NHỮNG TÍCH BỐ THÍ
Những tích bố thí dưới đây, được trích dịch tóm tắt từ các bộ Apādāna, bộ
Vimānavatthu, bộ Chú giải Dhammapadaṭṭhakathā, bộ Chú giải Aṅguttaranikāya,
v.v...
Tích Bố Thí Những Vật Dụng
Vào thời kỳ Ðức Phật Padumuttara xuất hiện trên thế gian, tiền thân Ngài Ðại Ðức
Pilindavaccha [Bộ chú giải Aṅguttaranikāya, phần Etadaggavagga] là một cận sự
nam có đức tin trong sạch nơi Ðức Phật Padumuttara.
Một hôm, người cận sự nam này đến nghe thuyết pháp, nhìn thấy Ðức Phật tuyên
dương một Tỳ khưu xuất sắc đệ nhất trong hàng Thanh Văn đệ tử về đức hạnh, làm
cho chư thiên yêu mến. Người cận sự nam này có nguyện vọng mong muốn được địa
vị như vị Tỳ khưu ấy, nên làm phước bố thí cúng dường Ðức Phật cùng chư Ðại Ðức
Tăng những vật dụng như y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc trị bệnh; và được Ðức
Phật Padumuttara thọ ký rằng: "Trong tương lai, còn 100 ngàn đại kiếp nữa, đến
thời kỳ Ðức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, người cận sự nam này sẽ xuất
gia trở thành Tỳ khưu, rồi sẽ được địa vị xuất sắc đệ nhất đức hạnh, làm cho
chư thiên yêu mến, như vị Tỳ khưu đệ tử của Như Lai".
Người cận sự nam ấy, sau khi chết, do phước thiện bố thí những vật dụng cho quả,
khi thì tái sanh làm chư thiên cõi trời dục giới hưởng đầy đủ mọi sự an lạc
trên cõi trời ấy; khi thì tái sanh làm người trong gia đình giàu sang phú quý,
đầy đủ những món vật dụng quý báu trong cõi người, kiếp nào cũng như vậy, suốt
100 ngàn đại kiếp trái đất không hề sa đọa trong 4 cõi ác giới (địa ngục,
atula, ngạ quỷ, súc sanh); chỉ tái sanh những cõi thiện giới: cõi người, cõi
trời mà thôi.
Ðến kiếp chót, được tái sanh làm người trong gia đình Bà la môn dòng dõi cao
quý, đặt tên Pilindavaccha. Vào thời kỳ Ðức Phật Gotama xuất hiện trên thế
gian, Ngài đến nghe pháp rồi phát sanh đức tin trong sạch nơi Ðức Phật, xin
xuất gia trở thành Tỳ khưu, tiến hành thiền định và thiền tuệ, chứng đắc từ
Nhập Lưu Thánh Ðạo – Nhập Lưu Thánh Quả cho đến A-ra-hán Thánh Ðạo – A-ra-hán
Thánh Quả cùng với Tứ tuệ phân tích và Lục thông.
Ðức Phật tuyên dương Ngài Ðại Ðức Pilinda-vaccha rằng:
"Etadaggaṃ bhikkhave, mama sāvakānaṃ bhikkhūnaṃ devatānaṃ piyamanāpānaṃ yadidaṃ
Pilindavaccho".
"Này chư Tỳ khưu, trong hàng Tỳ khưu Thanh Văn đệ tử của Như Lai, Pilindavaccha
là Tỳ khưu cao quý nhất về đức hạnh, làm cho chư thiên yêu mến".
Như vậy, sự việc đã thành tựu đúng theo nguyện vọng của Ngài và đúng theo lời
thọ ký của Ðức Phật Padumuttara trong quá khứ.
Tích Bố Thí Thuốc
Tiền thân của Ngài Ðại Ðức Bākula được tóm lược như sau__
Thời kỳ Ðức Phật Anomadassī xuất hiện trên thế gian, tiền thân Ngài Bākula là
một vị đạo sĩ chứng đắc 8 bậc thiền, có ngũ thông, đến hầu Ðức Phật nghe pháp,
xin thọ Tam quy nơi Ðức Phật.
[Bộ Chú giải Aṅguttaranikāya, phần Etadaggavagga; Thời kỳ Ðức Phật Anomadassī đến
Ðức Phật Padumuttara cách 1 a tăng kỳ]
Một thời nọ, Ðức Phật Anomadassī bị lâm bệnh phong hàn, vị đạo sĩ (tiền thân Ngài
Ðại Ðức Bākula) đi tìm thuốc đem về làm phước bố thí cúng dường đến Ðức
Phật. Nhờ uống thuốc ấy, Ðức Phật khỏi bệnh.
Vị đạo sĩ cầu nguyện rằng: do nhờ phước thiện bố thí thuốc, trị khỏi bệnh của Ðức
Phật, kiếp nào con cũng có sắc thân không bệnh hoạn ốm đau.
Vị đạo sĩ ấy sau khi chết, do năng lực bậc thiền sở đắc của mình được tái sanh
lên cõi trời phạm thiên, những kiếp kế tiếp suốt 1 a tăng kỳ tái sanh làm người
hoặc chư thiên, phạm thiên.
Ðến thời kỳ Ðức Phật Padumuttara [*], tiền thân Ngài Bākula sanh trong gia đình
quý tộc, thường đến nghe Ðức Phật thuyết pháp. Một hôm, Ngài nhìn thấy Ðức Phật
tuyên dương một vị Tỳ khưu xuất sắc nhất về đức hạnh ít bệnh hoạn ốm đau. Ngài
rất hoan hỉ có nguyện vọng muốn được địa vị xuất sắc nhất ấy, Ngài cố gắng tạo
mọi phước thiện bố thí cúng dường đến Ðức Phật cùng chư Ðại Ðức Tăng, nhất là
bố thí cúng dường thuốc trị bệnh. Ngài được Ðức Phật Padumuttara thọ ký, trong
vị lai, vào thời kỳ Ðức Phật Gotama, Ngài sẽ là bậc Thánh Thanh Văn đệ tử của
Ðức Phật Gotama xuất sắc nhất về đức hạnh ít bệnh hoạn ốm đau. Ngài vô cùng
hoan hỉ tạo mọi phước thiện đến trọn kiếp, do thiện nghiệp ấy cho quả chỉ tái
sanh làm người hoặc chư thiên nơi cõi trời mà thôi.
Ðến thời kỳ Ðức Phật Vipassī (Thời kỳ Ðức Phật Padumuttara cách trái đất của
chúng ta 100 ngàn đại kiếp trái đất. Thời kỳ Ðức Phật Vipassī cách trái đất của
chúng ta 91 đại kiếp trái đất) xuất hiện trên thế gian, tiền thân Ngài Ðại Ðức
Bākula sanh trong dòng dõi Bà la môn cao quý. Khi trưởng thành Ngài xuất gia
trở thành đạo sĩ chứng đắc các bậc thiền, thường đến hầu Ðức Phật nghe pháp,
thọ Tam quy nơi Ðức Phật. Vị đạo sĩ thường đến hộ độ Ðức Phật.
Một lần nọ, có một số Tỳ khưu bị bệnh, vị đạo sĩ đi tìm thuốc về làm phước bố
thí chữa trị cho những vị Tỳ khưu ấy đều khỏi bệnh. Ðến khi vị đạo sĩ hết tuổi
thọ, do năng lực sắc giới thiện nghiệp cho quả tái sanh lên cõi phạm thiên.
Suốt 91 đại kiếp chỉ tái sanh làm người hoặc chư thiên nơi cõi trời mà thôi.
Ðến thời kỳ Ðức Phật Kassapa xuất hiện trên thế gian, tiền kiếp Ngài Ðại Ðức
Bākula sanh trong gia đình giàu sang phú quý; Ngài đã xây cất chánh điện, trai
đường, nhà bếp, nhà vệ sinh, nhà thương dâng cúng đến chư Tăng, đặc biệt thích
làm phước bố thí thuốc trị bệnh đến chư Tỳ khưu Tăng. Khi hết tuổi thọ, do
phước thiện ấy cho quả được tái sanh cõi trời và cõi người, không hề sa đọa
trong 4 cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sanh).
Kiếp hiện tại, cũng là kiếp chót, Ngài sanh trong gia đình phú hộ xứ Kosambī.
Ngài sanh ra đời đến ngày thứ năm, theo tục lệ, những người vú nuôi bồng ẵm
Ngài xuống dòng sông Yāmunā để tắm cho khỏi bệnh. Một con cá lớn nhìn thấy đứa
trẻ tưởng là miếng mồi, bơi đến nuốt chửng Ngài vào bụng. Dầu Ngài nằm trong
bụng con cá vẫn cảm thấy an lạc. Do năng lực phước thiện của Ngài, làm cho con
cá cảm thấy nóng nảy bơi suốt 3 do tuần đến xứ Bārāṇasi thì bị mắc lưới của dân
chài xứ ấy. Dân chài bắt con cá đem bán cho gia đình phú hộ Bārāṇasī không có
con. Do năng lực phước thiện của Ngài, khiến cho bà phu nhân phú hộ tự tay mình
mổ bụng con cá phát hiện một đứa trẻ nằm trong bụng con cá, bà vô cùng vui
mừng, hạnh phúc được một đứa trẻ, bà reo lên "tôi được một đứa con trong bụng
cá". Tiếng lành phi thường lan rộng, ông bà phú hộ Kosambī đến
nhìn nhận là đứa con trai của chính mình cưu mang đủ 10 tháng sinh ra, đứa bé
bị con cá nuốt vào bụng. Như vậy, đứa bé này đúng là con của họ, không phải con
của gia đình ông bà phú hộ xứ Bārāṇasī. Hai gia đình phú hộ tranh chấp, không
bên nào nhường bên nào. Họ đem sự việc trình Ðức vua phán xử. Ðức vua phán
rằng: đứa bé này là con chung của hai gia đình phú hộ: phú hộ xứ
Kosambī và phú hộ Bārāṇasī. Do đó, đặt tên Ngài là Bākulakumāra có nghĩa là đứa
bé của hai gia đình. Ngài được hai gia đình nuôi dưỡng, mỗi gia đình 4
tháng. Ngài ở gia đình bên này suốt 4 tháng rồi đến gia đình bên kia 4 tháng,
và cứ thế thay phiên như vậy.
Cuộc đời Ngài hưởng sự an lạc của hai gia đình phú hộ suốt 80 năm.
Trong thời kỳ Ðức Phật Gotama, một thuở nọ, Ðức Phật ngự đến xứ Kosambī, Ngài
Bākula đến hầu Ðức Phật lắng nghe chánh pháp, nhàm chán đời sống tại gia, xin
Ðức Phật cho phép xuất gia trở thành Tỳ khưu. Sau khi đã trở thành Tỳ khưu được
7 ngày, qua đến sáng ngày thứ 8 Ngài tiến hành thiền tuệ, chứng đắc từ Nhập Lưu
Thánh Ðạo – Nhập Lưu Thánh Quả cho đến A-ra-hán Thánh Ðạo – A-ra-hán Thánh Quả
cùng với Tứ tuệ phân tích, hoàn thành xong phận sự của bậc xuất gia.
Ðức Phật tán dương Ngài Ðại Ðức Bākula rằng:
"Etadaggaṃ bhikkhave, mama sāvakānaṃ bhikkhūnaṃ appābādhānaṃ yadidaṃ Bākulo".
"Này chư Tỳ khưu, trong hàng Thanh Văn đệ tử của Như Lai, Bākula xuất sắc nhất về
đức hạnh ít bệnh hoạn ốm đau".
Những quả báu đều bắt nguồn từ phước thiện bố thí thuốc trị bệnh đến Ðức Phật
Anomadassī.
Ngài Ðại Ðức Bākula ít bệnh hoạn ốm đau nhất, xuất gia trở thành Tỳ khưu được 80
hạ. Ngài tịch diệt Niết Bàn lúc tròn 160 tuổi, là người có tuổi thọ, sống lâu
nhất trong giáo pháp của Ðức Phật Gotama.
Tích Bố Thí Ðèn
Tiền thân của Ngài Ðại Ðức Pañcadīpaka là một cận sự nam trong thời kỳ Ðức Phật
Padumuttara xuất hiện trên thế gian [Bộ Apādāna, tích Pañcadīpaka apādāna].
Người cận sự nam nhìn thấy những người Phật tử có đức tin nơi Ðức Phật, thường
đến lễ bái cúng dường tại đại cội Bồ Ðề của Ðức Phật Padumuttara. Một hôm, Ngài
phát sanh đức tin trong sạch bố thí những ngọn đèn thắp sáng chung quanh cúng
dường đại cội Bồ Ðề.
Do năng lực bố thí đèn cúng dường đại cội Bồ Ðề ấy, Ngài được tái sanh làm vua
cõi Tam thập tam thiên hưởng sự an lạc trong cõi trời ấy; khi tái sanh làm
người là Ðức Chuyển luân thánh vương, hoặc làm Vua một nước lớn hưởng sự an lạc
trong cõi người, suốt 100 ngàn đại kiếp trái đất, chỉ tái sanh những cõi thiện
giới: cõi người và cõi trời, không hề bị sa đọa trong 4 cõi ác giới.
Ðến thời kỳ Ðức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, Ngài sanh trong gia đình
quý tộc. Khi trưởng thành, một hôm đến nghe Ðức Phật thuyết pháp phát sanh tâm
nhàm chán đời sống tại gia, xin Ðức Phật cho phép xuất gia trở thành Tỳ khưu.
Sau khi trở thành Tỳ khưu, Ngài tiến hành thiền định, tiến hành thiền tuệ chứng
đắc từ Nhập Lưu Thánh Ðạo – Nhập Lưu Thánh Quả cho đến A-ra-hán Thánh Ðạo –
A-ra-hán Thánh Quả với Tứ tuệ phân tích, Lục thông, hoàn thành xong phận sự của
Sa môn.
Như vậy, tất cả quả báu đều bắt nguồn từ bố thí đèn thắp sáng
chung quanh cúng dường đại cội Bồ Ðề của Ðức Phật Padumuttara.
Tích Bố Thí Vật Thực
Trong bộ Vimāvatthu, tích Bhikkhādāyakavi-māna được tóm lược như sau:
Người cận sự nam ở trong nhà, rửa tay sửa soạn dùng vật thực, đang xới cơm ra
đĩa để ăn, nhìn thấy một vị Tỳ khưu đi khất thực đang đứng trước cửa nhà. Người
cận sự nam đem đĩa cơm, có một món đồ ăn ra để vào bát vị Tỳ khưu. Vị Tỳ khưu
cầu nguyện an lành xong rồi đi. Người cận sự nam vô cùng hoan hỉ nghĩ rằng: "Hôm
nay, ta nhịn ăn, dành vật thực làm phước bố thí cúng dường đến vị Tỳ khưu ấy".
Về sau người thí chủ ấy chết, do năng lực phước thiện bố thí vật thực ấy cho
quả, được tái sanh làm vị thiên nam ở cõi Tam thập tam thiên có lâu đài bằng
vàng cao 12 do tuần, xung quanh lâu đài có 700 phòng lớn, những cây cột bằng
ngọc quý, những đồ trang trí toàn bằng những vật quý giá.
Vị thiên nam có nhiều oai lực, có hào quang sáng ngời mọi phương hướng, có nhiều
thiên nữ hầu hạ ngày đêm....
Tất cả mọi quả báu phát sanh do phước thiện bố thí vật thực đến vị Tỳ khưu.
Tích Bố Thí Dép
Ngài Ðại Ðức Mahāmoggallāna bay lên cõi Tam thập tam thiên, nhìn thấy một lâu
đài nguy nga tráng lệ, có nhiều thiên nữ hầu hạ, bèn hỏi rằng:
- Này thiên nữ, tiền kiếp cô đã tạo phước thiện gì, kiếp này cô hưởng sự an lạc
như vậy?
Thiên nữ Upāhanadāyikā trả lời Ngài Ðại Ðức Mahāmoggallāna:
- Kính bạch Ngài Ðại Ðức Mahāmoggallāna, con là thiên nữ Upāhanadāyikā. Kiếp
trước, khi ở cõi người vào thời Ðức Phật Kassapa xuất hiện trên thế gian, con
nhìn thấy vị Tỳ khưu đang đi bát, con có dâng một đôi dép đến vị Tỳ khưu. Do
năng lực phước thiện bố thí dép ấy, cho quả được tái sanh lên cõi Tam thập tam
thiên, trong lâu đài xinh đẹp, có thiên nữ hầu hạ, hưởng sự an lạc như thế này.
Tích Bố Thí Hoa
Thời kỳ Ðức Phật Sikhi xuất hiện trên thế gian, một người bán hoa lài, đem hoa
từ rừng ra, giữa đường gặp Ðức Phật Sikhi ngự đi khất thực, người ấy phát sanh
đức tin trong sạch, để giỏ hoa xuống đảnh lễ Ðức Phật rồi cúng dường Ðức Phật
một nắm hoa lài. [Thời kỳ Ðức Phật Sikhi cách trái đất chúng ta 31 đại kiếp
trái đất.]
Ðức Phật muốn làm cho người bán hoa phát sanh đức tin, nên hóa phép thần thông
ghép những đóa hoa thành lọng che trên đầu Ngài, cho đến khi ngự trở về chùa
mới biến mất. Người bán hoa nhìn thấy vô cùng ngạc nhiên, vô cùng hoan hỉ. Ðến
khi hết tuổi thọ, do phước thiện bố thí cho quả được tái sanh lên cõi Tam thập
tam thiên. Do năng lực phước thiện bố thí hoa ấy, chỉ cho quả tái sanh cõi
trời, cõi người suốt 31 đại kiếp trái đất, không hề bị sa đọa trong 4 cõi ác
giới.
Thời kỳ Ðức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, hậu thân của người bán hoa,
cũng do năng lực phước thiện bố thí hoa ấy cho quả tái sanh làm người, gặp Ðức
Phật Gotama xin phép xuất gia trở thành Tỳ khưu, hành thiền tuệ chứng đắc đến
A-ra-hán Thánh Quả.
Tích Bố Thí 4 Quả Xoài
Trong bộ Vimānavatthu, tích Phaladāyaka-vimāna được tóm lược như sau:
Một người làm vườn xoài của Ðức vua Bimbisāra, một hôm, Ðức vua truyền gọi người
làm vườn xoài đến và phán rằng:
- Này ngươi, Trẫm muốn thưởng thức xoài; ngươi có thể làm cách nào để có xoài,
đem đến dâng Trẫm được hay không?
- Tâu bệ hạ! Lúc này không phải mùa xoài, xin bệ hạ ráng đợi một thời gian ngắn,
hạ thần sẽ cố gắng làm cho cây xoài ra quả sớm.
Ðức vua ưng thuận, người làm vườn xoài chọn một cây xoài rồi chăm sóc đặc biệt,
làm cho cây xoài ra bông, kết trái chín được 4 quả. Người ấy đem đến dâng Ðức
vua, trên đường đi, nhìn thấy Ngài Ðại Ðức Mahāmoggallāna đang đi khất thực,
liền nghĩ rằng: "Những quả xoài này trái mùa rất ngon, ta nên làm phước bố thí
để bát đến Ngài Ðại Ðức Mahāmoggallāna, dầu Ðức vua có giết ta hoặc đuổi ta ra
khỏi nước, ta cũng chấp nhận. Nếu ta đem 4 quả xoài này đến dâng cho Ðức vua,
thì ta chỉ được bỗng lộc trong kiếp hiện tại mà thôi; còn như ta làm phước
thiện bố thí dâng 4 quả xoài này đến Ngài Ðại Ðức, thì ta không những được quả
báu ở kiếp hiện tại mà còn vô lượng kiếp vị lai nữa".
Nghĩ vậy, người ấy đem 4 quả xoài đến cung kính làm phước để bát dâng đến Ngài
Ðại Ðức. Khi dâng xong, tâm cảm thấy vô cùng hoan hỉ, đi đến hầu Ðức vua tâu rõ
mọi việc rồi xin chịu tội.
Nghe tâu xong, Ðức vua truyền lệnh cho một vị quan điều tra xem chuyện này thực
hư như thế nào, rồi về trình Ðức vua.
Ngài Ðại Ðức Mahāmoggallāna đem 4 quả xoài kính dâng đến Ðức Phật, Ðức Phật độ 1
quả, còn 3 quả, Ngài ban phát cho Ngài Ðại Ðức Sāriputta, Ngài Mahāmoggallāna,
Ngài Mahākassapa mỗi Ngài 1 quả.
Vị quan trở về tâu Ðức vua biết sự việc ấy, nghe vậy, Ðức vua vô cùng hoan hỉ
nghĩ rằng: người làm vườn là bậc Thiện trí, dám hy sinh sanh mạng để mưu cầu
phước thiện thanh cao.
Ðức vua ban thưởng cho người làm vườn một làng để thu thuế, vàng, bạc, vải, đồ
đạc... và Ðức vua yêu cầu rằng: "Nhà ngươi có cơ hội tốt làm phước thiện bố thí
4 quả xoài đến Ngài Ðại Ðức, vậy nhà ngươi hãy chia phần phước thiện ấy đến cho
Trẫm với".
Người làm vườn xoài tâu rằng:
- Tâu bệ hạ! Kính xin bệ hạ hoan hỉ phần phước thiện ấy.
Về sau, người làm vườn xoài ấy chết, do năng lực phước thiện bố thí ấy cho quả
tái sanh làm thiên nam cõi Tam thập tam thiên trong lâu đài bằng vàng cao 16 do
tuần, có 700 phòng lớn, cột bằng ngọc quý, những đồ trang trí quý giàu; là một
thiên nam có nhiều oai lực, có hào quang sáng ngời khắp mọi phương, có rất
nhiều thiên nữ hầu hạ, hưởng mọi sự an lạc trong cõi trời.
Ðó là quả báu của phước thiện bố thí 4 quả xoài đến Ngài Ðại Ðức Mahāmoggallāna.
Tích Bố Thí Cơm Cháy
Trong bộ Vimānavatthu, tích Ācāmadāyikā-vimāna được tóm lược như sau:
Một bà già nghèo khổ ăn mày, sống nhờ đằng sau hiên nhà người khác, người ta
nhìn thấy bà đáng thương nên thường cho cơm, cháo và miếng cơm cháy... để bà
sống qua ngày.
Một hôm, Ngài Ðại Ðức Mahākassapa vừa xả diệt thọ tưởng định, quán xét nên đi
khất thực để tế độ người nào. Ngài nhìn thấy một bà già nghèo khổ, gần chết,
nếu bà chết có thể sa đọa địa ngục. Ngài nghĩ nên đi khất thực tế độ bà, để cứu
vớt bà tránh khỏi bị sa đọa địa ngục, do nhờ phước thiện bố thí miếng cơm cháy,
còn cho quả tái sanh lên cõi Hóa lạc thiên.
Xét thấy như vậy, vào buổi sáng, Ngài mặc y mang bát đi đến chỗ ở của bà. Trong
khi đó vua trời Sakka biến hóa thành người già đem vật thực đến để bát dâng cho
Ngài, Ngài biết người già đó là vua trời Sakka, nên bảo rằng:
- Này Ðức vua trời, ông không nên giành phước báu của người nghèo khổ.
Ngài không chịu dỡ bát, vẫn đứng yên trước bà già nghèo khổ kia. Bà nghĩ rằng: Ngài
Ðại Ðức là bậc có giới đức lớn, được phần đông tôn kính, phận ta nghèo khổ
không có gì quý giá để làm phước thiện bố thí đến Ngài, ta chỉ có nước cơm và
miếng cơm cháy không ngon lành gì cả. Vã lại, còn đựng trong một đồ dùng không
sạch sẽ, ta nào dám làm phước bố thí để bát đến Ngài được. Nên bà bạch
rằng:
- Kính xin Ngài đi nơi khác. Bạch Ngài.
Ngài vẫn đứng yên không đi nơi khác, những người khác đem vật thực đến để bát
dâng cúng, Ngài vẫn không dỡ nắp bát để nhận. Bà già nghĩ rằng: chắc chắn Ngài
Ðại Ðức đứng đây để tế độ ta. Bà phát sanh đức tin trong sạch muốn làm phước
thiện bố thí. Bà đem miếng cơm cháy đến, Ngài liền dỡ nắp bát, bà để vào trong
bát cúng dường Ngài một cách tôn kính.
