ĐỐI DIỆN VỚI ĐAU KHỔ
Lo
âu và sầu muộn là hai thứ phiền não
đồng sinh. Ở đâu có lo âu ở đó có phiền muộn. Chúng đồng hiện hữu và liên kết
chặt chẽ trong việc chi phối đời sống con người. Chúng ta nên can đảm đối diện
với thực tế, không trốn chạy trước áp lực của phiền não. Nghĩa là chúng ta cần
phải tìm cách chế ngự những xung động bất an ấy bằng chính sức mạnh của sự nhẫn
nại, kiên trì, trầm tĩnh và sáng suốt.
Đau
khổ của chúng ta do chính chúng ta tạo nên và tích lũy trong tâm hồn bởi bất
lực hay không thấu hiểu được những tình cảm sâu kín nội tại trong chúng ta và
đánh giá sai lầm đối tượng ngoại giới. Nếu chúng ta có một kiến thức chân chính
và trí tuệ thích ứng để nhận thức thực tánh của vạn hữu, nghĩa là thấy mọi hiện
tượng đều là vô thường, khổ, vô ngã. Thấy rằng bản nga chỉ là vọng tưởng
của một tâm hồn bất ổn, thì chúng ta đã tiến xa trong việc tìm kiếm một phương
thuốc trị liệu căn bệnh phiền não.
Phải
chuyển hóa khối ốc và con tim thế nào để chúng ta có thể xả bỏ tính ngã ái vị kỷ
cho mục đích cao cả hơn là phụng sự nhân loại, chúng sinh. Đó là một trong
những điều kiện giúp chúng ta tìm thấy chân hạnh phúc, vì chính tham lam ích kỷ
là một trong những nguyên nhân tạo ra lo âu, phiền muộn.
Chúng
ta có những ham muốn, khát vọng, những sợ hãi, lo âu mà không
biết làm thế nào để tự thanh lọc. Tệ hơn nữa có khi chúng ta không dám nhìn
nhận thực trạng đó ngay với chính lương tâm mình. Nhưng dẫu chúng ta có lẩn
tránh thì cũng vô phương, vì thực trạng ấy vẫn hiện hữu và bành trướng ảnh
hưởng một cách vô thức. Có khi vì không biết nguyên nhân tâm bệnh của mình,
chúng ta đã dùng những phương pháp trị liệu sai lầm để đè nén những cơn khủng
hoảng tinh thần, nhưng càng bị ức chế những tình cảm này lại tìm lối thoát bằng
cách làm xáo trộn sinh hoạt cơ thể để biến thành thân bệnh. Đó là trường hợp
một người tìm quên sầu muộn của mình trong rượu chè, cờ bạc hay dùng những thứ
dược phẩm có khả năng làm lắng dịu phiền não trong chốc lát như các chất ma
túy, cần sa v.v. Phương pháp trị liệu này không những không có hiệu quả lâu bền
cho tâm bịnh mà còn làm cho cơ thể suy nhược thêm.
Tất
cả bệnh trạng tâm sinh lý ấy đều có thể chữa trị bằng những phương pháp tu dưỡng
tinh thần như tinh tấn, chánh niệm, thiền định v.v… vì một tâm
hồn chưa được chuyển hoá thuần thục là nguyên nhân của mọi phiền muộn, lo âu.
Trước
hết chúng ta cần phải can đảm chịu đựng mọi khổ đau, không nên tỏ ra cho người
khác biết những lo âu, sầu muộn của mình vì làm như thế đã không lợi ích gì cho
bản thân mà còn gây thêm phiền lụy cho kẻ khác, trừ phi người mà ta thổ lộ tâm
trạng riêng tư là người khách quan sáng suốt có thể giúp chúng ta thấy rõ vấn
đề và phấn chấn tinh thần để ứng phó tích cực hơn.
Nhưng
sự thật chứng minh rằng nhiều người đã đánh mất tình bằng hữu chỉ vì thổ lộ quá
nhiều lo âu, phiền muộn của mình với bạn. Chẳng ai muốn nghe những lời than vãn
cau có của chúng ta cả. Thật là
cao đẹp, nếu chúng ta biết giữ sắc diện tươi tỉnh dù đã gặp nhiều khó khăn trở
ngại. Điều này không phải không thể thực hiện được nếu chúng ta thực sự cố
gắng. Và đây cũng không phải là thái độ giả dối mà chính là bản lĩnh trầm tĩnh,
vô uý trước mọi khó khăn trở ngại.
Bất
hạnh của chúng ta phát xuất từ nhận thức sai lầm về bản chất và mục tiêu tối hậu
của cuộc sống, chính vô minh chi phối nhận thức sai lầm này để đưa đến
kết quả là tà kiến và tà tư duy. Quan niệm và tư tưởng sai lầm thì lời nói và
hành động cũng sai lầm, lời nói và hành động sai lầm tức là tà ngữ và tà
nghiệp. Cũng chính quan niệm và tư tưởng sai lầm đưa đến cố gắng sai lầm (tà
tinh tấn), nuôi mạng sai lầm (tà mạng).
Vì
nhận thức đóng một vai trò quan trọng trong việc định đoạt một đời sống hạnh
phúc hay khổ đau như thế nên Đức Phật đã dạy rằng: “Ở đâu có phiền muộn lo âu
khởi sinh, chúng chỉ khởi sinh nơi kẻ thiểu trí chứ không khởi sinh nơi người
trí tuệ”.
Nếu
tư tưởng tiêu cực (bất thiện) sinh ra lo âu, sầu muộn và tư tưởng tích cực
(thiện) đưa đến an lạc, tự tin, thì sự chọn lựa giữa hai loại tư tưởng này hoàn
toàn tùy thuộc vào ý chí tự do của chúng ta. Và như thế, nếu cố gắng mỗi người
có thể kiểm sát được những sinh hoạt nội tâm của mình.
Những
định luật khách quan từ ngoại giới có thể chi phối chúng ta nhiều phương diện,
nhưng không thể chi phối được tư tưởng chúng ta trừ phi chúng ta quá thụ động,
tiêu cực, không đủ sức tự chủ. Ngay cả đời sống vật chất ngày nay cũng không
hoàn toàn lệ thuộc vào trời đất vì khoa học đã một phần nào hiểu biết và chế
ngự được ảnh hưởng của thiên nhiên. Những bệnh tật nguy hiểm, những thiên tai
khủng khiếp mà ngày xưa được xem là hình phạt của trời đất hay là cơn thịnh nộ
của quỷ thần đã bị con người chế ngự dần dần. Nếu đời sống tinh thần có thể chủ
động được và một khi “ tâm dẫn đầu các pháp, tâm làm chủ, tâm tạo tác tất cả”
như kinh Dhammapda đã dạy thì tất cả tâm bệnh lo âu, phiền muộn, sợ hãi v.v… dù
khó khăn cách mấy cũng đều có thể chữa trị tận gốc.
Người
ta có lý khi nói rằng: “Lo âu làm cho con người chóng già hơn năm tháng”.
Băn khoăn sợ hãi ở mức độ bình thường là bản năng tự vệ, nhưng nếu để chúng trở
thành những nguồn động lực thường trực chi phối chúng ta mà chúng ta không thể
kiểm soát được thì thật là nguy hiểm, vì chúng có thể làm đảo lộn sinh hoạt tâm
sinh lý bình thường và có khi đưa đến căng thẳng, suy nhược, tâm thần phân liệt
v.v… Các nhà y học cho biết phần lớn bệnh tâm thần
do bị lo sợ chi phối thường xuyên. Thậm chí có người không đủ nghị lực
đối đầu với phiền não, đã tìm lấy
cái chết như một lối thoát cuối cùng.
Người
Phật tử hiểu rằng: Lẩn trốn khổ phiền bằng cái chết là vô ích, vì thực ra dù
chết đi họ vẫn còn mang theo mầm mông phiền não trong tận đáy vô thức
(bhavanga) để chờ dịp trổ quả ở kiếp sống lai sinh. Như một tội nhân
vượt ngục, anh ta khó có thể sống an lành khi án trạng vẫn còn, chỉ khi nào
được phóng thích anh mới thoát khỏi cảnh tù đày. Cũng vậy, chỉ khi nào phiền
não được giải phóng chúng ta mới được an vui tự tại.
Khổ
đau và sầu muộn chỉ là kết quả của những nhân bất thiện đã và đang được tạo ra.
Phật giáo nói rằng: “Bậc thiện trí thức chỉ sợ nhân chứ không sợ quả”
có nghĩa là cố gắng của chúng ta không phải để lẩn tránh trách nhiệm về hành
động sai lầm đã làm, mà chỉ để tránh gieo thêm những sai lầm mới. Như một người
vay nợ phải vui lòng mà trả, vì đó là bổn phận tất nhiên, không nên miễn cưỡng
trốn tránh trong lo âu, sợ hãi và hay hơn hết là không nên vay thêm nợ mới.
Đức
Phật không còn bị chi phối bởi những phiền não nội tâm, tuy vậy đôi khi Ngài
vẫn gặp những trở ngại từ bên
ngoài đưa đến. Ngài luôn luôn trầm tĩnh đón nhận mọi trở lực bất cứ từ đâu tới
vì chung qui những phiền nhiễu ấy là dư âm của những nghiệp lực quá khứ của
Ngài.
