Trung Tâm Hộ Tông  Trang Chủ



Tìm Hiểu

Phước Bố Thí

Soạn giả: Tỳ khưu Hộ Pháp


BỐ THÍ MONG CẦU SIÊU TAM GIỚI

Làm phước thiện bố thí, vật thí dầu ít, dầu nhiều cũng tốt, điều quan trọng tác ý thiện tâm hoan hỉ trước khi bố thí, đang khi bố thí và sau khi bố thí, cả ba giai đoạn thí chủ có đại thiện tâm trong sạch hoan hỉ chắc chắn phước thiện nhiều, có quả báu nhiều, nhất là sau khi bố thí xong, tâm niệm tưởng đến phước thiện bố thí ấy, phước thiện càng tăng trưởng, có quả báu vô lượng và lâu dài.

Giai đoạn đang khi bố thí, tuy thời gian ngắn ngủi, nhưng đóng vai trò quan trọng quyết định đại thiện tâm có hợp trí hay không hợp với trí. Thí chủ có nguyện vọng muốn đạt đến mục đích cứu cánh Niết Bàn, giải thoát khỏi tử sanh luân hồi, thí chủ nên thành tâm đọc bằng lời để cho mọi người nghe rõ chứng minh lời nói ấy.

Trường hợp làm phước thiện bố thí đến chư Tỳ khưu Tăng, chư thí chủ cùng nhau đọc lời thông bạch đến chư Tỳ khưu Tăng được rõ; hoặc một người hướng dẫn chư thí chủ khác đọc theo.

Lễ Dâng Vật Thực (Bhattadāna)

Mayaṃ Bhante, samasaddhā samachandā samacittā saṅgamma, Buddhaṃ, Dhammaṃ, Saṃghañceva kammaṃ kammaphalañca sadda-hitvā, saṃsāravaṭṭadukkhato mocanatthāya, Nibbānassa sacchikaraṇatthāya, imaṃ saparivāraṃ bhattadānaṃ bhikkhusaṃghassa sakkaccaṃ dema.

Sādhu no Bhante, bhikkhusaṃgho imaṃ saparivāraṃ bhattadānaṃ paṭiggaṇhātu, amhākaṃ dīgharattaṃ atthāya hitāya sukhāya.

Chư Tỳ khưu Tăng đồng nói lên lời hoan hỉ: Sādhu! Sādhu! Sādhu!

Nghĩa:

Kính bạch chư Ðại Ðức Tăng được rõ:

Tất cả chúng con có đồng đức tin, đồng nguyện vọng, đồng tâm trí, tin nơi Ðức Phật, Ðức Pháp, Ðức Tăng, tin nghiệp và quả của nghiệp, có nguyện vọng mong chứng ngộ Niết Bàn, để giải thoát khổ tử sanh luân hồi, cho nên, tất cả chúng con thành kính làm lễ dâng đến chư Tỳ khưu Tăng những món vật thực cùng với các thứ vật dụng này.

Kính bạch chư Ðại Ðức Tăng, kính xin quý Ngài từ bi tế độ thọ nhận những món vật thực cùng với các thứ vật dụng này, để cho tất cả chúng con được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài.

Chư Tỳ khưu Tăng đồng thanh nói lên lời hoan hỉ: Lành thay! Lành thay! Lành thay!

Chư thí chủ tự tay mình dâng những vật thực cùng với mọi vật dụng đến chư Tỳ khưu Tăng. Sau khi đã dâng xong, trở lại chỗ ngồi, mỗi người thành tâm phát nguyện:

Idaṃ me dānaṃ āsavakkhayāvahaṃ hotu.

Nguyện cầu phước thiện bố thí thanh cao này, dẫn dắt con chứng đắc đến A-ra-hán Thánh Ðạo – A-ra-hán Thánh Quả, diệt đoạn tuyệt được mọi phiền não trầm luân.

Idaṃ no ñātinaṃ hotu, sukhitā hontu ñātayo.

Cầu mong phước thiện bố thí thanh cao này, được thành tựu đến thân bằng quyến thuộc của chúng con, cầu mong thân bằng quyến thuộc thoát khỏi cảnh khổ, được an lạc lâu dài.

Imaṃ puññabhāgaṃ mātā-pitu-ācariya-ñāti-mittānañceva sesasabbasattānañca dema, sabbepi te puññapattiṃ laddhāna, sukhitā hontu.

Chúng con thành tâm chia phần phước thiện thanh cao này đến ông bà, cha mẹ, thầy tổ, thân bằng quyến thuộc, bạn bè cùng tất cả chúng sinh đồng nhau cả thảy, cầu mong tất cả quý vị hoan hỉ thọ hưởng phần phước thanh cao này rồi, thoát khỏi mọi cảnh khổ, được an lạc lâu dài.

Lễ Dâng Y Tắm Mưa (vassikasāṭikadāna)

Mayaṃ Bhante, samasaddhā samachandā samacittā saṅgamma, Buddhaṃ, Dhammaṃ, Saṃghañceva kammaṃ kammaphalañca sadda-hitvā, saṃsāravaṭṭadukkhato mocanatthāya, Nibbānassa sacchikaraṇatthāya, imāni sapari-vārāni vassikasāṭikadānāni .... (Bửu Long)... ārāme bhikkhusaṃghassa sakkaccaṃ damma.

Sādhu no Bhante, bhikkhusaṃgho imāni saparivārāni vassikasāṭikadānāni paṭiggaṇhātu, amhākaṃ dīgharattaṃ atthāya, hitāya, sukhāya.

Chư Tỳ khưu Tăng đồng thanh nói lên lời hoan hỉ: Sādhu! Sādhu! Sādhu!

Nghĩa:

Kính bạch chư Ðại Ðức Tăng được rõ:

Tất cả chúng con có đồng đức tin, đồng nguyện vọng, đồng tâm trí, tin nơi Ðức Phật, Ðức Pháp, Ðức Tăng, tin nghiệp và quả của nghiệp, có nguyện vọng mong chứng ngộ Niết Bàn, để giải thoát khổ tử sanh luân hồi, cho nên, tất cả chúng con thành kính làm lễ dâng những y tắm mưa cùng với các thứ vật dụng này đến chư Tỳ khưu Tăng sẽ nhập hạ tại ngôi chùa..... (Bửu Long) .... .

Kính bạch chư Ðại Ðức Tăng, kính xin quý Ngài từ bi tế độ thọ nhận những y tắm mưa cùng với các thứ vật dụng này, để cho tất cả chúng con được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài.

Chư Tỳ khưu Tăng đồng thanh nói lên lời hoan hỉ: Lành thay! Lành thay! Lành thay!

Những thí chủ tự tay mình dâng y tắm mưa, cùng những thứ vật dụng đến chư Tỳ khưu Tăng. Chư thí chủ trở lại chỗ ngồi của mình, mỗi người thành tâm phát nguyện rằng:

Idaṃ me dānaṃ āsavakkhayāvahaṃ hotu.

Nguyện cầu phước thiện bố thí thanh cao này, dẫn dắt con chứng đắc đến A-ra-hán Thánh Ðạo – A-ra-hán Thánh Quả, diệt đoạn tuyệt được mọi phiền não trầm luân.

Idaṃ no ñātinaṃ hotu, sukhitā hontu ñātayo.

Cầu mong phước thiện bố thí thanh cao này được thành tựu đến thân bằng quyến thuộc của chúng con, cầu mong thân bằng quyến thuộc thoát khỏi cảnh khổ, được an lạc lâu dài.

Imaṃ puññabhāgaṃ mātā-pitu-ācariya-ñāti-mittānañceva sesasabbasattānañca dema, sabbepi te puññapattiṃ laddhāna, sukhitā hontu.

Chúng con thành tâm chia phần phước thiện thanh cao này đến ông bà, cha mẹ, thầy tổ, thân bằng quyến thuộc, bạn bè cùng tất cả chúng sinh đồng nhau cả thảy, cầu mong tất cả quý vị hoan hỉ thọ hưởng phần phước thanh cao này rồi, thoát khỏi mọi cảnh khổ, được an lạc lâu dài.

Lễ Dâng Y Kathina (Kathinacīvaradāna)

Mayaṃ Bhante, samasaddhā samachandā samacittā saṅgamma, Buddhaṃ, Dhammaṃ, Saṃghañceva kammaṃ kammaphalañca sadda-hitvā, saṃsāravaṭṭadukkhato mocanatthāya, Nibbānassa sacchikaraṇatthāya, imaṃ sapari-vāraṃ kathinacīvaraṃ .... (Bửu Long) ... ārāme bhikkhusaṃghassa sakkaccaṃ damma, kathinaṃ attharituṃ.

Sādhu no Bhante, bhikkhusaṃgho imaṃ saparivāraṃ kathinacīvaraṃ paṭiggaṇhātu, paṭiggaṇhitvā iminā kathinacīvarena kathinaṃ attharatu, amhākaṃ dīgharattaṃ atthāya, hitāya, sukhāya.

Tất cả chư Tỳ khưu đồng thanh nói lên lời hoan hỉ: Sādhu! Sādhu! Sādhu!

Nghĩa:

Kính bạch chư Ðại Ðức Tăng được rõ:

Tất cả chúng con có đồng đức tin, đồng nguyện vọng, đồng tâm trí, tin nơi Ðức Phật, Ðức Pháp, Ðức Tăng, tin nghiệp và quả của nghiệp, có nguyện vọng mong chứng ngộ Niết Bàn, để giải thoát khổ tử sanh luân hồi, cho nên, tất cả chúng con thành kính làm lễ dâng y kathina cùng với các thứ vật dụng này, đến chư Tỳ khưu Tăng đã an cư nhập hạ suốt ba tháng tại ngôi chùa......... (Bửu Long).

Kính bạch chư Ðại Ðức Tăng, kính xin quý Ngài từ bi tế độ thọ nhận y kathina cùng với các thứ vật dụng này, khi quý Ngài thọ nhận xong, xin quý Ngài làm lễ thọ y kathina với tấm y này, để cho chúng con được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài.

Chư Tỳ khưu Tăng đồng thanh nói lên lời hoan hỉ: Lành thay! Lành thay! Lành thay!

Một thí chủ đại diện tự tay đem tấm y Kathina dâng đến chư Tỳ khưu Tăng; vị Ðại Trưởng Lão đại diện chư Tăng thọ nhận tấm y kathina để làm lễ thọ y kathina đúng theo luật của Ðức Phật đã ban hành.

Sau khi những thí chủ dâng tấm y Kathina cùng với những thứ vật dụng đến chư Tỳ khưu Tăng xong, trở về chỗ ngồi, mỗi người thành tâm phát nguyện rằng:

Idaṃ me kathinadānaṃ āsavakkhayāvahaṃ hotu.

Nguyện cầu phước thiện dâng y kathina này, dẫn dắt con chứng đắc đến A-ra-hán Thánh Ðạo – A-ra-hán Thánh Quả, diệt đoạn tuyệt được mọi phiền não trầm luân.

Idaṃ no ñātinaṃ hotu, sukhitā hontu ñātayo.

Cầu mong phước thiện bố thí thanh cao này được thành tựu đến thân bằng quyến thuộc của chúng con, cầu mong thân bằng quyến thuộc thoát khỏi cảnh khổ, được an lạc lâu dài.

Imaṃ puññabhāgaṃ mātā-pitu-ācariya-ñāti-mittānañceva sesasabbasattānañca dema, sabbepi te puññapattiṃ laddhāna, sukhitā hontu.

Chúng con thành tâm chia phần phước thiện thanh cao này đến ông bà, cha mẹ, thầy tổ, thân bằng quyến thuộc, bạn bè cùng tất cả chúng sinh đồng nhau cả thảy, cầu mong tất cả quý vị hoan hỉ thọ hưởng phần phước thanh cao này rồi, thoát khỏi mọi cảnh khổ, được an lạc lâu dài.

Lễ Dâng Chỗ Ở (Senāsanadāna)

Làm lễ phước thiện bố thí chỗ ở như chùa, cốc,....

Mayaṃ Bhante, samasaddhā samachandā samacittā saṅgamma, Buddhaṃ, Dhammaṃ, Saṃghañceva kammaṃ kammaphalañca sadda-hitvā, saṃsāravaṭṭadukkhato mocanatthāya, Nibbānassa sacchikaraṇatthāya, imaṃ vihāraṃ kappiyakuṭiṃ kārāpetvā āgatānāgatassa catuddisassa saṃghassa sakkaccaṃ damma, kāyakāyapaṭibaddhehi phusitvā yathāsukhaṃ paribhuñjatha, amhākaṃ dīgharattaṃ atthāya hitāya sukhāya.

Tất cả chư Tỳ khưu Tăng đồng thanh nói lên lời hoan hỉ: Sādhu! Sādhu! Sādhu!

Nghĩa:

Kính bạch chư Ðại Ðức Tăng được rõ:

Tất cả chúng con có đồng đức tin, đồng nguyện vọng, đồng tâm trí, tin nơi Ðức Phật, Ðức Pháp, Ðức Tăng, tin nghiệp và quả của nghiệp, có nguyện vọng mong chứng ngộ Niết Bàn, để giải thoát khổ tử sanh luân hồi, cho nên, tất cả chúng con cho xây cất một chỗ ở hợp pháp xong rồi, hôm nay, xin thành kính dâng đến chư Tỳ khưu Tăng tứ phương đã đến và chưa đến.

Kính xin quý Ngài từ bi tế độ thọ nhận để làm nơi trú ngụ cho thân tâm được an lạc, để cho tất cả chúng con được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài.

Tất cả chư Tỳ khưu Tăng đồng thanh nói lên lời hoan hỉ: Lành thay! Lành thay! Lành thay!

Tất cả thí chủ mỗi người thành tâm phát nguyện bằng lời rằng:

Idaṃ me vihāradānaṃ āsavakkhayāvahaṃ hotu.

Nguyện cầu phước thiện bố thí chỗ ở thanh cao này, dẫn dắt con chứng đắc đến A-ra-hán Thánh Ðạo – A-ra-hán Thánh Quả, diệt đoạn tuyệt được mọi phiền não trầm luân.

Idaṃ no ñātinaṃ hotu, sukhitā hontu ñātayo.

Cầu mong phước thiện bố thí thanh cao này được thành tựu đến thân bằng quyến thuộc của chúng con, cầu mong thân bằng quyến thuộc thoát khỏi cảnh khổ, được an lạc lâu dài.

Imaṃ puññabhāgaṃ mātā-pitu-ācariya-ñāti-mittānañceva sesasabbasattānañca dema, sabbepi te puññapattiṃ laddhāna, sukhitā hontu.

Chúng con thành tâm chia phần phước thiện thanh cao này đến ông bà, cha mẹ, thầy tổ, thân bằng quyến thuộc, bạn bè cùng tất cả chúng sinh đồng nhau cả thảy, cầu mong tất cả quý vị hoan hỉ thọ hưởng phần phước thanh cao này rồi, thoát khỏi mọi cảnh khổ, được an lạc lâu dài.

Vật Thí (Dānavatthu)

Nói chung tất cả những thứ vật dụng đem boá thí đều gọi là Dānavatthu, lời dâng Dānavatthu như sau:

Mayaṃ Bhante, samasaddhā samachandā samacittā saṅgamma, Buddhaṃ, Dhammaṃ, Saṃghañceva kammaṃ kammaphalañca sadda-hitvā, saṃsāravaṭṭadukkhato mocanatthāya, Nibbānassa sacchikaraṇatthāya, imāni dāna-vatthūni bhikkhusaṃghassa sakkaccaṃ damma.

Sādhu no Bhante, bhikkhusaṃgho imāni dānavatthūni paṭiggaṇhātu, amhākaṃ dīgharattaṃ atthāya hitāya sukhāya.

Tất cả chư Tỳ khưu Tăng đồng thanh nói lên lời hoan hỉ: Sādhu! Sādhu! Sādhu!

Nghĩa:

Kính bạch chư Ðại Ðức Tăng được rõ:

Tất cả chúng con có đồng đức tin, đồng nguyện vọng, đồng tâm trí, tin nơi Ðức Phật, Ðức Pháp, Ðức Tăng, tin nghiệp và quả của nghiệp, có nguyện vọng mong chứng ngộ Niết Bàn để giải thoát khổ tử sanh luân hồi, cho nên, tất cả chúng con thành kính làm lễ dâng những thứ vật dụng này đến chư Tỳ khưu Tăng.

Kính bạch chư Ðại Ðức Tăng, kính xin quý Ngài từ bi tế độ thọ nhận những thứ vật dụng này, để cho tất cả chúng con được sự tiến hóa, sự lợi ích và sự an lạc lâu dài.

Chư Tỳ khưu Tăng đồng thanh nói lên lời hoan hỉ: Lành thay! Lành thay! Lành thay!

Những thí chủ tự tay mình dâng những thứ vật dụng đến chư Tỳ khưu Tăng. Sau khi dâng xong, mỗi người thành tâm phát nguyện rằng:

Imāni me dānāni āsavakkhayāvahaṃ hontu.

Nguyện cầu phước thiện bố thí thanh cao này, dẫn dắt con chứng đắc đến A-ra-hán Thánh Ðạo – A-ra-hán Thánh Quả, diệt đoạn tuyệt được mọi phiền não trầm luân.

Idaṃ no ñātinaṃ hotu, sukhitā hontu ñātayo.

Cầu mong phước thiện bố thí thanh cao này được thành tựu đến thân bằng quyến thuộc của chúng con, cầu mong thân bằng quyến thuộc thoát khỏi cảnh khổ, được an lạc lâu dài.

Imaṃ puññabhāgaṃ mātā-pitu-ācariya-ñāti-mittānañceva sesasabbasattānañca dema, sabbepi te puññapattiṃ laddhāna, sukhitā hontu.

Chúng con thành tâm chia phần phước thiện thanh cao này đến ông bà, cha mẹ, thầy tổ, thân bằng quyến thuộc, bạn bè cùng tất cả chúng sinh đồng nhau cả thảy, cầu mong tất cả quý vị hoan hỉ thọ hưởng phần phước thanh cao này rồi, thoát khỏi mọi cảnh khổ, được an lạc lâu dài.

