|
Vị Thiên Nữ Bahusundharī
Khi ấy, vị thiên nữ Bahusundharī thường trú tại núi Gandhamādana, tiền kiếp của vị thiên nữ đã từng là mẹ của Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma thứ 7, kể từ kiếp hiện tại trở về trước, vị thiên nữ Bahusundharī thường trông nom săn sóc theo dõi Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma với tình thương yêu của người mẹ đối với con. Hôm ấy, vị thiên nữ Bahusundharī đi dự đại hội chư thiên, nên không trông nom săn sóc, không theo dõi Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma. Vừa sực nhớ đến Đức Bồ Tát con của mình, vị thiên nữ Bahusundharī với thiên nhãn của mình quan sát xem xét thấy rõ Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma bị chết ngất vì mũi tên thấm thuốc độc, đang nằm trên vũng máu tại bãi cát bên bờ sông Migadammatā, còn Đức Vua Pīḷiyakkha bắn mũi tên độc ấy đang ngồi khóc than thảm thiết vì ăn năn hối lỗi của mình, vì thương tiếc đến Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma, vị thiên nữ Bahusundharī nghĩ rằng: “ Nếu ta không vội đến kịp ngay chỗ ấy, thì Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma con của ta sẽ chết thật, Đức Vua Pīḷayakkha cũng vỡ tim chết, cha mẹ của Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma cũng chết, vì đói khát. Vậy, ta mau đến kịp thời, khuyên Đức Vua Pīḷiyakkha mang bình nước đến gặp cha mẹ của Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma, rồi thông báo cho hai vị Đạo sĩ biết rằng: Cậu Suvaṇṇasāma con của hai vị đã bị bắn chết rồi. Cha mẹ của Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma yêu cầu Đức Vua dẫn dắt hai vị đến thăm con Suvaṇṇasāma. Khi ấy, cha mẹ của Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma phát nguyện bằng lời chân thật, làm cho chất độc trong thân thể của Suvaṇṇasāma sẽ tiêu tan, Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma con của ta sẽ sống trở lại như thường, và đặc biệt Đức Vua Pīḷiyakkha sẽ được nghe Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma thuyết pháp. Sau khi nghe Đức Bồ Tát thuyết pháp xong, Đức Vua Pīḷayakkha trở thành Đức Vua biết thực hành theo thiện pháp.” Sau khi xem xét như vậy, vị thiên nữ Bahusundharī xuất hiện đến bên bờ sông Migasammatā nơi Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma đang nằm chết ngất, vị thiên nữ Bahusundharī đứng trên hư không tâu với Đức Vua Pīḷayakkha rằng: - Muôn tâu Đức Vua Pīḷayakkha, Đức Vua đã tạo ác nghiệp bắn mũi tên độc vào thân thể của Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma, bậc đại thiện trí hành pháp hạnh cao thượng, với mũi tên độc ấy không chỉ giết chết một Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma mà còn làm cho hai vị đạo sĩ mù là cha mẹ của Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma cũng chết, vì đói khát nữa. Như vậy. Đức Vua đã tạo ác nghiệp nặng có tội lỗi lớn. - Muôn tâu Đức Vua Pīḷayakkha, tôi sẽ hướng dẫn Đức Vua tạo mọi thiện nghiệp, tạo cho mình một con đường tái sinh lên cõi trời. Vậy, kính xin Đức Vua đem bình nước uống ngự đến gặp cha mẹ mù của Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma, rồi Đức Vua nên thay thế Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma mà chăm lo săn sóc phụng dưỡng cha mẹ mù của Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma trong rừng núi này. Tôi tin chắc rằng: Do nhờ mọi thiện nghiệp ấy, sau khi Đức Vua băng hà có thể tránh khỏi tái sinh trong cõi địa ngục, do nhờ thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh lên cõi trời. Nghe lời khuyên của vị thiên nữ, Đức Vua Pīḷiyakkha nghĩ rằng: “Nếu sau khi ta băng hà, để tránh khỏi ác nghiệp cho quả tái sinh trong cõi địa ngục thì nay từ bỏ ngôi vua, ta nên thay thế cậu Suvaṇṇasāma mà chăm lo săn sóc phụng dưỡng cha mẹ mù của cậu Suvaṇṇasāma. Sau khi băng hà, thiện nghiệp ấy sẽ cho quả tái sinh lên cõi trời.” Suy nghĩ xong, Đức Vua Pīḷayakkha cảm thấy hoan hỷ, tỏ sự cung kính và thương tiếc cậu Suvaṇṇasāma, rồi đem bình nước ngự theo con đường đi thẳng đến chỗ ở của cha mẹ cậu Suvaṇṇasāma. Lắng nghe tiếng bước chân của Đức Vua Pīḷiyakkha ngự đến gần cốc lá, vị Đạo sĩ Dukūla nhận biết rằng: “ Không phải là bước chân của Suvaṇṇasāma con của ta, bởi vì bước chân của Suvaṇṇasāma đi điều đặn và nhẹ nhàng.” Vậy, ai đến rừng núi này, vị Đạo sĩ Dukūla thưa rằng: - Kính thưa vị khách quý, bần đạo mù xin hỏi Ngài là ai đến thăm bần đạo nơi rừng núi hoang vu này? Đặt bình bát xuống nền, Đức Vua Pīḷiyakkha đứng trước vị Đạo sĩ mù truyền bảo rằng: - Thưa Ngài đạo sĩ kính yêu, Trẫm là vua nước Kāsi này, tên là Pīḷiyakkha, Trẫm vốn thích đi săn băn thú rừng, duyên may ngự đến thăm Ngài đạo sĩ. Vị Đạo sĩ Dukūla tâu rằng: - Muôn tâu Đại Vương, kính xin Đại Vương tha tội thất lễ, vì bần đạo mù không biết nghi lễ đón tiếp Đại Vương cho đúng phép. - Muôn tâu Đại Vương, kính mời Đại Vương chọn lựa những loại trái cây ngon lành mà dùng, kính mời Đại Vương dùng nước mát của con sông Migasammatā. Lắng nghe lời tâu mời đón tiếp thân tình của vị Đạo sĩ Dukūla. Đức Vua nghĩ rằng: “Ta chưa nên nói cho vị đạo sĩ biết cậu Suvaṇṇasāma đã chết.” Đức Vua Pīḷiyakkha thưa rằng: - Kính thưa đạo sĩ, Ngài bị mù đôi mắt không thấy được gì trong rừng này. Vậy, ai là người đi tìm hái những loại trái cây lớn nhỏ đem về, rồi sắp đặt từng mỗi loại đàng hoàng như người sáng mắt như thế này ? Vị đạo Dukūla tâu rằng: - Muôn tâu Đại Vương, Suvaṇṇasāma đứa con yêu quý của chúng tôi, buổi sáng nó thức dậy sớm quét dọn sạch sẽ chỗ ở của cha mẹ xong, đem bình đi lấy nước cho cha mẹ dùng, rồi nó đi vào rừng cùng với các các đàn thú đi tìm hái các trái cây lớn nhỏ, đào các thứ củ, hái các loại rau… đem về sắp đặt từng mỗi loại đàng hoàng xong, rồi đem bình nước cùng với các đàn thú đi đến sông Migasammatā lấy nước uống, nước dùng. Chiều nay, nó đã đem bình lấy nước lâu rồi, chắc nó sắp về. Khi ấy, Đức Vua Pīḷayakkha truyền bảo rằng: - Thưa Ngài Đạo sĩ, đứa con nhỏ tên Suvaṇṇasāma yêu quý của Ngài, là bậc đại thiện trí thực hành phạm hạnh cao thượng. Cậu Suvaṇṇasāma đã bị Trẫm bắn mũi tên độc chết nằm trên bãi cát bên bờ sông Migasammatā. Trước khi chết, cậu Suvaṇṇasāma có nhờ Trẫm thưa lại với Ngài rằng: “Kính thưa cha mẹ, con hết lòng thành kính đảnh lễ dưới đôi bàn chân của cha mẹ, con xin phép vĩnh