|
KHANDHAPARITTA-GĀTHĀ
1. Sabbāsīvisajātīnaṃ, Dibbamantāgadhaṃ viya, Yaṃ nāseti visaṃ ghoraṃ, Sesañcāpi parissayaṃ.
2. Āṇākkhettamhi sabbattha, Sabbadā sabbapāṇinaṃ, Sabbasopi nivāreti, Parittaṃ taṃ bhaṇāma he.
3. Virūpakkhehi me mettaṃ, Mettaṃ erāpathehi me; Chabyāputtehi me mettaṃ, Mettaṃ kaṇhāgotamakehi ca.
4. Apādakehi me mettaṃ, Mettaṃ dvipādakehi me; Catuppadehi me mettaṃ, Mettaṃ bahuppadehi me.
5. Mā maṃ apādako hiṃsi, Mā maṃ hiṃsi dvipādako; Mā maṃ catuppado hiṃsi, Mā maṃ hiṃsi bahuppado.
6. Sabbe sattā sabbe pāṇā, Sabbe bhūtā ca kevalā; Sabbe bhadrāni passantu, Mā kañci pāpamā gamā.
7. Appamāṇo Buddho, Appamāṇo Dhammo; Appamāṇo Saṅgho, Pamāṇavantāni sarīsapāni. Ahi vicchikā satapadī, Uṇṇanābhī sarabū mūsikī.
8. Katā me rakkhā kataṃ me parittaṃ, Paṭikkamantu bhūtāni, Sohaṃ namo Bhagavato, Namosattannaṃ Sammāsambuddhānaṃ.
Khaṇḍhasuttaṃ niṭṭhitaṃ
KỆ HỘ TRÌ UẨN
1- Thưa chư bậc Thiện trí, 3- Rải tâm từ của tôi,
4- Rải tâm từ của tôi, 6- Tôi xin rải tâm từ, 7- Tôi thường luôn niệm tưởng: (Xong bài kinh Khandhasutta)
BÀI KINH TÁN DƯƠNG NGÀI SĪVALI ĐỆ NHẤT THÁNH PHƯỚC
Sīvali ca mahānānaṃ Sabbalābhaṃ bhavissati Therassa anubhāvena, Sabbe hontu piyaṃ mama.
Sīvali ca mahālābhaṃ Sabbalābhaṃ bhavissati Therassa anubhāvena, Sadā hontu piyaṃ mama.
Sīvali ca mahāthero Mama sise thapetvāna, Mantitena jayomantaṃ Ahaṃ vandāmi sabbadā.
Nhân lành người đã gieo trồng Quả phước sẽ trổ thong dong bội phần Còn người thiện ác chẳng phân Gieo nhân bất thiện khổ thân dường nào Noi gương bậc Thánh thanh cao Ngài Sīvali dồi dào phước duyên Con xin gieo giống phước điền Cầu cho nhân loại hiện tiền hiển vinh Cầu cho tất cả chúng sinh Chư Thiên nhân loại hữu tình cao sang Do nhờ ân đức Ngài ban Chúng con được hưởng thanh nhàn dài lâu Ngài Sīvali nhiệm mầu Con xin kính lễ đê đầu cúc cung.
ANANTARIYAKAGĀTHĀ KỆ AN LÀNH
Sirasmiṃ me Buddhaseṭṭho, Sāriputto ca dakkhiṇe. Vāma-amse Moggallāno, Puratto piṭakattayaṃ. Pacchime mama Ānando, Khiṇāsavā catuddisā. Samantā lokapālā ca, Indadevā sabrahmakā. Etesaṃ anubhāvena, Sabbe bhayā upaddavā. Aneka antarāyā’pi, Vinassantu asesato.
Đức Phật ngự trên đầu con, Vai phải Ngài Xá-Lợi-Phất, Vai trái Ngài Mục Kiền Liên. Trước Tam Tạng Pháp Bảo Sau có Đức Ānanda, Bốn phương Alahán. Đế Thích và PhạmThiên, Cùng Thiên Vương Tứ Đại, Hộ trì bốn châu độ. Do oai lực các Ngài, Tất cả điều lo âu, Rủi ro cùng tai hại, Xin thảy đều tiêu tan.
