Trung Tâm Hộ Tông - Trang Chủ
Ý Nghĩa Rằm Tháng Tư Soạn giả: Hộ Pháp |
ĐỨC
BỒ TÁT THÁI TỬ SIDDHATTHA
ĐẢN
SINH KIẾP CHÓT
Vậy
kiếp bắt đầu của Ngài từ thuở nào?
Thật
ra, từ vô thủy trước khi Đức Bồ Tát phát
nguyện muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng
Giác, thì không rõ kiếp bắt đầu của Ngài. Khi Đức Bồ Tát phát nguyện
muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác có trí tuệ ưu việt hơn đức tin và
tinh tấn, Ngài đã trải qua vô số kiếp tử sinh luân hồi để hoàn thành
30 pháp hạnh ba-la-mật hầu mong chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác có trí
tuệ ưu việt, trong suốt khoảng thời gian bằng một nửa thời gian của Đức Bồ Tát
Chánh Đẳng Giác có đức tin ưu việt, và bằng một phần tư thời gian của Đức Bồ
Tát Chánh Đẳng Giác có tinh tấn ưu việt.
10
pháp hạnh ba-la-mật là:
1- Bố thí ba-la-mật (dānapāramī)2-
Giữ giới ba-la-mật
(sīlapāramī)
3-
Xuất gia ba-la-mật
(nekkhammapāramī)
4-
Trí tuệ ba-la-mật
(paññāpāramī)
5-
Tinh tấn ba-la-mật
(vīriyapāramī)
6-
Nhẫn nại ba-la-mật
(khantipāramī)
7-
Chân thật ba-la-mật
(saccapāramī)
8-
Chí nguyện ba-la-mật
(adhiṭṭhānapāramī)
9-
Tâm từ ba-la-mật
(mettāpāramī)
10-
Tâm xả ba-la-mật (upekkhāpāramī)
30
pháp hạnh ba-la-mật chia làm 3 bậc:
-
10 pháp hạnh ba-la-mật bậc thường.
-
10 pháp hạnh ba-la-mật bậc trung.
-
10 pháp hạnh ba-la-mật bậc thượng.
*
10 pháp hạnh ba-la-mật bậc thường như thế nào?
Đức
Bồ Tát tạo pháp hạnh ba-la-mật bậc thường
nào chỉ có hy sinh của cải tài sản, ngôi báu, thậm
chí đến vợ con,… để thành tựu pháp hạnh ba-la-mật bậc thường ấy mà
thôi; nhưng không liên quan đến những bộ phận
trong thân thể và sinh mạng của Ngài.
*
10 pháp hạnh ba-la-mật bậc trung như thế nào?
Đức
Bồ Tát tạo pháp hạnh ba-la-mật bậc trung nào không những hy sinh của cải bên
ngoài mình, mà còn phải hy sinh những bộ phận trong thân thể như mắt, v.v… để
thành tựu pháp hạnh ba-la-mật bậc trung ấy;
nhưng không liên quan đến sự hy sinh sinh mạng của Ngài.
*
10 pháp hạnh ba-la-mật bậc thượng như thế nào?
Đức
Bồ Tát tạo pháp hạnh ba-la-mật bậc thượng
nào không những hy sinh những của cải bên ngoài và các bộ phận trong thân thể,
mà còn phải hy sinh sinh mạng của Ngài để thành tựu pháp hạnh ba-la-mật bậc
thượng ấy.
Đức
Bồ Tát Chánh Đẳng Giác có 3 hạng
1-
Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác có trí tuệ ưu việt
(paññādhikabodhisatta) thời gian tạo 30 pháp hạnh ba-la-mật trải qua 3
thời kỳ:
-
Thời kỳ đầu:
Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm
suốt 7 a-tăng-kỳ.
-
Thời kỳ giữa:
Đức Bồ Tát phát nguyện ra bằng lời nói suốt 9 a-tăng-kỳ.
-
Thời kỳ cuối:
Đức Bồ Tát được Đức Phật Chánh
Đẳng Giác thọ ký xác định thời gian còn lại là 4 a-tăng-kỳ
và 100 ngàn đại kiếp trái đất, để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác
có trí tuệ ưu việt.
2-
Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác có đức tin ưu việt
(saddhādhikabodhisatta) thời gian tạo
30 pháp hạnh ba-la-mật gấp đôi thời gian của Đức Bồ Tát Chánh Đẳng
Giác có trí tuệ ưu việt, trải qua 3 thời kỳ:
-
Thời kỳ đầu:
Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm
suốt 14 a-tăng-kỳ.
-
Thời kỳ giữa:
Đức Bồ Tát phát nguyện ra bằng lời nói suốt 18 a-tăng-kỳ.
-
Thời kỳ cuối:
Đức Bồ Tát được Đức Phật Chánh
Đẳng Giác thọ ký xác định thời gian còn lại là
8 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp
trái đất, để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác có đức tin ưu
việt.
3-
Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác có tinh tấn ưu việt
(vīriyādhikabodhisatta) thời gian tạo 30 pháp hạnh ba-la-mật gấp đôi
thời gian của Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác có
đức tin ưu việt, và gấp 4 lần thời gian
của Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác có trí tuệ ưu việt, trải qua 3 thời
kỳ:
-
Thời kỳ đầu:
Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm
suốt 28 a-tăng-kỳ.
-
Thời kỳ giữa:
Đức Bồ Tát phát nguyện ra bằng lời nói suốt 36 a-tăng-kỳ.