biệt cha mẹ”. Cốc lá của nữ đạo sĩ Pārikā ở không xa nơi đó, nữ đạo sĩ ngồi nghe rõ chuyện Suvaṇṇasāma bị bắn chết, muốn biết rõ chuyện xảy ra như thế nào, vị nữ đạo sĩ Pārikā đứng dậy bước ra khỏi cốc lá, lần theo sợi dây đi đến cốc lá của vị Đạo sĩ Dukūla bèn hỏi rằng. - Kính thưa bậc thiện trí đạo sĩ Dukūla, Ngài đang nói chuyện với vị nào mà tôi nghe rằng: “Cậu Suvaṇṇasāma đã bị bắn mũi tên độc chết nằm trên bãi cát bên bờ sông Migasammatā, làm cho tôi khổ tâm cùng cực.” Vị đạo sĩ Dukūla khuyên nữ đạo sĩ Pārikā rằng: - Này nữ đạo sĩ Pārikā! Người đang nói chuyện với bần đạo là Đức Vua nước Kāsi. Đại Vương đã bắn mũi tên độc trúng Suvaṇṇasāma con yêu quý của chúng ta đã chết nằm trên bãi cát bên bờ sông Migasammatā. Suvaṇṇasāma con yêu quý của chúng ta đã chết rồi. Chúng ta không nên xúc phạm đến Đại Vương. Nữ đạo sĩ Pārikā khóc than rằng: “Suvaṇṇasāma là người con yêu quý nhất của chúng ta, là người con chí hiếu biết chăm lo săn sóc phụng dưỡng cha mẹ trong khu rừng núi hoang vu này, làm sao tôi không khổ tâm thương tiếc được!” Vị Đạo sĩ Dukūla khuyên dạy an ủi rằng: - Này nữ đạo sĩ Pārikā! Thật vậy, Suvaṇṇasāma là người con yêu quý nhất của chúng ta, là người con chí hiếu biết chăm lo săn sóc phụng dưỡng cha mẹ trong khu rừng hoang vu này. Đó là sự thật, nhưng chúng ta không nên phát sinh tâm sầu não. - Này nữ đạo sĩ Pārikā! Chư bậc thiện trí tán dương ca tụng người không phát sinh tâm sân trong đối tượng không đáng hài lòng, trong trường hợp bất bình. Bởi vì tâm sân thuộc về ác pháp, phiền não có thể dắt dẫn tái sinh trong cõi địa ngục. Nghe lời khuyên dạy an ủi của vị thiện trí Đạo sĩ Dukūla, nữ đạo sĩ Pārikā ngẹn ngào xúc động quá, không sao ngăn nỗi thống khổ cùng cực, hai bàn tay ôm mặt khóc than kể lễ đến đức tính chí hiếu của Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma. Chứng kiến cảnh cảm động đau lòng ấy, Đức Vua Pīḷiyakkha truyền lời an ủi đến hai vị đạo sĩ rằng: - Kính thưa hai vị đạo sĩ kính yêu, xin hai Ngài nguôi bớt cơn sầu não, xin đừng than khóc nữa, cậu Suvaṇṇasāma đã bị Trẫm bắn chết rồi. Nay, Trẫm thay thế cậu Suvaṇṇasāma làm mọi phận sự chăm lo săn sóc phụng dưỡng hai Ngài, như cậu Suvaṇṇasāma. Kính xin hai Ngài an tâm, xin hai Ngài bớt buồn khổ. Khi ấy, hai vị đạo sĩ tâu với Đức Vua rằng: - Muôn Tâu Đại Vương, Đại Vương không nên truyền bảo như vậy, bởi vì Đại Vương là Đức Vua trị vì toàn cõi đất nước Kāsi, còn hai bần đạo chúng tôi chỉ là tiện dân nhỏ bé trong nước của Đại Vương mà thôi, không đáng để Đại Vương phải bận tâm. Nghe lời tâu của hai vị Đạo sĩ, Đức Vua Pīḷayakkha nghĩ rằng: “Thật là phi thường! Đối với bậc xuất gia hành phạm hạnh cao thượng. Ta đã bắn chết người con yêu quý duy nhất của hai Ngài đạo sĩ mà hai Ngài không hề thốt ra lời thô tục, xúc phạm đến ta, mà còn nói những lời đạo đức, ôn hoà có tâm từ với ta. Hai Ngài thật đáng kính, thật đang khâm phục biết dường nào!” Đức Vua Pīḷiyakkha thành kính thưa với hai Ngài đạo sĩ với tấm lòng chân thành rằng: - Kính thưa hai Ngài đạo sĩ khả kính, hai Ngài là bậc đại thiện trí thực hành pháp hạnh cao thượng có tâm từ vô lượng rải khắp mọi chúng sinh . - Kính thưa hai Ngài đạo sĩ khả ái, Trẫm kính xin hai Ngài đạo sĩ Dukūla làm phụ thân của Trẫm và kính xin Ngài nữ đạo sĩ Pārikā làm mẫu thân của Trẫm. - Kính xin hai Ngài đạo sĩ nhận Trẫm là con của hai Ngài. Trẫm xin cố gắng làm tròn bổn phận người con, làm mọi phận sự chăm lo săn sóc phụng dưỡng thân phụ và mẫu thân một cách chu đáo như Suvaṇṇasāma. Nghe Đức Vua Pīḷiyakkha truyền bảo như vậy, hai vị đạo sĩ chắp tay tâu rằng: - Muôn tâu Đại Vương nước Kāsi, hai chúng tôi thành kính đội ơn Đại Vương. - Muôn tâu Đại Vương, cầu xin Đại Vương trị vì đất nước Kāsi cho an lành thịnh vượng, thần dân thiên hạ được an cư lạc nghiệp. - Hai bần đạo chúng tôi chắp tay khẩn khoản kính xin Đại Vương dẫn hai bần đạo chúng tôi đến tận nơi chỗ nằm của Suvaṇṇasāma, để hai bần đạo chúng tôi tiếp xúc trực tiếp toàn thân thể của Suvaṇṇasāma, người con yêu quý của chúng tôi, rồi hai bần đạo chúng tôi sẽ được chết cùng với Suvaṇṇasāma tại nơi ấy, Đại Vương không phải bận tâm vì hai bần đạo chúng tôi nữa. Khi nghe hai vị đạo sĩ khẩn khoản tâu như vậy, Đức Vua Pīḷiyakkha nghĩ rằng: “Bây giờ lúc mặt trời lặn, nếu bây giờ hai vị đạo sĩ mù này đi đến chỗ nằm của Suvaṇṇasāma, tiếp xúc tử thi Suvaṇṇasāma thì trái tim của hai vị đạo sĩ sẽ bị vỡ rồi chết, bởi vì quá thương yêu. Như vậy, cả ba người đều chết bởi vì ta, chắc chắn ta sẽ khó tránh khỏi bị xa vào cõi địa ngục.” Đức Vua Pīḷiyakkha tìm cách trì hoãn nên thưa rằng: - Kính thưa hai Ngài đạo sĩ kính yêu, cậu Suvaṇṇa-sāma chết nằm trên bãi cát bên bờ sông Migasammatā. Bây giờ trời tối trong rừng có nhiều thú dữ, vì vậy, kính xin hai Ngài đạo sĩ ở tại cốc trong đêm nay, sáng ngày mai Trẫm sẽ dẫn hai Ngài đến tận chỗ nằm của Suvaṇṇasāma. Hai vị Đạo sĩ tha thiết khẩn khoản tâu rằng: - Muôn tâu Đại Vương, dù trong rừng núi có hằng trăm, hằng ngàn thú dữ, hai bần đạo vẫn không bao giờ biết sợ cả. - Muôn tâu Đại Vương, hai bần đạo chúng tôi tha thiết khẩn khoản Đại Vương dẫn hai bần đạo chúng tôi đi đến chỗ nằm của Suvaṇṇasāma ngay bây giờ, để cho hai bần đạo chúng tôi tiếp xúc với thân thể của Suvaṇṇasāma người con yêu quý nhất của chúng tôi. Biết không thể nào trì hoãn được, nên Đức Vua Pīḷiyakkha nắm tay dẫn hai vị đạo sĩ mù đến tận chỗ nằm của Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma. Đức Vua Pīḷiyakkha truyền rằng: - Kính thưa hai Ngài đạo sĩ kính yêu, đây là thi thể Suvaṇṇasāma. Khi ấy, vị đạo sĩ Dukūla phụ thân của Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma đỡ cái đầu Đức Bồ Tát lên đặt lên trên vế của mình và nữ đạo sĩ Pārikā mẫu thân của Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma đỡ đôi chân của Đức Bồ Tát lên đặt trên vế của mình, rồi khóc than kể lễ đến đức tính tốt chí hiếu của Đức Bồ Tát, đã tận tâm chăm lo săn sóc phụng dưỡng cha mẹ mù trong khu rừng núi hoang vu này. Nữ đạo sĩ Pārikā đưa tay sờ vào ngực của Suvaṇṇa-sāma có cảm giác còn có hơi ấm, nên nghĩ rằng: “Suvaṇṇasāma con của chúng ta còn có hơi ấm, có lẽ nó chỉ bị chết ngất vì chất độc mà thôi.” Vậy, ta nên phát nguyện bằng lời chân thật để làm cho tiêu tan chất độc trong thân của Suvaṇṇasāma con của chúng ta, ngay bây giờ.
