Trung Tâm Hộ Tông - Trang Chủ
Ý Nghĩa Rằm Tháng Tư Soạn giả: Hộ Pháp |
ĐỨC
BỒ THÁI THÁI TỬ SIDDHATTHA THÀNH ĐỨC
PHẬT GOTAMA
Đức
Bồ Tát Thái tử
Siddhattha lên ngôi Vua năm
16 tuổi và thành hôn với Công chúa Yasodhara(1).
Đức vua
Siddhattha tấn phong Công chúa Yasodhara
lên ngôi chánh cung Hoàng hậu. Đức vua trị vì đất
nước thanh bình thịnh vượng, thần dân thiên hạ được an cư lạc
nghiệp.
Đức
vua Bồ Tát an hưởng sự an lạc trên ngai
vàng trải qua thời gian 13 năm.
Đức
vua Bồ Tát ngự đi du lãm ngoại thành 4 lần
đến vườn thượng uyển(2),
mỗi lần cách nhau 3 tháng, mỗi lần nhìn thấy một cảnh do chư thiên biến hóa để
làm cho Đức Bồ Tát phát sinh động tâm mà
đi xuất gia, để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác.
*
Lần thứ nhất: Vào ngày rằm tháng 6, Đức Bồ Tát
nhìn thấy người già.
*
Lần thứ nhì: Vào ngày rằm tháng 10, Đức Bồ Tát
nhìn thấy người bệnh.
*
Lần thứ ba: Vào ngày rằm tháng 2, Đức Bồ Tát nhìn thấy người chết.
*
Lần thứ tư: Vào ngày rằm tháng 6, Đức Bồ Tát nhìn thấy bậc xuất gia.
Trải
qua 4 lần tròn đúng một năm; vào đêm rằm
tháng 6 Đức vua Bồ Tát quyết định xuất gia, để
tìm con đường giải thoát khổ già, khổ bệnh, khổ chết.
Đức
Bồ Tát xuất gia năm 29 tuổi, Ngài tìm đến vị Đạo sư
Ālāra Kālāmagotta xin thọ giáo. Vị Đạo
sư hân hoan tiếp nhận Ngài, rồi dạy pháp hành thiền
định. Trải qua một thời gian thực hành thiền định
không lâu, Đức Bồ Tát đã chứng đắc 4 bậc thiền
hữu sắc và đến đệ tam thiền vô sắc gọi là vô
sở hữu xứ thiền,
ngang bằng với bậc thiền mà vị Đạo sư Ālāra Kālāmagotta đã chứng đắc. Đức Bồ
Tát suy xét rằng: “Bậc đệ tam thiền vô sắc, vô
sở hữu xứ thiền
này sẽ cho quả tái sinh lên cõi Phạm Thiên
vô sắc giới, Vô Sở Hữu Xứ Thiên có tuổi thọ 60.000
đại kiếp, không phải là pháp dẫn đến sự nhàm chán ngũ uẩn, không
diệt tận được tham ái, không đoạn diệt được phiền não, không chứng ngộ
chân lý Tứ Thánh Đế, không tịch diệt Niết Bàn, không
giải thoát được mọi cảnh khổ sinh-lão-bệnh-tử luân hồi trong tam
giới”
Đức
Bồ Tát không bằng lòng với sở đắc của mình,
Ngài xin từ giã vị Đạo sư Ālāra Kālāmagotta khả
kính, để đi tìm pháp môn khác hầu mong giải thoát khổ sinh - lão - bệnh - tử.
Sau
khi từ giã vị Đạo sư Ālāra Kālāmagotta, Đức
Bồ Tát tìm đến vị Đạo sư Udaka Rāmaputta xin
thọ giáo. Vị Đạo sư hân
hoan tiếp nhận Ngài, rồi truyền
dạy pháp hành thiền định. Trải qua thời gian không lâu, Đức Bồ Tát đã chứng đắc
4 bậc thiền hữu sắc và 4 bậc thiền vô sắc, bậc đệ tứ thiền vô
sắc tột đỉnh gọi là phi tưởng phi phi tưởng
xứ
thiền, ngang bằng
với bậc thiền mà vị Đạo sư Udaka Rāmaputta đã chứng đắc.
Đức
Bồ Tát suy xét rằng: “Bậc đệ tứ thiền vô
sắc, phi tưởng phi phi tưởng xứ thiền
này sẽ cho quả tái sinh lên cõi trời Phạm
Thiên vô sắc giới. Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Thiên có tuổi thọ
84.000 đại kiếp, không phải là pháp dẫn đến sự
nhàm chán ngũ uẩn, không diệt tận được tham ái, không đoạn diệt được
phiền não, không chứng ngộ chân lý Tứ Thánh
Đế, không tịch diệt Niết Bàn, không giải thoát
được mọi cảnh khổ sinh-lão-bệnh-tử luân hồi trong tam giới”.
Đức
Bồ Tát xin từ giã vị Đạo sư Udaka Rāmaputta
khả kính để đi tìm pháp môn khác, hầu mong giải thoát khổ sinh-lão-bệnh-tử.
Sau
khi từ giã vị Đạo sư Udaka Rāmaputta,
Đức Bồ Tát đi đến khu rừng Uruvela gần con sông
Nerañjarā; tại nơi đây có nhóm 5 Tỳ khưu: Ngài
Kondañña, Ngài Vappa, Ngài Bhaddiya, Ngài Mahānāma và Ngài Assaji
xin theo hộ độ Ngài.
Đức
Bồ Tát tinh tấn hành pháp khổ hạnh
nín thở đến nỗi làm cho Ngài chết ngất; thấy không có
kết quả, Ngài lại giảm vật thực dần dần, cho đến khi mỗi ngày chỉ ăn
lượng vật thực còn bằng hạt sen. Do đó, kim thân của Ngài gầy ốm chỉ còn da bọc
xương, ốm đến nỗi sờ da bụng thì đụng phải đường
xương sống. Trước kia kim thân của Đức Bồ Tát
có đầy đủ 32 tướng tốt của Bậc Đại Nhân và 80 tướng tốt phụ, có làn
da màu vàng sáng ngời, đến nay các tướng tốt ấy đã biến mất, còn làn da đã trở
thành màu đen sẫm.