Những cách bố thí trên tạo phước thiện làm duyên lành để giải thoát khổ tử sanh luân hồi trong ba giới bốn loài (vivaṭṭupanissitakusala). Khi nào chưa chứng đắc đến Niết Bàn giải thoát khổ sanh, khi ấy vẫn còn tử sanh luân hồi trong tam giới, đều hưởng được quả báu của phước thiện ấy trong cõi người, cõi trời và cuối cùng tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sanh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Những thí chủ bố thí xong rồi đọc lên ý nguyện của mình mong cầu chứng ngộ Niết Bàn, chứng đắc đến A-ra-hán Thánh Ðạo A-ra-hán Thánh Quả, diệt đoạn tuyệt tất cả mọi tham ái, mọi phiền não, mọi ác pháp, ngõ hầu mong giải thoát khổ tái sanh trong ba giới bốn loài, đó là tịch diệt Niết Bàn. Ngày nào, còn phải tử sanh luân hồi trong tam giới, những thí chủ ấy cũng hưởng được mọi quả báu của phước thiện bố thí, nên được giàu sang phú quý, có quyền cao chức trọng, v.v... trong cõi người, cõi trời; nhưng có điều đặc biệt, họ không say mê trong của cải, sự nghiệp ấy, không tham lam đắm đuối trong ngũ trần, bởi vì những thứ ấy không phải mục đích cứu cánh chính của họ, cho nên họ dễ dàng đem làm phước thiện bố thí, hoặc xả bỏ để xuất gia tu hành sớm mong giải thoát khổ sanh trong tam giới. Ðó là tính ưu việt của những thí chủ đọc lên ý nguyện mong cầu chứng ngộ Niết Bàn.

NGHIỆP LỰC

Nghiệp lực là năng lực của nghiệp hoàn toàn độc lập, không bị chi phối bởi một oai lực nào khác. Chính nghiệp cho quả phân loại các chúng sinh khác nhau: lớn hoặc nhỏ, cao thượng hoặc thấp hèn, bậc Thiện trí hoặc kẻ si mê, v.v..., tạo ra cảnh giới tái sanh khác nhau trong tam giới, gồm có 31 cõi.

Nghiệp ấy chính là tác ý (cetanā).

Tác ý (cetanā) tạo thành nghiệp thường trải qua ba thời kỳ:

1- Tác ý trước khi tạo nghiệp.
2- Tác ý đang khi tạo nghiệp.
3- Tác ý sau khi đã tạo nghiệp xong.

Mỗi thời kỳ tác ý có tính chất đặc biệt của nó.

Tác Ý Tạo Thiện Nghiệp

A. Tính chất đặc biệt tác ý thiện tâm đang khi bố thí

Sự thành tựu phước thiện bố thí do tác ý thiện tâm đang khi bố thí đóng vai trò quan trọng, phân chia hai loại thiện tâm:

1- Thiện tâm có tam nhân (tihetukakusala).
2- Thiện tâm có nhị nhân (dvihetukakusala).

Làm thế nào được thiện tâm có tam nhân?

Nếu thí chủ có tác ý thiện tâm đang khi tạo phước thiện bố thí hợp với trí tuệ biết rõ nghiệp là của riêng mình (kammassakatañāṇa), thì phước thiện bố thí ấy hợp đủ tam thiện nhân (vô tham, vô sân, vô si = trí tuệ), gọi là tihetukakusala: thiện tâm có tam nhân, đó là dục giới đại thiện tâm hợp với trí tuệ.

Làm thế nào được thiện tâm có nhị nhân?

Nếu thí chủ có tác ý thiện tâm đang khi tạo phước thiện bố thí không hợp với trí tuệ hiểu biết nghiệp là của riêng mình, thì phước thiện bố thí ấy chỉ có nhị thiện nhân (vô tham, vô sân), gọi là dvihetukakusala: thiện tâm có nhị nhân, đó là dục giới đại thiện tâm không hợp với trí tuệ.

B. Tính chất đặc biệt tác ý thiện tâm trước và sau khi đã bố thí

Tác ý thiện tâm trước khi bố thí và tác ý thiện tâm sau khi đã bố thí có tầm quan trọng phân chia hai loại thiện tâm:

1- Thiện tâm bậc cao (ukkaṭṭhakusala).
2- Thiện tâm bậc thấp (omakakusala).

Thiện tâm bậc cao là thế nào?

Với đức tin trong sạch muốn tạo phước thiện bố thí, thí chủ có tác ý thiện tâm trong sạch hoan hỉ trước khi tạo phước thiện bố thí, và thiện tâm trong sạch hoan hỉ sau khi đã thành tựu phước thiện bố thí. Do năng lực tác ý thiện tâm trong sạch hoan hỉ cả hai thời kỳ ấy, nên thí chủ có được thiện tâm bậc cao.

Tác ý thiện tâm trong sạch trước khi làm phước thiện bố thí, nghĩa là thí chủ có thiện tâm trong sạch hoan hỉ lo sắm sửa đầy đủ những thứ vật dụng bố thí, thứ nào cũng hài lòng với khả năng của mình, mọi công việc đều chuẩn bị sẵn sàng chờ đến ngày làm lễ bố thí như đã dự định. Trong suốt thời gian chờ đợi mỗi khi nghĩ đến cuộc lễ làm phước thiện bố thí ấy, không có ác pháp nào phát sanh xen vào làm cho tâm ô nhiễm, buồn lo khổ tâm, mà chỉ có thiện tâm trong sạch, hoan hỉ phước thiện bố thí ấy sẽ tạo sau này. Ðó gọi là tác ý thiện tâm trong sạch hoan hỉ trước khi tạo phước thiện bố thí.

tác ý thiện tâm trong sạch hoan hỉ sau khi đã tạo phước thiện bố thí, nghĩa là thí chủ sau khi đã thành tựu phước thiện bố thí xong rồi, mỗi khi nhớ, hoặc thường niệm tưởng lại phước thiện bố thí ấy thành đề mục thiền định cāgānussati: đề mục niệm tưởng phước thiện bố thí, phát sanh thiện tâm trong sạch hoan hỉ, không có ác pháp phát sanh xen vào làm cho tâm bị ô nhiễm, hối tiếc, buồn khổ, mà chỉ có thiện tâm trong sạch phát sanh hoan hỉ việc phước thiện bố thí ấy được thành tựu tốt lành theo nguyện vọng của mình; xem đó là một cơ hội tốt lành đối với mình, có được duyên lành tạo được phước thiện bố thí ấy, trong cuộc đời của mình. Ðó gọi là tác ý thiện tâm trong sạch hoan hỉ sau khi đã thành tựu phước thiện bố thí.

Do năng lực tác ý thiện tâm trong sạch hoan hỉ trước khi tạo phước thiện và sau khi đã tạo phước thiện làm cho thiện tâm có tam nhân hoặc thiện tâm có nhị nhân trở thành thiện tâm bậc cao (ukkaṭṭhakusala).

Thiện tâm bậc thấp là thế nào?

Thí chủ có tác ý thiện tâm trước khi tạo phước thiện bố thí và tác ý thiện tâm sau khi đã thành tựu phước thiện bố thí, cả hai thời kỳ không hoàn toàn trong sạch, vì có ác pháp phát sanh làm cho tâm bị ô nhiễm, nên thí chủ có được thiện tâm bậc thấp.

Trường hợp, thí chủ không có đức tin trong sạch trước khi làm phước thiện bố thí, vì có người đến động viên khuyến khích làm phước thiện bố thí, vì kính nể nên làm theo, nếu không làm sợ người ta chê trách. Do đó, tác ý thiện tâm trước khi tạo phước thiện bố thí tâm không hoàn toàn trong sạch, thậm chí còn có ác pháp xen vào làm cho tâm bị ô nhiễm nữa.

Và sau khi làm lễ phước thiện bố thí xong, tâm không hoan hỉ, lại còn hối tiếc vì tốn kém tiền bạc nên ác pháp chen vào làm cho tâm bị ô nhiễm. Do đó, tác ý thiện tâm sau khi tạo phước thiện bố thí xong, tâm không hoàn toàn trong sạch.

Do hai nguyên nhân tác ý thiện tâm trước và sau khi tạo phước thiện bố thí ấy, nên làm cho thiện tâm có nhị nhân hoặc thiện tâm có tam nhân trở thành thiện tâm bậc thấp (omakakusala).

Thật ra, trong hai thời kỳ tác ý: tác ý thiện tâm trước khi tạo phước thiện bố thí và tác ý thiện tâm sau khi đã thành tựu phước thiện bố thí ấy; trong 2 tác ý ấy, chỉ có tác ý thiện tâm sau khi đã thành tựu đóng vai trò quan trọng, chỉ định thiện tâm bậc cao hoặc thiện tâm bậc thấp; bởi vì, tác ý thiện tâm này phát sanh sau khi đã hoàn thành phước thiện bố thí. Do đó, tác ý thiện tâm không trong sạch trước khi bố thí, nhưng tác ý thiện tâm trong sạch sau khi đã thành tựu phước thiện bố thí, thì phước thiện ấy trở thành thiện tâm bậc cao; và tác ý thiện tâm trong sạch trước khi tạo phước thiện bố thí, nhưng tác ý thiện tâm không trong sạch sau khi đã thành tựu phước thiện bố thí, phước thiện ấy trở thành thiện tâm bậc thấp.

Năng Lực Của Tác Ý (Cetanā)

Tác ý đóng vai trò tạo nghiệp, như Ðức Phật dạy:

"Cetanā’haṃ bhikkhave kammaṃ vadāmi, cetayitvā kammaṃ karoti kāyena vācāya manasā...".
[Bộ Aṅguttaranikāya, phần Chakkanipāta, kinh Nibbedhikasutta]

"Này chư Tỳ Khưu, Như Lai dạy rằng tác ý là nghiệp, sau khi nghĩ xong, mới hành động bằng thân, khẩu và ý".

Tác ý thuộc về tâm sở (cetanācetasika) đồng sanh trong tất cả 89 hoặc 121 tâm. Song tác ý gọi là nghiệp thì chỉ có tác ý đồng sanh với 12 tâm bất thiện, 8 đại thiện tâm, 5 sắc giới thiện tâm, 4 vô sắc giới thiện tâm và 4 hay 20 Thánh Ðạo tâm. Hay nói cách khác, tác ý đồng sanh với 12 bất thiện tâm và 21 hay 37 thiện tâm; những tác ý ấy được gọi là nghiệp. Ngoài ra, tác ý đồng sanh với 36 hoặc 53 quả tâm và 20 duy tác tâm, những tác ý ấy không gọi là nghiệp.

Tác ý có 2 loại:

A- Tác ý bất thiện (akusalacetanā)

Tác ý bất thiện đồng sanh với 12 bất thiện tâm, nên tạo 12 bất thiện nghiệp hay ác nghiệp bằng thân, bằng khẩu, bằng ý, có 3 loại nghiệp:

1- Thân ác nghiệp có 3 loại: sát sanh, trộm cắp, tà dâm.
2- Khẩu ác nghiệp có 4 loại: nói dối, nói lời đâm thọc chia rẽ, nói lời thô tục, nói lời vô ích.
3- Ý ác nghiệp có 3 loại: tham lam, thù hận, tà kiến.

Ðó là 10 ác nghiệp cho quả khổ ở kiếp hiện tại và nhiều kiếp vị lai.

Ác nghiệp trong 12 bất thiện tâm cho quả 2 thời:

Thời kỳ tái sanh: 11 bất thiện tâm (trừ si tâm hợp với phóng tâm) chỉ cho 1 quả bất thiện vô nhân tâm gọi là suy xét tâm (santīraṇacitta) đồng sanh với xả thuộc vô nhân tâm, tái sanh trong 4 cõi ác giới: địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sanh, chịu khổ do ác nghiệp của mình đã tạo.

Thời kỳ sau khi tái sanh: sau khi tái sanh làm chúng sinh trong cõi ác giới, hoặc đã sanh làm người [*]; 12 bất thiện tâm này có thể cho 7 quả bất thiện thuộc vô nhân tâm như:

1- Nhãn thức tâm nhìn thấy những sắc trần, hình dáng không đáng hài lòng.
2- Nhĩ thức tâm nghe những thanh trần, âm thanh không đáng hài lòng.
3- Tỷ thức tâm ngửi những hương trần, các mùi không đáng hài lòng.
4- Thiệt thức tâm nếm những vị trần, các loại vị không đáng hài lòng.
5- Thân thức tâm tiếp xúc những xúc trần, không đáng hài lòng.
6- Tiếp nhận tâm, tiếp nhận những đối tượng sắc, thanh, hương, vị, xúc, không đáng hài lòng.
7- Suy xét tâm, suy xét những đối tượng sắc, thanh, hương, vị, xúc, không đáng hài lòng.

[*] Tái sanh làm người là quả của thiện nghiệp; nhưng sau khi đã tái sanh làm người, bất thiện nghiệp có thể cho quả xấu.

7 quả bất thiện vô nhân tâm này biết những đối tượng không đáng hài lòng, chính là quả của 12 bất thiện tâm, có bất thiện nghiệp hay ác nghiệp, mà chính mình đã tạo trong kiếp hiện tại, hoặc đã tạo trong những kiếp quá khứ, chắc chắn không phải do một ai khác, mà do chính ác nghiệp của mình đến thời kỳ cho quả, không đáng hài lòng.

Trong đời sống của mỗi chúng sinh nói chung, con người nói riêng, chắc chắn đã từng tạo mọi ác nghiệp từ nhiều đời, nhiều kiếp trong quá khứ cho đến kiếp hiện tại, khi ác nghiệp cho quả khổ, chủ nhân của ác nghiệp nên cam tâm nhẫn nại chấp nhận quả khổ, thì nỗi khổ tâm không phát sanh. Nếu có thái độ không muốn chấp nhận quả khổ của ác nghiệp do chính mình đã tạo, mà phải thọ hưởng thì làm cho mình càng khổ tâm nhiều mà thôi.

Thật ra, công minh mà xét, chắc chắn không có một ai bỗng dưng đối xử xấu, làm khổ mình được! Quả khổ phải phát sanh từ nhân, nhân ở đây chính là ác nghiệp, mà mình đã tạo trong quá khứ, nay đến thời kỳ có cơ hội cho quả, nên xui khiến người khác đối xử xấu, làm khổ mình. Nên có trí tuệ suy xét rằng: "nếu mình không từng tạo ác nghiệp như thế ấy, thì nay chắc chắn không có một nhân duyên nào xui khiến họ đối xử xấu, làm khổ mình như thế này".

Tất cả quả khổ không đáng hài lòng, chắc chắn do ác nghiệp. Vậy, không muốn quả khổ như vậy, thì chỉ nên tránh xa mọi ác nghiệp mà thôi.

Ðược tái sanh làm người chắc chắn do dục giới thiện nghiệp cho quả, không phải do ác nghiệp. Một khi đã tái sanh được làm người rồi; ác nghiệp vẫn có cơ hội cho quả khổ. Cho nên, có số người phải chịu bao nhiêu nỗi khổ đau, cũng chỉ vì ác nghiệp cho quả mà thôi, không phải ai muốn làm khổ mình được.

B- Tác ý thiện (kusalacetanā).

Tác ý thiện tạo 4 loại thiện nghiệp:

1- Dục giới thiện nghiệp.

- Tác ý thiện đồng sanh với 8 đại thiện tâm, tạo nên dục giới thiện nghiệp bằng thân, bằng khẩu, bằng ý, có 3 loại thiện nghiệp:

Thân thiện nghiệp có 3 loại: không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, đó là chánh nghiệp.

Khẩu thiện nghiệp có 4 loại: không nói dối, mà nói lời chân thật; không nói lời đâm thọc chia rẽ, mà nói lời hòa thuận; không nói lời thô tục, mà nói lời êm dịu; không nói lời vô ích, mà nói lời có ích, đó là chánh ngữ.

Ý thiện nghiệp có 3 loại: không tham lam, mà hay bố thí; không thù hận, mà có tâm từ; không tà kiến, mà có chánh kiến.

Ðó là 10 thiện nghiệp cho quả an lạc trong kiếp hiện tại và nhiều kiếp vị lai.

- Tác ý thiện đồng sanh với 8 đại thiện tâm tạo nên 10 phước thiện như sau:

Bố thí: đem của cải, sự hiểu biết của mình đem bố thí, ban bố, phân phát cho người khác, chúng sinh khác với thiện tâm tế độ, giúp đỡ.

Giữ giới: giữ gìn thân và khẩu tránh xa mọi tội ác.

Hành thiền: tiến hành thiền định, tiến hành thiền tuệ, để cho tâm an tịnh, trí tuệ sáng suốt.

Cung kính: cung kính những bậc đáng tôn kính như: Ðức Phật, Ðức Pháp, Ðức Tăng, Thầy Tổ, ông bà, cha mẹ, người cao tuổi....

Giúp đỡ: giúp đỡ mọi người, chúng sinh với thiện tâm.

Hồi hướng: hồi hướng phần phước thiện của mình đã tạo đến những người khác, chúng sinh khác.

Hoan hỉ: hoan hỉ phần phước thiện của người khác hồi hướng hoặc chia phước đến cho mình.

Thuyết pháp: thuyết giảng chánh pháp tế độ người thoát khỏi cảnh khổ.

Nghe pháp: lắng nghe chánh pháp, hành theo chánh pháp để giải thoát cảnh khổ.

Chánh kiến: trí tuệ thấy đúng thực tánh của các pháp.

Ðó là 10 phước thiện cũng thuộc về dục giới thiện nghiệp; dục giới thiện nghiệp này cho quả trong kiếp hiện tại và nhiều kiếp vị lai.

Dục giới thiện nghiệp trong 8 dục giới đại thiện tâm cho quả 2 thời:

Thời kỳ tái sanh: 8 dục giới đại thiện tâm cho 9 loại quả tâm: 8 dục giới đại quả tâm 1 quả thiện vô nhân tâm gọi là suy xét tâm đồng sanh với xả, làm phận sự tái sanh cõi người và 6 cõi trời dục giới, hưởng mọi sự an lạc do thiện nghiệp của mình đã tạo.

Thời kỳ sau tái sanh: Dục giới thiện nghiệp cho quả thời kỳ sau khi đã tái sanh làm người, được tiếp nhận những đối tượng đáng hài lòng như:

- Nhãn thức tâm nhìn thấy những sắc trần, hình dáng đáng hài lòng.
- Nhĩ thức tâm nghe những thanh trần, âm thanh đáng hài lòng.
- Tỷ thức tâm ngửi những hương trần, các mùi đáng hài lòng.
- Thiệt thức tâm nếm những vị trần, các loại vị đáng hài lòng.
- Thân thức tâm tiếp xúc những xúc trần đáng hài lòng.
- Tiếp nhận tâm, tiếp những đối tượng sắc, thanh, hương, vị, xúc đáng hài lòng.
- Suy xét tâm, suy xét những đối tượng sắc, thanh, hương, vị, xúc đáng hài lòng, v.v....

Những quả thiện vô nhân tâm này biết những đối tượng đáng hài lòng chính là quả của dục giới đại thiện tâm có thiện nghiệp, mà chính mình đã tạo trong kiếp hiện tại, hoặc đã tạo trong những kiếp quá khứ; chắc chắn không phải do một ai khác, mà do chính thiện nghiệp của mình đến thời kỳ cho quả.

