CHUYỂN HOÁ TƯ TƯỞNG
Có
hai con đường giải phóng tư tưởng ra khỏi bất thiện, mê lầm, tà kiến, ngã chấp
đó là chánh kiến và chánh tư duy. Chúng ta tạm gác qua chánh
kiến, sự thấy biết bằng trí tuệ trực giác, ở đây chỉ nói đến việc chuyển hoá tư
tưởng sai lầm bất thiện bằng tư tưởng đúng đắn hiền thiện mà thôi.
Tư
tưởng hay tư duy có hai loại: chánh tư duy và tà tư duy. Chánh tư
duy là một chi pháp trong Bát Chánh Đạo, thuộc tuệ phần, thuật ngữ
Pāḷi gọi là sammā saṅkappa:
Sammā là chân chánh, saṅkappa
do động từ sankappeti là suy gẫm, tư duy hay nghĩ tưởng. Biết tư duy
chín chắn là cách chuyển hoá những suy nghĩ lầm lạc. Những danh từ phạn ngữ: Saññā
(tưởng), vitakka (tầm), ciñtà (tư lự), paccavekkhana (hồi quán), anupassanā
(tùy quán)... tuy có nghĩa riêng của nó nhưng ở đây được xem như
đồng nghĩa với saṅkappa (tư duy).
Trong
ba giai đoạn trí tuệ thì tu tuệ (bhāvanā paññā) tức là thiền vipassanā
ở giai đoạn ba hoàn toàn vắng bóng tư tưởng, nhưng trong tư tuệ (ciñta
paññā) ở giai đoạn hai thì tư duy có khả năng làm phát sinh trí tuệ,
nhưng tư duy đó phải là suy nghĩ chơn chánh. Có suy nghĩ chơn
chánh thì hành động và lời nói mới chơn chánh. Như thế chúng ta thấy
rằng: chánh tư duy đóng vai trò quan trọng trong việc tu tập để chuyển hoá tư
duy bất thiện thành hiền thiện, tư duy sai lầm thành đúng đắn.
Chánh
tư duy hay tư tưởng chơn chánh là pháp đối trị ba thứ vọng tưởng thuộc tà tư
duy. Vậy trước hết chúng ta cần biết thế nào là tà tư duy. Tà tư duy
là tư tưởng làm phát sinh bất thiện pháp, tăng trưởng tham, sân, si, ngã mạn,
tà kiến v.v. đưa đến tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng… Có ba loại tà tư duy hay tà
niệm, tà tầm, tà tưởng tiêu biểu:
1)
Dục tưởng (kàma - saññā):
Suy
nghĩ đến dục lạc (kàmasukha), tức là tâm tìm kiếm thoả mãn cảm giác giác
quan, nói một cách khác là tư tưởng bám víu trong tài, sắc, lợi, danh
hay trong ngũ dục: sắc, thanh, hương, vị, xúc làm tăng trưởng tham lam,
đoạn giảm định tĩnh. Như một người ghiền rượu thường nghĩ đến cảm giác
ngây ngất men say.
2)
Sân tưởng (vyāpāda - saññā):
Là
tâm niệm bất bình, hờn giận, ganh ghét, lo âu, sợ hãi về những đối tượng không
vừa lòng hợp ý. Những ý nghĩ bực tức, bất mãn, đối kháng ấy làm tăng
trưởng tâm sân hận, đoạn giảm tình thương yêu, từ ái. Như người hay
giận hờn thường nghĩ đến đối tượng trở ngại hay nghịch cảnh với một tâm trạng
bức xúc.
3)
Hại tưởng (vihiṁsa - saññā):
Suy
nghĩ những phương kế hãm hại kẻ thù địch hay san bằng nghịch
cảnh, và cao độ nhất là tư tưởng muốn tiêu diệt đối thủ. Tư tưởng nầy có
thể đưa đến bạo hành, khủng bố, cướp của, giết người v.v. Hại tưởng làm tăng
trưởng tính hung ác, đoạn giảm lòng bi mẫn. Như người có tâm niệm báo
thù, rửa hận thường nghĩ đến những mưu ma chước quỉ để hành hạ, làm khổ kẻ đối
nghịch mà không nghĩ đến cái khổ của tha nhân cũng là nỗi khổ của chính mình,
hại người chính là tự hại.
Ba
tà tư duy nói trên đều có đặc tính chung là làm tăng trưởng ác pháp,
đoạn giảm thiện pháp và đưa đến hại mình hại người. Để chuyển hoá ba loại tư
tưởng nầy chúng ta cần tu tập ba chánh tư duy:
1)
Ly dục tưởng (nekkhamma - saññā):
Là suy nghĩ về tính chất vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh của ngũ
dục (sắc, thanh,hương, vị, xúc). Đức Phật ví sự sinh diệt, hợp tan
của ngũ trần, nói chung là pháp hữu vi, như giấc mộng, như
huyễn hóa, như bọt nước, như ảo ảnh, như sương mai, như ánh chớp trên
không. Nhất là thường quán tưởng đến tính chất bất tịnh, nguy hiểm, tai hại
của ngũ dục thì mới thoát khỏi
trói buộc của dục tưởng. Đời sống của chúng ta hẳn sẽ tự tại, hạnh phúc hơn khi
không còn bị dục lạc chi phối. Đúng như một nhà tư tưởng tây phương đã nói: “Muốn
có được những hạnh phúc cao thượng thì hãy lánh xa những lạc thú đê hèn”
Nghĩ tưởng đến
sự bất tịnh, sự uế trược của thân (ba muơi hai thể trược) giúp giảm bớt những
ham muốn thể xác, nghĩ về sự dơ bẩn, nguy hiểm của vật thực giúp giảm bớt tham
lam vô độ trong ăn uống v.v.
2)
Ly sân tưởng (abyāpāda - saññā):
Không
nuôi trong lòng những tư tưởng sân hận. Trong Pháp Cú Kinh Đức Phật có dạy:
Akkocchi
maṃ avadhi maṃ, ajīni maṃ ahsi me, ye ca taṃ upanayāhanti, veraṃ tesaṃ na
sammati. . .ye ca taṃ nūpanayhanti veraṃ tesūpasammati.
“Nó
nhục mạ ta, đánh đập ta, chiến thắng ta và cướp đoạt của ta. Người nào hằng ôm
ấp tâm niệm như thế thì oán hận không bao giờ nguôi... kẻ nào xả ly tâm niệm ấy
thì oán hận ắt phải tiêu tan”.
Một
đoạn Kinh khác dạy: “Phải dứt bỏ sân hận, phải tránh xa ngã mạn và đoạn lìa mọi
ràng buộc thì phiền não không thể chi phối được”. Thực ra, người ôm ấp
tư tưởng sân hận tự hại chính mình hơn là hại kẻ khác.
Muốn
chuyển hóa được tư tưởng sân hận phải diệt trừ tâm niệm đó bằng cách tu tập đức
tính nhân từ (mett). Vì chỉ có lòng từ ái mới diệt được hận thù (averena
verni sammanti) trái lại hận thù chỉ làm cho hận thù thêm chồng chất.
Trong
40 đề mục thiền định, đề mục đối trị tâm sân là phát triển tâm từ (mettā
bhāvanā). Muốn phát triển lòng từ ái trước hết tâm phải mát mẻ, dịu
dàng, khoan dung, độ lượng với chính mình thì những bức xúc, căng thẳng, buồn
bực, lo âu, sợ hãi, sân hận mới được lắng dịu. Tự mình không sân thì mới rải
tâm từ đến những người xung quanh được. Như vậy người niệm tâm từ phải luôn
luôn giữ tâm cởi mở, trong lành và mát dịu như nước cam lồ, phải hằng niệm
tưởng như vầy:
“Nguyện
cho tất cả chúng sanh không có lòng thù oán, luôn được sự an vui”
(sabbe sattā averā hontu, sukhitā hontu).
Chúng ta có thể niệm tưởng như thế bất cứ lúc nào chứ không cần phải ngồi kiết
già hàng giờ như khi thực hành các đề mục thiền định khác. Mặt khác khi ghét
người nào chúng ta thường nghĩ xấu về người ấy mà không biết rằng làm như vậy
chỉ phát triển thêm lòng oán hận nơi mình mà thôi. Khổ khổ mà Đức Phật
dạy trong Khổ Đế chính là do lòng sân hận gây ra. Vậy nghĩ tốt về người
khác cũng là cách giúp chúng ta chuyển hoá tâm sân, phát triển lòng từ.
Hồi
hướng công đức sau mỗi lúc chúng ta làm điều phước thiện, cũng là một hình thức
khác của tâm từ. Nhờ niệm tâm từ mà dần dần hành giả dẹp bỏ được lòng oán hận,
ganh tỵ, bỏn xẻn, vị kỷ và phát huy tâm từ ái, khoan dung, vị tha, quảng đại.
Một
bậc chỉ có thể gọi là bồ tát khi đã phát tâm cứu độ chúng sanh, nghĩa là phải
có tâm từ tâm bi xuất chúng, chứ không thể tự xem mình là bồ tát khi tâm còn ôm
ấp hận thù oan trái.
