địa cầu, cũng đồng thanh tán dương ca tụng như trên.
Cũng như vậy, chư thiên trong cõi Tam Thập Tam Thiên, cõi Dạ Ma Thiên, cõi Đẩu
Suất Đà Thiên, cõi Hóa Lạc Thiên, cõi Tha Hóa Tự Tại Thiên cũng đồng thanh tán
dương ca tụng như trên.
Phạm thiên ở cõi trời sắc giới được nghe lời tán dương ca tụng của chư thiên
trong cõi Tha Hóa Tự Tại Thiên, cũng đồng thanh tán dương ca tụng rằng:
“Đức Thế Tôn Chuyển Pháp Luân vô thượng tại khu rừng phóng sanh nai gọi là
Isipatana, gần thành Barānasī, chưa tùng có Samôn, Bàlamôn, chư thiên, Ma
vương, phạm thiên hay bất cứ một ai trong đời này có thể Chuyển Pháp Luân như
vậy được”.
Ngay khi ấy, ngay lúc ấy, ngay sát- na ấy, lời tán dương ca tụng lên đến cõi sắc
giới phạm thiên cao nhất là “Sắc cứu cánh thiên” (Akanitthā),
mười ngàn thế giới này đều rung chuyển, rúng động, rung rinh, ánh sáng hào quang
của Đức Chánh Đẳng Giác tỏa rộng vô biên cùng khắp thế giới, hơn hẳn oai lực
chư thiên, phạm thiên cả thảy.
Đại đức Kondanna có tên Annasikondanna
Khi Đại đức Kondanna chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo, Nhập Lưu Thánh Quả, trở thành
bậc Thánh Nhập Lưu, Đức Thế Tôn hoan hỷ tự thốt lên cho toàn thế giới biết
rằng:
- Này chư vị, quả thật Kondanna đã chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế rồi!
Này chư vị, quả thật Kondanna đã chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế rồi!
Do vậy, Đại đức Kondanna được gọi là Annasikondanna (Đại đức
Kondanna đã chứng ngộ).
Đại đức Annasikondanna xin thọ Tỳ-khưu
Khi ấy, Đại đức Annasikondanna đã phát sinh trí tuệ chứng ngộ chân lý Tứ Thánh
Đế, đã đạt đến chân lý Tứ Thánh Đế, đã biết rõ đúng theo chân lý Tứ Thánh Đế,
đã thấu rõ, thông suốt chân lý Tứ Thánh Đế, nên đã diệt đoạn tuyệt hoàn toàn
mọi điều hoài nghi nơi Đức Phật, Đức Pháp,... không còn hoài nghi nào nữa, với
trí tuệ thiền tuệ của mình đã chứng ngộ đúng theo lời giáo huấn của Đức Thế
Tôn, nên không còn tin nơi người nào khác nữa.
Đại đức Annasikondanna thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn rồi bạch rằng:
- Kính bạch Đức Thế Tôn cao thượng, con xin nương nhờ nơi Ngài, kính xin Ngài cho
phép con được thọ Sa di và Tỳ-khưu.
Đức Thế Tôn từ bi đưa ngón tay trỏ chỉ và truyền dạy:
“Ehi bhikkhu! Svākkhāto dhammo cara brahmacariyam sammā dukkhassa antakiriyāya”.
“Con hãy đến với Như Lai! Con trở thành
Tỳ-khưu theo ý nguyện! Chánh pháp mà Như
Lai đã thuyết giảng, hoàn hảo ở phần đầu, phần giữa, phần cuối. Con hãy nên cố
gắng tinh tấn hành phạm hạnh cao thượng để chứng đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán
Thánh Quả và Niết Bàn, để chấm dứt khổ tử sinh luân hồi”.
Đức Thế Tôn chỉ thuyết dạy như vậy, Đại đức Annasikondanna đã trở thành
Tỳ-khưu
(Xuất gia trở thành Tỳ-khưu theo cách gọi Ehi bhikkhū!).
(Xong bài kinh Chuyển Pháp Luân)
*
Trong khi lắng nghe Đức Phật thuyết giảng bài kinh Chuyển Pháp Luân, nhóm 5
Tỳ-khưu chỉ có Ngài Đại đức Koṇḍanna chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế y theo
Đức Phật, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo - Nhập Lưu Thánh Quả và Niết Bàn, trở
thành bậc Thánh Nhập Lưu đầu tiên trong giáo pháp của Đức Phật Gotama,
cùng với 180 triệu chư thiên, phạm thiên cũng chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế y
theo Đức Phật, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn tùy theo pháp hạnh
ba-la-mật của mỗi vị.
Sau khi đã trở thành bậc Thánh Nhập Lưu, Ngài Đại đức Koṇḍanna được Đức
Phật cho phép thọ Sadi, Tỳ-khưu.
Đức Phật cho phép thọ Tỳ-khưu theo cách Ehi-bhikkhūpasampadā. Đức Phật
đưa bàn tay phải, chỉ bằng ngón trỏ về phía Ngài Koṇḍanna dạy rằng:
“Ehi Bhikkhu! Svākkhāto dhammo cara brahmacariyaṃ sammā dukkhassa antakiriyāya.”
Nghĩa: “Con hãy đến với Như Lai! Con trở thành
Tỳ-khưu theo ý nguyện! Chánh pháp
mà Như Lai đã thuyết giảng, hoàn hảo ở phần đầu, phần giữa, phần cuối. Con hãy
nên cố gắng tinh tấn hành phạm hạnh cao thượng, để chứng đắc Arahán Thánh Đạo -
Arahán Thánh Quả và Niết Bàn, để chấm dứt sự khổ tử sinh luân hồi”.
Thật kỳ diệu thay! Khi Đức Phật vừa chấm dứt câu, ngay khi ấy, hình tướng cũ Đạo
sĩ của Ngài Đại đức Koṇḍanna biến mất, thay vào tăng tướng mới, đạo mạo
một Tỳ-khưu có đầy đủ 8 thứ vật dụng của Samôn (là tam y, bình bát, dây thắt
lưng, dao cạo tóc,ống kim chỉ và đồ lọc nước) thành tựu do phước thần thông của
Ngài. Vị Tỳ-khưu có tăng tướng trang nghiêm, lục căn thanh tịnh như một vị
Tỳ-khưu có 60 hạ.
TAM BẢO TRỌN VẸN XUẤT HIỆN
Đức Phật thuyết giảng bài kinh Chuyển Pháp Luân lần đầu tiên vào ngày rằm tháng
sáu. Ngài Đại đức Koṇḍanna chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu đầu tiên
trong giáo pháp của Đức Phật Gotama. Đức Phật cho phép Ngài xuất gia thọ
Tỳ-khưu đầu tiên. Ngay khi ấy, Tam Bảo: Phật Bảo, Pháp Bảo, Tăng Bảo
trọn vẹn đầu tiên xuất hiện trên thế gian.
Trong nhóm 5 Tỳ-khưu, Ngài Koṇḍanna trở thành bậc Thánh Nhập Lưu, còn lại
4 vị Tỳ-khưu khác, Đức Phật còn phải dạy dỗ.
Sáng ngày 16 tháng 6, Đức Phật không ngự đi khất thực, ở lại trong khu rừng để
dạy dỗ Ngài Vappa và Ngài Bhaddiya, còn 3 vị
Tỳ-khưu: Ngài Koṇḍanna,
Ngài Mahānāma và Ngài Assaji đi khất thực, đem về dâng vật thực
đến Đức Phật, phần vật thực còn lại phân chia đều cho 5
Tỳ-khưu độ trong ngày.
Ngày 16 tháng 6, Ngài Vappa trở thành bậc Thánh Nhập Lưu
và được Đức Phật cho phép thọ Tỳ-khưu cũng theo cách Ehi-bhikkhūpasampadā.
Ngày 17 tháng 6, Đức Phật dạy dỗ Ngài Bhaddiya và Ngài Mahānāma,
còn Ngài Koṇḍanna, Ngài Vappa và Ngài Assaji đi khất thực
đem về dâng vật thực đến Đức Phật, phần vật thực còn lại chia đều cho 5
Tỳ-khưu. Ngày 17 tháng 6, Ngài Bhaddiya trở thành bậc Thánh
Nhập Lưu và được Đức Phật cho phép thọ Tỳ-khưu theo cách Ehi-bhikkhūpasampadā.
Ngày 18 tháng 6, Đức Phật dạy dỗ Ngài Mahānāma và Ngài Assaji, còn
Ngài Koṇḍanna, Ngài Vappa và Ngài Bhaddiya đi khất thực
đem về dâng vật thực đến Đức Phật, phần vật thực còn lại chia đều cho 5 vị
Tỳ-khưu.
Ngày 18 tháng 6, Ngài Mahānāma trở thành bậc Thánh Nhập Lưu
và được Đức Phật cho phép thọ Tỳ-khưu theo cách Ehi-bhikkhūpasampadā.
Ngày 19 tháng 6, Đức Phật dạy dỗ Ngài Assaji, còn 4 vị
Tỳ-khưu đi khất
thực đem về dâng vật thực đến Đức Phật, phần còn lại chia đều đến 5 vị
Tỳ-khưu.
Ngày 19 tháng 6, Ngài Assaji trở thành bậc Thánh Nhập Lưu
và được Đức Phật cho phép thọ Tỳ-khưu theo cách Ehi-bhikkhūpasampadā.
Như vậy nhóm 5 Tỳ-khưu đều trở thành bậc Thánh Nhập Lưu, mới là bậc Thánh thứ
nhất trong Phật giáo. Muốn nâng đỡ nhóm 5
Tỳ-khưu lên bậc Thánh Arahán, ngày 20
tháng 6, Đức Phật thuyết bài kinh Vô Ngã Tướng (Anattalakkhaṇasutta).
Thật vậy, sau khi nghe Đức Phật thuyết bài kinh Vô Ngã Tướng xong, nhóm 5
Tỳ-khưu đều chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc từ Nhất Lai Thánh Đạo - Nhất
Lai Thánh Quả, Bất Lai Thánh Đạo - Bất Lai Thánh Quả cho đến Arahán Thánh Đạo -
Arahán Thánh Quả và Niết Bàn trở thành bậc Thánh Arahán cao thượng trong Phật
giáo, diệt đoạn tuyệt hoàn toàn mọi phiền não, mọi tham ái, mọi ác pháp không
còn dư sót.
Như vậy, Đức Phật có 5 vị Thánh Arahán đã xuất hiện trên thế gian này.
Tóm lược cốt yếu bài kinh Chuyển Pháp Luân
Tứ Thánh Đế là 4 sự thật chân lý mà bậc Thánh Nhân đã chứng ngộ đó là:
1- Khổ Thánh Đế đó là danh pháp, sắc pháp trong tam giới đều là
khổ, là chân lý mà bậc Thánh Nhân đã chứng ngộ.
2- Nhân sinh Khổ Thánh Đế đó là tham ái là nhân sinh Khổ Thánh Đế,
là chân lý mà bậc Thánh Nhân đã chứng ngộ, hay gọi tắt là Tập Thánh Đế.
3- Diệt Khổ Thánh Đế đó là Niết Bàn là pháp diệt khổ Thánh Đế, là
chân lý mà bậc Thánh Nhân đã chứng ngộ, hay gọi tắt là Diệt Thánh Đế.
4- Pháp hành Diệt Khổ Thánh Đế đó là Bát Chánh Đạo hợp đủ 8 chánh,
là pháp hành dẫn đến chứng ngộ Niết Bàn diệt Khổ Thánh Đế, là chân lý mà bậc
Thánh Nhân đã chứng ngộ, hay gọi tắt là Đạo Thánh Đế.
Tứ Thánh Đế này là nền tảng căn bản, là cốt lõi quan trọng trong giáo pháp của
Chư Phật trong quá khứ, hiện tại và vị lai.
Trong bài kinh Chuyển Pháp Luân, có một đoạn mà Đức Thế Tôn khẳng định truyền
dạy trong toàn cõi thế giới chúng sinh rằng:
“Yato ca kho me bhikkhave imesu catūsu ariyasaccesu evam tiparivattam
dvādasākāram yathā bhūtam nānadassanam suvisuddham ahosi. Athāham bhikkhave
sadevake loke samārake sabrahmake sassamanabrāhmaniyā pajāya devamanussāya “anuttaram
sammāsambodhim abhisambuddho” ti paccannāsim...”.
- Này chư Tỳ-khưu, khi nào trí tuệ thiền tuệ đã thấy rõ, biết rõ đúng thực tánh
của Tứ Thánh Đế theo Tam Tuệ Luân thành 12 loại trí tuệ trong sáng thanh tịnh,
đã phát sinh đến với Như Lai.
Này chư Tỳ-khưu, khi ấy Như Lai khẳng định truyền dạy rằng: Như Lai đã
chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác vô thượng trong toàn thế giới
chúng sinh: Nhân loại, Vua chúa, Samôn, Bàlamôn, chư thiên, Ma Vương và phạm
thiên cả thảy.
Như vậy, Đức Thế Tôn có danh hiệu “Sammāsambuddha” vì chính
Ngài tự chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế theo Tam Tuệ Luân là:
- Trí tuệ học (saccanāna) trong Tứ Thánh Đế.
- Trí tuệ hành (kiccanāna) trong Tứ Thánh Đế.
- Trí tuệ thành (katanāna) trong Tứ Thánh Đế.
Ba loại trí tuệ trong Tứ Thánh Đế (3 x 4) thành 12 loại trí tuệ, mà Đức Phật đã
chứng đạt một cách hoàn toàn trong sáng thanh tịnh, để trở thành Đức Phật Chánh
Đẳng Giác (Sammāsambuddho).
Đối với hàng Phật tử là bậc xuất gia Sa di,
Tỳ-khưu, cũng như hàng tại gia cư sĩ
là cận sự nam, cận sự nữ, cùng tất cả chư thiên, phạm thiên có nguyện vọng trở
thành bậc Thánh Nhân, cũng phải hành theo con đường duy nhất mà Đức Phật đã
tiến hành. Đó là: Pháp hành trung đạo để dẫn đến chứng ngộ chân
lý Tứ Thánh Đế theo Tam Tuệ Luân, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết
Bàn, pháp giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.
Tìm hiểu rõ ý nghĩa Tứ Thánh Đế
Trong bộ Thanh Tịnh Đạo giảng giải 16 ý nghĩa của Tứ Thánh Đế như sau:
1- Khổ Thánh Đế đó là ngũ uẩn chấp thủ, hay danh pháp,
sắc pháp trong tam giới là sự thật chân lý Khổ Thánh Đế có 4 ý
nghĩa thực chất của khổ là:
Thực chất của khổ luôn luôn hành hạ.