Công minh mà xét, chắc chắn không có ai bỗng dưng đối xử tốt với mình, giúp đỡ, phục vụ tận tình với mình..., nên có chánh kiến thấy đúng, hiểu đúng về nghiệp là của riêng mình rằng: đó chẳng qua là thiện nghiệp của mình đã tạo đến thời kỳ cho quả có năng lực xui khiến mọi người đối xử tốt với mình, phục vụ tận tình như vậy. Nếu mình đã không từng tạo thiện nghiệp, thì chắc chắn không có nhân duyên nào xui khiến mọi người đối xử tốt với mình được.

Tất cả mọi quả an lạc đáng hài lòng, chắc chắn là do từ thiện nghiệp. Muốn được an lạc, thì chỉ nên cố gắng tạo mọi thiện nghiệp mà thôi.

2- Sắc giới thiện nghiệp.

Tác ý thiện đồng sanh với 5 bậc sắc giới thiện tâm, tạo nên 5 bậc saéc giới thiện nghiệp cho quả an lạc trong kiếp hiện tại và kiếp vị lai, cho quả thời kỳ tái sanh 16 cõi trời sắc giới.

5 bậc sắc giới thiện tâm cho quả 5 bậc sắc giới quả tâm.

Thiền sắc giới có 5 bậc, bậc thiền thiện tâm nào cho quả theo bậc thiền quả tâm ấy, tương xứng với nhau:

Ðệ nhất thiền sắc giới thiện tâm cho quả đệ nhất thiền sắc giới quả tâm, tái sanh làm phạm thiên trong 3 cõi trời của đệ nhất thiền sắc giới.

Ðệ nhị thiền và đệ tam thiền sắc giới thiện tâm cho quả đệ nhị thiền, đệ tam thiền sắc giới quả tâm, tái sanh làm phạm thiên trong 3 cõi trời của đệ nhị thiền sắc giới.

Ðệ tứ thiền sắc giới thiện tâm cho quả đệ tứ thiền sắc giới quả tâm, tái sanh làm phạm thiên trong 3 cõi trời của đệ tam thiền sắc giới.

Ðệ ngũ thiền sắc giới thiện tâm cho quả đệ ngũ thiền sắc giới quả tâm, tái sanh làm phạm thiên trong 7 cõi trời của đệ tứ thiền sắc giới.

Cõi trời sắc giới gồm có 16 cõi, tái sanh lên cõi nào tùy theo năng lực của bậc thiền sở đắc của mình, hưởng sự an lạc và tuổi thọ lâu dài trong cõi trời ấy.

Chư phạm thiên có thể thấy nghe, chiêm ngưỡng Ðức Phật và lắng nghe chánh pháp của Ngài (còn ngửi, nếm, xúc không phát sanh).

3- Vô sắc giới thiện nghiệp.

Tác ý thiện đồng sanh với 4 bậc vô sắc giới thiện tâm, tạo nên 4 bậc vô sắc giới thiện nghiệp, cho quả an lạc trong kiếp hiện tại và kiếp vị lai, cho quả tái sanh trong 4 cõi trời vô sắc giới.

4 bậc vô sắc giới thiện tâm cho quả 4 bậc vô sắc giới quả tâm.

Thiền vô sắc giới có 4 bậc, bậc thiền thiện tâm nào cho quả theo bậc thiền quả tâm ấy.

Ðệ nhất thiền vô sắc thiện tâm gọi là Không vô biên xứ thiện tâm, cho quả Không vô biên xứ quả tâm, tái sanh làm phạm thiên trong cõi Không vô biên xứ thiên.

Ðệ nhị thiền vô sắc thiện tâm, gọi là Thức vô biên xứ thiện tâm, cho quả tái sanh Thức vô biên xứ quả tâm, tái sanh làm phạm thiên trong cõi Thức vô biên xứ thiên.

Ðệ tam thiền vô sắc thiện tâm, gọi là Vô sở hữu xứ thiện tâm cho quả Vô sở hữu xứ quả tâm, tái sanh làm phạm thiên trong cõi Vô sở hữu xứ thiên.

Ðệ tứ thiền vô sắc thiện tâm gọi là Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiện tâm, cho quả Phi tưởng phi phi tưởng xứ quả tâm, tái sanh làm phạm thiên trong cõi Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiên.

Cõi trời vô sắc giới có 4 cõi, tái sanh lên cõi nào tùy theo năng lực của bậc thiền sở đắc của mình, hưởng sự an lạc và tuổi thọ lâu dài trong cõi trời ấy.

4- Siêu tam giới thiện nghiệp.

Tác ý thiện đồng sanh với 4 hay 20 siêu tam giới thiện tâm, cho quả không có thời gian ngăn cách (akālika), đó là siêu tam giới quả tâm. Nghĩa là sau khi chứng đắc Thánh Ðạo nào, liền chứng đắc Thánh Quả ấy ngay sau 1 sát na tâm.

4 siêu tam giới thiện tâm đó là 4 Thánh Ðạo Tâm.
4 siêu tam giới quả tâm đó là 4 Thánh Quả Tâm tương xứng với nhau:

4 Thánh Ðạo Tâm --> 4 Thánh Quả Tâm

1- Nhập Lưu Thánh Ðạo Tâm --> 1- Nhập Lưu Thánh Quả Tâm.
2- Nhất Lai Thánh Ðạo Tâm --> 2- Nhất Lai Thánh Quả Tâm.
3- Bất Lai Thánh Ðạo Tâm --> 3- Bất Lai Thánh Quả Tâm.
4- A-ra-hán Thánh Ðạo Tâm --> 4- A-ra-hán Thánh Quả Tâm.

Thiện Tâm

Thiện tâm có 4 loại:

Dục giới thiện tâm.
Sắc giới thiện tâm.
Vô sắc giới thiện tâm.
Siêu tam giới thiện tâm.

Trong 4 loại thiện tâm này, sắc giới thiện tâm, vô sắc giới thiện tâm siêu tam giới thiện tâm chắc chắn có đầy đủ tam thiện nhân: vô tham, vô sân, vô si (trí tuệ).

Riêng dục giới thiện tâm8 tâm gọi là 8 đại thiện tâm chia 2 loại:

- 4 dục giới thiện tâm hợp với trí thì có đầy đủ tam thiện nhân: vô tham, vô sânvô si (trí tuệ).
- 4 dục giới thiện tâm không hợp với trí thì chỉ có nhị thiện nhân: vô tham vô sân (không có vô si = trí tuệ).

Do nguyên nhân nào dục giới thiện tâm có đủ tam nhân hoặc chỉ có nhị nhân?

Do tác ý thiện tâm (kusalacetanā) khi đang tạo thiện nghiệp bằng thân, bằng khẩu, bằng ý, hoặc làm phước thiện bố thí, giữ giới, tiến hành thiền định, tiến hành thiền tuệ.... Khi đang tạo thiện nghiệp, phước thiện nào với thiện tâm hợp với trí tuệ, hiểu biết rõ nghiệp là của riêng mình (kammassakatañāṇa) hoặc trí tuệ thiền tuệ (vipassanāñāṇa), do đó, dục giới thiện tâm ấy có đủ tam nhân: vô tham, vô sân và vô si (trí tuệ), thiện tâm này còn gọi là đại thiện tâm hợp với trí (mahākusalañāṇasampayuttacitta) có 4 tâm.

Tác ý thiện tâm khi đang tạo thiện nghiệp, phước thiện nào với thiện tâm không hợp với trí tuệ, không hiểu biết rõ nghiệp là của riêng mình, hoặc không có trí tuệ thiền tuệ, do đó, dục giới thiện tâm ấy chỉ có nhị nhân: vô tham vô sân (không có vô si). Thiện tâm này còn gọi là đại thiện tâm không hợp với trí (mahākusalañāṇavippayuttacitta) có 4 tâm.

Dục giới thiện tâm theo tác ý

Mọi thiện nghiệp, mọi phước thiện như bố thí, giữ giới, tiến hành thiền định, tiến hành thiền tuệ..ṭhường trải qua ba giai đoạn tác ý:

1- Pubba cetanā: tác ý trước khi tạo thiện nghiệp.
2- Muñca cetanā: tác ý đang khi tạo thiện nghiệp.
3- Apara cetanā: tác ý sau khi đã tạo thiện nghiệp xong.

Mỗi giai đoạn tác ý có một năng lực đặc biệt, đóng một vai trò quan trọng tạo nên thiện nghiệp và cho quả đặc biệt của thiện nghiệp ấy.

- Muñca cetanā: tác ý đang khi tạo thiện nghiệp đóng vai trò quan trọng để tạo nên thiện nghiệp trong thiện tâm có tam nhân hay thiện tâm có nhị nhân.

Nếu tác ý thiện tâm đang khi tạo thiện nghiệp, phước thiện nào như: bố thí, giữ giới, tiến hành thiền định, tiến hành thiền tuệ... với đại thiện tâm hợp với trí tuệ hiểu biết rõ nghiệp là của riêng mình, hoặc trí tuệ thiền tuệ, thì chắc chắn đại thiện tâm ấy có đủ tam nhân: vô tham, vô sân và vô si (trí tuệ), gọi là đại thiện tâm hợp với trí hay gọi tam nhân thiện tâm.

Nếu tác ý thiện tâm đang khi tạo thiện nghiệp, phước thiện nào như bố thí, giữ giới, tiến hành thiền định, tiến hành thiền tuệ... với đại thiện tâm không hợp với trí tuệ, không hiểu biết rõ nghiệp là của riêng mình, không có trí tuệ thiền tuệ, do đó, đại thiện tâm ấy chỉ có nhị nhân: vô tham và vô sân (không có vô si), gọi là đại thiện tâm không hợp với trí hay gọi nhị nhân thiện tâm.

Tam nhân thiện tâm và nhị nhân thiện tâm, mỗi loại thiện tâm có hai bậc:

1- Ukkaṭṭhakusala: thiện tâm bậc cao.
2- Omakakusala: thiện tâm bậc thấp.

1- Thiện tâm bậc cao như thế nào?

Mỗi khi tạo thiện nghiệp, phước thiện nào như bố thí, giữ giới, tiến hành thiền định, tiến hành thiền tuệ... với tác ý thiện tâm trước khi tạo thiện nghiệp, tác ý đang khi tạo thiện nghiệp và tác ý sau khi đã tạo thiện nghiệp xong, thiện tâm trong sạch, không bị ô nhiễm bởi phiền não, do đó, thiện tâm này dầu là tam nhân thiện tâm hoặc nhị nhân thiện tâm gọi là thiện tâm bậc cao (ukkaṭṭhakusala).

2- Thiện tâm bậc thấp như thế nào?

Mỗi khi tạo thiện nghiệp, phước thiện nào như bố thí, giữ giới, tiến hành thiền định, tiến hành thiền tuệ... với tác ý thiện tâm trước khi tạo thiện nghiệp, đang khi tạo thiện nghiệp, sau khi đã tạo thiện nghiệp xong, với thiện tâm không trong sạch, bị ô nhiễm bởi phiền não, do đó, thiện tâm này dầu là tam nhân thiện tâm hoặc nhị nhân thiện tâm, gọi là thiện tâm bậc thấp (Omakakusala).

Phân loại thiện tâm theo bậc

Tam nhân thiện tâm và nhị nhân thiện tâm, mỗi thiện tâm có hai bậc.

Tam nhân thiện tâm bậc cao.
Tam nhân thiện tâm bậc thấp.

Nhị nhân thiện tâm bậc cao.
Nhị nhân thiện tâm bậc thấp.

- Do nguyên nhân chính nào mà phân loại thiện tâm bậc cao – bậc thấp?

Tác ý thiện tâm sau khi đã tạo thiện nghiệp xong là nguyên nhân chính, đóng vai trò quan trọng để phân loại thiện tâm bậc cao – thiện tâm bậc thấp. Bởi vì, tác ý sau khi đã tạo thiện nghiệp xong, đã hoàn thành xong thiện nghiệp trải qua thời gian lâu dài không hạn định, nên có nhiều năng lực hơn tác ý trước khi tạo thiện nghiệp và tác ý đang khi tạo thiện nghiệp. Như vậy, tác ý trước khi tạo thiện nghiệp, tác ý đang khi tạo thiện nghiệp, với đại thiện tâm không trong sạch, bị ô nhiễm bởi phiền não; nhưng tác ý sau khi đã tạo thiện nghiệp xong với đại thiện tâm trong sạch, không bị ô nhiễm bởi phiền não; do đó, thiện tâm ấy thuộc loại thiện tâm bậc cao.

Tác ý trước khi tạo thiện nghiệp, tác ý đang khi tạo thiện nghiệp với thiện tâm trong sạch, không bị ô nhiễm bởi phiền não; nhưng tác ý sau khi đã tạo thiện nghiệp xong với thiện tâm không trong sạch, bị ô nhiễm bởi phiền não; do đó thiện tâm ấy thuộc loại thiện tâm bậc thấp.

Quả của 4 loại thiện tâm

Tam nhân thiện tâm, nhị nhân thiện tâm có quả tâm khác biệt nhau. Và thiện tâm bậc cao – thiện tâm bậc thấp cũng có quả tâm khác biệt nhau như sau:

- Quả của tam nhân thiện tâm bậc cao cho quả hai thời kỳ:

Thời kỳ tái sanh (paṭisandhikāla):4 đại quả tâm hợp với trí tuệ, khi tái sanh làm người, là người có đủ tam nhân: vô tham, vô sân và vô si (trí tuệ) gọi là hạng người tam nhân (tihetukapuggala: người có quả tâm tái sanh hợp đủ 3 nhân: vô tham, vô sân, vô si) có trí tuệ sáng suốt, hạng người cao quý, hoặc tái sanh làm chư thiên có trí tuệ trong cõi trời dục giới, là hạng chư thiên cao quý, có nhiều oai lực.

Thời kỳ sau khi đã tái sanh (pavattikāla): có 8 đại quả tâm và 8 quả thiện vô nhân tâm, gồm có 16 quả tâm, thường tiếp xúc những đối tượng sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp đáng hài lòng, ít có đối tượng không đáng hài lòng.

- Quả của tam nhân thiện tâm bậc thấpnhị nhân thiện tâm bậc cao cho quả hai thời kỳ:

Thời kỳ tái sanh:4 đại thiện tâm không hợp với trí tuệ, khi tái sanh làm người chỉ có nhị nhân: vô tham và vô sân (không có vô si) gọi là hạng người nhị nhân (dvihetukapuggala: người có quả tâm tái sanh hợp với 2 nhân: vô tham, vô sân) không có trí tuệ, hạng người trung bình; hoặc tái sanh làm chư thiên có nhị nhân, không có trí tuệ, trong cõi trời dục giới, không có nhiều oai lực.

Thời kỳ sau khi đã tái sanh: 4 đại quả tâm không hợp với trí và 8 quả thiện vô nhân tâm, gồm có 12 quả tâm, thường tiếp xúc những đối tượng sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp trung bình, không đặc biệt.

- Quả của nhị nhân thiện tâm bậc thấp cho quả hai thời kỳ:

Thời kỳ tái sanh: 1 quả thiện vô nhân tâm gọi là suy xét tâm đồng sanh với xả, tái sanh làm hạng người vô nhân [*] (ahetukapuggala: người có quả tâm tái sanh không có nhân nào), là hạng người câm, điếc, đui mù, mất trí (điên) từ trong bụng mẹ, hoặc tái sanh làm chư thiên bậc thấp nhất (vinipātika asurā) trong cõi trời Tứ đại thiên vương, loại chư thiên không có oai lực, thường hay quấy nhiễu người kém phước đức.

[*] Hạng người vô nhân là người khi tái sanh bằng quả thiện vô nhân tâm, là tâm không có nhân (không có vô tham, vô sân, vô si).

Thời kỳ sau khi đã tái sanh: có 8 quả thiện vô nhân tâm thường tiếp xúc những đối tượng sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp tầm thường nhất.

Tác Ý Sau Aparacetanā là Aparāparacetanā

Trong Chú giải còn khai triển aparacetanā: tác ý sau khi đã tạo thiện nghiệp xong, thêm một thời kỳ nữa gọi là aparāparacetanā: tác ý phát sanh sau tác ý aparacetanā.

Aparāparacetanā: là tác ý phát sanh sau tác ý aparacetanā (tác ý sau khi đã tạo thiện nghiệp xong) sau nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm... mỗi khi niệm tưởng đến phước thiện bố thí, phước thiện giữ giới, phước thiện tiến hành thiền định, phước thiện tiến hành thiền tuệ... mà mình đã từng tạo phước thiện ấy từ trước.

Mỗi khi niệm tưởng đến phước thiện ấy, tác ý phát sanh sau aparacetanā gọi là aparāparacetanā với thiện tâm trong sạch, không bị ô nhiễm bởi phiền não. Do đó, thiện tâm phát sanh sau sau ấy thuộc về thiện tâm bậc cao.

Mỗi khi niệm tưởng đến phước thiện ấy, tác ý phát sanh sau aparacetanā gọi là aparāparacetanā với thiện tâm không trong sạch, bị ô nhiễm bởi phiền não. Do đó, thiện tâm phát sanh sau sau ấy thuộc về thiện tâm bậc thấp.

Phân loại thiện tâm theo aparacetanā và aparāparacetanā

Aparācetanā: là tác ý phát sanh sau khi đã tạo thiện nghiệp xong.

Aparāparacetanā: là tác ý phát sanh sau aparacetanā.

Thiện tâm bậc cao hoặc thiện tâm bậc thấp tùy thuộc vào aparacetanā aparāparacetanā là chính.

Ðể dễ phân biệt 2 loại tác ý này, đặt tên rằng:

Aparacetanā: gọi tên là trước, chữ trước ám chỉ aparacetanā.
Aparāparacetanā:
gọi tên là sau, chữ sau ám chỉ aparāparacetanā.

Như vậy, phân loại thiện tâm theo aparācetanā aparāparacetanā có 8 loại thiện tâm như sau:

1- Tam nhân thiện tâm trước bậc cao – sau bậc cao.
2- Tam nhân thiện tâm trước bậc cao – sau bậc thấp.
3- Tam nhân thiện tâm trước bậc thấp – sau bậc cao.
4- Tam nhân thiện tâm trước bậc thấp – sau bậc thấp.
5- Nhị nhân thiện tâm trước bậc cao – sau bậc cao.
6- Nhị nhân thiện tâm trước bậc cao – sau bậc thấp.
7- Nhị nhân thiện tâm trước bậc thấp – sau bậc cao.
8- Nhị nhân thiện tâm trước bậc thấp – sau bậc thấp.