Một
hôm Đức Phật cùng Đại Đức Ānanda vào khất thực trong thành Kosambi, bị hoàng
hậu Magandhà xúi giục dân chúng trong thành hễ gặp Đức Thế Tôn và Tăng chúng ở
đâu thì tìm cách phỉ báng, lăng
nhục. Nghe như vậy Đại Đức Ānanda bạch với Đức Phật rằng:
-
Bạch Đức Thế Tôn, người trong xứ này hủy báng chúng ta, vậy chúng ta nên đi xứ
khác.
Đức Phật mỉm cười nói:
- Này Ānanda, nếu người ở xứ ấy cũng sẽ hủy báng chúng ta thì sao?
- Bạch Đức Thế Tôn, chúng ta lại đi nơi khác.
- Này nanda, nếu nơi kia người ta cũng hủy báng nữa thì phải làm sao?
- Bạch Đức Thế Tôn, chúng ta lại đi xứ khác nữa vậy.
- Này Ānanda, làm như vậy không phải đâu. Phiền não sinh ở nơi nào thì
diệt ở nơi đó. Chúng ta phải ở đây nhẫn nhịn cho đến bao giờ họ hết hủy báng
rồi hãy đi. Như vị võ tướng dũng cảm xông pha nơi trận mạc, không sợ gươm đao,
không khiếp tên đạn, chúng ta hãy thản nhiên, bình tĩnh trước những lời tán
dương hay phỉ báng.
Như
vậy thái độ của bậc thiện trí là không sợ khổ đau. Chúng ta cần phải sáng suốt
tìm ra nguyên nhân làm cho chúng ta lo âu, sầu muộn để tìm biện pháp thích nghi
khả dĩ diệt tận gốc rễ của chúng, chứ không cần lẩn tránh hay bực bội phàn nàn.
Một
nhà phân tâm học nổi tiếng khi được hỏi phương pháp nào hoàn hảo nhất để khắc
phục lo sợ, ông ta trả lời: “Hãy làm lợi lạc tha nhân”. Vì tâm trong một
lúc chỉ có một đối tượng nên hai tư tưởng đối nghịch không thể cùng hiện hữu,
chúng chỉ có thể thay thế hay kế tục nhau, nên khi có tư tưởng tích cực thì tư
tưởng tiêu cực vắng mặt. Như thế khi tâm hồn chúng ta mang tư tưởng vị tha thì
không có sự hiện hữu của tư tưởng ích kỷ và như chúng ta đã đề cập ở trên, tư
tưởng tiêu cực vị kỷ là nguyên nhân của mọi lo âu sầu muộn. Thật vậy, đúng như
lời nhà phân tâm học, một trong những phương pháp hoàn hảo nhất để giải trừ lo
sợ là cố gắng làm lợi ích cho tha nhân.
Đức
Phật là bằng chứng cụ thể nhất về đức tính vị tha và cũng chính vì thế Ngài đã
dễ dàng ung dung tự tại trong mọi tình huống khó khăn nhất của cuộc sống, đã
thoát ly mọi lo âu, sầu muộn, phiền não, khổ đau trong vòng sinh tử luân hồi.
Nếu chúng ta biết chia sẻ và cảm thông với khổ đau của người khác, thì cũng đã
làm vơi dịu nỗi khổ của chính mình. Một người thật sự muốn được hạnh phúc không
nên phá hoại hạnh phúc của kẻ khác. Tìm hạnh phúc bằng cách lừa đảo, hãm hại kẻ
khác là hạ sách bất chính, vì “Ta có thể lừa dối vài người bất cứ khi nào, và
tất cả mọi người trong một thời gian nào đó, nhưng ta không thể lừa dối tất cả
mọi người mãi mãi”, như Abraham Lincoln đã nói.
Tất
cả những ham muốn, khát vọng, những cố gắng, nỗ lực của con người hầu như đều
nhằm vào việc tìm kiếm một đời sống hạnh phúc. Nhưng nếu quá vị kỷ, tư lợi,
người ta có thể dẫm đạp lên hạnh phúc của tha nhân. Và khi bị kẻ khác phản ứng
không thuận lợi người ta dễ sinh ra bất mãn, nóng nảy hoặc hung dữ. Như thế hóa
ra khi đi tìm hạnh phúc vô tình lại rước thêm phiền lụy. Vì một người không thể
có hạnh phúc khi nội tâm chứa đầy bất mãn sân hận và lo âu sợ hãi.
Tuy lòng vị tha có thể đối
trị những phiền não thô do tính vị kỷ gây ra, nhưng để đoạn trừ tận gốc phiền
não vi tế thì cần phải có trí tuệ quán chiếu (vipassanā
ñāṇa) hay thiền Tứ Niệm Xứ, lấy
thực tại đương xứ làm đối tượng giác niệm thì mới có thể rốt ráo thoát
khỏi phiền não khổ đau.
PHẬT
GIÁO VÀ SỰ THỜ CÚNG
Khi
thấy Phật tử đến chùa lễ bái, hay những nhà sư đang kính cẩn nghiêng mình trước
đài sen trong khung cảnh trang nghiêm, tịch mịch đầy trầm hương nghi ngút, chắc
hẳn có người hỏi rằng: Phật tử có cầu nguyện hay không? Họ làm gì khi đến chùa?
Và thái độ của người Phật tử ra sao đối với sự nguyện cầu?
Trước
hết chúng ta phải biết cầu nguyện là gì? Đó là một danh từ có nhiều nghĩa.
Trong các tôn giáo tin tưởng và thờ phụng Thượng Đế (mà họ tin là đấng tối cao,
toàn năng, toàn thiện, toàn tri đã dựng nên thế gian và được coi là Đấng Tạo
Hóa hay Thủy Tổ của muôn loài), cầu nguyện có nghĩa là thỉnh cầu ở nơi Ngài một
sự chỉ đạo, hộ trì hoặc cầu xin Ngài ban cho sức khỏe, hạnh phúc, thịnh vượng,
bình an và đôi khi xin Ngài tha thứ những tội lỗi đã vi phạm.
Chúng
ta có thể nói ngay rằng, vì người Phật tử không tin tưởng nơi thần linh hay bất
cứ một đấng quyền uy ban phúc giáng họa nào, nên cầu nguyện cũng không có ý
nghĩa như trên. Mặt khác, người Phật tử tin tưởng ở nghiệp lực theo đó hạnh
phúc hay đau khổ đều là kết quả của hành động, lời nói, ý nghĩ mà mỗi cá nhân
tạo ra có ý thức hay có chủ ý. Đó là một luật tự động vận hành chứ không do một
ai hướng dẫn, sắp đặt hay an bài. Vì tự động vận chuyển theo một luật tắc nhất
định nên nó không thể thiên vị, thương tình hay tội nghiệp mà tha thứ cho những
ai vi phạm. Cũng theo luật này (nghiệp) tội lỗi không thể được tha thứ bởi một
uy lực bên ngoài, mà chỉ được sửa sai bằng tâm hồi đầu hướng thiện. Bởi vì tội
lỗi theo Phật giáo không phải gây ra do vi phạm hay bất tuân những quy định của
một đấng quyền uy nào, mà chính vì tự mình hành động sai lầm qua thân, khẩu, ý
đưa đến ô nhiễm, phiền não và khổ đau cho mình và người.
Như
vậy trong Phật giáo không có cầu nguyện theo nghĩa cầu xin được ban ơn, xá tội,
vì mỗi người phải chịu trách nhiệm với chính mình chứ không ai khác về những
hành động tội, phước, lành, dữ do mình tạo ra. Thế thì người Phật tử làm gì khi
đến chùa? Nếu là Phật tử chân chính chắc chắn họ không đến chùa chỉ để cầu
nguyện gì đó cho mình.
Chúng
ta hãy theo dõi những người Phật tử đến viếng chùa để xem họ hành động như thế
nào và ý nghĩa hành động ấy ra sao. Trong Phật giáo không ai buộc Phật tử phải
đến chùa vào một ngày nhất định, họ có thể đến lúc nào họ muốn, nhưng phần đông
Phật tử đi chùa vào những ngày lễ sám hối, rằm và ba mươi, hoặc những ngày trai
giới, vì phần lớn quần chúng thích tập thể hơn là đơn độc. Họ thường mặc áo
trắng, lam hay nâu vì đó là những màu sắc tượng trưng cho tinh khiết, giản dị
và khiêm nhường. Họ đem cả hương, đèn, trầm và hoa quả, kính cẩn đi vào chánh
điện, nơi đó một tượng Phật uy nghi được tôn trí ở chỗ cao trọng nhất và thành
kính dâng những lễ vật lên Đức Phật. Hình tượng tự nó không phải là vật thờ
cúng mà chỉ là hình ảnh tượng trưng cho họ dễ tưởng niệm đến Đức Phật. Thực ra
dù có hình tượng hay không họ cũng tôn thờ Đức Phật, hình tượng chỉ có tác dụng
giúp họ dễ chú ý và định tâm hơn. Vì thế, tuy dùng hình tượng để thờ cúng nhưng
người Phật tử không có thái độ như những tín đồ vật tổ giáo, thờ cúng những vật
hay những biểu tượng mà họ cho là linh thiêng có thể chứng giám cho những lời
cầu của họ. Nên đạo Phật không phải là tôn giáo chủ trương thờ cúng hình tượng
như một số tôn giáo khác.