Ngài Ðại Ðức tỏ vẻ muốn thọ thực, để cho bà thấy, càng phát sanh đức tin trong
sạch, hoan hỉ trong việc phước thiện bố thí của bà. Mọi người hiểu ý, trải chỗ
ngồi, Ngài ngồi thọ thực miếng cơm cháy ấy. Uống nước xong, Ngài thuyết pháp,
làm cho bà già hoan hỉ trong phước thiện bố thí của mình và cho bà biết được
rằng; bà đã từng là thân mẫu của Ngài trong tiền kiếp. Bà càng có đức tin trong
sạch nơi Ngài Ðại Ðức và vô cùng hoan hỉ phước thiện bố thí đã làm. Về sau, bà
chết, do năng lực phước thiện bố thí cho quả, được tái sanh làm thiên nam cõi
Hóa lạc thiên (cõi thứ năm trong 6 cõi trời dục giới) có nhiều oai lực,
hưởng mọi sự an lạc trong cõi trời ấy.
Tích Dâng Vật Thực Ðến Ðức Phật
Trong bộ Vimānavatthu, tích Bhikkhadāyikā-vimāna được tóm lược như sau:
Vào canh chót đêm, Ðức Phật nhập đại bi định, khi xả định quán xét chúng sinh
nên tế độ, Ngài nhìn thấy một người đàn bà sắp hết tuổi thọ, sau khi chết, do
ác nghiệp của bà đã tạo sẽ bị sa vào địa ngục. Ðức Phật muốn tế độ bà tránh
khỏi cảnh địa ngục, được tái sanh cõi trời.
Sáng hôm ấy, Ðức Phật một mình mặc y mang bát ngự đến kinh thành Uttaramadhura
để tế độ người đàn bà ấy. Người đàn bà nấu cơm xong, lấy hũ đi lấy nước, trên
đường về nhà gặp Ðức Phật, bạch rằng:
- Kính bạch Ðức Thế Tôn, Ngài đã thọ nhận vật thực được hay chưa? Bạch Ngài.
- Chắc sẽ được. – Ðức Phật đáp.
Người đàn bà biết Ðức Phật chưa được vật thực, nên kính thỉnh Ðức Phật đến nhà
bà để dâng cúng, Ðức Phật làm thinh nhận lời thỉnh mời của bà. Bà vô cùng hoan
hỉ đi về nhà trước, sửa soạn trải chỗ ngồi chờ tiếp đón Ðức Phật vào nhà, ngồi
chỗ cao quý, chính tự tay bà dâng cúng những vật thực. Ðức Phật thọ thực xong,
thuyết pháp để cho bà hoan hỉ phước thiện bố thí của mình.
Sau đó 2 – 3 ngày bà chết, do năng lực phước thiện bố thí vật thực cho quả, được
tái sanh làm thiên nữ trong lâu đài xinh đẹp, có ngàn thiên nữ hầu hạ, hưởng sự
an lạc trong cõi trời.
Tích Bố Thí Bánh
Trong bộ Vimānavatthu, tích Uḷāravimāna được tóm lược như sau:
Cô gái sanh trưởng trong gia đình thường hộ độ Ngài Ðại Ðức Mahāmoggallāna, cô
có đức tin nơi Tam bảo, hoan hỉ trong việc bố thí, khi lớn lên cô có chồng, làm
dâu trong gia đình ngoại đạo tà kiến.
Một hôm, Ngài Ðại Ðức Mahāmoggallāna đi khất thực trong thành Rājagaha, đang
đứng trước cửa nhà chồng, cô nhìn thấy liền thỉnh vào nhà, đảnh lễ Ngài xong,
khi ấy mẹ chồng không có ở nhà, cô tự xem là con dâu trong nhà, cô mới dám lấy
cái bánh mà mẹ chồng để trong tủ đồ ăn, đem làm phước thiện bố thí để bát đến
Ngài Ðại Ðức Mahāmoggallāna. Cô nghĩ rằng, khi mẹ chồng trở về, cô sẽ thưa lại,
chắc mẹ chồng hoan hỉ lắm.
Ngài Ðại Ðức thuyết pháp, làm cho cô hoan hỉ phước thiện bố thí rồi đi ra.
Khi mẹ chồng trở về, cô thưa lại với bà rằng:
- Thưa mẹ, con đã lấy cái bánh mẹ để trong tủ đem làm phước để bát đến Ngài Ðại
Ðức Mahāmoggallāna rồi, xin mẹ hoan hỉ phần phước thiện bố thí này.
Mẹ chồng nghe như vậy, không hoan hỉ, lại còn tức giận mắng chửi nàng dâu thậm
tệ rằng: Tại sao đem bánh cho Sa môn!
Vì tức giận quá, không còn biết tội lỗi nữa, bà mẹ chồng cầm cái chầy đâm tiêu
đánh nàng dâu trọng thương, 2 – 3 ngày sau cô chết. Cô dâu vốn là người có đức
tin nơi Tam bảo, có thiện tâm hoan hỉ trong sự bố thí, nhất là phước thiện bố
thí để bát cái bánh cúng dường đến Ngài Ðại Ðức Mahāmoggallāna hiện rõ trong
khi sắp chết. Cho nên, sau khi chết, do năng lực phước thiện ấy cho quả, được
tái sanh làm một thiên nữ có nhiều oai lực cõi Tam thập tam thiên, trong lâu
đài bằng vàng nguy nga tráng lệ, có nhiều thiên nữ hầu hạ đờn ca múa hát, hưởng
mọi sự an lạc trong cõi trời.
Tích Một Lần Ðể Bát
Trong bộ Therī-apādāna, tích Ekapiṇṇapāti-katherī được tóm lược như sau:
Tiền thân của Ðại Ðức Tỳ khưu ni Ekapiṇṇapā-tikatherī là Hoàng hậu của Ðức vua
Bandhumā vào thời Ðức Phật Vipassī xuất hiện trên thế gian, trong thời đại con
người có tuổi thọ khoảng 80.000 năm, cách kiếp trái đất này 91 đại kiếp trái
đất. Một hôm, có nguyện vọng muốn để bát, bà hoàng hậu đến tâu lên Ðức vua
rằng:
- Tâu hoàng thượng! Thần thiếp có nguyện vọng muốn để bát một vị Tỳ khưu, kính
xin hoàng thượng cho phép thỉnh một vị Tỳ khưu về cung để thần thiếp làm phước
bố thí cúng dường vật thực.
Ðức vua chuẩn tấu xong, truyền vị quan thỉnh một vị Tỳ khưu vào cung.
Hoàng hậu có đức tin trong sạch nơi Tam bảo, vô cùng hoan hỉ cung kính lễ bái vị
Tỳ khưu xong, tự tay mình để những vật thực vào bát cúng dường vị Tỳ khưu. Vị
Tỳ khưu nhận vật thực xong, phúc chúc hoàng hậu rồi đi ra.
Với tác ý thiện tâm hoan hỉ đầy đủ 3 giai đoạn: trước khi làm phước thiện bố
thí, đang khi làm phước thiện bố thí và sau khi đã làm xong phước thiện bố thí;
dầu chỉ một lần để bát cúng dường đến vị Tỳ khưu ấy, nhưng hoàng hậu vô cùng
hoan hỉ phước thiện bố thí, thường niệm tưởng đến phước thiện bố thí (cāgānussati).
Hoàng hậu đến khi hết tuổi thọ (chết), do năng lực phước thiện bố thí để bát
cúng dường một lần đến vị Tỳ khưu ấy, cho quả tái sanh làm thiên nữ cõi Tam
thập tam thiên; suốt 30 kiếp làm Hoàng hậu của Ðức vua trời Sakka cõi Tam thập
tam thiên; khi tái sanh cõi người, làm chánh cung Hoàng hậu của Ðức Chuyển luân
thánh vương 20 kiếp; suốt 91 đại kiếp trái đất không hề sa đọa 4 cõi ác giới (địa
ngục, atula, ngạ quỷ, súc sanh) chỉ tái sanh cõi thiện giới: cõi trời
và cõi người mà thôi.
Ðến thời kỳ Ðức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, do thiện nghiệp ấy cho quả
được tái sanh làm công chúa Mittā dòng Sakya, ở kinh thành Kapilavatthu. Khi
Ðức Phật ngự trở về thuyết pháp tế độ hoàng tộc Sakya, công chúa nghe pháp, thọ
Tam quy và thọ trì bát giới, đến khi bà Gotamī từ bỏ cung điện đi xuất gia trở
thành Tỳ khưu ni cùng với 500 cô gái dòng Sakya, trong đó có công chúa Mittā.
Sau khi trở thành Tỳ khưu ni, tinh tấn tiến hành thiền tuệ, chứng đắc từ Nhập
Lưu Thánh Ðạo – Nhập Lưu Thánh Quả cho đến A-ra-hán Thánh Ðạo – A-ra-hán Thánh
Quả trở thành bậc Thánh A-ra-hán, đến khi tịch diệt Niết Bàn chấm dứt khổ tử
sanh luân hồi trong tam giới.
Những quả phước thiện bắt nguồn từ phước thiện bố thí để bát cúng dường một lần
đến một vị Tỳ khưu, do đó, có tên là Ekapiṇṇapātikatherī: vị Ðại Ðức Tỳ khưu ni
một lần để bát.
Tích Bố Thí Nước
Trong bộ Apādāna tích Ngài Ðại Ðức Tỳ khưu ni Udakadāyikātherī tóm lược như sau:
Thời kỳ Ðức Phật Vipassī xuất hiện trên thế gian, tiền thân Ngài Ðại Ðức Tỳ khưu
ni Udaka-dāyikātherī, là người đàn bà nghèo, sống bằng nghề đội nước dùng đến
các nhà phú hộ, nhà các vị quan, nhà giàu có... khi nhìn thấy những người giàu
có làm phước thiện bố thí đến chư Tỳ khưu Tăng, bà suy xét rằng: "người ta có
nhiều của cải, họ muốn làm mọi phước thiện bố thí thật dễ dàng, còn ta nghèo
khổ thiếu thốn, không có vật gì đáng để làm phước thiện bố thí được cả; kiếp
này ta đã nghèo khổ, ta không bố thí, kiếp sau ta lại càng nghèo khổ hơn nữa;
tốt hơn, ta nên đội nước để làm phước thiện bố thí vậy".
Bà suy xét như vậy, từ đó về sau, hằng ngày bà làm phước thiện bố thí nước đến
chư Tỳ khưu Tăng để uống, để dùng. Trong chùa, chỗ nào có đồ đựng nước uống, bà
đổ đầy nước uống, chỗ nào đựng nước dùng, bà đổ đầy nước dùng, vì thế chư Tỳ
khưu Tăng được đầy đủ nước uống, nước dùng. Sau khi bà chết, do phước thiện bố
thí nước cho quả tái sanh cõi thiện giới: cõi trời và cõi người hưởng được mọi
sự an lạc
Ðến thời kỳ Ðức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, hậu thân người đàn bà ấy,
do phước thiện cho quả tái sanh làm người, đến hầu Ðức Phật nghe pháp, xin Ðức
Phật cho phép xuất gia trở thành Tỳ khưu ni. Sau khi trở thành Tỳ khưu ni không
lâu, bà tiến hành thiền tuệ, chứng đắc từ Nhập Lưu Thánh Ðạo – Nhập Lưu Thánh
Quả cho đến A-ra-hán Thánh Ðạo – A-ra-hán Thánh Quả trở thành bậc Thánh
A-ra-hán, khi hết tuổi thọ tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt khổ tử sanh luân hồi
trong tam giới.
Bố thí nước có 7 quả báu
1- Ðược nhiều kiếp làm vua trời.
2- Ðược nhiều kiếp làm Ðức chuyển luân thánh vương.
3- Tránh khỏi sa vào 4 cõi ác giới: địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sanh.
4- Ở nơi nào, nơi ấy có nước đầy đủ.
5- Ít bệnh hoạn ốm đau, có sắc thân xinh đẹp.
6- Dầu mùa nắng hoặc mùa lạnh, khi cầu mưa, thì có mưa ngay.
7- Diệt được phiền não ô nhiễm.
Ðó là 7 quả báu của phước thiện bố thí nước.
Nhân Và Quả Tương Xứng
Quả tuỳ thuộc vào nhân. Nhân thế nào, quả thế ấy; nghĩa là nhân tốt thì cho quả
tốt, nhân xấu thì cho quả xấu, lâu hay mau tuỳ theo năng lực của nghiệp ấy.
Như trong bài kinh Manāpadāyīsutta [1] tóm lược như sau:
Một thuở nọ, Ðức Thế Tôn ngự tại giảng đường Kutāgāra trong khu rừng lớn gần xứ
Vesāli. Vào buổi sáng, Ðức Thế Tôn mặc y, mang bát ngự đi khất thực, vào biệt
thự của ông cư sĩ Ugga, người dân thành Vesāli, ngồi trên toạ cụ cao quý. Khi
ấy ông cư sĩ Ugga đảnh lễ Ðức Thế Tôn rồi ngồi nơi hợp lẽ, bèn bạch với Ðức Thế
Tôn rằng:
- Kính bạch Ðức Thế Tôn, con đã từng nghe từ kim ngôn của Ngài rằng: "Người nào
bố thí vật hài lòng, thường được vật hài lòng".
Như vậy, món ăn tên Sālapupphaka [2] thơm ngon như hoa sāla làm rất công phu, là
món ăn mà con rất hài lòng ưa thích nhất; con đã kính dâng cúng đến Ðức Thế
Tôn, Ngài đã có lòng từ bi tế độ thọ nhận món ăn ấy của con rồi.
- Kính bạch Ðức Thế Tôn, con đã từng nghe từ kim ngôn của Ngài rằng: "Người nào
bố thí vật hài lòng, thường được vật hài lòng"
Như vậy, món thịt heo loại ngon [3] (sampanna-varasukaramaṃsa) nấu rất
công phu thật ngon lành, mà con rất hài lòng ưa thích nhất; con đã kính dâng
cúng đến Ðức Thế Tôn, Ngài đã có lòng từ bi tế độ thọ nhận món ăn ấy của con
rồi.
Kính bạch Ðức Thế Tôn, con đã từng nghe...: "Người nào bố thí vật hài lòng,
thường được vật hài lòng".
Như vậy, món ăn Nāḷiyāsāka [4] là món rau trộn với bột gạo sāli chiên bơ rất
thơm ngon, là món ăn mà con rất hài lòng ưa thích nhất, con đã kính dâng cúng
đến Ðức Thế Tôn, Ngài đã có lòng từ bi tế độ thọ nhận món ăn ấy của con rồi.
- Kính bạch Ðức Thế Tôn, con đã từng nghe...: "Người nào bố thí vật hài lòng,
thường được vật hài lòng".
Như vậy, cơm nấu bằng gạo Sāli thượng hạng, cùng với các món đồ ăn ngon lành, là
món ăn rất hài lòng nhất đối với con, con đã kính dâng cúng đến Ðức Thế Tôn,
Ngài đã có lòng từ bi tế độ thọ lãnh món vật thực ấy của con rồi.
- Kính bạch Ðức Thế Tôn, con đã từng nghe...: "Người nào bố thí vật hài lòng,
thường được vật hài lòng".
Như vậy, một chiếc giường làm bằng gỗ quý có 4 chân chạm trổ hình thú dữ với
nghệ thuật tuyệt vời, lót trải tấm vải làm bằng lông cừu màu trắng, phủ một lớp
vải có thêu những đoá hoa rất xinh đẹp, có gối đầu, gối hai bên... là chiếc
giường mà con rất hài lòng ưa thích nhất. Nhưng con biết rằng chiếc giường ấy
không thích hợp với Ðức Thế Tôn. Con có chiếc giường khác làm bằng gỗ trầm
hương [5], giá 100 ngàn kahāpana [6] cũng là một chiếc giường mà con rất hài
lòng ưa thích nhất, con đã dâng cúng đến Ðức Thế Tôn, Ngài đã có lòng từ bi tế
độ thọ nhận chiếc giường ấy của con rồi.
Sau khi ông cư sĩ Ugga bạch xong, Ðức Phật thuyết bài kệ rằng:
Người có đức tin tốt, bố thí vật hài lòng,
Thường được vật hài lòng. Người bố thí y phục,
Vật thực, nước, chỗ ở, thuốc men, vật dụng khác,
Với tâm rất hoan hỉ, đến bậc có giới đức.
Những vật bố thí rồi, là vật đã xả ly,
Không nghĩ lấy trở lại. Người ấy có trí tuệ,
Hiểu biết rõ ràng rằng, bậc Thánh A-ra-hán
Như phước điền cao thượng. Bố thí vật khó thí,
Gọi là vật hài lòng, thường được vật hài lòng.
Thuyết bài kệ tế độ làm cho ông cư sĩ Ugga xứ Vesāli vô cùng hoan hỉ xong, Ðức
Phật rời khỏi tư thất của ông trở về chùa.
Sau đó thời gian không lâu, ông cư sĩ Ugga xứ Vesāli qua đời, do phước thiện ấy
cho quả tái sanh lên cõi trời bậc cao trong nhóm chư thiên có tên Manomaya (thành
tựu do tâm).
Ðức Thế Tôn ngự tại chùa Jetavana gần thành Sāvatthi, khi ấy, vào canh giữa đêm,
vị thiên nam Ugga có hào quang sáng ngời hiện xuống ngôi chùa Jetavana, làm cho
toàn ngôi chùa sáng ngời, đến hầu đảnh lễ Ðức Thế Tôn xong, đứng một nơi hợp
lẽ.
Ðức Thế Tôn bèn hỏi rằng:
- Này Ugga, những điều mong ước của con đã thành tựu rồi hay chưa?
- Kính bạch Ðức Thế Tôn, những điều mong ước của con đã được thành tựu rồi, bạch
Ngài.
Khi ấy Ðức Thế Tôn thuyết bài kệ rằng:
Người thí vật hài lòng, với thiện tâm hoan hỉ,
Thường được vật hài lòng. Người thí vật quý báu,
Thường được vật quý báu. Người thí vật tốt lành,
Thường được vật tốt lành. Người thí vật quý nhất,
Thường được vật quý nhất. Người thí vật quý báu,
Tốt lành và quý nhất, tái sanh cảnh giới nào,
Thường được sự sống lâu, sự hiển vinh, quyền lực.
Chú thích
[1] Aṅguttaranikāya, Pañcakanipāta, kinh Manāpadāyīsutta.
[2] Sālapupphaka: một món ăn làm bằng bột gạo sàli trộn với các đồ gia vị ngon
lành, chiên bơ... là món ăn làm rất công phu, rất ngon có mùi thơm như hoa
sàla.
[3] Chiếc giường bằng gỗ trầm hương, Ðức Phật cho cưa từng mảnh nhỏ, ban cho tất
cả chư Tỳ khưu tán thành bột làm thuốc nhỏ mắt.
[4] Kahāpana: là thứ tiền vàng xứ Ấn thời xưa.
[5] Sampannavarasukaramaṃsa: món thịt heo ngon nấu với các đồ gia vị ngon lành,
để cất kỷ một năm sau mới dùng.
[6] Nāḷiyāsāka: món rau làm rất công phu, rất ngon lành.
Ưu Thế Ðặc Biệt Của Thí Chủ
Ở trong đời này, người có phước thiện bố thí luôn luôn có ưu thế hơn người không
bố thí.
Tìm hiểu bài kinh Sumanāsutta [Aṅguttaranikāya, Phần Pañcakanipāta, kinh
Sumanāsutta] tóm lược như sau:
Sumanā là công chúa của Ðức vua Paseṇadi xứ Kosala. Cô công chúa có một đoàn nữ
tuỳ tùng 500 người đến hầu đảnh lễ Ðức Thế Tôn xong bạch rằng:
Kính bạch Ðức Thế Tôn, hàng Thanh Văn đệ tử của Ðức Thế Tôn có 2 vị có đức tin,
có giới, có trí tuệ đồng đều nhau. Song, một vị này
có phước bố thí và một vị kia không có phước bố thí; cả hai vị ấy khi từ bỏ cõi
đời này, do thiện nghiệp cho quả tái sanh làm chư thiên cùng một cõi trời dục
giới giống nhau. Vậy, có gì đặc biệt khác nhau giữa hai chư thiên ấy hay không?
Bạch Ngài.
Ðức Phật dạy rằng:
- Này Sumanā, hai vị thiên nam ấy có sự khác biệt nhau là:
Vị thiên nam vốn có phước bố thí có ưu thế hơn hẳn vị thiên nam vốn không có
phước bố thí bởi 5 điều trong cõi trời là:
- Tuổi thọ sống lâu.
- Sắc đẹp tuyệt vời.
- An lạc tuyệt vời.
- Danh tiếng, tuỳ tùng đông.
- Quyền lực lớn trong cõi trời ấy.
Này Sumanā, vị thiên nam có phước bố thí đặc biệt hơn hẳn vị thiên nam không có
phước bố thí bởi 5 điều trong cõi trời ấy như vậy.
- Kính bạch Ðức Thế Tôn, nếu hai vị thiên nam ấy sau khi chết từ cõi trời, đều
tái sanh làm người. Cả hai người này cũng là loài người giống nhau. Vậy có gì
đặc biệt khác nhau giữa hai người ấy hay không? Bạch Ngài.
- Này Sumanā, hai người này có sự khác biệt nhau là: người có phước bố thí có ưu
thế hơn người không có phước bố thí bởi 5 pháp: sống lâu, sắc đẹp, an lạc, danh
tiếng, tuỳ tùng đông và quyền lực lớn trong cõi người.
Này Sumanā, người có phước bố thí ưu thế hơn người không có phước bố thí bởi 5
pháp như vậy.
- Kính bạch Ðức Thế Tôn, nếu cả hai người đều xuất gia trở thành Tỳ khưu giống
nhau. Vậy, có gì đặc biệt khác nhau giữa hai vị Tỳ khưu ấy hay không? Bạch
Ngài!
- Này Sumanā, hai vị Tỳ khưu này có sự khác biệt nhau, vị Tỳ khưu có phước bố
thí ưu thế hơn vị Tỳ khưu không có phước bố thí bởi 5 pháp là:
Tỳ khưu có phước bố thí,
- Nếu cần y, thì có được nhiều y; không cần y cũng có được ít y.
- Nếu cần vật thực, thì có được nhiều vật thực; không cần vật thực cũng có được
ít vật thực.
- Nếu cần chỗ ở, thì có được chỗ ở to lớn; không cần chỗ ở cũng có được chỗ ở
vừa.
- Nếu cần thuốc trị bệnh, thì có được nhiều thuốc trị bệnh; không cần thuốc trị
bệnh cũng có được ít thuốc trị bệnh.
- Khi sống chung với những bạn đồng phạm hạnh nào, những người bạn ấy thường có
thân, khẩu, ý đối xử tốt, đáng hài lòng nhiều hơn là đối xử xấu, không hài
lòng; thường đem lại điều hài lòng nhiều hơn là điều không hài lòng.
Này Sumanā, vị Tỳ khưu có phước bố thí ưu thế hơn vị Tỳ khưu không có phước bố
thí bằng năm pháp như vậy.
- Kính bạch Ðức Thế Tôn, nếu hai vị đều chứng đắc thành bậc Thánh A-ra-hán giống
nhau. Vậy, có gì đặc biệt khác nhau giữa hai vị thánh A-ra-hán hay không? Bạch
Ngài.
- Này Sumanā, Như Lai không nói đến có sự khác biệt giữa sự giải thoát (A-ra-hán
Thánh Ðạo) của người này, với sự giải thoát (A-ra-hán Thánh Ðạo) của người kia.
- Kính bạch Ðức Thế Tôn, thật là điều phi thường!
Kính bạch Ðức Thế Tôn, thật là điều chưa từng được nghe như vậy bao giờ!
Kính bạch Ðức Thế Tôn, như vậy, nên làm phước thiện bố thí, nên làm mọi phước
thiện, bởi vì phước thiện này làm duyên hỗ trợ sau khi tái sanh cõi trời, cõi
người, hay ngay sau khi xuất gia trở thành Tỳ khưu.
Ðúng như vậy Sumanā! Nên làm phước thiện bố thí, nên làm mọi phước thiện, bởi vì
phước thiện này làm duyên hỗ trợ sau khi tái sanh cõi trời, cõi người, hay ngay
sau khi xuất gia trở thành Tỳ khưu.
Bố Thí Có Quả Báu Vô Lượng
Bố thí để có được quả báu vô lượng, sự bố thí ấy phải hợp đủ 6 pháp. Thí chủ hợp
đủ 3 pháp và người thọ thí hợp đủ 3 pháp, gồm đủ 6 pháp, chắc chắn quả báu vô
lượng, đáng hài lòng hoan hỉ.