Giải thích

Tác ý đang khi tạo thiện nghiệp (muñcacetanā) với đại thiện tâm hợp với trí tuệ, gọi là tam nhân thiện tâm (tihetukakusala).

Tác ý đang khi tạo thiện nghiệp với đại thiện tâm không hợp với trí, gọi là nhị nhân thiện tâm (dvihetukakusala).

Tác ý sau khi đã tạo thiện nghiệp xong (apara-cetanā), với thiện tâm trong sạch, không bị ô nhiễm bởi phiền não, và tác ý phát sanh sau sau gọi là aparāparacetanā cũng với thiện tâm trong sạch, không bị ô nhiễm bởi phiền não. Do đó, thiện tâm này gọi là thiện tâm trước bậc cao – sau bậc cao (ukkuṭṭhukkuṭṭhakusala).

Tác ý sau khi đã tạo thiện nghiệp xong (apara-cetanā) với thiện tâm trong sạch, không bị ô nhiễm bởi phiền não; nhưng tác ý phát sanh sau sau gọi là aparāparacetanā với thiện tâm không trong sạch, bị ô nhiễm bởi phiền não. Do đó, thiện tâm này gọi là thiện tâm trước bậc cao – sau bậc thấp (ukkuṭṭhomakakusala).

Tác ý sau khi đã tạo thiện nghiệp xong (apara-cetanā) với thiện tâm không trong sạch, bị ô nhiễm bởi phiền não, nhưng tác ý phát sanh sau sau gọi là aparāparacetanā với thiện tâm trong sạch, không bị ô nhiễm bởi phiền não. Do đó, thiện tâm này gọi là thiện tâm trước bậc thấp – sau bậc cao (omakukkaṭṭhakusala).

Tác ý sau khi đã tạo thiện nghiệp xong (apara-cetanā) với thiện tâm không trong sạch, bị ô nhiễm bởi phiền não, và tác ý phát sanh sau sau gọi là aparāparacetanā với thiện tâm không trong sạch, bị ô nhiễm bởi phiền não. Do đó, thiện tâm này gọi là thiện tâm trước bậc thấp – sau bậc thấp (omakomakakusala).

Quả của 8 loại thiện tâm

- Quả của:

Tam nhân thiện tâm trước bậc cao – sau bậc cao.
Tam nhân thiện tâm trước bậc cao – sau bậc thấp.

Cả hai loại thiện tâm này, xét về thiện tâm cho quả thời kỳ tái sanh thời kỳ sau khi tái sanh, giống như tam nhân thiện tâm bậc cao.

Xét về chúng sinh: người hoặc chư thiên về sắc thân hoặc tâm tiếp xúc những đối tượng sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, thì tam nhân thiện tâm trước bậc cao – sau cũng bậc cao có quả báu cao quý, vi tế đặc biệt hơn tam nhân thiện tâm trước bậc cao – sau bậc thấp.

- Quả của:

Tam nhân thiện tâm trước bậc thấp – sau bậc cao.
Tam nhân thiện tâm trước bậc thấp – sau bậc thấp.
Nhị nhân thiện tâm trước bậc cao – sau cũng bậc cao.
Nhị nhân thiện tâm trước bậc cao – sau bậc thấp.

Cả 4 loại thiện tâm này, xét về thiện tâm cho quả thời kỳ tái sanh thời kỳ sau khi tái sanh, giống như tam nhân thiện tâm bậc thấp nhị nhân thiện tâm bậc cao.

Xét về chúng sinh: người hay chư thiên về sắc thân tâm tiếp xúc những đối tượng sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, thì tam nhân thiện tâm trước bậc thấp – sau bậc cao; nhị nhân thiện tâm trước bậc cao – sau bậc cao, có quả báu đặc biệt hơn tam nhân thiện tâm trước bậc thấp – sau bậc thấp.

- Quả của:

Nhị nhân thiện tâm trước bậc thấp – sau bậc cao.
Nhị nhân thiện tâm trước bậc thấp – sau bậc thấp.

Cả hai loại thiện tâm này, xét về thiện tâm cho quả thời kỳ tái sanh thời kỳ sau khi tái sanh giống như nhị nhân thiện tâm bậc thấp .

Xét về chúng sinh: người hay chư thiên về sắc thân tâm tiếp xúc những đối tượng sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, thì nhị nhân thiện tâm trước bậc thấp – sau bậc cao có giá trị quả báu đặc biệt hơn nhị nhân thiện tâm trước bậc thấp – sau bậc thấp không đáng kể.

Tóm lại, phân loại các bậc thiện tâm này do năng lực của tác ý (cetanā) tạo thiện nghiệp. Cho nên, tác ý đóng vai trò hệ trọng tạo nghiệp bằng thân, bằng khẩu, bằng ý, rồi phân loại các thiện tâm và quả của thiện tâm ấy do năng lực của nghiệp. Ngoài nghiệp ra, không có một Ðấng Toàn Quyền, Toàn Năng nào thưởng hoặc phạt chúng sinh; nếu thật có Ðấng Toàn Quyền, Toàn Năng ấy, đó chính là nghiệp của chính mình đã tạo, không có một ai khác.

Ðức Phật dạy về nghiệp trong bài Kinh Quán Tưởng rằng:

"Kammassako’mhi kammadāyādo kamma-yoni kammabandhu kammapaṭisaraṇo, yaṃ kammaṃ karissāmi kalyāṇaṃ vā pāpakaṃ vā, tassa dāyādo bhavissāmi".

[Bộ Aṅguttaranikāya, phần Dasakanipāta, kinh Pabbajita-abhinhasutta]

"Ta có nghiệp là của riêng, ta là người thừa hưởng quả của nghiệp, nghiệp là nhân sanh ta ra, nghiệp là bà con thân quyến của ta, nghiệp là nơi nương nhờ của ta, ta tạo nghiệp nào: là thiện nghiệp hoặc bất thiện nghiệp (ác nghiệp) ta sẽ là người thừa hưởng quả của thiện nghiệp hoặc bất thiện nghiệp ấy".

Tất cả của cải trong đời đều là của chung, người nào có phước thì người ấy tạm thời làm chủ, duy chỉ có nghiệp (thiện nghiệp, ác nghiệp) mới thật là của riêng mình mà thôi. Cho nên, mỗi người phải hết sức thận trọng chọn lựa cho mình mọi thiện nghiệp và hết sức thận trọng tránh xa mọi ác nghiệp, bởi vì, chỉ có nghiệp mới thật của riêng mình mà thôi.

Nên có đức tin rằng:

Thiện nghiệp cho quả an lạc.
Bất thiện nghiệp (ác nghiệp) cho quả khổ.

Nên hiểu rõ rằng trong đời sống hằng ngày của mỗi chúng sinh nói chung, mỗi người nói riêng phải biết gìn giữ thân, khẩu, ý cho được trong sạch, không để phiền não làm ô nhiễm.

Nên biết rằng mỗi khi hành động bằng thân, hoặc nói bằng khẩu hoặc nghĩ bằng ý, với tác ý thiện, thì tạo nên thiện nghiệp; với tác ý bất thiện, thì tạo nên bất thiện nghiệp hoặc ác nghiệp.

Thiện nghiệp sanh trong thiện tâm, bất thiện nghiệp hoặc ác nghiệp sanh trong bất thiện tâm hoặc ác tâm. Khi thiện tâm phát sanh thì ác tâm không sanh; khi ác tâm phát sanh thì thiện tâm không sanh, chỉ trừ khi nằm ngủ say không có mộng, khi ấy mới thật không có thiện tâm, cũng không có ác tâm, vì lúc ấy chỉ có quả tâm mà thôi; còn như nằm ngủ thấy mộng rõ ràng như thật, lộ trình tâm mộng ấy có thể là thiện tâm, hoặc bất thiện tâm (ác tâm), song tác ý thiện tâm hoặc bất thiện tâm trong khi mộng không có năng lực như tác ý lúc tỉnh ngủ. Cho nên, thiện tâm hay bất thiện tâm (ác tâm) trong lộ trình tâm mộng không có khả năng cho quả thời tái sanh, nếu có chỉ cho quả thời kỳ sau khi đã tái sanh rồi.

Vì vậy, mỗi khi chúng ta chủ động tạo nghiệp, thì nên cố gắng tạo thiện nghiệp, với thiện tâm hợp với trí tuệ, trong sạch hoàn toàn suốt 3 giai đoạn: trước khi tạo thiện nghiệp, đang khi tạo thiện nghiệp và sau khi đã tạo thiện nghiệp xong, không bị ô nhiễm bởi phiền não, để có được tam nhân thiện tâm bậc cao nhất, quả báu cao nhất.

Nhận Xét Về Nghiệp

Quả của nghiệp (kammaphala) là một trong bốn pháp "bất khả tư nghì" (acinteyya) không thể suy nghĩ, tư duy về quả này là do nghiệp nào, v.v.... Người Phật tử có đức tin chân chánh nơi Ðức Phật, Ðức Pháp, Ðức Tăng, tin nghiệp và quả của nghiệp, tin rằng:

Thiện nghiệp cho quả an lạc. Bất thiện nghiệp hoặc ác nghiệp cho quả khổ.

Hay nói cách khác: Sự an lạc là quả của thiện nghiệp. Sự khổ não là quả của ác nghiệp.

Và có chánh kiến sơ đẳng gọi kammassakatā-sammādiṭṭhi: chánh kiến thấy đúng, hiểu đúng thiện nghiệp, bất thiện nghiệp (ác nghiệp) đã tạo rồi là của riêng mình không liên quan đến người khác.

Thật vậy, mỗi chúng sinh có nghiệp riêng của mình; như khi tác ý thiện nghiệp, mỗi người đều khác nhau, cho nên, quả của nghiệp cũng khác nhau. Dù hai người sinh đôi, cùng giờ, cùng tháng, cùng năm, xét về thân thể có phần giống nhau, song xét về tâm tánh thì không giống nhau, do bởi mỗi người mỗi nghiệp.

- Xét về nghiệp là của riêng mình, không liên quan đến người khác, nghĩa là: người nào tạo thiện nghiệp nào, nếu thiện nghiệp ấy cho quả, người ấy hưởng được mọi sự an lạc trong cuộc đời với nhiều hình thức khác nhau, trong kiếp hiện tại lẫn nhiều kiếp vị lai lâu dài. Ngược lại, tạo ác nghiệp nào, nếu ác nghiệp ấy cho quả, người ấy phải chịu mọi sự khổ trong cuộc đời với nhiều hình thức khác nhau, trong kiếp hiện tại lẫn nhiều kiếp vị lai lâu dài.

- Xét về quả của nghiệp không chỉ riêng mình, mà còn ảnh hưởng đến người khác, chúng sinh khác, nghĩa là: người nào đang hưởng quả tốt của phước thiện bố thí do mình đã tạo, người ấy được giàu sang phú quý, có nhiều tiền, nhiều của, nhà cao, cửa rộng, có xe cộ... còn có chức trọng quyền cao... không chỉ riêng một mình người ấy hưởng được mọi tiện nghi, thân an lạc; mà còn nhiều người thân trong gia đình, bà con thân bằng quyến thuộc, bạn bè, thậm chí đến những người khác, chúng sinh khác cũng hưởng được mọi tiện nghi, thân an lạc trong cuộc đời của họ.

Ngược lại, người nào đang chịu quả xấu của ác nghiệp do mình đã tạo, người ấy đang chịu mọi cảnh khổ, bịnh hoạn ốm đau, những căn bệnh nan y, bại liệt..., những tội lỗi, cảnh tù đày... không chỉ riêng một mình người ấy chịu khổ, mà còn liên luỵ đến những người thân trong gia đình phải chịu khổ nữa.

Tất cả mọi chúng sinh trong ba giới [dục giới, sắc giới, vô sắc giới] gồm có 31 cõi, có 4 loài chúng sinh [thai sinh, noãn sinh, thấp sinh, hoá sinh]:

Những chúng sinh gọi là chư thiên cõi dục giới, phạm thiên cõi sắc giới và cõi vô sắc giới, chỉ có thiện nghiệp có cơ hội cho quả an lạc, những chư thiên hưởng quả an lạc của phước thiện mà mình đã tạo, phạm thiên hưởng quả an lạc của bậc thiền sở đắc của mình.

Những chúng sinh cõi địa ngục, atula, ngạ quỷ chỉ có ác nghiệp có cơ hội cho quả khổ, những hạng chúng sinh ấy chịu quả khổ do ác nghiệp của mình đã tạo.

Có một số loài súc sanh như: chó, mèo, ngựa, voi... dầu tái sanh do quả của ác nghiệp, song sống chung với loài người, có khi thiện nghiệp của chúng đã tạo từ kiếp trước cho quả, nên chúng hưởng được quả an lạc như: có vật thực đầy đủ, có chỗ ở đàng hoàng,... thậm chí còn có người săn sóc chúng.

Riêng về con người, khi thì thiện nghiệp cho quả an lạc, khi thì ác nghiệp cho quả khổ, tuỳ theo nghiệp nào có cơ hội cho quả.

Nghiệp nào cho quả, đó là điều không sao biết trước được, chúng ta chỉ biết quả an lạc, và quả khổ hiện hữu trong cuộc đời của mỗi người khác nhau như:

- Có số người thời ấu niên được hưởng sự an lạc, đến thời trung niên và lão niên chịu khổ cực.

- Có số người thời ấu niên và thời trung niên được hưởng sự an lạc, đến thời lão niên chịu khổ cực.

- Có số người thời ấu niên, thời trung niên và thời lão niên đều được hưởng sự an lạc.

- Có số người thời ấu niên chịu khổ cực, đến thời trung niên và lão niên được hưởng sự an lạc.

- Có số người thời ấu niên và thời trung niên chịu khổ cực, đến thời lão niên mới được hưởng sự an lạc.

- Có số người thời ấu niên, thời trung niên và thời lão niên đều chịu khổ cực.

- Có số người trong cuộc sống khi thì khổ cực, khi thì an lạc...; khi thì giàu có, khi thì nghèo khổ v.v....

Tất cả mọi trường hợp như trên đều do nghiệp và quả của nghiệp, hoàn toàn không phải số phận, hay định mệnh nào an bài cả. Sự thật, chỉ do nghiệp: thiện nghiệp, ác nghiệp mà chính mình đã tạo trong kiếp hiện tại, hoặc từ nhiều kiếp quá khứ, nay đến lúc cho quả của nghiệp ấy.

Nếu thiện nghiệp có cơ hội cho quả tốt lành, thì đem lại sự an lạc trong đời sống của mình.

Nếu ác nghiệp có cơ hội cho quả xấu, thì đem lại sự khổ cực trong đời sống của mình.

Ngoài nghiệp và quả của nghiệp ra, không có một ai có quyền năng ban thưởng cho mình được hưởng sự an lạc, hoặc hành phạt mình phải chịu khổ cực....

Người khác và môi trường bên ngoài cũng chính do năng lực của nghiệp tạo nên để thích nghi với sự cho quả của nghiệp ấy mà thôi.

Như vậy, công minh của nghiệp mà xét :

Sự thật, người khác đối xử tốt với mình, đó chính là do nhờ năng lực của thiện nghiệp của mình đang trong thời kỳ cho quả tốt, nên khiến cho họ có thái độ, đối xử tử tế, phục vụ tận tình... để làm cho mình được hưởng mọi sự an lạc.

Và người khác đối xử xấu với mình, đó cũng chính là do năng lực của ác nghiệp của mình đang trong thời kỳ cho quả xấu, nên khiến cho họ có thái độ đối xử tệ hại, tàn nhẫn... để làm cho mình phải chịu bao nhiêu nỗi khổ cực.

Quả Của Ác Nghiệp - Thiện Nghiệp

* Quả của ác nghiệp

Quả ác nghiệp của một người có thể ảnh hưởng làm khổ đến những người gần gũi thân cận.

Ví dụ:

Tích Ngài Ðại Ðức Losakatissa trong câu chuyện tiền thân Losakatissajātaka [Bộ Jātaka] được tóm lược như sau:

Kiếp hiện tại của Ngài Ðại Ðức Losakatissa là bậc Thánh A-ra-hán, mà suốt cuộc đời của Ngài kể từ khi đầu thai vào lòng mẹ, khi sanh ra đời, cho đến khi Ngài tịch diệt Niết Bàn, thường phải chịu đói khát, chỉ có một lần trước khi tịch diệt Niết Bàn, Ngài được Ðức Thầy Tế độ là Ngài Ðại Ðức Sāriputta đi khất thực về cho Ngài độ một lần ngon lành no đủ, nhưng không phải là món vật thực, mà là một món thuốc gọi là Catumadhura [Món Catumadhura là một món thuốc làm bằng 4 chất: bơ lỏng + mật ong + dầu mè + đường thốt nốt, được Ðức Phật cho phép Sa di, Tỳ khưu có bệnh dùng thời gian sau ngọ (quá 12 giờ trưa)] phát sanh do năng lực phước thiện của Ngài Ðại Ðức Sāriputta. Sau khi độ xong, Ngài tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt mọi cảnh khổ tử sanh luân hồi trong tam giới.

Vậy, do quả của ác nghiệp nào, khiến cho Ngài phải chịu đói khát như thế?

Tiền kiếp của Ngài Losakatissa trong thời kỳ Ðức Phật Kassapa, Ngài là một vị Tỳ khưu chủ chùa. Một hôm, có một vị Tăng khách là bậc Thánh A-ra-hán đến vùng ấy, người thí chủ hộ độ ngôi chùa nhìn thấy vị Tăng khách, phát sanh đức tin trong sạch nơi vị Tăng khách, để bát cúng dường vật thực xong thỉnh vị Tăng khách đến nghỉ tại ngôi chùa. Vị Tỳ khưu chủ chùa tiếp đón có vẻ không hài lòng với vị Tăng khách. Chiều hôm ấy, người thí chủ hộ độ chùa đến thăm vị khách Tăng, kính thỉnh Ngài cùng với vị Tỳ khưu chủ chùa hôm sau đến tư gia để cúng dường vật thực.

