|
ANATTALAKKHAṆA SUTTA Uyyojana Gāthā
Dhammacakkaṃ pavattetvā, āsaḷhiyam hi puṇṇāme Nagare Bārāṇasiyaṃ, Isipatanavhaye vane Pāpetvādiphalaṃ nesaṃ, anukkamena desayi Yaṃ taṃ pakkhassa pañcamyaṃ, vimuttatthaṃ bhanāma he.
Dịch nghĩa: KINH VÔ NGÃ TƯỚNG KỆ KHAI KINH Sau khi chuyển Pháp luân vào ngày rằm tháng 6 tại khu rừng Isipatana gần kinh thành Bārāṇasī, khi nhóm 5 vị tỳ khưu đã tuần tự chứng đắc quả Nhập lưu, Đức Thế Tôn thuyết bài kinh này, nhằm ngày thứ 5 của tuần trăng xuống, vì mục đích giải thoát giác ngộ. Này quý vị thiện tri thức, nay chúng tôi tụng bài kinh ấy.
Ngữ vựng: Dhammacakka: Pháp luân Pāvattetvā (pāvattati): chuyển Āsaḷhi: tháng 6 Puṇṇame: ngày rằm Nagara: kinh thành Avhaya: tên Vana: rừng Pāpetvā (pāpeti): làm cho chứng ngộ Ādiphala: quả đầu tiên (Nhập lưu) Nesa: nhóm Anukkamena: theo tuần tự Desayi (deseti): đã thuyết Pakkha: tuần trăng xuống (từ ngày 16 đến ngày 30, theo lịch Ấn Độ) Pañcamyaṃ: ngày thứ năm Vimutta: giải thoát (A-la-hán quả) Attha: lợi ích Bhanāma (bhanati): chúng tôi đọc He: thưa quý vị ***
Evaṃ me suttaṃ Ekaṃ samayaṃ Bhagavā Bārāṇasiyaṃ viharati Isipatane Migadāye. Tatra kho Bhagavā pañcavaggiye bhikkhū āmantesi “Bhikkhavo” ti. “Bhadante” ti te bhikkhū Bhagavato paccassosuṃ. Bhagavā etad’avoca— 1. Rūpaṃ, bhikkave, anattā. Rūpañca hidaṃ, bhikkhave, attā abhavissa, nayidaṃ rūpaṃ ābādhāya saṃvatteyya. Labbhetha ca rūpe “Evaṃ me rūpaṃ hotu, evaṃ me rūpaṃ mā ahosī” ti. Yasmā ca kho bhikkhave rūpaṃ anattā, tasmā rūpaṃ ābādhāya saṃvattati. Na ca labbhati rūpe “Evaṃ me rūpaṃ hotu, evaṃ me rūpaṃ mā ahosī” ti. Dịch nghĩa: Con (là Ānanda) đã nghe như thế này: Một thuở nọ Đức Thế Tôn ngự tại khu vườn nai Isipatana gần thành Bārāṇasī. Khi ấy Đức Thế Tôn gọi nhóm 5 tỳ khưu rằng: “Này chư tỳ khưu!” Các vị tỳ khưu đáp: “Dạ kính bạch Đức Thế Tôn.” Đức Thế Tôn thuyết rằng: "Này chư tỳ khưu,sắc uẩn này là vô ngã. Thật vậy, nếu sắc uẩn này là ta thì sắc uẩn này không có bệnh hoạn. Và các con có thể mong muốn ở trong sắc uẩn rằng “sắc của tôi phải như thế này, sắc của tôi đừng như thế kia.” Này chư tỳ khưu, bởi vì sắc uẩn là vô ngã, cho nên sắc uẩn phải chịu biến đổi, bệnh hoạn. Và các con cũng không thể đạt được trong sắc uẩn rằng: “sắc của tôi phải như thế này, sắc của tôi đừng như thế kia.”