3)
Ly hại tưởng (avihiṁsa - saññā):
Là
loại bỏ những ý nghĩ hãm hại kẻ khác. Con người vì quá chấp ngã và ngã sở nên
sẵn sàng hãm hại, tiêu diệt kẻ nào đụng đến quyền lợi, danh dự của mình. Nhưng
nếu biết tự ái, biết tự bảo vệ hạnh phúc và sống còn của mình thì tại sao không
tôn trọng hạnh phúc và sự an nguy của kẻ khác? Đức Khổng Tử dạy: “Kỷ sở bất dục
vật thi ư nhân” (cái gì ta không muốn thì đừng làm cho người). Vậy ta
không muốn đau khổ thì tại sao tìm hạnh phúc trên sự đau khổ của kẻ khác. Và
sao ta không tìm hạnh phúc bằng cách đem an vui đến tha nhân, như câu châm ngôn
tây phương nói rằng: “Bàn tay tặng hoa hồng tự nó được thơm trước”.
Chúng
ta nên ghi nhớ lời dạy sau đây của Đức Từ Phụ:“Ai ai cũng sợ gươm dao, ai ai
cũng sợ chết. Lấy bụng ta suy bụng người, không nên giết hại, cũng không nên
bảo ai giết hại” để thường xuyên thực hành tâm bi mẫn, bao dung, tha thứ
hầu diệt trừ tâm niệm hãm hại kẻ khác”.
Đề
mục thiền định đối trị hại tưởng là phát triển tâm bi (karun bhvan). Nếu
tâm từ không sân hận với ai mà chỉ mong cho mọi người, mọi loài được an lạc thì
tâm bi không nỡ hại ai vì chỉ muốn không ai đau khổ. Thấy người khác đau khổ,
người phát triển tâm bi thường quan sát, tư duy về cái khổ của mình để cảm
thông và chia sẻ với nỗi khổ của chúng sanh.
Trên
đây chúng ta vừa nói đến ba chánh tư duy đối trị ba tà tưởng. Ngoài ra, Đức
Phật còn dạy thêm mười đối tượng giúp tư duy trở nên chơn chánh khác:
1)
NIỆM TƯỞNG VÔ THƯỜNG (ANICCA SAÑÑĀ
):
Suy
gẫm đến tính chất vô thường của vạn hữu. Khi nhìn thấy sự sinh diệt của
những hiện tượng sinh - vật lý cũng như những diễn biến nội tâm, chúng ta tư
niệm rằng: Các pháp do nhiều điều kiện, nhân duyên hợp lại mà khởi sinh đều phải
bị chi phối bởi định luật vô thường (sabbe saṅkhārā
aniccā’ti). Hoặc nghĩ rằng: Quả thật pháp hữu vi là vô thường, có tính
sinh diệt (aniccā vata saṅkhārā, uppādavaya
dhammino). Suy nghĩ chín chắn như vậy giúp chúng ta chuyển hoá được
những ảo tưởng thường kiến chủ trương bản ngã và thế giới là thường hằng
bất biến.
2)
NIỆM TƯỞNG SỰ KHỔ (DUKKHA SAÑÑĀ):
Suy
gẫm đến tính chất khổ đau của đời sống trong hiện tượng tâm sinh vật lý.
Chữ khổ ở đây không những ám chỉ thân khổ hay tâm khổ như: sinh, già, đau, chết,
thương phải xa, ghét phải gần, cầu không được, sầu muộn, bi ai, khổ sở, uất ức,
phiền não. . .mà còn bao hàm tính chất vô ích, bất lợi, phiền nhiễu,
không toại ý của pháp hữu vi (Sabbe saṅkhāra
dukkhā’ti). Pháp hữu vi ở đây ám chỉ những khởi niệm tạo tác
tâm lý như tâm tham, tâm sân, tâm si,
tâm ngã mạn, cố chấp v.v. Suy nghĩ đúng đắn về bản chất sự khổ giúp chúng ta
chuyển hoá được những ảo tưởng đoạn kiến hoặc quan niệm sai lầm về những
hạnh phúc trong dục lạc (kāmasukha).
3)
NIỆM
TƯỞNG VÔ NGÃ (NATTA SAÑÑĀ):
Suy
gẫm đến tính chất rỗng không của tất cả pháp. Hiện tượng luôn luôn biến
đổi nên không có thực thể. Mọi hiện tượng đều giả hợp, điển hình như con
người chỉ là một chuỗi dài những hiện tượng tâm sinh vật lý (ngũ uẩn),
gồm thân và tâm hay danh (nma) và sắc (rpa) nên cũng không có thực
thể nào gọi là cái ta. Cái gọi là bản ngã chỉ là quá trình hình
thành của tưởng tri, chỉ có trong ảo tưởng, hoàn toàn không có
thật nên gọi là vô ngã. Không phải riêng hiện tượng tâm sinh vật lý mới
là vô ngã, mà tất cả các pháp đều vô ngã (sabbe dhamm natt’ti) dù đó là
Niết-bàn. Nhờ suy nghĩ về bản chất vô ngã mà dần dần chúng ta thoát ra khỏi ảo
kiến chấp ngã và ngã sở.
4)
NIỆM TƯỞNG VẬT THỰC ĐÁNG CHÁN (ÀHÀRE PATIKKÙLA SAÑÑĀ):
Suy
gẫm đến tính chất đáng nhàm chán của vật thực. Tục ngữ có câu: “Ăn để
sống chứ không phải sống để ăn”. Sống không phải để hưởng thụ, đắm say
vô độ trong những món ngon vật lạ. Người có phước vật chất có thể được ăn sung
mặc sướng, nhưng người có phước hơn thì ăn gì không quan trọng, dù dở dù ngon
họ vẫn tiết độ và tri túc.Vì vậy Đức Phật dạy các vị Tỳ Kheo phải tiết độ trong
ẩm thực (Bhojanamhi mattaññū) và phải quán tưởng vật thực chỉ là tứ
đại, là bất tịnh, và chỉ dùng với mục đích đỡ đói, để duy trì sức khỏe chứ
không phải vì đắm say hương vị. Đông y nói “bệnh tùng khẩu nhập” chính
là để chúng ta cảnh giác sự nguy hiểm của vật thực. Vật thực được biến chế đẹp
mắt, mùi vị thơm ngon và bổ dưỡng nhưng bên trong cũng ẩn chứa khá nhiều hiểm
họa, khi đang chế biến cũng không đẹp đẽ gì và chẳng bao lâu nó sẽ trở thành
thối vữa tanh hôi nhơ nhớp không thể chịu được. Quán tưởng như vậy chúng ta
giảm bớt tâm tham đắm trong hương vị hấp dẫn của vật thực.
5)
NIỆM TƯỞNG THẾ GIAN BẤT LẠC (SABBA LOKE ANABHIRATI SAÑÑĀ):
Suy
gẫm trên thế gian không có gì đáng ưa thích. Tư tưởng tự tại không tham
luyến đối với tất cả pháp thế gian. Chữ thế gian (loka) theo chân đế
(paramattha sacca) là những gì phát xuất từ căn tham, sân, si, nói một
cách khác là kết quả của vô minh và ái dục. Đức Phật dạy rằng, chúng sanh bị
chi phối bởi tám pháp thế gian là: được và mất, danh và hư, khen và chê,
vui và khổ. Người nào chuyển hoá được tư tưởng ra khỏi ba căn bất
thiện, không vướng mắc trong tám pháp thăng trầm của thế gian thì chắc chắn
được tự tại, giải thoát.
6)
NIỆM TƯỞNG SỰ CHẾT (MARAṆA SAÑÑĀ
):
Suy
gẫm đến sự chết là định luật tất nhiên của tất cả chúng sanh (sabbe sattā
marissanti, maranantaṃ hi jītviaṃ.)
Trong tam giới không ai tránh được cái chết dù là ma vương hay phạm thiên. Vì
vậy nghĩ đến sự chết không phải là bi quan mà là một thái độ
tích cực, can đảm và khôn ngoan. Can đảm vì dám đối diện với sự
thật, tích cực vì cố gắng sống có ý nghĩa để không phí một đời người
ngắn ngủi và khôn ngoan vì không sợ hãi trước cái chết hay không tự đánh
lừa mình với giấc mơ trường sinh bất lão.