Vị Tỳ khưu chủ chùa phát sanh lòng ganh tị, nên sáng hôm sau, làm bộ dùng ngón tay đánh chuông, gõ cửa, rồi một mình đến nhà người thí chủ. Người thí chủ hỏi về vị Tăng khách, vị Tỳ khưu chủ chùa nói xấu vị Tăng khách đủ điều. Người thí chủ vốn có đức tin trong sạch nơi vị Tăng khách, nên sau khi cúng dường vật thực ngon lành đến vị Tỳ khưu chủ chùa xong, để trong bát một phần gởi về cúng dường vị Tăng khách. Trên đường đi về chùa, vị Tỳ khưu chủ chùa nghĩ rằng: "Nếu đem vật thực ngon lành này về cho vị khách Tăng ấy, thì dầu lôi y ra khỏi chùa, y cũng không chịu đi; tốt hơn, ta nên đổ bỏ bát vật thực này". Vị Tỳ khưu chủ chùa đã thực hiện ý định ấy, khi về đến chùa, không nhìn thấy vị khách Tăng nữa, vị Tỳ khưu chủ chùa hối hận việc làm tội lỗi của mình. Sau khi chết, do ác nghiệp ấy cho quả tái sanh sa đoạ vào cõi địa ngục, khi mãn nghiệp cõi địa ngục, do năng lực ác nghiệp còn dư sót, tái sanh làm dạ xoa, làm chó..., dầu được tái sanh làm người cũng trong gia đình nghèo khổ cùng cực.

Ðến thời kỳ Ðức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, hậu thân của vị Tỳ khưu chủ chùa, do thiện nghiệp cho quả tái sanh làm người trong xóm 1.000 gia đình dân chài, nhưng ác nghiệp tiền kiếp của Ngài cho quả khiến 1.000 gia đình dân chài chịu cảnh đói khổ. Ông trưởng xóm dân chài đoán biết có người Kālakaṇṇī: người xúi quẩy [người xúi quẩy: người có ác nghiệp của mình cho quả, làm ảnh hưởng xấu đến người khác] trong xóm mình, nên ông chia dân trong xóm ra làm hai nhóm. Nhóm 500 gia đình có người mẹ mang thai Ngài chịu cảnh đói khổ, còn nhóm 500 gia đình kia vẫn làm ăn bình thường. Từ đó, nhóm 500 gia đình có người mẹ mang thai Ngài chia ra làm 2, mỗi nhóm 250 gia đình, và cứ thế chia làm 2, làm 2.... Cuối cùng còn 2 gia đình, lại chia làm 2 nữa, như vậy, chỉ có gia đình có người mẹ mang thai Ngài đói khổ cho đến khi đủ tháng, người mẹ sanh Ngài ra. Cha mẹ của Ngài vất vả khổ cực lắm mới nuôi Ngài lớn lên 7 tuổi. Một hôm, người mẹ dẫn Ngài đi xin ăn, trao cho Ngài một cái bát đi xin, rồi người mẹ trốn đi, bỏ Ngài một mình bơ vơ đói khổ.

Khi ấy, Ngài Ðại Ðức Sāriputta nhìn thấy Ngài, phát sanh tâm bi mẫn đến cứu giúp Ngài, dẫn Ngài về cho làm lễ xuất gia Sa di. Về sau, đủ 20 tuổi làm lễ nâng lên bậc Tỳ khưu. Dầu Ngài là bậc xuất gia, nhưng mỗi khi đi khất thực thường được rất ít vật thực, nên thường chịu cảnh đói khổ. Song Ngài tinh tấn tiến hành thiền tuệ chứng đắc đến A-ra-hán Thánh Ðạo – A-ra-hán Thánh Quả, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cao thượng, do nhờ pháp hạnh ba la mật từ kiếp trước. Tuy vậy, suốt cuộc đời của Ngài từ khi đầu thai, sanh ra đời, cho đến trước khi tịch diệt Niết Bàn Ngài vẫn thường chịu cảnh đói khổ, bởi do quả của ác nghiệp ngăn cản vật thực của bậc Thánh A-ra-hán.

* Quả của thiện nghiệp

Quả thiện nghiệp của một người có ảnh hưởng tốt đến nhiều người gần gũi thân cận.

Ví dụ:

Tích Ngài Ðại Ðức Sīvali [Bộ Aṅguttaranikāya, phần Etadagga, bộ Theragāthā] :

Ngài Ðại Ðức Sīvali là con của công chúa Suppavāsā và hoàng tử Mahāli xứ Koliya.

Từ khi Ngài tái sanh vào lòng mẹ, mỗi ngày công chúa Suppavāsā thường được mọi người đem lễ vật đến dâng cho bà nhiều vô kể, những lợi lộc phát sanh đến cho bà và cho những người xung quanh.

Một trường hợp hi hữu chưa từng có, đó là mẹ của Ngài mang thai Ngài suốt 7 năm vẫn bình an như thường, mỗi ngày lợi lộc mỗi tăng trưởng cho bà và những người xung quanh. Nhưng bước sang 7 ngày kế tiếp, bà cảm thấy đau khổ cùng cực bởi thai nhi.

Công chúa Suppavāsā vốn là người cận sự nữ có đức tin nơi Ðức Phật, Ðức Pháp, Ðức Tăng, vì thế bà nghĩ rằng: "trước khi chết muốn làm phước thiện bố thí đến Ðức Phật cùng chư Ðại Ðức Tăng", bà thưa ý muốn ấy với phu quân.

Hoàng tử Mahāli đến hầu đảnh lễ Ðức Thế Tôn, kính thỉnh Ðức Thế Tôn cùng chư Ðại Ðức Tăng làm phước thiện bố thí theo nguyện vọng của phu nhân.

Ðức Thế Tôn thấy rõ biết rõ quả ác nghiệp của thai nhi và người mẹ đã mãn, Ngài chúc an lành đến công chúa và thai nhi rằng:

- Chúc công chúa Suppavāsā xứ Koliya được an lành, hạ sanh hài nhi được dễ dàng, an toàn.

Ðức Thế Tôn chúc lành xong, tại cung điện, công chúa Suppavāsā hạ sanh công tử dễ dàng, như nước trong bình đổ ra, trước khi hoàng tử Mahāli về đến.

Nhìn thấy công tử mặt mày khôi ngô tuấn tú, do quả phước thiện đầy đủ của Ngài, bà cảm thấy vô cùng vui mừng, sung sướng.

Sự ra đời của Ngài làm cho hoàng tộc cũng như dân chúng trong xứ Koliya dập tắt ngay sự nóng lòng lo sợ cho sanh mạng công chúa Suppavāsā và công tử, đem lại sự mát mẻ an lạc cho tất cả mọi người nên đặt tên Ngài là Sīvali: mát mẻ an lạc.

Công chúa Suppavāsā cho người đến hầu đảnh lễ Ðức Thế Tôn, bắt đầu từ hôm sau kính thỉnh Ðức Thế Tôn cùng 500 chư Ðại Ðức Tăng làm phước hạnh phúc an lành sanh con suốt 7 ngày.

Công tử Sīvali sanh ra mau lớn lạ thường, biết đi, đứng, ngồi, nằm, biết ăn uống, nói chuyện; đặc biệt có trí tuệ hiểu biết thật phi thường.

Ðức Phật cùng chư Ðại Ðức Tăng ngự đến cung điện của công chúa Suppavāsā và hoàng tử Mahāli trai Tăng suốt 7 ngày. Ðến ngày thứ 7, Ðức Thế Tôn truyền dạy Ngài Ðại Ðức Sāriputta thuyết pháp.

Ngài Ðại Ðức Sāriputta thuyết pháp nói về sự khổ sanh sự tái sanh là khổ. Công tử Sīvali lắng nghe và thấu hiểu nỗi khổ sanh một cách sâu sắc, mà chính công tử đã phải chịu khổ trong bụng mẹ suốt bảy năm lẻ bảy ngày.

Khi ấy, Ngài Ðại Ðức Sāriputta bèn hỏi công tử Sīvali rằng:

- Này con, nằm trong bụng mẹ lâu đến 7 năm lẻ 7 ngày, con cảm thấy khổ nhiều có phải không?

- Kính bạch Ngài Ðại Ðức, dạ, phải! Con cảm thấy khổ nhiều lắm!

- Như vậy, con có muốn xuất gia giải thoát khổ không?

- Kính bạch Ngài Ðại Ðức, nếu cha mẹ con cho phép, thì con sẽ xuất gia.

Nghe thấy con mình đang nói chuyện với Ngài Ðại Ðức Sāriputta, công chúa Suppavāsā vô cùng hoan hỉ. Bà và hoàng tử Mahāli cho phép công tử Sīvali xuất gia, xin Ngài Ðại Ðức Sāriputta từ bi tế độ.

Ngài Ðại Ðức Sāriputta dẫn công tử Sīvali về chùa, Ngài dạy đề mục thiền định căn bản niệm thể trược trong thân; tóc, lông, móng, răng, da, và dạy pháp hành thiền tuệ để giải thoát khổ tái sanh.

Sau khi thọ giáo lời dạy của thầy tế độ, Ngài Ðại Ðức Sāriputta, giới tử Sīvali được Ngài Ðại Ðức Mahāmoggallāna bắt đầu cạo tóc, trong khi cạo tóc, giới tử Sīvali tiến hành thiền định căn bản, rồi tiến hành thiền tuệ, biết rõ khổ tái sanh của danh pháp sắc pháp, chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc từ Nhập Lưu Thánh Ðạo – Nhập Lưu Thánh Quả; tuần tự chứng đắc đến A-ra-hán Thánh Ðạo – A-ra-hán Thánh Quả, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cùng với Tứ tuệ phân tích, Lục thông... trong buổi lễ cạo tóc xong, rồi giới tử Sīvali làm lễ thọ Sa di.

Kể từ ngày Ðại Ðức Sīvali trở thành Sa di, hằng ngày không những các hàng cận sự nam, cận sự nữ đem 4 thứ vật dụng đến cúng dường cho Ngài cùng chư Ðại Ðức Tăng, mà còn chư thiên, Long vương... cũng đem những thứ vật dụng cúng dường nữa.

Từ đó về sau, những thứ vật dụng phát sanh đến chư Ðại Ðức Tăng càng ngày càng dồi dào sung túc, mà trước đây chưa từng có.

Ngài Ðại Ðức Sa di Sīvali tròn 20 tuổi, làm lễ nâng lên bậc Tỳ khưu, 4 thứ vật dụng lại càng phát sanh dồi dào đến chư Tỳ khưu Tăng. Hễ mỗi khi có đoàn chư Tăng đông đảo phải đi tế độ chúng sinh từ xứ này sang xứ khác, trên con đường dài đi qua những nơi hẻo lánh, dân cư thưa thớt, hoặc không có; nhưng nếu có Ngài Ðại Ðức Sīvali đi cùng đoàn, thì 4 thứ vật dụng đầy đủ sung túc phát sanh đến chư Ðại Ðức Tăng; đều là do nhờ năng lực phước thiện của Ngài, khiến cho chư thiên hoá ra xóm làng, thị thành dân cư đông đúc cúng dường y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc trị bệnh đầy đủ đến chư Ðại Ðức Tăng. Khi đoàn chư Ðại Ðức Tăng đi khỏi nơi ấy, thì xóm làng kia biến mất.

Một hôm, chư Tỳ khưu hội họp bàn về Ngài Ðại Ðức Sīvali có nhiều tài lộc đặc biệt, không chỉ phát sanh đến Ngài, mà còn đến cả chư Tỳ khưu Tăng dù nhiều bao nhiêu vị cũng vẫn đầy đủ sung túc. Thật là điều phi thường! Không những các hàng cận sự nam, cận sự nữ đem 4 thứ vật dụng đến cúng dường Ngài, mà còn có cả chư thiên, Long vương... cũng đem 4 thứ vật dụng đến cúng dường Ngài cùng tất cả chư Tỳ khưu Tăng nữa.

Chư Tỳ khưu đang bàn về tài lộc đặc biệt của Ngài Ðại Ðức Sīvali, khi ấy Ðức Thế Tôn vừa ngự đến, bèn hỏi:

- Các con đang bàn về chuyện gì vậy?

Chư Tỳ khưu bạch rằng:

- Kính bạch Ðức Thế Tôn, chúng con đang bàn về quả phước thiện đặc biệt của Ðại Ðức Sīvali.

Nhân dịp ấy, Ðức Thế Tôn chủ trì buổi hội chư Tỳ khưu Tăng, tuyên dương Ngài Ðại Ðức Sīvali cho các hàng đệ tử biết rằng:

- Etadaggaṃ bhikkhave mama Sāvakānaṃ lābhīnaṃ yadidaṃ Sīvali.
[Bộ Aṅguttaranikāya, phần Etadagga]

Này chư Tỳ khưu, Sīvali là bậc Thánh đại Thanh Văn có tài lộc bậc nhất trong các hàng Thanh Văn đệ tử của Như Lai.

Ngài Ðại Ðức Sīvali là bậc Thánh đại Thanh Văn có tài lộc bậc nhất trong hàng đệ tử của Ðức Phật Gotama, đó là kết quả thành tựu nguyện vọng của Ngài đã từng phát nguyện từ thời Ðức Phật Pudumuttara trong quá khứ.

Quá khứ, thời kỳ Ðức Phật Padumuttara xuất hiện trên thế gian, cách 100 ngàn đại kiếp trái đất của chúng ta, tiền thân của Ðại Ðức Sīvali là một người cận sự nam trong gia đình giàu có. Một hôm, đến chùa nghe Ðức Phật Padumuttara thuyết pháp, khi ấy, Ðức Phật Padumuttara tuyên dương một người đệ tử tên Sudassana là bậc Thánh đại Thanh Văn có tài lộc bậc nhất trong hàng đệ tử của Ngài, người cận sự nam , tiền thân của Ðại Ðức Sīvali, nhìn thấy Ðại Ðức Sudassana, liền phát sanh thiện tâm trong sạch, có nguyện vọng muốn trở thành bậc Thánh đại Thanh Văn có tài lộc bậc nhất trong hàng Thanh Văn đệ tử của Ðức Phật vị lai.

Ngay sau đó, người cận sự nam ấy đến hầu đảnh lễ, cung kính thỉnh Ðức Phật cùng 500 chư Tỳ khưu Tăng đến nhà để làm phước bố thí suốt 7 ngày. Ðức Phật Padumuttara làm thinh nhận lời.

Người cận sự nam ấy làm phước thiện bố thí những món vật thực ngon lành suốt 7 ngày, đến ngày thứ 7, còn cúng dường tam y đến Ðức Phật cùng 500 vị Tỳ khưu Tăng, mỗi vị một bộ. Sau khi dâng tam y xong, ông đến hầu đảnh lễ Ðức Phật, rồi ngồi một nơi hợp lẽ, bạch rằng:

- Kính bạch Ðức Thế Tôn, phước thiện bố thí mà con đã tạo suốt 7 ngày qua, con không cầu mong gì khác hơn là muốn trở thành bậc Thánh đại Thanh Văn có tài lộc bậc nhất trong hàng Thanh Văn đệ tử của Ðức Phật vị lai, như ngôi vị cao quý của Ðại Ðức Sudassana bậc Thánh đại Thanh Văn của Ðức Thế Tôn bây giờ.

Ðức Phật Padumuttara dùng trí tuệ vị lai kiến minh thấy rõ nguyện vọng của vị thiện nam này sẽ thành tựu trong kiếp vị lai, nên thọ ký rằng:

- Này chư Tỳ khưu, kể từ kiếp trái đất này, trong vị lai sẽ trải qua 100 ngàn đại kiếp trái đất, đến kiếp trái đất Bhaddakappa, có Ðức Phật Gotama [*] xuất hiện trên thế gian, khi ấy, vị thiện nam này tái sanh làm người nam trong hoàng tộc, từ bỏ nhà xuất gia, sẽ trở thành bậc Thánh đại Thanh Văn có tài lộc bậc nhất trong các hàng Thanh Văn đệ tử của Ðức Phật Gotama, như Sudassana bậc Thánh đại Thanh Văn của Như Lai bây giờ.

[*] Từ Ðức Phật Padumuttara đến Ðức Phật Gotama trải qua 100 ngàn đại kiếp trái đất và trải qua 15 Ðức Phật xuất hiện trên thế gian.

Lắng nghe lời thọ ký của Ðức Phật Padumuttara, vị thiện nam vô cùng hoan hỉ tạo phước thiện bố thí 4 thứ vật dụng đến Ðức Phật cùng chư Ðại Ðức Tăng đến trọn đời.

Trong vòng tử sanh luân hồi, do phước thiện cho quả được tái làm chư thiên trong các tầng trời, hoặc khi tái sanh làm người tâm thường hoan hỉ tạo phước thiện bố thí ít có người nào sánh được. Cho nên, kiếp nào cũng không hề bị sa đọa vào 4 cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sanh).

Thời kỳ Ðức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, hậu thân của vị thiện nam, do thiện nghiệp cho quả tái sanh vào lòng công chúa Suppavāsa xứ Koliya như ở đoạn đầu.

Thiện nghiệp, ác nghiệp là riêng của mình, còn quả của thiện nghiệp, ác nghiệp không chỉ riêng cho mình, mà còn có ảnh hưởng đến người khác, chúng sinh khác.

Do quả ác nghiệp nào khiến cho Ngài phải chịu nằm trong bụng mẹ chịu khổ suốt 7 năm lẻ 7 ngày?

Ðức Thế Tôn dạy rằng:

- Này chư Tỳ khưu, Sīvali phải chịu khổ do quả ác nghiệp đã tạo trong kiếp quá khứ!

Trong thời quá khứ, tiền kiếp của Sīvali là Thái tử của Ðức vua trị vì kinh thành Barāṇasi, khi phụ vương băng hà, Thái tử lên ngôi vua. Lúc ấy, có Ðức vua láng giềng mưu toan kéo quân đến chiếm thành Barāṇasi, trên đường tiến quân, vị vua ấy lập doanh trại cho quân nghỉ đêm.

Ðức vua kinh thành Barāṇasi hay tin, bèn bàn tính với Hoàng thái hậu tìm cách ngăn cản quân xâm lược, rồi đem quân vây quanh doanh trại quân địch. Vây chặt các cửa doanh trại suốt 7 ngày đêm không cho một ai ra vào được.

Khi ấy, Ðức vua kinh thành Barāṇasi ngự đến nghe Ðức Phật Ðộc Giác thuyết giảng về thiện pháp, ác pháp; Ðức Phật Ðộc Giác khuyên dạy mọi người không nên tạo ác nghiệp, để tự làm khổ mình, khổ người; nên cố gắng tạo thiện nghiệp để đem lại sự an lạc cho mình, cho người.

Sau khi nghe pháp xong, Ðức vua hiểu rõ ác nghiệp, thiện nghiệp, nên liền truyền lệnh mở vòng vây doanh trại quân địch, thả cho vị vua nước láng giềng và quân lính trở về đất nước họ.