Một
điểm đáng chú ý nữa là người Phật tử lễ bái tượng Phật không có nghĩa là họ tin
rằng Đức Phật sau khi nhập diệt vẫn còn hiện diện trên thế gian, để thị hiện
trong các pho tượng khiến cho các pho tượng này trở nên linh ứng có thể hộ trì
cho những người lễ bái hay quở phạt những người bất tôn kính đối với Ngài. Hình
tượng chỉ có thể nhắc nhở lại những hình ảnh sống động lúc Đức Phật còn tại
thế, như lúc tham thiền nhập định, lúc thành đạo, lúc chuyển pháp luân, lúc
nhập diệt v.v... khiến cho người Phật tử có cảm tưởng như Đức Từ Phụ đang hiện
diện để sách tấn họ siêng năng tu tập. Cũng vì thế mà việc đắp tượng phải làm
thế nào để diễn tả được những đức tính trí tuệ và từ bi … của Đức Phật, nếu
không hình tượng có thể làm sai lạc trí tưởng tưởng của người sơ cơ.
Mặc
dù Đức Phật đã nhập diệt nhưng đời sống và giáo pháp của Ngài vẫn còn có một
ảnh hưởng lớn lao đối với nhân loại ngày nay, ảnh hưởng đó sống động và thực tế
đến nỗi người Phật tử có cảm tưởng như Đức Phật còn tại thế, có người muốn biến
cảm tưởng đó thành sự thật bằng cách cúng cả vật thực đến Đức Phật mặc dù họ
thừa biết rằng Ngài không thọ dụng.
Linh
động hóa như vậy rất hữu ích và người Phật tử càng vững tin và tinh tấn trên
đường đạo, đồng thời sự thờ cúng càng tăng thêm ấm cúng và trang nghiêm. Đó là
một cách để chứng tỏ rằng ảnh hưởng của Đức Phật đối với con người mọi thời vẫn
mạnh mẽ không kém thời nguyên thủy.
Theo
thông lệ, cúng dường đèn, hương, hoa quả là một hành động tỏ dấu kính trọng tôn
thờ hay tri ân chứ thực ra những vật cúng dường ấy tự nó không có giá trị đặc
biệt nào. Đi xa hơn những thông lệ ấy, người Phật tử có một thái độ sáng suốt
hơn chỉ là thuần hành động thờ
cúng. Như khi dâng hoa trước đài sen người Phật tử suy nghĩ đến chân tướng vô
thường của vạn hữu qua bài kệ mà họ thường đọc:
Dâng hoa cúng đến Phật đà
Nguyện mau giải thoát sinh, già, khổ đau.
Hoa tươi nhưng sẽ úa sầu.
Tấm thân tứ đại tránh sao điêu tàn.
Bài
kệ trên chứng tỏ người Phật tử khi dâng cúng hay tụng niệm không cầu xin được
hộ trì hay ban phước, nhưng đến với Đức Phật như người đệ tử kính mến bậc đạo
sư và nguyện theo gương Ngài để sớm thoát khỏi khổ ải trầm luân.
Chúng
ta nên lưu ý đến sự khác biệt giữa thái độ của một tín đồ thờ thần linh và một
người Phật tử khi họ cùng kính cẩn nghiêng mình trước giáo chủ của họ. Trong
khi tín đồ thờ thần linh cầu xin được ban phước hay cứu rỗi, nghĩa là đời đời
họ muốn làm nô lệ cho thần linh hay thượng đế của họ. Người Phật tử trái lại,
kính cẩn tôn thờ Đức Phật chỉ vì Ngài là người đã đi trước, là người hướng đạo,
chứ họ không muốn làm nô lệ Ngài. Họ cũng cố gắng để được giải thoát, được
chứng ngộ Phật quả như Ngài. Vì vậy tuy tôn kính Đức Phật nhưng người Phật tử
vẫn được quyền bình đẳng với Ngài trong lãnh vực giác ngộ.
Chúng
ta hãy tạm lấy so sánh giữa chế độ dân chủ ngày nay và chế độ quân chủ xưa kia
để làm thí dụ. Trong chế độ quân chủ mọi người dân là con cái hoặc nô lệ của vị
đế vương. Họ phải tuân phục mọi phán xét, thưởng phạt của vua chúa, vì thế
“Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”. Nhưng trong chế độ dân chủ thật sự,
mọi người dân đều có quyền bình đẳng, dù là tổng thống hay thủ tướng cũng là
một công dân như bao người khác. Người dân kính trọng vị nguyên thủ quốc gia vì
vị này thay thế họ để lãnh đạo, để lo việc chung. Và tất cả mọi người dân đều
có thể trở thành nhà lãnh đạo nếu họ có đủ tài, đủ đức và những điều kiện cần
thiết để trở thành vị nguyên thủ.
Bình
đẳng và dân chủ hơn, Đức Phật dạy rằng: Không nên tôn kính Ngài bằng cách cúng
dường lễ bái. Dù cúng dường bằng những trân châu quý báu cũng không phải là
cách tôn kính cao thượng. Phải thực hành theo pháp mà Ngài đã chứng ngộ và chỉ
bày để sớm được giải thoát và đạt đến quả vị như Ngài.
Thật
hiếm có một vị giáo chủ nào lại không muốn được tôn trọng và chỉ muốn học trò
sớm ngang hàng với mình. Người Phật tử chân chính hẳn phải biết như vậy để
không phụ lòng từ ái của Đức Phật, không cố chấp vào những hình thức lễ bái mà
phải tự tu sửa hầu một ngày kia được giải thoát như Ngài.
Tóm
lại, tất cả mọi hình thức thờ cúng tưởng niệm của người Phật tử không phải để
cầu xin Đức Phật cứu vớt mà chỉ có mục đích tôn kính và tự nguyện noi gương
Ngài để hoàn thành sứ mạng tự giác giác tha.
ĐẠO LÝ VỀ NGHIỆP
Trong
bài này chúng ta chỉ trình bày một cách tổng quát về lý nghiệp báo đã được dạy
trong kinh điển, chứ không có cao vọng phân tách hay chứng minh cho triết lý
cao siêu đó. Chúng ta đặc biệt đề cập đến nghiệp lý trong nhà Phật với mục đích
phân biệt với những quan điểm khác về nghiệp của các nhà tư tưởng phi Phật giáo
ngay trong thời Đức Phật hay mãi về sau. Thật vậy, cần ghi nhận một sự khác
biệt lớn lao về nghiệp lý giữa Phật giáo, Ấn Độ giáo, Bà-La-Môn giáo, Bái Hỏa
giáo và đạo Àjìvaka.
Nhiều
người lầm tưởng nghiệp là triết lý chung cho hầu hết các tôn giáo Đông phương,
nhưng thực ra chủ trương và lý giải của họ có ít nhiều sai khác, hoặc có khi
cũng khác biệt hoàn toàn. Một số học giả Tây phương ngộ nhận cho rằng nghiệp
đồng nghĩa với thuyết định mệnh. Trong khi một số khác chủ trương nghiệp mang
sắc thái xã hội học và sinh vật học. Sở dĩ có những ngộ nhận như thế vì người
ta chỉ đọc qua một số sách báo nói về nghiệp mà không nghiên cứu giáo lý chính
thống được truyền bá qua kinh điển nguyên thủy của Phật Giáo.
Trước
hết chúng ta phải định nghĩa thế nào là nghiệp, vì đó là mấu chốt giúp chúng ta
phân biệt được nghiệp lý theo nhà Phật và theo các giáo lý khác. Định nghĩa
được tìm thấy trong văn học tiền Phật giáo thì nghiệp dùng để chỉ các nghi lễ
tôn giáo, hay bổn phận của mỗi cá nhân trong xã hội. Chúng ta đọc thấy câu sau
đây trong Isā Upanisad: “Kurvanne veha karmāni jijīvisecchatam samah” (hãy để
cho con người ước vọng sống lâu trăm tuổi và thi hành bổn phận trong xã hội)
điều này chứng tỏ rằng chữ karma dùng với nghĩa bổn phận hay nghiệp vụ.
Trong
kinh điển Pāḷi
Phật Giáo Nguyên Thủy, chữ kamma cũng được dùng với nghĩa nghiệp vụ hay nghề
nghiệp khác nhau của mọi người. Từ ngữ anavajjāni kammāni được Đức Phật dùng
trong kinh Maṅgala sutta để nhắc nhở chúng
ta nên làm những nghề nghiệp hợp với đạo đức, tức là ám chỉ chánh mạng chứ
không phải chánh nghiệp. Như thế về phương diện nầy chữ nghiệp trong Phật giáo
và trong văn học trước Phật giáo được xem là đồng nghĩa.
Tuy
nhiên, nghiệp (kamma) có một nghĩa chuyên môn đặc biệt chỉ được đề cập trong
văn học Phật giáo mà thôi. Đức Phật dạy: “Cetanāham bhikkhave kammaṃ vadāmi”
(này chư tỳ kheo, Như Lai nói rằng tư tác chính là nghiệp). Định nghĩa này rất
phổ thông và bất cứ ai nghiên cứu kinh điển Pāḷi
đều biết đến. Như vậy, nghiệp ở đây được dùng để chỉ những hành động cố y hay
hành động có chủ ý mà thuật ngữ Abhidhamma gọi là tư tâm sở hay tư tác
(cetanā). Những hành động này có thể là thiện hay bất thiện, khi thực hiện qua
thân gọi là thân nghiệp, qua khẩu gọi là khẩu nghiệp, qua ý gọi là ý nghiệp.