Thực chất của khổ là do nhân duyên cấu tạo.
Thực chất của khổ làm nóng nảy.
Thực chất của khổ là do luôn luôn sinh diệt.
2- Nhân sinh khổ Thánh Đế đó là tâm tham ái là
Nhân sinh Khổ Thánh Đế có 4 ý nghĩa thực chất của tham ái là:
Thực chất của tham ái là Nhân sinh khổ.
Thực chất của tham ái làm cho phát sinh khổ đế.
Thực chất của tham ái ràng buộc trong khổ, không thoát ra khỏi khổ được.
Thực chất của tham ái dính mắc ở trong khổ đế.
3- Diệt Thánh Đế đó là Niết Bàn là pháp diệt Khổ
Thánh Đế, có 4 ý nghĩa thực chất của Niết Bàn là:
Thực chất của Niết Bàn giải thoát mọi cảnh Khổ Thánh Đế.
Thực chất của Niết Bàn không bị ràng buộc ở trong Khổ Thánh Đế.
Thực chất của Niết Bàn không bị nhân duyên nào cấu tạo.
Thực chất của Niết Bàn không có tử sinh luân hồi.
4- Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế đó là Pháp hành Bát Chánh Đạo
dẫn đến chứng ngộ Niết Bàn, có 4 ý nghĩa thực chất của pháp hành Bát Chánh Đạo
là:
Thực chất của pháp hành Bát Chánh Đạo dẫn đến giải thoát khổ tử sinh luân hồi.
Thực chất của pháp hành Bát Chánh Đạo là nhân dẫn đến chứng ngộ Niết Bàn.
Thực chất của pháp hành Bát Chánh Đạo để chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế.
Thực chất của pháp hành Bát Chánh Đạo dẫn đầu làm phận sự biết Khổ Thánh Đế,
diệt Nhân sinh Khổ Thánh Đế, chứng ngộ Niết Bàn.
Tất cả 16 ý nghĩa thực chất của Tứ Thánh Đế này đồng thành tựu phận sự cùng một
lúc ở trong Thánh Đạo Tâm, không trước không sau.
Tam Tuệ Luân (Tiparivatta)
Tam Tuệ Luân là 3 bậc trí tuệ luân chuyển theo Tứ Thánh Đế
như sau:
Saccanāna: Trí tuệ học Tứ Thánh Đế.
Kiccanāna: Trí tuệ hành phận sự Tứ Thánh Đế.
Katanāna: Trí tuệ thành hoàn thành phận sự Tứ Thánh Đế.
1- Trí tuệ học biết Tứ Thánh Đế
1.1 Trí tuệ học biết Khổ Thánh Đế
Trí tuệ học hiểu biết rõ các chi pháp trong Khổ Thánh Đế.
Khổ Thánh Đế đó là ngũ uẩn chấp thủ, hay danh
pháp, sắc pháp trong tam giới mà bậc Thánh Nhân đã chứng
ngộ bằng Thánh Đạo Tuệ.
* Ngũ uẩn chấp thủ là:
Sắc uẩn chấp thủ: Sắc uẩn là đối tượng của tà kiến và tham ái chấp thủ.
Thọ uẩn chấp thủ: Thọ uẩn là đối tượng của tà kiến và tham ái chấp thủ.
Tưởng uẩn chấp thủ: Tưởng uẩn là đối tượng của tà kiến và tham ái chấp
thủ.
Hành uẩn chấp thủ: Hành uẩn là đối tượng của tà kiến và tham ái chấp thủ.
Thức uẩn chấp thủ: Thức uẩn là đối tượng của tà kiến và tham ái chấp thủ.
* Danh pháp, sắc pháp trong tam giới là:
- Danh pháp đó là tâm và tâm sở trong tam
giới.
Tâm tam giới, có 81 tâm (không có 8 hay 40 tâm Siêu tam giới, vì
không phải Khổ Thánh Đế):
Tâm dục giới có 54 tâm.
Tâm sắc giới có 15 tâm.
Tâm vô sắc giới có 12 tâm.
Tâm sở, có 51 tâm sở (không có tâm sở tham, vì tâm sở tham thuộc Tập Thánh
Đế).
- Sắc pháp chỉ có trong dục giới và sắc giới, không có
trong vô sắc giới gồm có tất cả 28 sắc pháp.
Như vậy, danh pháp, sắc pháp trong tam giới gồm có 81 tâm tam giới + 51 tâm sở +
28 sắc pháp là Khổ Thánh Đế, là pháp mà bậc Thánh Nhân đã chứng ngộ bằng
Thánh Đạo Tuệ.
1.2 Trí tuệ học biết Nhân sinh khổ Thánh Đế
Trí tuệ học hiểu biết rõ chi pháp trong Nhân sinh khổ Thánh Đế.
Nhân sinh khổ Thánh Đế đó là tâm sở tham (lobhacetasika)
có tên gọi là tham ái (tanhā) là Nhân sinh Khổ Thánh
Đế.
Tham ái (tanhā): Có 3 loại, 6 loại, 18 loại, 54
loại, 108 loại theo cách tính như sau:
* Tham ái tính theo tính chất: Tính chất của tham ái có 3 loại:
Kāmatanhā: Dục ái, tham ái trong 6 trần (sắc, thanh, hương, vị,
xúc, pháp) không hợp với tà kiến.
Bhavatanhā: Hữu ái, tham ái trong 6 trần hợp với thường kiến (sassataditthi),
hoặc tham ái trong cõi dục giới, cõi sắc giới, cõi vô sắc giới, trong thiền hữu
sắc, thiền vô sắc.
Vibhavatanhā: Phi hữu ái, tham ái trong 6 trần hợp với đoạn kiến (ucchedaditthi).
* Tham ái tính theo đối tượng có 6 loại:
Tham ái phát sinh do nương nhờ 6 đối tượng như sau:
Sắc ái: Tham ái phát sinh do nương nhờ nơi đối tượng sắc trần.
Thanh ái: Tham ái phát sinh do nương nhờ nơi đối tượng thanh trần.
Hương ái: Tham ái phát sinh do nương nhờ nơi đối tượng hương trần.
Vị ái: Tham ái phát sinh do nương nhờ nơi đối tượng vị trần.
Xúc ái: Tham ái phát sinh do nương nhờ nơi đối tượng xúc trần.
Pháp ái: Tham ái phát sinh do nương nhờ nơi đối tượng pháp trần.
* Tham ái có 18 loại:
Tính theo 3 tính chất tham ái nhân với 6 đối tượng của tham ái thành 18 loại
tham ái.
* Tham ái có 54 loại:
Tính theo tham ái phát sinh trong 3 thời như sau:
Thời quá khứ tham ái có 18 loại.
Thời hiện tại tham ái có 18 loại.
Thời vị lai tham ái có 18 loại.
* Tham ái có 108 loại:
Tính theo tham ái phát sinh bên trong của mình và bên ngoài mình của người khác,
và vật khác (có sinh mạng và không sinh mạng) như sau: Bên trong mình
tham ái có 54 loại; bên ngoài mình tham ái có 54 loại.
Tổng cộng tất cả bên trong và bên ngoài gồm có 108 loại tham ái. 108 loại tham
ái đều là Nhân sinh Khổ Thánh Đế, là pháp mà bậc Thánh Nhân đã chứng ngộ bằng
Thánh Đạo Tuệ.
Tâm tham ái không chỉ là nhân sinh khổ ở kiếp hiện tại, mà
còn là nhân sinh khổ dẫn dắt tái sinh ở kiếp sau nữa. Hễ còn tâm tham ái,
thì còn phải tái sinh kiếp sau, trong vòng tử sinh luân hồi trong ba giới
bốn loài vô cùng, vô tận.
1.3 Trí tuệ học biết Diệt Khổ Thánh Đế
Trí tuệ học hiểu biết rõ các chi pháp trong Diệt Khổ Thánh Đế.
Diệt Khổ Thánh Đế đó là Niết Bàn, là pháp
diệt Nhân sinh Khổ Thánh Đế, cũng là pháp diệt quả Khổ Thánh Đế.
* Niết Bàn có 2 loại theo Bậc Thánh Arahán:
Hữu Dư Niết Bàn (Sa upādisesanibbāna): Niết Bàn đối với bậc Thánh
Arahán đã diệt đoạn tuyệt tất cả mọi tham ái, mọi phiền não không còn dư sót,
cũng gọi là Phiền Não Niết Bàn (Kilesaparinibbāna), song ngũ uẩn
vẫn còn tồn tại cho đến hết tuổi thọ.
Vô Dư Niết Bàn (Anupādisesanibbāna): Niết Bàn đối với bậc
Thánh Arahán đã diệt đoạn tuyệt được tất cả mọi tham ái, mọi phiền não không
còn dư sót; đồng thời đến lúc hết tuổi thọ, ngũ uẩn tịch diệt Niết Bàn,
cũng gọi là Ngũ Uẩn Niết Bàn (Khandhaparinibbāna), chấm dứt sự tử
sinh luân hồi trong tam giới.
* Niết Bàn có 3 loại theo đối tượng:
Vô Tướng Niết Bàn (Amimittanibbāna): Niết Bàn đối với hành
giả tiến hành thiền tuệ. Khi trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ danh
pháp, sắc pháp có trạng thái vô thường hiện rõ hơn trạng thái khổ
và trạng thái vô ngã, do tín pháp chủ có năng lực hơn 4
pháp chủ khác, dẫn đến sự chứng ngộ Niết Bàn gọi là “Vô Tướng Niết Bàn”:
Niết Bàn không có hiện tượng pháp hành hữu vi.
Vô Ái Niết Bàn (Appanihitanibbāna): Niết Bàn đối với hành
giả tiến hành thiền tuệ. Khi trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ
danh pháp, sắc pháp có trạng thái khổ hiện rõ hơn trạng thái vô
thường và trạng thái vô ngã, do định pháp chủ có
năng lực hơn 4 pháp chủ khác, dẫn đến sự chứng ngộ Niết Bàn gọi là “Vô Ái
Niết Bàn”: Niết Bàn không có tham ái nương nhờ.
Chơn Không Niết Bàn (Sunnatanibbāna): Niết Bàn đối với hành giả
tiến hành thiền tuệ. Khi trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ danh pháp,
sắc pháp có trạng thái vô ngã hiện rõ hơn trạng thái vô thường
và trạng thái khổ, do tuệ pháp chủ có năng lực hơn
4 pháp chủ khác, dẫn đến sự chứng ngộ Niết Bàn gọi là “Chơn Không Niết Bàn”:
Niết Bàn hoàn toàn vô ngã, không phải Ta, không phải của Ta.
Các loại Niết Bàn đều là Diệt Khổ Thánh Đế, là pháp mà chư bậc Thánh đã chứng
ngộ bằng Thánh Đạo Tuệ và Thánh Quả Tuệ.
1.4 Trí tuệ học biết Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế
Trí tuệ học hiểu biết rõ các chi pháp trong Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế.
Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế: Đó là Bát Chánh Đạo
hợp đủ 8 chánh, là pháp hành dẫn đến chứng ngộ Niết Bàn diệt Khổ Thánh Đế.
Bát Chánh Đạo:
Chánh kiến: Trí tuệ chân chính là trí tuệ thiền tuệ chứng ngộ chân
lý Tứ Thánh Đế: Khổ Thánh Đế, Tập Thánh Đế, Diệt Thánh Đế và Đạo Thánh Đế.
Chánh tư duy: Tư duy chân chính là tư duy thoát ra khỏi ngũ trần,
tư duy không làm khổ mình khổ người, tư duy không làm hại mình hại người.
Chánh ngữ: Nói lời chân chính là không nói dối, không nói lời chia
rẽ, không nói lời thô tục chửi rủa mắng nhiếc, không nói lời vô ích.
Chánh nghiệp: Hành nghiệp chân chính là không sát sanh, không trộm
cắp, không tà dâm.
Chánh mạng: Nuôi mạng chân chính là tránh xa cách sống tà mạng do
thân và khẩu hành ác.
Chánh tinh tấn: Tinh tấn chân chính là
Tinh tấn diệt ác pháp đã phát sinh.
Tinh tấn ngăn không cho ác pháp phát sinh.
Tinh tấn làm cho thiện pháp phát sinh.
Tinh tấn làm tăng trưởng thiện pháp đã phát sinh.
Chánh niệm: Niệm chân chính là niệm thân, niệm thọ, niệm tâm, niệm
pháp, (ngoài ra không gọi là chánh niệm).
Chánh định: Định chân chính là định tâm trong các bậc thiền Siêu tam
giới tâm có Niết Bàn làm đối tượng. (Ngoài ra, định tâm ở bậc
thiền hữu sắc, thiền vô sắc không gọi là chánh định).
Bát Chánh Đạo hợp đủ 8 chánh, là pháp hành dẫn đến chứng ngộ Niết
Bàn diệt Khổ Thánh Đế, là pháp mà chư bậc Thánh đã chứng ngộ bằng Thánh Đạo Tuệ
và Thánh Quả Tuệ.
Trên đây là 4 trí tuệ học hiểu biết các chi pháp của Tứ
Thánh Đế, thuộc về phần Pháp học (pariyattidhamma).
2- Trí Tuệ hành phận sự Tứ Thánh Đế
Khi 4 trí tuệ học đã hiểu biết rõ tất cả chi pháp trong Tứ Thánh
Đế xong rồi, luân chuyển đến 4 trí tuệ hành theo phận sự của mỗi
Thánh Đế như sau:
2.1 Trí tuệ hành phận sự Khổ Thánh Đế
Khổ Thánh Đế đó là ngũ uẩn chấp thủ, hay danh pháp, sắc pháp
trong tam giới, là pháp mà trí tuệ hành có phận sự nên biết
(parinneyya), hay trí tuệ hành có phận sự nên biết danh pháp, sắc pháp là
khổ đế. (không phải có phận sự nên diệt, nên chứng ngộ, nên tiến
hành).
2.2 Trí tuệ hành phận sự Tập Thánh Đế
Nhân sinh Khổ Thánh Đế đó là tham ái, là
Nhân sinh Khổ Thánh Đế, là pháp mà trí tuệ hành có phận sự nên diệt
(pāhātabba), hay trí tuệ hành có phận sự nên diệt tham ái.
(không phải có phận sự nên biết, nên chứng ngộ, nên tiến hành).