Năng Lực Của Lời Phát Nguyện
* Nữ đạo sĩ Pārikā mẹ của Đức Bồ Tát Suvaṇ-ṇasāma cố gắng làm nguôi cơn sầu não, phát sinh đại thiện tâm trong sạch phát nguyện bằng lời chân thật rằng: “Suvaṇṇasāma là người con đại thiện thường thực hành các pháp hạnh cao thượng. “Suvaṇṇasāma là người con đại từ thường thực hành pháp hành thiền định niệm rải tâm từ vô lượng đến tất cả chúng sinh . “Suvaṇṇasāma là người con đại trí thường nói lời chân thật. “Suvaṇṇasāma là người con đại chí hiếu tận tâm chăm lo săn sóc phụng dưỡng cha mẹ mù một cách chu đáo. “Suvaṇṇasāma là người con đại khiêm tốn biết kính trọng cha mẹ và tất cả mọi chúng sinh. “Suvaṇṇasāma là người con đại đức có đủ hai đức tính tri ơn và báo ơn. “Suvaṇṇasāma là người con yêu thương nhất của mẹ. Do lời chân thật này, chất độc trong thân thể của Suvaṇṇasāma con yêu quý của mẹ xin hãy tiêu tan ngay. Do năng lực lời phát nguyện với lời chân thật của vị nữ đạo sĩ Pārikā, mẹ của Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma khiến cho thân hình của Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma trở mình sang một bên rồi nằm yên.
* Tiếp theo, vị đạo sĩ Dukūla, cha của Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma nguôi bớt cơn sầu não, phát sinh đại thiện tâm trong sạch phát nguyện bằng lời chân thật rằng: “Suvaṇṇasāma là người con đại thiện thường thực hành các pháp hạnh cao thượng. “Suvaṇṇasāma là người con đại từ thường thực hành pháp hành thiền định niệm rải tâm từ vô lượng đến tất cả chúng sinh . “Suvaṇṇasāma là người con đại trí thường nói lời chân thật. “Suvaṇṇasāma là người con đại chí hiếu tận tâm chăm lo săn sóc phụng dưỡng cha mẹ mù một cách chu đáo. “Suvaṇṇasāma là người con đại khiêm tốn biết kính trọng cha mẹ và tất cả mọi chúng sinh. “Suvaṇṇasāma là người con đại đức có đủ hai đức tính tri ơn và báo ơn. “Suvaṇṇasāma là người con yêu thương nhất của cha. Do lời chân thật này, chất độc trong thân thể của Suvaṇṇasāma con yêu quý của cha xin hãy tiêu tan ngay. Do năng lực lời phát nguyện với lời chân thật của vị đạo sĩ Dukūla, cha của Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma khiến cho thân hình của Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma trở mình sang một bên rồi nằm yên.
* Tiếp theo, vị thiên nữ Bahusundharī (đã từng là mẹ của tiền kiếp thứ 7 của Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma) trú núi Gandhamādana xuất hiện ra tại chỗ nằm Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma phát nguyện bằng lời chân thật rằng: “Tôi trú tại núi Gandhamādana trải qua suốt thời gian lâu dài, không có ai mà tôi thương yêu hơn Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma. “Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma là người mà tôi thương yêu nhất, cũng như núi Gandhamādana có toàn những cây có mùi thơm. Do lời chân thật này, chất độc trong thân thể của Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma, xin hãy tiêu tan không còn dư sót. Sau khi vị thiên nữ Bahusundharī phát nguyện vừa chấm dứt, thì Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma người con có màu da như vàng ròng, khôi ngô tuấn tú đứng dậy ngay tức khắc, mũi tên rơi xuống đất, không để lại dấu vết, nỗi đau khổ không còn nữa. Do oai lực của chư thiên, mọi sự phi thường xảy ra cùng một lúc không trước không sau là. * Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma hồi sinh tự nhiên. * Đôi mắt của vị đạo sĩ Dukūla và vị nữ đạo sĩ Pārikā sáng trở lại tự nhiên. * Đúng lúc rạng đông bắt đầu một ngày mới. * Bốn vị là Đức Vua Pīḷiyakkha, Đạo sĩ Dukūla, vị nữ Đạo sĩ Pārikā và Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma được hiện diện tại cốc lá. Bốn sự kiện này được hiện hữu cùng một lúc, không sau không trước do oai lực của chư thiên. Hai vị đạo sĩ Dukūla và vị nữ đạo sĩ Pārikā có đôi mắt sáng trở lại, nhìn thấy mọi vật, cho nên hai vị đạo sĩ cảm thấy vô cùng hoan hỷ. Khi ấy, Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma thưa rằng: - Kính thưa cha mẹ, con là Suvaṇṇasāma người con mà người cha mẹ thương yêu nhất đã sống trở lại rồi. Con rất vui mừng thấy cha mẹ có đôi mắt sáng trở lại, xin cha mẹ không nên buồn khổ nữa, con cầu mong cha mẹ thân tâm thường an lạc. Kính xin cha mẹ nói chuyện với con bằng những lời hay với tâm từ như trước. Nhìn thấy Đức Vua Pīḷiyakkha, Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma tâu rằng: - Muôn tâu Đại Vương, Đại Vương đã ngự đến nơi đây thật là điều tốt lành đối với cha mẹ tôi. Kính xin Đại Vương lựa chọn các thứ trái cậy ngon mà dùng, kính mời Đại Vương dùng nước mát đem từ con sông Migasammatā. Đức Vua Pīḷiyakkha đã chứng kiến những điều xảy ra thật phi thường chưa từng có, nên thưa rằng: - Thưa bậc thiện trí Suvaṇṇasāma, Trẫm vô cùng ngạc nhiên chứng kiến những điều xảy ra, thật phi thường chưa từng có như thế này: - Bậc đại thiện trí Suvaṇṇasāma đã chết rồi, nay hồi sinh sống trở lại tự nhiên, không có gì thay đổi. - Hai vị đại thiện trí đạo sĩ bị mù đôi mắt, nay có đôi mắt sáng trở lại tự nhiên. Nghe Đức Vua Pīḷiyakkha truyền thưa như vậy, Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma nghĩ rằng: « Đức Vua Pīḷayakkha tưởng ta đã chết rồi. » Ta nên giải thích điều này cho Đức Vua biết, nên tâu câu kệ rằng: Api jīvaṃ mahārāja, purisaṃ gāḷhavedanaṃ. Upanītamanasaṅkappaṃ, jīvantaṃ maññate mataṃ. Api jīvaṃ mahāraja, purisaṃ gāḷhavedanaṃ. Taṃ nirodhagataṃ santaṃ, jīvantaṃ maññate mataṃ.