-
Thời kỳ cuối:
Đức Bồ Tát được Đức Phật Chánh
Đẳng Giác thọ ký xác định thời gian còn lại là 16
a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất, để trở thành Đức Phật Chánh
Đẳng Giác có tinh tấn ưu việt.
Đức
Phật Gotama là Đức Phật Chánh Đẳng
Giác có trí tuệ ưu việt.
Tiền kiếp của Đức Phật
Gotama là Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác có trí tuệ ưu việt đã tạo các pháp hạnh
ba-la-mật, trải qua 3 thời kỳ:
*
Thời kỳ đầu:
Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm
muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác,
để tế độ, cứu vớt chúng sinh giải
thoát khỏi biển khổ luân hồi trong ba giới bốn loài, trải qua suốt 7
a-tăng-kỳ như sau:
1-
Nanda asaṅkheyya:
Có 5.000 Đức Phật Chánh
Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.
2-
Sunanda asaṅkheyya:
Có 9.000 Đức Phật Chánh
Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.
3-
Pathavī asaṅkheyya:
Có 10.000 Đức Phật Chánh
Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.
4-
Maṇḍa asaṅkheyya:
Có 11.000 Đức Phật Chánh
Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.
5-
Dharaṇīasaṅkheyya:
Có 20.000 Đức Phật Chánh
Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.
6-
Sāgara asaṅkheyya:
Có 30.000 Đức Phật Chánh
Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.
7-
Puṇḍarika asaṅkheyya:
Có 40.000 Đức Phật Chánh Đẳng Giác tuần tự
xuất hiện trên thế gian.
Tổng
cộng trong 7 a-tăng-kỳ có 125.000 Đức Phật
Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.
Khi
các pháp hạnh ba-la-mật của Đức Bồ Tát đã
có đủ năng lực để tiến triển đến thời kỳ giữa.
*
Thời kỳ giữa:
Đức Bồ Tát phát nguyện ra bằng lời nói cho
chúng sinh biết ý nguyện của Ngài muốn
trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác, để tế độ, cứu vớt chúng sinh giải thoát
khỏi biển khổ luân hồi trong ba giới bốn loài, trải qua suốt 9 a-tăng-kỳ như
sau:
1-
Sabbabhadda asaṅkheyya:
Có 5.000 Đức Phật Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất
hiện trên thế gian.
2-
Sabbalulla asaṅkheyya:
Có 60.000 Đức Phật Chánh Đẳng Giác tuần tự
xuất hiện trên thế gian.
3-
Sabbaratanā asaṅkheyya:
Có 70.000 Đức Phật
Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế
gian.
4-
Usabhakkhandha asaṅkheyya:
Có 80.000 Đức Phật Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất
hiện trên thế gian.
5-
Mānibhadda asaṅkheyya:
Có 90.000 Đức Phật Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.
6-
Paduma asaṅkheyya:
Có 20.000 Đức Phật Chánh
Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.
7-
Usabha asaṅkheyya:
Có 10.000 Đức Phật Chánh
Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.
8-
Khandhuttama asaṅkheyya:
Có 5.000 Đức Phật Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.
9-
Sabbapāla asaṅkheyya:
Có 2.000 Đức Phật
Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế
gian.
Tổng
cộng trong 9 a-tăng-kỳ có 342.000 Đức Phật
Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.
*
Những tên a-tăng-kỳ (asaṅkheyya) và số lượng
Đức Phật Chánh Đẳng Giác xuất hiện trên thế gian được ghi chép trong những bộ Sotattakī,
bộ Tathā-gatuppatti,
Chiengmai paṇṇāsa, bộ Jinakālamāli mà
trong 6 kỳ kết tập Tam Tạng và Chú giải, Phụ chú giải không ghi lại rõ.
Tuy
đã tạo các pháp hạnh ba-la-mật trải qua hai
thời kỳ trên, nhưng vì Đức Bồ Tát chưa được một
Đức Phật Chánh Đẳng Giác nào thọ ký xác định
thời gian còn lại sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, nên Ngài
vẫn còn là Đức Bồ Tát bất định (aniyatabodhisatta)
nghĩa là Đức Bồ Tát vẫn có thể
thoái chí, từ bỏ ý nguyện muốn trở thành Đức
Phật Chánh Đẳng Giác chỉ muốn trở
thành Đức Phật Độc Giác hoặc Bậc Thánh Thanh Văn Giác.
Nếu
Đức Bồ Tát có quyết tâm không lay chuyển,
có ý nguyện muốn trở thành một Đức Phật Chánh
Đẳng
Giác, và tiếp tục tạo 30 pháp hạnh ba-la-mật, thì
sẽ tiến triển đến thời kỳ cuối.
*
Thời kỳ cuối:
Đức Bồ Tát được Đức Phật Chánh
Đẳng Giác thọ ký xác định thời gian còn lại, chắc chắn trở thành Đức Phật Chánh
Đẳng Giác trong thời vị lai.
Đức
Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama là Đạo sĩ Sumedha đã chứng
đắc 8 bậc thiền: 4 bậc thiền hữu
sắc và 4 bậc thiền vô sắc;
chứng đắc ngũ thông: Thần túc thông, nhãn
thông, nhĩ thông, tha tâm thông, túc mạng thông (thuộc trong tam giới).