A- Ðối với người thí chủ hợp đủ 3 pháp là:
1- Trước khi bố thí, thí chủ có tác ý thiện tâm trong sạch và hoan hỉ.
2- Ðang khi bố thí, thí chủ có tác ý thiện tâm, có đức tin trong sạch, tin
nghiệp và quả của nghiệp, có trí tuệ hiểu biết rõ nghiệp là của riêng mình.
3- Sau khi bố thí xong, thí chủ có tác ý thiện tâm trong sạch, có thiện tâm hoan
hỉ phước thiện bố thí đã tạo xong; mỗi khi nghĩ đến phước bố thí ấy, thí chủ
phát sanh thiện tâm trong sạch và hoan hỉ, không để ác tâm nào phát sanh xen
lẫn làm cho tâm ô nhiễm.
B- Ðối với người thọ thí hợp đủ 3 pháp là: c
1- Người thọ thí là bậc Thánh không còn tham ái (hoặc hành giả tiến hành thiền
tuệ cốt để diệt tận tâm tham ái).
2- Người thọ thí là bậc Thánh không còn sân hận (hoặc hành giả đang tiến hành
thiền tuệ cốt để diệt tận tâm sân hận).
3- Người thọ thí là bậc Thánh không còn tâm si mê (hoặc hành giả đang tiến hành
thiền tuệ cốt để diệt tận tâm si mê).
Phước bố thí hợp đầy đủ 6 chi pháp như vậy, thì chắc chắn quả báu của phước bố
thí vô lượng, sự an lạc vô lượng, tái sanh cảnh giới nào cũng được sự sống lâu,
sắc đẹp, an lạc, sức mạnh, trí tuệ tuyệt vời trong cảnh giới ấy.
PHƯỚC BỐ THÍ CHO QUẢ KIẾP HIỆN TẠI
Tích người nghèo khó
Tích người nghèo khó Mahāduggata (Bộ Chú giải Dhammapadaṭṭhakathā, tích
Paṇṇitasāmaṇera-vatthu) tóm lược như sau:
Vào thời kỳ Ðức Phật Kassapa xuất hiện trên thế gian, Ðức Phật cùng với 20 ngàn
bậc Thánh A-ra-hán ngự đến thành Bārāṇasī. Một hôm, sau khi độ vật thực xong,
Ðức Phật thuyết pháp dạy rằng:
Này chư cận sự nam – nữ, trong đời này:
- Có số người tự mình làm phước bố thí, mà không động viên khuyến khích người
khác cùng làm phước bố thí, người ấy sanh nơi nào cũng có được nhiều của cải
đầy đủ, nhưng không có bạn bè, thuộc hạ thân thiết.
- Có số người động viên khuyến khích người khác làm phước bố thí, còn mình thì
không chịu đem của cải làm phước bố thí, người ấy sanh nơi nào cũng có nhiều
bạn bè, thuộc hạ thân thiết, nhưng không có nhiều của cải.
- Có số người tự mình không làm phước bố thí, cũng không động viên khuyến khích
người khác làm phước bố thí, người ấy sanh nơi nào cũng không có của cải, nghèo
khổ và cũng không có bạn bè, thuộc hạ thân thiết.
- Có số người tự mình làm phước bố thí, lại còn động viên khuyến khích người
khác cũng làm phước bố thí, người ấy sanh nơi nào cũng có được của cải đầy đủ,
giàu sang phú quý và còn có nhiều bạn bè, thuộc hạ thân thiết, sống an lạc hạnh
phúc....
Một người cận sự nam có trí tuệ ngồi nghe pháp, suy tư rằng: "ta muốn có được
nhiều của cải và được nhiều bạn bè, thuộc hạ thân thiết".
Người ấy đảnh lễ Ðức Phật bạch rằng:
- Kính bạch Ðức Thế Tôn, ngày mai con kính thỉnh Ðức Thế Tôn cùng tất cả 20.000
chư Ðại Ðức Tăng, để làm phước bố thí vật thực.
Ðức Phật làm thinh nhận lời, ông trở về đi thông báo cho toàn thể dân chúng
trong thành biết rằng ngày mai ông sẽ làm phước bố thí đến Ðức Phật cùng tất cả
20.000 chư Ðại Ðức Tăng, ai có khả năng làm phước bố thí đến bao nhiêu vị, xin
ghi danh. Có gia đình đăng ký 10 vị, 20 vị, 100 vị... v.v....
Khi gặp cậu Mahāduggata là người nghèo khó nhất trong thành, ông động viên
khuyến khích rằng:
Này cậu Mahāduggata, ngày mai, tôi có thỉnh Ðức Phật cùng 20.000 Ðại Ðức Tăng để
làm phước bố thí, cậu có khả năng làm phước bố thí được bao nhiêu vị?
Thưa ông, gia đình con nghèo khó, vợ chồng con đi làm thuê, làm được ngày nào ăn
ngày ấy còn không đủ nữa, thì lấy gì mà làm phước bố thí thưa ông?
- Này cậu Mahāduggata, trong thành này, những người giàu sang phú quý, có nhiều
của cải, có quyền cao chức trọng... là do nhờ quả của phước thiện bố thí. Còn
gia đình cậu, ngày qua ngày làm thuê mà không đủ ăn, đó là do không làm phước
bố thí, cậu có hiểu biết rõ như vậy không?
- Thưa ông, con hiểu rồi, xin ông cho gia đình con một vị Ðại Ðức Tăng, để cho
gia đình con làm phước bố thí ngày mai.
Ông cận sự nam hoan hỉ chấp thuận cho gia đình cậu Mahāduggata thỉnh một vị Ðại
Ðức Tăng, để làm phước bố thí vào ngày mai, nhưng ông quên ghi vào danh sách,
tiếp tục đi động viên khuyến khích người khác nhận đủ 20.000 vị Ðại Ðức Tăng.
Sau khi được ông cận sự nam cho lãnh một vị Ðại Ðức để làm phước bố thí vào ngày
mai, cậu Mahāduggata vô cùng hoan hỉ, trở về báo tin cho người vợ hay biết,
người vợ cũng vô cùng hoan hỉ, bàn tính nhau làm thuê kiếm gạo, đồ ăn về để
ngày mai làm phước bố thí đến một vị Ðại Ðức.
Mahāduggata đi tìm việc làm, ông phú hộ nhìn thấy cậu gọi lại thuê chẻ đống củi,
để ngày mai nấu đồ ăn dâng cúng đến chư Ðại Ðức Tăng, cậu vô cùng hoan hỉ, lấy
búa chẻ một lát là xong ngay, ông phú hộ ngạc nhiên hỏi:
- Này Mahāduggata, sao hôm nay cậu làm việc siêng năng và nhanh nhẹn đến thế?
- Thưa ông, ngày mai gia đình con có làm phước bố thí đến một vị Ðại Ðức, nên
con cảm thấy hoan hỉ, sung sướng làm việc không biết mệt.
Ông phú hộ ca tụng cậu, làm một việc khó làm. Ông trả công cho 4 ô gạo sāli
(loại gạo ngon).
Về phần vợ của cậu đi giúp việc nhà bếp cho bà phú hộ, cô rất hân hoan làm công
việc nhà bếp sạch sẽ gọn gàng, nhanh nhẹn, làm cho bà phú hộ hài lòng lại vừa
ngạc nhiên hỏi.
- Này con, sao hôm nay con có vẻ vui sướng, làm việc giỏi quá vậy?
- Thưa bà, ngày mai gia đình con có làm phước bố thí đến một vị Ðại Ðức, nên con
cảm thấy sung sướng làm việc để được những món gia vị làm đồ ăn ngày mai.
Nghe nói vậy, bà phú hộ ca tụng làm một việc khó làm! Bà trả công bằng bơ, dầu,
đồ dùng....
Vợ chồng Mahāduggata vô cùng hoan hỉ được gạo ngon, dầu bơ, đồ dùng để làm phước
bố thí vào hôm sau.
Sáng sớm hôm sau, người vợ thưa với chồng, sáng nay anh đi kiếm một ít rau về
nấu một bát canh, Mahāduggata đi ra khỏi nhà, vừa đi vừa ca hát, đi ngang bến
ghe chài; đêm hôm trước, người dân chài bắt được nhiều cá vừa cập bến, nghe
tiếng ca hát của Mahāduggata bèn gọi:
- Này Mahāduggata cậu đi đâu đó? Sao hôm nay vui sướng quá vậy? Hãy xuống đây
giúp tôi đem cá bán, rồi tôi sẽ cho ít con cá.
- Này bạn, hôm nay gia đình tôi có làm phước bố thí đến một vị Ðại Ðức, tôi vui
sướng đi tìm rau về nấu canh, may quá, có được cá lại càng tốt.
Mahāduggata hăng hái đem cá bán, hôm ấy dân chúng trong thành mua cá làm đồ ăn
để làm phước bố thí cúng dường đến chư Ðại Ðức Tăng, nên phần cá bán không còn
con nào cả. Cậu nóng lòng muốn về nhà cho kịp làm phước bố thí, bèn hỏi người
chủ thuyền:
- Này bạn, phần cá của tôi đâu?
- Bạn đừng lo, tôi còn một phần cá đặc biệt cất dưới ghe, để tôi lấy cho bạn.
Người chủ đem cho Mahāduggata 4 con cá hồi (Rohitamaccha). Cậu vội vàng
đem về nhà.
Canh chót đêm ấy, Ðức Thế Tôn nhập đại bi định, khi xả định quán xét chúng sinh
nào có duyên lành nên tế độ; Ðức Phật nhìn thấy Mahāduggata là người có đức tin
trong sạch, nhận lãnh một vị Ðại Ðức để làm phước bố thí, nhưng người cận sự
nam quên ghi vào danh sách, đến khi Mahāduggata gặp người cận sự nam xin nhận
lãnh vị Ðại Ðức thỉnh về nhà, thì không còn một vị Ðại Ðức nào cả. Vậy chính
Như Lai sẽ tế độ Mahāduggata mà thôi.
Vua trời Sakka cảm thấy chỗ ngồi phát nóng, quán xét thấy rõ hôm nay Mahāduggata
sẽ làm phước bố thí cúng dường Ðức Phật, nên hiện xuống giúp đỡ y để tạo phước
thiện. Vua trời Sakka biến hóa thành một người đầu bếp tài giỏi đến xin giúp
việc cho Mahāduggata không lấy tiền công, chỉ bỏ công làm phước thiện mà thôi.
Mahāduggata đồng ý chấp thuận, xin mời vào nhà lo giúp việc nấu ăn, vua trời
Sakka nấu cơm, các món ăn đều bỏ đồ gia vị cõi trời, hương trời, đức vua Sakka
bảo rằng:
- Này bạn, công việc nấu nướng để tôi lo, bạn đi thỉnh vị Ðại Ðức về nhà cho kịp
giờ.
Mahāduggata đi đến tìm người cận sự nam xin thỉnh một vị Ðại Ðức, mà ông đã động
viên khuyến khích. Khi đến gặp ông, hởi ôi! Ông đã quên, nên không còn một vị
Ðại Ðức nào cả, y thất vọng buồn tủi ôm mặt khóc; mọi người nhìn thấy y đáng
thương và trách người cận sự nam ấy, người cận sự nam ấy an ủi y và hướng dẫn y
rằng: còn Ðức Phật ở trong cốc chưa mở cửa. Ðức vua, các quan, phú hộ đang
trông chờ Ðức Phật mở cửa để thỉnh bát của Ngài. Chư Phật thường tế độ những
người nghèo khó, vậy nhà ngươi hãy vào xin Ðức Phật tế độ.
Nghe nói vậy, đôi mắt của Mahāduggata sáng lên, niềm hy vọng phát sanh, y dũng
cảm đến trước cửa cốc, đảnh lễ, đầu va chạm vào cửa, bạch rằng:
- Kính bạch Ðức Thế Tôn, trong thành này người nghèo khó hơn con không có, kính
xin Ngài có lòng đại bi tế độ con, bạch Ngài.
Ðức Phật mở cửa trao bình bát trên tay y. Y được bình bát của Ðức Phật mừng hơn
được ngai vàng của Ðức Chuyển luân thánh vương. Ðức vua, các quan, phú hộ xin
lại bình bát trên tay y hứa sẽ ban cho y nhiều tiền của, nhưng y không màng
đến.
Y kính thỉnh Ðức Phật về đến nhà, Ðức vua trời Sakka hóa thành người đầu bếp đã
làm xong vật thực ngon lành, trải chỗ ngồi cao quý, thỉnh Ðức Phật vào nhà.
Khi Ðức Phật bước vào, thì căn nhà cao hẳn lên, nên Ngài không phải cúi khom
người xuống, Ngài ngự trên chỗ ngồi đã trải sẵn. Còn Ðức vua trời là người đầu
bếp đã làm xong những món vật thực, liền bảo Mahāduggata đem những món vật thực
dâng cúng đến Ðức Phật. Mùi thơm của các món vật thực toả khắp cả kinh thành
Bārāṇasī. Trong khi đó, Ðức vua cùng các quan, phú hộ đi theo sau Ðức Phật đến
nhà của Mahāduggata để biết xem y làm phước bố thí cúng dường Ðức Phật bằng
những món vật thực gì, khi đến nơi ngửi được mùi thơm của những món vật thực,
mà trong đời chưa từng ngửi bao giờ. Ðức vua trời Sakka đảnh lễ Ðức Phật.
Ðộ vật thực xong, Ðức Phật thuyết pháp tế độ gia đình Mahāduggata, rồi Ngài ngự
trở về chùa, Mahāduggata ôm bát theo sau tiễn đưa Ðức Phật.
Ðức vua trời Sakka hoan hỉ phước thiện bố thí xong, cũng trở về cung Tam thập
tam thiên.
Khi Mahāduggata trở về đứng trước cửa, nhìn thấy từ hư không mưa rơi 7 thứ báu
vật xuống đầy nhà, người vợ dắt tay đứa con ra khỏi nhà, trong nhà đầy cả 7 thứ
báu vật không còn chỗ nào trống.
Y nghĩ rằng: "đó là quả báu của phước thiện bố thí của chúng ta ngày hôm nay".
Mahāduggata liền đến hầu Ðức vua tâu rằng:
- Tâu Ðức vua, nhà của tiện dân đầy cả thất báu, xin bệ hạ đem 1.000 chiếc xe
đến nhà tiện dân chở tất cả thất báu ấy về cung điện.
Ðức vua truyền quân lính trong triều đình đem 1.000 chiếc xe chở tất cả 7 thứ
báu vật đem về chất thành đống trước sân rồng. Ðức vua truyền hỏi:
- Trong thành này, người nào có của cải nhiều như thế này không?
Tất cả - Tâu Hoàng thượng, không một người nào có nhiều của báu như thế cả. đều
tâu.
Do đó, Ðức vua tấn phong Mahāduggata địa vị đại phú hộ, rồi truyền rằng: tất cả
của cải này là quả báu phước thiện bố thí của nhà ngươi, vậy nhà ngươi hãy nhận
lấy.
Ðức vua cấp đất đai, xây cất những căn nhà lớn, cấp nhiều gia nhân. Khi xây cất
nhà xong, phú hộ Mahāduggata thỉnh Ðức Phật cùng chư Ðại Ðức Tăng làm phước đại
bố thí suốt 7 ngày và từ đó về sau y thường bố thí, giữ giới, tạo mọi thiện
pháp cho đến hết tuổi thọ, do năng lực mọi phước thiện ấy cho quả tái sanh lên
cõi trời dục giới hưởng mọi sự an lạc.
Ðến thời kỳ Ðức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, hậu thân của Mahāduggata,
do năng lực phước thiện ấy cho quả tái sanh vào lòng con gái của gia đình phú
hộ, là người hộ độ Ngài Ðại Ðức Sāriputta, khi sanh ra đời đặt tên là
"Paṇṇita".
Lớn lên 7 tuổi, cậu bé Paṇṇita xin mẹ cha cho phép xuất gia trở thành Sa di
Paṇṇita với Ngài Ðại Ðức Sāriputta là thầy tế độ.
Cha mẹ của Ngài đến chùa làm phước thiện bố thí vật thực đặc biệt có món cá hồi (Rohitamaccha)
đến Ðức Phật cùng chư Ðại Ðức Tăng, suốt 7 ngày. Qua đến ngày thứ 8, Sa di
Paṇṇita tiến hành thiền tuệ chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc từ Nhập
Lưu Thánh Ðạo – Nhập Lưu Thánh Quả cho đến A-ra-hán Thánh Ðạo – A-ra-hán Thánh
Quả cùng với Tứ tuệ phân tích, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, hoàn thành xong
phận sự của Sa môn.
Ngài Ðại Ðức Sāriputta đi khất thực độ xong, còn đem một phần vật thực, trong đó
có món cá hồi về cho Sa di Paṇṇita, theo nguyện vọng của Sa di, người đệ tử có
sắc thân bé nhỏ, song tâm là bậc Thánh A-ra-hán cao thượng.
Làm phước bố thí đến Ðức Phật với đức tin trong sạch, hoan hỉ trong phước thiện,
quả báu của phước thiện bố thí ấy không chỉ ngay trong kiếp hiện tại giàu sang
phú quý, những kiếp vị lai đầy đủ của cải thế gian, mà còn kiếp chót cũng có
đầy đủ 9 pháp siêu tam giới đó là: 4 Thánh Ðạo – 4 Thánh Quả và Niết Bàn nữa.
Tích Gia Ðình Ông Puṇṇa
Trong thời kỳ Ðức Phật Gotama của chúng ta, có gia đình ông Puṇṇa [Chú giải
Dhammapada, trong tích Uttarāupāsikā] nghèo khó, làm ruộng thuê của ông phú hộ
Sumana, toàn thể mọi người trong gia đình đều có đức tin trong sạch nơi Tam
bảo.
Một hôm, buổi sáng ông đi cày ruộng; cũng vào buổi sáng ấy, Ngài Ðại Ðức
Sāriputta xả diệt thọ tưởng định (suốt 7 ngày đêm qua), đi khất thực để
tế độ gia đình ông Puṇṇa, nên Ngài đi thẳng về hướng ông Puṇṇa đang cày ruộng.
Ông Puṇṇa nhìn thấy Ngài Ðại Ðức Sāriputta liền bỏ cày đến hầu đảnh lễ Ngài,
dâng cúng cây tăm xỉa răng và nước dùng, nước uống. Ngài Ðại Ðức Sāriputta thọ
nhận xong, đi theo đường hướng về nhà ông Puṇṇa, gặp vợ ông Puṇṇa đang đem cơm
cho chồng. Bà đảnh lễ Ngài Ðại Ðức Sāriputta xong, bạch rằng:
- Kính bạch Ngài Ðại Ðức, kính xin Ngài từ bi thọ nhận phần vật thực, phận nghèo
khó của gia đình chúng con.
Ngài Ðại Ðức Sāriputta từ bi tế độ thọ nhận tất cả phần vật thực, bà vô cùng
hoan hỉ phát nguyện:
- Do nhờ phước thiện bố thí này của chúng con, cầu mong cho gia đình chúng con
được một phần pháp mà Ngài đã chứng đắc.
Ngài Ðại Ðức Sāriputta phúc chúc rằng:
- Mong cho gia đình các con được toại nguyện.
Bà vô cùng hoan hỉ đi trở về nhà nấu lại phần cơm khác đem cho chồng, vội vàng
mang cơm ra đồng ruộng với tâm hoan hỉ phước thiện bố thí đến Ngài Ðại Ðức
Sāriputta làm cho thân tâm của bà nhẹ nhàng, nhu nhuyến không sao dấu được.
Còn phần ông Puṇṇa trễ giờ đói bụng, thả bò đi ăn cỏ, ông lên bờ ngồi dưới bóng
mát cây chờ đợi vợ, dầu đói bụng nhưng tâm vẫn hoan hỉ, niệm tưởng lại việc làm
phước thiện bố thí tăm xỉa răng và nước đến Ngài Ðại Ðức Sāriputta. Ông nhìn
thấy từ xa, vợ mình đi đến trễ hơn mọi ngày, nhưng bà có vẻ khác thường, chắc
chắn bà đang hoan hỉ một điều gì đó. Bà vừa đến nơi liền thưa với chồng rằng:
- Hôm nay, xin anh hoan hỉ thật nhiều! Sáng nay, em đem cơm cho anh, giữa đường
gặp Ngài Ðại Ðức Sāriputta đang đi khất thực, em phát sanh đức tin trong sạch,
đem phần cơm của anh để bát cúng dường đến Ngài Ðại Ðức Sāriputta, Ngài không
chê vật thực nghèo khó của chúng mình. Ngài Ðại Ðức có tâm từ bi tế độ thọ nhận
tất cả vật thực phần của anh; xin anh nên hoan hỉ phần phước thiện bố thí này!
Ông Puṇṇa vừa lắng nghe từng tiếng, từng câu làm cho ông phát sanh thiện tâm hỉ
lạc đến cực độ; nên không thể theo dõi liên tục tron vẹn lời nói của vợ ông.
Sực tỉnh lại, ông muốn biết chắc chắn chính mình nghe đúng sự thật là như vậy
không, nên ông bảo với vợ rằng:
- Này em, em hãy nói lại cho anh nghe một lần nữa!
Bà vợ thưa lại rõ ràng một lần nữa, lần này ông nghe rõ biết chắc chắn đúng sự
thật như vậy rồi, ông vô cùng hoan hỉ phước thiện bố thí của vợ, đã đem phần
cơm của mình cúng dường đến Ngài Ðại Ðức Sāriputta, đồng thời ông cũng nói cho
vợ biết, cũng chính sáng hôm ấy, ông đã làm phước thiện bố thí cúng dường cây
tăm xỉa răng và nước đến Ngài Ðại Ðức Sāriputta; nghe xong, bà cũng vô cùng
hoan hỉ việc phước thiện bố thí của chồng.
Hai vợ chồng cùng nhau hoan hỉ việc phước thí cúng dường đến Ngài Ðại Ðức
Sāriputta, ông dùng cơm xong nằm niệm tưởng việc phước thiện bố thí hôm nay,
mới thiu thiu giấc ngủ, ông bừng tỉnh lại, ngồi nhìn thấy phần đất cày ruộng
hồi sáng đã hóa thành những thỏi vàng y (vàng ròng) làm cho ông hoa cả mắt; và
vợ của ông cũng như ông vậy. Ông lấy lại bình tỉnh đi xuống ruộng, lấy lên một
thỏi, đúng thật là thỏi vàng ròng, đem khoe và nói với vợ rằng:
- Này em, vợ chồng chúng ta đã làm phước thiện bố thí cúng dường đến Ngài Ðại
Ðức Sāriputta, do phước thiện bố thí ấy, liền cho quả báu đến vợ chồng chúng ta
ngày hôm nay, chúng ta không thể nào dấu một số vàng lớn như thế này được!
Ông Puṇṇa lấy một số thỏi vàng bỏ vào khay, đem trình lên Ðức vua và tâu rằng:
- Tâu Ðức vua, sáng nay tiện dân đi cày ruộng, tất cả đất cày hóa thành những
thỏi vàng ròng, kính xin Ðức vua truyền lệnh cho binh lính đem xe đến chở về
cất trong kho báu của Ðức vua.
- Nhà người là ai? – Ðức vua hỏi.
- Tâu Ðức vua, tiện dân là Puṇṇa, một nông dân nghèo khó làm thuê. – Puṇṇa tâu.
- Sáng nay, nhà ngươi đã làm việc gì đặc biệt vậy?
- Tâu Ðức vua, tiện dân làm phước cúng dường cây tăm xỉa răng và nước dùng, nước
uống đến Ngài Ðại Ðức Sāriputta; còn phần vợ tiện dân làm phước cúng dường phần
cơm của tiện dân đến Ngài Ðại Ðức.
Ðức vua phán rằng:
- Này Puṇṇa, vợ chồng ngươi đã làm phước thiện bố thí cúng dường trong sạch đến
cho Ngài Ðại Ðức Sāriputta, cho nên, quả báu phát sanh ngay trong ngày hôm nay.
Vậy, ngươi muốn Trẫm làm gì?
- Tâu Ðức vua, tiện dân xin Ðức vua truyền lệnh đem ngàn chiếc xe đến thửa ruộng
kia để khuân tất cả số vàng ấy về cung điện. – Puṇṇa tâu.
