• Học Kinh Tụng Pali

KHANDHAPARITTA-GĀTHĀ

 

1. Sabbāsīvisajātīnaṃ,

Dibbamantāgadhaṃ viya,

Yaṃ nāseti visaṃ ghoraṃ,

Sesañcāpi parissayaṃ.

 

2. Āṇākkhettamhi sabbattha,

Sabbadā sabbapāṇinaṃ,

Sabbasopi nivāreti,

Parittaṃ taṃ bhaṇāma he.

 

3. Virūpakkhehi me mettaṃ,

Mettaṃ erāpathehi me; 

Chabyāputtehi me mettaṃ,

Mettaṃ kaṇhāgotamakehi ca. 

 

4. Apādakehi me mettaṃ,

Mettaṃ dvipādakehi me; 

Catuppadehi me mettaṃ,

Mettaṃ bahuppadehi me.

 

5. Mā maṃ apādako hiṃsi,

Mā maṃ hiṃsi dvipādako; 

Mā maṃ catuppado hiṃsi,

Mā maṃ hiṃsi bahuppado. 

 

6. Sabbe sattā sabbe pāṇā,

Sabbe bhūtā ca kevalā;

Sabbe bhadrāni passantu,

Mā kañci pāpamā gamā.

 

7. Appamāṇo Buddho,

Appamāṇo Dhammo; 

Appamāṇo Saṅgho,

Pamāṇavantāni sarīsapāni. 

Ahi vicchikā satapadī,

Uṇṇanābhī sarabū mūsikī.

 

8. Katā me rakkhā kataṃ me parittaṃ,

Paṭikkamantu bhūtāni,

Sohaṃ namo Bhagavato,

Namosattannaṃ Sammāsambuddhānaṃ. 

 

Khaṇḍhasuttaṃ niṭṭhitaṃ

 

KỆ HỘ TRÌ UẨN

 

1- Thưa chư bậc Thiện trí,
Bài chú của chư thiên
Hoặc thuốc của chư thiên,
Làm tiêu tan chất độc,
Các loài rắn thế nào.

2- Bài kinh Khan-dha này
Làm tiêu tan chất độc,
Của các loài thú dữ,
Trong phạm vi rộng lớn,
Còn ngăn mọi tai hoạ,
Tất cả suốt ngày đêm,
Bài kinh Khan-dha này
Chúng tôi tụng niệm đây:

3- Rải tâm từ của tôi,
Ðến với dòng rắn chúa,
Tên Vi-rū-pak-kha.
Rải tâm từ của tôi,
Ðến với dòng rắn chúa,
Tên E-rā-pa-tha.
Rải tâm từ của tôi,
Ðến với dòng rắn chúa,
Tên Chab-yā-put-ta.
Rải tâm từ của tôi,
Ðến với dòng rắn chúa,
Kaṇ-hā-go-ta-ma.

 

4- Rải tâm từ của tôi,
Ðến chúng sinh không chân.
Rải tâm từ của tôi,
Ðến chúng sinh hai chân.
Rải tâm từ của tôi,
Ðến chúng sinh bốn chân.
Rải tâm từ của tôi,
Ðến chúng sinh nhiều chân.

5- Loài chúng sinh không chân,
Xin đừng làm khổ tôi.
Loài chúng sinh hai chân,
Xin đừng làm khổ tôi.
Loài chúng sinh bốn chân,
Xin đừng làm khổ tôi.
Loài chúng sinh nhiều chân,
Xin đừng làm khổ tôi.

6- Tôi xin rải tâm từ,
Ðến tất cả chúng sinh,
Tất cả mọi sinh mạng,
Mọi chúng sinh hiện hữu.
Tất cả chúng sinh ấy,
Thấy những cảnh tốt đẹp,
Cầu mong không một ai,
Gặp phải cảnh khổ đau.

7- Tôi thường luôn niệm tưởng:
Ân Ðức Phật vô lượng,
Ân Ðức Pháp vô lượng,
Ân Ðức Tăng vô lượng,
Niệm Ân Đức Tam bảo,
Hàng đêm ngày cầu nguyện,
Các loại chúng sinh là:
Rắn, bò cạp, rít, nhện,
Tắc kè, chuột, vân vân...
Các loài bò sát ấy,
Có tính hay hung dữ,
Xin đừng làm hại tôi.