Một hôm, Đức Bồ Tát Đạo sĩ Sumedha du hành bay trên hư không, nhìn
thấy dân chúng xứ Rammavatī đang vui mừng hoan
hỷ sửa sang đường sá. Muốn biết do
nguyên nhân nào khiến người ta làm việc một cách
hoan hỷ như vậy, Đạo sĩ liền đáp xuống và hỏi rằng:
-
Thưa bà con, bà con sửa sang con đường này để
cho ai đi, mà thấy bà con vui mừng hoan hỷ thế?
-
Kính thưa Ngài Đạo sĩ Sumedha, Đức Phật
Dīpaṅkara cao thượng nhất trong toàn cõi thế giới chúng sinh đã xuất hiện trên
thế gian. Chúng tôi đang sửa sang con đường
này để đón rước Đức Phật Dīpaṅkara cùng 400 ngàn chư Thánh A-ra-hán
sắp ngự qua đây.
Đức
Bồ Tát Đạo sĩ Sumedha vừa lắng nghe danh
từ “Buddha” (Đức Phật), tâm vô
cùng hoan hỷ, suy nghĩ: “Đức Phật
xuất hiện trên thế gian là một điều
hiếm có, thật vô cùng hy hữu. Ta nên cố gắng gieo phước thiện, tạo
duyên lành nơi Đức Phật”.
Đức
Bồ Tát Đạo sĩ liền thưa với bà con rằng:
–
Thưa bà con, bà con sửa sang con đường này
để đón rước Đức Phật Dīpaṅkara cùng 400 ngàn
vị Thánh A-ra-hán ngự đến; xin bà con nhường cho
bần đạo một đoạn đường, để bần đạo cùng sửa sang, đón rước Đức Phật
cùng chư Thánh A-ra-hán.
Dân
chúng biết Đạo sĩ có nhiều oai lực thần
thông, nên họ chỉ cho Đạo sĩ đoạn đường bùn lầy khó khăn nhất. Đạo sĩ nghĩ
rằng:
“Nếu
ta dùng phép thần thông để sửa đoạn đường
này thì quá dễ, phước thiện sẽ không nhiều được.
Vậy, ta nên tự dùng sức mình để sửa sang, chắc chắn sẽ có nhiều
phước thiện vô lượng”.
Đức
Bồ Tát dùng sức lực của chính mình, lấy đất
từ nơi khác đến để san lấp mặt bằng, công việc sửa đoạn đường còn độ một sải
tay nữa là hoàn thành.
Khi
ấy, nghe mọi người reo hò vui mừng đón Đức Phật
Dīpaṅkara cùng 400 ngàn chư
Thánh A-ra-hán sắp đến. Đức Bồ Tát
Sumedha quyết định rằng: “Hôm nay ta xin cúng dường sinh mạng của
ta đến Đức Phật Dīpaṅkara,
bằng cách nằm sấp trên
đoạn đường còn lại. Nguyện lấy tấm thân này làm
một chiếc cầu, để cúng dường Đức Phật
Dīpaṅkara
cùng 400 ngàn chư Thánh A-ra-hán ngự đi qua. Chắc
chắn ta sẽ được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài”.
Đức
Bồ Tát Sumedha suy tư rằng:
“Hôm
nay, nếu ta từ bỏ ý nguyện muốn trở thành
Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thì chắc chắn ta sẽ
trở thành một bậc Thánh A-ra-hán trong giáo pháp của
Đức Phật Dīpaṅkara, rồi sẽ tịch diệt Niết Bàn, chấm
dứt tử sinh luân hồi trong tam giới chỉ một mình ta;
nhưng còn bao nhiêu chúng sinh khác vẫn đang chìm
đắm trong biển khổ tử sinh luân hồi. Ta
không đành giải thoát khổ riêng một mình ta”.
Nghĩ
vậy, với tâm đại bi vô lượng thương xót chúng sinh, nên Đức Bồ Tát Sumedha phát
nguyện rằng:
-
“Buddho bodheyyaṃ...”
Khi ta tự mình chứng
ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo,
4 Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác rồi; khi
ấy ta sẽ thuyết pháp giáo hóa chúng sinh cũng chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế,
chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn
trở thành bậc Thánh A-ra-hán y theo ta vậy
(tự
giác - giác tha).
-
“Mutto moceyyaṃ...”
Khi ta tự mình giải thoát
khỏi mọi sự ràng buộc của tham ái, phiền não, chứng
ngộ Niết Bàn rồi; khi ấy, ta sẽ dẫn dắt chúng sinh
cùng giải thoát khỏi mọi sự ràng buộc của tham
ái, phiền não, chứng ngộ Niết Bàn y theo ta vậy
(tự
độ - độ tha).
-
“Tinno tareyyaṃ...”
Khi ta tự mình vượt qua
được biển khổ tử sinh luân hồi, đạt đến Niết
Bàn an lạc rồi; khi ấy,
ta sẽ cứu vớt, dẫn dắt chúng sinh cùng vượt
qua biển khổ tử sinh luân hồi, đạt đến Niết Bàn an lạc y theo ta vậy
(tự đáo - đáo tha).
Trong
khi đó có một nữ Bà-la-môn tên là Sumittā(1)
trên tay cầm 8 đóa hoa sen để cúng dường Đức
Phật Dīpaṅkara, nhìn thấy Đạo sĩ Sumedha nằm sấp, lấy
thân mình làm chiếc cầu trên đoạn đường ấy, cô liền phát sinh đức
tin trong sạch, kính dâng đến vị Đạo sĩ 5 đóa hoa sen, còn lại 3 đóa hoa sen,
cô để cúng dường đến Đức Phật. Đạo sĩ Sumedha
nằm sấp, hai tay cầm 5 đóa hoa sen để trên trán cúng dường đến
Đức Phật. Khi ấy, Đức Phật Dīpaṅkara cùng 400 ngàn chư vị Thánh
A-ra-hán ngự đi ngang qua bằng phép thần thông một cách nhẹ nhàng trên tấm thân
của Đạo sĩ Sumedha; cho nên,
sinh mạng của Đức Bồ Tát vẫn an toàn, chẳng hề hấn gì.