2.3 Trí tuệ hành phận sự Diệt khổ Thánh Đế
Diệt Khổ Thánh Đế đó là Niết Bàn diệt Nhân
sinh Khổ Thánh Đế, là pháp mà trí tuệ hành có phận sự nên chứng ngộ (sacchikātabba),
hay trí tuệ hành có phận sự nên chứng ngộ Niết Bàn. (không
phải có phận sự nên biết, nên diệt, nên tiến hành).
2.4 Trí tuệ hành phận sự Pháp hành diệt khổ Thánh Đế
Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế đó là Bát Chánh Đạo
là pháp hành dẫn đến chứng ngộ Niết Bàn, diệt Nhân sinh Khổ Thánh
Đế, là pháp mà trí tuệ hành có phận sự nên tiến hành (bhāvetabba),
hay trí tuệ hành có phận sự nên tiến hành Bát Chánh Đạo. (không phải có
phận sự nên biết, nên diệt, nên chứng ngộ).
Trên đây là 4 trí tuệ hành phận sự của Tứ Thánh Đế,
thuộc về phần pháp hành (patipattidhamma).
3- Trí Tuệ thành phận sự Tứ Thánh Đế
Khi 4 trí tuệ hành đang tiến hành phận sự Tứ Thánh Đế luân chuyển
đến 4 trí tuệ thành hoàn thành xong phận sự của mỗi Thánh Đế như
sau:
3.1 Trí tuệ thành phận sự Khổ Thánh Đế
Khổ Thánh Đế: Đó là ngũ uẩn chấp thủ, hay danh
pháp, sắc pháp trong tam giới, là pháp mà trí tuệ thành đã
biết xong (parinnata), đã hoàn thành xong phận sự biết Khổ Thánh
Đế, hay trí tuệ thành Thánh Đạo Tuệ - Thánh Quả Tuệ đã biết xong danh
pháp, sắc pháp là Khổ Thánh Đế.
3.2 Trí tuệ thành phận sự Nhân sinh Khổ Thánh Đế
Nhân sinh Khổ Thánh Đế đó là tham ái, là
Nhân sinh Khổ Thánh Đế, là pháp mà trí tuệ thành đã diệt xong (pahīna),
đã hoàn thành xong phận sự diệt Nhân sinh Khổ Thánh Đế, hay trí tuệ
thành Thánh Đạo Tuệ - Thánh Quả Tuệ đã diệt xong tham ái.
3.3 Trí tuệ thành phận sự Diệt Khổ Thánh Đế
Diệt Khổ Thánh Đế đó là Niết Bàn diệt Nhân sinh Khổ
Thánh Đế, là pháp mà trí tuệ thành đã chứng ngộ xong (sacchikata),
đã hoàn thành xong phận sự chứng ngộ Diệt Khổ Thánh Đế, hay trí tuệ
thành Thánh Đạo Tuệ - Thánh Quả Tuệ đã chứng ngộ xong Niết Bàn.
3.4 Trí tuệ thành phận sự Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế
Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế đó là Bát Chánh Đạo
hợp đủ 8 chánh, pháp hành dẫn đến chứng ngộ Niết Bàn là pháp mà trí tuệ thành đã
tiến hành xong (bhāvita), đã hoàn thành xong phận sự tiến hành
Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế, hay trí tuệ thành Thánh Đạo Tuệ - Thánh Quả
Tuệ đã tiến hành xong Bát Chánh Đạo.
Trên đây là 4 trí tuệ thành đã hoàn thành xong mọi phận sự Tứ
Thánh Đế, thuộc về pháp thành (paṭivedhadhamma), đó là sự
chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn,
gọi là 9 pháp Siêu tam giới (navalokuttaradhamma).
Nhân Quả Liên Quan Tam Tuệ Luân
* Từ quả suy ra nhân:
4 trí tuệ thành đã hoàn thành xong 4 phận sự chứng ngộ chân lý Tứ
Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả
và Niết Bàn, đó là kết quả của 4 trí tuệ hành
theo 4 phận sự của Tứ Thánh Đế.
4 trí tuệ hành hành đúng theo 4 phận sự của Tứ Thánh Đế, đó là kết
quả của 4 trí tuệ học hiểu biết rõ Tứ Thánh Đế.
* Từ nhân đến quả:
4 trí tuệ học hiểu biết đúng theo các chi pháp của Tứ Thánh Đế,
làm nhân duyên dẫn đến kết quả 4 trí tuệ hành theo 4 phận sự của
Tứ Thánh Đế.
4 trí tuệ hành hành đúng theo 4 phận sự của Tứ Thánh Đế làm nhân
duyên dẫn đến kết quả 4 trí tuệ thành đã hoàn thành xong 4 phận
sự của Tứ Thánh Đế. Đó là, sự chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng
đắc từ Nhập Lưu Thánh Đạo - Nhập Lưu Thánh Quả, Nhất Lai Thánh Đạo - Nhất Lai
Thánh Quả, Bất Lai Thánh Đạo - Bất Lai Thánh Quả đến Arahán Thánh Đạo - Arahán
Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán. Trí tuệ thấy
rõ, biết rõ phạm hạnh đã hoàn thành xong, kiếp này là kiếp chót, không còn phải
tái sinh kiếp nào khác nữa.
Như trong đoạn kinh Chuyển Pháp Luân, Đức Thế Tôn khẳng định:
“Nānanca pana me dassanam udapādi, akuppā me vimutti, ayamantimājāti, natthi dāni
punabbhavo”.
Trí tuệ quán xét đã phát sinh đến Như Lai, biết rõ rằng: “Arahán Thánh Quả Tuệ
giải thoát của Như Lai không bao giờ bị hư hoại, kiếp này là kiếp chót, sau
kiếp hiện tại này, không còn phải tái sinh kiếp nào nữa.
TAM TUỆ LUÂN CỦA MỖI THÁNH ĐẾ
Trong mỗi Thánh Đế có đủ Tam Tuệ Luân như sau:
1- Khổ Thánh Đế
Trí tuệ học hiểu biết rõ danh pháp, sắc pháp trong tam giới là Khổ Thánh
Đế.
Trí tuệ hành đang tiến hành thiền tuệ, để thấy rõ, biết rõ danh pháp, sắc
pháp là pháp mà trí tuệ thiền tuệ có phận sự nên biết (parinneyya).
Trí tuệ thành đã tiến hành thiền tuệ, đã thấy rõ, biết rõ danh pháp, sắc
pháp là pháp mà Thánh Đạo Tuệ - Thánh Quả Tuệ có phận sự nên biết, thì đã biết
rồi (parinnāta).
2- Nhân sinh khổ Thánh Đế
Trí tuệ học hiểu biết rõ tham ái là Nhân sinh Khổ Thánh Đế.
Trí tuệ hành đang tiến hành thiền tuệ, để thấy rõ, biết rõ tham ái là pháp
mà trí tuệ thiền tuệ có phận sự nên diệt (pahātabba).
Trí tuệ thành đã tiến hành thiền tuệ, đã thấy rõ, biết rõ tham ái là ác
pháp mà Thánh Đạo Tuệ - Thánh Quả Tuệ có phận sự nên diệt, thì đã diệt rồi
(pahīna).
3- Diệt Thánh Đế
Trí tuệ học hiểu biết rõ Niết Bàn là pháp diệt Khổ Thánh Đế.
Trí tuệ hành đang tiến hành thiền tuệ, để thấy rõ, biết rõ Niết Bàn
là pháp mà trí tuệ thiền tuệ có phận sự nên chứng ngộ (sacchikātabba).
Trí tuệ thành đã tiến hành thiền tuệ, đã thấy rõ, biết rõ Niết Bàn là pháp
mà Thánh Đạo Tuệ - Thánh Quả Tuệ có phận sự nên chứng ngộ, thì đã chứng
ngộ rồi (sacchikata).
4- Pháp hành diệt khổ Thánh Đế
Trí tuệ học hiểu biết rõ Bát Chánh Đạo là pháp hành dẫn đến chứng ngộ Niết
Bàn diệt Khổ Thánh Đế.
Trí tuệ hành đang tiến hành pháp hành Bát Chánh Đạo là pháp mà trí
tuệ thiền tuệ có phận sự nên tiến hành (bhāvetabba).
Trí tuệ thành đã tiến hành pháp hành Bát Chánh Đạo là pháp mà Thánh Đạo
Tuệ - Thánh Quả Tuệ có phận sự nên tiến hành, thì đã tiến hành rồi (bhāvita).
Trong mỗi Thánh Đế đều có Tam Tuệ Luân chuyển; trong Tứ Thánh Đế (4x3) gồm
có 12 Tuệ Luân chuyển, có thể tượng trưng như một bánh xe Pháp Luân
(Dhammacakka) có 12 căm luân chuyển.
BẢNG TÓM TẮT TUỆ LUÂN TRONG TỨ THÁNH ĐẾ
Tam Tuệ Luân
|
Tứ Thánh Đế
|
Khổ Thánh Đế
|
Tập Thánh Đế
|
Diệt Thánh Đế
|
Đạo Thánh Đế
|
Trí tuệ học
|
Danh -Sắc
|
Tham ái
|
Niết Bàn
|
Bát Chánh Đạo
|
Trí tuệ hành
|
Nên biết
|
Nên diệt
|
Nên chứng ngộ
|
Nên tiến hành
|
Trí tuệ thành
|
Đã biết
|
Đã diệt
|
Đã chứng ngộ
|
Đã tiến hành
|
Tứ Thánh Đế
|
Tam Tuệ Luân
|
Trí tuệ học
|
Trí tuệ hành
|
Trí tuệ thành
|
Khổ Thánh Đế
|
Danh -Sắc
|
Nên biết
|
Đã biết
|
Tập Thánh Đế
|
Tham ái
|
Nên diệt
|
Đã diệt
|
Diệt Thánh Đế
|
Niết Bàn
|
Nên chứng ngộ
|
Đã chứng ngộ
|
Đạo Thánh Đế
|
Bát Chánh Đạo
|
Nên tiến hành
|
Đã tiến hành
|
Tam Tuệ Luân của 4 Bậc Thánh Nhân
Mỗi bậc Thánh Nhân đều trải qua Tam Tuệ Luân trong Tứ Thánh Đế, mỗi tuệ luân có
năng lực trí tuệ khác nhau đối với từng bậc Thánh Nhân.
Bậc Thánh Nhập Lưu trải qua Tam Tuệ Luân trong Tứ Thánh Đế lần thứ
nhất, Nhập Lưu Thánh Đạo Tuệ đã diệt đoạn tuyệt được tham ái trong
4 tâm tham hợp tà kiến (còn 4 tâm tham không hợp tà kiến, thì chưa diệt được).
Bậc Thánh Nhất Lai trải qua Tam Tuệ Luân trong Tứ Thánh Đế lần thứ
nhì, Nhất Lai Thánh Đạo Tuệ đã diệt đoạn tuyệt được tham ái ngũ trần loại thô
trong 4 tâm tham không hợp tà kiến (còn ngũ trần loại vi tế, thì chưa diệt
được).
Bậc Thánh Bất Lai trải qua Tam Tuệ Luân trong Tứ Thánh Đế lần thứ
ba, Bất Lai Thánh Đạo Tuệ đã diệt đoạn tuyệt được tham ái ngũ trần loại vi tế
trong 4 tâm tham không hợp tà kiến cõi dục giới (còn tham ái trong cõi sắc
giới, cõi vô sắc giới, thì chưa diệt được).
Bậc Thánh Arahán trải qua Tam Tuệ Luân trong Tứ Thánh Đế lần thứ
tư, Arahán Thánh Đạo Tuệ đã diệt đoạn tuyệt được tham ái trong thiền hữu sắc,
thiền vô sắc, cõi trời sắc giới, cõi trời vô sắc giới phạm thiên trong 4 tâm
tham không hợp tà kiến. Như vậy, bậc Thánh Arahán diệt đoạn tuyệt được
hoàn toàn tham ái không còn dư sót.
Tính chất 4 phận sự của Tứ Thánh Đế
4 trí tuệ hành và 4 trí tuệ thành
trong 4 phận sự của Tứ Thánh Đế có tính chất liên quan đồng thời, không phận sự
nào trước, không phận sự nào sau:
Trong bộ Thanh Tịnh Đạo có ví dụ rằng:
Khi đốt một cây đèn dầu (hay cây đèn cầy) trong đêm tối, có 4 sự việc xảy ra đồng
thời, không trước, không sau:
Ánh sáng tỏa ra.
Bóng tối bị tan biến.
Tim đèn bị cháy mòn.
Dầu bị hao dần.
Bốn sự việc xảy ra cùng một lúc, không việc nào trước, không việc nào sau.
Cũng giống như 4 trí tuệ hành và 4 trí tuệ thành trong 4 phận sự của Tứ Thánh Đế
có tính chất đồng thời, không trước, không sau.
Trong Kinh Gavampaticó đoạn dạy:
Đại đức Gavampati thưa với chư
Tỳ-khưu rằng:
- Này chư Pháp hữu, tôi được nghe từ nơi Đức Thế Tôn dạy rằng:
Vị Tỳ-khưu nào chứng ngộ Khổ Thánh Đế, vị
Tỳ-khưu ấy cũng chứng ngộ Tập Thánh Đế,
Diệt Thánh Đế, Đạo Thánh Đế.
Vị Tỳ-khưu nào chứng ngộ Tập Thánh Đế, vị
Tỳ-khưu ấy cũng chứng ngộ Khổ Thánh Đế,
Diệt Thánh Đế, Đạo Thánh Đế.
Vị Tỳ-khưu nào chứng ngộ Diệt Thánh Đế, vị
Tỳ-khưu ấy cũng chứng ngộ Khổ Thánh
Đế, Tập Thánh Đế, Đạo Thánh Đế.
Vị Tỳ-khưu nào chứng ngộ Đạo Thánh Đế, vị
Tỳ-khưu ấy cũng chứng ngộ Khổ Thánh Đế,
Tập Thánh Đế, Diệt Thánh Đế...
Như vậy, Tứ Thánh Đế có sự liên quan về phận sự với nhau đồng thời, không trước,
không sau.
Phần giải thích:
* Bốn trí tuệ hành phận sự trong Tứ Thánh Đế
Trong 4 trí tuệ hành phận sự này, trí tuệ hành phận sự khổ đế là chính,
còn 3 trí tuệ hành phận sự kia là phụ. Song 4 phận sự có tính
chất đồng thời, không trước, không sau, có danh pháp và sắc pháp làm
đối tượng.
Khi trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ danh pháp nào, sắc pháp nào
là khổ đế, thì đồng thời, tham ái là Nhân sinh khổ đế
không sanh trong danh pháp ấy, sắc pháp ấy; cũng đồng thời, chứng
ngộ sự diệt của tham ái là Nhân sinh khổ đế ở danh pháp ấy, sắc
pháp ấy.