Một
nhà tư tưởng nói rằng: “Nghệ thuật sống giống như thuật đánh vợt nghĩa là phải
luôn luôn sẵn sàng đón đỡ những cú bất ngờ”. Niệm sự chết chính là sẵn
sàng đón nhận sự thật đó một cách bình thản an nhiên. Người niệm sự chết nghĩ
rằng:
-
Cái chết
đến bất thần như một kẻ sát nhân xuất hiện
-
Cái chết
như một sự phá sản toàn diện: sự nghiệp và thân tâm
-
Bậc vĩ nhân
trên đời còn phải chết thì làm sao ta có thể tránh được
-
Mạng sống
nầy là cộng sinh của nhiều loại chúng sinh khác nhau
-
Mạng sống
mong manh tuỳ thuộc vào tứ đại, hơi thở, vật thực, thời tiết…
-
Không ai
lường được cái chết sẽ đến lúc nào vì nó vô hình vô tướng
-
Thọ mạng
của con người chỉ có giới hạn không ai có thể trường sinh
-
Thực ra cái
chết diễn ra trong từng sát-na sinh diệt ngắn ngủi của thân tâm
Người niệm sự chết sẽ có những lợi ích như: Sống tinh tấn không buông
lung, không tham đắm, không bám víu, không làm ác, không tích luỹ, dễ thấy ba
tướng vô thường – khổ – vô ngã, khi chết không bối rối sợ hãi, sau khi chết
được sinh về cõi thiện.
7)
NIỆM TƯỞNG VỀ SỰ BẤT TỊNH (ASUBHA SAÑÑĀ
):
Suy
gẫm về tính chất bất tịnh của xác thân. Asubha là bất tịnh, ám chỉ 32
thể trược trong thân chúng ta như mồ hôi, nước tiểu, mủ, máu, đàm, nhớt…
Vì sao Đức Phật dạy chúng ta phải quán tưởng thân bất tịnh? Như chúng ta thường
thấy, nhiều người vì quá yêu thích, xem trọng xác thân đã o bế, chăm sóc, bảo
vệ nó với bất cứ giá nào. Xem cái thân tứ đại giả hợp nầy là ta và của ta, đạo
Phật gọi đó là thân kiến. Thân kiến là một trong mười chi phối trói buộc
(kiết sử) mà người muốn giải thoát phải cắt đứt. Nhưng đừng hiểu lầm
rằng diệt thân kiến là tự hủy bỏ xác thân mình. Chính Đức Phật dạy phải giữ gìn
cho thân thể tráng kiện để dễ dàng tu niệm. Và chúng ta phải biết rằng giữ gìn
thân thể khỏe mạnh là khác, còn quá quý trọng thân xác là chuyện khác. Một
người khỏe mạnh có thể hy sinh thân mình cho nghĩa cử vị tha cao đẹp, còn người
quá quý trọng xác thân thì trái lại sẵn sàng hãm hại kẻ khác khi bị tổn thương.
Mục
đích niệm tưởng bất tịnh là để chúng ta chuyển hóa tà tư duy do tâm tham ái
trong ngũ dục làm chướng ngại (triền cái) định tuệ hầu có thể giác ngộ giải
thoát.
8)
NIỆM TƯỞNG SỰ TRỪ ĐOẠN (PAHĀNA SAÑÑĀ):
Suy
gẫm về sự đoạn trừ tâm bám víu trong cảnh giới tái sinh hay tư tưởng xuất
ly tam giới. Một trong bốn lậu hoặc (āsava) làm cho chúng sanh
chìm đắm trong vòng luân hồi là hữu lậu (bhavāsava), có nghĩa là
mê chấp vào sự hiện hữu và tồn tại trong tam giới. Ngay cả bậc thiền cao nhất
là phi tưởng phi phi tưởng xứ cũng còn hữu lậu. Bao lâu chưa đoạn trừ hữu lậu
thì chưa thể giải thoát được. Lúc bồ tát Sĩ-đạt-ta vào rừng tầm đạo, Ngài được
nhiều vị thiền sư Bà-la-môn chỉ giáo và chẳng bao lâu Ngài đắc được các bậc
thiền hữu sắc và vô sắc cao nhất. Đối với những Bà-la-môn như thế là đã giải
thoát, nhưng bồ tát tự thấy tư tưởng của mình vẫn còn lệ thuộc trong vòng tam
giới, rồi Ngài quyết thoát ra khỏi những hữu lậu vi tế nhất còn tiềm tàng ngay
trong các thiền tâm đó. Cuối cùng dưới cội cây bồ-đề tại Bồ-đề Đạo Tràng
(Bodhigāya) Ngài đã hoàn tất cuộc chuyển hoá tối hậu và đã được siêu xuất tam
giới.
9)
NIỆM TƯỞNG SỰ DIỆT TẬN (NIRODHA SAÑÑĀ:
Là
hằng hoài bão tâm niệm diệt tận phiền não. Phiền não có nhiều thứ, như
kiết sử, tâm sở bất thiện, lậu
hoặc, triền cái. . . nói chung là tham, sân, si hay vô minh, ái dục. Chính
phiền não là một cái lưới phong tỏa, hay lò lửa (hỏa trạch) thiêu đốt chúng
sanh. Tư tưởng chỉ được chuyển hoá hoàn toàn khi đã diệt tận toàn bộ cơ cấu
tích luỹ và tập khởi của những phiền não dù dưới dạng vô thức (tuỳ miên) hay
hữu thức (hiện hành).
10)
NIỆM TƯỞNG LY ÁI (VIRĀGA SAÑÑĀ):
Cuối
cùng là tâm niệm giải thoát tư tưởng ra khỏi ái dục. Ai dục (taṅhā
) gồm có dục ái (kāma taṅhā) mê say
trong ngũ dục, hữu ái (bhava taṅhā)
tham đắm trong hạnh phúc, phi hữu ái (Abhava taṅh) bất mãn trong đau
khổ. Đối với cảnh giới tái sinh thì ưa thích trong dục giới gọi là dục ái,
ưa thích trong sắc giới gọi là sắc ái, ưa thích trong vô sắc giới gọi là vô
sắc ái. Kinh Dhammapda phẩm Piya vagga dạy rằng “Ái dục sinh sầu muộn,
ái dục sinh lo sợ. Người đã hoàn toàn dập tắt ái dục không còn sầu muộn, chẳng
hề lo sợ”. Thật vậy, bao lâu tư tưởng chúng ta còn bị ràng buộc trong vô
minh ái dục thì vẫn còn sợ hãi, lo âu và phiền muộn.
Tóm
lại, chuyển hoá tư tưởng ra khỏi ràng buộc ngoại giới cũng như những ô nhiễm
nội tâm là cuộc chuyển hoá khó khăn nhất trong lịch sử tư tưởng nhân loại, vì
tư tưởng đòi hỏi trải qua nhiều thử thách cam go, nhiều cấp độ rèn luyện và
phấn đấu để tìm được tự do giải thoát thật sự.
Nhiều
người lầm tưởng rằng không cần chuyển hoá tư tưởng vẫn có thể thẳng vào thực
tánh pháp bằng tuệ giác. Nếu vậy thì súc sinh hay những người sinh ra không
biết tư duy (khờ khạo) có thể đi thẳng vào thực tánh dễ dàng mà không cần quá
trình tiến hoá nào để phát triển và hoàn thiện tư duy được sao? Chính ở thành
tựu cao nhất của sự chuyển hoá tư tưởng mới có bước nhảy hoá thân cuối cùng
thẳng vào thực tánh pháp của tuệ giác. Cho đến khi tư tưởng hoàn toàn không bị
lệ thuộc vào bất cứ sở tri chướng và phiền não chướng nào thì mới thực sự được
gọi là chánh tư duy, yếu tố bất ly với chánh kiến trong tuệ giác phần của Bát
Thánh Đạo.
THU THÚC LỤC CĂN
Khi
mắt nhìn một vật chúng ta sẽ thấy vật đó to hay nhỏ, xanh hay vàng, tròn hay
vuông v.v. thì tâm liền xao động và trí liền tưởng tượng, so sánh, đánh giá và
có thái độ phản ứng với vật đó ngay. Như khi nhìn lửa chúng ta biết lửa nóng,
lửa màu đỏ, lửa để nấu nướng..., nhìn dòng nước chảy, nhìn ly nước, ta biết
được tính chất uyển chuyển của nước.
Xa
hơn nữa, lắm khi mắt chúng ta không nhìn thấy nhưng tâm ta nghĩ đến một vật gì
đó. Tâm vừa nghĩ đến đối tượng thì tâm thức liên tưởng ngay đến hình tướng, màu
sắc, độ lớn và tính chất của đối tượng ấy. Không nhìn thấy vật, óc ta có thể
tưởng tuợng được hay hình dung được vật ấy nhờ hồi tưởng hay hoài niệm. Khi
giác quan bị kích thích bởi một đối tượng ngoại giới, một vật hay một hiện
tượng, mỗi người có một nhận xét, phán đoán hay liên tưởng khác nhau. Như khi
tai nghe một âm thanh, dầu có thấy vật hay không ta vẫn đoán được một cách
tương đối vật phát ra âm thanh đó. Chẳng hạn khi nghe tiếng chuông, ta liên
tưởng đến một cái chuông, một cái dùi chuông đang đưa lên đánh, một cánh tay
cầm dùi chuông, một người đang đánh chuông rồi đến cái chuông được treo lên một
giá gỗ, bên góc chùa hay tại gác chuông. Nhưng tùy theo mỗi người, khi tâm tiếp
nhận đối tượng, phản ứng tâm lý không hoàn toàn giống nhau.