Một
hôm Đức Bồ Tát suy xét: “Ta đã hành pháp
khổ hạnh đến chỗ tột cùng rồi. Trong thời quá khứ, chưa từng có Sa-môn,
Bà-la-môn nào đã hành pháp khổ hạnh đến mức như ta đang hành. Thời hiện tại
và thời vị lai cũng sẽ không có Sa-môn, Bà-la-môn nào
có thể hành pháp khổ hạnh như ta; thế mà, ta không thể chứng đắc
thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Như vậy, chắc
chắn phải còn có một pháp hành nào khác”.
Đức
Bồ Tát hồi tưởng lại rằng: “Khi ta còn nhỏ,
cùng Phụ vương ra đồng làm lễ hạ điền, Phụ
vương để ta ngồi trong một chiếc
lều vải dưới gốc cây mận (đào). Ta
đã ngồi niệm đề mục hơi thở: hít vô - thở ra, và ta đã chứng đắc đệ
nhất thiền hữu sắc. Vậy, chắc chắn pháp hành thiền định này làm nền tảng,
để ta có thể chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác cũng nên”.
Đức
Bồ Tát xét thấy rằng: “Bây giờ, thân thể của
ta gầy ốm, sức khỏe yếu đuối, ta không thể
thực hành thiền định đề mục niệm hơi thở được. Vậy, điều tốt hơn hết
là ta nên thọ thực trở lại, cho có sức khỏe rồi ta mới có thể thực hành thiền
định”.
Đức
Bồ Tát đã hành pháp khổ hạnh suốt 6 năm trường ròng rã, mà không đạt đến mục
đích chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác,
nên Ngài đã từ bỏ pháp hành khổ hạnh.
Đức
Bồ Tát mang bát vào xóm Senā khất thực; sau một thời gian thọ thực bình thường
trở lại, sức khỏe của Ngài được hồi phục. Trong thời kỳ hành
pháp khổ hạnh, mọi tướng tốt của Ngài đã biến mất.
Nay kim thân Ngài lại hiện rõ 32 tướng tốt chính của Bậc Đại Nhân và
80 tướng tốt phụ, có làn da màu vàng sáng ngời như trước.
Năm
Điều Đại Mộng (Mahāsupina)
Đêm
14 tháng tư âm lịch, vào cuối canh chót, lúc rạng đông, Đức Bồ Tát Sidhattha
nằm thấy 5
điều đại mộng (mahāsupina)(3)
như sau:
1-
Đức Bồ Tát nằm mộng thấy mặt đất làm chỗ nằm,
dãy núi Himavanta (Hy Mã Lạp Sơn) là chiếc
gối, cánh tay trái đặt xuống đại
dương hướng Đông, cánh tay phải đặt xuống đại dương hướng Tây, hai
chân duỗi thẳng đại dương hướng Nam.
Đó
là điều đại mộng thứ nhất, điều này là pubba-nimitta
hiện tượng báo trước Đức Bồ Tát chắc chắn
chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác
cao thượng, độc nhất vô nhị trong toàn cõi thế giới chúng sinh.
2-
Đức Bồ Tát nằm mộng thấy cây cỏ tranh (tiriyā)
mọc lên từ lỗ rún của Ngài, cao từ 1 gang, 1
hắt tay, 1 sải tay,… 1 do tuần tay thẳng lên trên hư không.
Đó
là điều đại mộng thứ nhì, điều này là pubba-nimitta
hiện tượng báo trước Đức Phật Chánh Đẳng Giác
sẽ thuyết pháp hành Trung đạo là
pháp
hành Bát chánh đạo hợp đủ 8
chánh cao thượng để tế độ chúng
sinh, nhân loại, chư thiên, phạm thiên
cùng chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng
đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn, giải
thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.
3-
Đức Bồ Tát nằm mộng thấy những con dòi, sâu (kimi)
có thân mình trắng, đầu đen bò từ đôi bàn chân lên đầu gối của Ngài.
Đó
là điều đại mộng thứ ba, điều này là pubba-nimitta
hiện tượng báo trước phần đông người tại gia có đức tin trong sạch nơi Đức
Phật, đến xin quy y nương nhờ nơi Tam Bảo trọn đời.
4-
Đức Bồ Tát nằm mộng thấy 4 loại chim đủ màu:
Xanh, vàng, đỏ, xám từ bốn phương bay đến đậu
dưới hai bàn chân của Ngài, 4 loại chim trở
thành màu trắng trong.
Đó
là điều đại mộng thứ tư, điều này là pubba-nimitta
hiện tượng báo trước 4 giai cấp: Vua
chúa, Bà-la-môn, thương gia, dân nghèo; 4 hạng
người ấy là bậc thiện trí có đức tin trong sạch nơi Đức Phật, xin
phép xuất gia trở thành Tỳ khưu trong giáo
pháp của Đức Phật, rồi thực hành theo
pháp hành Trung đạo là pháp hành Bát chánh đạo
hợp đủ 8 chánh, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn trở
thành bậc Thánh A-ra-hán cao thượng.
5-
Đức Bồ Tát nằm mộng thấy, Ngài đi kinh hành qua
lại trên dãy núi phân, nhưng chân không dính phân.
Đó
là điều đại mộng thứ năm, điều này là pubba-nimitta
hiện tượng báo trước khi đã trở thành Đức Phật
Chánh Đẳng Giác, những thứ vật dụng như
y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc trị bệnh
phát sinh rất nhiều. Suy xét xong rồi mới
sử dụng những thứ vật
dụng ấy, cho nên Đức Phật không bao giờ
dính mắc, say mê trong thứ vật dụng ấy.
Nguyên
Nhân Nằm Mộng (Chiêm Bao)
Người
nằm mộng (chiêm bao) do 4 nguyên nhân:
1-
Do tứ đại không điều hòa:
Khi nằm không yên giấc bởi vì đất, nước,
lửa, gió không điều hòa, cho nên nằm mộng (chiêm bao) như mình rơi
từ trên núi cao xuống, hoặc bị voi, cọp đuổi theo, hoặc bị người
đuổi theo v.v… thấy toàn những cảnh khủng khiếp, đáng sợ.
2-
Do những việc đã từng thấy, đã từng biết, đã từng
sử dụng… từ trước,
nay nằm mộng (chiêm bao)
thấy cảnh ấy hiện ra đối với người ấy.