Ngữ vựng: Tatra: lúc ấy Āmantesi (āmanteti): gọi Bhikkhavo: này các tỳ khưu Bhadante: kính bạch ngài Paccassosuṃ (paṭisuṇāti): trả lời Avoca: thuyết, nói Etadavoca = etaṃ+avoca Rūpa: sắc uẩn Anattā: vô ngã Hidaṃ = hi + idaṃ: thật sự Attā: ngã Abhavissa (bhavati): phải là Ābādha: bệnh hoạn, tiêu hoại Saṃvatteyya (saṃvattati): là có, hiện hữu, dẫn đến Labbhetha (labhati): được Rūpe: trong sắc uẩn Mā: đừng Yasmā: bởi vì Tasmā: cho nên *** 2. Vedanā anattā. Vedanā ca hidaṃ bhikkhave attā abhavissa, nayidaṃ vedanā ābādhāya saṃvatteyya. Labbhetha ca vedanāya “Evaṃ me vedanā hotu, evaṃ me vedanā mā ahosī” ti. Yasmā ca kho bhikkhave vedanā anattā, tasmā vedanā ābādhāya saṃvattati. Na ca labbhati vedanāya “Evaṃ me vedanā hotu, evaṃ me vedanā mā ahosī” ti.
Dịch nghĩa: “Này chư tỳ khưu, thọ uẩn này là vô ngã. Thật vậy, này chư tỳ khưu, nếu thọ uẩn này là ta thì thọ uẩn này sẽ không chịu đau đớn, biến hoại. Và các con có thể mong muốn ở trong thọ uẩn rằng “cảm thọ của tôi sẽ như thế này, cảm thọ của tôi đừng như thế kia.” Này chư tỳ khưu, bởi thọ uẩn là vô ngã, cho nên thọ uẩn phải chịu đau đớn, biến hoại. Và các con cũng không đạt được trong thọ uẩn rằng: “cảm thọ của tôi phải như thế này, cảm thọ của tôi đừng như thế kia”. Ngữ vựng: Vedanā: thọ uẩn Vedanāya: trong thọ uẩn ***
3. Saññā anattā. Saññā ca hidaṃ bhikkhave attā abhavissa, nayidaṃ saññā ābādhāya saṃvatteyya. Labbhetha ca saññāya “Evaṃ me saññā hotu, evaṃ me saññā mā ahosī” ti. Yasmā ca kho bhikkhave saññā anattā, tasmā saññā ābādhāya saṃvattati. Na ca labbhati saññāya “Evaṃ me saññā hotu, evaṃ me saññā mā ahosī” ti. Dịch nghĩa: Này chư tỳ khưu, tưởng uẩn này là vô ngã. Thật vậy, này chư tỳ khưu, nếu tưởng uẩn này là ta thì tưởng uẩn này sẽ không chịu biến đổi. Và các con có thể mong muốn ở trong tưởng uẩn rằng: “tưởng uẩn của tôi phải như thế này, tưởng uẩn của tôi đừng như thế kia”. Này chư tỳ khưu, bởi vì tưởng uẩn là vô ngã, cho nên tưởng uẩn phải chịu biến đổi. Và các con cũng không thể đạt được trong tưởng uẩn rằng: “tưởng uẩn của tôi phải như thế này, tưởng uẩn của tôi đừng như thế kia”. Ngữ vựng: Saññā: tưởng uẩn Saññāya: trong tưởng uẩn *** 4. Saṅkhārā anattā. Saṅkhārā ca hidaṃ bhikkhave attā abhavissaṃsu, nayidaṃ saṅkhārā ābādhāya saṃvatteyyum. Labbhetha ca saṅkhāresu “Evaṃ me saṅkhārā hontu, evaṃ me saṅkhārā mā ahesun” ti. Yasmā ca kho bhikkhave saṅkhārā anattā, tasmā saṅkhārā ābādhāya saṃvattanti. Na ca labbhati saṅkhāresu “Evaṃ me saṅkhārā hontu, evaṃ me saṅkhārā mā ahesun” ti. Dịch nghĩa: “Hành uẩn này là vô ngã. Thật vậy, này chư tỳ khưu, nếu hành uẩn này là ta thì hành uẩn này sẽ không chịu sanh diệt, biến hoại. Và các con có thể mong muốn trong hành uẩn rằng: “Hành uẩn của tôi phải như thế này, hành uẩn của tôi đừng như thế kia”. Này chư tỳ khưu, bởi vì hành uẩn là vô ngã, cho nên hành uẩn phải chịu sanh diệt, biến hoại. Và các con cũng không thể đạt được trong hành uẩn rằng: “Hành uẩn của tôi phải như thế này, hành uẩn của tôi đừng như thế kia”. Ngữ vựng: Saṅkhārā: hành uẩn Saṅkhāresu: trong hành uẩn