Nhìn
một người đang ngồi yên lặng, mắt đăm đăm hướng về một phía, ta không đoán được
người ấy đang nghĩ gì, họ đang mơ mộng hay đang tư tưởng. Có thể đầu óc họ đang
chất chứa những hình ảnh, vụt biến, vụt hiện, xếp đặt phức tạp, nhiều lúc chỉ
là ảo tưởng, như nhìn thấy người chết trở về, thấy mình có cánh bay bỗng lên
không.
Trên
thực tế, những hình ảnh hiện lên trên “màn bạc tâm giới” được xếp đặt theo thứ
tự trước sau. . . hình ảnh sau kế tiếp hình ảnh trước và thường sự kiện trước
tạo điều kiện cho những sự kiện kế tiếp để diễn biến, tiếp nối liên tục tạo
thành dòng hiện tượng tâm hay tiến trình tâm. Như lúc chúng ta
đang suy nghĩ xem việc gì cần làm trước, việc gì sẽ làm sau, tiên liệu những
trở ngại, những khó khăn sẽ gặp phải, và những biện pháp giải quyết như thế
nào. . .
Chỉ
trong một phút, một giây, một điểm nhỏ của thời gian, tư tưởng đã tạo nên, đã
hủy diệt biết bao hình ảnh. Theo Abhidhamma thì tốc độ của tư tưởng 16 lần
nhanh hơn tốc độ biến đổi của vật chất. Khi mắt thấy một hình sắc, tai nghe một
tiếng động, mũi ngửi một mùi hương, lưỡi nếm một vị, thân tiếp nhận một vật
thể, thì biết bao hình ảnh, bao cảm xúc sẽ hiện đến, sẽ biến mất. Nhiều khi cả
một chuỗi dài thời gian hiện ra trong nháy mắt. Một loạt sự kiện liên tục và
phức tạp đầy màu sắc linh động chỉ thu gọn trong một tích tắc, trong một cái
nhìn, một sự tiếp xúc nhẹ nhàng mau chóng.
Khi
lục căn tiếp xúc với lục trần, tức là khi: Mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi
ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân đụng chạm và ý suy nghĩ
thì tâm ta đã phản ứng với những cảm xúc, hay những thái độ tâm lý như:
giận hờn, thương yêu, ghét bỏ… Tất cả những cảm xúc đó sẽ dẫn chúng sanh đến
cảnh giới thích ứng tuỳ theo tính chất thiện ác, đúng sai. Bởi vậy, thu thúc
lục căn là một trong “tứ thanh tịnh giới” mà vị tỳ kheo phải vâng giữ. Thu thúc
ở đây không có nghĩa là nhắm mắt, bưng tai, ngồi một chỗ không tiếp xúc với ai,
mà chính là đừng để ngoại cảnh chi phối mình, đừng quá quyến luyến và say mê
lục trần.
Pháp
thu thúc bao gồm cả hai cái nhìn, cái nhìn phân tích và cái nhìn không phân
tích. Lúc nào ta nên nhìn với cặp mắt phân tích và khi nào nên nhìn bằng cặp
mắt dửng dưng.
Đức
Phật chú trọng nhất cái tâm của chúng sanh. Địa ngục hay thiên đàng, trầm luân
hay giải thoát đều do tâm. Nhưng cái gì khiến cho tâm xao động? Chính lục căn
tiếp xúc với lục trần, khiến cho ngũ uẩn: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức có cơ
hiện khởi. Khi mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân
tiếp xúc, tâm nghĩ đến điều gì thì liền lúc ấy ngũ uẩn cũng khởi sanh rồi chấm
dứt. Tâm tựa vào lục căn để nhận biết lục trần và phát hiện qua ngũ uẩn, mà ngũ
uẩn vừa hiện lên lại vừa biến mất ngay, do đó tâm không lúc nào đứng yên. Cứ
mỗi giây phút biết bao nhiêu tư tưởng sinh lên rồi bị hủy diệt.
Tham,
sân, si tiêu biểu cho ba cảm xúc bất thiện của con người cũng phát sinh theo
sáu căn. Chẳng hạn khi mắt nhìn thấy một hình sắc nếu có sự ưa thích sẽ phát
sinh tâm tham, nếu không vừa lòng sẽ phát sinh tâm sân và khi không biết được
bản chất hay thực tướng của hình sắc ta sẽ phát sinh tâm si. Bởi vậy, khi nhìn
một vật, nghe một âm thanh… ta nên thu nhận bằng cái nhìn bình thản, khách quan
và sáng suốt giống như tấm gương trong sáng phản ánh một cách trung thực mà
không bị đối tượng lôi cuốn. Sở dĩ Đức Phật dạy chư vị tỳ kheo không nên tiếp
nhận đối tượng với phán đoán chủ quan tùy tình cảm, là để cho tâm các vị ấy
không khởi theo các vọng niệm tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến v.v…
Nhưng
bên cạnh cái nhìn khái quát chúng ta cần có cái nhìn sâu sắc hơn, cái nhìn vi
tế minh bạch với tâm không xao động. Về phương diện đối tượng, chúng ta biết
rằng mọi vật sinh ra đều sẵn chứa mầm mống hủy diệt. Về phương diện chủ thể,
khi lục căn tiếp xúc với lục trần hãy quan sát minh bạch các phản ứng tâm lý để
khám phá xem đâu là thiện, đâu là bất thiện để thu thúc lục căn thanh tịnh.
Nhưng làm thế nào để ngăn ngừa được bất thiện pháp phát sinh khi lục căn tiếp
xúc với lục trần?
1.
Thực hành bốn pháp tinh tấn (Tứ chánh cần)
a) Tinh tấn ngăn ngừa bất
thiện pháp chưa phát sinh trong tâm (saṃvara
padhāna)
b) Tinh tấn loại trừ bất thiện pháp đã phát sanh trong tâm (pahāna
padhāna)
c) Tinh tấn sinh khởi những thiện pháp chưa có (bhāvanā padhāna)
d) Tinh tấn duy trì và phát triển những thiện tâm đã có (anurakkhana
padhāna)
2. Tiết chế trong ăn uống, ngủ nghỉ, nói năng
Đức
Phật thường dạy các vị tỳ kheo nên tiết độ trong ẩm thực, không dùng vật thực
phi thời, không dùng no, không ăn vội. Để cho tâm bớt si mê hôn trầm, mỗi ngày
chỉ nên ngủ vừa phải, thay vào đó nên
tọa thiền, kinh hành để phát huy định tuệ. Không nói nhiều, khi nói cần có đủ
các yếu tố: chân thật, dịu dàng, hữu ích, hợp thời, đúng chỗ, từ ái, bi
mẫn.
3.
Phòng hộ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý
Cẩn thận không để cho tâm phan duyên theo trần cảnh qua các căn thức vì
một tâm không khéo tác ý thì các căn sẽ trở thành phương tiện cho tâm buông
lung thao túng. Để tránh tình trạng đó, trước hết phải biết thận trọng khi căn
tiếp xúc với trần, đừng để các ác, bất thiện pháp sinh khởi. Tốt nhất là nếu
cần nên tránh những tiếp xúc căn trần nào đưa đến bất an, nhiệt não cho mình và
người.
4. Khoan thai, thư thả
Vội vàng, hấp
tấp, nôn nóng là thái độ “dục tốc bất đạt” dễ đưa đến căng thẳng, vấp
váp, tiêu hao năng lực, nản chí và bỏ cuộc nửa chừng, kết quả là gia tăng bực
tức, nóng giận và phiền não khổ đau. Tập khoan thai thư thả trong đi, đứng,
ngồi, nằm và mọi hành vi cử chỉ là cách làm cho tâm trở nên lắng dịu, sáng suốt
và nhờ vậy sẽ mau chóng phục hồi năng lực. Người hành thiền vipassanà thường có
hành vi cử chỉ thong thả, chậm rãi không phải vì họ cố gắng chậm lại mà khi tâm
sáng suốt trầm tỉnh tự nhiên hành động trở nên khoan thai thư thả.
5. Tinh tấn giác niệm
Thường
chúng ta không để tâm trọn vẹn trong việc mình đang làm, hay trong tình huống
thực tại đang la, thân làm việc nầy nhưng tâm lại đi làm một việc khác
ở đâu đâu. Như vậy gọi là tâm bất tại, thất niệm hay chính xác là tâm thiếu
tinh tấn giác niệm. Tinh tấn là không để tâm buông lung, trôi
giạt. Giác hay tỉnh giác là sáng suốt, không mê muội, không nhầm lẫn
trong thực tại. Niệm hay chánh niệm là không bỏ quên thực
tại, là chú tâm trọn vẹn nơi mọi động thái của thân, thọ, tâm, pháp đang
diễn ra tại đây và bây giờ.
Hành
động, cảm xúc, tri giác, ý thức, phán đoán v.v. phát xuất từ tâm của mỗi người.