Trong khi đang tiến hành thiền tuệ với chánh niệm, chánh kiến, chánh tinh tấn,
trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ khổ đế nên biết, tập đế nên diệt,
diệt đế nên chứng ngộ, thì chính đạo đế đang nên tiến hành.
Như vậy, 4 trí tuệ hành phận sự của Tứ Thánh Đế đồng thời, không trước, không
sau.
* Bốn trí tuệ thành phận sự trong Tứ Thánh Đế
4 trí tuệ thành là đã hoàn thành xong 4 phận sự của Tứ
Thánh Đế là quả của 4 trí tuệ hành, cũng có tính chất đồng thời, không trước,
không sau, chỉ có Niết Bàn làm đối tượng.
Khi trí tuệ thiền tuệ Siêu tam giới đó là Thánh Đạo Tuệ đã hoàn thành xong phận sự
biết Khổ Thánh Đế thì:
Đồng thời Thánh Đạo Tuệ cũng đã hoàn thành xong phận sự diệt
tham ái Nhân sinh Khổ Thánh Đế (Tập Thánh Đế).
Đồng thời Thánh Đạo Tuệ và Thánh Quả Tuệ đã chứng ngộ Niết Bàn Diệt Khổ Thánh Đế.
Đồng thời Bát Chánh Đạo hợp đủ 8 chánh: Chánh kiến, chánh tư duy,
chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định,
đồng sinh với Thánh Đạo Tâm, đã hoàn thành xong phận sự
tiến hành Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế (Đạo Thánh Đế)
là:
Khổ Thánh Đế nên biết, thì đã biết xong
Tập Thánh Đế nên diệt, thì đã diệt xong.
Diệt Thánh Đế nên chứng ngộ, thì đã chứng ngộ xong.
Đạo Thánh Đế nên tiến hành, thì đã tiến hành xong.
Bốn trí tuệ thành phận sự này, đã hoàn thành xong 4 phận sự Tứ
Thánh Đế, đồng thời, không trước, không sau, chỉ có Niết Bàn làm đối tượng.
Vai trò 4 trí tuệ hành và 4 trí tuệ thành
Trong 4 trí tuệ hành phận sự của Tứ Thánh Đế, giai đoạn đầu, trí tuệ
hành phận sự biết Khổ Thánh Đế đóng vai trò chính yếu, đó là
trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ danh pháp, sắc pháp là khổ đế, là pháp nên
biết. Trí tuệ hành phận sự của mỗi Thánh Đế còn lại, cũng thành tựu
phận sự cùng một lúc, không trước, không sau.
Trong 4 trí tuệ thành phận sự của Tứ Thánh Đế, giai đoạn cuối, trí
tuệ thành phận sự đã tiến hành Đạo Thánh Đế đóng vai trò chính
yếu, đó là Thánh Đạo hợp đủ 8 chánh, đồng sinh với Thánh Đạo Tâm - Thánh Quả
Tâm, có Niết Bàn làm đối tượng, hoàn thành xong phận sự đã tiến hành xong Bát
Chánh Đạo, chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và
Niết Bàn. Trí tuệ thành phận sự của mỗi Thánh Đế còn lại, cũng
thành tựu phận sự cùng một lúc, không trước, không sau.
Tứ Thánh Đế trong giáo pháp của Đức Phật
Tứ Thánh Đế là chân lý của chư bậc Thánh, là nền tảng căn bản, là pháp cốt lõi,
trọng yếu trong giáo pháp của Chư Phật thời quá khứ, Đức Phật thời hiện tại và
Chư Phật thời vị lai. Tứ Thánh Đế đó là:
1- Khổ Thánh Đế đó là ngũ uẩn chấp thủ, hay danh pháp, sắc
pháp trong tam giới. Trong giáo pháp của Đức Phật, thì
tất cả mọi danh pháp, sắc pháp cõi dục giới, cõi sắc giới và danh pháp
cõi vô sắc giới, đúng theo chân lý đều là khổ đế (dukkhasacca),
không phải lạc đế. Tuy có thọ lạc, nhưng thọ lạc cũng sinh rồi diệt, luôn
luôn hành hạ, nên chỉ có khổ đế mà thôi.
Trong tam giới không có pháp nào gọi là “lạc đế”, mà chỉ có “lạc đảo
điên” (sukhavipallāsa), do quan niệm tâm đảo điên
(cittavipallāsa), tà kiến đảo điên (ditthivipallāsa),
tưởng đảo điên (sannāvipallāsa).
Đúng theo chân lý thì chỉ có khổ đế mà thôi. Dầu có thọ lạc
(sukhavedanā), nhưng thọ lạc cũng bị vô thường biến đổi, nên cũng
chỉ là khổ đế mà thôi.
Như Đại đức Tỳ-khưu ni Vajirā dạy rằng:
“Chỉ có khổ đế sanh, khổ đế trụ, khổ đế diệt.
Ngoài khổ đế ra, không có gì sanh, không có gì trụ, không có gì diệt...”.
Do đó, ngũ uẩn chấp thủ, hay danh pháp, sắc pháp
trong tam giới đều là khổ đế.
2- Nhân sinh Khổ Thánh Đế đó là tham ái là Nhân
sinh Khổ Thánh Đế
Tâm tham ái là Nhân sinh khổ trong kiếp hiện tại.
Nếu tâm tham không được thỏa mãn, thì tâm
sân phát sinh, không vừa lòng, làm khổ tâm.
Nếu tâm tham mà được thỏa mãn, thì phát sinh tâm
tham chấp thủ, cho là của ta, cũng làm nhân phát sinh tâm sân
sầu não, lo sợ cũng làm khổ tâm.
Như Đức Phật dạy trong Pháp Cú kệ rằng:
“Tanhāya jāyatī soko
Tanhāya jāyatī bhayam
Tanhāya vippamuttassa
Natthi soko kuto bhayam?”
“Sự sầu não phát sinh do tham ái
Sự lo sợ phát sinh do tham ái
Bậc Thánh Arahán không tham ái
Không sầu não, từ đâu có lo sợ?”.
Tâm tham ái là nhân dẫn dắt đi tái sinh khổ trong kiếp sau.
Ngoại trừ bậc Thánh Arahán đã diệt đoạn tuyệt được tất cả
mọi tham ái ra, còn lại tất cả mọi chúng sinh: Nhân loại, chư thiên, phạm thiên
và gồm cả 3 bậc Thánh hữu học (Thánh Nhập Lưu, Thánh Nhất Lai, Thánh Bất Lai)
còn tham ái, nên còn phải tái sinh khổ trong kiếp sau.
Chúng sinh có ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành và thức uẩn) trong
cõi dục giới và sắc giới, hay chúng sinh có tứ uẩn (thọ, tưởng,
hành và thức uẩn) ở cõi vô sắc giới, hay chúng sinh chỉ có nhất uẩn
(sắc uẩn) trong cõi sắc giới Vô Tưởng Thiên, cũng đều phải chịu khổ đế.
Chỉ khác nhau là khổ nhiều, khổ ít mà thôi.
Do đó tâm tham ái là Nhân sinh Khổ Đế.
3- Diệt Khổ Thánh Đế đó là Niết Bàn là pháp diệt đoạn tuyệt
được tham ái, Nhân sinh Khổ Thánh Đế, cũng là pháp diệt quả Khổ Thánh
Đế.
* Niết Bàn là pháp diệt đoạn tuyệt tham ái
Hành giả tiến hành thiền tuệ, đến khi chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4
Thánh Đạo Tuệ, có đối tượng Niết Bàn, Thánh Đạo Tuệ
nào có khả năng diệt đoạn tuyệt được tâm tham ái nào rồi tâm tham ái ấy
vĩnh viễn không bao giờ phát sinh trở lại nữa, gọi là “Phiền Não Niết Bàn”
(Kilesaparinibbāna). Loại phiền não nào đã bị diệt đoạn tuyệt do Thánh
Đạo Tuệ rồi, loại phiền não ấy vĩnh viễn không còn sanh trở lại.
Trường hợp Đức Phật Gotama chứng ngộ Phiền Não Niết Bàn
tại Đại cội Bồ đề.
* Niết Bàn là pháp tịch diệt ngũ uẩn
Bậc Thánh Arahán đã diệt đoạn tuyệt tất cả mọi tham ái, mọi phiền não không còn
dư sót, đến khi hết tuổi thọ, tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt mọi cảnh khổ tử sinh
luân hồi trong ba giới bốn loài, gọi là Ngũ uẩn Niết Bàn (Khandhaparinibbāna).
Ngũ uẩn của bậc Thánh Arahán khi tịch diệt Niết Bàn rồi, không còn tái sinh
kiếp sau nữa, như ngọn đèn tắt.
Trường hợp Đức Phật Gotama tịch diệt Ngũ uẩn Niết Bàn
tại khu rừng Kusinārā.
Do đó, Niết Bàn là pháp diệt Khổ Thánh Đế.
4- Đạo Thánh Đế đó là Bát Chánh Đạo, là pháp hành
dẫn đến chứng ngộ Niết Bàn diệt khổ Thánh Đế.
Hành giả tiến hành thiền tuệ, đến khi chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4
Thánh Đạo, có đối tượng Niết Bàn. Khi ấy, Thánh Đạo Tâm
hợp đủ 8 chánh: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng,
chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định, đồng sanh với Thánh Đạo Tâm đã
hoàn thành xong 4 phận sự:
Khổ Thánh Đế là pháp nên biết, thì Thánh Đạo Tuệ đã biết xong.
Nhân sinh khổ Thánh Đế là pháp nên diệt, thì Thánh Đạo Tuệ đã diệt xong.
Diệt Khổ Thánh Đế là pháp nên chứng ngộ, thì Thánh Đạo Tuệ đã chứng ngộ
xong.
Pháp hành diệt khổ Thánh Đế là pháp nên tiến hành, thì Bát Chánh Đạo hợp
đủ 8 chánh đã tiến hành xong.
Do đó, Bát Chánh Đạo là pháp hành dẫn đến chứng ngộ Niết Bàn diệt
khổ Thánh Đế.
Tứ Thánh Đế là nền tảng, là cốt lõi chính yếu trong giáo
pháp của Chư Phật. Vì vậy, hành giả tiến hành thiền tuệ, dầu có những đối tượng
thiền tuệ khác nhau như thân, thọ, tâm, pháp, ngũ uẩn, 12 xứ, 18 giới,
danh pháp, sắc pháp,... đến giai đoạn cuối cùng đều đạt đến chứng
ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, mới chứng đắc 4 Thánh Đạo -
4 Thánh Quả và Niết Bàn.
Nhân quả liên quan của Tứ Thánh Đế
Chân lý Tứ Thánh Đế có nhân quả liên quan với nhau như sau:
Khổ Thánh Đế: Đó là Ngũ uẩn chấp thủ, hay danh
pháp, sắc pháp trong tam giới (dục giới, sắc giới, vô sắc giới), là quả
của Nhân sinh Khổ Thánh Đế.
Nhân sinh khổ Thánh Đế đó là tham ái là Nhân sinh
Khổ Thánh Đế cũng là nhân dẫn dắt tái sinh kiếp sau (tanhā ponobbhavikā).
Diệt khổ Thánh Đế đó là Niết Bàn không thuộc quả của
một nhân nào. Vì Niết Bàn là Pháp Vô vi (Asaṅkhatadhamma),
là pháp hoàn toàn không do một nhân duyên nào cấu tạo.
Pháp hành diệt khổ Thánh Đế đó là Bát Chánh Đạo, là pháp
hành dẫn đến chứng ngộ Niết Bàn diệt khổ Thánh Đế.
Như vậy, Bát Chánh Đạo là nhân đạt đến Niết Bàn (Diệt khổ Thánh Đế) không
phải là nhân sinh Niết Bàn (Diệt khổ Thánh Đế), và Diệt khổ Thánh Đế
cũng không phải là quả của Pháp hành diệt khổ Thánh Đế, mà chỉ là đối
tượng Siêu tam giới của Pháp hành diệt khổ Thánh Đế
mà thôi.
Ví dụ: Con đường dẫn đến kinh đô.
Con đường ví như Bát Chánh Đạo là Pháp hành
diệt khổ Thánh Đế.
Kinh đô ví như Niết Bàn là pháp Diệt khổ
Thánh Đế.
Con đường dẫn đến kinh đô, chứ không phải là nhân sinh kinh đô.
Cũng như vậy, Pháp hành diệt khổ Thánh Đế không phải nhân sinh Niết Bàn
Diệt khổ Thánh Đế, mà chỉ là nhân đạt đến Niết Bàn Diệt khổ
Thánh Đế mà thôi.
Trong Phật giáo có hai pháp hành: Pháp hành thiền định và pháp hành thiền tuệ,
mà mỗi pháp hành có mục đích cuối cùng hoàn toàn khác nhau.
Hành giả tiến hành thiền định, để đạt đến định tâm trong một đối tượng
thiền định, tâm được an lạc, để chứng đắc các bậc thiền hữu sắc, các bậc
thiền vô sắc. Hành giả nhập thiền (jhānasamāpatti) hưởng sự an lạc trong
thiền. Sau khi chết, sắc giới thiện nghiệp, hoặc vô sắc giới thiện nghiệp cho
quả tái sinh lên cõi sắc giới, hoặc cõi vô sắc giới, tùy theo bậc thiền sở đắc
của mình, hưởng sự an lạc trong cõi trời ấy cho đến hết tuổi thọ, rồi lại tái
sinh kiếp khác tùy theo nghiệp của mình.
Hành giả tiến hành thiền tuệ, để phát sinh trí tuệ thiền tuệ thấy rõ,
biết rõ Khổ đế trong các danh pháp, các sắc pháp, gọi là chánh kiến thiền
tuệ (vipassanāsammādiṭṭhi) dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh
Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán.
Bậc Thánh có thể nhập Thánh Quả (phalasamāpatti) hưởng an lạc Niết Bàn.
Đến khi hết tuổi thọ, đồng thời tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt mọi cảnh khổ tử
sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.
Như vậy, hành giả đang tiến hành thiền định, mà tâm được an lạc trong đối
tượng thiền định là hành đúng; còn hành giả đang tiến hành thiền tuệ, mà trí
tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ Khổ đế trong đối tượng thiền tuệ là hành
đúng.
- Pháp hành thiền định có trong Phật giáo và ngoài Phật giáo.
- Pháp hành thiền tuệ chỉ có trong Phật giáo mà thôi, không có ngoài Phật giáo.