*** 5. Viññāṇaṃ anattā Viññāṇañca hidaṃ bhikkhave attā abhavissa, nayidaṃ viññāṇaṃ ābādhāya saṃvatteyya. Labbhetha ca viññāṇe “Evaṃ me viññāṇaṃ hotu, evaṃ me viññāṇaṃ mā ahosī” ti. Yasmā ca kho bhikkhave viññāṇaṃ anattā, tasmā viññāṇaṃ ābādhāya saṃvattati. Na ca labbhati viññāṇe “Evaṃ me viññāṇaṃ hotu, evaṃ me viññāṇaṃ mā ahosī” ti. Dịch nghĩa: "Thức uẩn này là vô ngã. Thật vậy, này chư tỳ khưu, nếu thức uẩn này là ta thì thức uẩn này sẽ không thay đổi, biến dịch. Và các con có thể mong muốn ở trong thức uẩn rằng: “thức uẩn của tôi phải như thế này, thức uẩn của tôi đừng như thế kia”. Này chư tỳ khưu, bởi vì thức uẩn là vô ngã, cho nên thức uẩn phải chịu thay đổi, biến dịch. Và các con cũng không thể đạt được trong thức uẩn rằng: “thức uẩn của tôi phải như thế này, thức của tôi đừng như thế kia”. Ngữ vựng: Viññāṇa: thức uẩn Viññāṇe: trong thức uẩn ***
6. Taṃ kiṃ maññatha, bhikkhave: - Rūpaṃ niccaṃ vā aniccaṃ vā’ti? - “Aniccaṃ, Bhante”. - Yaṃ pan’āniccaṃ, dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vā’ti. - “Dukkhaṃ, Bhante”. - Yaṃ pan’āniccaṃ dukkhaṃ viparināma-dhammaṃ, kallaṃ nu taṃ samanupassituṃ “Etaṃ mama, eso’ham’asmi, eso me attā” ti? - No he’taṃ, Bhante. Dịch nghĩa: Này các tỳ khưu, các con hiểu như thế nào về lời nói của Như Lai? Sắc uẩn là thường hay vô thường? Bạch Đức Thế Tôn, vô thường. Sắc uẩn nào là vô thường, sắc uẩn ấy là khổ hay là lạc? Bạch Đức Thế Tôn, khổ. Cái gì có trạng thái vô thường, khổ và biến hoại, có nên chấp cái đó rằng: “Sắc uẩn này là của ta, sắc uẩn ấy là ta, sắc uẩn ấy là tự ngã của ta?” Bạch Đức Thế Tôn, quả thật không nên. Ngữ vựng: Taṃ: điều đó (lời nói của Như Lai) Kiṃ: thế nào Maññati: nghĩ, hiểu Nicca: thường, không sanh không diệt Anicca: vô thường, có sanh có diệt Vipariṇāma: biến đổi Kalla: nên Nu: hay không Samanupassati: chấp thủ Mama: của ta Asmi: là Attā: tự ngã No: không He’taṃ: = hi + etaṃ *** 7. Vedanā niccā vā aniccā vā’ti? - Aniccā Bhante. - Yaṃ pan’āniccaṃ, dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vā’ti? - Dukkhaṃ Bhante. - Yaṃ pan’āniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāma-dhammaṃ, kallaṃ nu taṃ samanupassituṃ “Etaṃ mama, eso’ham’asmi, eso me attā” ti? - No he’taṃ Bhante. Dịch nghĩa: - Thọ uẩn là thường hay