Mỗi
người đều phải chịu trách nhiệm về hậu quả của những hành động thiện hay ác
này, dù kết quả đó tốt hay xấu, vui hay khổ. Nghiệp quả này có thể xuất hiện
trong kiếp sống hiện tại, kiếp kế cận hay bất cứ kiếp sống nào trong tương lai
tùy theo tiềm lực của chúng. Cũng có khi nghiệp quả trở thành vô hiệu, vì chúng
quá yếu ớt, không có đủ điều kiện, hay nói theo danh từ chuyên môn là không đủ
duyên để hiện khởi.
Thật
ra, nếu chúng ta nghiên cứu sâu xa hơn, thì sẽ thấy rằng tư tác (cetanā) chỉ là
điều kiện cần chứ chưa đủ để tạo nghiệp trừ phi đó là ý nghiệp thuần túy. Vì có
rất nhiều nghiệp cần đến sự hỗ trợ của thân và khẩu.
Ví
dụ như một người chưa thể bị ghép tội sát nhân khi anh ta mới có ý định đó. Vì
vậy trong Atthasàlini phân định rất rõ ràng 5 điều kiện hội đủ để phạm tội sát
sinh:
1)
Người hay vật có thức
tánh (còn sống)
2) Biết
rằng người hay vật ấy còn sống
3) Có ý
muốn sát hại.
4)
Cố gắng sát hại.
5)Người
hay vật ấy chết do hành động cố sát.
Như
vậy chỉ đơn thuần một điều kiện thứ ba, tức là mới có ý định, chưa đủ để buộc
tội sát sinh. Tuy nhiên điều kiện thứ ba là điều kiện chủ yếu, không có nó
không thể gọi là nghiệp.
Ví
dụ một hành động vô ý có thể gây nên một án mạng, thì đó không phải là tội cố
sát, mà chỉ có tội ngộ sát thôi. Những nghiệp biểu hiện qua khẩu cũng vậy, phải
đòi hỏi những điều kiện tương tự mới thành tựu được. Nói một cách vắn tắt,
nghiệp được dùng trong Phật giáo để chỉ những hành động cố ý qua thân, khẩu,
hay ý và được phẩm định giá trị thiện ác tùy theo nhân quả của chúng.
Nhiều
người khi nghiên cứu Phật học thường cho rằng nghiệp lý xuất xứ từ kinh
Cùlakammavibhanga. Trong bài kinh này Đức Phật có đề cập đến nghiệp lý để làm
tăng trưởng đức tin của hàng tứ chúng, nhưng thật ra đó chưa phải là bài kinh
chính đề cập đến đạo lý này. Trong kinh Cūlakammavibhaṅ
ga, một thanh niên Bà-la-môn đến yết kiến Đức Phật và yêu cầu Ngài giải thích
tại sao trong nhân loại có người yểu tử, người sống lâu, có người bịnh hoạn,
người mạnh khỏe, có người xấu xa, kẻ xinh đẹp, người nghèo hèn, kẻ sang giàu,
có người địa vị cao trọng, kẻ lại khốn khổ bần cùng...; nguyên nhân nào khiến
cho có sự bất bình đẳng như thế giữa con người với con người trong xã hội. Đức
Phật nhân đó trả lời rằng: “Chúng sanh thọ lãnh báo ứng của nghiệp mà họ đã tạo
tác và chính vì nghiệp báo nay mà có sự bất bình đẳng giữa tất cả chúng sanh”.
Maurice
Maeterlinek, một văn sĩ nói: “Chúng ta hãy trở lại với thuyết nghiệp báo tái
sanh, vì không thể có cái gì cao đẹp hơn, công bình hơn và đạo đức hơn. Cũng
không có một thuyết lý nào đáng tin hơn. Tự nó cũng đủ chứng minh tất cả những
bất đồng về thể xác, tri thức và cả những bất công xã hội, những sự thiên lệch
ghê tởm của số phận”. Giáo sư Allan G.Widgerry Standon, giảng sư triết môn thần
học tại đại học đường Cambridge và sau này là giảng sư triết học đại học Duke ở
Mỹ cũng đã nói: “Chắc chắn là con người sinh ra trong những điều kiện bất đồng
của mỗi người trong kiếp quá khứ qua định luật nghiệp báo”.
Nhiều
người dùng những phương pháp luận lý như quy nạp, diễn dịch, loại suy, tam đoạn
luận, song quan luận v.v để tìm hiểu triết lý nghiệp báo, nhưng vấn đề nghiệp
báo không hoàn toàn thuộc lĩnh vực lý trí hay triết học thuần tuý. Lý trí có
thể giúp chúng ta thoát khỏi mê tín nhờ đó chúng ta tiếp cận được với đạo lý
nầy. Tuy nhiên, lý trí chỉ có thể hiểu tính hợp lý (logic) của vấn đề một cách
khái quát, chứ không thể liễu chứng được chiều sâu và thực của nó. Do đó Đức
Phật dạy rằng: “Kammavipāko acinteyyo” (nghiệp và quả của nghiệp là không thể
nghĩ bàn). Như vậy, bước đầu chúng ta có thể sử dụng lý trí để nghiên cứu học
hỏi, rồi tư duy, tìm hiểu và cuối cùng phải thể nghiệm qua trực giác và thân
chứng thì mới giác ngộ được chân lý nầy một cách sâu sắc và trung thực.
Dẫu
sao chúng ta cũng có thể chứng kiến được sự thật hiển nhiên là có sự thiên lệch
rõ rệt trong xã hội loài người nói riêng và chúng sanh nói chung. Và khi đạo
Phật đã minh chứng được nguyên nhân của sự bất đồng thì cũng có thể giúp chúng
ta san bằng những bất đồng đó nếu như mọi người biết cùng nhau cải thiện hành
nghiệp của mình. Thật vậy, những bất công trong xã hội có thể san bằng, hay
giảm thiểu. Về phương diện kinh tế, nếu được cải tạo khéo léo thì trật tự xã
hội sẽ ổn định, con người có thể sống lâu hơn, mạnh khỏe hơn, những sự chênh
lệch về vật chất được giảm thiểu để đưa xã hội đến chỗ tương đối bình đẳng hơn.
Về phương diện tinh thần, sự bất đồng gây nên do mức độ tham lam, sân hận và si
mê nhiều hay ít. Vì vậy muốn san bằng những bất đồng về tinh thần thì phải tiêu
diệt tham, sân, si bằng những đức tính bố thí, từ bi và trí tuệ.
Thông
suốt được tác động vận hành nhân quả của nghiệp tức là đã đắc đệ nhị minh
(dutiyā vijjā) trong tam minh (tiso vijjā): Túc mạng minh, sinh tử minh hay
thiên nhãn minh và lậu tận minh mà đức Phật đã chứng ngộ trong đêm thành đạo.
Khi ấy tâm của Ngài nghiêm tịnh, thanh khiết, vô nhiễm, thoát ly khỏi các lậu
hoặc, nhu nhuyến, thích ứng, chánh trực và tự tại. Ngài chuyên chú vào hiện
tượng sinh tử của chúng sanh và với thiên nhãn thuần tịnh Ngài thấy chúng sanh
có kẻ cao thượng người thấp hèn, kẻ xinh đẹp người xấu xa, kẻ hạnh phúc người
khốn khổ, sinh sinh tử tử tùy theo nghiệp lực của họ.
Trong
kinh Mahàsìhanàda Đức Phật nói đến sự chứng ngộ của Ngài như là một cuộc thử
nghiệm khoa học: “Có năm con đường gọi là ngũ đạo đó là gì? Địa ngục, súc sanh,
ngạ quỷ, người và trời. Như Lai biết rõ những cõi địa ngục hay những loại
nghiệp nào đưa vào cảnh giới khổ đau này sau khi chết. Nầy Sàrìputta, Như Lai
biết rõ tâm của mỗi chúng sanh trong đó, chúng sanh nào vì hành động như thế
nào, tạo những nghiệp nhân như thế nào, rồi bị sanh vào địa ngục như thế nào
sau khi thân hoại mệnh chung. Rồi với tâm thanh tịnh, sáng suốt và siêu việt,
Như Lai thấy chúng sanh ấy đọa vào địa ngục chịu nhiều đau khổ. Giống như có
một người mệt lả, kiệt lực đang khấp khểnh tiến đến một hầm lửa cháy ngùn ngụt,
một người khác chứng kiến tận mắt cảnh đó, tự nhủ rằng: ‘Chắc chắn người này sẽ
sa chân vào hầm lửa’. Rồi quả nhiên sau đó thấy người kia rơi vào hầm lửa và
chịu nhiều đau khổ. Chúng sanh sinh vào cảnh giới súc sanh, ngạ quỷ cũng chịu
nhiều bất hạnh tương tự. Còn chúng sanh sinh vào cõi người tương đối sống hạnh
phúc hơn, và chúng sanh sinh vào cõi trời được hưởng nhiều an lạc”.