KINH VÔ NGÃ TƯỚNG (ANATTALAKKHANASUTTA)
Đức Thế Tôn thuyết pháp lần đầu tiên bài kinh Chuyển Pháp Luân để tế độ nhóm 5
vị Tỳ-khưu, Ngài Koṇḍanna chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu, là vị
Thánh Nhân đầu tiên trong giáo pháp của Đức Phật Gotama vào ngày rằm
tháng 6 (âm lịch), tiếp theo sau, mỗi ngày một vị chứng đắc thành bậc
Thánh Nhập Lưu, đến ngày 19 tháng 6, nhóm 5 vị
Tỳ-khưu đều đã chứng đắc thành
bậc Thánh Nhập Lưu.
Ngày 20 tháng 6, Đức Phật thuyết bài kinh Vô Ngã Tướng (Anattalakkhaṇasutta)
để tế độ nhóm 5 vị Tỳ-khưu chứng đắc thành bậc Thánh Arahán.
Phần I: Ý nghĩa kệ khai kinh Vô Ngã Tướng
Dhammacakkaṃ pavattetvā...
Khu rừng yên tịnh nơi phóng sinh nai
Tên gọi là I-si-pa-ta-na
Gần kinh thành Bà-rà-na-si ấy,
Ngày rằm tháng sáu, trăng rằm sáng tỏ
Đức Phật đã thuyết, kinh Chuyển Pháp Luân
Tỳ-khưu chứng đắc bậc Thánh Nhập Lưu
Tuần tự theo mỗi ngày, thêm mỗi vị.
Nhóm năm Tỳ-khưu thành Thánh Nhập Lưu,
Đến ngày mồng năm (20/6AL) tuần trăng hạ huyền
Đức Phật thuyết pháp kinh Vô Ngã Tướng
Tế độ Tỳ-khưu, thành A-ra-hán.
Này chư thiện trí, xin hãy lắng nghe
Chúng tôi tụng kinh, Vô Ngã Tướng ấy.
Phần II: Ý nghĩa của bài kinh Vô Ngã Tướng (Anattalakkhaṇasutta)
Evaṃ me sutaṃ...
Lời của Ngài Đại đức Ānanda bạch với Ngài Đại Trưởng Lão Mahākassapa.
- Kính bạch Ngài Đại Trưởng Lão Mahākassapa khả kính.
Con là Ānanda được nghe bài kinh Vô Ngã Tướng từ Đức Thế Tôn như vầy:
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại khu rừng phóng sinh nai gọi là Isipatana, trước
kia Đức Phật Độc Giác thường ngự xuống. Tại nơi đây, Đức Thế Tôn bèn gọi nhóm 5
Tỳ-khưu rằng:
- Này chư Tỳ-khưu.
Chư
Tỳ-khưu đáp lời Đức Thế Tôn:
- Dạ, kính bạch Đức Thế Tôn.
Đức Thế Tôn thuyết giảng kinh Vô Ngã Tướng như sau:
Ngũ uẩn là vô ngã
1- Sắc uẩn là vô ngã
- Này chư Tỳ-khưu, sắc uẩn này là vô ngã (không phải ta, không chiều theo ý muốn
của ai).
Này chư Tỳ-khưu, thật vậy, nếu sắc uẩn này là ta (ngã), thì sắc uẩn này không bị
biến đổi, không bệnh hoạn; và các con có thể mong muốn được trong sắc uẩn này
rằng:
“Sắc uẩn của tôi được khỏe mạnh, đẹp đẽ như thế này!
Sắc uẩn của tôi đừng có bệnh hoạn, xấu xí như thế kia”.
Này chư Tỳ-khưu, sự thật, bởi vì sắc uẩn này là vô ngã, do đó, sắc uẩn này phải
bị biến đổi, bệnh hoạn.Vì vậy, các con không thể mong muốn được trong sắc uẩn
này rằng:
“Sắc uẩn của tôi được khỏe mạnh, đẹp đẽ như thế này!
Sắc uẩn của tôi đừng có bệnh hoạn, xấu xí như thế kia”.
(sắc uẩn như thế nào tùy thuộc vào nhân duyên, không tùy thuộc theo ý muốn của
mình).
2- Thọ uẩn là vô ngã
- Này chư Tỳ-khưu, thọ uẩn này là vô ngã (không phải ta, không chiều theo ý muốn
của ai).
Này chư Tỳ-khưu, thật vậy, nếu thọ uẩn này là ta (ngã), thì thọ uẩn này không bị
biến đổi, không bệnh tâm, không bệnh thân; và các con có thể mong muốn được
trong thọ uẩn này rằng:
“Thọ uẩn của tôi được an lạc như thế này!
Thọ uẩn của tôi đừng khổ đau như thế kia”.
Này chư Tỳ-khưu, sự thật, bởi vì thọ uẩn này là vô ngã; do đo, thọ uẩn này phải
bị biến đổi, bệnh tâm, bệnh thân. Vì vậy, các con không thể mong muốn được
trong thọ uẩn này rằng:
“Thọ uẩn của tôi được an lạc như thế này!
Thọ uẩn của tôi đừng khổ đau như thế kia”.
(thọ uẩn như thế nào tùy thuộc vào nhân duyên tiếp xúc đối tượng, không tùy thuộc
theo ý muốn của ai).
3- Tưởng uẩn là vô ngã
- Này chư Tỳ-khưu, tưởng uẩn này là vô ngã (không phải ta, không chiều theo ý
muốn của ai).
Này chư Tỳ-khưu, thật vậy, nếu tưởng uẩn này là ta (ngã), thì tưởng uẩn này không
bị biến đổi, không bệnh tâm, không bệnh thân; và các con có thể mong muốn được
trong tưởng uẩn này rằng:
“Tưởng uẩn của tôi ghi nhớ điều tốt, điều thiện như thế này!
Tưởng uẩn của tôi đừng ghi nhớ điều ác, điều xấu như thế kia”.
Này chư Tỳ-khưu, sự thật, bởi vì tưởng uẩn này là vô ngã, do đó, tưởng uẩn này
phải bị biến đổi, bệnh tâm, bệnh thân. Vì vậy, các con không thể mong muốn được
trong tưởng uẩn này rằng:
“Tưởng uẩn của tôi được ghi nhớ điều tốt, điều thiện như thế này!
Tưởng uẩn của tôi đừng ghi nhớ điều ác, điều xấu như thế kia”.
(tưởng uẩn như thế nào tùy thuộc vào nhân duyên tiếp xúc đối tượng, không tùy
thuộc theo ý muốn của ai).
4- Hành uẩn là vô ngã
- Này chư Tỳ-khưu, hành uẩn này là vô ngã (không phải ta, không chiều theo ý muốn
của ai).
Này chư Tỳ-khưu, thật vậy, nếu hành uẩn này là ta (ngã), thì hành uẩn này không
bị biến đổi, không bệnh tâm, không bệnh thân; và các con có thể mong muốn được
trong hành uẩn này rằng:
“Hành uẩn của tôi tạo thiện nghiệp như thế này!
Hành uẩn của tôi đừng tạo ác nghiệp như thế kia”.
Này chư Tỳ-khưu, sự thật bởi vì hành uẩn này là vô ngã, do đó, hành uẩn này phải
bị biến đổi, bệnh tâm, bệnh thân. Vì vậy, các con không thể mong muốn được
trong hành uẩn này rằng:
“Hành uẩn của tôi tạo thiện nghiệp như thế này!
Hành uẩn của tôi đừng tạo ác nghiệp như thế kia”.
(hành uẩn như thế nào tùy thuộc vào nhân duyên tiếp xúc đối tượng, không tùy
thuộc theo ý muốn của ai).
5- Thức uẩn là vô ngã
- Này chư Tỳ-khưu, thức uẩn này là vô ngã (không phải ta, không chiều theo ý muốn
của ai).
Này chư Tỳ-khưu, thật vậy, nếu thức uẩn này là ta (ngã), thì thức uẩn này không
bị biến đổi, không bệnh tâm, không bệnh thân; và các con có thể mong muốn được
trong thức uẩn này rằng:
“Thức uẩn của tôi biết điều tốt, điều thiện như thế này!
Thức uẩn của tôi đừng biết điều xấu, điều ác như thế kia”.
Này chư Tỳ-khưu, sự thật, bởi vì thức uẩn này là vô ngã, do đó, thức uẩn này phải
bị biến đổi, bệnh tâm, bệnh thân. Vì vậy, các con không thể mong muốn được
trong thức uẩn này rằng:
“Thức uẩn của tôi biết điều tốt, điều thiện như thế này!
Thức uẩn của tôi đừng biết điều xấu, điều ác như thế kia”.
(thức uẩn hoàn toàn tùy thuộc nhân duyên danh pháp, sắc pháp, không tùy thuộc
theo ý muốn của ai).
Ngũ uẩn có ba trạng thái chung
1) Sắc uẩn có 3 trạng thái chung
- Này chư Tỳ-khưu, các con nhận thức thế nào về điều này?
Sắc uẩn này là thường hay vô thường?
- Kính bạch Đức Thế Tôn, sắc uẩn này sinh rồi diệt là vô thường.
- Này chư Tỳ-khưu, sắc uẩn nào là vô thường, vậy sắc uẩn ấy là khổ hay lạc?
- Kính bạch Đức Thế Tôn, sắc uẩn ấy sinh rồi diệt luôn luôn hành hạ, nên sắc uẩn
ấy là khổ.
- Này chư Tỳ-khưu, sắc uẩn nào vô thường, khổ, có trạng thái thường biến đổi. Vậy
các con có nên theo chấp thủ bằng tâm tham ái, ngã mạn, tà kiến nơi sắc uẩn ấy
rằng:
Sắc uẩn ấy là của ta (do tâm tham ái)
Sắc uẩn ấy là ta (do tâm ngã mạn)
Sắc uẩn ấy là tự ngã của ta (do tâm tà kiến) hay không?
- Kính bạch Đức Thế Tôn, quả thật không nên theo chấp thủ sắc uẩn ấy như vậy.
2) Thọ uẩn có 3 trạng thái chung
- Này chư Tỳ-khưu, các con nhận thức thế nào về điều này?
Thọ uẩn này là thường hay vô thường?
- Kính bạch Đức Thế Tôn, thọ uẩn này sinh rồi diệt là vô thường.
- Này chư Tỳ-khưu, thọ uẩn nào là vô thường, vậy thọ uẩn ấy là khổ hay lạc?
- Kính bạch Đức Thế Tôn, thọ uẩn ấy sinh rồi diệt luôn luôn hành hạ, nên thọ uẩn
ấy là khổ.
- Này chư Tỳ-khưu, thọ uẩn nào là vô thường, khổ, có trạng thái thường biến đổi.
Vậy các con có nên theo chấp thủ bằng tâm tham ái, ngã mạn, tà kiến nơi thọ uẩn
ấy rằng:
Thọ uẩn ấy là của ta (do tâm tham ái)
Thọ uẩn ấy là ta (do tâm ngã mạn)
Thọ uẩn ấy là tự ngã của ta (do tâm tà kiến) hay không?
- Kính bạch Đức Thế Tôn, quả thật không nên theo chấp thủ thọ uẩn ấy như vậy.
3) Tưởng uẩn có 3 trạng thái chung
- Này chư Tỳ-khưu, các con nhận thức thế nào về điều này?
Tưởng uẩn này là thường hay vô thường?
- Kính bạch Đức Thế Tôn, tưởng uẩn này sinh rồi diệt là vô thường.
- Này chư Tỳ-khưu, tưởng uẩn nào là vô thường, vậy tưởng uẩn ấy là khổ hay lạc?
- Kính bạch Đức Thế Tôn, tưởng uẩn ấy sinh rồi diệt luôn luôn hành hạ, nên tưởng
uẩn ấy là khổ.
- Này chư Tỳ-khưu, tưởng uẩn nào là vô thường, khổ, có trạng thái thường biến
đổi. Vậy các con có nên theo chấp thủ bằng tâm tham ái, ngã mạn, tà kiến nơi
tưởng uẩn ấy rằng:
Tưởng uẩn ấy là của ta (do tâm tham ái)
Tưởng uẩn ấy là ta (do tâm ngã mạn)
Tưởng uẩn ấy là tự ngã của ta (do tâm tà kiến) hay không?
- Kính bạch Đức Thế Tôn, quả thật không nên theo chấp thủ tưởng uẩn ấy như vậy.
4) Hành uẩn có 3 trạng thái chung
- Này chư Tỳ-khưu, các con nhận thức thế nào về điều này?
Hành uẩn này là thường hay vô thường?
- Kính bạch Đức Thế Tôn, hành uẩn này sinh rồi diệt là vô thường.
- Này chư Tỳ-khưu, hành uẩn nào là vô thường, vậy hành uẩn ấy là khổ hay lạc?
- Kính bạch Đức Thế Tôn, hành uẩn ấy sinh rồi diệt luôn luôn hành hạ, nên hành
uẩn ấy là khổ.
- Này chư Tỳ-khưu, hành uẩn nào là vô thường, khổ, có trạng thái thường biến đổi.
Vậy các con có nên theo chấp thủ bằng tâm tham ái, ngã mạn, tà kiến nơi hành
uẩn ấy rằng:
Hành uẩn ấy là của ta (do tâm tham ái)
Hành uẩn ấy là ta (do tâm ngã mạn)
Hành uẩn ấy là tự ngã của ta (do tâm tà kiến) hay không?
- Kính bạch Đức Thế Tôn, quả thật không nên theo chấp thủ hành uẩn ấy như vậy.
5) Thức uẩn có 3 trạng thái chung
- Này chư Tỳ-khưu, các con nhận thức thế nào về điều này?
Thức uẩn này là thường hay vô thường?
- Kính bạch Đức Thế Tôn, thức uẩn này sinh rồi diệt là vô thường.
- Này chư Tỳ-khưu, thức uẩn nào là vô thường, vậy thức uẩn ấy là khổ hay lạc?
- Kính bạch Đức Thế Tôn, thức uẩn ấy sinh rồi diệt luôn luôn hành hạ, nên thức
uẩn ấy là khổ.
- Này chư Tỳ-khưu, thức uẩn nào là vô thường, khổ, có trạng thái thường biến đổi.
Vậy các con có nên theo chấp thủ bằng tâm tham ái, ngã mạn, tà kiến nơi thức
uẩn ấy rằng:
Thức uẩn ấy là của ta (do tâm tham ái)
Thức uẩn ấy là ta (do tâm ngã mạn)
Thức uẩn ấy là tự ngã của ta (do tâm tà kiến) hay không?
- Kính bạch Đức Thế Tôn, quả thật không nên theo chấp thủ thức uẩn ấy như vậy.