NĂM ĐIỀU QUÁN TƯỞNG
Thế Tôn lời dạy tỏ tường
10 ĐIỀU QUÁN TƯỞNG CỦA BẬC XUẤT GIA
Xuất gia nghi mạo khác đời Sống nương đàn việt thảnh thơi cửa thiền Tư cách, bổn phận cần chuyên Oai nghi tế hạnh không phiền đến ai Nếu đồng Phạm hạnh chê bai Sớm lo cảnh tỉnh miệt mài tu thân Nhân, vật yêu mến xa gần Vô thường tan hợp, xoay vần hợp tan Nghiệp là tài sản đa mang Nghiệp là quyến thuộc lại càng chớ khinh Nghiệp là sở ỷ, sở sinh Nhân quả thiện ác phân minh nhiệm mầu Ngày đêm thấm thoát bóng câu Làm gì xứng hạnh tầm cầu vô sinh Trong không-tịnh-xứ tinh cần Độc cư thiền tịnh phá dần tham, sân Tu hành Pháp bậc cao nhân Ngộ Chánh Tri Kiến giả, chân tỏ tường Đến khi sanh mạng vô thường Các đồng Phạm hạnh tư lường hỏi han Xét mình tâm đã bình an Ra đi chẳng thẹn cùng hàng Sa-môn.
TIROKUḌḌA-KAṆḌA-GĀTHĀ KỆ HỒI HƯỚNG QUẢ BÁO ĐẾN NGẠ-QUỈ, NHỨT LÀ NGẠ-QUỈ NGỰ NGOÀI VÁCH NHÀ (Tụng trong ngày giỗ)
Tirokuḍḍesu tiṭṭhanti, Các hàng Ngạ quỉ đã đến nhà quyến thuộc rồi, bèn suy tưởng là nhà của mình. Thường đứng gần ngoài vách, nơi ngã tư hoặc ngã ba đường, gần các cửa thành, cùng các cửa nhà. Pahūte annapānamhi, Khi cơm nước cùng các món ngon ngọt vừa đủ, đã dành sẵn mà quyến thuộc không nhớ đến các Ngạ quỉ ấy, bởi tại nghiệp duyên trước.
Evaṃ dadanti ñātīnaṃ, Những quyến thuộc nào đã tế độ Ngạ quỉ hằng hồi hướng, bố thí vật thực ngọt ngon đến hàng quyến thuộc đã quá vãng bằng cách này:
Idaṃ no ñātīnaṃ hotu, Sukhitā hontu ñātayo. Sự bố thí này hãy thấu đến các quyến thuộc, cầu xin quyến thuộc ấy được sự an vui.
Te ca tattha samāgantvā, Ngạ quỉ ấy là quyến thuộc, đã tựu hội đến chỗ bố thí, do lòng mong mỏi việc lành.
Pahūte annapānamhi, Khi được thọ lãnh vật thực[1] vừa đủ rồi, nên hoan hỷ[2] cầu xin theo lời kệ này:
Ciraṃ jīvantu no ñātī, Chúng tôi được của này nhờ nơi quyến thuộc. Cầu xin các quyến thuộc của chúng tôi được trường thọ.
Amhākañca katā pūjā. Sự cúng dường mà các quyến thuộc đã làm cho chúng tôi.
Dāyakā ca anipphalā. Các thí chủ chẳng phải không được thiện quả.
Na hi tattha kasī atthi. Việc cày ruộng lập vườn, chẳng có trong chốn Ngạ quỉ.
Gorakkhettha na vijjati. Việc nuôi bò chẳng có trong chốn Ngạ quỉ.
Vaṇijjā tādisī natthi. Việc buôn bán là nguyên nhân phát sanh của cải, cũng chẳng có.
Hiraññena kayākayaṃ. Chẳng có việc bán buôn đổi chác bạc tiền.
Ito dinnena yāpenti, Những người đã thác đọa làm Ngạ quỉ hằng được nuôi sống, do nhờ quả bố thí của các quyến thuộc trong thế gian.
Uṇṇate udakaṃ vuṭṭhaṃ, Nước trên gò nỗng hằng chảy xuống thấp, cũng như sự bố thí mà người đã làm trong đời này, hằng được kết quả đến Ngạ quỉ.
Yathā vārivahā pūrā, Các con đường nước nhứt là sông và rạch làm cho biển được đầy đủ, cũng như sự bố thí mà người đã làm trong lúc hiện tại đây, hằng được kết quả đến Ngạ quỉ.