vô thường? - Bạch Đức Thế Tôn, vô thường. - Thọ uẩn nào là vô thường, thọ uẩn ấy là khổ hay là lạc? - Bạch Đức Thế Tôn, khổ. - Cái gì có trạng thái vô thường, khổ và biến hoại, có nên chấp cái đó rằng: “Thọ uẩn này là của ta, thọ uẩn ấy là ta, thọ uẩn ấy là tự ngã của ta?” - Bạch Đức Thế Tôn, quả thật không nên. *** 8. - Saññā niccā vā aniccā vā’ti? - Aniccā, Bhante. - Yaṃ pan’āniccaṃ, dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vā’ti? - Dukkhaṃ, Bhante. - Yaṃ pan’āniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāma-dhammaṃ, kallaṃ nu taṃ samanupassituṃ “Etaṃ mama, eso’ham’asmi, eso me attā” ti? - No he’taṃ Bhante. Dịch nghĩa: - Tưởng uẩn là thường hay vô thường? - Bạch Đức Thế Tôn, vô thường. - Tưởng uẩn nào là vô thường, tưởng uẩn ấy là khổ hay là lạc? - Bạch Đức Thế Tôn, khổ. - Cái gì có trạng thái vô thường, khổ và biến hoại, có nīn chấp cái đó rằng: “Tưởng uẩn ấy là của ta, tưởng uẩn ấy là ta, tưởng uẩn ấy là tự ngã của ta?” - Bạch Đức Thế Tôn, quả thật không nên.
9. - Saṅkhārā niccā vā aniccā vā’ti? - Aniccā Bhante. - Yaṃ pan’āniccaṃ, dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vā’ti? - Dukkhaṃ, Bhante. - Yaṃ pan’āniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāma-dhammaṃ, kallaṃ nu taṃ samanupassituṃ “Etaṃ mama, eso’ham’asmi, eso me attā” ti? - No he’taṃ Bhante.
Dịch nghĩa: - Hành uẩn là thường hay vô thường? - Bạch Đức Thế Tôn, vô thường. - Hành uẩn nào là vô thường, hành uẩn ấy là khổ hay là lạc? - Bạch Đức Thế Tôn, khổ. - Cái gì có trạng thái vô thường, khổ và biến hoại, có nên chấp cái đó rằng: “Hành uẩûn ấy là của ta, hành uẩn ấy là ta, hành uẩn ấy la tự ngã của ta?” - Bạch Đức Thế Tôn, quả thật không nên. *** 10. - Viññāṇaṃ niccaṃ vā aniccaṃ vā’ti? - Aniccaṃ, Bhante. - Yaṃ pan’āniccaṃ, dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vā’ti? - Dukkhaṃ Bhante. - Yaṃ pan’āniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāma-dhammaṃ, kallaṃ nu taṃ samanupassituṃ “Etaṃ mama, eso’ham’asmi, eso me attā” ti? - No he’taṃ Bhante.
Dịch nghĩa: Thức uẩn là thường hay vô thường? Bạch Đức Thế Tôn, vô thường. Thức uẩn nào là vô thường, thức uẩn ấy là khổ hay là lạc? Bạch Đức Thế Tôn, khổ. Cái gì có trạng thái vô thường, khổ và biến hoại, có nên chấp cái đó rằng: “Thức uẩn ấy là của ta, thức uẩn ấy là ta, thức uẩn ấy là tự ngã của ta?” Bạch Đức Thế Tôn, quả thật không nên. *** 11. Tasmā tiha, bhikkhave, yaṃ kiñci rūpaṃ atītā’nāgata-paccuppannaṃ ajjhattaṃ vā bahiddhā vā oḷārikaṃ vā sukhumaṃ vā hīnaṃ vā paṇītaṃ vā yaṃ dūre santike vā, sabbaṃ rūpaṃ “N’etaṃ mama, n’eso’ham’asmi, na m’eso attā” ti evametaṃ yathābhūtaṃ samma-ppaññāya daṭṭhabbaṃ.