Ðức vua truyền lệnh đem hàng ngàn chiếc xe đến chở vàng ròng, nhóm lính trong
triều nói rằng: "Vàng của Ðức vua!", tức thì những thỏi vàng được
lấy lên, hóa trở lại thành đất như cũ. Chúng về triều tâu lên Ðức vua sự việc
xảy ra như vậy. Ðức vua sáng suốt bèn phán rằng:
- Các ngươi nghĩ như thế nào, khi lấy những thỏi vàng ấy?
- Tâu Hoàng Thượng, chúng thần nghĩ và nói rằng: "Vàng của Ðức vua!".
- Số vàng ròng kia không phải của Trẫm. Các người nên trở lại nghĩ và nói rằng: "Vàng
của ông bà Puṇṇa!" rồi khuân số vàng ấy về đây. –
Ðức vua phán.
Họ vâng lệnh Ðức vua ra đi. Thật đúng vậy, lần này họ khuân toàn bộ số vàng ấy
đem về, chất giữa sân rồng thành một đống vàng cao 80 hắc tay.
Ðức vua cho truyền dân chúng trong thành hội họp tại sân rồng, bèn hỏi rằng:
- Trong kinh thành này, người nào khác có số vàng lớn như thế này không?
- Tâu Hoàng Thượng, không có người nào khác cả! – Toàn thể dân chúng trong thành
tâu.
- Trẫm nên tấn phong ông Puṇṇa như thế nào mới xứng đáng?
- Xin Hoàng thượng tấn phong ông Puṇṇa địa vị đại phú hộ.
Ðức vua phán rằng:
- Này Puṇṇa, từ nay ngươi là đại phú hộ, có tên Bahudhanaseṭṭhi: phú hộ nhiều của
cải.
Sau khi trở thành đại phú hộ Puṇṇa, gia đình ông càng có đức tin trong sạch nơi
Tam bảo, làm phước thiện bố thí cúng dường đến chư Tỳ khưu Tăng, có Ðức Phật
chủ trì suốt 7 ngày, đến ngày thứ 7 Ðức Phật thuyết pháp tế độ gia đình ông
Puṇṇa, toàn gia đình ông đại phú hộ Puṇṇa, hai vợ chồng và đứa con gái tên
Uttarā đều chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu.
Vợ chồng ông Puṇṇa làm phước thiện bố thí cúng dường đến Ngài Ðại Ðức Sāriputta
vừa xả diệt thọ tưởng định, do năng lực phước thiện bố thí trong sạch và hội đủ
nhân duyên ấy, liền cho quả báu trong ngày hôm ấy, trở thành đại phú hộ nhiều
của cải thế gian và đặc biệt hơn nữa, toàn gia đình chứng đắc pháp siêu tam
giới đó là Nhập Lưu Thánh Ðạo, Nhập Lưu Thánh Quả trở thành bậc Thánh Nhập Lưu.
Những trường hợp như trên, có không ít trong Phật giáo.
Phước bố thí cho quả hiện tại
Làm phước thiện bố thí có quả báu ngay trong kiếp sống hiện tại trong vòng 7
ngày, cần phải hội đủ 4 nhân duyên như sau:
1- Bậc thọ thí phải là bậc Thánh Bất Lai hoặc bậc Thánh A-ra-hán (vatthusampadā).
2- Vật bố thí phát sanh hoàn toàn hợp pháp và trong sạch (paccayasampadā).
3- Người bố thí có đầy đủ 3 thời tác ý thiện tâm trong sạch hoan hỉ: trước khi
làm phước thiện bố thí, đang khi làm phước thiện bố thí và sau khi đã làm phước
thiện bố thí xong (cetanāsampadā).
4- Bậc Thánh Bất Lai hoặc bậc Thánh A-ra-hán vừa mới xả diệt thọ tưởng định, đi
khất thực (guṇātire-kasampadā).
Do năng lực hội đầy đủ 4 nhân duyên này, chắc chắn sẽ được quả báu của phước
thiện bố thí ấy trong vòng 7 ngày.
Năng Lực Của Tác Ý Bố Thí
Chánh cung hoàng hậu Pañcapāpi [Bộ Jātaka, trong tích Kuṇālajātaka] trong tích
tiền thân của Ðức Phật, truyện Kuṇālajātaka được tóm lược như sau:
Chánh cung hoàng hậu có tên Pañcapāpi, bởi vì trên thân hình của bà có 5 bộ phận
xấu xí đáng ghê sợ, đó là: tay, chân, miệng, mắt, mũi.
Bà Pañcapāpi là chánh cung hoàng hậu của hai Ðức vua: Ðức vua Baka xứ Bārāṇasī
và Ðức vua Bāvarika. Bà làm cho cả hai Ðức vua sủng ái đến cực độ, mà bỏ bê
việc triều chính. Truyện ghi lại rằng:
Thời quá khứ, trong xóm nhà gần cửa thành Bārāṇasī, một gia đình nghèo có cô gái
tên Pañcapāpi, bởi vì thân hình cô có 5 bộ phận xấu xí đáng ghê sợ. Ban đêm bọn
trẻ trong xóm thường thích cô chơi trò chạy đuổi bắt nhau, đứa nào được cô bắt
ôm lấy, cảm thấy sung sướng lắm. Một đêm, Ðức vua Baka trị vì kinh thành
Bārāṇasī giả dạng dân thường ngự đi quan sát trong thành, đến xóm nhà gặp bọn
trẻ đang chơi trò đuổi bắt nhau; cô không biết, bắt nhầm phải Ðức vua, Ðức vua
cảm thấy đê mê cả người, như xúc chạm phải thân hình của thiên nữ. Ðức vua đưa
tay sờ vào thân hình cô, cảm giác sướng mê mẫn cả người, Ðức vua phát sanh tâm
tham ái trong xúc trần của nàng. Ðức vua truyền rằng:
- Nhà cô ở đâu? Có chồng hay chưa?
- Nhà thiếp ở gần cửa thành, thiếp chưa có chồng. – Cô gái thưa.
Ðức vua truyền rằng:
- Ta sẽ là người chồng của cô; cô hãy về nhà xin phép cha mẹ cô.
Cô Pañcapāpi đi về nhà xin phép cha mẹ rằng:
- Thưa cha mẹ, có một người đàn ông muốn lấy con làm vợ.
Cha mẹ cô nghĩ rằng: người đàn ông ấy chắc không phải là người nghèo khổ,
nên bảo rằng:
- Người đàn ông ấy muốn lấy con làm vợ, thì phước cho con lắm rồi.
Cô Pañcapāpi báo tin mừng cho người đàn ông biết rằng:
- Cha mẹ thiếp đã đồng ý chấp thuận.
Ðức vua Baka ngự đến nhà ở với nàng gần rạng đông mới trở về cung điện. Từ đó về
sau hằng đêm, Ðức vua Baka giả dạng dân thường, đến sống chung với nàng
Pañcapāpi, mà không hề đoái tưởng đến hoàng hậu, cung phi mỹ nữ khác trong
triều.
Một hôm, người cha của cô Pañcapāpi bị lâm bệnh xuất huyết, thầy thuốc bảo bệnh
này chỉ có dùng món thuốc bằng cơm nấu sữa tươi cùng với bơ lỏng, mật ong,
đường thốt nốt gọi là "cơm sữa Pāyāsa"; mới chữa khỏi được. Gia đình nghèo khổ
như cha mẹ cô làm sao có được món aên thượng hạng ấy, nên bà mẹ than thở với cô
Pañcapāpi rằng: căn bệnh hiểm nghèo của cha con chỉ có cơm nấu bằng sữa tươi
mới trị khỏi được; vậy chồng của con có thể tìm được món cơm sữa pāyāsa ấy hay
không?
- Thưa mẹ, chồng con trông bộ nghèo lắm thì phải? Nhưng con sẽ thử hỏi chồng con
xem, xin mẹ đừng lo lắng quá!
Nàng Pañcapāpi có vẻ nóng lòng chờ đợi Ðức vua, khi Ðức vua ngự đến biết cô đang
khổ tâm, nên truyền dạy rằng:
- Này em, em đang khổ tâm việc gì vậy?
Nàng thổ lộ nỗi buồn rầu đau khổ về căn bệnh hiểm nghèo của cha mình, phải cần
đến món cơm nấu bằng sữa tươi "pāyāsa" mới có thể chữa trị khỏi bệnh được.
Nghe vậy, Ðức vua truyền rằng:
- Này em, những người giàu sang phú quý mới có được món ăn đó, còn chúng ta làm
sao có được!
Ðức vua nghĩ rằng: hằng đêm, ta không thể đi lại như thế này mãi được, có thể
nguy hiểm đến tánh mạng. Tốt hơn, ta nên tìm cách đưa nàng Pañcapāpi vào cung
mà không để cho ai chê trách rằng: "Ðức vua của chúng ta sống chung với người
đàn bà xấu xí như nữ dạ xoa". Muốn vậy, ta nên để toàn thể dân chúng
trong thành, các quan quân trong triều đụng chạm đến bàn tay kỳ diệu của nàng,
có sự cảm giác sướng mê mẫn cả người trước, may ra, ta mới mong khỏi bị chê
trách.
Ðức vua truyền an ủi rằng:
- Này em, đừng lo lắng khổ tâm! Anh sẽ cố gắng tìm cho được món cơm sữa "pāyāsa"
cho cha em.
Ðức vua ở với nàng đến gần rạng đông mới ngự trở về cung. Sáng hôm ấy, Ðức vua
truyền lệnh nấu cơm sữa pāyāsa chia làm hai gói, một gói để vào hộp Cuḷāmānī
(hộp ngọc quý Manī) niêm phong kỹ, còn một gói để ngoài. Ban đêm, Ðức vua ngự
đem đến nhà nàng Pañcapāpi, căn dặn nàng rằng:
- Này em, anh là người nghèo, có được món cơm sữa pāyāsa này khó khăn lắm, em
thưa với cha em rằng: hôm nay, dùng gói cơm này, còn gói cơm trong hộp để dành
ngày mai, nghe em!
Cô Pañcapāpi làm đúng theo lời của Ðức vua truyền, cha của cô dùng một gói cơm
sữa pāyāsa là món ăn có nhiều chất bổ dưỡng cao, nên cảm thấy thân tâm được an
lạc ngay. Ông dùng gói cơm không hết, phần còn lại, mẹ cô và cô cùng nhau
thưởng thức. Còn một gói cơm sữa pāyāsa để trong hộp Cuḷāmānī để dành cho ngày
hôm sau.
Sáng hôm ấy, khi trở về cung, Ðức vua truyền lệnh quan hầu đem hộp Cuḷāmānī ra
dâng, không tìm thấy, vị quan hầu tâu Ðức vua rằng:
- Tâu hoàng thượng, hạ thần không tìm thấy hộp Cuḷāmānī đâu cả.
Ðức vua truyền lệnh lục soát trong cung và các nhà giàu, nghèo trong thành.
Theo lệnh truyền của Ðức vua, quân lính đi lục soát khắp mọi nơi, cuối cùng tìm
thấy hộp Cuḷāmānī trong nhà nghèo, cha mẹ của cô Pañcapāpi. Quân lính trong
triều bắt tội cha mẹ cô, cho họ là những kẻ đã trộm hộp Cuḷāmānī của Ðức vua.
Cha mẹ cô một mực chối không phải là kẻ trộm, cái hộp Cuḷāmānī ấy do người con
rể đem đến. Khi tra hỏi người con rể ở đâu, ông bà không biết, chỉ có người con
gái biết mà thôi.
Cha cô hỏi:
- Chồng con ở đâu, con có biết không?
- Thưa cha, con không biết chồng con ở đâu. – Cô Pañcapāpi thưa.
Người cha than rằng:
- Nếu như vậy, chắc cha sẽ bị tội tử hình.
Cô Pañcapāpi thưa với quân lính triều đình rằng:
- Chồng của tiện thiếp đến lúc ban đêm, đi về lúc gần rạng đông, nên tiện thiếp
không biết hình dáng như thế nào, nhưng chắc chắn khi xúc chạm bàn tay thì biết
ngay.
Quân lính triều đình trở về tâu lên Ðức vua Baka theo lời khai của cô Pañcapāpi,
Ðức vua giả bộ không hay biết truyền lệnh rằng:
- Nếu như vậy, hãy bắt người con gái ấy đem về sân rồng, để ngồi trong phòng có
màn che kín, khoét một lỗ, vừa chìa bàn tay vào để cho cô xúc chạm; và truyền
lệnh tập trung toàn thể những người đàn ông trong kinh thành đến cho cô xúc
chạm bàn tay, để cô phát giác ra kẻ trộm.
Theo lệnh của Ðức vua, quân lính triều đình đến nhà cô Pañcapāpi, nhìn thấy cô
có thân hình xấu xí đáng ghê tởm, như quỷ, ai ai cũng đều không muốn đụng vào
người cô. Khi đưa cô về sân rồng, ngồi trong phòng có màn che kín, có một lỗ
nhỏ vừa chìa bàn tay vào. Tập trung toàn thể những người đàn ông trong thành,
sắp thành hàng tuần tự đi ngang qua chỗ cô ngồi, chìa tay vào lỗ nhỏ để cho cô
xúc chạm; bất cứ người đàn ông nào, được cô xúc chạm bàn tay của mình rồi, đều
có cảm giác sướng mê mẫn cả người, ai ai cũng đều gật gù tấm tắc khen: "Tuyệt
vời! Tuyệt vời!" chưa từng xúc chạm một người nào như thế này, cô ta
như là một thiên nữ, mới có được xúc trần tuyệt vời đến vậy! Nếu được rước cô
về nhà, dầu phải bỏ ra bao nhieâu của cải vàng bạc cũng không tiếc. Cho nên,
người nào được cô xúc chạm rồi không muốn rời, đến nỗi lính phải kéo đi. Toàn
thể những người đàn ông trong kinh thành hết rồi, mà cô chưa phát giác ra được
kẻ trộm, đến lượt các quân lính, các quan trong triều, cho đến đức phó vương
được cô xúc chạm bàn tay của mình cũng đều có cảm giác sướng mê mẫn cả người,
làm cho mê hồn; cô vẫn chưa phát giác ra được kẻ trộm. Cuối cùng Ðức vua Baka
phán rằng:
- Bây giờ đến phiên Trẫm.
Ðức vua ngự qua chìa bàn tay vào; cô vừa xúc chạm bàn tay của Ðức vua liền la
lớn lên rằng:
- Phát giác được kẻ trộm rồi!
Khi ấy, Ðức vua truyền hỏi các quan rằng:
- Khi nàng xúc chạm bàn tay của các khanh, các khanh có cảm giác thế nào?
Các quan thành thật tâu đúng theo ý nghĩ và cảm giác của mình. Ðức vua phán
rằng:
- Trẫm cố ý muốn bày ra mưu kế này, là muốn rước nàng về cung, nhưng còn e ngại
chưa dám, vì nghĩ rằng: khi các khanh không biết sự xúc trần tuyệt vời của
nàng, sẽ chê trách Trẫm. Vì vậy, Trẫm muốn các khanh đều biết, bây giờ các
khanh nghĩ thế nào? Nàng xứng đáng thuộc về ai?
Các quan đồng tâu rằng:
- Nàng xứng đáng thuộc về Thánh Thượng, sống trong cung điện.
Ðức vua Baka xứ Bārāṇasī tấn phong nàng Pañcapāpi lên ngôi chánh cung hoàng hậu
của Ðức vua, và ban thưởng cho cha mẹ của nàng địa vị cao quý và nhiều của cải.
Từ đó, ngày đêm, Ðức vua say mê đắm đuối sủng ái chánh cung hoàng hậu Pañcapāpi,
cho đến nỗi không còn biết đến các hoàng hậu, cung phi mỹ nữ khác, thậm chí bỏ
bê cả việc triều chính.
Một hôm, hoàng hậu Pañcapāpi nằm mộng thấy hiện tượng, mình trở thành chánh cung
hoàng hậu của hai Ðức vua, hoàng hậu tâu giấc mộng này lên Ðức vua Baka. Ðức
vua truyền lệnh gọi vị quân sư đoán mộng vào chầu, Ðức vua truyền hỏi rằng:
- Này quân sư, giấc mộng của hoàng hậu như vậy, điều gì sẽ xảy ra cho Trẫm và
ngai vàng của Trẫm?
Vốn không muốn chánh cung hoàng hậu làm mê hoặc Ðức vua, bỏ bê việc triều chính,
vị quân sư căn cứ vào giấc mộng, đoán mộng theo ý thiên vị của mình:
- Tâu bệ hạ, hoàng hậu mộng thấy ngồi trên cổ bạch tượng, đó là hiện tượng báo
trước bệ hạ sẽ gặp hoạ, có thể sẽ băng hà. Và mộng thấy ngồi trên cổ
bạch tượng sờ mặt trăng chơi, đó là hiện tượng báo trước, xui kẻ thù đến với bệ
hạ.
Ðức vua truyền hỏi rằng:
- Nếu như vậy nên xử cách nào?
- Tâu bệ hạ, không nên xử tội chánh cung hoàng hậu, mà nên đày bà xuống thuyền,
cho thả trôi theo dòng nước.
Ðức vua Baka đưa chánh cung hoàng hậu Pañcapāpi xuống thuyền cùng với vật thực
và các đồ trang sức quý giá, đến lúc ban đêm thả trôi theo dòng nước. Thuyền
của chánh cung hoàng hậu Pañcapāpi trôi đến ranh giới đất nước của Ðức vua
Bāvarika, gặp lúc Ðức vua xứ ấy đang chơi thuyền trên sông cùng với vị quan
thừa tướng. Nhìn thấy chiếc thuyền trôi đến vị thừa tướng liền nói lên rằng: "chiếc
thuyền ấy của thần", và Ðức vua Bāvarika phán rằng: "vật trong thuyền
của Trẫm". Chiếc thuyền đến gần, Ðức vua nhìn thấy nàng Pañcapāpi
truyền hỏi rằng:
- Nàng tên gì? Sao thân hình giống như con quỷ vậy?
Nàng Pañcapāpi cười duyên tâu rằng:
- Thiếp là Pañcapāpi chánh cung hoàng hậu của Ðức vua Baka, và tâu trình mọi
việc xảy ra cho Ðức vua biết.
Nàng Pañcapāpi có tiếng tăm vang lừng khắp cõi Nam thiện bộ châu, Ðức vua
Bāvarika nắm tay nàng bước khỏi thuyền, vừa xúc chạm đến bàn tay kỳ diệu của
nàng, Ðức vua có cảm giác sướng mê mẫn cả người, liền phát sanh tham ái trong
xúc trần của nàng; Ðức vua rước nàng về cung điện và tấn phong nàng lên ngôi
chánh cung hoàng hậu, Ðức vua ngày đêm sủng ái chỉ một mình hoàng hậu, không
còn nghĩ đến hoàng hậu, các cung phi mỹ nữ khác.
Ðức vua Baka xứ Bārāṇasī nghe tin Ðức vua Bāvarika rước hoàng hậu Pañcapāpi về
tấn phong lên ngôi chánh cung hoàng hậu, nghĩ rằng: ta sẽ không chịu để cho Ðức
vua Bāvarika tấn phong chánh cung hoàng hậu của ta ở ngôi chánh cung hoàng hậu
của Người. Ðức vua Baka kéo quân đến nghỉ bên sông, gởi tối hậu thư
rằng:
- Ðức vua Bāvarika hãy giao trả chánh cung hoàng hậu Pañcapāpi lại cho ta; nếu
không, 2 nước sẽ xảy ra chiến tranh với nhau.
Ðức vua Bāvarika đáp lại rằng:
- Thà ta chịu chiến tranh, chứ không chịu giao trả chánh cung hoàng hậu
Pañcapāpi.
Hai nước chuẩn bị gây chiến với nhau để tranh giành chánh cung hoàng hậu
Pañcapāpi, thì hai nhóm quan của hai Ðức vua gặp thảo luận với nhau rằng:
- Hai nước láng giềng chúng ta gây chiến với nhau, giết chết nhau vì nguyên nhân
tranh giành nhau một người đàn bà, đó là điều không hợp lý. Như vậy, chúng ta
nên tìm một giải pháp ôn hoà để ổn thoả hai bên.
Xét thấy rằng, nàng Pañcapāpi đã từng là chánh cung hoàng hậu của Ðức vua Baka;
vì tình nghĩa phu thê gắn bó, vậy nàng nên thuộc về Ðức vua Baka. Và nàng
Pañcapāpi được Ðức vua Bāvarika rước từ dưới thuyền ở giữa dòng sông về đã tấn
phong chánh cung hoàng hậu, vậy nàng cũng nên thuộc về Ðức vua Bāvarika.
Như vậy, nàng Pañcapāpi đương nhiên là chánh cung hoàng hậu của hai Ðức vua.
Hai nhóm quan, mỗi nhóm về tâu Ðức vua của mình, hai Ðức vua đều hài lòng đồng ý
với cách dàn xếp ấy. Hai nước cùng nhau xây cất một lâu đài ngay biên giới của
2 nước, làm nơi trú quán của chánh cung hoàng hậu Pañcapāpi. Nàng Pañcapāpi trở
thành chánh cung hoàng hậu của hai Ðức vua: Ðức vua Baka và Ðức vua Bāvarika.
Mỗi Ðức vua ngự đến sống chung với chánh cung hoàng hậu Pañcapāpi 7 ngày, qua 7
ngày đến phiên Ðức vua khác, cứ như vậy thay phiên nhau.
Do quả của nghiệp nào mà trên thân hình của cô Pañcapāpi có 5 bộ phận xấu xí,
đáng ghê tởm? Và do quả của nghiệp nào, trên thân thể của cô có xúc trần tuyệt
vời, hễ ai xúc chạm đến thân hình của cô đều có cảm giác sướng mê mẫn cả người,
phát sanh tâm tham ái trong xúc trần của cô? Do quả của nghiệp nào, cô trở
thành chánh cung hoàng hậu của 2 Ðức vua 2 nước?
Tất cả quả của nghiệp chắc chắn đều do từ nghiệp. Có khi do nghiệp hiện tại, có
khi do nghiệp quá khứ.
Trường hợp nàng Pañcapāpi là do nghiệp ở quá khứ tiền kiếp của cô.
Trong truyện tiền thân Kuṇālajātaka, có đoạn nói về tiền kiếp của nàng Pañcapāpi
tóm lược như sau:
Tiền kiếp của nàng Pañcapāpi là cô gái của một gia đình nghèo, làm nghề nhồi đất
sét trát vách nhà.
Một hôm, có Ðức Phật Ðộc Giác nghĩ rằng: tìm đất sét nhuyễn ở đâu đem về trát
vách cho kín để ở? Ta nên vào trong kinh thành Bārāṇasī vậy.
Nghĩ xong, Ngài mặc y mang bát ngự vào trong thành, đứng trước nhà cô gái đang
nhồi đất sét. Nhìn thấy Ðức Phật Ðộc Giác, cô gái phát sanh tâm sân, thốt lên
lời khiếm nhã rằng:
- Mattakaṃpi bhikkhati: đất sét nhuyễn cũng đi xin!
Mặc dầu cô nói như vậy, Ðức Phật Ðộc Giác vẫn đứng tự nhiên, không hề tỏ vẻ bực
dọc gì cả. Thấy vậy, cô liền thay đổi thái độ, phát sanh đức tin trong sạch nơi
Ðức Phật Ðộc Giác, bèn bạch rằng:
Kính bạch Sa môn, Ngài muốn được đất sét nhuyễn, xin Ngài đợi một lát.
Nói xong, cô nhồi đất sét thật nhuyễn, cung kính đặt một cục đất sét lớn và
nhuyeãn vào trong bát của Ngài, Ngài hoan hỉ đem về trát lên vách làm cho kín
chỗ ở của Ngài.
Sau khi làm phước thiện bố thí đất sét đến Ðức Phật Ðộc Giác, về sau cô từ trần,
do năng lực phước thiện bố thí ấy cho quả tái sanh đầu thai vào gia đình nghèo
nàn gần cửa thành Bārāṇasī, đúng mười tháng, chào đời một bé gái trên thân hình
có 5 bộ phận xấu xí: tay, chân, miệng, mắt và mũi, do đó, đặt tên cô Pañcapāpi:
cô gái có 5 bộ phận xấu xí.
Do phước thiện bố thí đất sét, đó là thiện nghiệp cho quả tái sanh
làm người, kiếp cô Pañcapāpi.