Thường
Đức Phật Chánh Đẳng Giác chỉ thọ ký lần đầu tiên cho Đức Bồ Tát nào có đầy đủ 8
điều kiện như sau:
1-
Là loài người thật
(không
phải Long vương hoặc
chư thiên hóa thành người).
2-
Là người nam thật
(không phải là ái nam, ái nữ).
3-
Kiếp hiện tại có đầy đủ pháp hạnh ba-la-mật,
có thể chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn trở thành bậc Thánh
A-ra-hán.
4-
Trực tiếp đến hầu Đức Phật Chánh Đẳng Giác.
5-
Là bậc xuất gia Đạo sĩ có chánh kiến về nghiệp.
6-
Chứng đắc đầy đủ 4 bậc thiền hữu sắc và 4 bậc
thiền vô sắc, chứng đắc ngũ thông tam giới.
7-
Quyết định cúng dường sinh mạng đến Đức Phật.
8-
Có ý nguyện vững chắc, không thoái chí nản lòng,
quyết tâm trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác.
Đức
Phật Dīpaṅkara ngự đứng phía trên đầu của
Đức Bồ Tát Đạo sĩ Sumedha quán xét ý nguyện muốn
trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác của
Đạo sĩ Sumedha
có thành tựu hay không. Với trí tuệ thấy rõ, biết rõ trong kiếp vị
lai (anāgataṃsañāṇa), vị Bồ Tát Đạo sĩ này chắc chắn sẽ thành tựu như ý
nguyện, nên Đức Phật Dīpaṅkara thọ ký xác định thời gian còn lại rằng:
“Trong
thời vị lai, còn 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất nữa, Đạo sĩ Sumedha
này sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, có
danh hiệu là Đức Phật Gotama”.
Đức
Phật Dīpaṅkara là Đức Phật Chánh Đẳng Giác đầu
tiên thọ ký cho Đức Bồ Tát Sumedha, tiền kiếp của Đức Phật Gotama.
Đức
Bồ Tát Sumedha đương nhiên trở thành
Đức Bồ Tát cố định
(niyatabodhisatta) chắc
chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, trong thời vị
lai. Khi lắng nghe lời thọ ký của Đức Phật Dīpaṅkara, Đức Bồ Tát
phát sinh tâm thiện vô cùng hoan hỷ. Tất cả nhân loại, chư thiên, chư phạm
thiên đồng hoan hỷ chắp tay lễ bái Đức Bồ Tát
Đạo sĩ, tán dương ca tụng rằng:
“Đạo
sĩ Sumedha chắc chắn sẽ là mầm mống trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác trong
thời vị lai”.
Từ
đó, Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama
tinh tấn không ngừng bồi bổ cho đầy đủ 30 pháp
hạnh ba-la-mật trong thời gian còn lại 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái
đất.
4
a-tăng-kỳ
và 100 ngàn đại kiếp trái đất(2)
4
a-tăng-kỳ(3)
1-
A-tăng-kỳ thứ nhất:
Kể từ Đức Phật Dīpaṅkara đến Đức Phật
Koṇḍañña, thời gian trải qua 1 a-tăng-kỳ thứ nhất gọi là Sela asaṅkheyya,
chỉ có một Đức Phật Koṇḍañña xuất hiện trên thế gian.
2-
A-tăng-kỳ thứ nhì:
Kể từ Đức Phật Koṇḍañña đến
Đức Phật Maṅgala, thời gian trải qua 1
a-tăng-kỳ thứ nhì gọi là Bhāsa
asaṅkheyya, có 4 Đức Phật là:
Đức Phật Maṅgala, Đức Phật Sumana, Đức Phật Revata
và Đức Phật Sobhita tuần tự xuất hiện trên thế gian.
3-
A-tăng-kỳ thứ ba:
Kể từ Đức Phật Maṅgala đến
Đức Phật Anomadassī thời gian trải qua 1
a-tăng-kỳ thứ ba gọi là Jaya
asaṅkheyya, có 3 Đức Phật là: Đức Phật Anomadassī, Đức Phật
Paduma và Đức Phật Nārada tuần tự xuất hiện trên thế gian.
4-
A-tăng-kỳ thứ tư:
Kể từ Đức Phật Anomadassī đến Đức Phật
Padumutara thời gian trải qua 1 a-tăng-kỳ
thứ tư gọi là Ruci asaṅkheyya, chỉ có một
Đức Phật Padumutara xuất hiện trên thế gian.
100
ngàn đại kiếp trái đất
Trong
khoảng thời gian lâu 100 ngàn đại kiếp trái đất, có 14 Đức Phật tuần tự xuất
hiện trên thế gian là Đức Phật Sumedha,
Đức Phật Sujāta, Đức Phật
Piyadassī, Đức Phật Atthadassī,
Đức Phật Dhammadassī,
Đức Phật Siddhattha, Đức Phật
Tissa, Đức Phật
Phussa, Đức Phật Vipassī,
Đức Phật Sikhī, Đức
Phật Vessabhū, Đức Phật
Kakusandha, Đức Phật
Koṇāgamana, Đức Phật Kassapa.