Trí tuệ thiền tuệ không chấp thủ ngũ uẩn:
1) Trí tuệ thiền tuệ không chấp thủ nơi sắc uẩn
Vì vậy, này chư Tỳ-khưu, những sắc uẩn nào đã sinh trong thời quá khứ, sẽ sinh
trong thời vị lai, đang sinh trong thời hiện tại, hoặc sắc uẩn bên trong của
mình, hoặc sắc uẩn bên ngoài (của người khác), hoặc sắc uẩn thô, hoặc sắc uẩn
vi tế, hoặc sắc uẩn thấp hèn, hoặc sắc uẩn cao quý, hoặc sắc uẩn nào sinh ở nơi
xa, hoặc sắc uẩn nào sinh ở nơi gần. Vậy các con nên biết bằng trí tuệ thiền
tuệ thấy rõ, biết rõ đúng theo thật tánh của tất cả sắc uẩn ấy rằng:
Sắc uẩn ấy không phải của ta.
Sắc uẩn ấy không phải ta.
Sắc uẩn ấy không phải tự ngã của ta.
2) Trí tuệ thiền tuệ không chấp thủ nơi thọ uẩn.
Vì vậy, này chư Tỳ-khưu, những thọ uẩn nào đã sinh trong thời quá khứ, sẽ sinh
trong thời vị lai, đang sinh trong thời hiện tại, hoặc thọ uẩn bên trong của
mình, hoặc thọ uẩn bên ngoài (của người khác), hoặc thọ uẩn thô, hoặc thọ uẩn
vi tế, hoặc thọ uẩn thấp hèn, hoặc thọ uẩn cao quý, hoặc thọ uẩn nào sinh ở nơi
xa, hoặc thọ uẩn nào sinh ở nơi gần. Vậy các con nên biết bằng trí tuệ thiền
tuệ thấy rõ, biết rõ đúng theo thật tánh của tất cả thọ uẩn ấy rằng:
Thọ uẩn ấy không phải của ta.
Thọ uẩn ấy không phải ta.
Thọ uẩn ấy không phải tự ngã của ta.
3) Trí tuệ thiền tuệ không chấp thủ nơi tưởng uẩn.
Vì vậy, này chư Tỳ-khưu, những tưởng uẩn nào đã sinh trong thời quá khứ, sẽ sinh
trong thời vị lai, đang sinh trong thời hiện tại, hoặc tưởng uẩn bên trong của
mình, hoặc tưởng uẩn bên ngoài (của người khác), hoặc tưởng uẩn thô, hoặc tưởng
uẩn vi tế, hoặc tưởng uẩn thấp hèn, hoặc tưởng uẩn cao quý, hoặc tưởng uẩn nào
sinh ở nơi xa, hoặc tưởng uẩn nào sinh ở nơi gần. Vậy các con nên biết bằng trí
tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ đúng theo thật tánh của tất cả tưởng uẩn ấy rằng:
Tưởng uẩn ấy không phải của ta.
Tưởng uẩn ấy không phải ta.
Tưởng uẩn ấy không phải tự ngã của ta.
4) Trí tuệ thiền tuệ không chấp thủ nơi hành uẩn.
Vì vậy, này chư Tỳ-khưu, những hành uẩn nào đã sinh trong thời quá khứ, sẽ sinh
trong thời vị lai, đang sinh trong thời hiện tại, hoặc hành uẩn bên trong của
mình, hoặc hành uẩn bên ngoài (của người khác), hoặc hành uẩn thô, hoặc hành
uẩn vi tế, hoặc hành uẩn thấp hèn, hoặc hành uẩn cao quý, hoặc hành uẩn nào
sinh ở nơi xa, hoặc hành uẩn nào sinh ở nơi gần. Vậy các con nên biết bằng trí
tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ đúng theo thật tánh của tất cả hành uẩn ấy rằng:
Hành uẩn ấy không phải của ta.
Hành uẩn ấy không phải ta.
Hành uẩn ấy không phải tự ngã của ta.
5) Trí tuệ thiền tuệ không chấp thủ nơi thức uẩn.
Vì vậy, này chư Tỳ-khưu, những thức uẩn nào đã sinh trong thời quá khứ, sẽ sinh
trong thời vị lai, đang sinh trong thời hiện tại, hoặc thức uẩn bên trong của
mình, hoặc thức uẩn bên ngoài (của người khác), hoặc thức uẩn thô, hoặc thức
uẩn vi tế, hoặc thức uẩn thấp hèn, hoặc thức uẩn cao quý, hoặc thức uẩn nào
sinh ở nơi xa, hoặc thức uẩn nào sinh ở nơi gần. Vậy các con nên biết bằng trí
tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ đúng theo thật tánh của tất cả thức uẩn ấy rằng:
Thức uẩn ấy không phải của ta.
Thức uẩn ấy không phải ta.
Thức uẩn ấy không phải tự ngã của ta.
Trí tuệ thiền tuệ nhàm chán trong ngũ uẩn.
Này chư Tỳ-khưu, thực tánh của ngũ uẩn như vậy, bậc Thánh Thanh Văn có trí tuệ
thiền tuệ thấy rõ biết rõ ngũ uẩn đúng theo thật tánh, nên phát sinh trí tuệ
thiền tuệ nhàm chán trong sắc uẩn, nhàm chán trong thọ uẩn, nhàm chán trong
tưởng uẩn, nhàm chán trong hành uẩn, nhàm chán trong thức uẩn.
Khi trí tuệ thiền tuệ nhàm chán trong ngũ uẩn, nên tâm xả ly tham ái, do tâm xả
ly tham ái nên chứng đắc Arahán Thánh Đạo, giải thoát khỏi mọi tham ái phiền
não.
Trí tuệ quán xét biết rõ rằng: “Arahán Thánh Quả đã giải thoát hoàn toàn
mọi phiền não trầm luân”.
Trí tuệ quán xét biết rõ rằng: “Không còn phải tiến hành pháp hành Bát
Chánh Đạo nữa, mọi phận sự của Tứ Thánh Đế đã hoàn thành xong, phạm hạnh cao
thượng đã hoàn thiện. Kiếp này là kiếp chót, không còn tái sinh kiếp nào nữa”.
Nhóm 5 Tỳ-khưu thành bậc Thánh Arahán
Đức Thế Tôn thuyết giảng bài kinh Vô Ngã Tướng này xong, nhóm 5
Tỳ-khưu vô cùng
hoan hỷ với lời giáo huấn của Đức Thế Tôn.
Trong khi Đức Thế Tôn thuyết giảng bài kinh này, nhóm 5
Tỳ-khưu tiến hành thiền
tuệ dẫn đến chứng đắc Arahán Đạo Tuệ diệt đoạn tuyệt mọi phiền não trầm luân,
không còn chấp thủ trong ngũ uẩn này nữa.
(xong bài kinh Vô Ngã Tướng).
* Giải thích danh từ trong bài kinh Vô Ngã Tướng
* Ý nghĩa danh từ Anattā
Định nghĩa danh từ anattā như sau:
Na attā anattā, natthi attā etassa khandhapañcakassā ti và anattā.
Tất cả các pháp không phải ta, không phải của ta là pháp vô ngã, hay ngũ uẩn ấy
không phải ta, không phải của ta cũng là pháp vô ngã.
Ý nghĩa anattā: Vô ngã ở đây là phủ định attā: Ngã, ngã sở (theo
quan niệm tà kiến).
Trong bộ Ṭīkā giải thích danh từ anattā: Vô ngã có 4 ý nghĩa sau:
Avasavattanaṭṭha: Vô ngã có nghĩa là không chiều theo ý muốn của một ai.
Asāmikaṭṭha: Vô ngã có nghĩa là vô chủ, không có ai làm chủ.
Suññataṭṭha: Vô ngã có nghĩa là không, không phải ta, không phải của ta.
Attapaṭikkhepaṭṭha: Vô ngã có nghĩa là phủ nhận cái ngã, cái ta, cái đại
ngã.
Anattā và attā trong bài kinh Anattalakkhaṇasutta (Vô Ngã
Tướng) có ý nghĩa hoàn toàn ngược lại nhau.
Anattā: Vô ngã, ngũ uẩn này không chiều theo ý muốn của ai.
Attā: Ngã, ta muốn ngũ uẩn được như thế này, không muốn ngũ uẩn
như thế khác v.v... chiều theo ý muốn của ta. Nhưng thật tánh của ngũ uẩn này
là vô ngã không chiều theo ý muốn của ai.
Attā: Nghĩa là ta, ngã do tà kiến theo chấp sắc uẩn, thọ uẩn,
tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn hoặc danh pháp, sắc pháp cho là ta (ngã), tự ngã; ngã
mạn theo chấp ta; tham ái theo chấp của ta.
Ngoài ra, attā còn có ý nghĩa khác.
* Ý nghĩa danh từ attā.
Theo trong bộ tự điển Abhidhāna: tự điển từ ngữ Pāḷi câu kệ 861
danh từ attā có ý nghĩa rằng:
“Citte kāye sabhāve ca, so attā paramattani.”
Danh từ attā có 4 ý nghĩa: tâm, thân, thực tánh pháp
và Ngã tối thượng (đại ngã).
Giải thích:
1- Attā có ý nghĩa là citta: tâm.
Ví dụ:
Attasammāpaṇidhi: Đặt để tâm đúng trong thiện pháp, tâm mong muốn chân
chính.
Attamicchāpaṇidhi: Đặt để tâm sai lầm trong ác pháp, tâm mong muốn sai
lầm.
“Sabbe sattā bhavantu sukhitattā”.
“Cầu mong tất cả chúng sinh tâm thường được an lạc”.
“Attā hi kira duddamo”.
“Thật vậy, dạy được tâm mình là khó lắm!”
“Attānam damayanti panditā”.
“Chư bậc thiện trí rèn luyện, dạy tâm”...
Attā ở đây có ý nghĩa là tâm.
2- Attā có ý nghĩa là kāya: Thân thể.
Ví dụ:
Đức Phật ban hành những giới của Tỳ-khưu ni, trong đó có giới như:
“Yā pana bhikkhunī attānam vadhitvā vadhitvā rodheyya pācittiyam ”.
“Tỳ-khưu ni nào tự đấm vào thân mình rồi khóc,
Tỳ-khưu ni ấy phạm āpatti
pācittiya (ứng đối trị)”.
“Attā hi attano natthi,
Kuto puttā kuto dhanam?”.
“Chính thân này, còn không phải của ta..., thì thử hỏi con của ta, của cải của
ta làm sao có được?...”
Attā ở đây có ý nghĩa là thân thể.
3- Attā có ý nghĩa là sabhāva: Thực tánh pháp.
Ví dụ:
“Attā hi attano nātho,
Ko hi nātho paro siyā”.
“Chính thiện pháp là nơi nương nhờ chân chánh của ta, ngoài thiện pháp ra, có
ai là nơi nương nhờ của ta được?”
“Attadīpā bhikkhave, viharatha attasaranā anannasaranā”.
“Này chư Tỳ-khưu, các con nên sống, chính thiện pháp là hòn đảo, chính
thiện pháp là nơi nương nhờ, không nên có nơi nương nhờ nào khác”...
Attā: Ta ở đây có nghĩa là thực tánh pháp. Đó là tam giới
thiện pháp, Siêu tam giới thiện pháp, là nơi nương nhờ chân chính của
ta.
4- Attā có ý nghĩa là Parama attā: Ngã Tối Thượng, Đại ngã,
theo tà kiến của ngoại đạo.
Nhóm ngoại đạo có tà kiến cho rằng: “Tất cả vạn vật, vũ trụ này do Parama attā
tạo ra, gọi là Ngã Tối Thượng, Đấng Tạo Hóa”.
Parama attā: Ngã Tối Thượng, đại ngã theo tà kiến của nhóm ngoại đạo này,
ý nghĩa nghịch với anattā: Vô ngã trong giáo pháp của Đức Phật.
Như vậy, trong 4 ý nghĩa của attā, có 3 ý nghĩa là tâm, thân, thực
tánh pháp thuộc về chánh kiến, còn Parama attā: Ngã Tối
Thượng, đại ngã theo quan niệm của nhóm ngoại đạo thuộc về tà kiến mà
thôi.
Attāditthi: Tà kiến chấp ngã, hoặc attānuditthi: Tà kiến
theo chấp ngã là tà kiến thấy sai, hiểu lầm, chấp lầm từ sắc uẩn, thọ
uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn cho là ta, hoặc tà kiến thấy sai, chấp lầm
từ danh pháp cho là ta là ngã, hoặc từ sắc pháp cho là ta là ngã, cũng ở trong
ý nghĩa tà kiến này.
4 ý nghĩa attā:
- Attā nghĩa là tâm.
- Attā nghĩa là thân.
- Attā nghĩa là thực tánh pháp.
Cả 3 ý nghĩa attā này thuộc trong Chân nghĩa pháp (Paramatthadhamma)
là pháp có ý nghĩa chân thật, có chi pháp, có thức tánh rõ ràng, trí tuệ thấy
đúng biết đúng thuộc về chánh kiến.
- Attā có nghĩa khác là ngã, ta... do tà kiến thấy sai, chấp lầm trong
ngũ uẩn: Sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn bên trong của
mình cho là ta, là ngã và tà kiến thấy sai, chấp lầm ngũ uẩn bên ngoài (của
người khác) chúng sinh khác cho là người, chúng sinh v.v...
Đó là tà kiến chấp ngã (attadiṭṭhi) hoặc tà kiến theo chấp ngã
(attānudiṭṭhi) thông thường đối với hạng phàm nhân.
Tà kiến chấp ngã đặc biệt của các nhóm ngoại đạo cho là cái ngã tối
thượng, đại ngã (parama attā) thường tồn bất diệt, chính cái ngã
tối thượng này tạo thiên lập địa, tạo ra mọi chúng sinh muôn loài, muôn vật
trong thế gian. Và tà kiến chấp ngã trong mỗi chúng sinh có cái sinh mạng tự ngã
(jīva attā) có khả năng hành động nói năng, suy nghĩ, đi, đứng, ngồi nằm
v.v... Đó chỉ là tà kiến thấy sai, chấp lầm, chấp ngã mà thôi.
CHÚNG SINH TRONG TAM GIỚI
Tất cả chúng sinh trong tam giới có 3 loài:
1- Chúng sinh có ngũ uẩn trong 11 cõi dục giới (4 cõi ác giới, 1 cõi người, 6
cõi trời dục giới) và 15 cõi sắc giới (trừ cõi sắc giới Vô Tưởng Thiên).
2- Chúng sinh có tứ uẩn (thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn) trong 4 cõi
vô sắc giới.