Nhiều khi sự nhận thức đối tượng trực tiếp từ năm căn hoặc thông qua năm căn
mắt, tai, mũi, lưỡi và thân, nhưng lắm lúc ý thức đơn phương “xử lý” đối
tượng như trong trường hợp hồi tưởng, tưởng tượng, suy luận… Ví dụ có nhiều
trường hợp do duyên xúc của nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân mà ý thức phát sinh. Sau
đó ý thức nắm lấy dữ kiện do năm căn thức cung cấp để làm việc một mình như suy
tư, so sánh, phán đoán, thương ghét, quyết định hành động v.v… Mọi hành động
tội phước hầu như phát sinh sau thời gian suy tính đó, bởi vậy Đức Phật dạy
chúng ta cần phải tinh tấn giác niệm miên mật mọi diễn biến của quá trình tâm
sinh vật lý nầy để không bị cuốn trôi trong mê lầm.
Tâm
thường hay rung động, khó giữ được tĩnh lặng, nó thường hay nghĩ tưởng lung
tung, rồi phản ứng thuận hay nghịch tuỳ theo đối tượng ưa thích, hay ghét bỏ. .
.bởi vậy khi tâm phan duyên theo cảnh trần thì khó mà giữ được yên lặng. Tâm
người thiếu giác niệm khó có thể làm chủ được. Đức Phật dạy: “Nầy các thầy tỳ
kheo, tâm người chưa được huấn luyện, chưa được chế ngự hằng đi đến nơi tai
hại; và tâm người được khéo dạy
dỗ, rèn luyện, giữ gìn rồi sẽ hằng đi đến nơi lợi ích cao thượng”. Bởi
vậy trong thu thúc lục căn thì thu thúc ý căn là quan trọng hơn cả. Tức là
chúng ta nên khéo biết chế ngự tâm
mình đừng để cho các ác, bất thiện pháp phát sinh. Đức Phật dạy: “Người trí nên
giữ tâm”, có nghĩa là phải ngăn ngừa tâm, không để cho nó nghĩ đến điều
ác, hay để cho các tùy phiền não sai sử.
Tùy
phiền não gồm có: Tham, sân, giận, oan trái, quên ơn,
thượng mạn, ganh tỵ, bỏn
xẻn, giấu lỗi, khoe khoang, cứng đầu, ương ngạnh, ngã mạn, khinh người , trụy
lạc, giải đãi. Khi chúng ta ngăn ngừa được các tùy phiền não đó phát
sinh là chúng ta đạt được phần lớn pháp thu thúc.
Tóm
lại, cần phải ngăn ngừa tâm vọng động khi lục căn tiếp xúc với lục trần, tức là
dùng trí tuệ phân tích để thấy rõ đâu là tội, đâu là phước, đâu là đúng
đâu là sai hầu không say mê quyến luyến lục trần hay đắm chìm trong vòng tài,
tình, danh, lợi.
Chúng ta hãy theo gương Ngài Mục Kiền Liên và Ngài Xá Lợi Phất
đã dùng trí tuệ phân tích trong khi xem tuồng và nhờ đó sau này hai Ngài
trở thành hai vị đại đệ tử của Đức Phật. Lúc hai vị chưa xuất gia là đôi bạn
rất thân. Một hôm hai người rủ nhau đi xem diễn tuồng (giống hát bộ hay cải
lương của chúng ta). Hai vị thấy diễn viên bôi mặt, vẻ mày, kẻ làm vua, người
làm quan, kẻ làm người cao sang, kẻ làm người hèn hạ, lúc chưa đóng tuồng là
anh em bạn bè, khi đóng tuồng là vợ chồng, là vua quan. . . nhìn những tấn
tuồng ấy hai Ngài nghĩ đến cuộc sống của con người cũng chẳng khác là bao. Quán
tưởng như thế hai Ngài vô cùng chán nản và quyết đi tìm thầy học đạo để thoát
khỏi vòng sinh tử luân hồi.
NHÂN SANH TRÍ TUỆ
Trí
tuệ là nhân tố tối hậu để thấu triệt chân lý. Trong tam học (giới, định, tuệ),
giới và định chỉ có mục đích tạo điều kiện cho sự khai mở cuả trí tuệ. Nếu giới
(sīla) có thể làm cho hành động và nói năng trở nên chững chạc, thiện
ích, và định (samādhi) có thể giúp tâm an trú, thanh tịnh và chân chính,
thì tuệ (paññā) phát huy phần tâm linh quan trọng nhất của con người là tuệ
giác, để liễu tri thực tánh rốt ráo và cứu cánh giải thoát.
Hành
giả dù có hạnh nguyện thành Phật Toàn Giác, Phật Độc Giác hay Phật Thanh Văn
đều cần phải chuyên cần tinh tấn dùi mài gươm trí tuệ để cắt đứt tận gốc rễ
những vọng chấp, phiền não hay những ô nhiễm nội tại dưới mọi hình thức, ngấm
ngầm hay bộc phát mãnh liệt, đang chi phối đời sống của họ. Trí tuệ còn là một
trong mười pháp ba-la-mật (pāramī) hay còn gọi là thập độ mà một
vị bồ tát cần phải chuyên trì bất thối cho đến khi thành tựu mục đích của một
vị Chánh Đẳng Giác. Chính Đức Phật tổ Thích-ca Mâu-ni, lúc còn là một vị bồ
tát, đã lấy trí tuệ làm bản hạnh khi thực hành pháp thập độ.
Trước
khi nói đến ba nguyên nhân phát sinh trí tuệ, chúng ta thử bàn qua nghĩa của
danh từ trí tuệ là gì. Trong phạn ngữ Pāli có rất nhiều danh từ được dịch là
trí tuệ, nhưng nghĩa của chúng có ít nhiều sai khác như
paññā, ñāṇa, vibhaṅga, paṭisambhidā, bodhi…
Paññā
là biện tướng trí, trí
tuệ phân biệt được chân tướng vô thường, khổ não, vô ngã của hiện tượng giới.
Paṭisambhidā
là minh giải trí:
Trí tuệ phân tích và biện giải các pháp một cách minh bạch.
Ñāṇa
là phá tướng trí:
Trí tuệ có thể phá tướng (do tưởng sinh) để thấy rõ chân tướng hay thực tánh
pháp. Phá tướng trí chính là trí tuệ mà hành giả thiền vipassanà đạt được như
những kết quả tối hậu và cũng là trí tuệ của chư Phật: Thanh văn, Độc giác,
Toàn giác.
Bodhi
là tuệ giác mà người
ta thường quen gọi là bồ đề tức trí tuệ giác ngộ của bậc đã đạt được đạo
quả và Niết-bàn đoạn tận phiền não, vọng chấp.
Tuy
được dịch từ nhiều danh từ phạn ngữ có nghĩa sai khác, nhưng tựu trung trí tuệ
có nhiệm vụ tối hậu và tất yếu là diệt tận vô minh để nhận chân được lý nhân
quả, luật thành - trụ - dị - diệt và nhất là thấy rõ được ba chân tướng của vạn
hữu là vô thuờng, khổ não và vô ngã.
Vì
trí tuệ đóng vai trò quan trọng như thế trong lý tưởng giải phóng con người ra
khỏi vọng chấp, nên Đức Phật đã chỉ dạy cho chúng ta ba phương cách rèn luyện
trí tuệ:
1)
NGHE
NHIỀU THẤY RỘNG
(Bāhussutā):
Một
trong mười điều đem lại lợi ích cho sự giải thoát mà Đức Phật đã dạy là đa văn
quảng kiến. Người nghe
nhiều thấy rộng ở đây ám chỉ người luôn biết lắng nghe học hỏi để thấy ra chánh
pháp.
Trong
suốt 45 năm hoằng dương giáo pháp có rất nhiều người đắc đạo quả hay giác ngộ
chân lý khi nghe Đức Phật thuyết pháp. Từ Thanh văn (sāvaka) có nghĩa là
người nhờ nghe pháp mà giác ngộ giải thoát. Không phải chỉ có Đức Phật mới độ
được Thanh văn, mà ngay cả các vị Thanh văn Thánh đệ tử Đức Phật trong khi
thuyết pháp cũng độ được rất nhiều người nhập vào dòng thánh. Như đạo sĩ
Sàriputta chỉ nghe một câu kệ ngôn do Đại Đức Assaji thuyết đã trực nhận được
lý nhân quả và chứng ngộ đạo quả Tu-đa-hườn. Và chính sau khi Ngài Sàriputta
được Đức Phật cho xuất gia vào hàng tăng lữ, một hôm Ngài nhận sứ mạng đi giáo
huấn nhóm Tỳ Khưu chia rẽ tăng theo Đề-bà-đạt-đa. Khi Ngài Sàriputta giảng pháp
xong tất cả các vị Tỳ Khưu ấy đều đắc quả A-la-hán.
Tuy
suta nguyên nghĩa là nghe và được đặc biệt dùng trong nghĩa nghe chánh
pháp nhưng ta có thể suy ra rằng tất cả những kinh nghiệm học hỏi được bằng
cách biết sử dụng giác quan nghĩa là khi mắt nhìn thấy sắc, tai nghe âm thanh,
lưỡi nếm vị, thân xúc chạm đều có thể giúp chúng ta nhận thức được thực tánh
của vạn pháp.