Trước khi bố thí, nhìn thấy Ðức Phật Ðộc Giác, cô phát sanh tâm sân, tâm không
cung kính, khẩu nói lời bất kính với Ðức Phật Ðộc Giác, đó là ác nghiệp cho
quả sau khi đã tái sanh đầu thai là người nữ, trên thân hình có 5
bộ phận xấu xí.
Khi phát sanh thiện tâm trong sạch nơi Ðức Phật Ðộc Giác, cô nhồi đất sét thật
nhuyễn, cung kính dâng đến Ðức Phật Ðộc Giác; phước thiện bố thí đất sét thật
nhuyễn, đó là thiện nghiệp cho quả đặc biệt xúc trần tuyệt vời trên
thân thể của cô; cho nên, bất cứ ai xúc chạm vào thân hình của cô, cũng có cảm
giác sướng mê mẫn cả người dường như xúc chạm thân hình của thiên nữ.
Phước thiện bố thí đất sét đến Ðức Phật Ðộc Giác là bậc đầy đủ hoàn toàn giới
đức trong sạch, nên được phước thiện vô lượng, cho quả, khiến cô trở thành
chánh cung hoàng hậu của 2 Ðức vua 2 nước; cô được một ngôi vị cao quý, và
hưởng được mọi sự an lạc, đó là do thiện nghiệp bố thí đất sét của cô.
Nghiệp thế nào thì quả thế ấy, thiện nghiệp cho quả tốt, an lạc; còn ác nghiệp
cho quả xấu, khổ não.
Nghiệp đó là thiện nghiệp hoặc bất thiện nghiệp (ác nghiệp),
chúng ta có quyền chủ động chọn lựa theo ý của mình.
Quả của nghiệp: quả tốt, quả an lạc đó là quả của
thiện nghiệp; quả xấu, quả khổ não đó là quả của ác nghiệp. Quả của nghiệp,
chúng ta hoàn toàn bị động, không thể chọn lựa theo ý muốn của mình; phải nên
biết chấp nhận quả tốt, quả an lạc, hoặc quả xấu, quả khổ não, bởi vì đó
là quả của nghiệp mà do chính mình đã tạo.
Vậy, muốn có được quả tốt, quả an lạc, thì nên biết chọn lựa tạo mọi thiện
nghiệp; và không muốn quả xấu, quả khổ não, thì nên biết tránh xa, hoặc không
tạo ác nghiệp.
Ðó là lẽ công minh của nghiệp và quả của nghiệp. Ngoài ra, không có một ai có
quyền năng thưởng hoặc phạt mình được. Nếu có thì chính là nghiệp mà thôi.
Tích tiền thân của Ðức Phật Gotama, Ðức Bồ Tát Kusarājā (Bộ Jātaka, tích tiền
thân Kusajātaka) được tóm lược như sau:
Ðức Bồ Tát sắp hết tuổi thọ tại cung Tam thập tam thiên, Ðức vua trời Sakka
khuyến khích tái sanh đầu thai vào lòng chánh cung hoàng hậu Sīlavatī của Ðức
vua Okkākarājā.
Chấp thuận theo lời khuyên của Ðức vua Sakka, Ðức Bồ Tát sau khi từ giã (chết)
cõi trời, do thiện nghiệp cho quả tái sanh vào lòng chánh cung hoàng hậu
Sīlavatī, đúng 10 tháng chào đời có thân hình xấu xí đáng ghê sợ, được đặt tên
Kusakumāra: thái tử Kusa.
Ðức Bồ Tát trưởng thành có trí tuệ siêu việt, có đầy đủ tài nghệ xuất chúng do
bẩm tính tự nhiên, không hề theo học một vị thầy nào cả. Ðức Bồ Tát có một
người em trai là hoàng tử Jayampati.
Khi Ðức Bồ Tát lên 16 tuổi, vua cha có ý định muốn truyền ngôi báu cho Ðức Bồ
Tát, vì nhận thấy Ngài có đầy đủ tài xuất chúng, không một ai sánh kịp, có oai
lực phi thường, đặc biệt có giọng nói như sư tử chúa rống, làm cho mọi kẻ thù
kinh hồn bạt vía.
Ðức vua Okkāka cùng chánh cung hoàng hậu Sīlavatī bàn tính tìm một công chúa của
một Ðức vua nào trong cõi Nam thiện bộ châu, đem về tấn phong ngôi chánh cung
hoàng hậu. Hoàng hậu Sīlavatī truyền người hầu đến hỏi ý kiến Ðức Bồ Tát.
Ðức Bồ Tát suy nghĩ rằng: ta có thân hình xấu xí đáng ghê sợ như thế này, còn
công chúa có sắc đẹp, khi nàng nhìn thấy ta sẽ khinh ghét bỏ đi. Như vậy, chỉ
làm cho ta xấu hổ mà thôi, không ích lợi gì. Ðiều tốt hơn, ta sống trong cung
điện này lo phụng dưỡng phụ vương và mẫu hậu, đến khi hai Người băng hà, ta sẽ
xuất gia trở thành đạo sĩ sống trong rừng núi tu hành.
Nghĩ như vậy, nên Ðức Bồ Tát trả lời cho người hầu biết rằng:
- Ta không muốn làm vua, không muốn vợ con, ta muốn lo phụng dưỡng phụ vương và
mẫu hậu của ta, cho đến khi hai Người băng hà; lúc ấy ta sẽ xuất gia trở thành
đạo sĩ sống trong rừng núi.
Người hầu về tâu với hoàng hậu, hoàng hậu tâu lên Ðức vua; Ðức vua không chấp
thuận, truyền cho người đến báo cho thái tử biết ý định của Ðức vua là "thái tử
phải lên ngôi, phải có chánh cung hoàng hậu". Ðức Bồ Tát 2 – 3 lần vẫn
từ chối không chấp nhận. Về sau Ðức Bồ Tát suy xét về phận làm con, từ chối lời
khẩn khoản của cha mẹ nhiều lần là điều không nên, vậy ta nên tìm cách khác
vậy.
Ðức Bồ Tát, tự mình đúc một pho tượng một cô gái bằng vàng xinh đẹp tuyệt vời,
cho mặc y phục, trang hoàng những đồ nữ trang quý giá, mang giầy dép... giống
hệt như cô gái thật xinh đẹp tuyệt vời (không ai ngờ rằng đó là pho tượng).
Ðức Bồ Tát cho người đem đến trình mẫu hậu, cùng với lời tâu rằng: "Công chúa nào
thật xinh đẹp tuyệt vời như pho tượng này, thì con mới chịu làm lễ kết hôn với
công chúa ấy".
Hoàng hậu truyền gọi các quan rồi phán rằng:
- Thái tử của ta là bậc đại phước, do Ðức vua trời Sakka ban cho, thái tử chỉ
muốn kết hôn cùng với công chúa xinh đẹp như pho tượng này. Vậy, các ngươi hãy
đem pho tượng này so sánh cùng khắp cõi Nam thiện bộ châu, nếu gặp công chúa
của Ðức vua nào có thân hình xinh đẹp như pho tượng này, thì xin dâng pho tượng
này đến Ðức vua ấy rồi tâu rằng: "Ðức vua Okkāka muốn kết tình thông gia với Ðại
Vương, sẽ làm lễ thành hôn thái tử với công chúa của Ðức vua ... Xin hẹn ngày
làm lễ, rồi các ngươi cấp tốc trở về tâu lại cho ta rõ".
Các quan tuân lệnh Hoàng hậu, đặt pho tượng trên xe, đưa đi đến các nước lân
bang, đặt nơi kinh thành và có nhiều người qua lại, còn các quan ẩn nấp một nơi
để lắng nghe lời phê bình về pho tượng.
Người ta nhìn qua pho tượng đều trầm trồ khen ngợi rằng:
- Cô gái này xinh đẹp tuyệt vời, có khác gì thiên nữ, ở xứ ta không có công chúa
nào xinh đẹp như cô gái này; cô gái này ở xứ nào đến mà đứng ở đây?
Ðược lắng nghe như vậy, các quan biết xứ này không có công chúa nào xinh đẹp như
pho tượng, nên chở pho tượng sang xứ khác. Cuối cùng đến xứ Madda của Ðức vua
Madda trị vì ở kinh thành Sāgala; đem pho tượng đến kinh thành Sāgala, đặt ở
bến sông có nhiều người qua lại để lấy nước.
Ðức vua Madda có 8 công chúa, công chúa lớn nhất tên Pabhāvatī bởi cô có sắc đẹp
tuyệt trần, có ánh sáng hào quang toả ra từ sắc thân, như một thứ ánh sáng mát
dịu của mặt trời, cả đêm lẫn ngày. Trong căn phòng của công chúa, ban đêm không
cần dùng đèn cũng có thể nhìn thấy mọi vật như ban ngày. Công chúa có một người
nữ hầu thân tín tên Khujjā (nữ còng lưng).
Bà hầu Khujjā sai bảo 8 nữ tỳ đi lấy nước ở bến sông đem về cho công chúa
Pabhāvatī dùng. Các nữ tỳ nhìn từ xa thấy pho tượng, tưởng là công chúa
Pabhāvatī đứng nơi đó, nên lại gần lễ phép thưa công chúa, chẳng nghe nói năng
gì, nhìn kỹ mới biết không phải là công chúa chủ của mình, đấy chỉ là pho tượng
bằng vàng, các nữ tỳ cảm thấy mắc cở vì bị hớ, liền chê trách rằng:
- Pho tượng này có giá trị gì đâu, so với công chúa chủ của chúng ta!
Lắng nghe rõ lời phê bình của các nữ tỳ, các quan tìm đến hỏi:
- Này quý cô, quý cô nói công chúa của quý cô xinh đẹp hơn pho tượng này phải
không?
- Thưa phải! Pho tượng này so với công chúa của chúng tôi có đáng giá gì đâu! –
Một nữ tỳ trưởng nhóm trả lời.
- Công chúa của quý cô có quý danh gọi là gì?
- Công chúa có quý danh gọi là Pabhāvatī, công chúa lớn của đức vua Madda. –
Thưa ông.
Các quan vô cùng hoan hỉ, cám ơn các cô, rồi đem pho tượng đặt lên xe đi thẳng
đến cửa cung điện của đức vua Madda, nhờ người lính gác cửa vào tâu lên Ðức vua
rằng:
- Có sứ giả của đức vua Okkāka ở kinh thành Kusavatī xứ Malla đang đứng chờ
ngoài ngọ môn, xin được vào yết kiến Hoàng thượng.
Ðức vua truyền lệnh mời các quan sứ giả vào triều bệ kiến.
- Muôn tâu Ðại vương, Hoàng thượng của kẻ hạ thần là đức vua Okkāka kính lời vấn
an Ðại vương, kính chúc Ðại vương vạn tuế.
Ðức vua cám ơn rồi truyền hỏi rằng:
- Các ngươi đến đây, chắc còn có quốc sự gì quan trọng, hãy tâu trình cho Trẫm
rõ.
- Muôn tâu Ðại vương! Hoàng thượng của kẻ hạ thần có một thái tử tên Kusakumāra,
có giọng nói hùng dũng như tiếng sư tử chúa rống, Hoàng thượng của chúng thần
muốn truyền ngôi báu cho thái tử, kén chọn công chúa tấn phong lên ngôi chánh
cung hoàng hậu. Người truyền lệnh kẻ hạ thần đến yết kiến Ðại vương, xin Ðại
vương ban công chúa Pabhāvatī kết hôn cùng thái tử Kusakumāra. Khi thái tử lên
ngôi, sẽ tấn phong công chúa Pabhāvatī lên ngôi chánh cung hoàng hậu.
Các quan sứ giả dâng pho tượng vàng lên Ðức vua Madda, Ðức vua rất hoan hỉ tiếp
nhận pho tượng và nghĩ rằng: "công chúa của ta được kết hôn với thái tử một nước
lớn, thì thật là vinh hạnh cho xứ sở của ta".
Các quan sứ giả xin phép trở về nước, để trình tâu lên đức vua Okkāka được rõ,
và sẽ chọn ngày ngự đến đón rước công chúa Pabhāvatī.
Ðức vua Madda phán rằng: Tốt lắm! Rồi truyền lệnh tiễn đưa các quan trở về nước.
Khi các quan về đến kinh thành Kusavatī, vào yết kiến Ðức vua cùng Hoàng hậu tâu
trình việc tìm được công chúa Pabhāvatī xinh đẹp tuyệt trần rồi cùng chọn ngày
đón rước công chúa Pabhāvatī, Ðức vua Okkāka, hoàng hậu Sīlavatī cùng các quan
quân một đoàn hộ giá đông đảo rời khỏi kinh thành Kusavatī ngự đến xứ Madda.
Ðức vua Madda làm lễ đón rước đức vua Okkāka, hoàng hậu Sīlavatī cùng đoàn hộ
giá ngự vào kinh thành Sāgala, tổ chức buổi lễ rất long trọng tại cung điện đức
vua Madda.
Trải qua 2 – 3 ngày hoàng hậu Sīlavatī rất thông minh, có trí tuệ sáng suốt,
muốn nhìn mặt công chúa Pabhāvatī, nên tâu với Ðức vua Madda rằng:
- Thưa Ðức vua, chúng tôi xin phép nhìn mặt nàng dâu có được hay không?
- Ðược lắm. – Ðức vua Madda đáp lời rồi truyền gọi công chúa Pabhāvatī đến yết
kiến đức vua Okkāka và hoàng hậu Sīlavatī.
Công chúa Pabhāvatī trang điểm những đồ trang sức quý giá tăng thêm vẻ đẹp tuyệt
trần như thiên nữ cùng nhóm nữ tỳ đông đảo tuỳ tùng theo sau đến bệ kiến Ðức
vua cùng Hoàng hậu.
Hoàng hậu nhìn thấy công chúa Pabhāvatī nghĩ rằng: công chúa đẹp tuyệt trần như
thiên nữ, có ánh sáng hào quang mát dịu, còn thái tử có thân hình xấu xí, đáng
ghê sợ, nếu công chúa nhìn thấy thái tử, thì không thể nào sống chung với nhau
được, chắc chắn sợ hãi ghét bỏ đi. Ta nên tìm cách giúp Thái tử.
Hoàng hậu thưa với đức vua Madda rằng:
- Thưa Ðại vương, công chúa Pabhāvatī thật xứng đáng với thái tử của chúng tôi.
Trong dòng vua của chúng tôi có một truyền thống, không biết công chúa có thể
hành theo truyền thống ấy được hay không?
- Truyền thống thế nào, tâu Hoàng hậu? – Ðức vua Madda thưa.
- Thưa Ðại vương, ban ngày hoàng hậu không được phép diện kiến Ðức vua, chỉ gặp
nhau trong căn phòng lúc ban đêm. Cho đến khi nào hoàng hậu thụ thai. Khi ấy,
hoàng hậu diện kiến Ðức vua lúc ban ngày. Nếu công chúa Pabhāvatī hành theo
truyền thống ấy được, chúng tôi đón rước công chúa.
Ðức vua Madda truyền hỏi công chúa:
- Này con, con có thể hành theo truyền thống ấy được không?
- Tâu phụ vương, con có thể. – Công chúa tâu.
Sau đó, đức vua Okkāka làm lễ dâng nhiều của cải quý giá đến đức vua Madda, rước
công chúa Pabhāvatī trở về kinh thành Kusavatī.
Phần đức vua Madda làm lễ tiễn đưa công chúa Pabhāvatī với đoàn tuỳ tùng đông
đảo.
Ðức vua Okkāka về đến kinh thành Kusavatī, truyền chiếu chỉ trang hoàng toàn
kinh thành, cung điện làm lễ mừng ngày lễ đăng quang thái tử lên ngôi báu trị
vì đất nước, tấn phong công chúa Pabhāvatī lên ngôi chánh cung hoàng hậu.
Ðức vua truyền lệnh phóng thích tất cả tù nhân, truyền chiếu chỉ đến các nước
lân bang rằng: "Từ nay, đức vua Kusa trị vì toàn thể đất nước Malla rộng lớn
này, các nước trong cõi Nam thiện bộ châu, Ðức vua nào có công chúa, xin dâng
công chúa đến đức vua Kusa để gây tình thân thiện; và gởi các hoàng tử đến cầu
thân để được Ðức vua bảo hộ".
Ðức vua Kusa trị vì đất nước rộng lớn, có oai lực phi thường, đặc biệt có giọng
nói như tiếng rống của sư tử chúa, khiến cho các nước lân bang đều khâm phục.
Cho nên trong nước được an lành thịnh vượng.
Hoàng hậu Pabhāvatī không diện kiến đức vua Kusa ban ngày, và đức vua Kusa cũng
không nhìn thấy rõ mặt hoàng hậu Pabhāvatī; Ðức vua và hoàng hậu chỉ gần gũi
nhau lúc ban đêm; bình thường ban đêm hoàng hậu Pabhāvatī ở một mình, thân hình
toả ra ánh sáng hào quang mát dịu như ban ngày, nhưng khi nào Ðức vua Bồ Tát
đến gần hoàng hậu, do oai lực của Ðức Bồ Tát thì ánh sáng hào quang kia biến
mất, chỉ có bóng tối ban đêm, cho nên, Ðức vua và hoàng hậu không thể nhìn thấy
mặt nhau được.
Ðức vua muốn nhìn thấy mặt hoàng hậu Pabhāvatī ban ngày, nên đến nhờ mẫu hậu của
Ngài giúp đỡ. Bà ngăn cấm rằng:
- Hoàng nhi hãy chờ đợi một thời gian nữa, cho đến khi nào có được một hoàng tử.
Ðức vua Bồ Tát nóng lòng muốn nhìn xem mặt hoàng hậu, đến cầu xin khẩn khoản mẫu
hậu của Ngài, nhiều lần, bà cũng phải chìu theo, bà dạy rằng:
- Hoàng nhi đến chuồng voi, đóng vai người nài voi, mẫu hậu sẽ dẫn nàng đến
chuồng voi xem voi của Ðức vua.
Mẫu hậu của Ngài dẫn hoàng hậu Pabhāvatī đến xem voi trong chuồng voi, Ðức Bồ
Tát đứng nơi đó nhìn thấy hoàng hậu xinh đẹp tuyệt trần, cảm hứng quá lấy phân
voi ném đằng sau hoàng hậu Pabhāvatī, làm cho hoàng hậu tức giận truyền rằng:
- Ta sẽ trình tâu Ðức vua, truyền lệnh chặt tay của ngươi!
Bà Hoàng thái hậu năn nỉ tha thứ tội lỗi cho người nài.
Lần sau, Ðức Bồ Tát muốn nhìn xem mặt hoàng hậu, mẫu hậu của Ngài dẫn hoàng hậu
đến chuồng ngựa; Ngài đóng vai người giữ ngựa, nhìn thấy hoàng hậu, lại lấy
phân ngựa ném đằng sau hoàng hậu. Hoàng hậu tức giận, bà Hoàng thái hậu lại năn
nỉ tha tội cho người giữ ngựa.
Một hôm, hoàng hậu Pabhāvatī muốn nhìn xem mặt Ðức vua, bà mẫu hậu không thể từ
chối nên bảo nàng rằng:
- Ngày mai, Ðức vua sẽ đi dạo quanh kinh thành, con hãy đứng ở cửa sổ nhìn
xuống.
Bà hoàng thái hậu truyền lệnh kinh thành trang hoàng đẹp đẽ, Ðức vua đi dạo, bà
truyền dạy hoàng tử Jayampati (hoàng đệ của Ðức Bồ Tát) trang phục Ðức
vua ngồi lên lưng bạch tượng, còn Ðức Bồ Tát đóng vai người nài voi ngồi đằng
sau, bạch tượng đi ngang qua lâu đài của hoàng hậu, hoàng hậu đứng cửa sổ nhìn
xuống, Ðức Bồ Tát nhìn lên lấy tay vẫy, có cử chỉ không lịch sự, hoàng hậu thấy
không hài lòng, nhưng nàng tự nghĩ: Ðức vua thật xứng với ta.
Bà hoàng thái hậu truyền dạy:
- Con đã nhìn thấy Ðức vua rồi phải không?
- Tâu thái hậu, con đã nhìn thấy rồi, con rất hài lòng, nhưng sao lại tuyển chọn
người nài voi xấu xí đáng ghê sợ, có những cử chỉ vô lễ với Ðức vua và con nữa.
Bà hoàng thái hậu khuyên hoàng hậu nên tha tội cho người nài voi kia.
Hoàng hậu suy nghĩ: mấy hôm trước người nài voi, người giữ ngựa, nay cũng chính
y. Tại sao y lại được hưởng đặc ân của triều đình đến như vậy? Có phải y chính
là đức vua Kusa hay không? Hoàng hậu bắt đầu hoài nghi về nhân vật này.
Ðức Bồ Tát lại muốn nhìn thấy tận mặt hoàng hậu, đến xin mẫu hậu của Ngài giúp
đỡ. Bà hoàng thái hậu nhận thấy hoàng hậu không vui, bà dẫn đi dạo thượng uyển,
đến hồ sen nước trong, hoa sen nở rộ, Ðức Bồ Tát ngâm mình dưới hồ, lấy lá sen
che mặt; hoàng hậu nhìn thấy nước hồ trong trẻo, có nhiều loại hoa sen xinh
đẹp, nàng muốn xuống hồ để tắm, cùng với các nữ tỳ. Nàng nhìn thấy một hoa sen
xinh đẹp, vớ tay định hái đoá hoa sen, tại nơi ấy Ðức Bồ Tát ẩn mình, nổi lên
nắm lấy cánh tay hoàng hậu la lớn rằng: "Ta là đức vua Kusa!". Hoàng hậu
tận mắt nhìn thấy rõ mặt mày, thân hình xấu xí đang ghê sợ của Ðức Bồ Tát làm
cho hoàng hậu chết giấc, các nữ tỳ đem hoàng hậu cứu chữa mới tỉnh lại. Khi
hoàn hồn, hoàng hậu nhớ lại những sự kiện đã xảy ra trước kia: người nài voi ném
phân voi, người giữ ngựa ném phân ngựa, người nài voi ngồi sau bạch tượng cũng
chính là người này, đức vua Kusa, không phải ai khác.
Hoàng hậu gọi các quan lo xe giá đưa bà trở về cố quốc ngay hôm ấy, các quan tâu
Ðức vua rõ. Ðức vua nghĩ rằng: nếu cấm hoàng hậu, nàng có thể đứng tim chết
thôi, nên đành để cho nàng trở về kinh thành Sāgala. Sau đó, ta sẽ tìm cách
rước nàng trở lại.
Ðức vua truyền lệnh chuẩn bị xe giá sang trọng tiễn đưa Chánh cung hoàng hậu về
kinh thành Sāgala.
Do nghiệp lực nào, đức vua Kusa có thân hình xấu xí, đáng ghê sợ?
Do nghiệp lực nào, đức vua Kusa chỉ sủng ái một mình hoàng hậu Pabhāvatī mà
không quan tâm đến các cung phi mỹ nữ khác?
Và do nguyện lực nào, hoàng hậu Pabhāvatī có sắc đẹp tuyệt trần, có ánh sáng hào
quang toả ra từ sắc thân của bà suốt ngày đêm, nhưng khi đức vua Kusa đến gần,
ánh sáng kia biến mất.
Do nguyện lực nào hoàng hậu Pabhāvatī không muốn sống chung với đức vua Kusa?
Tất cả mọi quả ắt hẳn phát sanh từ nhân. Quả có nghĩa là quả của nghiệp và nhân
chính là nghiệp. Ðức vua Kusa và hoàng hậu Pabhāvatī đều là hiện thân quả của
nghiệp. Vậy quả của nghiệp nào, nên tìm hiểu qua tích tiền kiếp cuả đức vua
Kusa và hoàng hậu Pabhāvatī được tóm lược như sau:
Trong quá khứ, một làng ở gần cửa thành Bārāṇasī có hai gia đình:
Một gia đình có hai người con trai: một anh cả và một người em thứ là Ðức Bồ
Tát.
Một gia đình kia có một người con gái.
Bên nhà trai xin cưới con gái của gia đình kia về làm vợ của người con cả. Người
con thứ chưa có vợ vẫn sống chung với nhau một nhà.
Một hôm, người chị dâu làm bánh chiên rất ngon, gia đình đông đủ, chỉ có người
em chồng vắng mặt, vì đi làm ở trong rừng; người chị dâu dành phần bánh cho
người em xong, cả gia đình cùng nhau dùng hết bánh.