Trong
kinh Màhàkammavibhanga, Đức Phật dạy rằng, có một vài vị đạo sĩ nhờ tinh tấn,
chánh niệm đã đắc được định lực. Với nhãn quan siêu phàm, sáng suốt vị ấy thấy
một người bất thiện sau khi thân hoại mạng chung vẫn tái sanh vào cảnh giới an
lạc hơn. Đạo sĩ ấy nghĩ rằng: “Không có nghiệp bất thiện cũng không có quả của
nghiệp bất thiện, mọi người dù họ hành động bất thiện hay không khi mạng chung
vẫn được tái sanh vào lạc cảnh”. Đức Phật không đồng ý với quan điểm đó. Đành
rằng có thể có chúng sanh mặc dù hành động bất thiện, sau khi thân hoại mạng
chung vẫn được sanh vào cảnh giới an lạc. Nhưng đó là vì trong những kiếp xa
xưa họ đã tạo nhiều thiện nghiệp. Thêm vào đó trong giờ lâm chung người ấy giữ
được tâm niệm chân chính.
Sự
sai lầm của các đạo sĩ nầy là do họ chỉ thấy được một vài kiếp sống của một
chúng sanh nào đó chứ không thông suốt được toàn diện hiện tượng phức tạp của
dòng nhân quả nghiệp báo. Hơn nữa, sự vận hành của dòng nghiệp báo chỉ là một
trường hợp đặc biệt của nguyên lý nhân quả trong đó gồm những định luật về các
lĩnh vực sinh lý, vật lý, tâm lý và nghiệp lý.
Định
luật nghiệp báo còn được gọi là luật nhân quả của hành động thiện hay bất
thiện. Theo Phật giáo, nghiệp báo không phải là định mệnh, vì vậy định luật
nghiệp báo không cố định mà thường được xem như là những khuynh hướng. Theo
kinh Cùlakammavibhanga thì thường một nghiệp nhân thiện có khuynh hướng đem lại
một nghiệp quả lành, một nghiệp nhân bất thiện có khuynh hướng đưa đến một
nghiệp quả dữ.
Nếu
phân tích chi tiết hơn chúng ta thấy nghiệp được phân loại theo bốn cách:
1. VỀ PHƯƠNG DIỆN CÔNG TÁC
có bốn loại nghiệp:
a) Sinh
nghiệp (janaka-kamma):
Là
nghiệp lực chi phối sự tái sinh. Thức tái sinh (patisandhi vinnàna) bị chi phối
bởi nghiệp nầy, và danh uẩn (nàma khandha), sắc uẩn (rùpa khandha) đầu tiên tùy
thuộc vào sinh nghiệp này. Sinh nghiệp cũng trải dài suốt kiếp sống của một
chúng sanh từ khi sinh ra cho đến chết. Ví dụ do sinh nghiệp mà một chúng sinh
tái sinh trong một kiếp làm người, chư thiên hay loài thú.
b)
Trì nghiệp (Upatthambhaka-kamma):
Là
nghiệp lực duy trì sự sinh tồn hay thọ mạng của một chúng sanh từ khi mới sinh
cho đến lâm chung. Ví dụ, thiện trì nghiệp giúp cho một người được hưởng hạnh
phúc và bất thiện trì nghiệp làm cho đời sống người ấy đau khổ trong kiếp sống
của họ. Nếu không có trì nghiệp một chúng sinh có thể chết ngay từ lúc mới
sinh.
c)
Chướng nghiệp (upapīlaka-kamma):
Khác
với trì nghiệp, chướng nghiệp làm trở ngại sinh nghiệp khiến cho đời sống đang
bình thường bỗng gặp khó khăn. Ví dụ một người đang mạnh khoẻ bỗng gặp tai nạn
trở nên tàn tật, hoặc một người đang thông thái thế mà sau một cơn bệnh bỗng
trở nên khù khờ dại dột.
d)
Đoạn nghiệp (upaghātaka-kamma):
Nghiệp
nầy có khả năng cắt đứt sinh nghiệp. Ví dụ như một vị tổng thống đang sống rất
an lành hạnh phúc bỗng bị ám sát chết một cách bất ngờ. Người ta thường gọi đó
là bất đắc kỳ tử.
Bất
đắc kỳ tử không phải do định mệnh hay số phận, cũng không phải oan uổng mà
chính vì đoạn nghiệp của một người quá mạnh khiến cho kiếp sống bị đứt đoạn nữa
chừng.
2. VỀ PHƯƠNG DIỆN NĂNG LỰC CỦA QUẢ BÁO
có bốn loại nghiệp:
a) Cực
trọng nghiệp (garuka-kamma):
Là
nghiệp lực rất mạnh, nếu là nghiệp ác cực mạnh như giết cha, giết mẹ, giết
A-la-hán, chia rẽ Tăng hoặc gây thương tích cho Đức Phật thì sẽ sa đọa vào địa
ngục vô gián nên còn gọi là vô gián nghiệp. Nếu là nghiệp thiện cực mạnh như
đắc được các bậc thiền định thì được sinh lên các cõi trời hữu sắc hoặc vô sắc.
b)
Cận tử nghiệp
(sannaka-kamma):
Là
nghiệp tạo lúc lâm chung. Nghiệp này có thể là hành động, lời nói, ý nghĩ hay
là phản ứng của tâm khi nhớ lại những nghiệp đã làm lúc sanh tiền ngay trong
giây phút hấp hối. Có 3 hiện tượng xuất hiện trong giờ phút lâm chung là:
·
Nghiệp (kamma):
người đang hấp hối có thể thấy lại một nghiệp nào đó đã làm trong lúc sinh
tiền, như người hung ác có thể thấy lại hành động sát hại của mình, người lương
thiện có thể thấy hành động bố thí. . .
·
Nghiệp tướng
(kammanimitta): lúc lâm chung
người ta có thể thấy một vài chi tiết nổi bật nào đó trong nghiệp đã làm, như
người sát sinh thường thấy vũ khí hoặc máu me, người có tín tâm thường thấy
điện thờ hoặc trầm hương nghi ngút…
·
Thú tướng (gatinimitta):
người sắp chết có thể thấy trước cảnh giới mà người ấy sẽ tái sinh vào. Như
người thường làm phước thiện sẽ thấy cõi chư thiên, trái lại người thường làm
điều ác sẽ thấy cảnh địa ngục. Chữ thú (gati) ở đây có nghĩa là hướng đi tái
sinh. Thiện thú (sugati) là hướng các cõi thiện như cõi trời, người. Ac thú
(duggati) là hướng các cõi ác như cõi ngạ quỉ, súc sanh.
Cận
tử nghiệp rất quan trọng trong việc tái sinh, một người có thể làm nhiều việc
thiện nhưng ngay khi chết nhớ lại một điều ác nào đó rồi sanh vào cảnh khổ.
Trái lại một người làm nhiều điều ác nhưng lúc lâm chung giữ được tâm niệm lành
thì vẫn được sanh vào nhàn cảnh. Tuy nhiên những hành động thiện hay ác kia vẫn
phải trả quả sau đó hoặc được tích trữ cho đến khi đủ duyên sẽ trổ quả bất cứ
lúc nào.
c)
Tập quán nghiệp (āciṇṇa-kamma):
Là
nghiệp thường tạo tác trong đời sống hàng ngày của chúng ta và nó đã trở thành
tập quán. Nghiệp nầy có thể thiện hoặc bất thiện. Bất thiện như người đồ tể có
thói quen sát sanh, người ác khẩu có thói quen chưởi mắng. Thiện như người tu
hành có thói quen niệm Phật, nhà từ thiện có thói quen ban phát. Do đó, nếu là
tập quán bất thiện dù nhẹ cũng rất nguy hiểm cho sự tiến hoá. Trái lại nếu là
tập quán thiện thì dù nhỏ cũng đem lại nhiều kết quả lợi ích.
d)
Tích lũy nghiệp (katattā-kamma):
Là
những nghiệp lực còn tàng trữ trong vô thức (bhavanga) chưa đến lúc trổ quả vì
chưa hội đủ cơ duyên hay điều kiện thuận tiện. Chính vì nghiệp nầy chưa trả quả
mà nhiều người nghĩ rằng kẻ làm ác không bị quả báo. Câu nói:“Thiện hữu thiện
báo, ác hữu ác báo, nhược hoàn bất báo, thời thần vị đáo” (thiện ác đều có báo
ứng, nếu chưa báo ứng chỉ là do thời giờ chưa đến) có thể giải thích được điều
nầy.
3.