8- Con đảnh lễ chư Phật,
Hiện tại đến quá khứ,
Gồm bảy Ðức Chánh Giác.
Tôi có nơi hộ trì,
Tôi có nơi bảo hộ,
Xin tất cả chúng sinh,
Tránh xa đừng hại tôi.

(Xong bài kinh Khandhasutta)

 

BÀI KINH TÁN DƯƠNG NGÀI SĪVALI

ĐỆ NHẤT THÁNH PHƯỚC

 

Sīvali ca mahānānaṃ

Sabbalābhaṃ bhavissati

Therassa anubhāvena,

Sabbe hontu piyaṃ mama.

 

Sīvali ca mahālābhaṃ

Sabbalābhaṃ bhavissati

Therassa anubhāvena,

Sadā hontu piyaṃ mama.

 

Sīvali ca mahāthero

Mama sise thapetvāna,

Mantitena jayomantaṃ

Ahaṃ vandāmi sabbadā.

 

Nhân lành người đã gieo trồng

Quả phước sẽ trổ thong dong bội phần

Còn người thiện ác chẳng phân

Gieo nhân bất thiện khổ thân dường nào

Noi gương bậc Thánh thanh cao

Ngài Sīvali dồi dào phước duyên

Con xin gieo giống phước điền

Cầu cho nhân loại hiện tiền hiển vinh

Cầu cho tất cả chúng sinh

Chư Thiên nhân loại hữu tình cao sang

Do nhờ ân đức Ngài ban

Chúng con được hưởng thanh nhàn dài lâu

Ngài Sīvali nhiệm mầu

Con xin kính lễ đê đầu cúc cung.

 

ANANTARIYAKAGĀTHĀ

KỆ AN LÀNH

 

Sirasmiṃ me Buddhaseṭṭho,         

Sāriputto ca dakkhiṇe.

Vāma-amse Moggallāno,             

Puratto piṭakattayaṃ.

Pacchime mama Ānando,

Khiṇāsavā catuddisā.

Samantā lokapālā ca,                   

Indadevā sabrahmakā.

Etesaṃ anubhāvena,                    

Sabbe bhayā upaddavā.

Aneka antarāyā’pi,                      

Vinassantu asesato.

 

Đức Phật ngự trên đầu con,

Vai phải Ngài Xá-Lợi-Phất,

Vai trái Ngài Mục Kiền Liên.

Trước Tam Tạng Pháp Bảo

Sau có Đức Ānanda,

Bốn phương Alahán. 

Đế Thích và PhạmThiên,

Cùng Thiên Vương Tứ Đại,

Hộ trì bốn châu độ.

Do oai lực các Ngài,

Tất cả điều lo âu,

Rủi ro cùng tai hại,

Xin thảy đều tiêu tan.

 

NĂM ĐIỀU QUÁN TƯỞNG

 

Thế Tôn lời dạy tỏ tường
Năm điều quán tưởng phải thường xét ra
Ta đây phải có sự già
Thế nào tránh thoát lúc qua canh tàn.
Ta đây bệnh tật phải mang
Thế nào tránh thoát đặng an mạnh lành
Ta đây sự chết sẵn dành
Thế nào tránh thoát tử sanh đến kỳ.
Ta đây phải chịu phân ly
Nhân vật quý mến ta đi biệt mà
Ta đi với nghiệp của ta
Dầu cho tốt xấu tạo ra tự mình.
Theo ta như bóng theo hình
Ta thọ quả báo phân minh kết thành.