Ðức vua kinh thành Barāṇasi sau khi chết, do ác nghiệp ấy cho quả tái sanh đoạ vào địa ngục, chịu khổ suốt thời gian lâu dài. Nay kiếp hiện tại này, do thiện nghiệp cho quả tái sanh vào lòng công chúa Suppavāsā, là hậu thân của bà Hoàng thái hậu ở tiền kiếp đã đồng tình với vương nhi vây hảm doanh trại kẻ thù. Do quả của ác nghiệp quá khứ còn dư lại, nên khiến cho Ngài Ðại Ðức Sīvali và công chúa Suppavāsā cùng chịu khổ trong suốt 7 năm lẻ 7 ngày.

Ðức Phật dạy về nghiệp và quả của nghiệp bằng bài kệ rằng:

"Yādisaṃ vapate bījaṃ,
Tādisaṃ harate phalaṃ.

Kalyāṇakārī kalyāṇaṃ,
Pāpakārī ca pāpakaṃ".

[Bộ Samyuttanikāya, phần Sagāthavagga]

Người nào gieo hạt giống thế nào,
Người ấy gặt quả như thế ấy.

Người hành thiện, thì được quả thiện.
Người hành ác, thì được quả ác.

Tất cả chúng sinh nói chung, con người nói riêng, ai ai cũng thích sự an lạc, chán ghét sự khổ; mà sự an lạc, sự khổ đó là quả (không phải nhân), nên không có quyền chọn lựa.

Nên biết rằng: sự an lạc là quả của thiện nghiệp, sự khổ là quả của ác nghiệp.

Như vậy, thiện nghiệp, ác nghiệp là nhân (không phải quả) nên có quyền chọn lựa.

Con người có quyền chủ động chọn lựa tạo thiện nghiệp hoặc ác nghiệp; một khi đã tạo thiện nghiệp hoặc ác nghiệp nào rồi, thiện nghiệp hoặc ác nghiệp đến thời kỳ, có cơ hội cho quả của chúng; con người hoàn toàn bị động phải chấp nhận, mà không có quyền phủ nhận, bởi vì chính mình là người thừa hưởng quả của nghiệp ấy.

Như vậy:

- Thích sự an lạc (thích hưởng quả) thì phải biết thích tạo mọi thiện nghiệp (gieo nhân).

- Chán ghét sự khổ (không thích quả) thì phải biết chán ghét, không tạo mọi ác nghiệp (không gieo nhân).

Bởi vì, sự công minh của nghiệp không thiên vị một ai cả, dầu là Ðức Phật hoặc chư bậc Thánh A-ra-hán.

Theo quan niệm Phật giáo "còn nghiệp thì còn tái sanh luân hồi" không hoàn toàn đúng; bởi vì, bậc Thánh A-ra-hán vẫn còn nghiệp cũ, nhưng sau khi tịch diệt Niết Bàn (chết) không còn tái sanh kiếp nào khác nữa.

Nên hiểu đúng là: "còn phiền não tham ái, thì còn tái sanh luân hồi". Cho nên, bậc Thánh A-ra-hán đã diệt đoạn tuyệt mọi tham ái, mọi phiền não không còn dư sót, đến khi Ngài hết tuổi thọ, đồng thời cũng là lúc tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sanh luân hồi trong tam giới; mặc dầu nghiệp cũ của Ngài vẫn còn, nhưng tất cả nghiệp ấy đều trở thành vô hiệu quả (ahosikamma).

Tất cả mọi thiện nghiệp, mọi ác nghiệp không nhất thiết đều phải cho quả cả thảy. Thiện nghiệp nào, ác nghiệp nào có cơ hội, có năng lực, có đầy đủ nhân duyên, thì thiện nghiệp ấy, ác nghiệp ấy mới có cơ hội cho quả. Còn thiện nghiệp, ác nghiệp nào không có đủ nhân duyên; thì thiện nghiệp, ác nghiệp ấy không có cơ hội cho quả.

Nhân duyên chính đó là tham ái. Bậc Thánh A-ra-hán đã diệt đoạn tuyệt tất cả mọi tham ái, đến khi tịch diệt Niết bàn (chết), tham ái dẫn dắt tái sanh kiếp sau không còn nữa, nên chấm dứt khổ sanh là giải thoát mọi cảnh khổ già, khổ bệnh, khổ chết, mới có sự an lạc tuyệt đối, như Ðức Phật dạy:

"Nibbānaṃ paramaṃ sukhaṃ".
"Niết bàn an lạc tuyệt đối".

BỐ THÍ BA-LA-MẬT

Bố thí là một hành động đem của cải tiền bạc, sự hiểu biết của mình... ban bố cho người khác, chúng sinh khác, với tâm tế độ để tạo phước thiện cho mình, để hưởng được quả báu tốt lành theo ý nguyện của mình.

Những thí chủ bố thí cầu mong được giàu sang phú quý, trở thành phú hộ, vua chúa, hoàng hậu ... hoặc cầu mong được tái sanh lên cõi trời dục giới, trở thành vua trời, hoàng hậu của vua trời, v.v...

Như vậy, sự bố thí ấy chỉ là phước thiện bố thí bình thường (không đặc biệt) cho quả báu an lạc trong cõi người, cõi trời dục giới mà thôi, vẫn còn phải chịu cảnh khổ tử sanh luân hồi trong tam giới, vẫn chưa giải thoát khổ được.

Bố thí để trở thành bố thí ba la mật, người thí chủ cần phải có 2 điều kiện:

Sự bố thí ấy không làm nơi nương nhờ của tham ái (taṇhā), ngã mạn (māna)tà kiến (diṭṭhi).

Sự bố thí ấy với tâm từ, tâm bi tế độ và có nguyện vọng mong đạt đến mục đích cứu cánh Niết Bàn, diệt khổ tái sanh, để giải thoát mọi cảnh khổ tử sanh luân hồi trong tam giới.

Với mục đích cứu cánh Niết Bàn ấy, một số vị có nguyện vọng trở thành Ðức Phật Toàn Giác, để tế độ chúng sinh cùng chứng ngộ Niết Bàn. Một số vị có nguyện vọng trở thành Ðức Phật Ðộc Giác, hoặc bậc Thánh Thanh Văn Giác....

Ðể trở thành Ðức Phật Toàn Giác, hoặc Ðức Phật Ðộc Giác, hoặc Thánh Thanh Văn Giác bậc nào, trước tiên đều cần phải tạo 10 pháp hạnh ba la mật làm nền tảng để chứng đạt đến sở nguyện của mình.

10 pháp hạng ba la mật là:

1- Bố thí ba la mật (dāna pāramī).
2- Giữ giới ba la mật (sīla pāramī).
3- Xuất gia ba la mật (nekkhamma pāramī).
4- Trí tuệ ba la mật (paññā pāramī).
5- Tinh tấn ba la mật (vīriya pāramī).
6- Nhẫn nại ba la mật (khanti pāramī).
7- Chân thật ba la mật (sacca pāramī).
8- Chí nguyện ba la mật (adhiṭṭhāna pāramī).
9- Tâm từ ba la mật (mettā pāramī).
10- Tâm xả ba la mật (upekkhā pāramī).

Trong khi đang tạo, đang bồi bổ hạnh ba la mật để cho đầy đủ, đều gọi là Ðức Bồ Tát (Bodhisatta).

Ðối với Ðức Bồ Tát Toàn Giác (Sammā Sambodhisatta), ví như những tiền kiếp của Ðức Phật Gotama của chúng ta, còn là Ðức Bồ Tát có trí tuệ ưu việt hơn đức tintinh tấn. Ngài phát nguyện mong trở thành Ðức Phật Toàn Giác trong tâm suốt 7 a tăng kỳ và phát nguyện ra bằng lời nói để cho mọi chúng sinh nghe biết suốt 9 a tăng kỳ. Trong hai thời kỳ này, Ðức Bồ Tát vẫn còn là Ðức Bồ Tát bất định (aniyatabodhisatta).

Ðến thời kỳ được Ðức Phật thọ ký, Ngài là Ðức Bồ Tát Sumedha đến hầu Ðức Phật Dīpankara tạo duyên lành, Ðức Phật Dīpankara dùng Phật nhãn thấy rõ, biết rõ Ngài có nguyện vọng trở thành Ðức Phật Toàn Giác, nên Ngài thọ ký rằng:

"Vị đạo sĩ Sumedha này trong thời vị lai, còn 4 a tăng kỳ và 100 ngàn đại kiếp nữa sẽ trở thành Ðức Phật Toàn Giác có danh hiệu Ðức Phật Gotama".

Sau khi được thọ ký, Ngài trở thành Ðức Bồ Tát cố định (niyatabodhisatta) tiếp tục bồi bổ 10 hạnh ba la mật bậc thường, 10 hành ba la mật bậc trung và 10 hạnh ba la mật bậc thượng, cho đầy đủ 30 hạnh ba la mật để trở thành Ðức Phật Toàn Giác.

Như vậy, để trở thành Ðức Phật Toàn Giác, Ðức Bồ Tát Toàn Giác cần phải tạo 30 hạnh ba la mật từ khi phát nguyện trong tâm suốt 7 a tăng kỳ, phát nguyện ra bằng lời nói suốt 9 a tăng kỳ và thời gian sau khi Ðức Bồ Tát đã được Ðức Phật thọ ký rồi, còn phải cố gắng tinh tấn bồi bổ thêm 30 pháp hạnh ba la mật suốt 4 a tăng kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất nữa. Ðó là thời gian đối với Ðức Bồ Tát có trí tuệ ưu việt hơn đức tin và tinh tấn.

Còn đối với Ðức Bồ Tát có đức tin ưu việt hơn trí tuệ và tinh tấn, thì thời gian gấp đôi Ðức Bồ Tát có trí tuệ ưu việt. Nghĩa là Ðức Bồ Tát có đức tin ưu việt cần phải tạo 30 hạnh ba la mật phát nguyện trong tâm suốt 14 a tăng kỳ; phát nguyện ra bằng lời nói suốt 18 a tăng kỳ và sau khi đã được Ðức Phật thọ ký rồi cần phải bồi bổ thêm 30 hạnh ba la mật suốt 8 a tăng kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất, để trở thành Ðức Phật Toàn Giác.

Ðối với Ðức Bồ Tát có tinh tấn ưu việt hơn trí tuệ và đức tin, thì thời gian gấp đôi Ðức Bồ Tát có đức tin ưu việt. Nghĩa là Ðức Bồ Tát có tinh tấn ưu việt cần phải tạo 30 hạnh ba la mật phát nguyện trong tâm 28 a tăng kỳ; phát nguyện ra bằng lời nói suốt 36 a tăng kỳ và sau khi đã được Ðức Phật thọ ký rồi, cần phải bồi bổ thêm 30 hạnh ba la mật suốt 16 a tăng kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất, để trở thành Ðức Phật Toàn Giác.

Ðối với Ðức Bồ Tát Ðộc Giác (Pacceka Bodhi-satta) có trí tuệ ưu việt hơn đức tin và tinh tấn, cần phải tạo 20 hạnh ba la mật (10 pháp hạnh ba la mật bậc thường, 10 pháp hành ba la mật bậc trung) suốt 2 a tăng kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất, để trở thành Ðức Phật Ðộc Giác.

Ðối với Ðức Bồ Tát tối thượng Thanh Văn (Aggasāvakabodhisatta) có trí tuệ ưu việt, cần phải tạo 10 hạnh ba la mật suốt 1 a tăng kỳ và 100 ngàn đại kieáp trái đất, để trở thành bậc Thánh tối thượng Thanh Văn.

Ðối với Ðức Bồ Tát đại Thanh Văn (Mahā-sāvakabodhisatta) có trí tuệ ưu việt, cần phải tạo 10 hạnh ba la mật suốt 100 ngàn đại kiếp trái đất, để trở thành bậc Thánh đại Thanh Văn.

Ðối với Ðức Bồ Tát Thanh Văn hạng thường (Pakaṭisāvakabodhasatta) có trí tuệ ưu việt, cần phải tạo 10 hạnh ba la mật dưới 100 ngàn đại kiếp trái đất, để trở thành bậc Thánh nhân hạng thường, v.v....

Trong 10 pháp hành ba la mật, bố thí ba la mật làm nền tảng hỗ trợ cho các pháp hạnh ba la mật khác. Các pháp hạnh khác được phát triển tốt đều nương nhờ vào bố thí ba la mật.

1- Bố thí ba la mật hỗ trợ cho bố thí ba la mật như thế nào?

Có số người đã từng tạo pháp hạnh bố thí ba la mật trong những tiền kiếp, kiếp hiện tại được tái sanh trong gia đình giàu sang phú quý, có nhiều của cải, trong dòng dõi cao quý, được phần đông, nhiều người kính trọng.

Số người ấy vốn có bản tánh hoan hỉ trong hạnh bố thí ba la mật từ tiền kiếp, nay kiếp hiện tại này, bản tính hoan hỉ trong hạnh bố thí ba la mật ấy không mất đi, mà lại càng tăng trưởng.

Ví dụ:

Tích Ðức Bồ Tát Vessantara tiền thân Ðức Phật Gotama của chúng ta, khi Ngài đầu thai vào lòng chánh cung hoàng hậu Phussatī (hoàng hậu của đức vua Sivi trị vì xứ Sivi); đúng 10 tháng Ngài mới sanh ra đời, vừa mới mở mắt Ngài đưa bàn tay và nói câu đầu tiên với Hoàng hậu rằng:

"Amma! Dānaṃ dassāmi, atthi kiñci te dhanaṃ".

"Mẫu hậu ơi! Của cải mẹ có những gì, cho con, con sẽ bố thí".

Trong vòng tử sanh luân hồi của mỗi chúng sinh, phần thân (sắc uẩn) thì thay đổi mỗi kiếp, song phần tâm (4 danh uẩn: thọ, tưởng, hành, thức) thì vẫn còn nguyện vẹn bản tánh cũ; tiền kiếp đã hoan hỉ trong hạnh bố thí, thì kiếp hiện tại cũng hoan hỉ trong việc bố thí ba la mật hơn nữa.

Cho nên, bố thí ba la mật hỗ trợ cho hạnh bố thí ba la mật là như vậy.

2- Bố thí ba la mật hỗ trợ cho giữ giới ba la mật như thế nào?

Giữ giới là giữ cho thânkhẩu không phạm giới. Phạm giới hoặc không phạm giới do tác ý (cetanā) là chính.

Tác ý bất thiện tâm tạo ác nghiệp do thân và khẩu gọi là phạm giới.

Tác ý thiện tâm tránh xa mọi hành ác do thân: không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm; và tránh xa mọi lời nói ác do khẩu: không nói dối, không nói lời chia rẽ, không nói lời thô tục, không nói lời vô ích, gọi là giữ giới.

Tác ý thiện tâm tránh xa cách sống tà mạng do thân và khẩu hành ác; sống theo chánh mạng.

Như vậy, đối với người đã từng tạo hạnh bố thí ba la mật trong những kiếp quá khứ, kiếp hiện tại được giàu sang phú quý có nhiều của cải, đời sống đầy đủ sung túc, có điều kiện sống theo chánh mạng, hành theo chánh nghiệp và có chánh ngữ. Nhờ vậy, việc giữ giới ba la mật được thuận lợi hơn những người nghèo khổ, thiếu thốn, làm việc không đủ sống, bởi vì ít phước bố thí. Những người nghèo khổ cũng có thể giữ giới ba la mật được, nhưng không được thuận lợi như người giàu có.

Cho nên, bố thí ba la mật hỗ trợ cho hạnh giữ giới ba la mật được thành tựu dễ dàng.

Ví dụ:

Tích Long vương Saṅkhapāla (tiền thân của Ðức Phật Gotama) có nhiều oai lực, có thần thông, chán nản cảnh hưởng sự an lạc cõi Long cung, có nguyện vọng giữ bát giới trong những ngày giới hàng tháng, nên Long Vương xuất hiện lên cõi người để nguyện thọ trì bát giới cho được trong sạch và đầy đủ.

Long Vương phát nguyện 4 điều rằng:

Người nào cần đến da, thì lấy da.
Người nào cần đến thịt, thì lấy thịt.
Người nào cần đến gân, thì lấy gân.
Người nào cần đến xương, thì lấy xương.

Dầu phải hy sinh sanh mạng, ta quyết tâm giữ bát giới cho được trong sạch và đầy đủ.

3- Bố thí ba la mật hỗ trợ cho xuất gia ba la mật như thế nào?

Có số người đã từng tạo bố thí ba la mật trong nhiều kiếp trong quá khứ, kiếp hiện tại được tái sanh trong gia đình giàu sang phú quý, có nhiều của cải, cuộc sống đầy đủ sung túc, đến khi lớn lên trở thành người chủ tài sản của ông bà, cha mẹ để lại. Họ tự suy nghĩ rằng: "Những của cải, tài sản này từ tổ tiên, ông bà tích lũy truyền lại cho cha mẹ, nay cha mẹ truyền lại cho ta. Những người thân yêu chết chẳng ai đem theo được một món của cải nào; về phần ta, đến khi chết cũng như vậy thôi, chẳng có sự lợi ích, an lạc nào đáng kể. Ðiều tốt hơn, ta nên từ bỏ mọi thứ của cải này, đi xuất gia hành phạm hạnh cao thượng".

Hoặc đối với số người trong cuộc sống đầy đủ, sung túc đi tìm đến những bậc Thiện trí, Bậc xuất gia lắng nghe chánh pháp, nhận thức được rằng: "đời sống người tại gia có nhiều phiền muộn, phát sanh nhiều phiền não khổ tâm. Tốt hơn, ta nên từ bỏ nhà, bỏ tất cả mọi thứ của cải đi xuất gia hành phạm hạnh cao thượng của bậc Thiện trí, mong giải thoát khỏi tử sanh luân hồi...".

Như vậy là nhờ bố thí ba la mật hỗ trợ cho hạnh xuất gia ba la mật.

Ví dụ:

Tích đức vua Cūḷasutasoma (Ðức Bồ Tát tiền thân của Ðức Phật Gotama của chúng ta). Một hôm Ðức Vua truyền bảo người thợ hớt tóc rằng:

- Khi nào nhà ngươi nhìn thấy trên đầu của Trẫm có sợi tóc bạc, thì nhà ngươi báo cho Trẫm biết ngay.

Một thời gian sau, người thợ hớt tóc nhìn thấy trên đầu Ðức Vua có sợi tóc bạc, liền tâu:

- Tâu Hoàng Thượng, hạ thần nhìn thấy trên đầu Hoàng Thượng có sợi tóc bạc.

Ðức vua truyền lệnh nhổ sợi tóc bạc trình lên, Ðức Vua cầm sợi tóc bạc mà suy tư rằng: "sự già đã chế ngự thân ta rồi!".