VỀ PHƯƠNG DIỆN THỜI GIAN BÁO ỨNG nghiệp
được chia làm bốn loại:
a)
Hiện báo nghiệp (diṭṭhadhamma-vedanỵya-kamma):
Là
những nghiệp có hậu quả ngay trong kiếp hiện tại. Như một người biển lận công
quỹ bị tịch biên tài sản, hay một kẻ sát nhân bị bắn chết tại hiện trường. Tuy
vậy cũng khó nói được chính xác nghiệp nào có quả hiện tại vì đôi khi đó là quả
của nghiệp quá khứ do duyên tương đồng mà trổ quả chứ không phải là quả của
nghiệp hiện tại. Điều nầy cần chiêm nghiệm kỹ bằng trực giác để cảm nhận hơn là
phán đoán bằng lý luận.
b)
Sanh báo nghiệp (upapajjavedanīya-kamma):
Là
những nghiệp đem lại hậu quả ngay trong kiếp sau. Như một người kiếp nầy thường
bố thí cúng dường kiếp sau sinh ra được giàu sang tôn quí, trái lại một người
trộm cắp gian xảo kiếp sau bị khốn khổ nghèo hèn. Tích xưa có một người tỳ nữ
vừa mới dâng cúng Đức Phật một cành hoa mướp với tâm vô cùng hoan hỷ thì trên
đường về bị bò húc chết, ngay khi đó được sinh làm tiên nữ trên cõi trời với
dung sắc tuyệt mỹ không vị tiên nữ nào sánh kịp. Đó là sanh báo nghiệp.
c)
Hậu báo nghiệp
(Aparāpariya vedanīya - kamma):
Nếu
nghiệp chưa được trả quả trong kiếp hiện tại hay trong kiếp kế cận, thì sẽ cho
quả trong bất cứ một kiếp nào về sau khi hội đủ điều kiện. Đôi khi một nghiệp
đã được trả quả trong hiện tại hoặc kiếp sau nhưng dư âm của nó vẫn còn gây hậu
quả trong nhiều kiếp sau đó cũng gọi là hậu báo nghiệp. Trong trường hợp một
người lương thiện nhưng khi lâm chung vì một chướng duyên đã khởi tâm bất
thiện, do cận tử nghiệp đó phải tái sanh vào cõi khổ trong kiếp sau, vì vậy
những nghiệp lành của người nầy trở thành hậu báo nghiệp. Trái lại một người
thường tạo nghiệp bất thiện nhưng khi lâm chung nhờ một thiện duyên đã khởi tâm
lành có thể tái sanh vào nhàn cảnh nên những nghiệp ác của người ấy sẽ trổ quả
trong những kiếp bất định về sau.
Đó
là lý do tại sao một vài đạo sĩ khi thấy một chúng sinh làm ác sau khi thân
hoại mạng chung vẫn được sinh vào nhàn cảnh và kết luận rằng không có kết quả
của hành động thiện ác. Thật ra, vì họ chỉ thấy được một vài kiếp sống chứ chưa
chứng kiến được toàn diện hiện tượng nhân quả nghiệp báo.
d)
Vô hiệu nghiệp
(ahosikamma):
Là
những nghiệp đáng lý có kết quả trong kiếp hiện tại hay kiếp sau, nhưng không
hội đủ điều kiện để trổ quả nên trở thành vô hiệu. Ví dụ một vị thánh A-na-hàm
sau khi viên tịch sinh lên cõi trời sắc giới rồi từ đó đắc quả A-la-hán, và sẽ
nhập diệt tại đó chứ không trở lại cõi người, nên dĩ nhiên là những nghiệp chưa
kịp trả quả trở thành vô hiệu. Nhất là trường hợp Đức Phật và các vị A-la-hán,
những nghiệp lực yếu ớt còn dư sót không chi phối được các Ngài.
4. VỀ PHƯƠNG DIỆN CẢNH GIỚI
nghiệp cũng được chia làm 4 loại:
a)
Dục giới bất
thiện nghiệp (kāmāvacara akusala-kamma):
Là
những nghiệp tạo tác với tâm bất thiện ở cõi dục nên trả quả trong bốn ác đạo:
địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a-tu-la hoặc làm người trong tình trạng bất hạnh.
Đó là những nghiệp: sát sanh, trộm cắp, tà hạnh, nói dối, nói chia rẽ, nói lời
ác, nói vô ích, tham lam, sân hận và tà kiến.
b)
Dục giới thiện
nghiệp (kāmāvacara-kusala-kamma):
Là
những nghiệp tạo tác với tâm thiện ở cõi dục nên trả quả ở sáu cõi trời dục
giới, ở đó được hưởng đời sống an lạc dưới hình thức chư thiên, hoặc trả quả
làm người được sống hạnh phúc. Những nghiệp này là phóng sanh, bố thí, tiết
dục, chân thật, nói hòa hợp, nói ái ngữ, nói hữu ích, không tham, không sân và
chánh kiến.
c)
Sắc giới thiện
nghiệp (rūpāvacara-kusala-kamma):
Là
thiện nghiệp thuộc các bậc thiền định hữu sắc, như những người đắc từ sơ thiền
đến tứ thiền hữu sắc, sau khi thân hoại mạng chung sẽ được hưởng quả trong mười
sáu cõi sắc giới thiên. Ở đó phạm chúng sống rất an tịnh, tạm thời không bị các
nhân tham, sân và si chi phối.
d)
Vô sắc giới thiện
nghiệp (arūpāvacara-kusala-kamma):
Là
thiện nghiệp thuộc các bậc thiền định vô sắc, như những người đắc thiền không
vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ, sau khi
lìa cõi dục được sinh lên bốn cõi vô sắc giới thiên, trong đó đời sống rất vi
tế, thanh tịnh và tự tại, các vị chư thiên ở đó sống rất lâu nhưng đến khi quả
báo không còn hiệu lực, họ cũng phải trở lại dục giới chịu những quả vui khổ họ
đã tạo trước kia.
Như
vậy nghiệp là một định luật nhân quả công bằng, trong đó có tự do và trách
nhiệm, khác hẳn với thuyết định mệnh cho rằng con người phải chịu số phận mà
tạo hoá đã định sẵn, họ không có quyền tự do quyết định vận mệnh của mình. Và
dĩ nhiên như thế con người không cần phải chịu trách nhiệm về mọi hành động cá
nhân, vì trách nhiệm đó đã có Trời Đất gánh vác.
Nếu
nói rằng đạo Phật không nêu cao nhân vị thì quả thật quá sai lầm vì trong
nghiệp lý con người được hoàn toàn tự do hành động và chịu trách nhiệm về sự tự
do của mình. Trái lại, chính thuyết thiên mệnh mới xem thường nhân vị con
người, vì theo đó con người phải luôn luôn tuân thủ thiên ý nếu không sẽ bị
trừng phạt, chứ không có quyền tự quyết. Nếu được quyết định thì cũng phải
thuận theo thiên ý nên con người không bao giờ được bình đẳng với Trời Đất. Đạo
Phật không những tôn trọng nhân vị mà còn cố gắng nâng nhân vị đó lên Phật vị
một cách hoàn toàn bình đẳng.
Chúng
ta đã định nghĩa, phân loại các phương diện khác nhau của nghiệp, một thực kiện
luôn có mặt trong đời sống mà mỗi người có thể tự mình quan sát, chiêm nghiệm,
trực nhận hàng ngày. Bây giờ để phân biệt những điểm đồng dị, chúng ta hãy so
sánh chữ nghiệp được dùng trong Phật giáo và trong các tôn giáo khác.
Trước
hết, chúng ta hãy so sánh với chủ trương của đạo Jain, theo đó con người không
thể phát triển đức dục và trí dục nếu chưa trả hết tất cả những hậu quả bất
thiện của tiền nghiệp. Vì vậy tôn giáo này dạy tín đồ phải thực hành khổ hạnh
để sớm được thoát khỏi ảnh hưởng của tội lỗi mà họ đã làm trong những kiếp quá
khứ. Mặt khác, đạo Jain chủ trương khác hẳn với Phật giáo rằng giá trị hành
động đạo đức tùy thuộc vào thân
hơn là ý.
Trong
kinh Dìgha Nikàya có ghi lại trường hợp một vị đạo sĩ, thuộc đạo Jain mà thời
đó gọi là Nigantha, đến yết kiến Đức Phật. Sau đây là một mẫu đối thoại trong
Trường Bộ Kinh:
“Khi
đạo sĩ Dìghà chào hỏi Đức Thế Tôn và an tọa, Đức Phật hỏi đạo sĩ:
- Nầy đạo sĩ, trong đạo Nigantha, vị giáo chủ Nàtaputta dạy có bao nhiêu
loại nghiệp?
- Bạch đức Gotama, trong đạo của chúng tôi, vị giáo chủ Nàtaputta không
hề nói đến cái nghiệp nhưng chỉ dạy về cái tội mà thôi.
- Vậy có bao nhiêu thứ tội?
- Bạch Ngài, tội có ba loại: tội do thân, do khẩu và do ý.
-
Trong ba tội ấy tội nào nặng hơn hết?
- Bạch Ngài, chính tội của thân nặng hơn cả.
Sau
khi xác nhận ba lần như thế, đạo sĩ Dìgha hỏi lại Đức Phật:
- Bạch đức Gotama, còn theo giáo pháp của Ngài có mấy thứ tội?
- Nầy đạo sĩ, trong giáo pháp của Như Lai không hề nói đến tội, nhưng
chỉ nói về nghiệp mà thôi.
- Bạch Ngài, vậy có bao nhiêu thứ nghiệp?
- Nghiệp cũng có ba loại: nghiệp thân, nghiệp khẩu và nghiệp ý.
- Bạch Ngài, trong ba loại nghiệp ấy, loại nào quan trọng nhất?
- Nầy đạo sĩ, chính ý nghiệp là quan trọng nhất”.
Qua
đoạn kinh trên, chúng ta thấy chủ trương về nghiệp giữa Phật giáo và đạo Jain
không hoàn toàn giống nhau. Phật giáo xem hành động có chủ ý mới tạo
nghiệp, một đàng cho rằng dù vô tình hay cố ý vẫn có giá trị thiện ác như nhau.