 

10 ĐIỀU QUÁN TƯỞNG CỦA

BẬC XUẤT GIA

 

Xuất gia nghi mạo khác đời

Sống nương đàn việt thảnh thơi cửa thiền

Tư cách, bổn phận cần chuyên

Oai nghi tế hạnh không phiền đến ai

Nếu đồng Phạm hạnh chê bai

Sớm lo cảnh tỉnh miệt mài tu thân

Nhân, vật yêu mến xa gần

Vô thường tan hợp, xoay vần hợp tan

Nghiệp là tài sản đa mang

Nghiệp là quyến thuộc lại càng chớ khinh

Nghiệp là sở ỷ, sở sinh

Nhân quả thiện ác phân minh nhiệm mầu

Ngày đêm thấm thoát bóng câu

Làm gì xứng hạnh tầm cầu vô sinh

Trong không-tịnh-xứ tinh cần

Độc cư thiền tịnh phá dần tham, sân

Tu hành Pháp bậc cao nhân

Ngộ Chánh Tri Kiến giả, chân tỏ tường

Đến khi sanh mạng vô thường

Các đồng Phạm hạnh tư lường hỏi han

Xét mình tâm đã bình an

Ra đi chẳng thẹn cùng hàng Sa-môn.

 

TIROKUḌḌA-KAṆḌA-GĀTHĀ

KỆ HỒI HƯỚNG QUẢ BÁO ĐẾN NGẠ-QUỈ, 

NHỨT LÀ NGẠ-QUỈ NGỰ NGOÀI VÁCH NHÀ

(Tụng trong ngày giỗ)

 

Tirokuḍḍesu tiṭṭhanti,
Sandhisiṅghātakesu ca,
Dvārabāhāsu tiṭṭhanti,
Āgantvāna sakaṃ gharaṃ.

Các hàng Ngạ quỉ đã đến nhà quyến thuộc rồi, bèn suy tưởng là nhà của mình. Thường đứng gần ngoài vách, nơi ngã tư hoặc ngã ba đường, gần các cửa thành, cùng các cửa nhà.


Pahūte annapānamhi,
Khajjabhoje upaṭṭhite,
Na tesaṃ koci sarati,
Sattānaṃ kammapaccayā.

Khi cơm nước cùng các món ngon ngọt vừa đủ, đã dành sẵn mà quyến thuộc không nhớ đến các Ngạ quỉ ấy, bởi tại nghiệp duyên trước.

 

Evaṃ dadanti ñātīnaṃ,
Ye honti anukampakā,
Suciṃ paṇītaṃ kālena,
Kappiyaṃ pānabhojanaṃ.

Những quyến thuộc nào đã tế độ Ngạ quỉ hằng hồi hướng, bố thí vật thực ngọt ngon đến hàng quyến thuộc đã quá vãng bằng cách này:

 

Idaṃ no ñātīnaṃ hotu, Sukhitā hontu ñātayo.

Sự bố thí này hãy thấu đến các quyến thuộc, cầu xin quyến thuộc ấy được sự an vui.

 

Te ca tattha samāgantvā,
Ñātipetā samāgatā.

Ngạ quỉ ấy là quyến thuộc, đã tựu hội đến chỗ bố thí, do lòng mong mỏi việc lành.

 

Pahūte annapānamhi,
Sakkaccaṃ anumodare.

Khi được thọ lãnh vật thực[1] vừa đủ rồi, nên hoan hỷ[2]  cầu xin theo lời kệ này:

 

Ciraṃ jīvantu no ñātī,
Yesaṃ hetu labhāmase.

Chúng tôi được của này nhờ nơi quyến thuộc. Cầu xin các quyến thuộc của chúng tôi được trường thọ.

 

Amhākañca katā pūjā.

Sự cúng dường mà các quyến thuộc đã làm cho chúng tôi.

 

Dāyakā ca anipphalā.

Các thí chủ chẳng phải không được thiện quả.

 

Na hi tattha kasī atthi.

Việc cày ruộng lập vườn, chẳng có trong chốn Ngạ quỉ.

 

Gorakkhettha na vijjati.

Việc nuôi bò chẳng có trong chốn Ngạ quỉ.

 

Vaṇijjā tādisī natthi.

Việc buôn bán là nguyên nhân phát sanh của cải, cũng chẳng có.

 

Hiraññena kayākayaṃ.

Chẳng có việc bán buôn đổi chác bạc tiền.