Sáng hôm sau lâm triều, Ðức Vua cầm sợi tóc bạc ấy phán các quan văn võ, vương gia, giai cấp Bà la môn rằng:

- Ðây là sợi tóc bạc mọc trên đầu Trẫm, Trẫm đến tuổi già rồi, Trẫm truyền cho các ngươi rõ, bây giờ Trẫm đi xuất gia hành phạm hạnh.

Mặc dầu Thái Thượng Hoàng, Hoàng Thái Hậu, các quan trong triều, hoàng hậu, hoàng tử, công chúa... khẩn cầu, năn nỉ Ðức Vua đừng đi xuất gia trở thành đạo sĩ, nhưng Ðức Vua quyết chí đi xuất gia hành phạm hạnh.

Ðức vua truyền dạy, tuổi thọ con người ngắn ngủi, dù ở lại sống không bao lâu nữa cũng phải chết, từ biệt mọi người, Ðức Vua khuyên dạy mọi người nên cố gắng tạo mọi thiện pháp, chớ nên dễ duôi, quên mình tạo ác pháp sau khi chết, sẽ bị sa vào trong cõi ác giới: địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sanh chịu khổ lâu dài do ác nghiệp của mình đã tạo.

Ðức vua Bồ Tát từ bỏ ngai vàng, cung điện đi vào rừng Himavana xuất gia trở thành đạo sĩ.

4- Bố thí ba la mật hỗ trợ cho trí tuệ ba la mật như thế nào?

Có số người đã từng tạo bố thí ba la mật trong nhiều kiếp trong quá khứ, kiếp hiện tại được tái sanh trong gia đình giàu sang phú quý, có nhiều của cải, cuộc sống đầy đủ sung túc. Họ có điều kiện thuận lợi theo học pháp học, để phát sanh trí tuệ hiểu biết do học; và theo hành pháp hành, nhất là pháp hành thiền tuệ, để phát sanh trí tuệ thiền tuệ trong tam giới, thấy rõ, biết rõ sự sanh, sự diệt của danh pháp, sắc pháp; thấy rõ, biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã của danh pháp, sắc pháp; và trí tuệ thiền tuệ siêu tam giới đó là 4 Thánh Ðạo Tuệ và 4 Thánh Quả Tuệ, chứng ngộ Niết Bàn. Trí tuệ này là pháp hạnh trí tuệ ba la mật.

Như vậy, pháp hạnh bố thí ba la mật hỗ trợ cho pháp hạnh trí tuệ ba la mật.

Ví dụ:

Tích Ðức Bồ Tát Vidhūra, Ðức Bồ Tát Maho-satha, Ðức Bồ Tát Senaka... (tiền thân Ðức Phật Gotama của chúng ta), sanh trong gia đình giàu sang, quyền quý, được học hành có trí tuệ hơn người.

Còn số người nghèo khổ, cuộc sống thiếu thốn, cơ hội học theo pháp học và hành theo pháp hành để phát sanh trí tuệ không dễ dàng. Trong đời, có những đứa trẻ rất thông minh, song sanh trưởng trong gia đình nghèo khổ, nên không có cơ hội thuận lợi đi học như những đứa trẻ con nhà giàu có.

Vì vậy, pháp hành trí tuệ ba la mật được thuận lợi cần nương nhờ hạnh bố thí ba la mật.

5- Bố thí ba la mật hỗ trợ cho tinh tấn ba la mật như thế nào?

Tinh tấn là tâm sở, khi đồng sanh với ác tâm thì tạo ác nghiệp do thân, khẩu ý; khi đồng sanh với thiện tâm thì tạo thiện nghiệp do thân, khẩu, ý.

Tinh tấn ba la mật đó là chánh tinh tấn (sammā-vāyāma), gồm 4 điều:

Tinh tấn diệt ác pháp đã sanh.
Tinh tấn ngăn không cho ác pháp phát sanh.
Tinh tấn làm cho thiện pháp phát sanh.
Tinh tấn làm tăng trưởng thiện pháp đã phát sanh.

Tinh tấn tiến hành thiền định để chứng đắc các bậc thiền và tinh tấn tiến hành thiền tuệ để chứng đắc 4 Thánh Ðạo Tuệ, diệt đoạn tuyệt mọi phiền não tham ái, đó là tinh tấn ba la mật.

Có số người đã từng tạo bố thí ba la mật, kiếp hiện tại có nhiều của cải, cuộc sống đầy đủ sung túc, hỗ trợ cho hạnh tinh tấn ba la mật được thành tựu dễ dàng hơn người nghèo khổ, đời sống thiếu thốn, cần phải tinh tấn trong công việc làm ăn để nuôi mạng.

Tinh tấn ba la mật như Ðức Bồ Tát thái tử Janaka, tinh tấn bơi lội trong biển đại dương suốt 7 ngày đêm không ngừng nghỉ, làm động tâm chư thiên đến cứu thoát chết....

Tinh tấn ba la mật được thành tựu cần nương nhờ bố thí ba la mật làm nền tảng.

6- Bố thí ba la mật hỗ trợ nhẫn nại ba la mật như thế nào?

Pháp nhẫn nại là pháp chịu đựng mọi cảnh trái ý nghịch lòng một cách tự nhiên, không hề phát sanh tâm không hài lòng. Pháp nhẫn nại đó chính là vô sân tâm sở (adosacetasika) đồng sanh với đại thiện tâm.

Pháp nhẫn nại ở đây không phải là nhẫn nhục, vì nhẫn nhục thì bên trong tâm còn ấm ức, uất hận trong lòng; nhưng bên ngoài tỏ ra bình tĩnh, chưa biểu lộ ra bằng hành động, lời nói. Còn nhẫn nại, bên trong chỉ có thiện tâm phát sanh, bên ngoài thân và khẩu vẫn giữ được tánh tự nhiên; hành động và lời nói vẫn bình thường, không có gì thay đổi, đó là hạnh nhẫn nại ba la mật.

Có số người đã từng tạo bố thí ba la mật trong những kiếp quá khứ, kiếp hiện tại giàu sang quyền quý, cuộc sống đầy đủ sung túc, có điều kiện và cơ hội gần gũi thân cận với bậc Thiện trí, lắng nghe học hỏi chánh pháp của bậc Thiện trí, được hiểu rõ pháp nhẫn nại là một đức tính cao thượng mà chư Phật tán dương ca tụng, cho nên họ cố gắng thực hành hạnh nhẫn nại ba la mật để trở thành đức tính cao quý của họ. Vì vậy, mỗi khi gặp cảnh trái ý nghịch lòng, họ vẫn giữ thiện tâm trong sạch tự nhiên, không hề phát sanh tâm không hài lòng (sân tâm) nơi đối tượng ấy, không tự làm khổ mình, không làm khổ người.

Vậy, bố thí ba la mật hỗ trợ cho hạnh nhẫn nại ba la mật.

Ví dụ:

Tích Ðức Bồ Tát Khantivadī (tiền thân của Ðức Phật Gotama) hành hạnh nhẫn nại ba la mật. Ðức vua Kalāpu tức giận Ðức Bồ Tát, truyền lệnh cho người hành quyết chặt hai chân, hai tay, hai lỗ tai, 2 lỗ mũi của Ðức Bồ Tát, Ngài hành nhẫn nại ba la mật nên sân tâm không phát sanh, dẫu thân của Ngài đau đớn đến cùng cực, Ngài phải viên tịch ngay ngày hôm ấy.

Còn đức vua Kalāpu đã tạo tội ác nặng, bị đất rút chết, do ác nghiệp ấy cho quả tái sanh vào địa ngục Avīci chịu khổ do ác nghiệp của mình đã tạo.

7- Bố thí ba la mật hỗ trợ cho chân thật ba la mật như thế nào?

Trong đời này có hai pháp chân thật:

Chân thật bằng lời nói (sammutisacca).
Chân thật nghĩa pháp (paramatthasacca).

Thế nào là chân thật bằng lời nói?

Người đời chế định ra tiếng nói để thông tin, truyền đạt tư tưởng hiểu biết lẫn nhau; khi thấy, nghe biết thế nào, nói đúng sự thật như thế ấy, không cố ý nói sai, nói dối lừa gạt người khác, gọi là chân thật bằng lời nói.

Thế nào là chân thật nghĩa pháp?

Chân thật nghĩa pháp là pháp có thật tánh chân thật, thể bất biến, đó là 4 pháp: tâm, tâm sở, sắc pháp Niết Bàn. Phân ra làm hai loại:

* Chân thật theo thực tánh pháp (sabhāvasacca) có 3 pháp:

Thiện pháp cho quả an lạc.
Bất thiện pháp cho quả khổ.
Phi thiện, phi bất thiện pháp: là pháp không phải thiện cũng không phải bất thiện, đó là các pháp còn lại như: quả tâm, duy tác tâm, sắc pháp...

* Chân thật theo Tứ thánh đế:

Khổ thánh đế.
Tập thánh đế.
Diệt thánh đế.
Ðạo thánh đế.

Ðức Bồ Tát hành hạnh chân thật ba la mật là nói như thế nào, thì làm như thế ấy; làm như thế nào, thì nói như thế ấy; lời nói và việc làm lúc nào cũng chân thật, không nói dối, không làm dối.

Chân thật ba la mật là đã nói lời chân thật, rồi làm đúng theo lời chân thật ấy, không phải nói mà không làm đúng theo lời nói.

Pháp hạnh chân thật ba la mật được thành tựu dễ dàng, do nương nhờ bố thí ba la mật làm nền tảng.

Ví dụ:

Tích Ðức Bồ Tát Mahāsutasoma (tiền thân của Ðức Phật Gotama) thực hành hạnh chân thật ba la mật. Ðức Bồ Tát làm vua trị vì kinh thành Indapatta.

Một hôm đức vua Bồ Tát Mahāsutasoma đang làm lễ tắm tại hồ nước, thì kẻ sát nhân ăn thịt người tên Porisāda bắt Ngài để giết, lấy máu tế thần rồi ăn thịt Ngài.

Trước khi làm lễ tắm, Ngài có hứa với vị pháp sư Bà la môn rằng: khi hồi cung sẽ nghe pháp. Nay Ngài bị bắt, không giữ đúng lời hứa với vị pháp sư Bà la môn; muốn giữ đúng lời hứa, nên Ngài xin kẻ sát nhân Porisāda, cho phép Ngài trở về cung nghe pháp đúng theo lời đã hứa, rồi Ngài sẽ trở lại gặp kẻ sát nhân Porisāda. Tên sát nhân Porisāda ban đầu không tin nơi Ngài, nhưng nhìn thấy Ngài vẫn tự nhiên không tỏ ra một chút sợ hãi đến sự chết, với oai lực từ lời chân thật của Ngài, khiến tên sát nhân Porisāda tin theo, cho phép Ngài hồi cung.

Khi Ðức vua Bồ Tát hồi cung, thỉnh vị pháp sư lên ngồi trên ngai vàng thuyết pháp, còn Ðức Vua ngự ở dưới thấp, cung kính nghe pháp. Sau khi nghe pháp xong, giữ đúng lời hứa với kẻ sát nhân Porisāda, Ðức vua Bồ Tát trở lại tìm tên sát nhân. Kẻ sát nhân vô cùng kinh ngạc, không ngờ Ðức vua Bồ Tát giữ đúng lời hứa đến gặp y, để y giết lấy máu tế thần rồi ăn thịt.

Do oai lực hạnh chân thật ba la mật của Ðức Bồ Tát, kẻ sát nhân không dám giết Ngài, y kính xin Ngài thuyết lại bài pháp mà Ngài đã nghe từ vị pháp sư Bà la môn.

Ban đầu Ðức Bồ Tát không chịu thuyết, bởi vì kẻ sát nhân đang hành ác pháp của người ác; còn thiện pháp của bậc Thiện trí người ác không thể hiểu được.

Về sau kẻ sát nhân hồi tâm hướng thiện, thiết tha khẩn khoản, yêu cầu Ðức Bồ Tát thuyết pháp. Ngài nhận thấy kẻ sát nhân biết phục thiện, nên Ngài thuyết pháp tế độ kẻ sát nhân cải tà quy chánh, thọ trì ngũ giới. Từ đó về sau không giết người ăn thịt nữa, trở thành người thiện.

Ðức Bồ Tát thực hành hạnh chân thật ba la mật được thành tựu, nhờ hạnh bố thí ba la mật làm nền tảng.

8- Bố thí ba la mật hỗ trợ chí nguyện ba la mật như thế nào?

Chí nguyện ba la mật thường đi theo ba la mật khác.

Ví dụ:

Tích Ðức Bồ Tát Temiya, Thái tử của đức vua Kāsika, Ðức vua vô cùng yêu quý thái tử Temiya, chắc chắn sẽ truyền ngôi báu cho Thái tử. Một hôm Ðức Vua lâm triều, Thái tử nằm trên vế của Ðức vua, quân lính triều đình bắt được một nhóm trộm cướp đến trình Ðức vua, Ðức vua truyền lệnh hành phạt bọn cướp. Thái tử nằm trên vế nghe rõ lời truyền lệnh của phụ vương mình, tự nhiên cảm thấy sợ hãi, nghĩ rằng: "Phụ vương của ta đã tạo ác nghiệp, khó tránh khỏi khổ trong cảnh địa ngục".

Ðức Bồ Tát nằm ngủ thiếp đi một lát, khi tỉnh dậy thấy mình đang nằm trên ngai vàng. Ngài nhớ lại tiền kiếp đã từng làm vua 20 năm, tạo ác nghiệp, nên sau khi chết, do ác nghiệp cho quả tái sanh vào địa ngục chịu khổ suốt 80.000 năm. Ngài suy tư rằng: "Nếu sau này ta lớn lên nối ngôi vua, thì chắc chắn ta cũng sẽ sa vào địa ngục trở lại". Ðức Bồ Tát buồn lo, sợ hãi chưa biết làm thế nào để tránh khỏi làm vua.

Khi ấy có một thiên nữ kiếp trước đã từng làm mẹ Ðức Bồ Tát, khuyên dạy Ðức Bồ Tát rằng:

- Này Temiya con yêu quý! Con chớ nên buồn lo sợ hãi, nếu con không muốn làm vua, con nên thực hành theo điều mẹ khuyên dạy:

- Con không bại liệt, làm như người bại liệt.
- Con không câm, làm như người câm.
- Con không điếc, làm như người điếc.
- Con không nên biểu lộ cho người khác biết mình là người có trí tuệ hơn người.

Làm được như vậy, con chắn chắn tránh được làm vua.

Lắng nghe lời khuyên dạy của vị thiên nữ, Ðức Bồ Tát vô cùng hoan hỉ rồi phát nguyện theo những điều mà vị thiên nữ chỉ dạy, nghiêm chỉnh thực hành suốt 16 năm trường, không một ai có thể phát giác ra được. Cuối cùng các quan tâu lên Ðức Vua rằng:

Tâu Ðại Vương, nếu để Thái tử tiếp tục sống trong cung điện, thì sẽ có ba điều tại hại:

- Tai hại cho Ðại Vương.
- Tai hại cho Hoàng hậu.
- Tai hại cho ngai vàng, giang sơn đất nước.

Vậy kính xin Hoàng thượng lấy xe chở Thái tử đem chôn trong rừng sâu.

Ðức vua sợ những điều tại hại sẽ xảy ra, nên đành chuẩn tấu, truyền chỉ phán bảo quân lính trong triều đình chở Ðức Bồ Tát vào rừng để chôn.

Hôm ấy, Ðức Bồ Tát hành chí nguyện ba la mật đã thành tựu, suốt 16 năm không cử động, nay đến lúc Ðức Bồ Tát dùng tâm lực vận chuyển thân thể, bước xuống xe đi đi lại lại, đi đến chỗ những người lính đang đào huyệt. Ngài hỏi rằng:

- Các ngươi đào huyệt này để làm gì?

- Chúng tôi đào huyệt này để chôn Thái tử Temiya, là người bại liệt, câm, điếc, bất hạnh cho triều đình. – Bọn lính thưa.

- Này các ngươi, các người hãy xem, ta chính là Thái tử Temiya, ta không phải là người bại liệt, không phải người câm, điếc... sở dĩ ta có chí nguyện làm như người bại liệt, câm, điếc, là vì ta không muốn làm vua. Hôm nay ta sẽ xuất gia trở thành đạo sĩ.

9- Bố thí ba la mật hỗ trợ cho tâm từ ba la mật như thế nào?

Tâm từ ba la mật, là đại thiện tâm mong cầu tất cả chúng sinh an lạc không oan trái lẫn nhau, không khổ thân, không khổ tâm, mong cầu tất cả mọi chúng sinh tự mình giữ gìn thân tâm thường được an lạc.

Tâm từ đó là vô sân tâm sở (adosacetasika) đồng sanh trong đại thiện tâm.

Tâm từ khi biểu hiện ra nơi thân, thì thân hành động hợp với tâm từ như giúp đỡ, bố thí những vật cần thiết cho người ấy, chúng sinh ấy được an lạc.

Tâm từ khi biểu hiện nơi khẩu, thì miệng nói lời hợp với tâm từ, đem lại cho người nghe sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài.

Khi tâm từ phát sanh trong tâm, thì làm cho tâm mình cảm thấy mát mẻ dễ chịu, rải tâm từ đến mọi người, mọi chúng sinh, cầu mong cho tất cả chúng sinh được thân tâm thường an lạc, làm cho người khác, chúng sinh khác cảm nhận được sự mát mẻ, an lạc, thích gần gũi thân cận, thương yêu kính mến nhau.

Như vậy, hạnh tâm từ ba la mật này cũng cần nương nhờ hạnh bố thí ba la mật làm nền tảng.

Ví dụ:

Tích Ðức Bồ Tát Suvaṇṇasāma (tiền thân của Ðức Phật Gotama) hành hạnh tâm từ ba la mật, khi Ngài ở trong rừng không những chư thiên khắp mọi nơi kính mến Ngài, mà còn các loài thú dữ cũng cảm mến Ngài. Khi Ngài đi vào rừng lấy nước, cả đàn thú rừng đủ loại đi theo Ngài, quyến luyến Ngài không muốn rời.

Trong gia đình, thân bằng quyến thuộc có tâm từ với nhau có phải không?

Trong gia đình, như vợ chồng thương yêu nhau, cha mẹ thương yêu con, anh em, chị em thương yêu nhau, ông bà yêu cháu...; trong dòng họ, những người bà con thân bằng quyến thuộc thương yêu nhau... tất cả mọi tình thương yêu ấy không phải tâm từ thật mà gọi là tâm từ giả. Bởi vì, đó là biểu hiện tình thương với tham tâm, không phải là thiện tâm. Ðể xác minh, thực nghiệm điều này, khi tình thương (tham) không được như ý, sẽ phát sanh không hài lòng, đó là sân tâm đối nghịch với tâm từ là vô sân tâm.