Mỗi
khi Đức Phật nào xuất hiện trên thế gian, Đức
Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama đều đến
hầu Đức Phật ấy và được Ngài thọ ký xác định thời
gian còn lại, chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh
Đẳng Giác có danh hiệu là Đức Phật Gotama.
Đức
Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama đến
kiếp áp chót hóa sinh làm thiên nam tên là Setaketu trong cõi
trời Tusita; cõi trời thứ tư trong 6 cõi trời dục giới.
Thỉnh
Đức Bồ Tát Giáng Thế
Bốn
Đức vua trời cõi Tứ Đại Thiên Vương,
Đức vua trời Sakka cõi Tam Thập Tam Thiên, Đức
vua trời Suyāma cõi Dạ Ma Thiên, Đức vua trời
Santussita cõi Đấu Xuất Đà Thiên, Đức vua trời
Sunimmita cõi Hóa Lạc Thiên, Đức vua trời Vasavatti
cõi Tha Hóa Tự Tại Thiên, cùng chư thiên 6 cõi trời dục giới, chư
phạm thiên các cõi trời sắc giới cùng
tụ hội đến hầu Đức Bồ Tát thiên nam Setaketu, tất cả đồng chắp tay bạch rằng:
-
Kính bạch Đức Bồ Tát thiên nam
Setaketu, Ngài
đã tạo đầy đủ trọn vẹn pháp hạnh ba-la-mật xong rồi. Các pháp hạnh ba-la-mật ấy
không phải Ngài để mong ngôi vị các vua trời, cũng không phải để
mong sinh làm phạm thiên, cũng không phải để mong
ngôi vị Đức Chuyển Luân Thánh Vương; mà sự thật,
các pháp hạnh ba-la-mật ấy là để hỗ trợ Ngài chứng đắc thành Đức
Phật Chánh Đẳng Giác, để thuyết pháp tế độ chúng sinh giải thoát khỏi khổ tử
sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.
Kính
bạch Đức Bồ Tát thiên nam, bây giờ là
đúng lúc, đúng thời kỳ, để cho Ngài trở thành
một Đức Phật Chánh Đẳng Giác.
Kính
bạch Đức Bồ Tát thiên nam, tất cả chúng con
thành kính thỉnh Ngài tái sinh làm người, để
trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác, để
thuyết pháp tế độ chúng sinh giải thoát khỏi khổ tử sinh luân hồi
trong ba giới bốn loài.
Lắng
nghe lời thỉnh cầu của chư thiên, phạm
thiên, Đức Bồ Tát thiên nam Setaketu chưa nhận
lời thỉnh cầu ấy, mà Ngài quán xét trong thời quá
khứ: “Chư Bồ Tát kiếp chót tái sinh xuống làm người, để trở
thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, đã quán xét như thế nào?
Quán
xét 5 điều trước khi tái sinh(4).
Theo
lệ thường Chư Bồ Tát kiếp chót tái sinh
xuống làm người để trở thành Đức Phật Chánh
Đẳng Giác, cần phải quán xét đầy đủ 5 điều như sau:
1-
Quán xét thời kỳ tuổi thọ con người:
Đức Bồ Tát
Setaketu quán xét thấy tuổi thọ con người vào thời kỳ ấy khoảng 100 năm, thích
hợp đối với Đức Phật Chánh Đẳng Giác có trí tuệ ưu việt.
2-
Quán xét châu đến tái sinh:
Trong 4 châu loài người, cõi Nam Thiện Bộ Châu
là châu mà Đức Bồ Tát kiếp chót tái sinh để trở thành Đức Phật Chánh
Đẳng Giác.
3-
Quán xét xứ sở đến tái sinh:
Trong cõi Nam
Thiện Bộ Châu rộng lớn, Đức Bồ Tát kiếp chót tái
sinh trong Trung xứ vùng Sakka kinh thành Kapilavatthu.
4-
Quán xét dòng họ nơi tái sinh:
Đức Bồ Tát kiếp
chót tái sinh trong dòng họ Sakya, Đức vua
Suddhodana trải qua nhiều đời vua tinh khiết (không lẫn lộn với dòng
khác).
5-
Quán xét mẫu thân và tuổi thọ của bà:
Bà Mahā-mayādevī
chánh cung Hoàng hậu của Đức vua
Suddhodana là người có giới hạnh trong sạch.
Bà từng tạo pháp hạnh ba-la-mật suốt 100 ngàn
đại kiếp và được Đức Phật Chánh Đẳng Giác trong thời quá khứ thọ ký
rằng: “Bà sẽ là Mẫu thân của Đức Phật trong thời vị lai”. Bà chánh cung
Hoàng hậu có tuổi thọ còn đúng 10 tháng 7 ngày. Đức Bồ Tát kiếp chót
chọn bà Mahāmayādevī làm Mẫu thân của Ngài.
Sau
khi quán xét thấy đầy đủ 5 điều rồi, Đức Bồ
Tát Thiên nam Setaketu quyết định tái sinh xuống
làm người để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng
Giác.