3-
Do chư thiên báo mộng:
Do chư thiên có năng lực báo mộng cho biết trước những sự việc sẽ xảy ra đến
cho người ấy. Điều mộng này có khi chư thiên
báo mộng đúng, cũng có khi chư thiên có tác ý báo mộng sai.
4-
Do hiện tượng báo trước
(pubbanimitta): Do năng
lực của nghiệp thiện hoặc nghiệp ác phát sinh hiện tượng báo mộng trước những
quả tốt của nghiệp thiện, hoặc những quả xấu của nghiệp ác đối với người ấy.
Ví
dụ:
Chánh
cung Hoàng hậu Mahāmāyā nằm mộng (chiêm bao)
thấy những cảnh tượng xảy ra trước khi
Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha đầu thai kiếp chót. Đức vua Kosala
nằm mộng thấy 16 điều mộng. Đức Bồ Tát
Siddhattha nằm mộng thấy 5 đại mộng…
Trong
4 trường hợp nằm mộng, trường hợp thứ nhất do tứ đại không điều hòa, và trường
hợp thứ nhì do những sự việc đã từng thấy, đã từng biết, đã
từng sử dụng… từ trước, những điều mộng này không có thật, không
đúng theo sự thật.
Trường
hợp thứ ba do chư thiên báo mộng có khi thật, có khi không có thật.
Trường
hợp thứ tư do nghiệp thiện hoặc nghiệp ác phát
sinh hiện tượng báo trước (pubbanimitta) thì lúc nào cũng thật, cũng
đúng, chắc chắn kết quả sẽ xảy ra như nằm mộng (chiêm bao).
*
Hạng người nào nằm mộng?
Những
hạng phàm nhân, bậc Thánh Nhập Lưu, bậc Thánh
Nhất Lai và bậc Thánh Bất Lai có thể nằm mộng, bởi vì những người ấy
còn có các pháp đảo điên (vipallāsadhamma).
Bậc
Thánh A-ra-hán hoàn toàn không còn nằm
mộng, bởi vì quý Ngài đã diệt đoạn tuyệt các
pháp đảo điên không còn dư sót nữa.
*
Lúc nào nằm mộng?
Lúc
người ngủ say yên giấc không nằm mộng. Lúc người tỉnh giấc cũng không nằm mộng.
Người nằm mộng khi không phải lúc ngủ say và cũng không phải lúc tỉnh giấc.
*
Nằm mộng lúc nào mới có thật?
Người
nằm mộng ban ngày, canh đầu đêm, canh
giữa đêm, canh chót đêm đều không có thật. Chỉ
có cuối canh chót lúc rạng đông
(bình minh) người nằm mộng mới có thật mà thôi.
*
Tính chất của giấc mộng như thế nào?
Giấc
mộng có 3 tính chất:
a)
Ác mộng:
Nằm mộng thấy cảnh tượng đáng ghê
sợ, hồi hộp,… như bị thú dữ đuổi theo,…
b)
Mộng lành:
Nằm mộng thấy cảnh tượng đáng hài lòng,… như
đảnh lễ ngôi Tháp Bảo, nghe pháp, thuyết pháp,…
c)
Mộng không dữ, không lành:
Nằm mộng thấy
cảnh tượng bình thường.
*
Nằm mộng có thành nghiệp hay không?
Khi
nào người nằm ngủ say yên giấc, khi ấy tâm
quả làm phận sự hộ kiếp
(bhavaṅga) có đối tượng
cũ lộ trình tâm chưa phát sinh, nên
không nằm mộng.
Khi
nào người nằm mộng, khi ấy lộ trình tâm
đã phát sinh, trong lộ trình ấy có tâm tác
hành tạo nghiệp thiện hoặc nghiệp ác, nhưng
tâm sở tác ý trong tác hành tâm có
năng lực rất yếu, không đáng kể. Cho
nên, tuy có nghiệp thiện hoặc nghiệp ác nhưng không có khả năng có
quả tái sinh kiếp sau. Nếu có cơ hội thì nghiệp thiện hoặc nghiệp ác ấy cho quả
rất yếu, sau khi đã tái sinh.
Các
giấc mộng, những người khác có thể nằm mộng thấy được. Song 5 điều đại mộng thì
chỉ có duy nhất Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác kiếp chót, trước một đêm chắc chắn
sẽ chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác,
mới có khả năng nằm mộng thấy 5 điều đại mộng này mà thôi.
Đêm
14 tháng tư âm lịch, vào cuối canh chót
rạng đông, Đức Bồ Tát Siddhattha nằm thấy 5 điều đại mộng (mahāsupina).
Qua 5 điều đại mộng này, Ngài đoán biết rằng: “Ngài
chắc chắn sẽ chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác”.
Sáng
ngày rằm tháng tư âm lịch, Đức Bồ Tát
đi đến ngồi dưới gốc cây da để chờ đến giờ đi vào
xóm
khất thực. Tại nơi đây, hằng năm, vào ngày
rằm tháng tư này, nàng Sujātā thường đem
lễ vật đến cúng dường, để tạ ơn thiên
thần đã giúp cho nàng toại nguyện.
Như
thường lệ, sáng ngày rằm tháng tư âm lịch,
nàng Sujātā trang điểm bằng những đồ trang sức
quý giá rồi đi đến cội cây da, trên đầu đội một chiếc mâm vàng đựng
49 vắt cơm nấu bằng sữa tươi tinh khiết, bổ
dưỡng, có chư thiên bỏ thêm hương vị trời. Khi đến nơi, nhìn thấy Đức Bồ Tát có
32 tướng tốt của Bậc Đại Nhân và
80 tướng tốt phụ, có làn da màu vàng sáng ngời, có hào quang tỏa ra
xung quanh, nàng tưởng rằng: “Ngài là vị
thiên thần hiện xuống thọ nhận phẩm
vật cúng dường tạ ơn của nàng”.
Nàng Sujātā vô cùng hoan hỷ đến gần Đức Bồ Tát
cung kính dâng Ngài chiếc mâm vàng đầy 49 vắt cơm
sữa cùng bình nước, hoa quả… Khi ấy, cái bát của Ngài bỗng nhiên
biến mất, Ngài nhìn nàng Sujātā.