 

Ito dinnena yāpenti,
Petā kālakatā tahiṃ.

Những người đã thác đọa làm Ngạ quỉ hằng được nuôi sống, do nhờ quả bố thí của các quyến thuộc trong thế  gian.

 

Uṇṇate udakaṃ vuṭṭhaṃ,
Yathā ninnaṃ pavattati,
Evam’eva ito dinnaṃ,
Petānaṃ upakappati.

Nước trên gò nỗng hằng chảy xuống thấp, cũng như sự bố thí mà người đã làm trong đời này, hằng được kết quả đến Ngạ quỉ.

 

Yathā vārivahā pūrā,
Paripūrenti sāgaraṃ,
Evam’eva ito dinnaṃ,
Petānaṃ upakappati.

Các con đường nước nhứt là sông và rạch làm cho biển được đầy đủ, cũng như sự bố thí mà người đã làm trong lúc hiện tại đây, hằng được kết quả đến Ngạ quỉ.

 

Đoạn cuối của bài kệ

1. Adāsi me akāsi me

Ñāti mittā sakhā ca me

Petānaṃ dakkhiṇaṃ dajjā

Pubbe katam’anussaraṃ.

Khi người ta tưởng thấy ơn nghĩa mà ân nhân đã làm.

Dành để cho người trong lúc trước, người này có bố thí vật này đến ta.

Các người ấy đều là quyến thuộc của ta, nên cho DAKKHIṆĀDĀNA[3], đến các Ngạ quỉ ấy.

 

2. Na hi runnaṃ vā soko vā

Yāv’añña paridevanā

Na taṃ petānam’atthāya

Evaṃ tiṭṭhanti ñātayo.

Sự uất ức thương tiếc trong sự sanh tử biệt ly, đều chẳng có lợi ích chi.

Làm như thế chẳng có sự lợi ích đến các Ngạ quỉ.

Các Ngạ quỉ chẳng được biết, chẳng được nghe.

 

3. Ayañca kho dakkhiṇā dinnā.

Saṅghamhi supatiṭṭhitā

Dīgharattaṃ hitāyassa

Ṭhānaso upakappati.

Nếu DAKKHIṆĀDĀNA, mà người đã được làm rồi.

Là được bố thí theo lẽ chánh đến Chư Tăng.

 (DAKKHIṆĀDĀNA ấy) mới được kết quả do theo duyên cớ, tức là được sự lợi ích lâu dài đến các Ngạ quỉ.

 

4. So ñāti-dhammo ca ayaṃ nidassito

Petāna-pūjā ca katā uḷārā.

Quyến thuộc ấy là người đã hành đúng theo Pháp rồi[4].

Sự cúng dường trọng thể và hồi hướng đến các Ngạ quỉ, người cũng đã làm rồi.

 

5. Balañca bhikkhūnam’anuppa-dinnaṃ

Tumhehi puññaṃ pasutaṃ anuppakan’ti.

Sức lực các Thầy Tỳ khưu, người cũng đã bố thí rồi.

Hạnh phúc mà người đã sẵn dành như thế chẳng phải là ít.

****

1. Thân quyến tưởng nhớ đến ân nhân đã quá vãng đã làm trước đây rằng: “Người này đã từng cho, đã từng giúp đỡ ta, là bà con, bạn bè, thân hữu của ta. Ta nên cúng dường Tăng để  hồi hướng đến những người quá vãng ấy”.

2. Sự khóc than, sầu muộn chí đến tiếc thương, những người thân nhân thể hiện như vậy chẳng có lợi ích chi cho người quá vãng.

3. Thân quyến nào đã cúng dường Tăng, tức đã làm cho chúng Tăng được an trú, điều này chắc chắn đem lại lợi ích lâu dài không chậm trễ.

4. Pháp hồi hướng phước thí đến thân bằng quyến thuộc này đã được Đức Phật chỉ rõ là sự cúng dường lớn lao đến người quá vãng.