Tâm từ giả, đó là tình thương với tham tâm, khi tham muốn không được như ý, liền làm nhân để cho phát sanh sân tâm (quả).

Còn tâm từ thật đó là vô sân tâm sở đồng sanh với đại thiện tâm, mong cầu mọi điều an lành đến tất cả chúng sinh không phân biệt thân hay thù, cho nên dù đối tượng thế nào đi nữa, tâm tham (hài lòng), hoặc tâm sân (không hài lòng) không phát sanh, đó là tâm từ thật.

10- Bố thí ba la mật hỗ trợ cho tâm xả ba la mật như thế nào?

Tâm xả ba la mật là thiện tâm nghĩ về tất cả chúng sinh một cách trung dung do suy nghĩ rằng:

- Mỗi chúng sinh có nghiệp là của riêng mình, cho nên, ta không thể làm cho chúng sinh được an lạc và cũng không thể làm cho chúng sinh khổ. Sở dĩ chúng sinh được an lạc là do quả của thiện nghiệp của họ đã tạo; và chúng sinh chịu cảnh khổ cũng là do quả của ác nghiệp họ đã tạo. Mỗi chúng sinh nương nhờ hoàn toàn nơi nghiệp của chính mình. Chúng sinh nào tạo thiện nghiệp, khi thiện nghiệp cho quả, thì hưởng được sự an lạc; chúng sinh nào tạo bất thiện nghiệp hoặc ác nghiệp, khi ác nghiệp cho quả, thì phải chịu khổ não.

Như vậy, sự an lạc, hoặc khổ não là quả của nghiệp mà do chính họ đã tạo.

Do nhờ suy nghĩ như vậy, nên có tâm xả đối với tất cả chúng sinh. Gọi là hành hạnh tâm xả ba la mật.

Hạnh tâm xả ba la mật này là hạnh cuối cùng nương nhờ các hạnh ba la mật khác, mà các hạnh ba la mật khác nương nhờ hạnh bố thí ba la mật. Như vậy, hạnh tâm xả ba la mật gián tiếp nương nhờ hạnh bố thí ba la mật.

Ví dụ:

Tích Ðức Bồ Tát Mahālomahaṃsa sanh trong gia đình phú hộ. Khi trưởng thành Ngài chán ngán đời sống tại gia, từ bỏ nhà đi xuất gia trở thành đạo sĩ hành hạnh tâm xả ba la mật, là tâm trung dung đối với tất cả đối tượng tốt hoặc xấu.

Ðức Bồ Tát đến sống nơi nghĩa địa gom nhặt các bộ xương, lấy sọ người làm gối, lũ trẻ tinh nghịch ở trong xóm nhìn thấy Ngài, thường đến quấy rầy Ngài như nhổ nước miếng vào người Ngài, bỏ rác, thậm chí còn tiểu tiện, đại tiện gần nơi Ngài ở. Khi Ngài nằm, chúng lấy cây cỏ xoáy vào hai lỗ tai của Ngài, chúng chơi đùa thích thú la hét om sòm; còn đối với Ðức Bồ Tát vẫn an nhiên tự tại nhẫn nại, không hề sanh sân tâm, không hài lòng gì cả.

Những bậc Thiện trí nhìn thấy Ðức Bồ Tát hành hạnh cao thượng ít ai có thể sánh được, nên ngăn cấm lũ trẻ tinh nghịch kia, không được đến quấy rầy Ngài. Họ đem những vật thực, vật thơm đến cúng dường Ngài, nhưng Ngài vẫn an nhiên tự tại, không hề phát sanh tham tâm, hài lòng những vật cúng dường ấy, bởi vì Ngài hành hạnh tâm xả ba la mật.

Tóm lại, người nào có nguyện vọng muốn giải thoát khỏi cảnh khổ tử sanh luân hồi trong ba giới bốn loài, để chứng đạt đến mục đích cứu cánh Niết Bàn, đều cần phải tạo ít nhất là đầy đủ 10 pháp hạnh ba la mật làm nhân duyên để chứng đắc Thánh Ðạo – Thánh Quả và Niết Bàn.

Nếu người nào mong cầu chứng đạt Niết Bàn mà không tạo đầy đủ 10 hạnh ba la mật, người ấy cũng chỉ có mong, mà không bao giờ chứng đạt Niết Bàn. Cũng như người nào muốn đến một nơi nào đó, mà không chịu đi, thì cũng chẳng bao giờ đến nơi ấy.

Trong 10 pháp hạnh ba la mật, hạnh bố thí ba la mật là hạnh ba la mật đầu tiên, làm nền tảng hỗ trợ cho các hạnh ba la mật khác được dễ dàng thành tựu.

ĐOẠN KẾT

Bố thí là một việc dễ làm, song bố thí để tạo được phước thiện không phải là việc dễ, mà được phước thiện vô lượng lại càng khó hơn. Bố thí là một hành động từ thiện, một nghĩa cử hào hiệp đáng tán dương ca tụng, xét về mặt hình thức. Bố thí để tạo phước thiện không chỉ hình thức, mà chính là nội tâm, còn vật thí chỉ là một nhân duyên để tạo nên phước thiện, không phải là phước thiện.

Vậy phước thiện là gì?

Phước thiện chính là thiện tâm. Trong thiện tâm (kusalacitta) hợp với nhiều tâm sở (cetasika), mỗi tâm sở có mỗi tính chất, trạng thái khác nhau, nhưng cùng chung một đối tượng với tâm.

Ðể tạo nên phước thiện bố thí, tác ý thiện tâm (kusalacetana) đóng vai trò chính, còn tất cả vật thí là nhân duyên phụ, cần phải nhờ đến người thọ thí, khi ấy mới thành tựu được phước thiện bố thí.

Bố thí mà không tạo được phước thiện, ngược lại tạo nên tội lỗi, trong những trường hợp như sau:

Thí chủ bố thí với tâm tham muốn cho người thọ thí thương yêu mình, nên bố thí những vật thí như: rượu, thuốc lá, thuốc phiện, ma túy, heroin, các chất say, v.v... những vật thí này làm cho người thọ thí phải phạm giới, mắc bệnh nghiện, phát sanh những chứng bệnh khó chữa trị... gây ra hậu quả tai hại cho người thọ thí trong kiếp hiện tại và kiếp vị lai. Như vậy, sự bố thí với tâm tham muốn này không tạo được phước thiện, mà tạo nên tội lỗi thuộc về bất thiện nghiệp (ác nghiệp).

Người chủ tiệm lớn, nhìn thấy một người ăn mày ăn mặc bẩn thỉu đứng trước cửa tiệm, người chủ phát sanh tâm sân không hài lòng người ăn mày ấy, muốn xua đuổi y bằng cách đem tiền bạc, đồ vật bố thí để cho y đi nơi khác. Như vậy, sự bố thí với tâm sân này, không tạo được phước thiện, mà tạo nên tội lỗi thuộc về bất thiện nghiệp (ác nghiệp).

Bố thí để tạo nên phước thiện, cần phải có những điều kiện như sau:

Thí chủ có tác ý thiện tâm trong sạch hoan hỉ trong việc bố thí để tế độ, giúp đỡ người, hoặc chúng sinh, với tâm từ hoặc tâm bi.

Vật thí là những vật hợp pháp, hợp luật đem lại sự lợi ích, an lạc cho người thọ thí, hoàn toàn không đem lại sự tác hại cho người thọ thí trong kiếp hiện tại và kiếp vị lai.

Người thọ thí, nếu là người có giới đức trong sạch, có thiện pháp cao thượng, thì việc bố thí của thí chủ có được phước thiện vô lượng, có quả báu vô lượng trong kiếp hiện tại và vô lượng kiếp vị lai.

Nếu người thọ thí là người không có giới đức trong sạch, có ác pháp ô nhiễm, thì việc bố thí của thí chủ có được phước thiện không nhiều, có quả báu không nhiều trong kiếp hiện tại và kiếp vị lai.

Tất cả chúng sinh nói chung, con người nói riêng, có của cải đầy đủ, giàu sang phú quý... chắc chắn là do quả của phước thiện bố thí. Phước thiện bố thí cho quả báu trong kiếp sanh làm người được giàu sang phú quý, có nhiều của cải tài sản; cho quả báu trong kiếp hoá sanh làm chư thiên trong cõi trời dục giới, có đầy đủ ngũ trần, hưởng sự an lạc tuyệt vời trong cõi trời ấy.

Dầu tái sanh làm súc sanh do ác nghiệp, song có một số loài súc sanh sống chung, gần gũi với con người, cũng hưởng được quả báu của phước thiện bố thí, như con chó, mèo, trâu, bò, ngựa, voi... được nuôi nấng chăm sóc tử tế, có chỗ ở đàng hoàng, có người săn sóc cẩn thận; thậm chí khi chúng mắc bệnh, có bác sĩ chữa trị.

Phước thiện bố thí có một năng lực đặc biệt là thí chủ có thể thành tâm hồi hướng phần phước thiện bố thí đến cho thân bằng quyến thuộc từ nhiều đời, nhiều kiếp trong quá khứ, đang sống trong cảnh đói khát, khổ cực, khi họ hoan hỉ thọ hưởng phần phước thiện bố thí của thân quyến hồi hướng đến cho họ, ngay khi ấy, họ được giải thoát khỏi kiếp sống khổ cực đói khát ấy, được tái sanh làm chư thiên trong cõi trời dục giới, hưởng được mọi sự an lạc lâu dài trong cõi trời ấy.

Như vậy, phước thiện bố thí không những đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài cho riêng mình, mà còn cho tất cả chúng sinh khác hoan hỷ, cũng được sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài nữa.

"Phước thiện bố thí" chỉ có con người trong cõi Nam thiện bộ châu (trái đất chúng ta đang sống) có nhiều cơ hội thuận lợi để tạo nên phước thiện bố thí. Ngoài ra, còn các châu khác [Tây ngưu hoá châu, Bắc câu lưu châu, Ðông thắng thần châu] và 30 cõi khác [10 cõi dục giới, 16 cõi trời sắc giới, 4 cõi trời vô sắc giới] không có cơ hội thuận lợi tạo nên phước thiện bố thí như:

- Con người trong 3 châu khác đang hưởng quả báu an lạc phước thiện của mình, nên không có cơ hội thuận lợi tạo phước thiện bố thí.

- Chúng sinh trong 4 cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sanh) đang chịu quả khổ do ác nghiệp của mình, nên cũng không có cơ hội thuận lợi tạo phước thiện bố thí.

- Chư thiên trong 6 cõi trời dục giới đang hưởng quả báu an lạc cõi trời do thiện nghiệp của mình đã tạo, nên cũng không có cơ hội thuận lợi tạo phước thiện bố thí. Chư thiên nào muốn tạo phước thiện bố thí, chư thiên ấy phải hiện xuống cõi người mới có cơ hội tạo phước thiện bố thí.

- Phạm thiên trong 16 cõi trời sắc giới và 4 cõi trời vô sắc giới đang hưởng quả báu an lạc trong bậc thiền sở đắc của mình, nên cũng không có cơ hội thuận lợi tạo phước thiện bố thí.

Con người cõi Nam thiện bộ châu này, có tính chất đặc biệt hơn tất cả mọi chúng sinh trong các cõi khác về 2 cực: cực thiện và cực ác.

1- Cực thiện: Con người trong cõi Nam thiện bộ châu siêu việt hơn các chúng sinh khác, là có khả năng chứng đắc thành bậc Chánh Ðẳng Giác, Ðức Phật Ðộc Giác, bậc Thánh tối thượng Thanh Văn, bậc Thánh đại Thanh Văn thuộc về siêu tam giới pháp.

Và có khả năng trở thành Ðức Chuyển luân thánh vương, chứng đắc tất cả 5 bậc thiền sắc giới, 4 bậc thiền vô sắc giới, chứng đắc ngũ thông: thân túc thông, thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, túc mạng thông, tha tâm thông... thuộc về tam giới pháp.

2- Cực ác: Con người trong cõi Nam thiện bộ châu có thể tạo trọng ác nghiệp gọi là pañcānantariyakamma: ngũ vô gián ác nghiệp: là giết cha, giết mẹ, giết bậc Thánh A-ra-hán, làm cho Ðức Phật bầm máu, chia rẽ Tỳ khưu Tăng. Trọng ác nghiệp này chắc chắn cho quả tái sanh vào đại địa ngục Avīci chịu quả khổ suốt 1 antarakappa so với thời gian cõi người.

[Antarakappa: là khoảng thời gian tuổi thọ con người sống lâu tột đỉnh a tăng kỳ năm (số 1 đứng đầu theo sau 140 số không (0) = 10**140), từ đó giảm dần giảm dần còn lại 10 năm, rồi từ 10 năm tăng dần tăng dần đến a tăng kỳ năm; trải qua 1 chu kỳ thời gian như vậy, gọi là antarakappa]

Con người cõi Nam thiện bộ châu có khả năng biết rõ nhânkhông phải nhân; biết rõ sự lợisự bất lợi; biết rõ thiện nghiệp bất thiện nghiệp (ác nghiệp).

Biết rõ nhân và không phải nhân: Tất cả các pháp phát sanh đều do từ nhân, con người trong cõi Nam thiện bộ châu có khả năng tìm hiểu, khám phá biết rõ pháp này phát sanh do từ nhân này, không phải nhân khác. Nhân nào thì quả ấy, quả luôn luôn phát sanh từ nhân của nó.

Biết rõ sự lợi và sự bất lợi: Con người trong cõi Nam thiện bộ châu có khả năng hiểu biết rõ sự lợi là quả của thân hành thiện, khẩu nói thiện, ý nghĩ thiện; và sự bất lợi là quả của thân hành ác, khẩu nói ác, ý nghĩ ác.

Biết rõ thiện nghiệp và bất thiện nghiệp: Nghiệp có 3 loại: thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp. Theo thật tánh pháp của mỗi loại nghiệp phân chia làm 2 loại: thiện nghiệp và bất thiện nghiệp (ác nghiệp).

Con người trong cõi Nam thiện bộ châu có khả năng biết rõ thiện nghiệp là tác ý thiện tâm hành thân thiện nghiệp: không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm; tác ý thiện tâm hành khẩu thiện nghiệp: không nói dối, không nói lời đâm thọc chia rẽ, không nói lời thô tục chửi rủa mắng nhiếc, không nói lời vô ích; tác ý thiện tâm hành ý thiện nghiệp: không tham lam, không thù hận, có chánh kiến... thuộc về thiện pháp. Có khả năng biết rõ dục giới thiện pháp, sắc giới thiện pháp, vô sắc giới thiện pháp, siêu tam giới thiện pháp.

Và có khả năng biết rõ bất thiện nghiệp (ác nghiệp) là tác ý bất thiện hành thân ác nghiệp: sát sanh, trộm cắp, tà dâm; tác ý bất thiện hành khẩu ác nghiệp: nói dối, nói lời đâm thọc chia rẽ, nói lời thô tục chửi rủa mắng nhiếc, nói lời vô ích; tác ý bất thiện hành ý ác nghiệp: tham lam, thù hận, tà kiến... thuộc về bất thiện pháp (ác pháp).

Chúng ta đã là con người trong cõi Nam thiện bộ châu, mọi cơ hội thuận lợi đang có đối với chúng ta, chúng ta nên biết chọn lấy cơ hội thuận lợi ấy để tạo nên mọi thiện pháp, để nâng đỡ chúng ta trở nên con người cao thượng. Thật vậy, chỉ có thiện pháp mới có khả năng nâng đỡ chúng ta từ cõi dục giới lên cõi sắc giới do nhờ sắc giới thiện pháp, và cõi vô sắc giới do nhờ vô sắc giới thiện pháp; từ phàm nhân lên bậc Thánh nhân; từ quả Thánh bậc thấp lên quả Thánh bậc cao tột cùng do nhờ siêu tam giới thiện pháp. Phẩm giá thấp hoặc cao của mỗi con người căn cứ vào thiện pháp của người ấy, hoàn toàn không căn cứ nơi học vị bậc nào, nơi quyền cao chức trọng ... Vậy, chúng ta nên cố gắng tinh tấn tạo mọi thiện pháp, đó là điều thiết yếu nhất trong cuộc đời của mỗi chúng ta.

Trong Phật giáo có đầy đủ 4 loại thiện pháp: dục giới thiện pháp, sắc giới thiện pháp, vô sắc giới thiện pháp và đặc biệt có siêu tam giới thiện pháp đó là: 4 Thánh Ðạo Tâm. Người Phật tử là bậc xuất gia cũng như hàng tại gia cư sĩ có khả năng chừng nào, có thể phát triển, tiến hóa đến chừng ấy, không bị hạn chế, có khả năng tiến hoá đến tột cùng A-ra-hán Thánh Ðạo, A-ra-hán Thánh Quả, trở thành bậc Thánh A-ra-hán tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sanh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Chúng ta nên có đức tin trong sạch nơi Tam bảo: Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo, và tin nghiệp và quả của nghiệp để làm nền tảng vững chắc cho mọi thiện pháp phát sanh và tăng trưởng.

Nếu có cơ hội thuận lợi bố thí, thì nên bố thí để tạo phước thiện.

Nên giữ gìn giới cho trong sạch, nghĩa là có tác ý thiện tâm giữ gìn thân và khẩu tránh xa mọi tội ác, cố gắng thân hành thiện, khẩu hành thiện để làm nền tảng cho pháp hành thiện định, pháp hành thiền tuệ.

Nên tiến hành thiền định để làm cho tâm được an tịnh, dẫn đến chứng đắc các bậc thiền sắc giới, các bậc thiền vô sắc giới; được hưởng sự an lạc trong kiếp hiện tại, và tái sanh kiếp sau làm phạm thiên trên cõi trời sắc giới, hoặc vô sắc giới tuỳ theo bậc thiền sở đắc của mình, hưởng sự an lạc trong tầng trời ấy.

Nên tiến hành thiền tuệ để làm cho trí tuệ thiền tuệ phát sanh thấy rõ biết rõ sự sanh, sự diệt của danh pháp, sắc pháp; thấy rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã của danh pháp, sắc pháp dẫn đến sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Thánh Ðạo, Thánh Quả và Niết Bàn. Cuối cùng đạt đến cứu cánh Niết Bàn giải thoát khổ tử sanh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Ðó là mục đích tối thượng của những người Phật tử: bậc xuất gia và hàng tại gia cư sĩ.

Núi rừng Viên Không,
mùa hạ 2545
Tỳ khưu Hộ Pháp


[Ðầu trang][Trở về trang Mục lục][Trở về trang Thư Viện]

updated: 2008