Nàng
Sujātā liền bạch rằng:
-
Kính bạch Đức Thiên Thần, con thành kính dâng
Ngài chiếc mâm vàng đầy những phẩm vật này.
Kính xin Ngài từ bi hoan hỷ thọ nhận, để cho con được sự lợi ích, sự
tiến hóa, sự an lạc lâu dài.
Đức
Bồ Tát đưa hai tay ra thọ nhận chiếc mâm vàng đầy các phẩm vật quý giá ấy.
Sau
khi thọ nhận chiếc mâm vàng đầy cơm sữa
xong, Đức Bồ Tát đứng dậy rời khỏi gốc cây da, tay bưng chiếc mâm
vàng đầy cơm sữa đi đến bến sông Nerañjarā,
nơi mà chư Bồ Tát Chánh Đẳng Giác quá
khứ, trước khi chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, cũng đều
ngự đến đây để tắm, nên bến sông này gọi là
bến Supaṭitthita. Ngài đặt mâm ở bến
Supaṭitthita, rồi xuống dòng sông Nerañjarā tắm. Khi tắm xong, Ngài
mặc y cà sa màu lõi mít tượng trưng cho lá cờ chiến thắng của chư Thánh
A-ra-hán, đoạn Ngài ngồi quay mặt về hướng
Đông, độ hết 49 vắt cơm sữa, rồi uống hết bình nước (từ
đó về sau suốt 7 tuần lễ
(49 ngày),
Đức Phật không độ vật thực và nước, chỉ an hưởng vị
giải thoát Niết Bàn).
Sau
khi độ cơm xong, Ngài cầm chiếc mâm vàng
phát nguyện rằng:
-
Nếu hôm nay ta được chứng đắc thành Đức Phật
Chánh Đẳng Giác, thì xin cho chiếc mâm vàng này
sẽ trôi ngược dòng nước; nếu không, thì chiếc mâm vàng này sẽ trôi
xuôi theo dòng nước.
Nguyện
xong, Ngài ném chiếc mâm vàng xuống
dòng sông. Thật phi thường thay! Chiếc mâm vàng cắt ngang dòng nước đang chảy,
trôi ra giữa sông, rồi từ đó trôi ngược dòng nước một cách vô cùng mau lẹ. Trôi
khoảng một đoạn khá xa, chiếc mâm vàng chìm sâu xuống đáy nước, đụng phải ba
chiếc mâm vàng của ba Đức Phật quá khứ là Đức Phật Kakusandha,
Đức Phật Koṇāgamana và
Đức Phật Kassapa,
phát ra một âm thanh vang dội, làm cho Long vương Kālanāga
tỉnh giấc nghĩ rằng:
“Hôm
qua một Đức Phật đã xuất hiện, hôm nay
sẽ có một Đức Phật nữa xuất hiện”,
rồi thức dậy tán
dương ca tụng hằng trăm bài kệ.
Trưa
hôm ấy, Đức Bồ Tát nghỉ trong một khu rừng Sālā, bên bờ sông Nerañjarā, những
cây Sālā tự nhiên đua nhau nở hoa khắp cả khu rừng. Chiều
hôm ấy, Ngài ngự đến cội cây Assattha, dọc theo hai bên đường, chư
thiên trang hoàng những đóa hoa trời rất xinh đẹp, chư thiên ở các cõi trời đua
nhau cúng dường hương thơm cùng với thiên nhạc vang rền khắp 10 ngàn thế giới
chúng sinh. Cùng lúc ấy, một người cắt cỏ tên Sotthiya, trên đường đi ngược
chiều lại phía Đức Bồ Tát, nhìn thấy Ngài, liền phát
sinh đức tin trong sạch, nên dâng cúng Ngài tám nắm cỏ. Đức Bồ Tát
cầm tám nắm cỏ ngự thẳng đến cội cây Assattha.
Khi
đứng hướng Nam của cội cây, Ngài nhìn thẳng về hướng Bắc, Ngài có cảm giác mất
thăng bằng, như toàn cõi thế giới hướng Nam bị
chìm sâu xuống cõi địa ngục Avīci,
còn toàn cõi thế giới hướng Bắc được nổi lên đến cõi trời sắc giới
phạm thiên tột đỉnh. Ngài nghĩ rằng:
“Đây
không phải là chỗ ngồi để ta có thể chứng
đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác”.
Ngài
ngự đi sang hướng khác.
Khi
đứng hướng Tây của cội cây, Ngài nhìn về hướng Đông; rồi đứng hướng Bắc, Ngài
nhìn về
hướng
Sau
cùng, đứng hướng Đông của cội cây, Ngài nhìn
thẳng về hướng Tây, Ngài có cảm giác toàn cõi thế giới thăng bằng.
Ngài
nghĩ rằng: “Chính đây là chỗ ngồi để ta có
thể chứng đắc thành Bậc Chánh Đẳng Giác”.
Ngài
trải tám nắm cỏ tại hướng Đông của cội Assattha. Thật phi thường thay! Tại ngay
chỗ ngồi ấy bỗng nhiên trở thành ngôi Bồ đoàn quý báu, có
chiều cao 14 hắc tay thật nguy nga lộng lẫy, mà
không có một nhà kiến trúc mỹ thuật nào có thể
tạo nên một Bồ đoàn tuyệt đẹp như vậy! Bởi vì, ngôi Bồ đoàn quý báu
này phát sinh do phước báu ba-la-mật tròn đủ
của Đức Bồ Tát sắp trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác.
Ngài
ngồi kiết già vững vàng trên ngôi Bồ đoàn
quý báu, quay mặt về hướng Đông rồi phát nguyện rằng:
-
Dù cho thịt và máu trong thân ta khô cạn hết, dù
sắc thân này chỉ còn da bọc xương đi nữa, nếu ta
chưa chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác,
ta quyết không bao giờ rời khỏi Bồ đoàn này.