5. Oai lực của Chư Tỳ kheo Tăng ban phát là phước báu vô lượng đã làm cho người.

 

SIDDHIYĀCANAGĀTHĀ

KỆ CẦU XIN SỰ THÀNH TỰU

 

Siddhamatthu siddhamatthu,
Siddhamatthu idaṃ phalaṃ,
Etasmiṃ ratanattayasmiṃ,
Sampasādanacetaso.

Cầu xin quả của tâm tín thành Tam-Bảo,
cho được thành tựu mỹ mãn,
cho được thành tựu mỹ mãn,
cho được thành tựu mỹ mãn.

Dứt kệ tụng (cho thí chủ) hoan hỷ.



[1] Chư Tăng.

[2] Ngạ Quỉ.

[3] DAKKHIṆĀDĀNA là: Bố-thí đến người có giới hạnh

[4] Sự bố-thí đúng theo phép, thí chủ có ba tác ý: Khi tính, khi làm, khi đã làm xong đều có tâm hoan-hỷ. Người thọ thí có ba chi là: Đã hết Tham, Sân, Si hoặc cố hành để diệt Tham, Sân, Si.


BÀI SÁM HỐI

(Tụng đêm 14, Rằm và 30 trong mỗi tháng)

 

Cúi đầu lạy trước Bửu Đài,
Con xin sám hối từ rày ăn năn.
Xưa nay lỡ phạm điều răn,
Do thân, khẩu, ý bị màn vô minh.
Gây ra nghiệp dữ cho mình,
SÁT SANH hại vật chẳng tình xót thương.
Giết ăn hoặc bán không lường,
Vì lòng tham lợi quên đường thiện nhân.
Oan oan tương báo cõi trần,
Trầm luân biển tối chịu phần khổ lao.
Xét ra nhơn, vật khác nào,
Hại nhơn, nhơn hại mắc vào trả vay.
Lại thêm TRỘM SẢN cướp tài,
Công người cực nhọc hằng ngày làm ra.
Lòng tham tính bảy, lo ba
Mưu kia, kế nọ, lấy mà nuôi thân.
Hoặc nuôi quyến thuộc xa gần,
Làm cho người phải lắm lần than van.
TÀ DÂM tội nặng muôn ngàn,
Liệu toan chước sách làm đàng chẳng ngay.
Vợ con người phải lầm thay,
Mất trinh thất tiết phải tai tiếng đời
Xấu cha hổ mẹ nhiều lời,
Xa lìa chồng vợ rã rời lứa đôi.
VỌNG NGÔN giả dối ngoài môi,
Chuyện không nói có, có rồi nói không.
Dùng lời đâm thọc hai lòng,
Phân chia quyến thuộc, vợ chồng, anh em.
Mắng nhiếc chưởi rủa pha gièm,
Xóm làng cô bác chị em không chừa.
Nói lời vô ích dây dưa,
Phí giờ quí báu hết trưa đến chiều.
UỐNG RƯỢU sanh hại rất nhiều,
Ham ăn mê ngủ nói liều chẳng kiêng.
Say sưa ngã gió đi xiên,
Nằm bờ té bụi như điên khác nào.
Loạn tâm cuồng trí mòn hao,
Nhiều người vì rượu biết bao hư nhà.

XAN THAM những của người ta,
Mong sang đoạt được lòng tà mới ưng.
NẾT SÂN nóng giận không chừng,
Toan làm hại chúng bâng khuâng trong lòng.
SI MÊ tin chạ chẳng phòng,
Nghe đâu theo đó không thông chánh tà.
Chẳng tin Phật Pháp cao xa,
Thậm thâm vi diệu bao la trên đời.