- Tâu Đại Vương, nếu người còn sống phải chịu đựng nỗi thống khổ cùng cực, tâm bị chìm xuống dòng hộ kiếp tâm (bhavaṇgacitta), thì người ấy vẫn còn sống, mà người đời tưởng đã chết. (chỉ chết ngất mà thôi). - Tâu Đại Vương, nếu người còn sống phải chịu đựng nỗi thống khổ cùng cực, hơi thở ra vào bị ngưng (diệt), thì người ấy vẫn còn sống mà người đời tưởng đã chết. (Giống như trường hợp Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma)
Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma thuyết pháp dạy Đức Vua Pīḷiyakkha rằng: - Tâu Đại Vương, người nào biết chăm lo săn sóc phụng dưỡng cha mẹ, bạn bè một cách chu đáo, thì chư thiên, nhân loại theo hộ trì người ấy. - Tâu Đại Vương, người nào biết chăm lo săn sóc phụng dưỡng cha mẹ, bạn bè một cách chu đáo, chư bậc thiện trí tán dương ca tụng người ấy trong kiếp này, sau khi người ấy chết, thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh kiếp sau trên cõi trời . Lắng nghe lời dạy của Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma, Đức Vua Pīḷayakkha suy nghĩ rằng: “Thật phi thường chưa từng thấy! Chư thiên chữa trị vết thương của Suvaṇṇasāma, người con biết chăm lo săn sóc phụng dưỡng cha mẹ. Bậc đại thiện trí Suvaṇṇasāma thật đáng kính trọng." Đức Vua Pīḷiyakkha chắp tay thưa rằng: - Thưa bậc đại thiện trí Suvaṇṇasāma, Trẫm là người tối mê lầm lạc. Nay, Trẫm kính xin nương nhờ nơi bậc đại thiện trí Suvaṇṇasāma. Kính xin Ngài Suvaṇṇasāma là nơi nương nhờ của Trẫm, tế độ Trẫm, để sau khi Trẫm băng hà, thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh kiếp sau trên cõi trời. Nghe Đức Vua Pīḷiyakkha thưa như vậy, Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma tâu rằng: - Tâu Đại Vương, nếu Đại Vương muốn kiếp sau được tái sinh lên cõi trời, hưởng mọi sự an lạc thì kiếp hiện tại này, Đại Vương nên thực hành đầy đủ 10 pháp hành của Đức Vua (Dasa rājadhamma) như sau: 10 Pháp Vương (Rājadhamma)
- Muôn tâu Đại Vương, 1- Xin Đại Vương nên thực hành pháp phụng dưỡng Đức Phụ Vương và Mẫu Hậu một cách chu đáo, khi đã thực hành thiện nghiệp ấy trong kiếp hiện tại này. Sau khi Đại Vương băng hà, thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh kiếp sau trên cõi trời.
2- Xin Đại Vương nên thực hành pháp tế độ nuôi dưỡng hoàng hậu, các cung phi, các hoàng tử, các công chúa một cách chu đáo… Sau khi Đại Vương băng hà, thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh kiếp sau trên cõi trời.
3- Xin Đại Vương nên thực hành pháp tế độ đối với các hoàng gia, các quan, các bạn hữu, một cách chu đáo.. … Sau khi Đại Vương băng hà, thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh kiếp sau trên cõi trời.
4- Xin Đại Vương nên thực hành pháp tế độ đối với các bộ binh các con voi, con ngựa, một cách chu đáo… Sau khi Đại Vương băng hà, thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh kiếp sau trên cõi trời.
5- Xin Đại Vương nên thực hành pháp tế độ đối với dân chúng trong kinh thành, các tỉnh thành, một cách chu đáo… Sau khi Đại Vương băng hà, thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh kiếp sau trên cõi trời.
6- Xin Đại Vương nên thực hành pháp tế độ đối với dân chúng trong đất nước, các vùng biên giới, một cách chu đáo… Sau khi Đại Vương băng hà, thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh kiếp sau trên cõi trời.
7- Xin Đại Vương nên thực hành pháp tế độ đối với chư Sa-môn, Bà-la-môn, một cách chu đáo… Sau khi Đại Vương băng hà, thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh kiếp sau trên cõi trời.
8- Xin Đại Vương nên thực hành pháp tế độ đối với các loài thú, các loài chim, một cách chu đáo… Sau khi Đại Vương băng hà, thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh kiếp sau trên cõi trời.
9- Xin Đại Vương nên thựờng hành mọi thiện pháp trở thành thói quen đem lại sự an lạc trong kiếp hiện tại. Sau khi Đại Vương băng hà, thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh kiếp sau trên cõi trời.
10- Xin Đại Vương nên thực hành mọi thiện pháp, bởi vì các Đức Vua Trời, chư thiên, chư phạm thiên trên các tầng trời, tiền kiếp của các vị ấy đã từng thực hành mọi thiện pháp. Xin Đại Vương không nên dể duôi trong mọi thiện pháp.
Đó là 10 pháp vương của các Đức Vua trị vì trong đất nước của mình. Từ nay về sau, Đại Vương không nên dể duôi trong mọi thiện pháp, nên làm phước thiện bố thí, nên giữ gìn ngũ giới cho được trong sạch và trọn vẹn, nên thọ trì bát giới uposathasīla trong những ngày giới hằng tháng, nên thực hành nghiêm chỉnh 10 Pháp vương, để trị vì đất nước cho được phồn vinh, thần dân thiên hạ sống được sống an cư lạc nghiệp.
Sau khi thuyết giảng 10 pháp hành của Đức Vua xong, Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma hướng dẫn Đức Vua Pīḷiyakkha thọ trì ngũ giới, rồi khuyên Đức Vua giữ gìn ngũ giới của mình cho được trong sạch và đầy đủ trong kiếp hiện tại. Đó là thiện pháp cơ bản, sau khi Đức Vua băng hà, thiện nghiệp ấy sẽ cho quả tái sinh kiếp sau lên cõi trời, an hưởng mọi sự an lạc. Khi ấy, Đức Vua Pīḷiyakkha chắp hai tay thành kính đảnh lễ Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma, rồi kính xin sám hối những tội lỗi của mình. Đức Vua Pīḷiyakkha đảnh lễ Ngài đạo sĩ Dukūla-paṇḍita và nữ đạo sĩ Pārikā, rồi xin từ giã hồi cung trở về kinh thành Bāranasī. Từ đó về sau, Đức Vua Pīḷiyakkha cố gắng tinh tấn tạo mọi thiện nghiệp như bố thí, giữ ngũ giới trong sạch và đầy đủ, thực hành 10 pháp hành của Đức Vua trị vì đất nước Kāsi được thanh bình thịnh vượng, thần dân thiên hạ được an cư lạc nghiệp. Đức Vua Pīḷiyakkha thực hành mọi thiện pháp cho đến suốt đời. Sau khi Đức Vua Pīḷayakkha băng hà, thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh kiếp sau làm chư thiên trên cõi trời, hưởng mọi sự an lạc trong cõi trời ấy. Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma chăm lo săn sóc phụng dưỡng cha mẹ, thực hành pháp hành thiền định tứ vô lượng tâm, chứng đắc các bậc thiền sắc giới và chứng đắc ngũ thông (thần túc thông, nhãn thôn, nhĩ thông, túc mạng thông, tha tâm thông). Ngài đạo sĩ Dukūlapaṇḍita và nữ đạo sĩ Pārikā thực hành pháp hành thiền định tứ vô lượng tâm, chứng đắc các bậc thiền sắc giới, và chứng đắc ngũ thông. Sau khi hai vị đạo sĩ chết, sắc giới thiện nghiệp cho quả tái sinh kiếp sau làm vị phạm thiên trên cõi trời sắc giới phạm thiên. Sau khi Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma chết, sắc giới thiện nghiệp cho quả tái sinh kiếp sau làm vị phạm thiên trên cõi trời sắc giới phạm thiên. Sau khi Đức Thế tôn thuyết về tích Suvaṇṇasāma tiền kiếp của Ngài xong, Đức Thế Tôn thuyết dạy chư Tỳ khưu rằng: - Này chư Tỳ khưu! Người con chí hiếu chăm lo săn sóc phụng dưỡng cha mẹ. Đó là truyền thống của chư bậc thiện trí tiền bối xưa. Đức Thế Tôn thuyết về tứ Thánh đế, vị Tỳ khưu chăm lo săn sóc phụng dưỡng cha mẹ ấy chứng ngộ chân lý tứ Thánh đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo-Nhập Lưu Thành Quả và Niết Bàn trở thành bậc Thánh Nhập Lưu trong giáo pháp của Đức Phật Gotama. Các vị Tỳ khưu khác cũng chứng ngộ chân lý tứ Thánh đế, chứng đắc Thánh Đạo-Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh nhân thấp hoặc cao tuỳ theo năng lực của pháp hạnh Ba-la-mật của mỗi vị.