Lúc
ấy, từ cung trời Tha Hóa Tự Tại Thiên, Ác Ma Thiên hóa ra hàng ngàn cánh tay
cầm khí giới, cỡi voi Girimekhala cầm đầu đoàn thiên ma binh,
thiên ma tướng rầm rộ hiện xuống vây quanh cội
Assattha, kéo dài 12 do tuần. Bên trên hư
không, chúng thiên ma dày đặc 9 do tuần, chúng la hét âm
thanh vang dội kinh khủng làm chấn động khắp mọi
nơi, quyết tranh giành ngôi Bồ đoàn của Đức Bồ Tát. Mới đây, chư
thiên, chư phạm thiên từ 10 ngàn thế giới đến
cung kính cúng dường, tán dương ca tụng
Đức Bồ Tát, khi thoáng nhìn thấy Ác Ma Thiên
cùng với thiên ma binh, thiên
ma tướng trùng trùng điệp điệp từng
đoàn, từng lớp hiện xuống; tất cả chư thiên, phạm thiên đều bay xa
lánh mặt, trở về chỗ ở của mình, chỉ còn một
mình Đức Bồ Tát đang điềm nhiên ngự trên ngôi Bồ đoàn.
Ác
Ma Thiên đã sử dụng đủ mọi loại vũ khí và phép thuật cực kỳ nguy hiểm, quyết
sát hại Đức Bồ Tát, để chiếm đoạt ngôi Bồ
đoàn, với mục đích ngăn cản không
cho Đức Bồ Tát chứng đắc thành Đức Phật
Chánh Đẳng Giác. Nhưng do oai lực 30 pháp hạnh
ba-la-mật đầy đủ trọn vẹn của Đức Bồ Tát sắp chứng đắc thành Đức
Phật Chánh Đẳng Giác, nên không có một loại phép thuật hay vũ khí nguy hiểm nào
có thể sát hại được Ngài.
Quả
thật như thế! Do oai lực pháp hạnh ba-la-mật
của Đức Bồ Tát, các loại vũ khí và phép thuật
của Ác Ma Thiên đều hóa thành những
vật cúng dường Ngài.
Ngồi
trên lưng voi Girimekhala, Ác Ma Thiên vô
cùng căm uất, chỉ tay về Đức Bồ Tát nói như ra
lệnh:
-
Này Sa-môn Gotama, nhà ngươi hãy mau mau rời
khỏi ngôi Bồ đoàn ấy, vì ngôi Bồ đoàn ấy là
của ta, không phải của ngươi!
Đức
Bồ Tát từ tốn đáp lại:
-
Này Ác Ma Thiên, ngôi Bồ đoàn quý báu này phát
sinh do phước thiện của 30 pháp hạnh ba-la-mật, 5 hạnh đại thí, 3 pháp hành mà
Như Lai đã tạo từ vô số
kiếp. Do đó, ngôi Bồ đoàn này thuộc về của Như Lai, không phải của
ngươi.
Khi
ấy, chỉ một mình Đức Bồ Tát ngự trên Bồ đoàn, ngoài ra, không còn có một ai bên
cạnh Đức Bồ Tát cả, nên Ác Ma Thiên đặt câu hỏi bắt bí Đức Bồ Tát rằng:
-
Thưa Sa-môn Gotama, Ngài nói rằng:
“Ngôi Bồ đoàn quý báu ấy thuộc về của Ngài.
Vậy ai làm chứng cho Ngài!”
Nhìn
xung quanh đều không có một chư thiên, phạm
thiên nào cả, Đức Bồ Tát bèn đưa bàn tay phải ra, rồi dùng ngón trỏ
chỉ xuống mặt đất, truyền dạy bằng lời chân thật rằng:
“Trong
những tiền kiếp, Như Lai đã từng tạo 30
pháp hạnh ba-la-mật, 5 hạnh đại thí, 3 pháp hành.
Bây giờ, tại nơi đây không có chúng sinh nào đứng ra làm chứng cho
Như Lai, chỉ có mặt đất, mặt đất không có tâm thức này có thể làm chứng cho Như
Lai được không?”.
Thật
phi thường thay! Lời chân thật của Đức Bồ Tát
vừa chấm dứt, ngay tức khắc, mặt đất chuyển mình, rung động, phát ra
những tiếng sấm sét long trời lở đất, làm cho Ác Ma Thiên kinh hoàng khiếp đảm,
giục voi Girimekhala bỏ chạy trở về cõi Tha Hóa Tự Tại Thiên; còn đám ma binh
thì hỗn quân, hỗn quan vô cùng khiếp sợ, cũng
hốt hoảng chạy tán loạn theo chủ soái để thoát thân.
Đức
Bồ Tát ngự trên Bồ đoàn quý báu dưới cội cây
Assattha toàn thắng Ác Ma
Thiên, vừa đúng lúc mặt trời sắp
lặn hướng Tây, mặt trăng ló dạng hướng
Đông. Khi ấy, mười ngàn thế giới, chư thiên cõi trời dục giới, phạm
thiên cõi trời sắc giới, Long vương dưới thủy
cung… vui mừng reo hò vang dội khắp các tầng trời, tán dương ca tụng
oai lực ba-la-mật của Đức Bồ Tát rằng:
Đức
Bồ Tát
Siddhattha đã toàn thắng rồi!
Ác
Ma Thiên đã hoàn toàn thất bại rồi!
Do
đó, ngôi Bồ đoàn quý báu này gọi là “Aparā-jitapallaṇka”
nghĩa là ngôi Bồ đoàn quý báu nơi
toàn thắng Ác Ma Thiên.
Sau
khi Đức Bồ Tát đã toàn thắng Ác Ma Thiên,
vào canh đầu đêm rằm tháng tư âm lịch, Ngài thực
hành thiền định (samathabhāvanā) với đề mục niệm
hơi thở vô
- hơi thở ra (ānāpānassati)
tuần tự chứng đắc 4 bậc thiền hữu sắc như sau:
-
Đệ nhất thiền hữu sắc:
Có 5 chi thiền: Hướng
tâm, quan sát, hỷ, lạc, định,
do chế ngự được 5 pháp
chướng ngại tham dục, sân hận, buồn chán - buồn ngủ, phóng tâm - hối hận, hoài
nghi.
-
Đệ nhị thiền hữu sắc:
Có 3 chi thiền: Hỷ, lạc, định,
do
chế ngự được 2 chi thiền hướng tâm, quan
sát.
-
Đệ tam thiền hữu sắc:
Có 2 chi thiền: Lạc, định,
do
chế ngự được 1 chi thiền hỷ.