Nếu con cố ý phạm lời,
Hoặc là vô ý lỗi thời điều răn.
Hoặc xúi kẻ khác bạo tàn,
Hoặc nghe thấy ác lòng hằng vui theo.
Phạm nhằm ngũ giới thập điều.
Vì chưng thân khẩu ý nhiều lần sai.
Lỗi từ kiếp trước lâu dài,
Đến kiếp hiện tại miệt mài lắm phen.
Hoặc vì tà kiến đã quen,
Khinh khi Tam Bảo lòng bèn chẳng tin.
Cho rằng người chết hết sinh,
Phạm vào đoạn kiến tội tình nặng thay.
Hoặc phạm thường kiến tội dày,
Sống sao đến thác, sanh lai như thường.
Tội nhiều kể cũng không lường,
Vì con ngu dốt không tường phân minh.
Dễ duôi Tam Bảo, hại mình,
Bởi chưng không thấu vô minh nghiệp tà.
Cho nên chơn tánh mới là,
Tối tăm chẳng rõ sai ngoa thuở đầu.
Hóa nên khờ dại đã lâu,
Để cho hoàn cảnh mặc dầu kéo xoay.
Khác nào bèo bị gió quay,
Linh đinh giữa biển dật dờ bờ sông.
Xét con tội nặng chập chồng,
Kiếp xưa cho đến hiện trong kiếp này.
Con xin sám hối từ đây,
Nguyện cầu Tam Bảo đức dày độ cho.
Tội xưa chẳng hạn nhỏ to,
Con nguyền dứt cả chẳng cho thêm vào.
Tâm lành dốc chí nâng cao,
Cải tà quy chánh chú vào Phật ngôn.
Cho con khỏi chốn mê hồn,
Đến nơi cõi Phật Thế Tôn gần kề.
Thoát vòng khổ não tối mê,
Hưởng miền Cực Lạc mọi bề thảnh thơi.
Từ nay dứt bỏ việc đời,
Căn lành gieo giống chẳng rời công phu.
Mặc ai danh lợi bôn xu,
Con nguyện giữ hạnh người tu thoát trần.
Trước là độ lấy bổn thân,
Sau giúp quyến thuộc được phần tiêu diêu.
Sám hối tội lỗi đủ điều,
Duyên lành đều cũng ít nhiều kết xây.
Con xin hồi hướng quả này,
Thấu đến quyến thuộc nơi đây cho tường.
Cùng là thân thích tha phương,
Hoặc đã quá vãng hoặc tường hiện nay.
Chúng sanh ba giới bốn loài,
Vô tưởng, hữu tưởng chẳng nài đâu đâu.
Nghe lời thành thật thỉnh cầu,
Xin mau tựu hội lãnh thâu quả này.
Bằng ai xa cách chưa hay,
Cầu xin Thiên chúng mách ngay với cùng.
Thảy đều thọ lãnh hưởng chung,
Dứt rồi tội lỗi thoát vòng nạn tai.
Nguyện nhiều Tăng chúng đức tài.
Đạt thành Thánh quả hoằng khai đạo lành.
Nguyện cho Phật Pháp thạnh hành.
Năm ngàn năm chẵn phước lành thế gian.     

                                                      (lạy)

 

KỆ  SÁM  NGUYỆN

(Đọc Tụng trong ngày sám hối 14 và 30 âm lịch mỗi tháng)

 

Đệ tử chúng con

Trước đài Tam Bảo

Kính Lạy Đức Phật

Vô Thượng Pháp Bảo

Cùng Thánh hiền Tăng

Chúng con đã bao kiếp trôi lăn

Giữa dòng sinh tử

Vô minh sai sử

Ái dục trầm luân

Đã bao đời bao kiếp mê lầm

Tham lam, nóng giận

Ngã mạn, kiêu căng

Tình ái trói trăn

Buộc ràng khổ luỵ

Đã bao kiếp đảo điên mộng mị

Khát dục, hoang mê

Chẳng biết nẻo về

Lầm than ba cõi

Mịt mờ sáu nẻo

Khổ báo không rời

 

Nay nhờ ơn Phật ra đời

Duyên lành mới biết

Từ lâu mê muội

Làm các việc ác

Giết hại sanh linh

Làm khổ hữu tình

Chẳng lòng thương xót

 

Lại có lúc trộm tài cướp của

Tà mạng nuôi thân

Nuôi cháu con mình

Hoặc nuôi quyến thuộc

 

Đã bao kiếp trăng hoa, dâm dục

Lừa vợ con người,

Sang đoạt chồng người

Hoặc lời giả dối

Đâm thọc hai đầu

Ác khẩu hại nhau

Ngọt ngào đường mật

 