Ngày
nọ, tỳ kheo ni Patàcàrà trong khi rửa chân thấy nước từ bàn chân chảy xuống lan
ra thành dòng, dài ngắn khác nhau rồi trước sau tan biến mất, cứ như thế vị ấy
chú tâm nhận rõ sự biến đổi sinh diệt không ngừng của hiện tượng và bỗng trực
nhận được thực tánh vô thường sinh diệt.
Trong
kinh điển cũng có ghi chép nhiều trường hợp khác tương tự. Một hành giả có thể
nghe tiếng chim hót, thấy một chiếc lá rơi, một ngọn đèn phụt tắt,hay nhìn
những bong bóng nước vỡ trên mặt hồ mà liễu ngộ được chân lý.
Tất
cả những hiện tượng nội tâm hay ngoại giới, như dòng nước trôi chảy, một trạng
thái tâm sinh lên rồi hủy diệt đều là những bài học quý giá cho những ai biết
chăm chú nhìn, biết lắng tai nghe để học ra bài học giác ngộ. Trí tuệ phát sinh
do nghe, thấy, học hỏi, quan sát như thế gọi là văn tuệ (sutā mayā paññā).
Nhưng
nếu chỉ nghe nhiều mà không tư duy để phân biệt chân giả và không
tự mình thể nghiệm thì vẫn chưa chứng đạt được chân lý, chẳng hạn như
Đại Đức nanda, thị giả của Đức Phật, là người nghe nhiều pháp thoại của Đức
Phật nhất, mà đến khi Phật Niết- bàn vẫn chưa đắc được đạo quả A-la-hán. Vấn
nạn đó rất đúng, tuy nhiên chúng ta cũng phải nhìn nhận rằng có đa văn quảng
kiến mới có thể mở rộng khả năng thấy biết. Thấy biết càng nhiều thì
càng ít cố chấp cục bộ. Càng ít cục bộ thì càng có điều kiện lợi mình, lợi
người. Sở dĩ Đại Đức nanda chưa đắc đạo quả A-la-hán khi Phật còn tại thế vì
chưa có điều kiện thích nghi để thực hành những gì mình nghe được. Nhưng chính
nhờ kiến văn uyên bác đó về sau Ngài đã chứng ngộ con đường giải thoát và hầu
hết các kinh tạng để lại ngày nay do chính Đại Đức nanda tụng thuật. Như thế
Ngài đã đem sở trường đa văn của mình để đền ơn Phật và phục vụ chúng sanh bằng
cách lưu truyền lại một kho tàng
chân lý vĩ đại là Tam Tạng Pháp Bảo của Đức Phật cho những thế hệ hậu
lai chúng ta.
Tuy
nhiên đó chỉ mới là bước đầu phát triển trí tuệ. Bước kế tiếp Đức Phật dạy
chính là tư duy chín chắn để thấu tình đạt lý.
2)
SUY XÉT THẤU ĐÁO (Sammāciñtā):
Nếu
một người đã từng tư duy chín chắn, đã từng thể nghiệm tu tập đúng
đắn thì có thể chứng ngộ ngay khi đang nghe pháp. Nhưng nếu như người
ấy chưa đắc đạo quả hoặc chưa thấy pháp (ngộ) ngay là vì văn tuệ
chưa được hoàn hảo, trong trường hợp đó người ấy cần phải tư duy hay quán xét
về những điều mình đã lắng nghe học hỏi.
Những
gì chúng ta nghe, thấy, học hỏi được chỉ là kiến thức vay mượn bên ngoài. Muốn
tiêu hóa chúng để trở thành tri kiến chân thực thì phải tinh luyện qua nhiều
giai đoạn tư duy, phán đoán, phân tích, tổng hợp, suy luận, so sánh v.v. để tìm
ra chân tướng của sự thật. Điều nầy đã được Đức Phật dạy rất rõ ràng trong kinh
Kālāmasutta, Aṅguttara Nikāya như sau:
“Chớ
tin điều gì do nghe lại, do truyền thống, do đồn đãi, do kinh điển truyền tụng,
do lý luận, do suy luận, do kết luận thiếu thận trọng, do hợp với định kiến, do
uy tín hay vì nghĩ rằng vị ấy là thầy ta.
Nầy
người xứ Kàlàma, cho đến khi nào các ngươi tự mình biết rõ rằng: pháp nầy là
bất thiện, là có tội, bị người trí chỉ trích, pháp nầy nếu hành trì sẽ đưa đến
bất hạnh khổ đau thì hãy từ bỏ những điều ấy.
Và
khi nào các ngươi tự mình biết rõ: pháp nầy là thiện, là không có tội, không bị
người trí chỉ trích, pháp nầy nếu hành trì sẽ đưa đến hạnh phúc an lạc thì hãy
chứng đạt và an trú”.
Đoạn
kinh trên ám chỉ giai đoạn thứ hai của trí tuệ là tư duy. Nhưng
có phải mọi tư duy đều đem lại trí tuệ hay không? Đức Phật dạy có hai loại tư
duy: chánh tư duy (sammāsaṅkappa) là
suy nghĩ sáng suốt, chín chắn, thấu đáo, dựa trên những thực kiện để tìm
ẩn số của sự thật. Trái lại, tà tư duy (micchāsaṅkappa)
là suy nghĩ bằng tưởng tượng hay suy luận nông cạn, hời hợt, dựa trên những giả
thuyết, ước định để đưa đến những kết luận chủ quan thiếu thận trọng.
Vậy muốn phát triển trí tuệ trước hết ta phải tránh những tà tư duy như suy
nghĩ về dục lạc, suy nghĩ về thù oán, suy nghĩ về những phương kế ám hại người
khác, và thường xuyên chiêm nghiệm ba chân tướng vô thường, khổ não, vô ngã của
vạn pháp.
Đại
Đức Cūḷapanthaka là một người ít học, ngài
cố gắng học một kệ ngôn chỉ có bốn câu trong bốn tháng vẫn chưa thuộc. Vị sư
huynh của ngài thấy vậy khuyên ngài nên hoàn tục nhưng ngài quá quyến luyến đời
sống đạo hạnh nên không nỡ từ bỏ. Đức Phật thấy đạo tâm của người đệ tử nầy quá
dõng mãnh nên đem đến cho Cūḷapanthaka một
chiếc khăn tay màu trắng, dạy mỗi buổi sáng cầm khăn đưa ra trước mặt trời.
Ngài làm y như lời dạy của Đức Phật, chẳng bao lâu chiếc khăn bị bụi và mồ hôi
bám vào trở nên dơ bẩn và ố màu. Thấy sự kiện đó, ngài suy gẫm về tánh cách vô
thường của đời sống, trực nhận được chân lý và đắc quả A-la-hán. Đây rõ ràng là
trí tuệ phát sinh do tư duy đúng đắn trên thực kiện (biến đổi của cái khăn) mà
liễu ngộ được bản chất của thực tánh pháp nên được gọi là tư tuệ (ciñata mayā
paññā).
Tuy
nhiên, tư tuệ vẫn chưa hoàn hảo, cần phải tự thân chứng ngộ qua tu
tập định tuệ thì mới thể nghiệm chân lý một cách hoàn toàn.
3)
THỰC HÀNH ĐỊNH TUỆ (Bhāvanā):
Cuối
cùng trí tuệ rốt ráo chỉ phát sinh khi chúng ta thực hành thiền định và
thiền tuệ. Thuật ngữ bhvan trong Pāḷi có
nghĩa là dập tắt vô minh và ái dục bằng tu tập định
tuệ.
Thiền
định là giữ tâm thăng
bằng, ổn định giống như giữ yên một ly nước đục cho đến khi bao nhiêu cặn bã đã
lắng đọng thì nước sẽ trở nên trong suốt. Khi tâm được giữ yên sẽ trở nên trong
sạch, lặng lẽ đó là môi trường tốt để tu tập thiền tuệ.
Thiền
tuệ là chú tâm quan
sát thực tại thân tâm như nó đang là với tinh tấn, chánh niệm, tỉnh giác
để thấy được thực tánh của vạn pháp. Trí tuệ phát sinh do tu tập định tuệ gọi
là tu tuệ (bhāvanā mayā paññā).
Một
người thường được nghe tiếng một thứ trà ngon và đã từng đọc lý thuyết về cách
pha trà ấy như thế nào, nhưng nếu tự mình chưa pha lấy và uống qua một lần thì
cũng không thưởng thức được hương vị của món trà quý này. Đó là lý do vì sao
Phật giáo xem trọng phương diện thực hành đến thế.
Đức
Phật dạy:
“Dầu
thông suốt kinh luật mà không hành trì, cũng chỉ như gã mục đồng đếm bò cho kẻ
khác. Người ấy không hưởng được hương vị giải thoát”.