Đức
Bồ Tát Thiên nam Setaketu truyền dạy rằng:
“Này
chư thiên, chư phạm thiên, ta đồng ý nhận
lời thỉnh cầu của các ngươi. Ta sẽ tái sinh
xuống làm người trong cõi Nam Thiện
Bộ châu, Trung xứ, kinh thành
Kapilavatthu, trong dòng vua Sakya, Đức
vua Suddhodana là phụ thân và bà Mahāmayādevī
- chánh cung Hoàng hậu của Đức vua Suddhodana, làm mẫu thân của ta”.
Sau
khi lắng nghe lời truyền dạy của Đức Bồ
Tát thiên nam Setaketu, tất cả chư thiên và
chư phạm thiên vô cùng hoan hỷ cùng
nhau tán dương ca tụng Đức Bồ Tát thiên nam
Setaketu, rồi cùng nhau xin phép
trở về cảnh giới của mình.
“Đức
Phật sẽ xuất hiện trên thế gian!”
Đức
Bồ Tát Kiếp Chót Tái Sinh Làm Người
Đức
Bồ Tát thiên nam Setaketu quyết
định từ bỏ
kiếp thiên nam ở cõi trời Tusita (Đấu Xuất Đà Thiên)
sẽ tái sinh đầu thai vào lòng mẫu thân Mahāmayādevī
- chánh cung Hoàng hậu của Đức vua Suddhodana,
kinh thành Kapilavatthu vào ngày thứ năm, nhằm ngày rằm
tháng sáu lúc canh chót.
Vào
ngày rằm tháng sáu (âm lịch), Chánh cung Hoàng
hậu Mahāmayādevī của Đức vua Suddhodana
đến hầu vị Đạo sư Kāḷadevila xin thọ
trì uposathasīla (bát giới). Canh chót đêm ấy, trước
khi Đức Bồ Tát tái sinh đầu thai vào lòng bà
Mahāmayādevī, bà nằm mộng thấy
Tứ Đại Thiên Vương cung nghinh bà lên
núi Himavanta, đặt bà nằm trên một tảng đá lớn
gần hồ Anotatta. Sau đó, có 4 chánh cung Hoàng
hậu của Tứ Đại Thiên Vương cùng chư thiên nữ đến
tắm sạch sẽ cho bà, xoa các thứ vật thơm của cõi trời, dâng những
đóa hoa trời xinh đẹp, rồi cung nghinh bà đến một ngọn núi bằng bạc, có một lâu
đài bằng vàng nguy nga tráng lệ và đặt bà nằm
nghiêng bên phải nghỉ ngơi nơi đó. Khi ấy, một con bạch
tượng cao thượng
hiện đến lâu đài bằng vàng nơi bà đang nằm nghỉ. Con bạch tượng ấy đi vòng
quanh nơi bà nằm 3 vòng, rồi chui vào hông phía bên phải của bà.
Khi
bà Mahāmayādevī đang nằm mộng, đó cũng
là lúc Đức Bồ Tát thiên
nam Setaketu
từ bỏ kiếp thiên nam ở cõi
trời Tusita (Đâu
Suất
Đà Thiên),
đồng thời với đệ nhất đại quả
tâm (đại quả tâm
thứ nhất hợp với trí tuệ đồng sinh với hỷ, không cần động viên)
làm phận sự tái sinh đầu thai vào lòng
mẫu thân Mahāmayādevī,
nhằm vào ngày thứ năm
canh chót đêm rằm
tháng sáu (âm
lịch). Khi ấy, bà
chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī có tuổi thọ được 55 năm 6 tháng 20 ngày(5).
Ngay lúc ấy, trái đất rùng mình rung chuyển và có 32 hiện
tượng xảy ra chưa từng thấy bao giờ; chư thiên, phạm thiên trong 10
ngàn thế giới chúng sinh vô cùng hoan hỷ loan báo tin lành rằng:
“Đức
Bồ Tát đã tái sinh rồi!”
Chánh
cung Hoàng hậu Mahāmayādevī đã
trải qua giấc mộng lành và sau khi tỉnh dậy,
bà đến chầu Đức vua Suddhodana và
tâu trình lên Đức vua về giấc mộng của bà.
Sáng
sớm hôm sau, Đức vua Suddhodana bèn truyền
lệnh cho mời nhóm Bà-la-môn quân sư vào triều
yết kiến. Sau khi thiết đãi và ban thưởng xong, Đức
vua bèn tường thuật lại giấc mộng canh chót đêm qua
của chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī
cho nhóm quân sư Bà-la-môn nghe để họ cùng nhau suy đoán.
Đức
vua truyền hỏi rằng:
-
Thưa quân sư, giấc mộng như vậy có ý nghĩa như
thế nào? Xin quý quân sư tâu cho Trẫm được rõ.
Một
vị Bà-la-môn trưởng bèn tâu rằng:
-
Muôn tâu Đại vương, xin Đại vương an tâm,
chánh cung Hoàng hậu đã thụ thai, thai nhi không
phải là Công chúa mà chắc chắn là Thái tử, Bậc cao thượng nhất.
*
Nếu Thái tử sống trong triều, thì sẽ là Đức Chuyển
Luân Thánh Vương trị vì thiên hạ có 4 biển
làm ranh giới.
*
Nếu Thái tử bỏ nhà đi xuất gia, thì sẽ là Đức Phật
Chánh Đẳng Giác cao thượng nhất trong toàn cõi thế giới chúng sinh.
Từ
khi Đức Bồ Tát kiếp chót tái sinh đầu thai vào lòng mẫu thân, do oai lực của
Đức Bồ Tát, nên ngày đêm Tứ Đại Thiên Vương
theo hầu, để tỏ lòng cung kính; không phải theo hộ trì bà chánh cung
Hoàng hậu Mahāmayādevī; bởi vì, Đức Bồ Tát kiếp chót có oai lực phi
thường, nên không có một ai có thể làm hại bà được.