Đoạn cuối của bài kệ 1. Adāsi me akāsi me Ñāti mittā sakhā ca me Petānaṃ dakkhiṇaṃ dajjā Pubbe katam’anussaraṃ. Khi người ta tưởng thấy ơn nghĩa mà ân nhân đã làm. Dành để cho người trong lúc trước, người này có bố thí vật này đến ta. Các người ấy đều là quyến thuộc của ta, nên cho DAKKHIṆĀDĀNA[3], đến các Ngạ quỉ ấy.
2. Na hi runnaṃ vā soko vā Yāv’añña paridevanā Na taṃ petānam’atthāya Evaṃ tiṭṭhanti ñātayo. Sự uất ức thương tiếc trong sự sanh tử biệt ly, đều chẳng có lợi ích chi. Làm như thế chẳng có sự lợi ích đến các Ngạ quỉ. Các Ngạ quỉ chẳng được biết, chẳng được nghe.
3. Ayañca kho dakkhiṇā dinnā. Saṅghamhi supatiṭṭhitā Dīgharattaṃ hitāyassa Ṭhānaso upakappati. Nếu DAKKHIṆĀDĀNA, mà người đã được làm rồi. Là được bố thí theo lẽ chánh đến Chư Tăng. (DAKKHIṆĀDĀNA ấy) mới được kết quả do theo duyên cớ, tức là được sự lợi ích lâu dài đến các Ngạ quỉ.
4. So ñāti-dhammo ca ayaṃ nidassito Petāna-pūjā ca katā uḷārā. Quyến thuộc ấy là người đã hành đúng theo Pháp rồi[4]. Sự cúng dường trọng thể và hồi hướng đến các Ngạ quỉ, người cũng đã làm rồi.
5. Balañca bhikkhūnam’anuppa-dinnaṃ Tumhehi puññaṃ pasutaṃ anuppakan’ti. Sức lực các Thầy Tỳ khưu, người cũng đã bố thí rồi. Hạnh phúc mà người đã sẵn dành như thế chẳng phải là ít. **** 1. Thân quyến tưởng nhớ đến ân nhân đã quá vãng đã làm trước đây rằng: “Người này đã từng cho, đã từng giúp đỡ ta, là bà con, bạn bè, thân hữu của ta. Ta nên cúng dường Tăng để hồi hướng đến những người quá vãng ấy”. 2. Sự khóc than, sầu muộn chí đến tiếc thương, những người thân nhân thể hiện như vậy chẳng có lợi ích chi cho người quá vãng. 3. Thân quyến nào đã cúng dường Tăng, tức đã làm cho chúng Tăng được an trú, điều này chắc chắn đem lại lợi ích lâu dài không chậm trễ. 4. Pháp hồi hướng phước thí đến thân bằng quyến thuộc này đã được Đức Phật chỉ rõ là sự cúng dường lớn lao đến người quá vãng. 5. Oai lực của Chư Tỳ kheo Tăng ban phát là phước báu vô lượng đã làm cho người.
SIDDHIYĀCANAGĀTHĀ KỆ CẦU XIN SỰ THÀNH TỰU
Siddhamatthu siddhamatthu, Cầu xin quả của tâm tín thành Tam-Bảo, Dứt kệ tụng (cho thí chủ) hoan hỷ. [1] Chư Tăng. [2] Ngạ Quỉ. [3] DAKKHIṆĀDĀNA là: Bố-thí đến người có giới hạnh [4] Sự bố-thí đúng theo phép, thí chủ có ba tác ý: Khi tính, khi làm, khi đã làm xong đều có tâm hoan-hỷ. Người thọ thí có ba chi là: Đã hết Tham, Sân, Si hoặc cố hành để diệt Tham, Sân, Si. BÀI SÁM HỐI (Tụng đêm 14, Rằm và 30 trong mỗi tháng)
Cúi đầu lạy trước Bửu Đài, (lạy)
KỆ SÁM NGUYỆN (Đọc Tụng trong ngày sám hối 14 và 30 âm lịch mỗi tháng)