“Trái
lại dù thuộc ít kinh luật nhưng cố gắng hành trì, từ bỏ tham, sân, si, hiểu
biết chân chính, tâm tự tại, không vọng chấp. Người ấy ắt hưởng được hương vị
giải thoát”. (Dhammapda 19, 20)
Thuở
nọ có hai vị tỳ kheo cùng xuất gia trong giáo pháp của Đức Phật. Một vị học
nhiều hiểu rộng, thông suốt giáo pháp nhưng chưa đắc đạo. Còn vị kia tuy học ít
nhưng chuyên cần tu niệm, không bao lâu đắc đạo quả A-la-hán. Một hôm trong
buổi luận đạo trước mặt Đức Phật, vị phàm tăng nêu lên những vấn nạn khúc mắc
để khoe khoang tài bác học của mình. Đức Phật thấy vậy liền đặt ra nhiều câu
hỏi khác về sự thực chứng đạo giải thoát. Hỏi đến đâu vị A-la-hán trả lời đến
đó do đã tự thân chứng nghiệm, trái lại vị phàm tăng uyên bác không thể trả lời
được, vì tự mình chưa giác ngộ. Câu chuyện nầy chứng tỏ rằng tu tuệ quan trọng
và siêu việt hơn tư tuệ và văn tuệ rất nhiều.
Tóm lại, vì tầm quan trọng của trí tuệ trong vai trò giúp chúng ta giải
thoát ra khỏi vòng sanh tử luân hồi và thể nhập chân lý; nên chúng ta phải luôn
luôn cố gắng phát huy trí tuệ bằng cả ba phương diện văn, tư và tu như Đức Phật
đã dạy.
CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT
“Này
chư tỳ kheo, đại dương chỉ có một vị duy nhất là vị mặn, cũng vậy giáo pháp của
Như Lai chỉ có một vị duy nhất là vị giải thoát”,
Tiểu Bộ Kinh,
Udāna
So
với vô số chúng sanh sống trên thế gian thì nhân loại chỉ là một phần rất nhỏ,
cho nên được sanh làm người không phải dễ. Nhưng duy trì được kiếp sống một
cách toàn vẹn lại còn khó hơn vì phải chịu già, bệnh, chết, lo âu, phiền muộn,
khổ đau, thất vọng. . . Nhiều người mới sinh ra đã chết, bất hạnh hơn, lắm kẻ
phải chịu kéo lê một cuộc sống bi thảm vì tật nguyền hay nghèo đói. Tuy thế
trong những người còn lại không phải ai cũng xứng đáng làm một con người thật
sự. Họ sống dã man, độc ác, trụy lạc, ích kỷ và si mê không khác gì cầm thú.
Chính Đức Khổng Tử phải than rằng: “Vi nhân nan”. Vì thế đã được sinh ra
làm người chúng ta cần phải sống một đời sống thế nào cho có ý nghĩa, hợp đạo
đức, tự cải hoá cho đến khi hoàn thiện. Song trong thế gian có cả hàng trăm,
hàng ngàn triết lý, tôn giáo nói là để cải thiện con người mà kỳ thực chỉ được
một vài giáo lý khả dĩ đáng gọi là chánh đạo; còn đa số là mê tín dị đoan hoặc
dẫn dắt con người đi sâu vào dục vọng đen tối. Một chứng minh cụ thể là ngày
nay một vài thứ triết lý đang đưa thanh niên vào con đường trụy lạc, sa đọa,
trong khi nhiều tôn giáo đã làm cho một số khá đông trong thế hệ cũ nô lệ cúng
tế, khiếp sợ quỷ thần vì không phát huy được sức mạnh của một con người đích
thực. Cuối cùng là khó được gặp Phật hay các bậc hiền nhân ra đời, vì Đức Phật
là một vị thầy vĩ đại, một nhà đại cách mạng phá tan gông cùm nô lệ của thần
linh bên ngoài và của chính lòng tham lam, sân hận, si mê nội tại để nâng cao
con người lên hàng thánh thiện. Giáo lý của Ngài có một mục đích rõ rệt là giác
ngộ. Tất cả những cố gắng phi thường của Ngài từ khi khước bỏ đời sống đế vương
trở thành một đạo sĩ khổ hạnh cho đến lúc chiến thắng ma vương mà thành bậc
Toàn Giác chỉ nhằm một mục đích duy nhất, tức là khai thị cho chúng sanh con
đường giải thoát ra khỏi vô minh ái dục và đem lại cho họ một cuộc sống hạnh
phúc an lạc.
Vậy
chúng ta thử tìm hiểu nội dung giáo lý giải thoát của Đức Phật, để xác nhận đâu
là con đường đích thực dẫn chúng sanh ra khỏi sông mê bể khổ.
Khi
được hỏi “Con đường nào đến Niết-bàn”, Đức Phật trả lời: “Đó là giới,
định, tuệ”.
Giới
không phải là những điều răn do một vị giáo chủ đặt ra để buộc tín đồ tuân phục
mình. Trong Phật giáo, giới theo nghĩa tiêu cực là để dẹp bỏ những thói quen
bất thiện đã tập nhiễm từ trước và ngăn ngừa điều ác có thể gây nên về sau;
theo nghĩa tích cực là để phát triển những điều lành đã sẵn có và tạo thêm các
điều lành chưa có. Giới ví như sợi dây cương, nhờ đó người huấn luyện ngựa dạy
một con ngựa hoang trở thành thuần thục. Cũng vậy, giới là điều kiện tiên quyết
để giữ tâm không vọng động, cho nên trong kinh nói: “Giới năng sinh định”.
Khi
giới đã được hành trì đúng đắn thì tâm tương đối bớt xao động và nếu được giữ
trên một đối tượng thiền định thì tâm sẽ được an tịnh, thoát khỏi dục vọng, trở
nên trong sáng. An trú trong thiền định tâm sẽ được nhu thuần, minh mẫn, kiên
cố và dõng mãnh. Đó là những điều kiện tất yếu để phát triển trí tuệ đúng như
trong kinh đã dạy “Định năng sinh tuệ”. Khi tâm đã được an tịnh, sáng
suốt và tỉnh giác nhờ thiền định, minh sát tuệ (Vipassanà) sẽ phát huy
mà nhờ đó chúng ta có thể trực giác được chân tướng hay thực tánh của vạn hữu.
Đây là tri kiến cuối cùng đưa đến giải thoát hoàn toàn.
Con
người là một tập hợp gồm ngũ uẩn: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Cả năm yếu tố ấy
đều đặt trong tình trạng biến đổi, bất an và không có thực thể. Nhưng vì bị vô
minh che lấp, chúng ta không nhìn thấy hiện tượng giới đúng với thực tướng của
nó.
Đức
Phật dạy: “Dù có chư Phật xuất hiện trên thế gian hay không, chân lý hiển nhiên
này (vô thường, khổ não, vô ngã) vẫn chi phối vạn hữu. Đó là chân lý mà Như Lai
đã thực chứng, giác ngộ và công bố, giảng dạy, tuyên thuyết, minh chứng, khai
thị và phân tích khiến cho người khác lãnh hội được” (Aṅguttara
Nikāya).
Đức
Phật xuất hiện trên thế gian để khai thị cho chúng sanh con đường giải thoát ra
khỏi vòng luân hồi (saṃsāra). Ngài
chỉ dạy một giáo lý duy nhất là khổ và thoát khổ.
Trong
cuốn The Word of the Buddha, Đại Đức Nyanatiloka giải thích chữ khổ như sau:
“Danh
từ khổ không phải chỉ để mô tả một sự đau đớn thân xác hay cảm giác khó chịu
của tinh thần mà còn bao gồm tất cả những gì có thể tạo ra đau khổ hay gánh
chịu khổ đau. Chân lý về khổ dạy rằng: Vì nguyên lý vô thường mà tất cả mọi
hình thức khoái lạc dù là thiên đàng hay cực lạc cũng đều bị biến đổi và hủy
diệt, và tất cả mọi hình thức hiện hữu vì vậy chắc chắn phải mang mầm mống bất
mãn, khổ đau”.
Chính
vì đau khổ nên con người mới nỗ lực tìm kiếm khoái lạc mà không biết rằng mình
sẽ bị khoái lạc lừa đảo phản bội để rồi càng tìm kiếm khoái lạc con người càng
thất vọng; và cứ thế họ chìm đắm trong bể khổ trầm luân. Cho nên theo Đức Phật,
ước muốn khoái lạc (ái dục) là nguyên nhân của mọi khổ đau.
Trong
kinh Saṃyutta Nikāya dạy rằng:
“Không
thể lường được đâu là khởi thủy của vòng luân hồi, và từ đâu chúng sanh bắt đầu
kiếp sống. Có điều chắc chắn là họ đã bị trầm luân sinh tử vì vô minh và ái
dục”.