Hai quan điểm như thế không thể bị đồng hóa được.
Một
chủ trương khác của giáo phái khổ hạnh Àjìvika cho rằng tất cả những hành động
cũng như những kinh nghiệm hiện tại hoàn toàn bị chi phối bởi tiền nghiệp.
Trong khi đó đạo Phật không chấp nhận thuyết tiền định và xem nghiệp quá khứ
chỉ là một trong những yếu tố chi phối đời sống hay kinh nghiệm vui khổ của con
người mà thôi. Theo đạo Phật, con người không phải sống tùy thuộc hoàn toàn vào
nghiệp quá khứ mà chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau:
·
Yếu tố ngoại giới:
như điều kiện thời tiết, ảnh hưởng của vị trí,
phương hướng, cũng như những tình trạng xã hội. . .
·
Yếu tố vật lý:
là những điều kiện vật chất, những ảnh hưởng của hiện tượng vật lý.
·
Yếu tố sinh lý:
là điều kiện cấu tạo, vận chuyển và tiến hóa của cơ thể, kể cả luật di truyền.
·
Yếu tố tâm lý:
là những quy luật cấu tạo và vận hành tự nhiên của tâm như thấy, nghe…, biết,
tình cảm, lý trí v.v.
·
Yếu tố nghiệp lý:
tức là nguyên lý nhân quả của hành động cố ý như chúng ta đã định nghĩa và phân
loại ở trên.
Như
vậy đời sống con người phối hợp bởi nhiều yếu tố và ảnh hưởng bởi nhiều môi
trường chứ không hoàn toàn do nghiệp quá khứ của mình (sayam katam), không do
quyết định độc đoán của một ngoại nhân nào (param katam), cũng không ngẫu nhiên
mà có (adhicca samupanna). Con người cũng như vạn hữu đều hình thành bởi nhiều
nhân duyên (paticca samuppanna). Nếu chúng ta hiểu rõ tất cả những điều kiện đó
thì có thể sống hài hòa với thiên nhiên, làm chủ chính mình để đạt đến chỗ tự
tại vô ngại.
Đạo
Phật nhằm mục đích cắt đứt mọi điều kiện ràng buộc con người để đưa đến vô điều
kiện (uncondition) tức là Niết-bàn, là giải thoát.
Cuối
cùng chúng ta so sánh với thuyết định mệnh (fatalism) và thuyết di truyền
(heredity).
Như
chúng ta đã đề cập trước đây, sự liên quan nhân quả của nghiệp báo khác hẳn với
thuyết định mệnh, vì nghiệp không phải là yếu tố duy nhất, độc đoán chi phối
đời sống con người và chúng ta có thể tiêu diệt hay chuyển hóa nghiệp cùng với
những điều kiện khác để vươn lên.
Theo
kinh điển Bà-la-môn, mọi hành động của con người đều bị chi phối bởi thiên
nhiên (prakiti) và thiên nhiên lại được Đấng Phạm Thiên an bài định đoạt. Bởi
thế con người đành phải bó tay trước số phận mà tạo hóa đã định sẵn, hoặc phải
cúng tế để cầu xin được gia ân, ban phúc.
Chắc
hẳn là con người không chịu nổi số phận quá đen tối của mình mà tự hỏi không
biết ai đã trao cho tạo hóa cái thứ quyền năng độc đoán, bất công như thế. Vì
sao tạo hóa lại định số phận mỗi người một khác. Nếu Đấng Tạo Hóa toàn năng thì
không toàn thiện, vì Ngài có thể tạo ra muôn loài nhưng lại không bình đẳng nên
đã để cho có một sự chênh lệch quá lớn lao giữa giàu nghèo, sang hèn, vui khổ…
Dĩ
nhiên con người có quyền đưa ra những vấn nạn hữu lý đó. Vì không lý gì, trong
cái thời mà con người đã ý thức được chủ quyền và nhân bản lại bị cưỡng bách
phải chịu quy phục trước một Đấng Tạo Hoá chuyên chế hoàn toàn không do họ ủy
quyền.
Theo
đạo Phật, thì con người là thượng đế của chính mình chứ không ai khác (Attàhi
attano nàtho, ko hi nàtho parosiya). Vì tất cả các điều kiện, kể cả nghiệp đều
có thể tự mình sửa đổi được. Bởi thế, hạnh phúc hay đau khổ đều do mỗi cá nhân
tạo lấy cho mình. Được tự do hay nô lệ tùy thuộc ở chỗ con người làm chủ hay bị
các điều kiện làm chủ.
Về
luật di truyền, mặc dù đạo Phật nhìn nhận rằng luật di truyền có ảnh hưởng đến
đời sống con người, nhưng di truyền không phải là một yếu tố quyết định duy
nhất như một số nhà tư tưởng hay khoa học gia chủ trương. Di truyền và nghiệp
là yếu tố khác nhau trong điều kiện tạo thành đời sống con người: Di truyền
thuộc về điều kiện sinh lý (bìja niyàma) trong khi nghiệp đặt căn bản trên ý
chí (cetanà). Một người có thể có một đặc tính thể chất nào đó từ cha mẹ di
truyền lại nhưng chính nghiệp lực do anh ta tạo ra có ái lực đối với đặc tính
đó, sự tương ứng này gọi là nhân duyên tương khởi.
Trong
trường hợp tính tình thì nguồn gốc dường như không phải là di truyền mà là
nghiệp lực hay những điều kiện xã hội. Hai đứa con song sinh ít khi có tính
tình giống nhau và nếu chúng được đặt trong những điều kiện xã hội khác nhau
thì tính tình lại càng biến đổi. Xem thế yếu tố di truyền không phải là yếu tố
quyết định.
Khi
phân tích các tác phẩm Mc. Taggart, giáo sư triết học đại học đường Cambridge,
người đã nhiệt liệt bênh vực thuyết nghiệp báo trong cuốn Vài Giáo Điều Tôn
Giáo (Some Dogmas of Religion), và cuốn Bản Chất Của Hiện Hữu, giáo sư C.D
Broad đã viết: “Mc Taggart đã chỉ cho chúng ta thấy rằng giả thuyết về ái lực
tương tuyển giữa những loại tâm hồn này và thể xác kia có thể giải thích được
sự tương đồng về đặc tính tinh thần, giữa cha mẹ và con cái mà người ta thường
cho là trực tiếp ảnh hưởng của sự di truyền. Vì di truyền nên con cái giống với
cha mẹ hơn là người khác. Thêm vào đó, những cơ thể giống nhau và vì thế những
tiếp hợp tử phát triển thành những cơ thể tương tự có khuynh hướng hấp dẫn
những tâm lý tương tự để tạo thành thai bào. Tôi nghĩ, phải nhìn nhận rằng lý
thuyết này rất thích đáng và tinh tế” (Examination of Mc. Taggart’s Phylosophy,
Tập 2, Phần 2, trang 614 , 615).
Tóm
lại, nghiệp báo đóng một vai trò rất quan trọng trong giáo lý nhà Phật. Tuy
nhiên chúng ta nên nhớ rằng Đức Phật thuyết minh nghiệp lý không phải với mục
đích khuyến khích làm điều thiện để hưởng thụ hạnh phúc trong cõi cực lạc,
thiên đường, mà để giúp con người thoát khỏi dòng nghiệp báo triền miên
(kammakkhayya). Do đó, ngay từ những điều kiện đầu tiên để đạt được quả vị thứ
nhất trong hàng thánh nhân là phải:
·
Diệt thân kiến (sakkāya diṭṭhhi),
tức là không còn chấp ngũ uẩn là bản ngã.
·
Diệt hoài nghi (vicikichā), tức là thấy
được chân lý, không còn tin phù phiếm ở định mệnh.
·
Diệt giới cấm thủ (sīlabbataparmsa), tức
là không còn chấp vào các nghi lễ tập tục hay định lệ nữa. Chấp hình thức mà
không hiểu nội dung hay ý nghĩa của giới luật cũng là một loại giới cấm thủ.
Một
người như thế sẽ không còn thoái hóa (avinipāta) và chắc chắn sẽ đạt được cứu
cánh giác ngộ (niyatosambodhiparāyāno). Đó là con đường dẫn tới sự đoạn tận ảnh
hưởng của nghiệp lực, phát triển tinh thần vô ngã, từ bi và trí tuệ.
CÚNG
DƯỜNG CAO THƯỢNG
Một
điểm đặc biệt đáng lưu ý là trong tám muôn bốn ngàn giáo pháp của Đức Phật gồm
trong Tam Tạng Kinh, Luật, và Vi Diệu Pháp không thấy đề cập đến những hình
thức lễ bái, thờ phụng, cúng kính (hiểu theo nghĩa thông thường). Do đó mỗi
quốc độ có một lối lễ bái cúng dường riêng. Các hình thức lễ bái này phản ảnh
phong tục tập quán của từng địa phương. Cách thiết trí bàn thờ Phật, cách hành
lễ, cách tụng kinh, những lễ cụ để điều hòa tiếng kinh câu kệ mỗi nơi một khác.
Âm nhạc của quốc gia cũng ảnh hưởng đến lễ nghi thờ lạy ở chùa chiền. Bởi lẽ
kinh điển không ấn định một hình thức lễ bái nào nên nhiều nơi, vì ảnh hưởng
của các tôn giáo khác, của tục lệ cổ truyền, những nghi thức mang đầy tính cách
dị đoan mê tín được thu nhập khiến người bàng quan dễ có một nhận định sai lầm
về đạo Phật.