Khi ấy, Ðức Phật Ðộc Giác đi khất thực đến đứng trước cửa nhà, người chị dâu
phát sanh đức tin trong sạch, nên nghĩ rằng: "ta nên lấy phần bánh để dành cho
người em chồng, để bát cúng dường đến Ðức Phật Ðộc Giác xong, rồi ta sẽ làm
phần bánh chiên khác thay thế". Khi người chị dâu đem phần bánh chiên
dâng cúng đến Ðức Phật Ðộc Giác xong; vừa lúc đó, người em chồng từ rừng trở về
nhà hỏi phần bánh chiên của mình; người chị chồng nói rằng:
- Chú ạ! Phần bánh chiên của chú chị đã đem dâng cúng đến Ðức Phật Ðộc Giác rồi,
chú hoan hỉ ráng đợi chị một lát, chị sẽ làm phần bánh chiên khác cho chú ngay.
Nghe nói vậy, người em chồng nổi giận nói rằng:
- Chị ăn phần bánh của mình hết rồi, lại lấy phần bánh chiên của tôi đem dâng
đến Ðức Phật Ðộc Giác, tôi lấy gì ăn đây?
Người em chồng tức giận đi đến Ðức Phật Ðộc Giác lấy lại phần bánh chiên. Thấy
vậy, người chị dâu vội vã đi về nhà cha mẹ của mình lấy bơ lỏng còn mới và
trong trẻo có màu giống như hoa mộc lan, dâng cúng đến Ðức Phật Ðộc Giác đầy
bát, thay thế phần bánh chiên kia. Bơ lỏng toả ra ánh sáng trong, nhìn thấy,
nàng vô cùng hoan hỉ, nên thành tâm phát nguyện rằng:
- Kính bạch Ngài, do năng lực phước thiện bố thí này, kiếp sau, cầu xin cho con
có được sắc thân xinh đẹp tuyệt trần, không một ai sánh kịp, có ánh sáng hào
quang toả ra từ sắc thân suốt đêm ngày và xin đừng sống chung với hạng người ác
như chú em chồng của con.
Nghe rõ lời phát nguyện của người chị dâu, người em chồng (Ðức Bồ Tát) vội
vàng dâng cúng để bát Ðức Phật Ðộc Giác phần bánh chiên của mình đè lên trên bơ
lỏng của người chị dâu rồi phát nguyện rằng:
- Kính bạch Ngài, do năng lực phước thiện bố thí này, kiếp sau chị dâu của con
dầu ở xa hằng trăm do tuần, cầu xin cho con có đủ khả năng rước đem về làm vợ
của con.
Người chị dâu sau khi chết, do năng lực phước thiện bố thí là thiện nghiệp cho
quả tái sanh lên cõi trời hưởng mọi sự an lạc trong cõi trời; về sau tái sanh
cõi người là công chúa Pabhāvatī, con của đức vua Madda.
Công chúa Pabhāvatī có sắc thân xinh đẹp tuyệt trần, có ánh hào quang toả ra từ
sắc thân suốt đêm ngày. Như vậy, được thành tựu đúng theo lời phát nguyện.
Hoàng hậu Pabhāvatī không muốn sống chung với đức vua Kusa. Như vậy, được thành
tựu đúng theo lời phát nguyện.
Người em chồng, sau khi chết, do năng lực phước thiện là thiện nghiệp cho
quả tái sanh lên cõi trời hưởng mọi sự an lạc, đến khi hết tuổi thọ, đức vua
Sakka thỉnh tái sanh cõi người vào lòng chánh cung hoàng hậu Sīlavatī của Ðức
vua Okkāka xứ Malla. Sau khi tái sanh, ác nghiệp nổi giận lấy lại phần
bánh chiên của mình từ trong bát của Ðức Phật Ðộc Giác, cho quả có thân hình
xấu xí đáng ghê sợ.
Thái tử Kusa lên ngôi làm vua trị vì một nước lớn, có nhiều oai lực có giọng nói
như sư tử chúa rống, làm cho kẻ thù kinh hồn bạt vía. Ðó là do quả của thiện
nghiệp.
Thái tử Kusa rước công chúa Pabhāvatī đem về tấn phong chánh cung hoàng hậu. Như
vậy, được thành tựu đúng theo lời phát nguyện.
Lời phát nguyện của tiền thân hoàng hậu Pabhāvatī mọi điều đã được thành tựu như
ý.
Còn lời phát nguyện của Ðức Bồ Tát thì thế nào?
Sau khi hoàng hậu Pabhāvatī đã trở về đến kinh thành Sāgala của vua cha rồi,
ngày đêm, đức vua Kusa tâm trí luôn luôn nhớ thương đến một mình hoàng hậu
không nguôi. Mặc dầu trong cung điện có nhiều cung phi mỹ nữ mà Ðức vua không
hề quan tâm đến một người nào cả. Lòng thương nhớ hoàng hậu càng thôi thúc,
khiến cho Ðức vua đến hầu mẫu hậu của Ngài tâu rằng:
Tâu mẫu hậu, xin phép mẫu hậu, con sẽ đi rước hoàng hậu Pabhāvatī trở lại.
Vậy con xin giao lại ngôi báu này cho mẫu hậu.
Ðức vua Bồ Tát giả dạng một người dân thường, đem theo một cây đàn lên đường
thẳng đến kinh thành Sāgala, xin ngủ nhờ một nhà người nài voi gần cung điện
của đức vua Madda; Ðức Bồ Tát ngủ rất ngon giấc, khi thức dậy lấy cây đàn khảy
một bài, tiếng đàn réo rắt gợi lòng thương nhớ hoàng hậu Pabhāvatī. Tiếng đàn
toả ra không gian, lan vào cung điện. Hoàng hậu nghe tiếng đàn biết rõ chắc
chắn tiếng đàn của đức vua Kusa đã đến đây để rước ta trở lại kinh thành
Kusavatī, bà rất lo sợ. Chính đức vua Madda cũng tấm tắc khen ngợi tiếng đàn
hay tuyệt vời, nhưng nghe sao thống thiết quá!
Ðức Bồ Tát nghĩ rằng ở đây không thể gặp mặt hoàng hậu Pabhāvatī được, nên tìm
đến chỗ lò gốm, nơi làm đồ dùng của Ðức vua và các công chúa, để có cơ hội làm
những món đồ dùng cho hoàng hậu Pabhāvatī. Ðức Bồ Tát đến xin làm học trò, ông
chủ lò gốm hoan hỉ nhận Ðức Bồ Tát. Tại lò gốm, Ðức Bồ Tát đã làm nhiều món đồ
gốm tráng men, kiểu mẫu đẹp tuyệt vời, xứng đáng bậc thầy của chủ lò gốm. Có
những món đồ gốm tráng men, cố ý dành cho hoàng hậu Pabhāvatī dùng, có hình ảnh
hoàng hậu Pabhāvatī, đức vua Kusa, cảnh trong cung điện, chỉ có một mình hoàng
hậu biết được mà thôi. Ông chủ lò gốm đem vào dâng Ðức vua cùng quý công chúa,
Ðức vua trầm trồ khen ngợi những món đồ rất xinh đẹp tuyệt vời, thật vô giá.
Những món đồ ấy cũng đến tay hoàng hậu Pabhāvatī, bà nhìn thấy biết ngay, những
món đồ này do đôi bàn tay của đức vua Kusa để dành cho bà, vốn không ưa thích
Ðức vua, nên bà không dùng những món đồ ấy.
Ðức Bồ Tát nghĩ rằng ở nơi đây ta cũng không có cơ hội gặp mặt hoàng hậu
Pabhāvatī được; tìm đến chỗ làm đồ thủ công, nơi làm đồ dùng cho Ðức vua và quý
công chúa, Ðức Bồ Tát xin làm học trò, Ngài đã làm những món đồ đan bằng lá
thốt nốt đẹp tuyệt vời có hình ảnh hoàng hậu, ở trong cung điện, chỉ có một
mình hoàng hậu biết được mà thôi. Người thợ thủ công đem những món đồ dâng Ðức
vua cùng quý công chúa, Ðức vua trầm trồ khen ngợi chưa từng thấy những món đồ
xinh đẹp như vậy. Những món đồ ấy đến tay hoàng hậu Pabhāvatī, bà nhìn thấy
biết ngay, những món đồ này do đôi bàn tay của đức vua Kusa, bà không chịu dùng
những món đồ ấy.
Ðức Bồ Tát nghĩ rằng ở đây ta cũng không có cơ hội thấy mặt hoàng hậu Pabhāvatī,
tìm đến tiệm hàng kết hoa cho Ðức vua Madda cùng quý công chúa. Ðức Bồ Tát xin
làm học trò, Ngài đã kết những tràng hoa bằng nhiều loại hoa khác nhau, thành
hình ảnh hoàng hậu, Ðức vua v.v... chỉ có hoàng hậu biết mà thôi. Người thợ kết
hoa đem dâng Ðức vua cùng quý cô công chúa; hoàng hậu Pabhāvatī nhìn thấy tràng
hoa biết ngay, do bàn tay của đức vua Kusa, bà không chịu nhận tràng hoa ấy.
Ðức vua Bồ Tát bỏ ngôi báu, mẫu hậu, phụ hoàng xứ sở của mình đến kinh thành
Sāgala này với ý nguyện nhìn thấy hoàng hậu Pabhāvatī và rước hoàng hậu trở lại
cung điện. Ðức Bồ Tát suy nghĩ ở đây không thể thực hiện được ý nguyện của
mình, nên Ngài từ giã tiệm hàng kết hoa, tìm đến nhà bếp nơi làm đồ ăn dâng Ðức
vua cùng quý công chúa, để xin làm học trò phụ bếp. Người đầu bếp cho Ðức Bồ
Tát một ít xương còn dính thịt làm món ăn để dùng, Ngài đã làm thành một món ăn
thật ngon có mùi thơm toả ra khắp kinh thành bay đến cung điện. Ðức vua ngửi
thấy mùi thơm vật thực, truyền hỏi người đầu bếp đang dâng vật thực rằng:
- Này ngươi, còn món ăn đặc biệt nào ở nhà bếp mà ngươi chưa dâng cho Trẫm phải
không?
- Tâu Hoàng thượng, không có. – Người đầu bếp tâu.
- Ngươi để ý ngửi xem có phải hương vị món vật thực không? – Ðức vua truyền.
Người đầu bếp để ý ngửi, đúng là mùi thơm của món vật thực, bèn tâu rằng:
- Tâu hoàng thượng, hạ thần có cho người học trò mới phụ bếp một ít xương còn
dính thịt làm món ăn để dùng.
- Ngươi hãy về đem món ăn ấy cho Trẫm xem.
Người đầu bếp trở về lấy món ăn ấy dâng lên Ðức vua, Ðức vua vừa bỏ vào đầu
lưỡi, vị ngon, hương thơm toả ra toàn thân như nếm phải món vật thực của chư
thiên.
Ðức vua truyền lệnh rằng:
- Từ nay, ngươi để cho người học trò mới làm đồ ăn dâng lên Trẫm và quý công
chúa. Phần ăn của Trẫm thì chính ngươi đem đến, còn phần ăn của quý công chúa,
thì ngươi cho người học trò mới đem phân phát.
Người đầu bếp trở về thi hành theo ý chỉ của Ðức vua, giao việc nấu nướng những
thức ăn cho Ðức Bồ Tát, ông bảo Ðức Bồ Tát rằng:
- Ta đem phần ăn lên dâng Ðức vua, còn ngươi đem những phần ăn dâng đến quý công
chúa.
Ðức Bồ Tát nghe người đầu bếp phân công, trong lòng vô cùng vui mừng hoan hỉ,
nghĩ rằng: ý nguyện của ta sẽ thành tựu, từ nay ta có thể nhìn thấy mặt hoàng
hậu Pabhāvatī.
Như vậy, mỗi ngày Ðức Bồ Tát đem vật thực phân phát quý cô công chúa, với mục
đích chính là nhìn thấy chánh cung hoàng hậu Pabhāvatī.
Ðức Bồ Tát mang vật thực lên lâu đài hoàng hậu Pabhāvatī, Ðức vua vô cùng hoan
hỉ, khi nhìn thấy rõ chánh cung hoàng hậu Pabhāvatī, còn hoàng hậu cũng nhìn
thấy rõ Ðức vua tâm không hài lòng, nghĩ rằng:"Chỉ vì ta, mà đức vua Kusa đến
đây giả dạng người làm công, người tôi tớ. Thật không xứng đáng chút nào cả!
Nếu ta làm thinh, Ðức vua tưởng lầm ta còn thương tưởng đến Người rồi ở đây
luôn để mọi ngày nhìn thấy ta. Ta nên nói cho Ðức vua biết".
- Xin mời Ðại vương trở về kinh thành Kusavatī càng sớm càng tốt, thần thiếp
không muốn nhìn thấy Ðại vương có thân hình xấu xí đáng ghê sợ! Ðại vương ở đây
phải chịu vất vã khổ cực ngày đêm có ích lợi gì đâu?
Nghe lời chê trách với giọng hằn học của hoàng hậu, thay vì tức giận, Ðức vua
lại hài lòng hoan hỉ nghe được giọng nói của hoàng hậu, rồi đáp lại rằng:
- Này ái khanh Pabhāvatī, ái khanh xinh đẹp tuyệt trần, Trẫm rất sủng ái nơi ái
khanh, Trẫm không thể trở lại kinh thành Kusavatī một mình; Trẫm đã từ bỏ kinh
thành Kusavatī, từ bỏ cả ngôi báu, từ bỏ tất cả, chỉ vì ái khanh. Trẫm rất hài
lòng ở lại đây, để hằng ngày ngắm nhìn ái khanh.
- Này ái khanh, Trẫm say mê nơi sắc đẹp tuyệt trần của ái khanh, Trẫm chỉ cần
một mình ái khanh mà thôi, không cần đến ngôi báu ở kinh thành Kusavatī xứ
Malla to lớn....
Nghe lời phán của đức vua Kusa, hoàng hậu Pabhāvatī nghĩ rằng: Ta chê trách để
làm cho Ðức vua tức giận, trở về cố quốc. Ngược lại, Ðức vua không tức giận,
lại còn thốt lời yêu thương ràng buộc. Nếu người tự xưng danh "Ta là đức vua
Kusa" tiến đến nắm tay ta, thì còn ai dám can ngăn Ðức vua được.
Ðức vua Kusa ngự đến kinh thành Sāgala này, chỉ có hoàng hậu Pabhāvatī và bà
Khujjā người hầu thân tín biết mà thôi, còn những người khác hoàn toàn không ai
hay biết sự có mặt của đức vua Kusa.
Hoàng hậu Pabhāvatī cảm thấy lo sợ, nên lánh mặt, truyền dạy người hầu mỗi ngày
dùng phần ăn mà Ðức Bồ Tát dành cho bà; còn bà dùng phần ăn của người hầu.
Từ đó về sau, Ðức Bồ Tát không nhìn thấy mặt hoàng hậu Pabhāvatī, lòng thương
nhớ không nguôi, Ðức Bồ Tát nhờ đến bà Khujjā, người hầu của hoàng hậu rằng:
- Ta nhờ ngươi cố thuyết phục hoàng hậu gặp gỡ ta, nói chuyện vui vẻ, tươi cười
thương yêu ta, lấy đôi bàn tay mềm mại xoa nhẹ trên thân hình của ta. Nếu nhà
ngươi làm được như vậy, thì chắc chắn nhà ngươi sẽ được trọng thưởng.
Bà Khujjā nhận lời khẩn khoản tha thiết của Ðức Bồ Tát, cố gắng thuyết phục
hoàng hậu Pabhāvatī nhưng không có kết quả. Ðức vua Bồ Tát chờ mãi, chờ mãi
trải qua 7 tháng ròng rã mà vẫn chưa nhìn thấy mặt hoàng hậu Pabhāvatī.
Ðức Bồ Tát ngồi một mình than vãn rằng: đã trải qua 7 tháng rồi chưa về thăm mẫu
hậu và phụ vương; ở đây ngày đêm vất vả khổ cực, mà chẳng nhìn thấy mặt hoàng
hậu Pabhāvatī đâu...?
Nỗi khổ tâm của Ðức Bồ Tát động đến vua trời Sakka, hiểu rõ nguyện vọng của Ðức
Bồ Tát muốn gặp mặt hoàng hậu Pabhāvatī và rước nàng trở về kinh thành
Kusavatī, nên Ðức vua trời Sakka tìm cách giúp đỡ để Ðức Bồ Tát được toại
nguyện.
Ðức vua trời Sakka cho hoá ra nhiều sứ giả mang chiếu chỉ của Ðức vua Madda gởi
đến 7 Ðức vua ở 7 kinh thành khác nhau, cùng một lúc, với lời lẽ rằng: "Công
chúa Pabhāvatī đã li dị đức vua Kusa trở về kinh thành Sāgala rồi; nếu đại
vương muốn công chúa Pabhāvatī, xin ngự đến rước nàng".
Bảy Ðức vua từ 7 kinh thành đều ngự cùng với đoàn tuỳ tùng hộ tống đông đảo đến
kinh thành Sāgala gặp nhau cùng một lúc, các Ðức vua gặp hỏi nhau rằng:
- Ðại vương ngự đến đây với quốc sự gì?
Ðược biết, 7 Ðức vua ngự đến xứ Madda có cùng một mục đích "rước công chúa
Pabhāvatī về nước". Các Ðức vua nổi giận Ðức vua Madda và truyền rằng:
Ðức vua Madda dâng một mình công chúa Pabhāvatī đến 7 Ðức vua ở 7 kinh thành,
là một việc làm có tánh khiêu khích chúng ta. Chúng ta hãy cùng nhau bắt Ðức
vua Madda trị tội.
Cho nên, mỗi Ðức vua đều gởi chiếu chỉ với lời lẽ rằng: "Ðại vương Madda, hãy
dâng công chúa Pabhāvatī cho quả nhân hoặc chiến tranh".
Gởi chiếu chỉ xong, 7 Ðức vua đem quân vây quanh kinh thành Sāgala. Ðức vua
Madda biết như vậy, tâm vô cùng hoảng sợ, lệnh hội họp các quan bàn việc đối
phó, phải làm thế nào? Một vị quan tâu rằng:
- Tâu bệ hạ! 7 Ðức vua ngự đến đây, nguyên nhân do công chúa Pabhāvatī, xin bệ
hạ bắt công chúa Pabhāvatī dâng cho họ, để tránh khỏi cuộc chiến tranh xảy ra.
Nghe tâu như vậy, Ðức vua Madda truyền rằng:
- Nếu Trẫm bắt công chúa Pabhāvatī dâng cho một Ðức vua này, thì còn lại 6 Ðức
vua kia sẽ gây chiến tranh với ta. Như vậy, Trẫm không thể dâng công chúa cho
Ðức vua nào được.
Sự việc xảy ra như thế này, là do công chúa Pabhāvatī bỏ đức vua Kusa là một Ðức
vua có oai lực phi thường trong cõi Nam thiện bộ châu này, mà công chúa chê đức
vua Kusa có thân hình xấu xí, đáng ghê sợ, trở về đây. Cho nên, ngày nay, công
chúa Pabhāvatī đành phải chịu hậu quả ấy. Vậy bắt công chúa Pabhāvatī chặt làm
7 phần dâng cho 7 Ðức vua của 7 kinh thành.
Nghe tin như vậy, công chúa vô cùng kinh hoảng sợ chết, chặt làm 7 phần, nàng
vội vàng đến tìm mẫu hậu khóc than cầu xin cứu mạng; nhưng làm sao cải lệnh của
Ðức vua được.
Mẫu hậu quở trách công chúa Pabhāvatī rằng:
- Bởi con tự kiêu ngã mạn, ỷ lại sắc đẹp tuyệt trần của mình, nên chê trách đức
vua Kusa xấu xí đáng ghê sợ, bỏ Ðức vua về đây, nên ngày nay con phải chịu hậu
quả đau khổ như thế này!
Nếu mà bây giờ có đức vua Kusa oai lực phi thường, có giọng như sư tử chúa rống,
làm cho 7 Ðức vua này kinh hồn bạt vía, khiếp đảm bỏ chạy trốn thoát thân. Như
vậy, mới mong cứu mạng cho công chúa của ta thoát chết, rồi rước công chúa trở
lại kinh thành Kusavatī. Không biết đức vua Kusa bây giờ ngự ở nơi nào?
Nghe mẫu hậu tán dương ca tụng oai lực của đức vua Kusa, bây giờ công chúa
Pabhāvatī đã đến đường cùng rồi, không còn phải giấu giếm được nữa, nên tâu với
mẫu hậu rằng:
Tâu mẫu hậu, mẫu hậu ca tụng đức vua Kusa có oai lực phi thường có thể thắng
được 7 Ðức vua từ 7 kinh thành, chịu thua bỏ chạy, để cứu mạng cho con, khỏi
cái chết thê thảm này.
- Tâu mẫu hậu, đức vua Kusa ấy hiện đang ngự ở trong vòng cung điện này đây.
Mẫu hậu của công chúa Pabhāvatī truyền dạy rằng:
- Này con, vì quá sợ chết nên tâm trí con đã điên loạn rồi phải không? Hay là
con trở thành người ngu muội mới tâu với mẫu hậu như vậy! Nếu đức vua Kusa ngự
đến đây thật, tại sao phụ vương và mẫu hậu không hề hay biết?
Công chúa Pabhāvatī nghĩ rằng, mẫu hậu không tin theo lời của mình, và hoàn toàn
không hay biết đức vua Kusa ngự ở đây suốt 7 tháng qua, ta sẽ chỉ cho mẫu hậu
nhìn thấy Ðức vua.
Công chúa Pabhāvatī nắm tay mẫu hậu đến đứng gần cửa sổ chỉ tay xuống dưới nhà
bếp gần lâu đài của quý công chúa tâu rằng:
- Tâu mẫu hậu, đức vua Kusa giả dạng người đầu bếp, ăn mặc gọn gàng đang ngồi
rửa nồi, chảo....
Khi ấy, Ðức Bồ Tát suy tư rằng: hôm nay, nguyện vọng của ta chắc chắn được thành
tựu, bởi vì hoàng hậu Pabhāvatī sợ chết, chắc chắn tâu với mẫu hậu, phụ vương
biết, có mặt ta ở tại nơi đây.
Ðức Bồ Tát lo rửa tất cả mọi chén bát cho sạch sẽ, đem cất trong tủ gọn gàng.
Còn mẫu hậu quở mắng công chúa Pabhāvatī rằng:
- Này, ngươi có phải là đứa con gái hư không? Hay ngươi là đứa con gái làm hại
hoàng tộc phải không? Ngươi đã sanh trong dòng dõi của Ðức vua Madda, tại sao
ngươi có thể để Ðức vua hôn phu của ngươi làm người đầy tớ?
Nghe mẫu hậu quở mắng, công chúa Pabhāvatī tâu rằng:
- Tâu mẫu hậu! Con không phải đứa con hư; cũng không phải đứa con làm hại hoàng
tộc. Kia là đức vua Kusa, thái tử của thái thượng hoàng Okkāka, sao mẫu hậu
nghĩ rằng người đầy tớ?
Công chúa Pabhāvatī tán dương ca tụng oai lực của đức vua Kusa rằng:
- Tâu mẫu hậu! Ðức vua nào, hằng ngày thường cúng dường vật thực đến 20 ngàn vị
Bà la môn; Ðức vua ấy, tên là Kusa, thái tử của thái thượng hoàng Okkāka, sao
mẫu hậu nghĩ rằng người đầy tớ.
- Tâu mẫu hậu, các quân lính hằng ngày thường chuẩn bị đội tượng binh gồm 20
ngàn thớt voi cho Ðức vua nào, Ðức vua ấy là đức vua Kusa, thái tử của thái
thượng hoàng Okkāka, sao mẫu hậu nghĩ rằng người đầy tớ.
- Tâu mẫu hậu, các quân lính, hằng ngày thường chuẩn bị đội quân xa gồm 20 ngàn
chiếc cho Ðức vua nào, Ðức vua ấy tên là Kusa, thái tử của thái thượng hoàng
Okkāka, sao mẫu hậu nghĩ rằng người đầy tớ.
- Tâu mẫu hậu, các quân lính, hằng ngày thường vắt sữa bò gồm 20 ngàn con cho
Ðức vua nào, Ðức vua ấy tên là Kusa, thái tử của thái thượng hoàng Okkāka, sao
mẫu hậu nghĩ rằng người đầy tớ....