-
Đệ tứ thiền hữu sắc:
Có 2 chi thiền: Xả, định,
do
chế ngự được 1 chi thiền lạc,
thay bằng chi thiền xả.
Đó
là 4 bậc thiền hữu sắc làm nền tảng để chứng
đắc Tam Minh.
1-
Túc mạng minh (Pubbenivāsānussatinñāṇa)
Đức
Bồ Tát có đệ tứ thiền hữu sắc, định tâm trong
sáng thanh tịnh, thiền tâm không lay động làm nền
tảng, Ngài hướng tâm đến chứng đắc
túc mạng minh:
Trí tuệ nhớ rõ lại tiền kiếp,
từ 1 kiếp đến hàng trăm
kiếp, hàng ngàn kiếp, hàng vạn kiếp, hàng
triệu kiếp, hàng triệu triệu kiếp…
cho đến vô lượng kiếp không giới hạn(4).
Túc
mạng minh là trí tuệ nhớ rõ tiền kiếp thuộc loại chúng sinh nào, tên gì, thuộc
dòng dõi nào, đã tạo nghiệp thiện , nghiệp bất
thiện, tạo ba-la-mật, thọ lạc, thọ khổ, tuổi thọ như thế nào… đều
nhớ rõ ràng mọi chi tiết.
Túc
mạng minh
là minh thứ nhất mà Đức Bồ Tát đã chứng đắc vào canh đầu đêm rằm tháng
tư (âm lịch).
2-
Thiên nhãn minh (Dibbacakkhunñāṇa)
Đức
Bồ Tát có đệ tứ thiền hữu sắc, định tâm trong sáng
thanh tịnh, thiền tâm không lay động làm nền tảng, Ngài hướng tâm
đến chứng đắc thiên nhãn minh:
Trí tuệ thấy rõ, biết rõ kiếp quá khứ, kiếp vị lai của tất cả chúng sinh như
mắt của chư thiên, phạm thiên.
Thiên
nhãn minh có 2 loại:
-
Tử sanh minh
(cutūpapātañāṇa):
Trí tuệ thấy rõ biết rõ sự tử, sự tái sinh của tất cả chúng sinh. Sau khi chết,
do nghiệp nào cho quả tái sinh cảnh giới nào, thọ khổ, thọ lạc như thế nào…
-
Vị lai kiến minh
(anāgataṃsañāṇa):
Trí tuệ thấy
rõ những kiếp vị lai của tất cả chúng sinh.
Chư
Phật dùng vị lai kiến minh này để thọ ký
chúng sinh trong những kiếp vị lai xa xăm, còn thời
gian bao nhiêu đại kiếp trái đất nữa sẽ trở thành
Đức Phật Chánh Đẳng Giác, hoặc Đức Phật Độc Giác, hoặc bậc Thánh
Thanh Văn Giác...
Thiên
nhãn minh
là minh thứ nhì mà Đức Bồ Tát đã
chứng đắc vào lúc canh giữa đêm rằm tháng tư (âm
lịch).
3-
Lậu tận minh (Āsavakkhayañāṇa)
Đức
Bồ Tát dùng đệ tứ thiền hữu sắc làm nền tảng, để
thực hành thiền tuệ, quán
xét Thập
Nhị Duyên Sanh
(Paṭiccasamuppāda)
là đối tượng thiền
tuệ của Chư Bồ Tát. Ngài quán xét để chứng đắc thành Đức Phật Chánh
Đẳng Giác.
Đức
Bồ Tát quán xét
Thập Nhị Duyên Sanh theo
chiều thuận, chiều sinh như sau:
-
Do vô minh làm duyên, nên hành sanh.
(Avijjāpaccayā
saṅkhārā)
-
Do hành làm duyên, nên thức sanh.
(Saṅkhārapaccayā
viññāṇaṃ)
-
Do thức làm duyên, nên danh sắc sanh.
(Viññāṇapaccayā
nāmarūpaṃ)
-
Do danh sắc làm duyên, nên lục nhập sanh.
(Nāmarūpapaccayā saḷāyatanaṃ)
-
Do lục nhập làm duyên, nên lục xúc sanh.
(Saḷāyatanapaccayā phasso)
-
Do lục xúc làm duyên, nên lục thọ sanh.
(Phassapaccayā vedanā)
-
Do lục thọ làm duyên, nên lục ái sanh.
(Vedanāpaccayā taṇhā)
-
Do lục ái làm duyên, nên tứ thủ sanh.
(Taṇhāpaccayā upādānaṃ)
-
Do tứ thủ làm duyên, nên nhị hữu sanh.
(Upādānapaccayā bhavo)
-
Do nhị hữu làm duyên, nên tái sinh sanh.
(Bhavapaccayā jāti)
-
Do tái sinh làm duyên, nên lão tử… sanh.
(Jātipaccayā jarāmaraṇaṃ…)
Đức
Bồ Tát quán xét Thập Nhị Duyên Sanh
theo chiều thuận, chiều sinh, để trí tuệ thiền tuệ thấy
rõ, biết rõ
“sự sinh” của mỗi pháp, trí tuệ thiền tuệ
chứng ngộ chân lý Khổ Thánh Đế
và Nhân sanh
Khổ Thánh Đế
hay Tập Thánh Đế.
Đức
Bồ Tát quán xét Thập Nhị Nhân Diệt theo
chiều nghịch, chiều diệt như sau:
-
Do diệt tận vô minh, nên diệt hành.
(Avijjāyatveva
asesavirāganirodhā saṅkhāranirodho)
-
Do diệt hành, nên diệt thức.
(Saṅkhāranirodhā
viññaṇanirodho)
-
Do diệt thức, nên diệt danh sắc.
(Viññāṇanirodhā
nāmarūpanirodho)
-
Do diệt danh sắc, nên diệt lục nhập.
(Nāmarūpanirodhā
saḷāyatananirodho)
-
Do diệt lục nhập, nên diệt lục xúc.
(Saḷāyatananirodhā
phassanirodho)
-
Do diệt lục xúc, nên diệt lục thọ.
(Phassanirodhā
vedanānirodho)
-
Do diệt lục thọ, nên diệt lục ái.
(Vedanānirodhā
taṇhānirodho)
-
Do diệt lục ái, nên diệt tứ thủ.