Hiện
nay vẫn còn những lối cúng bái, tế lễ mà một số tôn giáo ngày xưa thường dùng
đến, những nghi lễ ấy Đức Phật và hàng thánh nhân không chấp nhận. Ở Việt
Nam
trước kia và mãi đến ngày này, một vài địa phương vẫn còn
giữ tục đốt vàng mã ở chùa. Nhiều người đến chùa lễ bái để cầu Phật ban phúc,
cầu buôn may bán đắt, cầu sinh quí tử, cầu được mạnh khỏe v.v… Nhưng dầu sao
những lối tế lễ cúng bái mang đậm tính nhân gian ấy, những hình thức cúng lễ bị
ảnh hưởng nặng nề bởi phong tục tập quán lỗi thời, không thể một sớm một chiều
sửa đổi được. Chỉ mong sao những lễ nghi
ấy không dẫn đến mê tín dị đoan khiến cho những người thiếu chánh tín bám víu,
nô lệ vào những hình thức đó mà sinh ra tham lam, cố chấp, xao lãng con đường
giác ngộ giải thoát.
Đức
Phật chê trách những lối cúng bái nặng hình thức ấy. Vậy chúng ta phải cúng
dường cách nào mới gọi là cúng dường cao thượng?
Trong
Kinh Mahāparinibbāna, Dīgha Nikāya nói về những ngày cuối cùng của Đức Phật, có
chép lại rằng:
Một
bữa nọ Đức Phật đến gần thành Kusinārā, vào ngụ trong rừng Sàlà của đức vua
Malla. Khi đến nơi Ngài nói với Đại Đức Ānanda:
- Này nanda, Như Lai mệt mỏi muốn nằm nghỉ, hãy trải chỗ nằm cho Như
Lai, đầu xây về hướng bắc, giữa hai cây long thọ (Sālā).
- Xin vâng, bạch Thế Tôn.
Đại
Đức nanda nghe theo lời Đức Phật, trải chỗ nằm đầu hướng về phía bắc, giữa hai
cây long thọ. Rồi Đức Thế Tôn nằm xuống, nghiêng mình về bên phải, dáng nằm như
con sư tử, chân trái gác trên chân phải, giữ chánh niệm và hoàn toàn giác tỉnh.
Lúc
bấy giờ, mặc dù trái mùa, hai cây Sàlà vẫn trổ hoa, hoa nở tràn đầy từ thân đến
ngọn. Hoa rơi vãi trên thân Đức Thế Tôn để cúng dường. Hoa Mạn Thù (Mandarava)
từ trên không nhẹ nhàng rơi xuống, rồi tung lên gieo vãi trên thân Như Lai,
nhạc trời vang lừng, những bản thiên nhạc từ hư không trổi lên để cúng dường
Như Lai.
“Thế
nhưng, này Ānanda không phải như vậy là tôn kính, sùng bái, cúng dường, làm vẻ
vang Như Lai đâu. Nầy nanda, bất luận Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, thiện nam hay tín nữ
nào thực hành đúng chánh pháp, sống chơn chánh trong chánh pháp, giữ gìn phẩm
hạnh thanh cao, ấy là người tôn kính, sùng bái, cúng dường và làm vẻ vang Như
Lai bằng cách cao thượng. Thế nên, này nanda, phải gắng công tu tập, thực hành
theo chánh pháp, sống chơn chánh trong chánh pháp, giữ gìn phẩm hạnh thanh
cao”.
Cao
quý thay! Tốt đẹp thay! Lời giáo huấn vàng ngọc cuối cùng của Đức Phật. Cho đến
giờ phút chót, Ngài vẫn còn tìm dịp nhắc nhở chúng Tăng:
“Sau
khi Như Lai tịch diệt, các con hãy lấy giới luật làm thầy. Thực hiện đúng đắn
những lời giáo huấn của Như Lai. Đó là cách cúng dường Như Lai cao thượng
nhất”.
Vì vậy, khi thắp hương cúng dường Tam Bảo, không phải chúng ta dâng cúng
đến chư Phật mùi thơm của hương trầm, hương hoa, mà bằng hương thơm của giới,
định, tuệ, giải thoát và giải thoát tri kiến. Bởi vì không có hương nào
thơm bằng năm loại hương cao quí ấy. Chúng ta hãy dùng mùi thơm của giới, định,
tuệ để kết thành tâm hương tỏa khắp mười phương cúng dường chư Phật. Nhưng làm
thế nào để có được những thứ hương tinh khiết ấy?
Muốn
có được hương thơm tinh khiết ấy để cúng dường chư Phật, muốn có mùi thơm cao
quý ấy để làm phương tiện giác ngộ giải thoát hãy thực hành theo chánh pháp mà
Đức Phật đã dạy.
Giáo
pháp của Đức Phật rất nhiều nhưng tựu trung không ngoài công việc tu trì giới,
định, tuệ để tận diệt tham, sân, si. Đức Phật đã tóm tắt giáo pháp của Ngài
bằng bốn câu kệ sau đây:
Sabba
pāpassa akaranaṃ
Kusalassa
upasampadā
Sacitta
pariyodapanam
Etaṃ
Buddhāna Sāsanaṃ.
(Dhammapda 183)
Không
làm các điều ác
Hãy
làm những hạnh lành.
Giữ
tâm hồn trong sạch
Là
lời chư Phật dạy.
Đây
có thể xem là yếu chỉ tóm tắt của Phật giáo, một tuyên ngôn rõ ràng, giản dị,
dễ thực hành, dễ thể hiện. Nếu sống đúng như vậy chính là cúng dường Đức Phật
một cách cao thượng.
Tùy
theo căn cơ trình độ của mỗi người, Đức Phật dạy một pháp hành khác nhau nhưng
vẫn đi đến cùng một mục tiêu giác ngộ, giải thoát. Như hàng tại gia cư sĩ, Ngài
dạy thọ tam quy, trì ngũ giới, hành thập thiện, bố thí, tham thiền . . . để
thoát khỏi luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau, dẫn đến an lạc, thanh tịnh.
Thập thiện là:
-
Thân không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm.
-
Khẩu không nói dối, không chia rẽ,
không nói vô ích, không nói hung ác.
-
Ý không tham lam, không sân hận, không tà kiến.
Thực
hiện những điều đó là cúng dường Đức Phật bằng cách cao thượng.
Giới
là bước đầu của Phật tử. Giới năng sinh định, định năng sinh tuệ. Giới
trong sạch mới có định và định vững vàng mới có tuệ. “Ngũ giới bất trì nhơn
thiên lộ triệt”. Nên không có giới thì tái sanh làm trời, làm người còn
khó huống chi là giác ngộ giải thoát.
Giới
là nền tảng căn bản. Giới nhằm cải thiện lời nói và hành động, mở đường cho sự
chuyển hoá tinh thần. Nhưng muốn thanh lọc nội tâm phải có định và tuệ. Nghĩa
là phải hành thiền. Vì chỉ có thiền mới có khả năng chấm dứt phiền não, khổ
đau. Có hai loại thiền:
Thiền
chỉ hay thiền vắng lặng,
phát triển định tâm, giúp tâm an trú vắng lặng khắc chế được năm chướng ngại
tinh thần: tham dục, sân hận, hôn trầm thụy miên (dã dượi, buồn ngủ), trạo hối
(dao động, hối tiếc) và hoài nghi. Thiền quán hay thiền
minh sát, phát huy trí tuệ, bứng tận gốc rễ năm chướng ngại, trực giác chân
tướng vô thường, khổ não, vô ngã của vạn hữu, đạt cứu cánh giải thoát.
Thực
hành giới, định, tuệ để giải thoát là làm đúng theo lời Phật dạy, là cúng dường
Chư Phật một cách cao thượng.
Tóm
lại, cách cúng dường cao thượng, quý báu hơn mọi cách cúng dường là thực hành
giáo pháp mà Đức Phật đã giác ngộ và bi mẫn khai thị cho chúng ta. Tuy thế
những hình thức lễ bái không phải là không cần thiết, nó là cơ hội để phát khởi
thiện tâm từ trong tiềm thức của con người, là thói quen để con người làm việc
thiện, là những giây phút hạnh phúc, là cơ hội để thân, khẩu, ý xa dần với ngũ
dục, là dip để cõi lòng mở rộng đón nhận ánh sáng chân lý. Bởi vậy trong những
khi Phật tử đến chùa lễ bái, các vị có trách nhiệm hướng dẫn tinh thần cho Phật
tử cần nhân dịp này nhắc nhở thiện nam tín nữ
làm lành, lánh dữ, bố thí, trì giới, tham thiền… Có như thế việc đến chùa lễ
bái của họ mới đem lại nhiều lợi ích cho kiếp hiện tại lẫn vị lai. Những hình
thức lễ bái cúng dường thông thường nếu được hỗ trợ bằng cách thực hành chánh
pháp, thì con đường đến nơi an ổn thanh tịnh không xa mấy:
“Thực
hành giáo pháp Như Lai đã chỉ bày chính là cúng dường Như Lai một cách cao
thượng nhất”.
Tiếp theo
|