Khi công chúa Pabhāvatī tán dương ca tụng đức vua Kusa như vậy, với lời lẽ hùng
hồn, khiến cho mẫu hậu của nàng tin rằng, có đức vua Kusa thật, nên bà vội vã
đến tâu lên đức vua Madda, Ðức vua ngự đến lâu đài công chúa Pabhāvatī ngay tức
khắc, bèn truyền hỏi rằng:
- Này con, đức vua Kusa đang ngự tại đây có thật hay không?
- Tâu phụ vương! Ðiều đó có thật, đức vua Kusa đang làm phận sự người đầu bếp
của phụ vương cùng quý công chúa trải qua thời gian được 7 tháng rồi. – Công
chúa Pabhāvatī tâu.
Ðức vua Madda không thể nào tin đó là sự thật, nên truyền hỏi nàng hầu Khujjā
của công chúa.
Nàng hầu cũng tâu rõ sự thật mọi điều như công chúa. Ðức vua quở mắng công chúa
rằng:
- Này, ngươi là đứa con ngu xuẩn, ngươi đã làm điều tồi tệ quá! Tại sao, từ lâu
con không tâu với phụ vương được rõ? Ðức vua Kusa là một Ðại vương có nhiều oai
lực, thống soái toàn cõi Nam thiện bộ châu này, như là một con voi chúa, sao
con có thể xem như loài ếch được?
Quở mắng công chúa xong, Ðức vua vội vã ngự đến tìm Ðức Bồ Tát chấp hai tay xin
tha tội rằng:
- Tâu Ðại vương, bậc vĩ đại, xin người mở lòng thương mà tha tội kẻ bề tôi, vì
không biết Ðại vương đến nơi này, với hình thức không dễ ai biết được.
Nghe Ðức vua Madda tâu như vậy, Ðức Bồ Tát có tâm bi không quở trách, mà chỉ nói
lời an ủi để Ðức vua yên tâm rằng:
- Này Ðại vương, người như quả nhân chẳng giấu giếm gì, quả nhân là người đầu
bếp đã được Ðại vương trọng dụng và tin cậy.
Này Ðại vương, người không có tội lỗi gì mà quả nhân phải tha tội.
Nghe lời truyền dạy của Ðức Bồ Tát, Ðức vua yên tâm vội vã ngự đến lâu đài của
công chúa Pabhāvatī truyền dạy công chúa mau mau đến yết kiến đại vương Kusa
rằng:
- Này đứa con khờ dại, con hãy mau mau đến yết kiến Ðại vương, bậc đại hùng, cầu
xin Người tha tội. Nếu đại vương Kusa tha tội cho con, thì con mới mong thoát
khỏi chết. Trong đời này, chỉ có đức vua Kusa mới cứu mạng cho con được mà
thôi!
Nghe lời truyền dạy của phụ vương, công chúa Pabhāvatī cùng với các em của nàng,
nhóm nữ tỳ đông đảo đến yết kiến Ðức Bồ Tát; Ðức Bồ Tát đứng với tư thế người
đang rửa nồi chảo, biết hoàng hậu Pabhāvatī đến yết kiến mình, nên nghĩ rằng: hôm
nay ta sẽ trừ tánh tự kiêu ngã mạn của hoàng hậu Pabhāvatī, để cho nàng cúi đầu
đảnh lễ dưới đôi bàn chân dơ bẩn của ta. Ðức Bồ Tát giẫm đôi bàn chân
dính đầy sình lầy dơ bẩn, khi hoàng hậu Pabhāvatī đến cúi đầu đảnh lễ ôm hai
bàn chân của Ðức Bồ Tát xong, ngồi trên vũng sình lầy xin lỗi Ðức Bồ Tát rằng:
- Tâu hoàng thượng, thần thiếp xin cúi đầu lạy dưới đôi bàn chân của hoàng
thượng, thần thiếp ghét hoàng thượng đến ngày hôm nay là ngày cuối cùng. Cầu
xin hoàng thượng tha thứ tội cho thần thiếp, xin đừng giận thần thiếp nữa, thần
thiếp thành thật thề với hoàng thượng, xin hoàng thượng nghe rõ lời thề của
thần thiếp: kể từ nay về sau thần thiếp không còn ghét hoàng thượng nữa, một
lòng thương yêu hoàng thượng. Ðây là lời tha thiết khẩn khoản van xin của thần
thiếp, nếu hoàng thượng không đoái thương cứu mạng thần thiếp, thì ngay hôm
nay, phụ vương chắc chắn sẽ phân thây thần thiếp làm 7 phần, đem dâng cho 7 Ðức
vua đang vây ở ngoài thành.
Nghe lời khẩn khoản van xin của hoàng hậu Pabhāvatī, Ðức Bồ Tát động lòng trắc
ẩn, để cho hoàng hậu yên tâm mà phán rằng:
- Này ái khanh, lời khẩn khoản van xin của ái khanh, làm sao mà Trẫm không đoái
thương được!
Trẫm không giận ái khanh nữa đâu! Ái khanh, Pabhāvatī, xin đừng có sợ!
Trẫm cũng chân thành thề với ái khanh rằng: từ nay về sau Trẫm không ghét ái
khanh nữa.
Này ái khanh, Pabhāvatī, nàng là người sủng ái nhất của đời Trẫm, Trẫm có thừa
oai lực tiêu diệt dòng vua Madda, phụ vương của ái khanh, bắt ái khanh trở về
kinh thành Kusavatī. Nhưng vì Trẫm quá sủng ái ái khanh, nên Trẫm đành kiên trì
chịu đựng, bao nhiêu nỗi khổ thân khổ tâm chờ đợi cho đến ngày hôm nay.
Ðức Bồ Tát chăm chú nhìn thấy rõ công chúa Pabhāvatī, chánh cung hoàng hậu của
mình xinh đẹp tuyệt trần chẳng khác nào thiên nữ, chánh cung hoàng hậu của Ðức
vua trời Sakka cõi Tam thập tam thiên, làm cho tâm ngã mạn của dòng vua chúa
phát sanh và nghĩ rằng: "Ta còn sống ở đây, những Ðức vua nào có gan dám tranh
giành chánh cung hoàng hậu của ta được".
Ðức Bồ Tát tỏ rõ một vị đại vương có uy thế ngự đến trước sân rồng rống như sư
tử chúa, vỗ mạnh hai bàn tay mà phán rằng:
- Ta là đức vua Kusa đã đến rồi, toàn thể dân chúng trong kinh thành hãy xem ta
bắt sống 7 vị vua, tất cả quan quân chuẩn bị ngựa xe sẵn sàng cho ta.
Ðức vua Madda truyền cho người thợ cắt tóc cạo râu cho Ðức Bồ Tát xong; Ðức Bồ
Tát tắm rửa, mặc bộ đồ đại vương tỏ vẻ oai phong lẫm liệt ngự lên bạch tượng
ngồi đằng trước, truyền cho hoàng hậu Pabhāvatī ngồi đằng sau xông ra trận địa,
cùng các đội binh mã, quân xe hộ tống, ngự ra cửa phía Ðông, đưa mắt nhìn thấy
binh lính kẻ thù đang vây xung quanh thành, Ðức vua Bồ Tát cất giọng xưng hô ba
lần như sư tử chúa rống rằng:
- Ta là vua Kusa, ai muốn sống, hãy mau mau khuất phục ta ngay!
Binh lính của 7 Ðức vua từ 7 kinh thành nghe giọng nói như sư tử chúa rống của
đức vua Kusa đều kinh hồn bạt vía khiếp đảm giẫm nhau mà chạy; như bầy nai nghe
tiếng rống của sư tử chúa chạy trốn thoát thân.
Ðức Bồ Tát truyền lệnh bắt sống 7 vị vua từ 7 kinh thành trói dẫn về trình Ðức
vua Madda. Nhìn thấy Ðức vua Bồ Tát toàn thắng, Ðức vua trời Sakka vô cùng hoan
hỉ dâng lên Ðức Bồ Tát một viên ngọc Manī tên "Rocana: huy hoàng xán lạn"
nhờ oai lực của viên ngọc Manī ấy, Ðức Bồ Tát thay hình đổi dạng có tướng hảo
quang minh, thân hình trở nên tốt đẹp không kém hoàng hậu Pabhāvatī.
Ðức vua Bồ Tát đã toàn thắng ngồi trên bạch tượng đằng sau có hoàng hậu
Pabhāvatī kéo quân ngự vào cung điện Ðức vua Madda, dẫn theo 7 Ðức vua từ 7
kinh thành vào yết kiến Ðức vua Madda. Ngài phán rằng:
Này Ðại vương! Ðây là 7 vị vua của 7 kinh thành là kẻ thù của Người, bây giờ ở
trong quyền hành của Người, Người muốn giam giữ tù đày, hoặc phóng thích, hoặc
xử tử tuỳ ý của Người.
Nghe truyền như vậy, đức vua Madda tâu rằng:
- Tâu Ðại vương, 7 vị vua này là kẻ thù của Ðại vương, không phải kẻ thù của quả
nhân.
Tâu Ðại vương! Ngài là Ðức vua lớn bảo hộ quả nhân, cho nên chỉ có Ngài mới có
quyền phóng thích, hoặc xử tử 7 vị vua này tuỳ ý Ngài.
Ðức vua Madda tâu trình như vậy, Ðức Bồ Tát nghĩ rằng: lợi ích gì xử tử 7 vị vua
này, 7 vị vua đến đây phải có được lợi gì khi trở về, Ðức vua Madda còn có 7
công chúa xinh đẹp là em của công chúa Pabhāvatī, ta ban 7 công chúa này cho 7
vị vua ở 7 kinh thành thì có lợi biết dường nào! Ðức Bồ Tát phán rằng:
- Này Ðại vương, Người còn có 7 công chúa, xin Người ban cho 7 vị vua ở 7 kinh
thành; như thế 7 vị vua này sẽ trở thành những Ðức vua phò mã của Người.
Ðức vua Madda tâu rằng:
- Tâu Ðại vương, Ngài là Ðức vua lớn bảo bộ quả nhân và công chúa của quả nhân.
Vậy xin Ngài ban 7 công chúa của quả nhân cho 7 Ðức vua theo ý muốn của Ngài.
Ðức vua Bồ Tát truyền lệnh trang điểm 7 công chúa của Ðức vua Madda cho xinh
đẹp, rồi ban cho mỗi Ðức vua một công chúa.
Bảy Ðức vua ở 7 kinh thành vô cùng hoan hỉ, cảm đội ơn đức vua Kusa và đức vua
Madda nhạc phụ kéo quân ngự trở về kinh thành của mình cùng với một nàng công
chúa xinh đẹp.
Ðức vua Bồ Tát ngự lại 2 – 3 hôm sau mới từ giã Ðức vua Madda ngự trở về kinh
thành Kusavatī. Trên long xa, đức vua Kusa cùng chánh cung hoàng hậu Pabhāvatī
ngồi sánh đôi, mỗi người mỗi vẻ không ai kém ai, trên đường ngự trở về kinh
thành Kusāvatī, lễ đón rước vô cùng long trọng.
Ðược tin đức vua Kusa cùng chánh cung hoàng hậu Pabhāvatī trở về, Thái thượng
hoàng và Hoàng thái hậu truyền lệnh trang hoàng cung điện, cũng như trong kinh
thành thật lỗng lẫy làm lễ đón mừng.
Khi ấy, thái thượng hoàng Okkāka, hoàng thái hậu Sīlavatī và hoàng đệ Jayampati
của Ðức Bồ Tát ngự ra khỏi thành đón rước, còn các hoàng gia bá quan văn võ,
dân chúng trong thành đều hân hoan đón mừng đức vua Kusa và chánh cung hoàng
hậu Pabhāvatī trở về. Ðức vua truyền lệnh cho phép tổ chức lễ hội mừng suốt 7
ngày đêm. Kể từ đó đức vua Kusa và chánh cung hoàng hậu Pabhāvatī sống hoà hợp
nhau, trị vì đất nước Malla được an lành thịnh vượng cho đến hết tuổi thọ.
Ðức Phật thuyết về truyện tiền thân Kusajātaka xong, những nhân vật trong câu
truyện liên quan đến kiếp hiện tại như sau:
Thái thượng hoàng Okkāka, kiếp hiện tại nay là Ðức vua Suddhodana.
Hoàng thái hậu Sīlavatī, kiếp hiện tại nay là hoàng hậu Mayādevī.
Hoàng đệ Jayampati, kiếp hiện tại nay là Ðại Ðức Ānanda.
Chánh cung hoàng hậu Pabhāvatī, kiếp hiện tại nay là hoàng hậu Yasodhara.
Ðức vua Kusa, kiếp hiện tại nay là Ðức Phật Gotama của chúng ta.
Qua câu truyện tiền thân Kusajātaka giúp hiểu rõ những điều như:
1- Về tác ý (cetanā) tạo nghiệp.
Ðức Phật dạy: "Này chư Tỳ khưu, Như Lai gọi tác ý là nghiệp, sau khi suy nghĩ rồi
tạo nghiệp do thân, khẩu, ý".
Tác ý thiện tâm đồng sanh trong thiện tâm phát sanh ba thời:
Tác ý trước khi bố thí.
Tác ý đang khi bố thí.
Tác ý sau khi bố thí xong, thời gian không hạn định.
Trường hợp người chị dâu và người em chồng (Ðức Bồ Tát) cùng làm phước thiện bố
thí cúng dường đến Ðức Phật Ðộc Giác; song tác ý hai người khác nhau, nên tạo nghiệp
khác nhau, dĩ nhiên quả của nghiệp cũng khác nhau.
Người chị dâu: tác ý trước khi bố thí, tác ý đang khi bố thí và tác ý sau
khi đã bố thí xong đều là tác ý thiện tâm hoàn toàn trong sạch suốt cả ba thời
tạo thiện nghiệp bố thí.
Người em chồng: tác ý thiện tâm cả ba thời tạo thiện nghiệp bố thí; song
giai đoạn thời gian trước khi bố thí, đã tạo ác nghiệp tức giận người
chị dâu đã đem phần bánh chiên của mình bố thí cúng dường đến Ðức Phật Ðộc
Giác.
2- Về nghiệp và quả của nghiệp.
Phước thiện bố thí cho quả báu được giàu sang phú quý, có quyền cao chức trọng.
Người chị dâu: do năng lực thiện nghiệp bố thí ấy, cho quả báu được tái
sanh làm công chúa của Ðức vua Madda ở kinh thành Sāgala, vùng Madda. Do tác ý
thiện tâm hoàn toàn trong sạch suốt cả ba thời tạo nghiệp bố thí, cho nên hưởng
được quả báu suốt cả ba thời trong cuộc đời: thời ấu niên, thời trung niên và
thời lão niên được giàu sang phú quý, quyền cao chức trọng.
Người em chồng: do năng lực thiện nghiệp bố thí ấy, cho quả báu được tái
sanh làm thái tử của Ðức vua Okkāka ở kinh thành Kusavatī, xứ Malla. Do
tác ý thiện tâm trước khi bố thí ngắn ngủi, có phiền não làm ô nhiễm, tác
ý đang khi bố thí và sau khi bố thí xong đều trong sạch; cho nên, hưởng quả báu
trong suốt cuộc đời giàu sang phú quý, quyền cao chức trọng. Song bị ác nghiệp
tức giận trước khi bố thí cho quả sau khi tái sanh vào thời ấu niên có thân
hình xấu xí đáng ghê sợ, đến thời trung niên và lão niên thân hình trở
nên tốt đẹp, đó là do quả cả thiện nghiệp.
3- Về lời phát nguyện và sự thành tựu.
Lời phát nguyện là điều mong muốn, ý nguyện riêng của mình có được thành tựu như
ý hay không, đều do năng lực phước thiện của mình đã tạo. Năng lực phước thiện
mạnh thì được thành tựu như ý, ngược lại năng lực phước thiện yếu, thì khó
thành tựu. Năng lực phước thiện mạnh cần phải hội đủ 3 điều kiện:
Vật bố thí hoàn toàn hợp pháp.
Tác ý thiện tâm cả 3 thời hoàn toàn trong sạch.
Người thọ nhận vật bố thí phải là bậc có giới đức hoàn toàn trong sạch; bậc ấy
phải là Ðức Phật Toàn Giác, hoặc là Ðức Phật Ðộc Giác, hoặc bậc Thánh A-ra-hán.
Nếu đủ 3 điều kiện này, mới có năng lực phước thiện mạnh và nhiều; thì thí chủ
có ý nguyện nào cũng dễ dàng thành tựu được như ý nguyện ấy.
Người chị dâu và người em chồng đều có đủ 3 điều kiện.
- Người chị dâu phát nguyện: Kiếp sau, cầu xin cho con có được sắc thân xinh đẹp
tuyệt trần, không một ai sánh kịp, có ánh sáng hào quang toả ra từ sắc thân
suốt đêm ngày. Xin đừng sống chung với hạng người ác như chú em chồng của con.
Kiếp sau, sanh làm công chúa Pabhāvatī đó là quả báu được thành tựu đúng theo
lời phát nguyện trong tiền kiếp, trong đó có điều không muốn sống chung với đức
vua Kusa.
- Người em chồng phát nguyện: Kiếp sau, chị dâu của con dầu ở xa hằng trăm do
tuần, xin cho con có đủ khả năng rước đem về làm vợ của con.
Kiếp sau, sanh làm thái tử Kusa đã tìm được công chúa Pabhāvatī rước về làm
chánh cung hoàng hậu. Ðó là quả báu được thành tựu đúng theo lời phát nguyện
trong tiền kiếp.
Nhưng khi hoàng hậu Pabhāvatī (chị dâu tiền kiếp) nhìn thấy rõ đức vua Kusa (em
chồng kiếp trước) liền có cảm ứng tự nhiên vừa ghét vừa ghê sợ Ðức vua, do bởi
năng lực lời phát nguyện trong tiền kiếp, nên hoàng hậu từ bỏ đức vua Kusa trở
về kinh thành Sāgala của phụ vương mình.
Bởi do năng lực lời phát nguyện trong tiền kiếp, nên đức vua Kusa đeo đuổi theo
hoàng hậu Pabhāvatī. Do năng lực phước thiện và lời phát nguyện của Ðức Bồ Tát có
nhiều năng lực hơn người thường, khiến vua trời Sakka phải giúp
đỡ Ðức Bồ Tát cho được thành tựu như ý nguyện, làm thay đổi thân hình xấu xí
đáng ghê sợ trở thành thân hình tốt đẹp, đem hoàng hậu trở lại kinh thành
Kusavatī sống chung trong tình thương yêu kính mến nhau cho đến trọn đời.
Qua lời phát nguyện của hai người, chị dâu và em chồng có điều trái ngược nhau:
kiếp sau người chị dâu không muốn sống chung với người em chồng; ngược lại
người em chồng chỉ muốn sống chung với người chị dâu mà thôi.
Kết quả: lời phát nguyện của Ðức Bồ Tát có năng lực hơn lời phát nguyện của
hoàng hậu Pabhāvatī, khiến hoàng hậu Pabhāvatī thay đổi thái độ tâm tính từ
ghét và kinh sợ đức vua Kusa chuyển sang không ghét, một lòng thương yêu Ðức
vua, và đức vua Kusa cũng thương yêu hoàng hậu. Cả hai người nói lên bằng lời
thề chân thật với nhau.
Ðiều đó, có thể hiểu rõ rằng: quá khứ có ảnh hưởng đến hiện tại, song hiện tại
cũng có thể làm thay đổi, để cho tương lai theo ý của mình.
Có Phước Chọn Ðược Cõi Tái Sanh
Trong đời, người giàu có nhiều tiền nhiều bạc, có thể chọn mua sắm những gì theo
ý muốn của mình. Trong đạo, bậc Thiện trí phàm nhân có nhiều phước thiện cũng
có thể chọn trước cảnh giới tái sanh theo ý muốn của mình.
Như những hành giả tiến hành thiền định chứng đắc được bậc thiền nào (bậc thiền
sắc giới, bậc thiền vô sắc giới) cho đến khi gần chết chưa bị hư mất;
sau khi chết, chắc chắn bậc thiền ấy cho quả tái sanh lên cõi sắc giới phạm
thiên, hoặc cõi vô sắc giới phạm thiên tương xứng với bậc thiền sở đắc của
mình.
Ðó là sắc giới thiện nghiệp và vô sắc giới thiện nghiệp.
Ðối với những bậc Thiện trí phàm nhân đã tạo dục giới thiện nghiệp như: làm
phước bố thí, giữ giới, tiến hành thiền định mà chưa chứng đắc được bậc thiền
nào; tiến hành thiền tuệ..., còn thuộc về dục giới đại thiện tâm. Những bậc
Thiện trí này có nhiều phước thiện, đến khi sắp từ bỏ thể xác (chết), có
thể chọn 1 trong 7 cõi thiện giới: 1 cõi người và 6 cõi trời dục giới theo ý
muốn của mình, để làm đối tượng nương nhờ tái sanh kiếp sau. Cho nên, sau khi
từ bỏ sắc thân (chết), do năng lực dục giới thiện nghiệp cho quả tái
sanh kiếp sau, theo cảnh giới mà mình đã chọn từ kiếp trước lúc sắp lâm chung.
Trích dẫn một tích người cận sự nam Dhammika [Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, tích
Dhammika upāsikavatthu] trong bộ Chú giải Pháp cú.
Một thuở nọ, Ðức Thế Tôn ngự tại chùa Jetavana gần thành Sāvatthi, đề cập đến
cận sự nam Dhammika được tóm lược như sau:
Trong kinh thành Sāvatthi, ông cận sự nam Dhammika là người cao quý nhất trong
nhóm 500 cận sự nam. Ông có 7 người con trai và 7 người con gái đều là những
người cận sự nam, cận sự nữ, có đức tin trong sạch nơi Ðức Phật, Ðức Pháp, Ðức
Tăng, Tam bảo. Trong tư thất thường làm phước thiện bố thí như: bố thí cháo, bố
thí vật thực, bố thí vật thực vào ngày rằm và cuối tháng, bố thí vật thực vào
ngày giới hằng tháng, thỉnh chư Tỳ khưu Tăng thọ trai tại nhà, bố thí vật thực
chư Tỳ khưu khách đến, cúng dường vật thực chư Tỳ khưu Tăng an cư nhập 3 tháng
hạ v.v.... Toàn gia đình gồm cha mẹ và các con đều là những người hoan hỉ trong
phước thiện bố thí, gìn giữ giới hạnh trong sạch, hoan hỉ trong việc nghe pháp.
Một hôm, ông Dhammika bị lâm bệnh nặng sắp lâm chung, muốn nghe tụng kinh, ông
sai người đến hầu Ðức Phật, kính xin Ðức Phật cho phép 8 hoặc 16 vị Tỳ khưu
Tăng đến nhà ông.
Ðức Phật cho phép chư Tỳ khưu đến nhà ông, thỉnh ngồi nơi đã sắp đặt sẵn quanh
giường của ông, ông bạch rằng:
- Kính bạch chư Ðại Ðức, được chiêm ngưỡng quý Ngài là một điều khó đối với con,
nay con yếu quá rồi, kính xin quý Ngài tế độ tụng cho con được nghe một bài
kinh.
- Này Dhammika, ông muốn nghe bài kinh nào? – Chư Tỳ khưu hỏi.
- Kính bạch chư Ðại Ðức, con tha thiết cầu xin quý Ngài tụng cho con nghe bài
kinh "Mahāsati-paṭṭhānasutta": kinh Ðại Niệm Xứ mà chư Phật (quá khứ,
hiện tại, vị lai) thường thuyết giảng.
Chư Tỳ khưu bắt đầu tụng rằng:
"Ekāyano ayaṃ bhikkhave maggo sattānaṃ visuddhiyā...".
Ngay khi ấy có 6 chiếc xe trời, mỗi chiếc có 1.000 con ngựa quý kéo, trang hoàng
lộng lẫy từ 6 cõi trời dục giới kéo đến xin đón rước ông [con ngựa thật là loài
súc sanh không thể tái sanh lên cõi trời, những con ngựa quý này do phép mầu
của chư thiên hoá ra làm phận sự kéo xe trời, không phải con ngựa loài súc
sanh]. Chư thiên ở mỗi cõi trời đều khẩn khoản mời ông rằng:
Amhākaṃ devalokaṃ nessāma!
Amhākaṃ devalokaṃ nessāma!...
Chúng tôi xin rước ông lên cõi trời của chúng tôi!
Chúng tôi xin rước ông lên cõi trời của chúng tôi!