Mẫu
thân của Đức Bồ Tát có giới đức tự nhiên, bà
không phải đến làm học trò vị Đạo sư Kāḷadevila, để xin thọ giới như
trước đây nữa; thân và tâm của
bà thường an lạc. Tâm tham muốn trong dục lạc
không hề phát sinh và khi Đức vua Suddhodana nhìn thấy bà liền phát
sinh thiện tâm trong sáng, do đó Đức vua rất tôn trọng bà.
Đức
Bồ Tát phát triển và tăng trưởng ở trong bào thai mẫu thân, như ở trong một căn
phòng sạch sẽ và sang trọng. Đức Bồ Tát ngồi kiết già như vị Pháp sư đang ngồi
trên pháp tòa, cho đến khi tròn đủ 10 tháng.
Đức
Bồ Tát Kiếp Chót Đản Sinh
Bà
chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī biết gần đến
ngày đản sinh Thái tử, bà đến chầu Đức vua Suddhodana bèn tâu rằng:
-
Muôn tâu Bệ hạ, thần thiếp xin phép trở về Cố quốc Devadaha để hạ sinh Thái tử.
Đức
vua chuẩn tấu lời xin của bà và truyền
lệnh cho các quan sửa sang đường sá bằng phẳng, trang hoàng đẹp đẽ từ xứ
Kapilavatthu cho đến xứ Devadaha,
để làm lễ tiễn đưa chánh cung Hoàng hậu
Mahāmayādevī trở về cố quốc; Đức vua còn truyền lệnh làm một chiếc
kiệu mới thật sang trọng để cho bà ngự đi.
Mọi
việc đều chuẩn bị sẵn sàng, bà chánh cung Hoàng
hậu Mahāmayādevī được thỉnh ngự lên chiếc kiệu, các quan khiêng chiếc kiệu đi
từ kinh thành Kapilavatthu đến kinh
thành Devadaha. Trên đường,
khi đoàn người vừa đến khu vườn Lumbinī,
hôm ấy, thật tuyệt vời! Cả muôn hoa đều đua nở và muôn
chim cùng ca hót như hân hoan đón mừng một sự kiện
trọng đại. Bà chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī muốn dừng kiệu lại,
ghé vào vườn Lumbinī, để du lãm.
Các quan tuân lệnh dừng kiệu.
Khi
bà chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī ngự vào
vườn Lumbinī, hôm ấy chư
thiên, chư phạm thiên tụ hội tại khu vườn, và cả vạn thế giới chúng
sinh vui mừng reo hò rằng:
“Hôm
nay, tại khu vườn Lumbinī này, Đức Bồ Tát sẽ đản sinh ra đời khỏi lòng bà chánh
cung Hoàng hậu Mahāmayādevī”.
Bà
chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī ngự đến một
cây Sālā có thân to, cành cây đầy hoa đang nở rộ. Khi bà đứng đưa
cánh tay phải lên, thì cành cây tự nhiên sà
xuống, bà đưa tay nắm lấy cành cây với tư thế dáng đứng rất đẹp và
rất vững vàng, các quan, các cung nữ che màn
xung quanh nơi bà đang đứng; khi ấy, Đức Bồ Tát cao thượng đản
sinh ra đời khỏi lòng bà chánh cung Hoàng hậu
Mahā-mayādevī bằng đôi chân ra trước, rồi xuôi hai tay, toàn thân
mình sạch sẽ ra sau, một cách suôn sẻ an lành cho cả Đức Bồ Tát lẫn mẫu thân
của Ngài. Lúc đó, vào ban ngày của
ngày thứ 6, nhằm ngày rằm tháng tư
(âm lịch). Khi ấy, một
dòng nước ấm và một dòng nước lạnh
từ trên hư không chảy xuống làm cho sạch sẽ thân hình của Đức Bồ Tát
và mẫu thân của Ngài.
Khi
Đức Bồ Tát cao thượng vừa ra khỏi lòng
bà chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī, trước tiên
4 vị Đại Phạm Thiên có thiện tâm trong sạch, không bị ô nhiễm bởi
phiền não, mỗi vị cầm mỗi
chéo tấm lưới bằng vàng đón nhận Đức Bồ Tát xong, rồi đặt trước mặt
bà chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī và tâu rằng:
-
Muôn tâu chánh cung Hoàng hậu, xin bà phát sinh tâm hoan hỷ! Đây là Thái tử của
bà, cũng là Đức Bồ Tát kiếp chót cao thượng. Ngài là Bậc đại
phước, có nhiều oai lực nhất trong tất cả chúng sinh trong tam giới.
Sau
đó, Đức Bồ Tát từ trên tay 4 vị Đại Phạm Thiên
được trao sang cho 4 vị Tứ Đại Thiên Vương đón tiếp bằng tấm da mềm
mại; một lần nữa, Đức Bồ Tát từ tay 4 vị Tứ Đại Thiên Vương được trao sang cho
các quan đón tiếp bằng tấm vải trắng tinh.