Đệ tử chúng con Trước đài Tam Bảo Kính Lạy Đức Phật Vô Thượng Pháp Bảo Cùng Thánh hiền Tăng Chúng con đã bao kiếp trôi lăn Giữa dòng sinh tử Vô minh sai sử Ái dục trầm luân Đã bao đời bao kiếp mê lầm Tham lam, nóng giận Ngã mạn, kiêu căng Tình ái trói trăn Buộc ràng khổ luỵ Đã bao kiếp đảo điên mộng mị Khát dục, hoang mê Chẳng biết nẻo về Lầm than ba cõi Mịt mờ sáu nẻo Khổ báo không rời
Nay nhờ ơn Phật ra đời Duyên lành mới biết Từ lâu mê muội Làm các việc ác Giết hại sanh linh Làm khổ hữu tình Chẳng lòng thương xót
Lại có lúc trộm tài cướp của Tà mạng nuôi thân Nuôi cháu con mình Hoặc nuôi quyến thuộc
Đã bao kiếp trăng hoa, dâm dục Lừa vợ con người, Sang đoạt chồng người Hoặc lời giả dối Đâm thọc hai đầu Ác khẩu hại nhau Ngọt ngào đường mật
Lại có lúc quở trời, trách Phật Chửi mẹ, mắng cha Chè rượu say sưa Cố tật không chừa Tâm cuồng trí loạn Phá xóm hại làng Nằm bờ té bụi
Đệ tử đã từ lâu u tối Ác nghiệp khôn ngăn Nay nhờ Oai Phật vô biên Chí thành tâm sám
Đã muôn kiếp lang thang vất vưởng Ham muốn đầy lòng Hỷ nộ vô chừng Gây nên nghiệp chướng Vì si mê, tối tăm xui khiến Chẳng rõ chánh, tà Làm bạn quỷ ma, Chẳng tin nhân quả Không tin phước tội Đời này, đời sau Rơi vào ác đạo Quả báo ê chề Khổ não trăm bề Như thân bèo dạt Tợ kiếp mây trôi Luân hồi vô định Khổ tà kiến làm sao kể xiết? Nghiệp si mê biết lấy chi cân?
Nay nhờ Oai Phật vô biên Chí thành tâm sám Ngày hôm nay con xin quy mạng Phát nguyện tu hành Tránh xa điều dữ Chăm làm việc lành Giữ năm giới cấm Sống theo thập thiện Bỏ chỗ tối tìm về chỗ sáng Lợi lạc quần sanh Lợi lạc cho mình Rất nhiều đời kiếp
Pháp Chư Phật quang minh bất diệt Chỉ nẻo thế gian Ngưỡng cầu Tam Bảo vô biên Mở lòng thương xót Từ bi gia hộ Đệ tử chúng con Trí tuệ sáng suốt Thấy rõ Đạo lý Ít bệnh, ít khổ Tinh tiến tu hành Ngưỡng cầu Tam Bảo vô biên Mở lòng thương xót Từ bi gia hộ Cha mẹ, Thầy Tổ Ba cõi bốn loài Đều được an vui Hằng nương phúc quả
Nguyện Chúng Tăng lục hoà, tứ độ Giác ngộ, đức tài Trí bi gồm đủ Để quảng bá hoằng dương Pháp Bảo Khắp cả Trời, Người An vui tu học Chúng sanh vạn loài Thoát vòng sanh tử./
PHỔ NGUYỆN (Đọc tụng để hoàn lễ)
Idaṃ vata me dānaṃ
Nguyện công đức đã làm Kết duyên lành giải thoát Đoạn nghiệp chướng não phiền Quả Niết-bàn chứng đạt Nguyện Chánh Pháp lưu truyền Phổ cập khắp thế gian Chúng sanh thường tịnh lạc Phật Đạo chóng viên thành. (3 lạy)
HỒI HƯỚNG CÔNG ĐỨC Chúng con xin hồi hướng phần phước thanh cao này đến chư Thiên các cõi. Cầu xin các Ngài báo truyền đến các bậc Thầy Tổ, Ông Bà, Cha Mẹ của chúng con đã quá vãng. Cầu xin cho các vị đó được vãng sanh về nhàn cảnh. Cầu xin các Ngài hộ trì cho các bậc Thầy Tổ, Ông Bà, Cha Mẹ còn hiện tiền của chúng con và toàn thể các gia đình chúng con được mọi sự an lành. Nguyện cho phần phước thanh cao này sẽ là duyên lành để dứt khỏi mọi điều ô nhiễm, ngủ ngầm nơi tâm trong ngày vị lai. |