Kính mời ông tái sanh lên cõi trời của chúng tôi, để cho cõi trời của chúng tôi
được huy hoàng xán lạn thêm, như người từ bỏ đồ dùng cũ kỹ rạn nứt rồi, đổi lấy
đồ dùng bằng vàng ròng (vàng mười) tái sanh cõi trời chúng tôi hưởng nhiều sự
an lạc lắm!
Ông cận sự nam không muốn những nhóm chư thiên ấy làm trở ngại việc nghe pháp
của ông, nên ông bảo rằng:
Āgametha! Āgametha!
Xin quý Ngài chờ một lát! Xin quý Ngài chờ một lát!
Chư Tỳ khưu Tăng đang tụng kinh, nghe ông nói như vậy, nên ngừng lại, vì nghĩ
rằng: ông nói với chúng ta.
Khi chư Tỳ khưu Tăng ngưng tụng kinh, các con ông than khóc kể lể rằng:
- Trước đây, cha của chúng con hoan hỉ trong việc lắng nghe pháp không bao giờ
biết đủ, chính cha đã cho thỉnh chư Tỳ khưu đến tụng kinh cho cha nghe. Nhưng
bây giờ, chính cha đã ngăn cản chư Tỳ khưu không cho tụng kinh, cớ sao như vậy?
Chư Tỳ khưu bàn với nhau rằng: "Bây giờ không phải là lúc tụng kinh", nên
các Ngài đứng dậy trở về chùa.
Ông cận sự nam không nghe tiếng tụng kinh mà nghe tiếng khóc của các con nên hỏi
rằng:
- Này các con, tại sao các con lại khóc như vậy?
- Thưa cha, chính cha đã cho thỉnh chư Tỳ khưu đến tụng kinh cho cha nghe, rồi
cũng chính tự cha lại ngăn cấm Tỳ khưu không cho tụng kinh nữa. Thấy như vậy,
nên chúng con buồn mà than khóc vậy.
- Chư Ðại Ðức đi đâu rồi? Ông cận sự nam hỏi.
- Thưa cha, chư Ðại Ðức bàn với nhau: "Bây giờ không phải lúc tụng kinh",
nên quý Ngài đã trở về chùa rồi.
- Cha không phải ngăn cấm chư Ðại Ðức. – Ông cận sự nam nói.
- Thưa cha, nếu như vậy cha ngăn cấm ai vậy?
Ông cận sự nam Dhammika giải thích cho các con hiểu rằng:
- Có 6 chiếc xe từ 6 cõi trời dừng trên hư không, chư thiên mỗi cõi trời đều
khẩn khoản mời cha rằng:
Amhākaṃ devaloke abhirama!
Amhākaṃ devaloke abhirama!
Xin ông hoan hỉ hưởng sự an lạc nơi cõi trời của chúng
tôi!
Xin ông hoan hỉ hưởng sự an lạc nơi cõi trời của chúng tôi!
Cha không muốn các chư thiên ấy quấy rầy, làm trở ngại việc nghe pháp của cha,
nên cha chỉ ngăn cấm họ mà thôi.
- Thưa cha, xe trời ở đâu mà chúng con không thấy?
Ông cận sự nam hiểu biết rõ đây là Gatinimitta: hiện tượng cảnh giới tái sanh,
chỉ có một mình ông thấy mà thôi, nên ông tìm cách khác để chứng minh cho các
con tin lời của ông, ông hỏi rằng:
- Này các con, vòng hoa dành cho cha có không?
- Thưa cha, dạ có vòng hoa.
- Này các con, trong 6 cõi trời dục giới, cõi trời nào đáng hài lòng nhất?
- Thưa cha, cõi trời Tusita (Ðâu suất đà thiên) là cõi mà chư Bồ Tát, thân mẫu
của Ðức Phật... thường hài lòng nơi cõi trời ấy.
Ông cận sự nam Dhammika chọn cõi trời Tusita là nơi sẽ tái sanh kiếp sau, do đó,
ông dạy các con ông rằng:
- Này các con, các con nguyện rằng: "Xin cho vòng hoa này đeo vào đầu xe từ cõi
trời Tusita" rồi các con ném lên hư không.
Các con của ông làm theo lời chỉ dạy của ông, ném vòng hoa lên hư không, kỳ diệu
thay! Vòng hoa ấy treo lư lửng trên hư không, mọi người đều có thể nhìn thấy
vòng hoa trên hư không, nhưng mắt thường không thể nhìn thấy chiếc xe trời (chỉ
có nhãn thông mới nhìn thấy được).
Ông cận sự nam hỏi các con rằng:
- Này các con, các con có nhìn thấy vòng hoa trên hư không hay không?
- Thưa cha, chúng con đều nhìn thấy.
Ông cận sự nam Dhammika giải thích rằng:
- Cái vòng hoa ấy đeo trên chiếc xe từ cõi trời Tusita đấy. Sau khi cha từ giã
(chết) cõi người này rồi, do thiện nghiệp dẫn dắt cho quả tái sanh lên cõi trời
Tusita ấy.
Các con chớ nên buồn rầu, các con muốn tái sanh cùng cảnh giới với cha, thì các
con nên tạo mọi phước thiện như bố thí, giữ giới, hành thiền, nghe pháp, hành
theo pháp v.v... như cha vậy.
Sau khi ông cận sự nam Dhammika khuyên răn dạy dỗ các con của ông xong, ông giữ
tâm an tịnh từ giã (chết) cõi người. Sau khi chết, do thiện nghiệp cho
quả tái sanh lên cõi trời Tusita mà ông đã chọn từ trước lúc sắp lâm chung, hoá
sanh lên cõi trời Tusita, là một thiên nam có thân hình cao 3 gāvuta [gāvuta:
chiều dài 5.120,64 mét hoặc 3.18 miles], trang sức những đồ quý giá, trong một
lâu đài bằng ngọc ngà nguy nga tráng lệ lớn rộng 25 do tuần [do tuần (yojana):
chiều dài 20.482,56 mét hoặc 12.72 miles], có một ngàn thiên nữ xinh đẹp hầu hạ
ngày đêm.
Khi chư Tỳ khưu trở về đến chùa, Ðức Thế Tôn bèn hỏi rằng:
- Này chư Tỳ khưu, ông cận sự nam có nghe trọn bài kinh hay không?
Kính bạch Ðức Thế Tôn, ông cận sự nam nghe phần đầu; trong khi đang tụng kinh,
ông nói: "xin quý Ngài chờ một lát". Nghe như vậy, chúng con ngừng tụng
kinh, thì các con của ông than khóc, chúng con bàn với nhau rằng: "Bây giờ không
phải lúc tụng kinh" nên chúng con đứng dậy trở về đây.
- Này chư Tỳ khưu! Ông cận sự nam Dhammika không phải nói với các con đâu! Khi
ấy, chư thiên từ 6 cõi trời, mỗi cõi đem mỗi chiếc xe trời khẩn khoản mời ông
tái sanh lên cõi trời của mình. Ông không muốn quý vị chư thiên quấy rầy, làm
trở ngại việc nghe pháp của ông, nên ông nói ngăn cấm các nhóm chư thiên ấy.
- Kính bạch Ðức Thế Tôn, đúng như vậy thì kiếp này ông tái sanh vào cõi nào?
- Này chư Tỳ khưu, ông đã tái sanh bằng hoá sanh vào cõi trời Tusita rồi.
- Kính bạch Ðức Thế Tôn, khi trong cõi người, ông cận sự nam Dhammika được hưởng
sự an lạc trong gia đình bà con bè bạn; nay hoá sanh lên cõi trời, làm chư
thiên cũng được hưởng sự an lạc trong cõi trời nữa.
Ðức Phật dạy rằng:
- Này chư Tỳ khưu, đúng vậy, người không dễ duôi quên mình, tiến hoá trong mọi
thiện pháp, dầu là người tại gia cư sĩ hoặc bậc xuất gia sống nơi nào cũng đều
được sự an lạc.
Ðức Phật thuyết bài kệ rằng:
"Chư Tỳ khưu các con!
Người tạo nhiều phước thiện,
An lạc trong đời này,
Ðời sau cũng an lạc,
Cả hai đời an lạc,
Do thiện nghiệp của mình,
Trong sạch và thanh tịnh,
Ðời đời được an lạc".
Trường hợp ông cận sự nam Dhammika, trước khi lâm chung gatinimitta: hiện tượng
cảnh giới tái sanh, đó là 6 chiếc xe trời cùng 6 nhóm chư thiên từ 6
cõi trời hiện xuống đón rước ông, ông đã chọn chiếc xe từ cõi trời Tusita làm
đối tượng tái sanh kiếp sau. Cho nên, sau khi chết, do thiện nghiệp cho quả tái
sanh làm thiên nam trong cõi trời Tusita.
Tóm lại, những bậc thiện trí có nhiều phước thiện có thể chọn được cảnh thiện
giới làm cõi tái sanh kiếp sau theo ý muốn của mình. Cũng như người có nhiều
tiền, nhiều bạc có thể chọn mua sắm thứ gì theo ý muốn của mình. Ngược lại,
chúng sinh vô phước phải cam chịu cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc
sanh) do bởi ác nghiệp của mình đã tạo, những chúng sinh ấy không có
quyền chọn lựa cảnh giới để tái sanh; hoàn toàn tuỳ thuộc vào ác nghiệp cho quả
khổ, cũng như người nghèo nàn phải chịu đời sống thiếu thốn, đói khát khổ cực.
Vậy, muốn chọn cõi tái sanh kiếp sau, trong cảnh giới thiện nào, thì nên tạo
thiện nghiệp tương xứng với cảnh giới ấy.
CHÚ THÍCH:
Con người nói riêng, tất cả chúng sinh nói chung (trừ bậc Thánh A-ra-hán, bởi vì
không còn tái sanh nữa) trước khi từ bỏ thân xác này (gọi là chết)
luôn luôn có một trong ba hiện tượng hiện ra, để làm đối tượng nương nhờ tái
sanh kiếp sau:
Ba hiện tượng:
1- Kamma: nghiệp, đó là thiện nghiệp hoặc ác nghiệp của
mình đã tạo từ trong kiếp quá khứ cho đến kiếp hiện tại trước lúc lâm chung,
hiện ra trong tâm làm đối tượng nương nhờ để tái sanh kiếp sau.
2- Kammanimitta: hiện tượng nghiệp, đó là những hình ảnh,
hoặc những đối tượng hiện ra liên quan đến thiện nghiệp hoặc ác nghiệp của mình
đã tạo từ trước, làm đối tượng nương nhờ để tái sanh kiếp sau.
3- Gatinimitta: hiện tượng cảnh giới tái sanh, đó là cảnh
giới hiện ra trước mắt, tạo nên ấn tượng sẽ được gặp, sẽ được thọ hưởng an lạc
trong cõi thiện giới ở kiếp sau, do thiện nghiệp của mình đã tạo, hoặc chịu khổ
cực trong cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sanh) ở
kiếp sau, do ác nghiệp của mình đã tạo.
Ba hiện tượng này chỉ có người hoặc chúng sinh sắp chết mới thấy, mới biết mà
thôi; và đặc biệt có những bậc Thiện trí có thiên nhãn thông, và chư
thiên có thể thấy, có thể biết được. Ngoài ra, những chúng sinh khác không thể
thấy, không thể biết được.
Bố Thí Chỗ ở cõi Người, Lâu Ðài Hiện Ra Cõi Trời
Bốn thứ vật dụng cần thiết cho con người là: y phục, vật thực, chỗ ở và thuốc
trị bệnh. Trong bốn thứ này, thí chủ làm phước bố thí chỗ ở có được phước thiện
nhiều hơn ba thứ kia, bởi vì chỗ ở có tính chất bền vững lâu dài. Cho nên,
phước thiện được phát triển, do đó quả báu của phước thiện ấy đặc biệt vô cùng
phong phú.
Trích dẫn tích Nandiya [Dhammapadaṭṭhakathā, chuyện Nandiyavatthu] trong bộ Chú
giải Pháp cú.
Một thuở nọ, Ðức Thế Tôn ngự tại khu rừng phóng sanh nai, gọi là Isipatana đề
cập đến thí chủ Nandiya, được tóm lược như sau:
Trong thành Bārāṇasī, một gia đình có đức tin trong sạch nơi Tam bảo, hằng ngày
thường hoan hỉ làm phước thiện bố thí cúng dường đến chư Tỳ khưu Tăng, gia đình
có một người con trai tên Nandiya được cha mẹ nuôi nấng và dạy dỗ, cậu Nandiya
trở nên người cận sự nam có đức tin trong sạch nơi Tam bảo, biết bổn phận phụng
dưỡng cha mẹ và thường cúng dường những thứ vật dụng cần thiết đến chư Tỳ khưu
Tăng.
Khi cha mẹ qua đời, cận sự nam Nandiya trở thành người đại thí chủ thường cúng
dường bốn thứ vật dụng: y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc trị bệnh đến chư Tỳ khưu
Tăng và những người nghèo khổ, khách lữ hành....
Một hôm, cận sự nam Nandiya nghe Ðức Phật thuyết pháp về phước thiện bố thí chỗ
ở và quả báu đặc biệt của nó, ông phát sanh đức tin trong sạch, cho xây cất một
Tăng xá tại ngôi chùa trong khu rừng Isipatana, có trang bị mọi đồ dùng cần
thiết. Ngày làm lễ khánh thành, ông thành kính cúng dường Tăng xá đến chư Tỳ
khưu Tăng có Ðức Phật chủ trì. Khi dâng nước làm lễ bố thí (dakkhiṇodaka: nước
làm lễ bố thí tuôn chảy xuống ngón tay theo tục lệ cổ truyền lễ bố thí)
đang tuôn chảy xuống ngón tay, đồng thời, khi ấy trên cung Tam thập tam
thiên hiện ra một lâu đài bằng 7 thứ báu, rộng 12 do tuần, cao 100 do tuần nguy
nga, tráng lệ, có nhóm thiên nữ hầu đông đảo trông chờ chủ nhân Nandiya.
Một hôm, Ðại Ðức Mahāmoggallāna du hành lên cung Tam thập tam thiên đứng nhìn
thấy lâu đài nguy nga tráng lệ ấy muốn biết chủ nhân là ai, nên Ngài hỏi các vị
chư thiên rằng:
- Này quý vị chư thiên, lâu đài có nhiều thiên nữ này thuộc về vị thiên nam nào
vậy?
Nhóm chư thiên bạch rằng:
- Kính bạch Ðại Ðức, lâu đài này hiện ra dành cho thiên nam Nandiya, là thí chủ
dâng Tăng xá tại khu rừng Isipatana đến chư Tỳ khưu Tăng có Ðức Phật chủ trì.
Nhóm thiên nữ nhìn thấy ngài Ðại Ðức Mahā-moggallāna, từ lâu đài đi xuống, đến
hầu đảnh lễ Ngài Ðại Ðức bạch rằng:
- Kính bạch Ngài Ðại Ðức, chúng con sanh ở đây với hy vọng rằng chúng con sẽ là
những thiên nữ hầu hạ của thiên nam Nandiya.
Kính bạch ngài Ðại Ðức, khi Ngài trở về cõi người, xin Ngài từ bi nói hộ ông thí
chủ Nandiya rằng: "từ bỏ sự nghiệp cõi người rồi hưởng sự nghiệp nơi cõi trời"
ví như từ bỏ một món đồ cũ bằng đất bị bể, chọn lấy một món đồ mới khác bằng
vàng giá trị hơn. Cũng như vậy, từ bỏ sự nghiệp cõi người rồi, hưởng sự nghiệp
nơi cõi trời an lạc hơn nhiều.
Khi ngài Ðại Ðức Mahāmoggallāna từ giã cõi trời, trở về cõi người đến hầu Ðức
Thế Tôn, đảnh lễ Ðức Thế Tôn bạch rằng:
- Kính bạch Ðức Thế Tôn: lâu đài hiện ra nơi cõi trời dành cho người thí chủ đã
tạo phước thiện còn trong cõi người có hay không? Bạch ngài.
- Này Moggallāna, lâu đài và các thiên nữ hiện ra nơi cõi trời dành cho thí chủ
Nandiya, chính con đã tận mắt nhìn thấy không phải hay sao? Tại sao con còn hỏi
Như Lai nữa.
- Kính bạch Ðức Thế Tôn, dạ phải, chính con đã thấy lâu đài, sự nghiệp của thí
chủ Nandiya.
Ðức Phật dạy bảo rằng:
- Này Moggallāna, ví như người con hoặc anh em thân yêu từ phương xa lâu ngày
trở về nhà; đứng trước cửa, người trong nhà nhìn thấy mừng quá reo lên: "Con vào
nhà, hoặc mời anh, em vào nhà" rồi thông báo cho bà con thân quyến biết
rằng người tên ấy đã về rồi! Thân bằng quyến thuộc đến thăm hỏi:
Āgato’si tāta!
Āgato’si tāta!
Con thân yêu! Con đã về
Con thân yêu! Con được khoẻ mạnh chứ!
Rồi tổ chức lễ ăn mừng.
Cũng như vậy, trong cõi người, đàn ông, đàn bà đã tạo nhiều phước thiện, sau khi
từ bỏ cõi người (chết), do phước thiện cho quả hoá sanh làm thiên nam hoặc
thiên nữ trong cõi trời. Chư thiên ấy đón tiếp thiên nam hoặc thiên nữ mới hoá
sanh bằng 10 món quà cõi trời nghĩ rằng: Ahaṃ purato! Ahaṃ purato! [Mười
món quà là: quả báu trong cõi trời: tuổi thọ, sắc đẹp, an lạc, danh vọng, quyền
lực cõi trời và 5 đối tượng cõi trời: sắc, thanh, hương, vị, xúc, rất vi tế,
đáng hài lòng] Ta đến đón rước trước tiên! Ta đến đón rước trước tiên!
Tiếp theo Ðức Phật thuyết bài kệ rằng:
Bà con cùng bè bạn, tâm vô cùng hoan hỉ,
Vui mừng đón người về, khoẻ mạnh và an lạc,
Từ phương xa lâu ngày. Cũng như người đời này,
Ðã tạo nhiều phước thiện, khi từ bỏ cõi người,
Do nhờ phước thiện ấy, được tái sanh cõi trời,
Chư thiên như bà con, đón tiếp món quà trời.
Sai Bảo Người Bố Thí
Sai bảo người bố thí và tự mình bố thí có quả báu khác nhau.
Tích ông Pāyāsi [Bộ Chú giải Dīghanikāya, phần Mahāvagga, kinh
Pāyāsi-rājaññasutta], tỉnh trưởng tỉnh Satabyā được tóm lược như sau:
Ông tỉnh trưởng Pāyāsi cho người xây dựng một trại bố thí; ông sai bảo cậu
Uttara làm phước bố thí đến Sa môn, Bà la môn, người nghèo khổ, người qua
đường, người ăn xin..., những đồ ăn, đồ mặc như: cơm nấu bằng thứ gạo dở, với
một món đồ ăn ngâm nước chua; vải tấm nho nhỏ loại xấu, vải dơ.... Mặc dầu vậy,
cậu Uttara tự tay mình bố thí đến người thọ thí một cách kính trọng, với tâm từ
bi tế độ. Bố thí xong, cậu Uttara nguyện rằng: "mong rằng tôi chỉ gặp ông tỉnh
trưởng Pāyāsi kiếp này mà thôi, kiếp sau xin đừng gặp lại".
Nghe nguyện vậy, ông Pāyāsi gọi cậu Uttara hỏi tại sao nguyện như vậy. Cậu
Uttara thưa rằng:
- Thưa ông, ông sai bảo con bố thí đến người khác những đồ ăn như: cơm nấu bằng
thứ gạo dở, với món đồ ăn ngâm nước chua; mà chính ông cũng không muốn nhìn
thấy, thì làm sao người ta ăn ngon được; bố thí những tấm vải loại xấu, vải dơ,
mà chính ông không muốn đụng bằng đôi chân, thì làm sao người ta mặc được.
- Ông tỉnh trưởng muốn làm cho mọi người kính mến ông, song ông đối xử với họ
như vậy, thì làm sao khiến cho họ kính mến ông tỉnh trưởng được?
Nghe như vậy, ông tỉnh trưởng bảo rằng:
- Này Uttara, vậy kể từ nay, ngươi bố thí những đồ ăn như ta dùng, bố thí thứ
vải như ta mặc.
Cậu Utttara vâng lời sai bảo của ông tỉnh trưởng, tự tay mình bố thí những đồ ăn
ngon lành; bố thí những thứ vải tốt đến những vị Sa môn, Bà la môn, người nghèo
khổ, người qua đường, thậm chí đến những người xin ăn một cách kính trọng với
tâm từ, tâm bi tế độ cho họ.
Ông tỉnh trưởng Pāyāsi sai bảo cậu Utttara bố thí, không tự tay mình làm phước
bố thí, bố thí không kính trọng, xem thường việc bố thí. Sau khi ông tỉnh
trưởng Pāyāsi chết, do phước thiện bố thí như thế ấy, cho quả tái sanh lên cõi
Tứ đại thiên vương, trong một lâu đài có tên Serisaka hoang vắng, sống một mình
không có ai hầu hạ.
Còn cậu Utttara, người giúp việc của ông tỉnh trưởng Pāyāsi làm phận sự tự tay
mình bố thí đến người khác một cách kính trọng, coi trọng việc bố thí. Cho nên,
sau khi cậu Uttara chết, do phước thiện bố thí một cách kính trọng ấy, cho quả
tái sanh lên cõi Tam thập tam thiên (cao hơn cõi Tứ đại thiên vương) trong
một lâu đài bằng vàng nguy nga tráng lệ cao 16 do tuần, trang trí toàn những đồ
quý giá; là một thiên nam có nhiều oai lực, có hào quang sáng ngời, có nhiều
thiên nam, thiên nữ hầu hạ, hưởng mọi sự an lạc trong cõi trời ấy.
Một thuở nọ, Ngài Ðại Ðức Gavampati lên cõi Tứ đại thiên vương nghỉ trưa. Khi
ấy, thiên nam Pāyāsi đến hầu đảnh lễ Ngài Ðại Ðức Gavampati xong đứng một nơi
hợp lẽ.
Ngài Ðại Ðức hỏi rằng:
- Này thiên nam, ngươi là ai vậy?
- Kính bạch Ngài Ðại Ðức, tiền kiếp con là Pāyāsi tỉnh trưởng tỉnh Satabyā. –
Thiên nam Pāyāsi thưa.
- Này thiên nam Pāyāsi, cậu Uttara người giúp việc làm phận sự bố thí của ngươi
tái sanh cõi nào?
- Kính bạch Ngài Ðại Ðức, cậu Uttara tự tay mình làm phước bố thí, bố thí đến
người khác một cách kính trọng, coi trọng việc bố thí.... Sau khi cậu Uttara
chết, do phước thiện bố thí ấy, cho quả tái sanh lên cõi trời Tam thập tam
thiên. Còn con sai bảo cậu Uttara bố thí, không tự tay mình làm phước bố thí,
bố thí không kính trọng, xem thường việc bố thí. Cho nên sau khi con chết, do
phước thiện bố thí ấy, cho quả tái sanh lên cõi trời Tứ đại thiên vương này
trong lâu đài hoang vắng không có ai hầu hạ.
Kính bạch Ngài Ðại Ðức, khi Ngài trở lại cõi người, kính xin Ngài thuyết giảng
cho mọi người biết rằng: "Nên tự tay mình làm phước bố thí, bố thí đến người
khác một cách kính trọng, coi trọng việc bố thí, chớ nên xem thường việc bố
thí".
Xin Ngài thông báo cho mọi người được biết rằng: "Ông tỉnh trưởng Pāyāsi không tự
tay mình làm phước bố thí, bố thí không kính trọng, xem thường việc bố thí...
do phước thiện bố thí ấy, cho quả tái sinh lên cõi Tứ đại thiên vương trong lâu
đài Serisaka hoang vắng, sống một mình không ai hầu hạ. Còn cậu Uttara tự tay
mình làm phước bố thí, bố thí đến người khác một cách kính trọng, coi trọng
việc bố thí... do phước thiện bố thí ấy, cho quả tái sinh lên cõi trời Tam thập
tam thiên".
Qua tích trên đây, chúng ta nhận thức rằng:
- Người bỏ công làm phước bố thí, hơn người bỏ của cải ra để làm
phước bố thí gấp vô lượng lần không sao kể xiết.
- Nếu thí chủ bỏ của cải lại còn bỏ công tự mình làm phước bố thí
thì phước thiện càng vô lượng.
Tiếp theo