Một
hôm tại xứ Kitogama, Đức Phật đã dạy Đại Đức nanda và tăng chúng rằng: “Vì không
nhận thức được bốn chân lý mà các người và Như Lai đã phiêu bạt trong vòng luân
hồi từ vô lượng kiếp đến nay. Này chư tỳ kheo, bốn chân lý ấy là gì? Đó chính
là khổ, nguyên nhân của sự khổ, chấm dứt sự khổ và con đường đưa đến chấm dứt
sự khổ. Nhưng nay, các người và Như Lai đã thực chứng, giác ngộ được những chân
lý ấy, và vì thế chúng ta đã chấm dứt vòng luân hồi” (Mahā Parinibbāna).
Cũng
trong kinh trên, Đức Phật cả quyết rằng bất cứ ai hành trì theo chân lý mà Ngài
đã hành trì và chứng ngộ thì chắc chắn sẽ thoát khỏi vòng sanh tử khổ đau.
“Như
Lai đã tự lấy mình làm một nơi nương tựa cho chính mình. Nầy chư tỳ kheo, hãy
tinh tấn, chánh niệm và trong sạch. Hãy ngự trị tâm các ngươi bằng định tuệ. Kẻ
nào sống tinh tấn trong giáo pháp này sẽ thoát khỏi sinh tử và chấm dứt khổ
đau”.
Đó
là những lời dạy cuối cùng trước khi Đức Từ Phụ nhập diệt, đã nhắc lại cho
chúng ta mục đích tối hậu của đạo Phật là giải thoát.
Đức
Phật đã nêu gương sáng của một vị thầy kiên trì nhẫn nại và tinh tấn. Những lời
dạy của Ngài giống như ngọn hải đăng hướng dẫn chúng ta, những người đang bị
bão tố cuốn trôi giữa bể luân hồi, vào bờ giải thoát một cách an toàn.
Chúng
sinh hiện hữu trên thế gian với một căn bệnh khổ nan y. Nhưng Đức Phật, một vị
lương y hoàn hảo, sau khi chẩn mạch, tìm ra bệnh trạng và nguyên nhân căn bệnh
ấy, Ngài chỉ bày cặn kẽ những phương thuốc thần diệu mà Ngài đã dày công tìm
kiếm trong 20 a-tăng-kỳ một trăm ngàn đại kiếp và chữa trị cho chính
mình một cách linh nghiệm. Chỉ còn có một điều kiện là bệnh nhân phải cố gắng
theo đúng phương pháp trị liệu đó để sớm thoát khỏi căn bệnh ngặt nghèo. Ngài
ân cần dặn dò trước khi từ giã cõi đời: “Quả thật, nầy chư tỷ kheo, Như Lai nhắc
nhở các con: Handa dāni, bhikkhave, ānantayāmi vo: “Vaya dhammo
saṅkhārā, appamādena sampādetha.” (Các
pháp hữu vi là vô thường, hãy tinh tấn chớ có phóng dật.”)
Con
đường giải thoát mà Đức Phật đã thực chứng và chỉ dạy bao gồm trong Tứ Diệu Đế:
·
Khổ Đế:
Chúng sanh trên thế gian sống trong đau khổ
·
Tập Đế:
Đau khổ ấy gây nên bởi vô minh ái dục
·
Diệt Đế:
Vô minh ái dục có thể tận diệt bằng con đường trung đạo.
·
Đạo Đế:
Con đường ấy gồm: Tứ niệm xứ, tứ chánh cần, tứ thần túc, ngũ căn, ngũ lực, thất
giác chi và bát chánh đạo.
Tứ
niệm xứ giúp cho hành
giả phát triển chánh niệm và giác tỉnh, hai yếu tố cần thiết để thấy rõ
chân tướng hay thực tánh vô thường, khổ não, vô ngã của vạn hữu.
Tứ
chánh cần là bốn điều
tinh tấn nhờ đó hành giả có thể diệt trừ ác pháp và phát triển thiện pháp.
Tứ thần túc là bốn yếu tố phát huy năng lực tinh thần,
nhất là thần thông biến hóa, giúp hành giả tiến bước mau chóng hơn trên đường
tự giác và hóa độ chúng sanh.
Ngũ
căn là năm điều kiện
cơ bản để đạt đến tuệ giác, thấu triệt chân lý.
Nhờ
phát triển ngũ căn mà hành giả có được ngũ lực tức là sức mạnh của đức
tin, tinh tấn, chánh niệm, chánh định và trí tuệ.
Thất
giác chi là bảy yếu tố
giúp hành giả giác ngộ bồ đề thượng trí: Niệm, trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh
an, định và xả.
Tất
cả các pháp trên đều được đúc kết một lần nữa trong Bát Chánh Đạo, con
đường duy nhất giúp chúng sanh giải thoát ra khỏi vòng sanh tử luân hồi.
Kinh
Dhammapāda có dạy:
“Con
đường cao thượng nhất là Bát Chánh
Đạo, chân lý cao thượng nhất là Tứ Diệu Đế. . . đó là con đường duy nhất, không
còn con đường nào khác dẫn đến tri kiến thanh tịnh. Hãy đi theo con đường ấy,
để sớm thoát khỏi mọi điên đảo của Ma vương”.
Điên
đảo của Ma Vương ở đây là vòng trầm luân khổ hải hay phiền não ái dục mà chỉ có
Bát Chánh Đạo mới trừ diệt được. Ngoài đạo Phật Chúng ta khó có thể tìm thấy ở
đâu con đường trung đạo được trình bày một cách trong sáng như vậy. Đức
Phật xác định với du sĩ ngoại đạo Subhadda rằng:
“
Nầy Subhadda, trong pháp luật nào không có tám Thánh Đạo, thì ở đó không có
(bốn bậc Thánh) đệ nhất…, đệ nhị…, đệ tam…, đệ tứ Sa-môn. Nầy Subhadda, trong
pháp luật nào có tám Thánh Đạo thì ở đó có đệ nhất…, đệ nhị…, đệ tam…, đệ tứ
Sa-môn. Nầy Subhadda, chính trong pháp luật nầy có tám Thánh Đạo… nếu những vị
tỷ kheo sống chơn chánh thì đời nầy không vắng những vị A-la-hán. (Mahā
Parinibbāna sutta)
Đến
đây chúng ta phải thử đặt vấn đề ý nghĩa giải thoát theo Phật giáo như thế nào?
Giải thoát theo đạo Phật không phải là được cứu rỗi bởi một Đấng Toàn Năng mà
là đoạn lìa các trói buộc của phiền não (tham, sân, si) hay của ngũ uẩn.
Về
phương diện tánh thường
được gọi là tánh tịnh giải thoát tức là tính chất an tịnh tự tại của chư
Phật và hàng Thánh nhân. Pháp thân của chư Phật và hàng thánh nhân gồm
năm phần là giới, định, tuệ, giải thoát và giải thoát tri kiến. Một
trong những ân đức vô lượng của đấng Toàn Giác là tịnh đức tức là đức
tính thanh tịnh tuyệt đối, không dao động trước bất cứ một hoàn cảnh nào. Tịnh
đức ấy thường được mô tả dưới bảy phương diện:
1
Giới tịnh
(sīlavisuddhi).
2
Tâm tịnh
(cittavisuddhi).
3
Kiến tịnh (diṭṭhivisuddhi).
4
Đoạn nghi
tịnh (kaṅkhāvitaraṇa- visuddhi).
5
Đạo phi đạo
tri kiến tịnh (maggāmagga ñāṇadassanavisuddhi).
6
Hành đạo tri
kiến tịnh (paṭipadā ñāṇadassanavisuddhi)
7
Tri kiến
thanh tịnh (ñāṇadassana-visuddhi).
Về
phương diện tướng thường
được gọi là chướng tận giải thoát tức là diệt tận các phiền não chướng,
nhất là vô minh và ái dục. Có mười phiền não trói buộc (thằng
thúc) chúng sanh là:
1
Tham
(lobha).
2
Sân (dosa).
3
Si (moha).
4
Mạn (māṇa).
5
Tà kiến (diṭṭhi).
6
Nghi
(vicikicchā).
7
Thụy miên
(thīna).
8
Trạo cử
(uddhacca).
9
Vô tàm
(ahirika).
10
Vô quý (anottappa).
Hoặc
mười kiết sử là thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ, luyến ái trong
dục giới, sân hận, luyến ái trong sắc giới, luyến ái trong vô sắc giới, mạn,
trạo cử, vô minh.
Bao
lâu những phiền não chướng trên còn chi phối đời sống thì chúng ta chưa
thể giải thoát ra khỏi vòng trầm luân sinh tử. Đứng về phương diện tâm và trí,
giải thoát gồm có tâm thiện giải thoát tức là tâm giải thoát ra khỏi các bất
thiện tâm sở, và tuệ thiện giải thoát tức là trí tuệ suốt thông chân lý không
bị chướng ngại bất cứ một thành kiến nào.
Đối
với chúng ta con đường dẫn đến giải thoát quá khó khăn và đòi hỏi nhiều cố
gắng. Nhưng nếu chúng ta thường kiên trì, tinh tấn và luôn chánh niệm tỉnh giác
thì ngay trong từng giây phút hiện tại chúng ta cũng có thể tự tại an lạc giữa
các não phiền.
Tiếp theo