(Taṇhānirodhā
upādānanirodho)
-
Do diệt tứ thủ, nên diệt nhị hữu.
(Upādānanirodhā
bhavanirodho)
-
Do diệt nhị hữu, nên diệt tái sinh.
(Bhavanirodhā
jātinirodho)
-
Do diệt tái sinh, nên diệt lão tử….
(Jātinirodhā
jarāmaraṇa… nirodho)
Đức
Bồ Tát quán xét Thập Nhị Nhân Diệt
theo
chiều nghịch, chiều diệt, để trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ
“sự diệt” của
mỗi pháp, trí tuệ thiền tuệ chứng ngộ chân lý: Diệt Khổ Thánh Đế và
Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế hay Đạo Thánh Đế.
Đức
Bồ Tát quán xét Thập Nhị Duyên Sanh - Thập Nhị
Nhân Diệt theo
chiều thuận - chiều nghịch,
chiều sanh - chiều diệt,
trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh
- sự diệt của mỗi pháp, trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết
rõ trạng thái vô thường,
trạng thái khổ,
trạng thái vô ngã, dẫn đến chứng ngộ chân lý
Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn, diệt
đoạn tuyệt 4 pháp trầm luân (āsava)
bằng 4 Thánh Đạo Tuệ tuần tự như sau:
-
Nhập Lưu Thánh Đạo Tuệ
diệt đoạn tuyệt được
1 pháp là
tà kiến trầm luân
(diṭṭhāsava),
cùng với các tà kiến khác.
-
Nhất
Lai Thánh Đạo Tuệ
diệt đoạn tuyệt được 1 pháp là
tham dục trầm luân
(kāmāsava)
trong ngũ
trần loại thô (còn loại vi tế chưa diệt được), cùng với
các tâm tham loại thô khác.
-
Bất Lai Thánh Đạo Tuệ
diệt đoạn tuyệt được 1
pháp là
tham dục trầm luân
(kāmāsava)
trong ngũ trần loại vi tế không còn dư sót, cùng với các tâm tham loại vi tế
khác.
-
A-ra-hán
Thánh Đạo Tuệ
diệt đoạn tuyệt được 2 pháp là
kiếp trầm luân
(bhavāsava)
và
vô minh trầm
luân
(avijjāsava),
đồng thời diệt đoạn tuyệt được
hoàn toàn mọi tham ái, phiền não, và các ác pháp không còn dư sót. Như
vậy, Đức Bồ Tát đã tự mình chứng ngộ chân
lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh
Quả và Niết Bàn đầu tiên, diệt đoạn tuyệt
mọi tham ái, mọi
phiền não, mọi ác pháp không còn dư sót; đặc biệt diệt được mọi
tiền khiên tật (5)(vāsanā)
do đã tích lũy từ nhiều đời nhiều kiếp trong quá khứ, trở thành Đức
Phật Chánh Đẳng Giác có danh hiệu
“Đức Phật Gotama”, độc
nhất vô nhị trong toàn cõi thế giới chúng sinh.
Đức
Phật Gotama có đầy đủ trọn vẹn 73 loại trí tuệ(6).
Trong 73 loại trí tuệ này, có những loại trí tuệ
mà Chư Phật Độc Giác, Chư Thanh Văn Giác không
thể có, đó là 6 Asādhāraṇañāna: 6 trí tuệ không có chung với
Chư Phật Độc Giác, Chư Thánh Thanh Văn
Giác; 10 Dasabalañāna:
10 tuệ lực; v.v…
Đức
Phật Gotama có những Ân đức riêng biệt như:
*
18 āveṇikāguṇa: 18 Ân đức riêng biệt của Đức
Phật Chánh Đẳng Giác. Những Ân đức này chỉ có ở
Đức Phật Chánh Đẳng Giác mà thôi, hoàn toàn không
có ở Chư Phật Độc Giác, Chư Thánh Thanh
Văn Giác.
*
4 anantarāyikaguṇa: 4 Ân đức an toàn vô hại, không có một ai có khả năng
sát hại Đức Phật, làm hư hỏng các thứ vật dụng của Đức Phật, gây tai hại
tướng tốt của Đức Phật, hoặc làm mất ánh hào quang của Đức Phật.
Lậu
tận minh
là minh thứ 3 mà Đức Bồ Tát đã
chứng đắc vào canh chót của đêm rằm tháng tư (âm
lịch), vào lúc rạng đông. Ngài đã trở thành Đức Phật
Chánh Đẳng Giác
cao thượng trong toàn cõi thế
giới chúng sinh, tại cội cây
Assattha. Do đó, cây Assattha này gọi là Bodhirukkha(7):
Cây Bồ Đề, đối
với Đức Phật Gotama của chúng ta.
Như
vậy, Đức Phật Gotama là Đức Chánh Đẳng
Giác Vô Thượng trong toàn thế giới chúng sinh.
Khi ấy, Ngài đúng 35 tuổi.
Mười
ngàn thế giới chúng sinh từ mặt đất lên
đến cõi sắc giới phạm thiên tột đỉnh, chư thiên, phạm
thiên vô cùng vui mừng, hoan hỷ thốt lên lời:
-
Sādhu! Sādhu!
(Lành
thay! Lành thay!)
-
Buddho uppanno!
(Đức
Phật xuất hiện trên thế gian rồi!)
-
Dhammo uppanno!
(Đức
Pháp xuất hiện trên thế gian rồi!)
-
Saṃgho uppanno!
(Đức
Tăng cũng sẽ xuất hiện trên thế gian này!)
Tiếng
hoan hô vang dội khắp toàn cõi 10 ngàn thế giới chúng sinh.
Những
điều phi thường chưa từng có trên thế gian
này là:
*
Tất cả các loài hoa đều đua nhau nở để cúng
dường đến Đức Phật.
*
Tất cả các loại cây ăn trái đều cho quả ngon
ngọt.
*
Tất cả những người mù
từ lúc đầu thai, khi sinh ra không
thấy được gì, thì nay có đôi mắt sáng, có thể nhìn thấy mọi vật trên đời.
*
Tất cả những người điếc từ lúc đầu thai, khi sinh
ra không nghe được âm thanh gì, thì nay hai tai có thể nghe rõ mọi thứ âm
thanh.