Tích Suvaṇṇasāmajātaka Liên Quan Đến Kiếp Hiện Tại
Trong tích Suvaṇṇasāmajātaka này, Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama sinh làm con của 2 vị đạo sĩ: đạo sĩ Dukūlapaṇḍita và nữ đạo sĩ Pārikā, trong thời quá khứ. Đến khi Đức Phật gotama đã xuất hiện trên thế gian, thì hậu kiếp của những nhân vật trong tích Suvaṇṇasāmajātaka liên quan đến kiếp hiện tại của những nhân vật ấy như sau: - Vị đạo sĩ Dukūlapandita, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại Trưởng Lão Mahākassapa. - Vị nữ đạo sĩ Pārikā, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại Đức Tỳ khưu ni Bhaddākāpilāni. - Đức Vua trời Sakka, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại Đức Anuruddha. - Đức Vua Pīḷayakkha, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại Đức Ānandā. - Vị thiên nữ Bahusundarī, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại Đức Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā. - Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma, nay kiếp hiện tại là Đức Phật Gotama.
10 Pháp Hạnh Ba-la-mật.
Tóm lược tích Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma là tiền kiếp của Đức Phật Gotama đã thực hành pháp hạnh tâm từ Ba-la-mật bậc trung đồng thời các pháp hạnh Ba-la-mật khác cũng được thành tựu như sau: 1- Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma chăm lo săn sóc phụng dưỡng cha mẹ, đó là pháp hạnh bố thí Ba-la-mật. 2- Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma giữ gìn giới, đó là pháp hạnh giữ gìn Ba-la-mật. 3- Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma xuất gia đạo sĩ, đó là pháp hạnh xuất gia Ba-la-mật. 4- Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma có trí tuệ sáng suốt, đó là pháp hạnh trí tuệ Ba-la-mật. 5- Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma có sự tinh tấn, đó là pháp hạnh tinh tấn Ba-la-mật. 6- Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma có đức nhẫn nại, đó là pháp hạnh nhẫn nại Ba-la-mật. 7- Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma phát nguyện, đó là pháp hạnh phát nguyện Ba-la-mật. 8- Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma nói lời chân thật, đó là pháp hạnh chân thật Ba-la-mật. 9- Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma có tâm xả, đó là pháp hạnh tâm xả Ba-la-mật. Đó là 9 pháp hạnh Ba-la-mật đồng thời thành tựu cùng với pháp hạnh tâm từ Ba-la-mật bậc trung này.
Nhận Xét Về Tích Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma
Pháp hạnh tâm từ Ba-la-mật bậc trung là 1 trong 10 pháp hạnh Ba-la-mật bậc trung, cũng là 1 trong 30 pháp hạnh Ba-la-mật mà Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác cần phải thực hành cho được đầy đủ trọn vẹn, để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác ( Sammāsambuddha). Pháp hạnh tâm từ Ba-la-mật đó là tâm sở vô sân (adosacetasika) đồng sinh với các thiện tâm có đối tượng chúng sinh đáng yêu, đáng mến, cầu mong sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc đến tất cả chúng sinh không phân biệt. Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma thường thực hành pháp hành thiền định niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh vô lượng không phân biệt, cho nên, các loài thú trong rừng đều yêu mến Đức Bồ Tát, chúng thường đi theo quanh quẩn với Đức Bồ Tát như bạn. Khi Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma tuy bị mũi tên độc đâm vào thân thể đau đớn vô cùng, nhưng Đức Bồ Tát vẫn nhẫn nại chịu đựng, không hề phát sinh tâm sân. Đó là do nhờ năng lực tâm từ đè nén, chế ngự được tâm sân. Hành giả thường thực hành pháp hành thiền định niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh vô lươngj không phân biệt, trở thành thói quen, thì thiện tâm có tâm từ mát mẻ, không nóng nảy bực bội.
(Xong pháp hạnh tâm từ Ba-la-mật bậc trung)
9.3- Pháp Hạnh Tâm Từ Ba-La-Mật Bậc Thượng (Mettāparamatthapāramī)
9.3- Tích Ekarājajātaka (Ê-ká-rà-chá-chà-tá-ká)
Trong tích Ekarājajātaka([1]) này, Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama là Đức Vua Ekarāja thực hành pháp hạnh tâm từ Ba-la-mật bậc thượng (Mettā- paramatthapāramī). Tích này được bắt nguồn như sau:
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại ngôi chùa Jetavana gần kinh thành Sāvatthi. Khi ấy, một vị quan là cận sự nam có giới hạnh trong sạch, đang phục vụ đắc lực trong triều đình của Đức Vua Kosala. Đức Vua Kosala nghĩ: “Vị quan này có công lớn trong triều đình của ta, vậy ta nên tấn phong y lên địa vị xứng đáng và ban thưởng của cải cho y”. Khi vị quan ấy được chức lớn và lợi lộc nhiều, nên có số vị quan khác phát sinh tâm ganh tỵ, tìm cách làm hại vị quan ấy. Họ vu khống tâu lên Đức Vua Kosala rằng: - Muôn tâu Bệ hạ! Chúng thần thấy vị quan ấy có chức trọng quyền cao nên có mưu đồ làm phản Bệ hạ. Ban đầu Đức Vua không tin, nhưng các vị quan ấy cứ tâu đi tâu lại nhiều lần như vậy, làm cho Đức Vua Kosala phát sinh tâm nghi ngờ vị quan đó, nên Đức Vua Kosala truyền lệnh bắt, xiềng đôi chân vị quan ấy, rồi đem giam riêng một mình trong nhà tù. Vị quan ấy vốn là cận sự nam có giới hạnh trong sạch, nên khi ở trong nhà lao một mình, người cận sự nam ấy thực hành pháp hành thiền tuệ, dẫn đến chứng ngộ chân lý tứ Thánh đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo - Nhập Lưu Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu. Về sau, Đức Vua Kosala biết rõ vị quan ấy là người thanh liêm, đáng tin cậy, nên Đức Vua truyền lệnh thả liền ngay vị quan ấy ra và phong lại chức tước lớn. Vị quan ấy đến hầu đảnh lễ, cúng dường đến Đức Thế Tôn rồi ngồi một nơi hợp lẽ. Đức Thế Tôn truyền hỏi rằng: - Này cận sự nam con! Như Lai nghe tin, vừa qua con đã bị ở tù có đúng vậy không? Vị quan bạch rằng: - Kính bạch Đức Thế Tôn, đúng vậy, con vừa mới ra khỏi tù và được phong lại chức lớn. Bạch Ngài. - Kính bạch Đức Thế Tôn, khi con đang ở trong tù, trong hoàn cảnh bất lợi, nhưng con đã tạo được sự lợi ích trong hoàn cảnh bất lợi ấy. Con đã thực hành pháp hành thiền tuệ dẫn đến chứng ngộ chân lý tứ Thánh đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo - Nhập Lưu Thánh Quả và Niết bàn, con đã trở thành bậc Thánh Nhập Lưu. Bạch Ngài.
Đức Thế Tôn truyền bảo rằng: - Này cận sự nam con! Không chỉ có mình con đã tạo được sự lợi ích trong hoàn cảnh bất lợi, mà tiền kiếp của Như Lai cũng đã từng tạo được sự lợi ích trong hoàn cảnh khổ ngặt nghèo.