3- Chúng sinh có nhất uẩn (sắc uẩn) trong cõi sắc giới Vô Tưởng Thiên.
Chúng sinh có ngũ uẩn
Ngũ uẩn là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn. Chúng sinh
có ngũ uẩn như chúng sinh ở cõi địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh, loài người,
chư thiên trong cõi dục giới và chư phạm thiên trong 15 cõi sắc giới.
- Sắc uẩn thuộc về phần thân.
- Thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn thuộc về phần tâm.
Ví dụ: Khi con người sống thì thân với tâm luôn luôn nương nhờ lẫn
nhau. Phần thân hay sắc uẩn là riêng biệt, và phần tâm gồm có 4 uẩn: thọ
uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn luôn luôn nương nhờ lẫn nhau và
không bao giờ tách rời nhau, bởi vì mỗi tâm luôn luôn có một số tâm sở.
Trong mỗi tâm phát sinh, thì có một số tâm sở ít hoặc nhiều đồng sinh với tâm
ấy, chính tâm ấy là thức uẩn và các tâm sở đồng sinh với tâm, như tâm sở
thọ là thọ uẩn, tâm sở tưởng là tưởng uẩn, tâm
sở còn lại là hành uẩn. Cho nên, trong mỗi tâm đều có 4 uẩn
nương nhờ lẫn nhau, không tách rời nhau.
Nếu khi nào tâm tách rời khỏi thân, thì khi ấy gọi là người chết,
thân trở thành tử thi.
Con người chưa phải là bậc Thánh Arahán, thì sau khi chết rồi, chắc chắn nghiệp
cho quả tái sinh kiếp sau. Kiếp sau thuộc loài chúng sinh nào, hoàn toàn tùy
thuộc vào nghiệp của người ấy cho quả tái sinh. Do đó, thân người chết là xong
kiếp người, không thể tái sinh kiếp sau được, mà chỉ có nghiệp của người ấy đã
tạo trong kiếp hiện tại hoặc kiếp quá khứ, chính nghiệp ấy cho quả tái sinh
kiếp sau mà thôi. Tất cả mọi chúng sinh khác cũng giống như vậy.
Không nên hiểu rằng: con người chết sẽ tái sinh làm chư thiên, hoặc súc sinh...,
và cũng không nên hiểu rằng: “Chư thiên chết, rồi tái sinh làm người, hoặc một loài thú
vật chết, rồi tái sinh làm người v.v...”.
Sự thật, mỗi kiếp chúng sinh nào đến khi chết rồi, chấm dứt kiếp chúng sinh ấy; phần
thân không liên quan đến kiếp sau, mà chỉ có phần tâm
liên quan đến kiếp quá khứ, hiện tại và vị lai mà thôi.
Còn tái sinh kiếp sau, do năng lực của tham ái dẫn dắt tái sinh,
và chính nghiệp của chúng sinh ấy trực tiếp cho quả tái sinh kiếp
sau.
- Nếu nghiệp ác cho quả, thì sẽ tái sinh 1 trong 4 cõi ác giới: Địa ngục, atula,
ngạ quỷ, súc sinh.
- Nếu nghiệp thiện cho quả, thì được tái sinh một trong những cõi thiện giới: Làm
người trong cõi người, làm chư thiên trong cõi trời dục giới, làm phạm thiên
trong cõi trời sắc giới, vô sắc giới.
Cho nên, tử sinh luân hồi của mỗi chúng sinh không liên quan đến phần thân,
chỉ liên quan đến phần tâm mà thôi.
Pháp ngũ uẩn
Uẩn (khandha) có nghĩa là “phần” gồm những
phần có trạng thái giống nhau, liên kết vào với nhau.
Ví dụ: Con người có ngũ uẩn.
Sắc uẩn đó là 28 sắc pháp thuộc phần thân.
Thọ uẩn đó là tâm sở thọ.
Tưởng uẩn đó là tâm sở tưởng.
Hành uẩn đó là 50 tâm sở nói chung (không có tâm sở thọ và tâm sở tưởng).
Thức uẩn đó là 89 hay 121 tâm nói chung, mỗi tâm là thức uẩn.
Thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn thuộc về phần tâm hay gọi là danh
uẩn.
Giải thích:
1) Sắc uẩn
Sắc uẩn đó là 28 sắc pháp như sau:
Sắc tứ đại: là 4 sắc pháp lớn rõ ràng.
Địa đại: chất đất có trạng thái cứng hoặc mềm.
Thủy đại: chất nước có trạng thái lỏng hoặc đông đặc.
Hỏa đại: chất lửa có trạng thái nóng hoặc lạnh.
Phong đại: chất gió trạng thái lưu động, phồng hoặc xẹp.
Sắc tứ đại này là nơi nương nhờ của 24 sắc pháp phụ thuộc.
24 sắc pháp phụ thuộc vào sắc tứ đại:
5 sắc tịnh căn: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân.
5 - 7 sắc đối tượng: sắc, thanh, hương, vị, xúc.
2 sắc tính: sắc nam tính, sắc nữ tính.
1 sắc ý căn.
1 sắc mạng chủ.
1 sắc vật thực.
1 sắc chân không.
2 sắc cử động: sắc thân cử động, sắc khẩu cử động.
3 sắc biến chuyển: sắc nhẹ nhàng, sắc mềm mại, sắc uyển chuyển.
4 sắc trạng thái: sắc sanh, sắc liên tục, sắc già dặn, sắc vô thường.
28 sắc pháp này đều gọi là sắc uẩn.
Một người bình thường, không bị khuyết tật, thân thể có đầy đủ 27 sắc pháp.
Nếu là người nam, thì trừ sắc nữ tính.
Nếu là người nữ, thì trừ sắc nam tính.
Nếu người bị đui mù, câm điếc, thì người ấy có số lượng sắc pháp giảm xuống
theo bệnh tật.
2) Thọ uẩn.
Thọ uẩn đó là tâm sở thọ, có trạng thái cảm thọ trong đối tượng.
Thọ có 3 loại tính theo cảm thọ trong đối tượng:
Thọ khổ có trạng thái khổ khó chịu.
Thọ lạc có trạng thái lạc dễ chịu.
Thọ xả có trạng thái không khổ, không lạc.
Thọ có 5 loại tính theo cảm thọ đối tượng do thân, tâm làm chủ:
Thọ khổ đồng sinh với thân thức tâm (thân khổ).
Thọ lạc đồng sinh với thân thức tâm (thân an lạc).
Thọ hỷ đồng sinh với ý thức tâm (tâm an lạc).
Thọ ưu đồng sinh với sân tâm (tâm khổ não).
Thọ xả đồng sinh với ý thức tâm (tâm không khổ, không lạc).
Mỗi tâm phát sinh có tâm sở thọ đồng sinh với tâm, tâm sở thọ ấy là thọ
uẩn.
3) Tưởng uẩn.
Tưởng uẩn đó là tâm sở tưởng có trạng thái ghi nhớ trong 6 đối tượng.
Sắc tưởng ghi nhớ các hình ảnh màu sắc.
Thanh tưởng ghi nhớ các loại âm thanh, tiếng nói.
Hương tưởng ghi nhớ các thứ mùi thơm, hôi.
Vị tưởng ghi nhớ các thứ vị ngon, dở.
Xúc tưởng ghi nhớ các loại cảm xúc nóng lạnh, cứng mềm...
Pháp tưởng ghi nhớ các tâm, tâm sở, sắc pháp, các ngôn ngữ chế định, môn
học và cả Niết Bàn.
Mỗi tâm phát sinh, đều có tâm sở tưởng đồng sinh với tâm, tâm sở tưởng ấy
là tưởng uẩn.
4) Hành uẩn.
Hành uẩn đó là 50 tâm sở (không có tâm sở thọ và tâm sở tưởng).
Có trạng thái cấu tạo, tạo các pháp; tâm sở tác ý (cetanā) đồng sinh với
bất thiện tâm, tạo nên bất thiện nghiệp (ác nghiệp) do thân, khẩu, ý; tâm sở tác
ý (cetanā) đồng sinh với thiện tâm, tạo nên thiện nghiệp, do thân,
khẩu, ý.
Mỗi tâm phát sinh, có các tâm sở này ít hoặc nhiều, tùy theo năng lực và phận sự
của mỗi tâm. Ngoại trừ hai tâm sở thọ và tâm sở tưởng ra, các tâm
sở còn lại đều là hành uẩn.
5) Thức uẩn.
Thức uẩn đó là tất cả các tâm gồm có 89 hoặc 121 tâm có trạng thái biết đối
tượng. Đối tượng có 6 loại, do đó tất cả tâm chia ra làm 6 loại tâm.
Nhãn thức tâm: có 2 tâm làm phận sự nhìn thấy sắc trần, các hình ảnh.
Nhĩ thức tâm: có 2 tâm làm phận sự lắng nghe thanh trần, các âm thanh.
Tỷ thức tâm: có 2 tâm làm phận sự ngửi các thứ mùi hương.
Thiệt thức tâm: có 2 tâm làm phận sự nếm các thứ vị.
Thân thức tâm: có 2 tâm làm phận sự cảm giác xúc trần nóng, lạnh, cứng,
mềm...
Ý thức tâm: có 79 tâm làm nhiều phận sự biết pháp trần: tâm, tâm sở,
sắc pháp, các ngôn ngữ chế định ra môn học,... và cả đối tượng Niết Bàn tùy
theo năng lực của mỗi tâm.
Mỗi tâm là mỗi thức uẩn.
Thật ra, mỗi tâm phát sinh đều có một số tâm sở ít hoặc nhiều tùy theo năng lực
và phận sự của tâm ấy. Các tâm sở này đồng sinh với tâm, đồng diệt với
tâm, đồng đối tượng với tâm, đồng nơi phát sinh với tâm.
Cho nên, khi mỗi tâm phát sinh nghĩa là 4 danh uẩn đồng sinh; khi tâm diệt nghĩa
là 4 danh uẩn đồng diệt.
Mỗi tâm phát sinh đều nương nhờ nơi môn đó là sắc pháp.
Như vậy:
Sắc pháp mà tâm ấy nương nhờ thuộc sắc uẩn.
Tâm ấy làm chủ thuộc thức uẩn.
Tâm sở thọ đồng sinh với tâm ấy thuộc thọ uẩn.
Tâm sở tưởng đồng sinh với tâm ấy thuộc tưởng uẩn.
Tâm sở còn lại (không có tâm sở thọ và tâm sở tưởng) đồng sinh
với tâm ấy thuộc hành uẩn
Những chúng sinh có ngũ uẩn:
Khi mỗi tâm phát sinh là ngũ uẩn phát sinh,
Khi mỗi tâm diệt là ngũ uẩn diệt.
Vốn trạng thái của tâm sinh rồi diệt, diệt rồi sinh liên tục không ngừng,
bởi do nhân duyên hỗ trợ từ vô thủy cho đến nay, từ kiếp này sang kiếp khác
tiếp nối nhau, trên cuộc hành trình tử sinh luân hồi của mỗi chúng sinh.
Vốn trạng thái của thân hoặc sắc uẩn cùng sinh rồi diệt, diệt rồi sinh
liên tục không ngừng giới hạn trong mỗi kiếp, do bởi nghiệp và tuổi thọ
của mỗi chúng sinh. Khi nghiệp ấy tận cùng, tuổi thọ hết, thân mạng chủ (sắc
mạng chủ: Rūpujīvitindriya) bị cắt đứt, chấm dứt một kiếp, đồng thời tâm
tách rời khỏi thân, gọi là chết.
Sau khi chết, nếu chúng sinh ấy còn phiền não, tham ái, thì nghiệp còn cho quả
tái sinh kiếp sau. Kiếp trước với kiếp sau không liên quan đến phần thân,
mà chỉ liên quan đến phần tâm.
Đức Phật dạy ngũ uẩn này đều là vô ngã.
Vô ngã với nghĩa:
- Anattā asārakaṭṭhena: Vô ngã với ý nghĩa là vô dụng, không có cốt lõi
vững chắc, không có tính chất bền vững lâu dài.
- Avasavattanaṭṭhena anattā: Vô ngã với ý nghĩa không chiều theo ý muốn
của ai.
Những ví dụ về Ngũ uẩn
Trong bài kinh PheṇapiṇḍasuttaĐức Phật thuyết dạy những ví dụ về mỗi uẩn
có ý nghĩa được tóm lược như sau:
1- Sắc uẩn ví như bọt nước (pheṇapiṇḍūpamaṃ rūpaṃ).
Nghĩa là sắc uẩn (thân), đó là 28 sắc pháp ví như bọt
nước.
Trong mùa mưa lụt lớn, trên dòng sông nước chảy kết tụ những bọt nước thành đống
bọt nước lớn. Đống bọt nước này dù nhỏ, dù lớn cũng không thể sử dụng làm vật
gì, để đem lại sự lợi ích lâu dài; nếu đống bọt nước này trôi đi chưa bị tan rã
giữa đường, thì khi trôi ra đến biển chắc chắn phải bị tan rã, trở nên vô dụng.
Cũng như vậy, sắc uẩn (thân) này đó là 28 sắc pháp sanh rồi diệt có trạng thái
vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã, trạng thái bất tịnh, thường có
mọi thứ bệnh hoạn ốm đau. Sắc uẩn (thân) này khi tái sinh đầu thai ban đầu nhỏ
xíu, theo thời gian, to lớn dần như thân hình của con voi, con cá mập,... rồi
cuối cùng cũng bị tan rã, trở thành vô dụng.
Cho nên, Đức Phật ví sắc uẩn (thân) này như bọt nước.
2- Thọ uẩn ví như bong bóng nước (vedanāpubbuḷūpamā)
Nghĩa là thọ uẩn, đó là tâm sở thọ, ví như bong bóng nước.
Trời mưa lớn, hạt mưa nặng hạt rơi xuống hồ, vũng nước... nổi lên những bong
bóng nước. Những bong bóng nước này nổi lên liền vỡ ngay, không thể sử dụng làm
gì để đem lại sự lợi ích, trở thành vô dụng. Cũng như vậy, thọ uẩn này đó là
thọ khổ, thọ lạc, thọ xả ... sinh rồi diệt mau lẹ, không tồn tại lâu dài, chỉ
có khổ mà thôi, trở thành vô dụng.
Cho nên, Đức Phật ví thọ uần này như bóng nước.
3- Tưởng uẩn ví như ảo ảnh (maricikūpamā saññā).
Nghĩa là tưởng uẩn, đó là tâm sở tưởng ví như ảo ảnh.
Trong mùa hè nóng bức, khách lữ hành nóng nực và khát nước đi trên đường, nhìn
về phía trước trời nắng chập chờn gợn sóng giống như đằng trước có nước sông.