*
Tất cả những người què, bại liệt từ lúc đầu thai,
khi sinh ra không đi lại được, thì nay có thể đi lại dễ dàng.
*
Đặc biệt nhất, ở địa ngục Lokantarika rộng lớn
tối tăm, nơi giáp ranh với 3 thế giới, dành cho những
chúng sinh có tà kiến cố định (niyatamicchādiṭṭhi)
hoàn toàn không tin nghiệp - quả. Trong địa ngục
rất tối tăm ấy, dầu ánh sáng của 7 mặt trời mọc lên
cùng một lúc, cũng không thể chiếu thấu đến tận
nơi; nhưng ánh sáng hào quang của Đức Phật tỏa khắp 10 ngàn thế
giới, chiếu sáng đến tận địa ngục Lokantarika.
Cho nên, những chúng sinh ở trong địa ngục có thể nhìn thấy lẫn
nhau.
Toàn
thể mười ngàn thế giới, chư thiên, phạm
thiên đem những phẩm vật cao quý và những đóa hoa
xinh đẹp cúng dường đến Đức Phật và tán dương ca tụng Đức Phật bằng
hàng ngàn bài kệ.
Khi
ấy, Đức Thế Tôn tự thuyết ở trong tâm bằng
2 bài kệ rằng:
153-
Anekajātisaṃsāraṃ,
Sandhāvissaṃ
anibbisaṃ.
Gahakāraṃ
gavesanto,
Dukkhājāti
punappunaṃ.
154-
Gahakāraka!
diṭṭho’si,
Puna
gehaṃ na kāhasi.
Sabbā te phāsukā bhaggā, Gahakūtaṃ
visaṅkhataṃ.
Visaṅkhāraṃ
gataṃ cittaṃ,
Taṇhānaṃ
khayamajjhagā”.(8)
153-
Này người thợ “tham ái” xây nhà “thân”,
Như
Lai cố tìm ngươi mà chưa gặp,
Nên
tử sinh luân hồi vô số kiếp,
Tái
sinh mãi trong tam giới là khổ.
154-
Này
“tham ái”, người thợ xây nhà “thân”!
Bây
giờ Như Lai đã gặp ngươi rồi!
Tất
cả sườn nhà, “phiền não”(9)
của ngươi,
Như
Lai đã hủy hoại sạch cả rồi,
Đỉnh
nhà “vô minh”, cũng bị tiêu diệt,
Ngươi
không còn xây nhà Như Lai nữa,
Tâm
Như Lai đã chứng ngộ Niết Bàn,
Diệt
đoạn tuyệt tất cả mọi “tham ái”(10),
Như
Lai đã chứng đắc A-ra-hán.
Hai
bài kệ cảm ứng tự thuyết ở trong tâm, đó là
Phật ngôn đầu tiên của Đức Phật
(Paṭhama-buddhavacana).
Đức
Phật Chánh Đẳng Giác là kết quả của sự chứng
ngộ chân lý Tứ Thánh Đế theo Tam Tuệ Luân,
như trong bài kinh Chuyển Pháp Luân Đức Thế Tôn đã khẳng định,
truyền dạy rằng:
–
“Này chư Tỳ khưu, khi nào trí tuệ thiền tuệ
đã thấy rõ, biết rõ đúng thực tánh của Tứ Thánh Đế
theo Tam Tuệ Luân, thành 12 loại trí tuệ trong sáng thanh tịnh, đã
phát sinh đến với Như Lai.
Này
chư Tỳ khưu, khi ấy, Như Lai khẳng định,
truyền dạy rằng: Như Lai đã
chứng đắc thành Đức
Phật Chánh Đẳng Giác Vô Thượng
trong toàn thế giới chúng
sinh: Nhân loại, Vua chúa, Sa-môn,
Bà-la-môn,
Đức
Thế Tôn xuất hiện trên thế gian để đem lại sự
lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài cho tất cả chúng sinh. Như
Ngài đã dạy:
“Này
chư Tỳ khưu, Bậc cao thượng độc nhất
xuất hiện trên thế gian, để đem lại sự tiến hóa cho nhiều chúng sinh, để đem
lại sự an lạc cho nhiều chúng sinh, để tế độ thế
gian, để có sự lợi ích, sự tiến hóa,
sự an lạc cho chư thiên, chư phạm thiên và nhân loại.
Bậc
cao thượng độc nhất ấy là ai?
Bậc
cao thượng độc nhất ấy chính là Như Lai, Đức A-ra-hán, Đức Chánh Đẳng Giác.
Này
chư Tỳ khưu, Như Lai là Bậc cao thượng độc nhất xuất hiện trên thế gian, để đem
lại sự tiến hóa cho nhiều chúng sinh, để đem lại sự an lạc cho
nhiều chúng sinh, để tế độ thế gian, để có sự lợi ích,
sự tiến hóa, sự an lạc cho chư thiên, chư phạm thiên và nhân loại”(11).
1
Công chúa Yasodhara là hậu thân của nữ Bà-la-môn Sumittā từ thời Đức Phật
Dīpaṅkara, cô dâng cho vị Đạo sĩ Sumedha 5 đóa hoa sen và phát nguyện cho đến
kiếp chót.
2
Tìm hiểu rộng trong Nền Tảng Phật Giáo quyển I “Tam Bảo” cùng
một soạn giả (trang 111-115).
3
Tóm lược theo bài kinh Mahāsupinasutta trong
Aṅg. Pañcakanipāta.
4
Đối
với Đức Phật Độc Giác, bậc Thánh Thanh Văn Giác thì Túc mạng
minh có giới hạn.
5
Tiền khiên tật:
Những tật xấu còn dư sót lại từ những kiếp trước.
6
Bộ
Paṭisambhidāmagga phần Ñāṇakathā.
7
Dưới cội cây nào
mỗi Đức Bồ Tát chứng đắc thành Bậc Chánh Đẳng Giác, cây ấy đều được gọi là
Bodhirukkha. Mỗi Đức Phật có mỗi cây Bồ Đề khác nhau.
8
Dhammapadagàthà
số 153, 154.
9
Phiền não có tất
cả 1.500 loại.
10
Tham ái
có tất cả 108 loại.
|
[Ðầu trang][Trở về trang Mục Lục][Trở về trang Thư Viện]