Ngữ vựng: Tasmā: vì vậy Tiha: trong đời này (từ đệm) Atīta: trong quá khứ Anāgata: trong vị lai Paccuppanna: trong hiện tại Ajjhatta: bên trong thân Bahiddha: bên ngoài thân Oḷārika: thô Sukhuma: vi tế Hīna: thấp kém Paṇīta: cao quý Dūre: xa Santike: gần N’etaṃ mama = Na etaṃ mama: cái ấy không phải là của ta N’eso’ham’asmi = Na eso ahaṃ asmi: cái ấy không phải là ta Na m’eso attā = Na me eso attā: cái ấy không phải là tự ngã của ta Evaṃ: như vậy Etaṃ : tất cả những điều trên Yathābhūta: đúng như thực tánh của tất cả các pháp Sammappaññāya: bằng trí tuệ thiền tuệ Daṭṭhabba: hãy quán xét, nên được thấy rõ
Dịch nghĩa: Vì vậy, này các tỳ khưu, nên thấy rõ bằng trí tuệ thiền tuệ đúng theo thực tánh tất cả các pháp rằng: “Những sắc nào trong quá khứ, trong vị lai, hay trong hiện tại, bên trong hay bên ngoài, thô hay tế, thấp kém hay cao quý, xa hay gần, tất cả những sắc ấy không phải của ta, không phải là ta, không phải là tự ngã của ta.” *** 12. Yā kāci vedanā atītā’nāgata-paccuppannā ajjhattaṃ vā bahiddhā vā oḷārikaṃ vā sukhumā vā hīnā vā paṇītā vā yā dūre santike vā, sabbā vedanā “N’etaṃ mama, n’eso’ham’asmi, na m’eso attā”ti evam'etaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya daṭṭhabbaṃ.
Dịch nghĩa: Vì vậy, này các tỳ khưu, nên thấy rõ bằng trí tuệ thiền tuệ đúng theo thực tánh tất cả các pháp rằng: “Những cảm thọ nào trong quá khứ, trong vị lai, hay trong hiện tại, bên trong hay bên ngoài, thô hay tế, thấp kém hay cao quý, xa hay gần, tất cả những cảm thọ ấy không phải của ta, không phải là ta, không phải là tự ngã của ta.” ***
13. Yā kāci saññā atītā’nāgata-paccuppannā ajjhattaṃ vā bahiddhā vā oḷārikaṃ vā sukhumā vā hīnā vā paṇītā vā yā dūre santike vā, sabbā saññā “N’etaṃ mama, n’eso’ham’asmi, na m’eso attā”ti evam'etaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya daṭṭhabbaṃ.
Dịch nghĩa: Vì vậy, này các tỳ khưu, nên thấy rõ bằng trí tuệ thiền tuệ đúng theo thực tánh tất cả các pháp rằng: “Những tưởng nào trong quá khứ, trong vị lai, hay trong hiện tại, bên trong hay bên ngoài, thô hay tế, thấp kém hay cao quý, xa hay gần, tất cả những tưởng ấy không phải của ta, không phải là ta, không phải là tự ngã của ta.” ***
14. Ye keci saṅkhārā atītā’ nāgata-paccuppannā ajjhattaṃ vā bahiddhā vā oḷārikaṃ vā sukhumā vā hīnā vā paṇītā vā yā dūre santike vā, sabbe saṅkhārā “N’etaṃ mama, n’eso’ham’asmi, na m’eso attā”ti evam'etaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya daṭṭhabbaṃ.
Dịch nghĩa: Vì vậy, này các tỳ khưu, nên thấy rõ bằng trí tuệ thiền tuệ đúng theo thực tánh tất cả các pháp rằng: “Những hành nào trong quá khứ, trong vị lai, hay trong hiện tại, bên trong hay bên ngoài, thô hay tế, thấp kém hay cao quý, xa hay gần, tất cả những hành ấy không phải của ta, không phải là ta, không phải là tự ngã của ta.” ***
15. Yaṃ kiñci viññāṇaṃ atītā’ nāgata-paccuppannaṃ ajjhattaṃ vā bahiddhā vā oḷārikaṃ vā sukhumaṃ vā hīnaṃ vā paṇītaṃ vā yaṃ dūre santike vā, sabbaṃ viññāṇaṃ “N’etaṃ mama, n’eso’ ham’asmi, na m’eso attā”ti evam'etaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya daṭṭhabbaṃ.