Lại có lúc quở trời, trách Phật

Chửi mẹ, mắng cha

Chè rượu say sưa

Cố tật không chừa

Tâm cuồng trí loạn

Phá xóm hại làng

Nằm bờ té bụi

 

Đệ tử đã từ lâu u tối

Ác nghiệp khôn ngăn

Nay nhờ Oai Phật vô biên

Chí thành tâm sám

 

Đã muôn kiếp lang thang vất vưởng

Ham muốn đầy lòng

Hỷ nộ vô chừng

Gây nên nghiệp chướng

Vì si mê, tối tăm xui khiến

Chẳng rõ chánh, tà

Làm bạn quỷ ma,

Chẳng tin nhân quả

Không tin phước tội

Đời này, đời sau

Rơi vào ác đạo

Quả báo ê chề

Khổ não trăm bề

Như thân bèo dạt

Tợ kiếp mây trôi

Luân hồi vô định

Khổ tà kiến làm sao kể xiết?

Nghiệp si mê biết lấy chi cân?

 

Nay nhờ Oai Phật vô biên

Chí thành tâm sám

Ngày hôm nay con xin quy mạng

Phát nguyện tu hành

Tránh xa điều dữ

Chăm làm việc lành

Giữ năm giới cấm

Sống theo thập thiện

Bỏ chỗ tối tìm về chỗ sáng

Lợi lạc quần sanh

Lợi lạc cho mình

Rất nhiều đời kiếp

 

Pháp Chư Phật quang minh bất diệt

Chỉ nẻo thế gian

Ngưỡng cầu Tam Bảo vô biên

Mở lòng thương xót

Từ bi gia hộ

Đệ tử chúng con

Trí tuệ sáng suốt

Thấy rõ Đạo lý

Ít bệnh, ít khổ

Tinh tiến tu hành

Ngưỡng cầu Tam Bảo vô biên

Mở lòng thương xót

Từ bi gia hộ

Cha mẹ, Thầy Tổ

Ba cõi bốn loài

Đều được an vui

Hằng nương phúc quả

 

 

Nguyện Chúng Tăng lục hoà, tứ độ

Giác ngộ, đức tài

Trí bi gồm đủ

Để quảng bá hoằng dương Pháp Bảo

Khắp cả Trời, Người

An vui tu học

Chúng sanh vạn loài

Thoát vòng sanh tử./

 

 

PHỔ NGUYỆN

(Đọc tụng để hoàn lễ)

 

Idaṃ vata me dānaṃ
Āsavakkhayāvahaṃ hotu
Buddho'āhaṃ bodhayissāmi
Mutto'āhaṃ mocaye pare
Tiṇṇo'āhaṃ tārayissāmi
Saṃsār'ogha mahabbhayā.

 

Nguyện công đức đã làm

Kết duyên lành giải thoát

Đoạn nghiệp chướng não phiền

Quả Niết-bàn chứng đạt

Nguyện Chánh Pháp lưu truyền

Phổ cập khắp thế gian

Chúng sanh thường tịnh lạc

Phật Đạo chóng viên thành.  (3 lạy)

 

HỒI  HƯỚNG  CÔNG  ĐỨC

Chúng con xin hồi hướng phần phước thanh cao này đến chư Thiên các cõi.

Cầu xin các Ngài báo truyền đến các bậc Thầy Tổ, Ông Bà, Cha Mẹ của chúng con đã quá vãng. Cầu xin cho các vị đó được vãng sanh về nhàn cảnh.

Cầu xin các Ngài hộ trì cho các bậc Thầy Tổ, Ông Bà, Cha Mẹ còn hiện tiền của chúng con và toàn thể các gia đình chúng con được mọi sự an lành.

Nguyện cho phần phước thanh cao này sẽ là duyên lành để dứt khỏi mọi điều ô nhiễm, ngủ ngầm nơi tâm trong ngày vị lai.

   

   




[ Ðầu trang][Trở về mục lục ][ Trở về trang Thư Viện ]

updated: 2024