Khi
ấy, Đức Bồ Tát từ trên tay các quan, bước xuống
đạp trên mặt đất bằng đôi bàn chân bằng phẳng
của Ngài, Đức Bồ Tát đứng quay mặt nhìn về hướng Đông, chư thiên
dâng hoa cúng dường Đức Bồ Tát, rồi tán dương ca tụng rằng:
-
Kính bạch Đức Đại Nhân, trong tất cả chúng sinh
trong hướng này, Ngài là Bậc cao thượng nhất, không
có một ai cao thượng hơn Ngài.
Tiếp
đến, Đức Bồ Tát quay mặt nhìn về hướng
-
Kính bạch Đức Đại Nhân, trong tất cả chúng sinh
trong hướng này, Ngài là Bậc cao thượng nhất, không
có một ai cao thượng hơn Ngài.
Đức
Bồ Tát cúi mặt nhìn xuống hướng dưới, rồi
ngẩng mặt nhìn lên hướng trên, chư thiên, chư
phạm thiên đều dâng hoa tán dương và ca tụng rằng:
-
Kính bạch Đức Đại Nhân, trong số chư thiên,
chư phạm thiên hướng trên này, Ngài là Bậc cao
thượng nhất, không có chư thiên, chư phạm thiên nào cao thượng hơn
Ngài.
Đức
Bồ Tát đứng nhìn về hướng Bắc rồi bước đi
7 bước, bước đầu tiên Ngài bước bằng chân phải(6).
Khi Đức Bồ Tát bước đi, Vua trời phạm thiên cầm
chiếc lọng màu trắng che cho Ngài, Đức vua Suyāma
cầm quạt lông, còn 3 thứ khác là đôi hia, gươm báu, vương miện, mỗi
vị Vua trời cầm mỗi thứ đi theo sau Đức Bồ Tát. Đó là 5 bảo vật của lễ phong
vương.
Đức
Bồ Tát dừng lại ở bước chân thứ 7. Khi ấy tất cả
chư thiên, chư phạm thiên đều bảo với nhau rằng:
“Bây
giờ, Đức Bồ Tát cao thượng sẽ truyền dạy
những lời tối quan trọng”.
Tất
cả đều im lặng, chờ lắng nghe, Đức Bồ Tát dõng dạc truyền dạy rằng:
“Ago’
ham’ asmi lokassa!
Jeṭṭho’
ham’ asmi lokassa!
Seṭṭho’
ham’ asmi lokassa!
Ayamantimā
jāti
Natthi
dāni punabbhavo”.
“Ta
là Bậc Cao Cả nhất, trong toàn cõi thế giới chúng sinh!
Ta
là Bậc Vĩ Đại nhất, trong toàn cõi thế giới chúng sinh!
Ta
là Bậc Tối Thượng nhất, trong toàn cõi thế giới chúng sinh!
Kiếp
này là kiếp chót của ta
Ta không còn tái sinh kiếp
nào khác nữa!”
Đức
Bồ Tát Thái tử Siddhattha kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng
Giác. Khi Ngài đản sinh ra đời có đầy đủ 32 tướng tốt chính của Bậc Đại Nhân và
80 tướng tốt phụ. Đó là quả của nghiệp thiện mà Đức Bồ Tát đã tạo và tích lũy
từ vô số kiếp trong quá khứ, hoàn toàn không liên
quan huyết thống của Đức vua Suddhodana và
chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī hay dòng dõi Sakya.
1
Nữ Bà-la-môn Sumittà chính là tiền kiếp của Công chúa Yasodhara.
2
Tìm hiểu rộng trong Nền Tảng Phật Giáo quyển I “Tam Bảo”
(trang
38) cùng một soạn giả.
3
Asankheyya: A-tăng-kỳ có 4 loại:
1-
Gaṇana asaṅkheyya:
A-tăng-kỳ tính bằng số là số 1 theo sau 140 số 0, viết tắt: 10140.
2-
Anumāna asaṅkheyya:
A-tăng-kỳ ước lượng. Ví dụ: Trời mưa trên
toàn
mặt đất suốt 3 ngày, ước lượng a-tăng-kỳ
số giọt mưa rơi xuống mặt đất.
3-
Kappa
asaṅkheyya:
A-tăng-kỳ kiếp có 4 loại:
*
Āyukappa:
Kiếp tuổi thọ.
*
Antarakappa:
Khoảng thời gian kiếp giảm còn 10 năm và kiếp tăng đến a-tăng-kỳ năm.
*
Asaṅkheyya kappa:
A-tăng-kỳ kiếp trái đất hoại rồi thành trở lại.
*
Mahākappa:
Đại kiếp trái đất trải qua 4 thời kỳ: a-tăng-kỳ hoại
kiếp trái đất
®
a-tăng-kỳ không kiếp trái đất
®
a-tăng-kỳ thành
kiếp trái đất
®
a-tăng-kỳ trụ kiếp trái đất.
4-
Buddha asaṅkheyya:
A-tăng-kỳ thời gian tạo ba-la-mật để trở
thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác không thể tính bằng số lượng.
Thời gian trải
qua vô số đại kiếp trái đất thành-trụ-hoại-không
không thể tính được, như vậy gọi Buddha
asaṅkheyya.
Ví dụ: Đức Bồ Tát Đạo sĩ Sumedha cần phải bồi bổ thêm 30 pháp hạnh ba-la-mật suốt 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất, để trở thành Đức Phật Gotama. 4
Xem rộng trong Nền Tảng Phật Giáo quyển I “Tam Bảo”
trang 52-53
cùng một soạn giả.
5
Theo bộ Samantacakkhudipani.
|
[Ðầu trang][Trở về trang Mục Lục][Trở về trang Thư Viện]