Tích Ekarājajātaka
Nghe Đức Thế Tôn truyền bảo như vậy, vị quan ấy kính thỉnh Đức Thế Tôn thuyết về tiền kiếp của Ngài. Khi ấy, Đức Thế Tôn thuyết tích Ekarājajātaka được tóm lược như sau:
Trong thời quá khứ, Đức Vua Bồ Tát Ekarāja ngự tại kinh thành Bārāṇasī, trị vì đất nước rộng lớn Kāsiraṭṭha. Khi ấy, trong triều đình của Đức Vua Bồ Tát Ekarāja, có một vị quan đã có những hành vi xấu xa, ông đã làm loạn trong cung điện của Ngài, nên các quan tâu trình chuyện vị quan ấy lên Ngài. Đức Vua Bồ Tát Ekarāja truyền gọi vị quan ấy đến để tra hỏi, ông ta đã nhận tội của mình, nhưng cứ vẫn bị tái phạm mãi, không chịu sửa chữa, nên Đức Vua Bồ Tát ban cho ông nhiều của cải rồi trục xuất ra khỏi nước Kāsiraṭṭha. Vị quan ấy đến đất nước Kosala, vào chầu Đức Vua Dubbhisena ngự tại kinh thành Sāvatthi tâu rằng: - Muôn tâu Bệ hạ, đất nước Kāsiraṭṭha phồn thịnh, kinh thành Bārāṇasī to lớn, ngai vàng điện ngọc của Đức Vua thật nguy nga tráng lệ… Nhưng Đức Vua Ekarāja ngự tại kinh thành Bārāṇasī ấy, là Đức Vua bất tài, các đội quân bất lực, không được tập luyện kỹ. Cho nên, Bệ hạ chỉ cần một đoàn quân nhỏ cũng có thể đánh chiếm kinh thành Bārāṇasī một cách dễ dàng. Ban đầu, Đức Vua Dubbhisena Kosala không tin lời tấu trình của vị quan ác này, nhưng do tâu đi tâu lại nhiều lần, khiến cho Đức Vua mới thử cho một nhóm người sang vùng biên giới của đất nước Kāsiraṭṭha của Đức Vua Ekarāja, cướp giật của cải dân chúng vùng biên giới giữa ban ngày. Họ bị quân đội giữ gìn vùng biên giới bắt đem về kinh thành Bārāṇasī, trình lên Đức Vua Bồ Tát Ekarāja xét xử. Ngài truyền hỏi rằng: - Này các ngươi! Vì sao các ngươi sang vùng biên giới cướp giật của cải của dân chúng trong đất nước của Trẫm như vậy? Nhóm người ấy tâu dối rằng: - Muôn tâu Đại Vương, chúng tiện dân đói khổ, nên đánh liều sang vùng biên giới của Đại Vương cướp giật của cải của dân chúng như vậy. Nghe nhóm người ấy tâu như vậy, Đức Vua Bồ Tát Ekarāja có tâm từ thương yêu mọi người, mọi chúng sinh nên truyền bảo rằng: - Này các ngươi! Nếu như vậy, Trẫm ban cho các ngươi phần của cải riêng của Trẫm, các ngươi hãy đem về làm ăn chân chánh lương thiện, chớ nên đi cướp giật của cải của người khác.
Đức Vua Bồ Tát Ekarāja thả số người ấy trở về nước. Sau khi trở về nước, họ đến chầu Đức Vua Dubbhisena Kosala, tâu trình lên để Đức Vua biết rõ về Đức Vua Ekarāja nước Kāsiraṭṭha đã đối xử tốt với tội nhân cướp giật của cải của người khác như vậy.
Tuy nghe như vậy, nhưng Đức Vua Dubbhisena Kosala chưa dám kéo quân sang đánh chiếm. Đức Vua muốn thử một lần nữa, nên truyền lệnh cho một nhóm người đi sâu vào trong tỉnh thành, đón đường cướp giật của cải của dân chúng đi lại. Họ đều bị quân đội bảo vệ tỉnh thành ấy bắt đem về kinh thành Bārāṇasī, trình lên Đức Vua Bồ Tát Ekarāja xét xử. Ngài truyền hỏi, nhóm người ấy tâu dối rằng: - Muôn tâu Đại Vương, chúng tiện dân đói khổ, nên đi cướp giật của cải của người khác. Nghe lời tâu của nhóm người ấy, Đức Vua Bồ Tát Ekarāja có tâm từ thương yêu mọi người, mọi chúng sinh vô lượng, nên Đức Vua Bồ Tát ban cho nhóm người ấy phần của cải riêng của Đức vua, không phải tài sản của nhà nước. Đức vua truyền bảo họ trở về làm ăn lương thiện, chớ nên đi cướp giật của người khác, tạo nên ác nghiệp, rồi thả nhóm người ấy trở về nước. Sau khi trở về nước, nhóm người ấy vào chầu Đức Vua Dubbhisena Kosala tâu trình lên Đức Vua biết rõ về Đức Vua Ekarāja nước Kāsiraṭṭha đối xử tốt với tội nhân cướp giật của người khác như vậy. Nghe nhóm người ấy tâu như vậy, Đức Vua Dubbhisena Kosala nhận xét biết rõ: “Đức Vua Ekarāja nước Kāsiraṭṭha là Đức Vua có tâm từ thương yêu mọi người, không phân biệt dân chúng trong nước và dân chúng ngoài nước, có tâm bi thương xót hoàn cảnh khổ của mọi người, không giết hại ai cả”. Vì vậy, Đức Vua Dubbhisena Kosala thân chinh dẫn đầu một đoàn quân tiến sang vùng biên giới của đất nước Kāsiraṭṭha, với ý định đánh chiếm ngai vàng điện ngọc của Đức Vua Ekarāja tại kinh thành Bārāṇasī. Trong thời kỳ ấy, triều đình của Đức Vua Bồ Tát Ekarāja có 1.000 tướng sĩ anh dũng, tài ba lỗi lạc, sức mạnh vô địch, có các đoàn binh tinh nhuệ, thiện chiến. Những tướng sĩ anh dũng ấy có khả năng cầm quân đánh chiếm các nước trong toàn cõi Nam Thiện Bộ Châu này, để dâng lên Đức Vua Bồ Tát Ekarāja, nhưng Đức Vua Bồ Tát Ekarāja vốn là Đức Pháp Vương thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh vô lượng, niệm rải tâm bi đến tất cả chúng sinh vô lượng muôn loài, chỉ cầu mong tất cả chúng sinh đều được an lạc hạnh phúc mà thôi, chỉ cầu mong tất cả chúng sinh thoát khỏi mọi cảnh khổ mà thôi. Khi ấy, nghe tin báo có Đức Vua Dubbhisena Kosala cầm đầu kéo quân sang đến vùng biên giới, những chiến sĩ anh dũng vào chầu Đức Vua Bồ Tát Ekarāja, xin Đức vua truyền lệnh cho họ đem quân đến vùng biên giới bắt sống Đức Vua xâm lăng Dubbhisena Kosala, đem về trình lên Đức vua trị tội. Đức vua truyền bảo rằng: - Này các khanh tướng! Trẫm không muốn các khanh tướng phải vất vả. Nếu Đức Vua Dubbhisena Kosala muốn chiếm đoạt ngai vàng điện ngọc của Trẫm thì cứ đến chiếm đoạt. Đức Vua Dubbhisena Kosala dẫn đầu đoàn quân qua vùng biên giới không gặp sự chống cự nào cả, nên dẫn đoàn quân đi sâu vào kinh thành. Các tướng sĩ anh dũng ấy lại vào chầu Đức Vua Bồ Tát Ekarāja, xin Đức Vua truyền lệnh cho họ đem quân đánh bắt sống Đức Vua xâm lăng, nhưng Đức Vua Bồ Tát không chấp thuận. Đức Vua Dubbhisena Kosala dẫn đầu kéo quân đến sát cửa thành, cho vị quan đem tối hậu thư đến trình Đức Vua Bồ Tát Ekarāja với nội dung: “Đức Vua Ekarāja nước Kāsiraṭṭha có chịu trao ngai vàng điện ngọc cho bổn vương hoặc chấp nhận chiến tranh”. Một lần nữa, các tướng sĩ anh dũng ấy vào chầu Đức Vua Bồ Tát Ekarāja, xin Đức Vua truyền lệnh cho họ đem quân ra cửa thành đánh, bắt sống Đức Vua xâm lăng đem trị tội xâm lăng. Cũng như những lần trước, Đức Vua Bồ Tát Ekarāja không cho phép họ đem quân ra cửa thành đánh bắt sống Đức Vua xâm lăng, mà truyền lệnh các quan mở rộng bốn cửa thành. Đức Vua Bồ Tát Ekarāja trả lời tối hậu thư cho Đức Vua xâm lăng Dubbhisena Kosala với nội dung: “Bổn vương không muốn chiến tranh, nếu Đại Vương muốn chiếm đoạt ngai vàng điện ngọc của bổn vương thì hãy vào chiếm đoạt”. Đức Vua Bồ Tát Ekarāja truyền lệnh một vị quan đem thư phúc đáp trình lên Đức Vua Dubbhisena Kosala xong, truyền lệnh tất cả các quan văn võ hội triều. Khi Đức Vua Bồ Tát Ekarāja đang ngự trên ngai vàng, phía dưới các quan, các tướng sĩ đều hội triều tại