Khi đi đến, gợn sóng kia di chuyển đến phía trước, luôn luôn có một khoảng
cách. Đó là ảo ảnh không có thật chỉ là vô dụng. Cũng như vậy, tưởng uẩn này
ghi nhớ, tưởng nhớ những đối tượng không còn thật nữa. Ví như khi khát nước,
tưởng nhớ đến nước, nhưng không giúp làm cho đỡ cơn khát được, trở thành vô
dụng.
Cho nên, Đức Phật ví tưởng uẩn này ví như ảo ảnh.
4- Hành uẩn ví như cây chuối (saṅkhārā kadalūpamā).
Nghĩa là hành uẩn, đó là 50 tâm sở, (không có tâm sở thọ và tâm sở tưởng) ví
như cây chuối.
Một người cần cây có lõi, đi vào rừng nhìn thấy cây chuối lớn trơn tru, người ấy
chặt cây chuối đem về nhà. Khi bóc bẹ chuối từ ngoài vào trong ruột, không tìm
thấy lõi cây, chỉ là vô dụng mà thôi. Cũng như vậy, hành uẩn này tạo tác các
pháp hữu vi, mà các pháp hữu vi sinh rồi diệt, có trạng thái vô thường, trạng
thái khổ, trạng thái vô ngã, không phải ta, không phải của ta, chỉ là vô dụng
mà thôi.
Cho nên, Đức Phật ví hành uẩn này như cây chuối.
5- Thức uẩn ví như nhà ảo thuật (mayūpamaṃ viññāṇaṃ).
Nghĩa là thức uẩn, đó là 89 hoặc 121 tâm, ví như nhà ảo thuật.
Các nhà ảo thuật biểu diễn các trò ảo thuật rất nhanh tay, để đánh lừa khán giả
một cách tinh xảo. Cũng như vậy, đối với các hàng phàm nhân, thức uẩn biết mọi
đối tượng cho là ta biết, nhưng biết sai lầm đảo điên; các pháp hữu vi là vô
thường, biết cho là thường; các pháp hữu vi là khổ, biết cho là lạc; các pháp
hữu vi là vô ngã, biết cho là ngã (ta); các pháp hữu vi là bất tịnh, biết cho
là tịnh, xinh đẹp,... nhưng thật ra, các pháp hữu vi là vô thường, khổ, vô ngã,
bất tịnh. Thế mà thức uẩn của các hàng phàm nhân biết bị đánh lừa đảo điên.
Cho nên, Đức Phật ví thức uẩn này như nhà ảo thuật.
PHÁP VÔ NGÃ (ANATTÀ)
Pháp vô ngã không những có trong ngũ uẩn, mà còn gồm có trong các pháp hữu vi và
pháp vô vi.
Đức Phật dạy: Sabbe dhammā anattā.
Tất cả các pháp hữu vi, pháp vô vi đều là pháp vô ngã.
Pháp hữu vi: Đó là ngũ uẩn, 12 xứ, 18 giới...là pháp được cấu tạo
bởi 4 nhân duyên: nghiệp, tâm, thời tiết, vật thực. Các pháp hữu vi này
đều là pháp vô ngã.
Pháp vô vi: Đó là Niết Bàn (kể cả pháp chế định) là pháp
không bị cấu tạo bởi 4 nhân duyên: nghiệp, tâm, thời tiết, vật thực.
Pháp vô vi này cũng đều là pháp vô ngã.
Pháp vô ngã này chỉ có trong Phật giáo; ngoài Phật giáo, hoàn toàn không có quan
niệm về pháp vô ngã này.
Thật vậy, trong đời, người nào không biết về Phật giáo, người ấy có thể có quan
niệm về vô thường, quan niệm về khổ, nhưng không bao giờ có quan
niệm về vô ngã.
Ví dụ: Khi người ta gặp trường hợp người hoặc vật đang có hiện hữu
rồi chết hoặc mất, không còn hiện hữu nữa. Người ta than rằng: Vô thường! Vô
thường! Có rồi không có!
Khi người ta mắc bệnh hoạn hoặc ốm đau, bệnh nan y khó chữa, hoặc gặp phải tai
nạn bi thương... người ta thốt lên rằng: Khổ quá! Khổ quá! Không chịu đựng nổi!
Trong những trường hợp ấy chẳng bao giờ nghe người ta thốt lên: Vô ngã! Vô ngã!
Bởi vì, những người ấy không có quan niệm về vô ngã, mà chỉ có tà kiến thấy sai,
chấp lầm từ ngũ uẩn bên trong của mình và ngũ uẩn bên ngoài (của người khác)
cho là ngã, ta, người, chúng sinh v.v... mà thôi.
Vả lại, những người ấy có quan niệm về vô thường, khổ quá thô thiển; nghĩa là
mỗi khi gặp hoàn cảnh xấu, trường hợp có rồi không có, lâm bệnh, tai nạn... thì
mới thốt lên: Vô thường! Khổ quá!
Trong cuộc sống bình thường, những người ấy có tà kiến thấy sai chấp lầm đảo
điên, trong ngũ uẩn bên trong của mình và ngũ uẩn bên ngoài (của người khác),
chúng sinh khác cho rằng: thường, lạc, ngã, tịnh.
Trong Phật giáo, những người nào học hỏi nghiên cứu, thực hành theo giáo pháp
của Đức Phật, những người ấy có ý thức rõ ràng về vô thường, khổ, vô ngã
vô cùng vi tế, sâu sắc. Thật ra: Vô thường, khổ, vô ngã có trong thật
tánh của các pháp hữu vi, bởi vì pháp hữu vi sinh rồi diệt không ngừng,
nên có trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã. Đặc biệt
nhất đối với hành giả đang tiến hành thiền tuệ, có trí tuệ thiền tuệ phát sinh,
thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng
uẩn, hành uẩn, thức uẩn, nên trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ trạng thái vô
thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã của sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng
uẩn, hành uẩn, thức uẩn bằng chánh kiến thiền tuệ mới diệt được tà kiến,
thấy sai chấp lầm nơi sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn cho rằng: thường,
lạc, ngã, tịnh.
Tự ngã có thật hay không?
Đức Phật dạy: Tất cả các pháp hữu vi, pháp vô vi đều là pháp vô ngã. Như
vậy, theo giáo pháp của Đức Phật thì không có tự ngã, cái ta thật.
Thật vậy, người ta có quan niệm rằng ta đi, ta đứng, ta ngồi, ta nằm, ta thấy, ta
nghe, ta ngửi, ta nếm, ta cảm giác, ta suy nghĩ, ta buồn, ta vui, v.v...
và v.v... Trong vô số cái ta ấy, thử hỏi cái ta nào là cái ta thật?
Sở dĩ, có vô số cái ta ấy, là do tà kiến thấy sai, chấp lầm từ sắc uẩn,
thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn hay nói cách khác do tà kiến thấy
sai, chấp lầm từ sắc pháptừ danh pháp cho là ta, ngã. Khi có tà
kiến thấy sai, chấp lầm từ ngũ uẩn, hoặc sắc pháp, danh pháp bên trong
của mình cho là ta, ngã; thì cũng thấy sai, chấp lầm ngũ uẩn,
danh pháp, sắc pháp bên ngoài (của người khác) của chúng sinh khác cho
là người, chúng sinh v.v...
Như vậy, cái ta thật không có, mà chỉ có tâm tà kiến là có thật.
Tự ngã, cái ta không có thật, thì phương pháp diệt ngã cũng không
có.
Tâm tà kiến có thật, nên phương pháp diệt tâm tà kiến có
thật
Nếu khi đã diệt được tâm tà kiến theo chấp ngã rồi, thì chắc chắn không
còn thấy sai, chấp lầm từ sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn, hoặc
từ sắc pháp, từ danh pháp cho là ta, là người, là chúng sinh
v.v... vĩnh viễn không phát sinh lại được nữa.
Phương pháp diệt tâm tà kiến chỉ có cách tiến hành thiền tuệ mà
thôi. Khi trí tuệ thiền tuệ phát sinh tuần tự từ thấp đến cao qua 16 trí tuệ
thiền tuệ, lần thứ nhất, đến trí tuệ thứ 14 gọi là Nhập Lưu Thánh Đạo Tuệ.
Chính trí tuệ thiền tuệ Siêu tam giới này có Niết Bàn làm đối tượng, mới có khả
năng đặc biệt diệt đoạn tuyệt được tâm tà kiến theo chấp ngũ uẩn (sakkāyaḍiṭṭhi)
hoặc tà kiến theo chấp ngã (attānuḍiṭṭhi). Cho nên, đối với bậc
Thánh Nhập Lưu hoàn toàn không còn tà kiến theo chấp ngũ uẩn, hoặc tà
kiến theo chấp ngã, bất cứ lúc nào trong kiếp hiện tại, hoặc kiếp vị
lai (nhiều nhất 7 kiếp nữa).
Chấp ngã có 3 loại
Sự chấp ngã có 3 loại:
Tà kiến theo chấp ngã.
Tham ái theo chấp ngã.
Ngã mạn theo chấp ngã.
Tà kiến theo chấp ngã: Tà kiến theo chấp sắc uẩn, thọ uẩn,
tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn... cho là tự ngã của ta (eso me attā).
Bậc Thánh Nhập Lưu có khả năng diệt đoạn tuyệt được loại tà kiến theo chấp ngã
này không còn dư sót, còn lại tham ái theo chấp ngã và ngã mạn theo
chấp ngã vẫn còn. Song bậc Thánh Nhập Lưu không bao giờ tạo ác nghiệp
nặng nào có thể cho quả tái sinh trong 4 cõi ác giới: địa ngục, atula, ngạ quỷ,
súc sinh; chỉ tái sinh cõi người hoặc cõi trời dục giới nhiều nhất là 7
kiếp, đến kiếp thứ 7 chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh Arahán, tịch diệt Niết
Bàn, chấm dứt tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.
Tham ái theo chấp ngã: Tham ái theo chấp sắc uẩn,
thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn cho là của ta (etaṃ mama).
Bậc Thánh Bất Lai có khả năng diệt đoạn tuyệt được loại tham ái theo chấp ngã
trong cõi dục giới. Còn tham ái loại vi tế trong bậc thiền hữu
sắc, bậc thiền vô sắc, trong cõi sắc giới, cõi vô sắc giới chưa diệt được và ngã
mạn theo chấp ngã cũng chưa diệt được. Cho nên, bậc Thánh Bất Lai mãn
kiếp ở cõi người, không trở lại tái sinh cõi dục giới, mà chính bậc thiền hữu
sắc (hoặc bậc thiền vô sắc) sẽ cho quả tái sinh lên cõi trời sắc giới (hoặc
cõi trời vô sắc giới) và chắc chắn sẽ trở thành Bậc Thánh Arahán trên
cõi trời sắc giới ấy, rồi tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sinh luân hồi trong
ba giới bốn loài.
Ngã mạn theo chấp ngã: Ngã mạn theo chấp sắc uẩn,
thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn... cho là ta (eso hamasmi).
Bậc Thánh Arahán có khả năng diệt đoạn tuyệt được loại ngã mạn theo chấp ngã
này, và tham ái theo chấp ngã loại vi tế trong các bậc thiền và cõi
trời sắc giới, cõi trời vô sắc giới. Cho nên, bậc Thánh Arahán mãn kiếp ở cõi
người, đồng thời tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sinh luân hối trong ba giới
bốn loài.
Chấp ngã - không chấp ngã
Tất cả chúng sinh nói chung, con người nói riêng, hễ còn là phàm nhân, chưa phải
Thánh Nhân, thì còn chấp ngã do bởi phiền não, nhất là tà kiến, tham ái, ngã mạn.
Sở dĩ một số phàm nhân vẫn còn có chấp ngã, là vì họ không đến gần gũi thân cận
với bậc thiện trí trong Phật giáo, với bậc Thánh Thanh Văn; không được lắng
nghe chánh pháp, không hiểu biết chánh pháp, không hành pháp hành thiền tuệ,
không chứng đắc thành bậc Thánh Nhân... Do đó, số phàm nhân ấy có phiền não
nặng nề, nên còn chấp ngã, rồi tự làm khổ mình, làm khổ người, làm khổ mình lẫn
người, trong kiếp hiện tại lẫn nhiều kiếp vị lai.
Còn những hạng thiện trí phàm nhân thường đến gần gũi thân cận với bậc
thiện trí trong Phật giáo, với bậc Thánh Thanh Văn Giác; được lắng nghe chánh
pháp, hiểu biết chánh pháp, tiến hành pháp hành thiền tuệ dẫn đến chứng ngộ
chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn
tuyệt được phiền não trở thành bậc Thánh Arahán. hoàn toàn không còn tà kiến,
tham ái, ngã mạn nữa, bậc Thánh Arahán có trí tuệ sáng suốt thấy rõ,
biết rõ ngũ uẩn này là:
Không phải tự ngã của ta (na me so attā).
Không phải của ta (netaṃ mama).
Không phải là ta (nesohamasmi).
Cho nên, bậc Thánh Nhân không còn làm khổ mình, không làm khổ người, không làm
khổ mình lẫn người.
Nếu hành giả tiến hành thiền tuệ mà chưa chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả nào,
thì vẫn còn là hạng thiện trí phàm nhân (kalyāṇaputhujjana) chưa diệt
được tà kiến chấp ngã. Tuy hạng thiện trí phàm nhân còn tà kiến chấp ngã, nhưng
tà kiến chấp ngã này chỉ có trở ngại cho Siêu tam giới thiện pháp mà
thôi, chứ không làm trở ngại cho việc tạo mọi tam giới thiện pháp đó là dục
giới thiện pháp, sắc giới thiện pháp, vô sắc giới thiện pháp.
Cho nên, hạng thiện trí phàm nhân này sau khi chết:
- Nếu có dục giới thiện nghiệp cho quả tái sinh, thì được tái sinh làm người,
hoặc làm thiên nam hoặc làm thiên nữ ở 1 trong 6 cõi trời dục giới.
- Nếu có sắc giới thiện nghiệp cho quả tái sinh, thì được tái sinh làm phạm thiên
ở 1 trong 16 cõi sắc giới phạm thiên.
- Nếu có vô sắc giới thiện nghiệp cho quả tái sinh, thì sinh làm phạm thiên ở 1
trong 4 cõi vô sắc giới phạm thiên.
Như vậy, tà kiến chấp ngã của hạng thiện trí phàm nhân chỉ có trở ngại cho pháp
Siêu tam giới, nghĩa là ngăn cản sự chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc
Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn mà thôi.
Tiếp theo