Dịch nghĩa: Vì vậy, này các tỳ khưu, nên thấy rõ bằng trí tuệ thiền tuệ đúng theo thực tánh tất cả các pháp rằng: “Những thức nào trong quá khứ, trong vị lai, hay trong hiện tại, bên trong hay bên ngoài, thô hay tế, thấp kém hay cao quý, xa hay gần, tất cả những thức ấy không phải của ta, không phải là ta, không phải là tự ngã của ta.” ***
16. Evaṃ passaṃ bhikkhave sutavā Ariyasāvako rūpasmimpi nibbindati, vedanāyapi nibbindati, saññāyapi nibbindati, saṅkhāresupi nibbindati, viññāṇasmimpi nibbindati. Nibbindaṃ virajjati. Virāgā vimuccati. Vimuttasmiṃ vimuttam'iti ñāṇaṃ hoti. Khīṇā jāti. Vusitaṃ brahmacariyaṃ. Kataṃ karaṇīyaṃ. Nāparaṃ itthattāyā’ti pajānāti. Dịch nghĩa: Này các tỳ khưu, bằng trí tuệ thấy rõ ngũ uẩn này không phải của ta, không phải là ta, không phải là tự ngã của ta, bậc Thánh Thanh văn nhàm chán trong sắc uẩn, nhàm chán trong thọ uẩn, nhàm chán trong tưởng uẩn, nhàm chán trong hành uẩn, nhàm chán trong thức uẩn. Khi nhàm chán như vậy, thì tâm không còn tham ái. Do không tham ái nên giải thoát. Trí tuệ thấy rõ giải thoát đây chính là giải thoát thật sự. Không còn sự tái sanh. Phạm hạnh đã hoàn thành. Phận sự cần làm đã làm xong. Vị ấy biết rõ từ kiếp này không còn kiếp sau nữa. Ngữ vựng: Passa: thấy rõ Sutavā: sau khi nghe Ariyasāvaka: bậc Thánh thanh văn Nibbindati: nhàm chán, không còn dính mắc Nibbinda: sự nhàm chán Virajjati: thoát ly, không còn tham muốn Virāga: diệt tận tham ái Vimuccati: giải thoát, không còn phiền não Jāti: tái sinh Khīṇa: diệt tận Vusita: đã hoàn thành Karaṇīya: phận sự cần làm Kata: đã làm xong Pajānāti: biết rõ Nāpara: không còn kiếp sau Itthattāya: từ kiếp này ***
17. Idamavoca Bhagavā attamanā pañcavaggiyā bhikkhū Bhagavato bhāsitaṃ abhinanduṃ. Imasmiñca pana veyyākaraṇasmiṃ bhaññamāne pañcavaggiyānaṃ bhikkhūnaṃ anupādāya āsavehi cittāni vimucciṃsu’ti. Anattalakkhaṇasuttaṃ niṭṭhitaṃ. Dịch nghĩa: Đức Thế Tôn thuyết giảng bài kinh này xong, nhóm 5 tỳ khưu vô cùng hoan hỷ với lời dạy của Đức Thế Tôn. Ngay trong khi thuyết giảng bài kinh này, tâm giải thoát khỏi những phiền não trầm luân không còn chấp thủ nơi ngũ uẩn đã phát sanh đến với nhóm 5 vị tỳ khưu. Chấm dứt bài kinh vô ngã tướng. Ngữ vựng: Attamana: hoan hỷ Bhāsita: lời dạy Abhinandati: hoan hỷ Veyyākaraṇa: sự giảng giải Āsavehi citta: tâm giải thoát Anupādāya: không còn chấp nơi ngũ uẩn Bhaññamāne: khi đang thuyết giảng Vimacciṃsu: đã giải thoát |