cung điện. Khi ấy, Đức Vua xâm lăng Dubbhisena Kosala dẫn đầu đoàn quân kéo qua cửa thành đi thẳng đến cung điện nơi Đức Vua Bồ Tát Ekarāja đang ngự cùng với các quan, các tướng sĩ trong triều. Đức Vua xâm lăng truyền lệnh rằng: - Này các khanh! Các khanh hãy bắt Đức Vua Ekarāja, trói 2 tay 2 chân bằng xích sắt, rồi đem ra cửa thành, treo 2 chân của Đức Vua Ekarāja đưa lên cao, lộn đầu xuống dưới đất, lủng lẳng trên hư không trước cửa thành. Trong tư thế bị treo 2 chân lên cao, lộn đầu xuống đất, lủng lẳng trên hư không, trước cửa thành như thế, Đức Vua Bồ Tát Ekarāja thực hành pháp hạnh thiền định với đề mục niệm rải tâm từ đến tất cả mọi chúng sinh vô lượng, dẫn đến chứng đắc 4 bậc thiền sắc giới, rồi tiếp tục thực hành niệm rải tâm xả đến tất cả mọi chúng sinh vô lượng, dẫn đến chứng đắc đệ ngũ thiền sắc giới và chứng đắc các phép thần thông. Do oai lực phép thần thông ấy làm cho các xích sắt trói 2 tay, 2 chân bị đứt rời ra từng đoạn. Đức Vua Bồ Tát Ekarāja ngồi tư thế kiết già trên hư không, hưởng mọi sự an lạc trong thiền. Trong khi ấy, Đức Vua xâm lăng Dubbhisena Kosala phát sinh nóng nảy thân tâm, khổ đau quằn quại, nằm la hét trên long sàng tại cung điện. Đức Vua xâm lăng la hét rằng: - Tại sao ta nóng nảy khổ đau như thế này? Các quan tâu rằng: - Tâu Bệ hạ, bởi vì Bệ hạ bắt Đức Vua Ekarāja là Đức Vua vô tội, là Đức Pháp Vương có giới đức trong sạch, thực hành thiện pháp cao thượng. Bệ hạ đã truyền lệnh treo 2 chân Đức Vua Ekarāja đưa lên cao, lộn đầu xuống dưới đất, treo lủng lẳng trên hư không trước cửa thành. Đó là nguyên nhân làm cho Bệ hạ nóng nảy, khổ đau quằn quại như vậy. Nghe các quan tâu như vậy, Đức Vua xâm lăng Dubbhisena Kosala liền truyền lệnh các quan thả Đức Vua Bồ Tát Ekarāja ngay lập tức. Tuân lệnh Đức Vua xâm lăng, các quan đến chỗ cửa thành, nhìn thấy Đức Vua Bồ Tát Ekarāja ngồi kiết già trên hư không với vẻ an lạc tự tại. Họ trở về tâu trình lên Đức Vua Dubbhisena Kosala sự thật như vậy. Đức Vua Dubbhisena Kosala vội vàng ngự đến nơi đảnh lễ Đức Vua Bồ Tát Ekarāja, cầu xin Ngài tha tội chết. Nhìn thấy Đức Vua Bồ Tát Ekarāja có màu da vàng sáng ngời, có sức khoẻ dồi dào như ngày trước, Đức Vua xâm lăng tâu rằng: - Tâu Đại Vương Ekarāja, ngày trước Đại Vương an hưởng mọi sự an lạc trong cung điện. Nay, Đại Vương bị treo 2 chân lên trên cao, lộn đầu xuống đất, lủng lẳng trên hư không trước cửa thành. Vậy, do nguyên nhân nào mà Đại Vương vẫn không mất đi màu da vàng sáng ngời, không mất sức lực, mà vẫn dồi dào sức khoẻ như ngày trước vậy? Tâu Đại Vương. Nghe Đức Vua Dubbhisena Kosala tâu như vậy, Đức Vua Bồ Tát Ekarāja tâu rằng: - Tâu Đại Vương Dubbhisena Kosala, ngày trước bổn vương đã thực hành pháp hạnh nhẫn nại và có đức hạnh tri túc đã được tích luỹ từ lâu, trở thành thói quen như ý. Thông thường, nếu người nào có khổ tâm, khổ thân thì người ấy có nước da bị tái, sức lực bị giảm, còn bổn vương từ lâu đã thực hành pháp hạnh nhẫn nại và có đức hạnh tri túc. Cho nên, bổn vương không có khổ tâm, thì không có nguyên nhân nào làm cho bổn vương mất màu da vàng sáng ngời và tiêu hao sức lực được. Do đó, bổn vương vẫn có màu da vàng sáng ngời, có sức lực dồi dào như ngày trước. - Tâu Đại Vương Dubbhisena Kosala, bổn vương vốn là người tạo mọi thiện pháp như bố thí, giữ gìn ngũ giới, thọ trì bát giới Uposathasīla trong những ngày giới hằng tháng, thực hành pháp hành thiền định với đề mục niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh vô lượng, đã tích luỹ từ lâu trở thành thói quen như ý. Nay, dù Đại Vương bắt bổn Vương trói 2 tay, 2 chân, rồi treo 2 chân lên trên cao, lộn đầu xuống đất, treo lủng lẳng trên hư không trước cửa thành, thì bổn vương vẫn đè nén, chế ngự được phiền não trong tâm, đã thực hành pháp hành thiền định với đề mục niệm rải tâm từ đến tất cả mọi chúng sinh vô lượng, dẫn đến chứng đắc 4 bậc thiền sắc giới, rồi tiếp tục thực hành thiền định đề mục niệm rải tâm xả đến tất cả mọi chúng sinh vô lượng, định tâm trung dung, đè nén thọ lạc, tâm thanh tịnh vắng lặng chứng đắc đệ ngũ thiền sắc giới và chứng đắc các phép thần thông. Đại Vương bắt bổn Vương cột 2 tay, 2 chân, treo 2 chân lên trên cao, lộn đầu xuống đất, treo lủng lẳng trên hư không trước cửa thành. Tuy bổn vương mất sự an lạc trên ngai vàng, nhưng nay, bổn Vương hưởng sự an lạc vi tế và cao thượng trong thiền định. Đó là nguyên nhân làm cho bổn Vương vẫn có màu da vàng sáng ngời, có sức lực dồi dào như trước. Nghe Đức Vua Bồ Tát Ekarāja thuyết giảng giải thích như vậy, Đức Vua Dubbhisena Kosala phát sinh thiện tâm vô cùng hoan hỷ theo lời dạy của Ngài. Đức Vua Dubbhisena Kosala tâu rằng: - Tâu Đại Vương Ekarāja, bổn Vương kính dâng ngai vàng điện ngọc lại cho Đại Vương, ngự tại kinh thành Bārāṇasī, trị vì đất nước Kāsiraṭṭha rộng lớn này. Còn phần bổn vương có bổn phận bảo vệ Đại Vương và ngăn chặn mọi kẻ thù xâm lăng vào trong lãnh thổ của Đại Vương. Sau đó, Đức Vua Dubbhisena Kosala trị tội vị quan xúi giục đem quân sang xâm chiếm ngai vàng điện ngọc của Đức Vua Bồ Tát Ekarāja. Đức Vua Dubbhisena Kosala đảnh lễ Đức Vua Bồ Tát Ekarāja, rồi xin phép cáo biệt, kéo quân ngự trở về nước Kosala. Đức Vua Bồ Tát Ekarāja lên ngôi vua trở lại. Một hôm, Đức Vua Bồ Tát Ekarāja truyền lệnh gọi các quan văn võ, các tướng sĩ đầy đủ hội triều, truyền bảo rằng: - Này các khanh! Bắt đầu từ hôm nay, Trẫm xin trao ngôi vua lại cho các khanh. Các khanh hãy chọn người lên ngôi làm vua trị vì đất nước Kāsiraṭṭha này. Trẫm sẽ đi vào rừng núi Himavanta xuất gia trở thành đạo sĩ. Đức Vua Bồ Tát Ekarāja từ bỏ ngôi báu đi vào rừng núi Himavanta xuất gia trở thành đạo sĩ, sống trong rừng núi ấy, giữ gìn các bậc thiền sắc giới và phép thần thông. Sau khi Đức Bồ Tát Đạo sĩ viên tịch, sắc giới thiện nghiệp cho quả tái sinh lên cõi trời sắc giới Phạm thiên. Sau khi thuyết về tích Ekarājajātaka xong, Đức Phật thuyết bài kệ rằng:
“Na maṃ koci uttasati, nāpi’haṃ bhāyāmi kassaci. Mettābalenupatthaddho, ramāmi pavane tadā”([1]) Ý nghĩa:
Dù Đức Vua Dubbhisena Kosala truyền lệnh treo hai chân của tiền kiếp Như Lai, lộn đầu xuống đất, treo lủng lẳng trên hư không trước cửa thành, cũng không làm cho tiền kiếp Như Lai run sợ. Tiền kiếp Như Lai không hề biết sợ bất luận là ai. Dù trong hoàn cảnh bất lợi, ngặt nghèo ấy, tiền kiếp Như Lai vẫn cảm thấy an lạc do nhờ năng lực tâm từ hỗ trợ thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh vô lượng, Đó là pháp hạnh tâm từ Ba-la-mật bậc thượng của Như Lai.
Tích Ekarājajātaka Liên Quan Đến Kiếp Hiện Tại
Tích Ekarājajātaka này, Đức Vua Bồ Tát Ekarāja, tiền kiếp của Đức Phật Gotama thực hành pháp hạnh tâm từ Ba-la-mật trong thời quá khứ. Đến khi Đức Phật Gotama đã xuất hiện trên thế gian, thì hậu kiếp của những nhân vật trong tích Ekarājajātaka ấy liên quan đến kiếp hiện tại như sau: - Đức Vua Dubbhisena Kosala, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại đức Ānanda. - Đức Vua Bồ Tát Ekarāja, nay kiếp hiện tại là Đức Phật Gotama.
10 Pháp Hạnh Ba-La-Mật
Tóm lược tích Đức Vua Bồ Tát Ekarāja, tiền kiếp của Đức Phật Gotama đã thực hành pháp hạnh tâm từ Ba-la-mật bậc thượng, ngoài ra, còn có 9 pháp hạnh Ba-la-mật phụ khác cũng đồng thời thành tựu như sau: - Đức Vua Bồ Tát Ekarāja trao lại ngôi báu cho các quan, đó là pháp hạnh bố thí Ba-la-mật. - Đức Vua Bồ Tát Ekarāja giữ gìn giới, đó là pháp hạnh giữ giới Ba-la-mật. - Đức Vua Bồ Tát Ekarāja từ bỏ ngai vàng đi vào rừng Himavanta xuất gia trở thành đạo sĩ, đó là pháp hạnh xuất gia Ba-la-mật. - Đức Vua Bồ Tát Ekarāja có trí tuệ sáng suốt, đó là pháp hạnh trí tuệ Ba-la-mật. - Đức Vua Bồ Tát Ekarāja có sự tinh tấn không ngừng, đó là pháp hạnh tinh tấn Ba-la-mật. - Đức Vua Bồ Tát Ekarāja có đức tính nhẫn nại, đó là pháp hạnh nhẫn nại Ba-la-mật. - Đức Vua Bồ Tát Ekarāja nói lời chân thật, đó là pháp hạnh chân thật Ba-la-mật. - Đức Vua Bồ Tát Ekarāja phát nguyện vững chắc, đó là pháp hạnh phát nguyện Ba-la-mật. - Đức Vua Bồ Tát Ekarāja có tâm định trung dung không thiên vị, đó là pháp hạnh tâm xả Ba-la-mật.
Đó là 9 pháp hạnh Ba-la-mật đồng thời thành tựu cùng với pháp hạnh tâm từ Ba-la-mật bậc thượng của Đức Vua Bồ Tát Ekarāja trong tích Ekarājajātaka này.
Nhận Xét Về Tích Đức Vua Bồ Tát Ekarāja
Đức Vua Bồ Tát Ekarāja, tiền kiếp của Đức Phật Gotama, thực hành pháp hạnh tâm từ Ba-la-mật bậc thượng (Mettāparamatthapāramī). Pháp hạnh tâm từ Ba-la-mật bậc thượng là 1 trong 10 pháp hạnh Ba-la-mật bậc thượng cũng là 1 trong 30 pháp hạnh Ba-la-mật mà Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác cần phải thực hành cho được đầy đủ, để hỗ trợ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác (Sammāsambuddha). Tâm từ Ba-la-mật đó là tâm sở vô sân đồng sinh với thiện tâm, có đối tượng là chúng sinh đáng yêu đáng kính (piyamanāpasattapaññatti). Đức Bồ Tát thực hành pháp hạnh tâm từ Ba-la-mật không nóng giận, mát mẻ, an lạc, luôn luôn cầu mong sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài đến tất cả chúng sinh muôn loài, mà không phân biệt người thân hay kẻ thù. Người không có tâm từ, dễ phát sinh tâm sân là người có trạng thái hay nóng giận, không hài lòng trong đối tượng, bất bình, bực tức, khóc than, sợ sệt, kinh hãi,… muốn phá hoại đối tượng ấy. Đức Vua Bồ Tát Ekarāja là Đức Vua vốn có tâm từ đối với tất cả chúng sinh vô lượng muôn loài, luôn luôn cầu mong sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài đến tất cả chúng sinh muôn loài, mà không phân biệt người thân hay kẻ thù.
Sở dĩ Đức Vua Bồ Tát Ekarāja có tâm từ là vì Đức Vua Bồ Tát thường thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh vô lượng. Hơn nữa, Đức Vua Bồ Tát Ekarāja còn có pháp hạnh nhẫn nại Ba-la-mật và đức hạnh tri túc hài lòng hoan hỷ với những gì đang có. Cho nên, Đức Vua Bồ Tát Ekarāja đè nén, chế ngự được tâm tham, tâm sân, tâm si v.v… Đó là phiền não làm cho tâm ô nhiễm. Khi Đức Vua Dubbhisena Kosala truyền lệnh bắt Đức Vua Bồ Tát Ekarāja cột 2 tay, 2 chân, treo 2 chân lên cao, lộn đầu xuống đất, lủng lẳng trên hư không trước cửa thành. Trong hoàn cảnh bất lợi, ngặt nghèo như vậy, do nhờ Đức Vua Bồ Tát Ekarāja đã thực hành pháp hạnh tâm từ Ba-la-mật thành thói quen, nên đè nén, chế ngự được tâm sân không phát sinh, chỉ có đại thiện tâm phát sinh mà thôi. Đức Vua Bồ Tát Ekarāja thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh vô lượng muôn loài, dẫn đến chứng đắc các bậc thiền sắc giới và các phép thần thông. Đó là pháp hạnh tâm từ Ba-la-mật bậc thượng của Đức Vua Bồ Tát Ekarāja, tiền kiếp của Đức Phật Gotama.
(Xong pháp hạnh tâm từ Ba-la-mật bậc thượng) |